CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT
Đoàn Trung Còn
TỊNH ĐỘ TÔNG
Khai tổ: Ngài Đạo Xước vào thế kỷ 6, ngài Thiện Đạo vào thế kỷ 7.
Nguyên Không Đại sư (tức Pháp Nhiên Thượng nhân) truyền sang Nhật vào thế kỷ 12.
Giáo lý căn bản: Kinh A-di-đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, và bộ Vãng sinh Tịnh độ luận của Bồ Tát Thế Thân.
Tông chỉ: Nhờ sự nhất tâm khi niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà và tha lực tiếp dẫn của đức Phật, người niệm Phật khi lâm chung sẽ được vãng sinh về cõi Cực lạc phương Tây, nhờ đó có thể dễ dàng tiếp tục tiến tu cho đến khi đạt được sự giải thoát rốt ráo.
LỊCH SỬ
A. Lược sử: Những kinh sách thuộc về giáo lý của Tịnh độ tông đã được chuyển dịch sang Hán văn từ rất sớm. Vào năm 185, một tăng sĩ người Ấn Độ là Khang Tăng Khải đã đến Trung Hoa và dịch kinh Vô Lượng Thọ, 2 quyển. Đây là một trong ba bộ kinh căn bản của Tịnh độ tông.
Đến năm 401, ngài Cưu-ma-la-thập đến Trung Hoa và sau đó tiến hành việc dịch kinh điển sang Hán văn kể từ năm 403. Trong số các kinh ngài dịch, có kinh A-di-đà, sau cũng trở thành kinh căn bản của Tịnh độ tông.
Khoảng năm 424 thì có một vị tăng sĩ Ấn Độ khác là ngài Cương-lương-gia-xá đến Trung Hoa. Vị này đã dịch sang Hán văn kinh Quán Vô Lượng Thọ, bộ kinh căn bản thứ ba của Tịnh độ tông.
Như vậy, cho đến đầu thế kỷ 5 thì tại Trung Hoa đã có đủ bản dịch Hán văn 3 bộ kinh căn bản của Tịnh độ tông. Tuy nhiên, phải đợi đến ngài Đạo Xước (562-645) thì niềm tin vào thuyết Tịnh độ mới bắt đầu phát triển. Rồi sự phát triển này được củng cố và hoàn chỉnh bởi ngài Thiện Đạo (613-681) mới trở thành một tông phái độc lập. Vì thế, người ta thường xem ngài Thiện Đạo như là vị tổ sư khai sáng Tịnh độ tông. Ngài có soạn bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ, chỉ rõ những quan điểm sai lầm xưa nay về thuyết Tịnh độ, đồng thời giảng rõ những ý nghĩa chân chánh, khuyến khích người tu Tịnh độ.
Tiếp theo sau đó, tông này liên tục được truyền nối cho đến ngài Thiếu Khang, người đã thành lập Tịnh độ Đạo tràng ở Mục Châu, thuộc tỉnh Triết Giang và làm cho Tịnh độ tông trở nên rất hưng thịnh. Ngài Thiếu Khang có trước tác bộ Tịnh độ quần nghi luận, giảng rõ những chỗ tinh yếu trong giáo pháp Tịnh độ. Ngài mất năm 805 nhưng không rõ đã sinh vào năm nào.
Tịnh độ tông phát triển rất nhanh chóng và lan rộng ra khắp nơi. Tuy nhiên, cũng chính vì sự phát triển lan rộng này mà đến sau thế kỷ 9 thì Tịnh độ tông hầu như không còn tồn tại như một tông phái độc lập nữa, mà đã thâm nhập, hòa trộn vào những tông phái khác. Đặc biệt là chủ trương Thiền tịnh song tu vẫn còn được thịnh hành cho đến tận ngày nay.
B. Tịnh độ tông truyền sang Nhật Bản: Tịnh độ tông lần đầu tiên được truyền sang Nhật Bản bởi một vị tăng sĩ người Nhật tên là Ryonin, từ trước năm 1124. Khi ấy, tông này lấy tên Yuzu Nembutsu. Ngài Ryonin tự mình nêu gương niệm Phật mỗi ngày đến hơn 60.000 lần, và khuyến khích mọi người làm theo. Tuy nhiên, khi ấy phần giáo lý của Tịnh độ tông chưa được truyền rộng rãi ở Nhật, và số môn đồ tin theo ngài chưa được đông đảo lắm.
