CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT
Đoàn Trung Còn
THÀNH THẬT TÔNG
Khai tổ: Ha-lê-bạt-ma ở Ấn Độ, thế kỷ 4.
Cưu-ma-la-thập truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ 5.
Huệ Quán[15] và Khuyến Lặc ở Nhật Bản vào thế kỷ 7.
Giáo lý căn bản: Thành thật luận của ngài Ha-lê-bạt-ma vào thế kỷ 4.
Tông chỉ: Tất cả tâm thức và đối tượng của tâm thức đều là trống rỗng. Ngã và pháp đều là không. Bản ngã vốn không thật, mà các pháp tạo thành nó cũng đều là hư dối.
LỊCH SỬ
Cũng như
Câu-xá tông,
Thành thật tông ngày nay không còn, nhưng
giáo lý chính là bộ
Thành thật luận vẫn còn
lưu hành và được nhiều người học Phật
để tâm nghiên cứu. Bộ luận này đã được đưa vào
Đại tạng kinh,[16] do ngài Ha-lê-bạt-ma soạn
vào khoảng thế kỷ thứ tư bằng chữ Phạn. Qua đầu thế kỷ thứ năm thì được ngài Cưu-ma-la-thập, một
cao tăng Ấn Độ sang
truyền pháp ở
Trường An, Trung Hoa, dịch sang chữ Hán. Từ đó, bộ luận này
trở thành một
tác phẩm giá trị được
lưu hành dần dần khắp miền Viễn Đông.
Căn cứ vào giáo lý trong bộ luận này,
Thành thật tông ra đời.
Ngài Ha-lê-bạt-ma là người
Ấn Độ,
đệ tử của ngài Cưu-ma-đa-la, thuộc
Nhất thiết hữu bộ. Tên chữ Phạn của ngài là Harivarman, Hán dịch nghĩa là
Sư Tử Khải, dịch theo âm là Ha-lê-bạt-ma. Ngài sinh trong một
gia đình Bà-la-môn, lớn lên bắt đầu học theo
ngoại đạo, nhưng sau
nhận ra sự
sai lầm nên
từ bỏ và theo học với ngài Cưu-ma-la-đa. Chẳng bao lâu, ngài
nhận ra quan điểm giáo lý của mình không
phù hợp với
giáo lý truyền thống của
Nhất thiết hữu bộ, nên ngài
từ bỏ luôn
bộ phái này và tự mình
nghiên cứu kinh điển Tiểu thừa. Ngài học
tinh thông giáo lý Tiểu thừa, nhưng vẫn thấy chưa
hoàn toàn thỏa mãn, nên về sau ngài đến thành
Hoa Thị tiếp tục học
giáo lý Đại thừa với các vị tăng thuộc
Đại chúng bộ.[17] Chính trong
thời gian này ngài soạn ra bộ
Thành thật luận, phát triển
tư tưởng về
tánh không theo
nhận thức của mình.
Bộ
Thành thật luận gồm 16 quyển, 202 chương. Sau đó được ngài Cưu-ma-la-thập dịch sang chữ Hán, lại được các
đệ tử của ngài truyền dạy khắp Trung Hoa. Trong số đó
nổi bật nhất là 2 vị
Tăng Đạo và Tăng Khải, có thể xem là những người có công làm cho
Thành thật tông trở nên hưng thịnh.
Ngài Cưu-ma-la-thập là
khai tổ của
Thành thật tông tại Trung Hoa, vì ngài là người đầu tiên dịch và
giảng giải giáo lý chính của tông này. Ngài là người xứ
Quy Tư (Kucha) thuộc vùng Tân Cương ngày nay, sinh năm 344,
xuất thân trong một
gia đình quý tộc. Cha ngài là người
Ấn Độ đến sinh sống ở
Dao Tần. Tên
Phạn ngữ của ngài là Kumrajỵva, Hán dịch nghĩa là Đồng Thọ, dịch âm là Cưu-ma-la-thập. Ngài được tôn xưng là một trong
bốn đại dịch giả hàng đầu của Trung Hoa trong việc
phiên dịch kinh điển sang Hán ngữ.[18]
Cha mẹ ngài
lần lượt xuất gia tu học, đều là các bậc
đạo hạnh.
Từ nhỏ ngài đã có
tư chất thông minh, năm ngài lên 7 tuổi cũng theo mẹ
học đạo, rồi sang du học
Ấn Độ,
tham học với hầu hết các bậc danh túc. Sau khi đi khắp xứ
Ấn Độ, ngài lại
trở về nước cũ, được vua
Quy Tư bái kính tôn làm thầy. Năm 383, vua Tiền Tần là
Phù Kiên nghe danh ngài nên sai Lã Quang mang quân sang đánh
Quy Tư để đón ngài về. Lã
Quang thắng trận, đón được ngài Cưu-ma-la-thập, nhưng về giữa đường, Quang nghe nhà Tiền Tần đã mất, Hậu Tần lên thay, liền không về nữa mà đóng quân lại ở Lương Châu, tự
lên ngôi vua, lập ra nhà Lương. Ngài Cưu-ma-la-thập cũng bị giữ ở đó
trong khoảng 17 năm.