Người tiếp theo sau đó truyền bá Tịnh độ tông ở Nhật là ngài Nguyên Không, và chính ngài mới thật sự sáng lập được một Tịnh độ tông với số môn đồ rất đông. Ngài còn được tôn xưng một số danh hiệu khác như Pháp Nhiên Thượng nhân, Cát Thủy Đại sư, Cát Thủy Thánh nhân và Hắc Cốc Thượng nhân.
Đại sư tên tiếng Nhật là Hơnen, nhưng người Trung Hoa thường biết ngài hơn với tên gọi Nguyên Không. Ngài sinh ngày 7 tháng 4 năm 1133 trong một gia đình quan chức ở tỉnh Mimasaka. Năm ngài vừa lên 8 tuổi (1141) thì cha ngài đã bị kẻ cướp giết hại. Trước khi chết ông có để lại lời di ngôn khuyên ngài xuất gia học đạo. Ngay năm sau đó, ngài xuống tóc xuất gia với ngài Quán Giác ở một ngôi chùa trong cùng tỉnh.
Năm 15 tuổi, ngài lên núi Tỉ-duệ theo các ngài Nguyên Quang, Hoàng Viên học tập giáo lý Thiên Thai tông. Tháng 9 năm 1151, ngài rời chỗ Hoàng Viên, đến Hắc Cốc tham học với ngài Duệ Không. Sau đó, ngài tiếp tục tham học với nhiều bậc danh sư đương thời, tinh thông giáo lý của hết thảy các tông phái. Chẳng hạn, ngài đến chùa Hưng Phước học với ngài Tạng Tuấn, bậc thầy của Pháp tướng tông; đến chùa Đề Hồ học với Khoan Nhã, là bậc danh sư của Tam luận tông; đến Trung Xuyên học với ngài Thật Phạm thuộc Chân ngôn tông; đến chùa Nhân Hòa học với ngài Khánh Nhã, bậc thầy của Hoa nghiêm tông...
Nhưng đến năm 1175 ngài mới có dịp đọc qua những trước tác của ngài Thiện Đạo, người đã khai sáng Tịnh độ tông ở Trung Hoa. Ngài rất tâm đắc với những gì được ngài Thiện Đạo giảng giải, và kết luận rằng giáo lý Tịnh độ tông là thích hợp nhất trong thời kỳ mạt pháp, khi mà căn lành của con người đã sa sút, trí tuệ cạn cợt.
Từ đó ngài liền dời đến ở núi Cát Thủy, hoằng truyền giáo lý Tịnh độ, hết lòng khuyên người niệm Phật cầu vãng sinh. Công cuộc hoằng pháp của ngài đã nhanh chóng thiết lập được nền móng vững chắc cho Tịnh độ tông tại Nhật Bản. Về sau, hoàng hậu đương triều có thỉnh ngài vào cung truyền giới.
Cách truyền pháp của ngài phá bỏ truyền thống phân biệt giai cấp đã có từ xa xưa trong xã hội. Đối với người đến cầu đạo, ngài không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, hết thảy đều đối xử như nhau, đều khuyên họ cùng tham gia việc niệm Phật và đoan chắc là chỉ cần hết lòng niệm Phật thì bất cứ ai cũng sẽ được vãng sinh về cõi Phật. Nhờ vậy, pháp môn niệm Phật của ngài không bao lâu đã lan rộng trong khắp mọi tầng lớp xã hội. Tịnh độ tông trở nên cực kỳ hưng thịnh.
Sự hưng thịnh của Tịnh độ tông cũng không khỏi khơi dậy lòng ganh ghét của một số kẻ xấu. Bọn chúng dâng sớ tấu lên triều đình, nói rằng Tịnh độ tông dạy người hủy báng giới luật, cần phải bị cấm chỉ không cho hoạt động. Khi ấy lại có hai môn đồ của ngài là An Lạc và Trụ Liên cùng sáng lập Biệt Thời Niệm Phật Hội ở Lộc Cốc, có người cung nữ của thượng hoàng gặp việc ức chế, chán lìa trần thế, tự tìm đến Biệt Thời Niệm Phật Hội xuống tóc xuất gia. Những kẻ ganh ghét ngài nhân dịp đó liền sàm tấu lên thượng hoàng rằng môn đồ của Pháp Nhiên khuyến dụ cung nữ xuất gia. Thượng hoàng nổi giận, hạ lệnh xử An Lạc và Trụ Liên tội chết, và đày Pháp Nhiên ra một vùng biên giới, nay thuộc huyện Cao Tri.
Khi ấy là vào tháng 2 năm 1207, ngài đã được 74 tuổi nhưng vẫn nói với môn đồ rằng đây là một cơ hội tốt để truyền đạo ở những vùng hoang vu nơi biên giới. Ngài chịu lưu đày qua 10 tháng thì có lệnh xá miễn vào tháng 12 cùng năm ấy, nhưng không cho phép ngài về kinh. Ngài liền đến ở chùa Thắng Vĩ thuộc phủ Đại Phản, tiếp tục truyền dạy pháp môn niệm Phật.
Năm 1211, triều đình ban lệnh ân xá, cho phép ngài về kinh đô. Ngài đến ở một thiền phòng ở núi Đại Cốc. Sang năm sau, vào ngày 25 tháng giêng, ngài nằm ngay ngắn quay đầu về phương bắc, mặt hướng về phương tây, niệm danh hiệu Phật A-di-đà rồi an nhiên thị tịch, thọ 79 tuổi.
Sau đó, thiên hoàng Nhật Bản truy phong cho ngài các danh hiệu như Viên Quang Đại sư, Đông Tiệm Đại sư, Huệ Thành Đại sư, Hoằng Giác Đại sư, và Từ Giáo Đại sư.
HỌC THUYẾT
A. Học thuyết: Thuyết niệm Phật vãng sinh được giảng rõ trong các bộ kinh căn bản của Tịnh độ tông. Theo thuyết này, chúng sinh dù tạo nhiều ác nghiệp, chỉ cần có đủ niềm tin vào đức Phật A-di-đà, hết lòng xưng niệm danh hiệu của ngài thì đều có thể được vãng sinh về thế giới của ngài, tức là cõi Tây phương Tịnh độ, hay cõi Cực lạc.
Cơ sở của niềm tin này là 48 lời đại nguyện của đức Phật A-di-đà từ khi ngài còn hành đạo Bồ Tát. Theo đó, khi ngài thành Phật, nếu có bất cứ chúng sinh nào phát tâm cầu được sinh về cõi thế giới của ngài, thành tâm xưng niệm danh hiệu của ngài, ngài sẽ hiện đến trước mặt người ấy vào lúc lâm chung để tiếp dẫn cho được vãng sinh như nguyện.
Như vậy, điểm khác biệt căn bản giữa thuyết Tịnh độ với các thuyết khác là niềm tin vào tha lực, kết hợp với tự lực của người tu. Nhờ có sự kết hợp này, nên ngay cả khi người niệm Phật còn nhiều ác nghiệp vẫn có thể được vãng sinh về cõi Phật, gọi là “đới nghiệp vãng sinh”.
Vì những chúng sinh còn nhiều ác nghiệp vẫn có thể vãng sinh, nên khi sinh về cõi Phật cũng không phải tất cả mọi chúng sinh đều như nhau, mà tùy theo hạnh nghiệp trước đó sẽ được hóa sinh vào một trong 9 phẩm. Tùy theo mức độ tu tập và hạnh nghiệp, chúng sinh khi vãng sinh về cõi thế giới Cực lạc sẽ hóa sinh từ bậc thấp nhất là Hạ phẩm, bậc trung bình là Trung phẩm và bậc cao nhất là Thượng phẩm. Trong mỗi bậc đều có phân ra từ Hạ sinh cho đến Trung sinh, rồi đến Thượng sinh. Như vậy, có cả thảy là 9 bậc, từ Hạ phẩm Hạ sinh là thấp nhất cho đến Thượng phẩm Thượng sinh là cao nhất.