Về sau, vua Hậu Tần là
Diêu Hưng sai Diêu
Thạc Đức mang quân
đánh dẹp nhà Lương, dùng lễ
quốc sư mà thỉnh ngài về
Trường An vào khoảng năm 401, nhằm vào niên hiệu Long An thứ 5 triều Đông Tấn. Vua
hết sức tôn kính, phong ngài làm
quốc sư, thỉnh ở tại vườn
Tiêu Dao và hỗ trợ mọi
điều kiện cho ngài chủ trì việc
phiên dịch kinh điển tại kinh đô, cùng với các ngài
Tăng Triệu, Tăng Nghiêm...
Kể từ tháng 4 niên hiệu Hoằng Thủy thứ 5 nhà Hậu Tần (403), ngài bắt đầu dịch các bộ
Trung luận,
Bách luận và
Thập nhị môn luận, gọi chung là
Tam luận, sau là
giáo lý căn bản của
Tam luận tông. Ngài
thông thạo cả hai
ngôn ngữ Phạn, Hán, lại được sự trợ giúp của rất nhiều vị
cao tăng uyên bác, nên
kinh điển chẳng những dịch được rất nhiều mà còn có độ
chính xác cao so với nguyên tác. Hơn thế nữa, nhờ sự
am hiểu nên ngài cũng mạnh dạn
diễn đạt một cách uyển chuyển trong bản dịch để
đạt được sự
rõ ràng dễ hiểu mà vẫn không sai lệch nguyên bản.
Tương truyền ngài có
phương pháp dịch kinh rất khác biệt với nhiều người khác. Thay vì
đối chiếu song song hai
ngôn ngữ để dịch, ngài
tổ chức giảng nghĩa kinh 2 lần bằng tiếng Trung Hoa cho những người
tham gia phiên dịch nghe. Sau đó, họ
thảo luận với nhau và ghi chép lại bằng Hán ngữ.
Cuối cùng, ngài
đối chiếu bản ghi chữ Hán của họ với nguyên bản chữ Phạn và
sửa chữa,
điều chỉnh thành bản dịch
cuối cùng.
Ngài mất năm 413, sau 12 năm dồn hết
tâm lực vào việc
phiên dịch kinh điển. Cũng có thuyết khác cho rằng ngài sinh năm 350 và mất năm 409.
Thành thật tông phát triển rất mạnh ở Trung Hoa
trong khoảng thế kỷ 6 - 7, và
tồn tại mãi
cho đến thế kỷ 10, tức là vào các
triều đại nhà Tùy và nhà Đường. Trong
thời gian về sau,
Thành thật tông chịu sự
công kích rất mạnh mẽ của những người theo
Tam luận tông, cho rằng họ đã hiểu sai về
ý nghĩa của
tánh không. Vì thế, tông này
suy yếu dần và
cuối cùng mất hẳn.
Vào cuối thế kỷ 6, thuộc
thời đại Bạch Phụng ở
Nhật Bản, có ngài
Thánh Đức Thái Tử ra đời. Ngài là con vua Vĩnh Mê,
học đạo Phật với các vị
cao tăng Triều Tiên sang
du hóa ở Nhật, và chính ngài đã góp phần phát triển nhiều khuynh hướng
giáo lý rất sớm tại Nhật. Ngài đã trước tác các bản
chú giải cho kinh Thắng Man,
kinh Pháp Hoa, kinh Duy-ma-cật...
Về sau, ngài có gửi nhiều phái bộ sang Trung Hoa để mang thêm
kinh điển về
Nhật Bản. Ngài cũng
xây dựng rất nhiều
tự viện, trong đó có chùa
Tây Thiên Vương, chùa Trung Cung, chùa Quất,[19] chùa Trì Cừu,[20] chùa Quế Mộc.[21]
Thái tử đã thỉnh vào triều 2 vị
cao tăng Triều Tiên là
Huệ Quán và
Khuyến Lặc. Hai vị này đến
Nhật Bản vào năm 625,
tinh thông giáo lý Thành thật tông, nên nhân khi
thuyết giảng cho
thái tử nghe, các ngài cũng truyền dạy
giáo lý Thành thật tông ra khắp nơi.
Thành thật tông hình thành và phát triển rất mạnh ở Nhật trong thế kỷ thứ bảy, xem 2 vị
Huệ Quán và
Khuyến Lặc là
khai tổ.
Tuy nhiên, tông này về sau ở Nhật cũng không còn
tồn tại nữa.
Do sự tương đồng một phần về
giáo lý, nên nhiều người cho rằng
Thành thật tông không phải là một
tông phái độc lập, mà chỉ là một phần của
Tam luận tông. Mặt khác, cho dù là
xuất phát từ
Kinh lượng bộ là một trong 18 bộ
Tiểu thừa của
Ấn Độ, nhưng việc
nhấn mạnh về
tánh không của
vạn pháp cũng như tâm thể của
giáo lý tông này đã tiến rất gần đến
giáo lý Đại thừa, nên nhiều người cho rằng đây là một tông thuộc
Đại thừa.