Giáo lý Tịnh độ tông dạy rằng, con người vào thời mạt pháp, khi chánh pháp đã suy vi, thường không có đủ căn lành và trí tuệ như các bậc hiền thánh xưa kia. Vì vậy, việc tu chứng theo các pháp môn khác là cực kỳ khó khăn. Trong khi đó, việc tu theo pháp môn niệm Phật không đòi hỏi nhiều trí tuệ, chỉ cần có đủ quyết tâm và đức tin là bất cứ ai cũng có thể thực hiện và đạt được kết quả viên mãn.
Điều này cũng ví như người muốn mang hòn đá nặng qua sông, nếu không có sức mạnh thì không thể làm nổi. Nhưng nếu biết dùng một chiếc thuyền, đặt hòn đá lên trên đó thì có thể nhẹ nhàng chèo đi mà vẫn đưa hòn đá được sang bên kia sông! Chiếc thuyền của người tu Tịnh độ chính là nguyện lực của đức Phật A-di-đà. Nếu người tu biết nương vào đó thì dù sức yếu vẫn có thể làm được việc rất khó làm, nghĩa là được sinh về cõi Phật.
Thật ra, tất cả các tông phái khác nhau của đạo Phật cũng đều có yếu tố đức tin vào chư Phật. Điều khác biệt ở đây là Tịnh độ tông nhấn mạnh vào đức tin này nhiều hơn, và không chỉ tin vào đức Phật, mà còn là tin vào nguyện lực tiếp dẫn rất cụ thể của ngài.
Một điểm rất đáng chú ý là giáo lý của Tịnh độ tông hoàn toàn không tương phản hay làm ngăn ngại việc tiếp nhận giáo lý của các tông phái khác. Chính điểm đặc biệt này đã khiến cho Tịnh độ tông ngày càng thâm nhập rất sâu vào tất cả các tông phái khác, và việc niệm Phật dần trở nên một pháp môn quen thuộc đối với tất cả mọi tín đồ Phật giáo.
Từ khoảng sau thế kỷ 9, ngay cả Thiền tông cũng có nhiều bậc đại sư cổ xúy việc “Thiền-Tịnh song tu”, nghĩa là kết hợp cả việc tu thiền và việc niệm Phật cầu vãng sinh. Khuynh hướng này hiện đến nay vẫn còn phổ biến ở hầu hết các chùa.
B. 48 đại nguyện của đức Phật A-di-đà: Đức tin căn bản của Tịnh độ tông được dựa trên nguyện lực của đức Phật A-di-đà. Vì thế, nội dung 48 lời nguyện của ngài từ khi còn hành đạo Bồ Tát là rất quan trọng để giúp người niệm Phật sinh khởi lòng tin. Bốn mươi tám lời đại nguyện này được ghi chép đầy đủ trong Đại A-di-đà kinh. Trong kinh Vô Lượng Thọ cũng có đủ 48 lời nguyện này, nhưng sự sắp xếp trật tự có phần khác và nội dung cũng có phần giản lược hơn. Để giúp quý độc giả tiện việc tham khảo, chúng tôi chọn dịch và giới thiệu nội dung 48 lời nguyện này theo kinh Đại A-di-đà, bản Hán văn do Quốc học Tiến sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống hiệu chỉnh và biên tập.