HỌC THUYẾT
Giáo lý Thành thật tông cũng có vẻ gần giống với Câu-xá tông, vì sự phủ nhận bản ngã là không thật. Tuy nhiên, nếu như Câu-xá tông thừa nhận sự hiện hữu tạm thời của các pháp, thì Thành thật tông lại phủ nhận tất cả. Do đặc điểm này, nên một số người cũng gọi tên tông này là Nhất thiết không.
Giáo lý Thành thật tông lại cũng có vẻ gần giống với Tam luận tông. Tuy nhiên, những người theo Tam luận tông diễn giải tánh không khác với Thành thật tông, và cho rằng Thành thật tông đã hiểu sai về tánh không. Nhưng sự tương đồng này cũng giải thích lý do vì sao ngài Huệ Quán cũng được xem là Khai tổ Tam luận tông ở Nhật Bản.
Sự khác biệt giữa Thành thật tông và Tam luận tông được làm rõ qua sự thuyết giảng của ngài Pháp Lãng, người đã hiển dương giáo lý Tam luận tông và công kích mạnh mẽ các nhược điểm của Thành thật tông. Cùng với Pháp Lãng là ngài Cát Tạng, thầy của Huệ Quán, cũng là người công kích Thành thật tông. Sự phê phán của hai luận sư danh tiếng này đã làm cho Thành thật tông suy yếu dần và đi vào quên lãng.
Thành thật tông được xem là một tông Tiểu thừa, vì sự chuyên tâm nghiên cứu những lời dạy của Phật ghi trong các kinh văn nguyên thủy Tiểu thừa. Tông chỉ chính của tông này là phủ nhận mọi sự hiện hữu. Tông này cho rằng cả tâm thức và vật chất đều không thực sự hiện hữu.
Giáo lý Thành thật tông cho rằng có hai loại chân lý là chân lý thế gian và chân lý tuyệt đối. Chân lý thế gian là những sự thật có tính cách quy ước. Theo đó, sự hiện hữu của các pháp được thừa nhận trong ý nghĩa phụ thuộc lẫn nhau, biến đổi vô thường và chịu sự hoại diệt. Chân lý tuyệt đối là sự thật rốt ráo, cuối cùng, mà theo đó thì hết thảy mọi pháp đều là trống rỗng, không không. Như vậy, Thành thật tông xem cả bản ngã lẫn các pháp đều là không thật.[22]
Sự nhấn mạnh về tánh không làm cho tông này có vẻ như gần giống với một tông Đại thừa. Tuy nhiên, sự khác biệt ở đây là các tông Đại thừa nói về một tánh không diệu hữu, làm nền tảng sinh khởi các pháp, trong khi Thành thật tông thì lại phủ nhận tất cả. Chính khác biệt này làm cho Thành thật tông vướng mắc vào sự phủ định, xa rời hẳn quan điểm của Tam luận tông.
Nội dung bộ Thành thật luận giảng giải rất rõ về tính chất không thật của “bản ngã” và các pháp hợp thành năm uẩn. Khi nhận rằng các pháp là có, thì Câu-xá tông đồng thời cũng phải thừa nhận sự hiện hữu của chúng trong thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngược lại, Thành thật tông phủ nhận ngay cả sự hiện hữu tạm thời của các pháp, nên cho rằng không có quá khứ, không có tương lai, vì chúng đều là không thật. Còn đối với hiện tại, tuy nhìn thấy được trước mắt mà hết thảy đều là hư dối, vừa thấy đó thì đã qua mất rồi. Hết thảy các pháp đều sinh khởi, biến đổi và diệt mất đi trong từng khoảnh khắc. Cuộc đời con người cũng giống như thế, chỉ là sự tiếp nối của những khoảnh khắc không thật, như bóng chớp, như hạt sương sa, không thường tồn chân thật!
Do nơi sự đối đãi giữa vật này với vật kia, người ta định nên tên gọi, nên tên gọi cũng chỉ là tương đối và hư dối, không thật.
Các pháp đều là những hiện tượng sinh khởi, đều chỉ là bóng dáng, không thật. Cũng như bọt nước tuy hiện hữu mà không bền chắc, tan biến trong chốc lát, chẳng còn để lại gì.
Do sự phủ nhận tất cả các pháp, nên người tu không còn mê đắm, không còn bị dắt dẫn theo chúng nữa. Nhờ đó mà có thể dứt bỏ các mối tham dục, ái luyến, cũng không còn sân hận, si mê nữa.
Tuy rằng xét cho cùng thì giáo lý Thành thật tông chưa đạt đến chỗ rốt ráo, có thể dẫn người ta rơi vào chỗ chấp không, cực đoan, nhưng trong một thời gian dài, giáo lý này cũng đã giúp cho không ít người thoát khỏi sự mê đắm vào vật chất thế gian. Nhờ đó mà họ mới có khả năng tiếp nhận những giáo lý sâu xa, mầu nhiệm hơn của Phật pháp. Nếu xét theo quan điểm tùy bệnh mà cho thuốc, thì giáo lý Thành thật tông quả thật đã là một bài thuốc hay trong suốt thời hưng thạnh của tông này.