Đại nguyện thứ nhất: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho nhân dân trong cõi nước của ta tránh khỏi ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, cho đến không có các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ nhì: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho trong cõi nước của ta không có nữ giới. Tất cả chư thiên, loài người cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... trong vô số thế giới khác, nếu được sinh về cõi nước của ta đều sẽ hóa sinh ra từ hoa sen quý trong hồ nước bằng bảy báu. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta khi muốn ăn liền có trăm vị ngon lạ tự nhiên hiện ra trong bát quý bằng bảy báu. Sau khi ăn xong thì bát ấy tự nhiên biến mất. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ tư: Sau khi ta thành Phật, chúng sinh trong cõi nước của ta khi cần đến y phục thì vừa nghĩ đến liền có ngay đúng như ý muốn, không bao giờ phải cần đến những việc cắt, may, nhuộm, sửa... Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ năm: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho trong cõi nước của ta từ mặt đất lên tận hư không đều có những cung điện lầu gác xinh đẹp, có đủ các hương thơm vi diệu hợp thành. Hương thơm ấy xông khắp các thế giới trong mười phương. Những chúng sinh nào ngửi được mùi hương ấy đều phát tâm tu theo hạnh Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ sáu: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều thương yêu kính trọng lẫn nhau, không có lòng ganh ghét oán giận. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bảy: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều không có các tâm tham lam, sân hận và si mê. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ tám: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều cùng một tâm lành, không nghi ngờ lẫn nhau. Có điều gì vừa muốn nói ra thì tự nhiên đều hiểu được ý nhau. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ chín: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều không nghe biết đến những danh từ chỉ sự
bất thiện, huống chi là thật có những điều ấy.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều biết rõ
thân thể là hư huyễn, không có tâm tham đắm.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười một: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta tuy có phân ra
loài người và
chư thiên khác nhau, nhưng đều có hình thể toàn một màu
vàng ròng,
vẻ mặt đoan chánh
đẹp đẽ, không ai có những nét
xấu xí.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười hai: Sau khi ta
thành Phật,
ví như chư thiên và
loài người trong khắp
vô lượng thế giới mười phương,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... thảy đều được sinh làm người, đều
tu tập chứng quả Thanh văn,
Duyên giác, đều
tu thiền đạt đến mức
nhất tâm, rồi cùng nhau muốn tính đếm tuổi thọ của ta. Tính đếm như vậy trong cả ngàn muôn
vạn kiếp cũng không một ai có thể biết được.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười ba: Sau khi ta
thành Phật,
ví như chư thiên và
loài người trong khắp
vô lượng thế giới mười phương,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... thảy đều được sinh làm người, đều
tu tập chứng quả Thanh văn,
Duyên giác, đều
tu thiền đạt đến mức
nhất tâm, rồi cùng nhau muốn tính đếm số
chúng sinh trong cõi nước của ta. Tính đếm như vậy trong cả ngàn muôn
vạn kiếp cũng không một ai có thể biết được.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười bốn: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều có
thọ mạng dài lâu
vô số kiếp, không ai có
thể tính đếm được.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười lăm: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta thảy đều được
thọ hưởng những sự khoái lạc không khác gì các bậc tỳ-kheo đã dứt sạch
lậu hoặc.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười sáu: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho
chúng sinh trong cõi nước của ta đều trụ nơi
địa vị chánh tín, lìa xa mọi
tư tưởng điên đảo,
phân biệt, các căn đều
tịch tĩnh, dừng lắng
cho đến lúc
đạt được Niết-bàn.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười bảy: Sau khi ta
thành Phật, sự
thuyết giảng kinh điển và
tu hành đạo pháp đều nhiều hơn gấp mười lần so với chư Phật.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười tám: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều rõ biết hết thảy những kiếp
quá khứ, biết được mọi sự việc đã xảy ra trong trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ mười chín: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được
thiên nhãn, nhìn thấy khắp trăm ngàn ức na-do-tha
thế giới.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được
thiên nhĩ,
nghe được tiếng
thuyết pháp của trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật. Nghe rồi liền có thể nhận lãnh làm theo.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi mốt: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được
tha tâm trí, rõ biết được
tâm niệm của hết thảy
chúng sinh trong trăm ngàn ức na-do-tha
thế giới.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi hai: Sau khi ta
thành Phật, nguyện cho tất cả
chúng sinh trong cõi nước của ta đều được phép
Thần túc, chỉ
trong khoảng thời gian của một niệm có thể
vượt qua được trăm ngàn ức na-do-tha
thế giới.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi ba: Sau khi ta
thành Phật,
danh hiệu của ta vang truyền khắp
vô số thế giới trong
mười phương. Hết thảy chư Phật trong các
thế giới ấy, mỗi vị đều ở giữa
đại chúng mà
xưng tán công đức của ta cùng
ca ngợi cõi
thế giới thù thắng của ta. Hết thảy
chư thiên,
loài người,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... khi
nghe được danh hiệu của ta, chỉ cần
phát khởi tâm lành mừng vui
hoan hỷ, thì hết thảy đều sẽ được sinh về
thế giới của ta.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi bốn: Sau khi ta
thành Phật,
hào quang trên đỉnh đầu của ta chiếu sáng
rực rỡ nhiệm mầu, vượt hơn ánh sáng của
mặt trời mặt trăng đến trăm ngàn vạn lần.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi lăm: Sau khi ta
thành Phật,
hào quang của ta chiếu sáng đến khắp những
chỗ tối tăm
u ám trong
vô số cõi
thế giới, khiến cho đều sáng rực. Hết thảy
chư thiên và
loài người,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... khi được thấy
hào quang của ta rồi thảy đều
sinh khởi lòng từ, muốn làm
việc thiện, rồi tất cả đều được sinh về
thế giới của ta.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi sáu: Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... khi được
hào quang của ta chiếu vào
thân thể liền được
thân tâm từ hòa hơn cả
chư thiên.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi bảy: Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới, nếu có ai
phát tâm Bồ-đề, vâng giữ
trai giới,
thực hành sáu pháp ba-la-mật, tu các
công đức,
hết lòng phát nguyện được sinh về
thế giới của ta, thì khi người ấy
lâm chung ta sẽ cùng với
đại chúng hiện đến
trước mặt,
tiếp dẫn người ấy sinh về
thế giới của ta, làm bậc
Bồ Tát trụ ở
địa vị không còn
thối chuyển.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi tám: Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới, nếu có ai được nghe
danh hiệu của ta liền
thắp hương,
dâng hoa, dùng các thứ đèn đuốc, cờ phướn
trang nghiêm,
cúng dường trai tăng,
xây dựng chùa tháp,
giữ gìn trai giới thanh tịnh, làm các
việc thiện, một lòng nhớ nghĩ đến ta, cho dù chỉ trong một ngày một đêm không
gián đoạn, cũng
chắc chắn sẽ được sinh về cõi
thế giới của ta.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi chín: Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới, nếu có ai
hết lòng tin tưởng muốn được sinh về cõi
thế giới của ta, chỉ cần niệm rõ lên
danh hiệu của ta mười tiếng, hết thảy liền được sinh về cõi
thế giới của ta, chỉ
trừ ra những kẻ phạm vào
năm tội nghịch[52] hoặc
phỉ báng Chánh pháp.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi: Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới,
cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy... nếu như trong
tiền kiếp đã từng làm các việc ác, nay được nghe
danh hiệu của ta liền
hết lòng sám hối, quay sang làm thiện, vâng
giữ giới luật,
thọ trì kinh điển,
phát nguyện được sinh về
thế giới của ta, thì khi
lâm chung liền không bị đọa vào trong
ba đường ác, thẳng tắt một
đường sinh về
thế giới của ta, mọi chỗ mong cầu đều được
như ý.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi mốt: Sau khi ta
thành Phật,
chư thiên và
loài người trong
vô số cõi
thế giới, nếu ai được nghe
danh hiệu của ta liền cúi đầu
sát đất lễ lạy cung kính, mừng vui
tin tưởng phát tâm ưa muốn tu theo hạnh
Bồ Tát, liền được hết thảy
chư thiên và người đời
kính trọng.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi hai: Sau khi ta
thành Phật, hết thảy
nữ nhân trong
vô số cõi
thế giới, nếu được nghe
danh hiệu của ta liền mừng vui
tin tưởng,
phát tâm Bồ-đề, sinh lòng
chán ghét thân nữ. Sau khi
lâm chung liền không còn phải thọ sinh làm thân nữ.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi ba: Sau khi ta
thành Phật, những
chúng sinh nào sinh về cõi
thế giới của ta đều là hàng
Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ,[53]
trừ ra những vị có
phát nguyện sinh về những
thế giới khác để
giáo hóa chúng sinh, tu hạnh
Bồ Tát,
cúng dường chư Phật liền được
tùy ý sinh về phương ấy. Ta sẽ
dùng sức oai thần khiến cho vị ấy
giáo hóa được hết thảy
chúng sinh đều
phát khởi lòng tin, tu hạnh Bồ-đề, hạnh
Phổ Hiền, hạnh
tịch diệt,
Phạm hạnh thanh tịnh, hạnh cao trổi nhất, cùng với hết thảy các
hạnh lành.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi bốn: Sau khi ta
thành Phật, những
chúng sinh nào ở
thế giới của ta muốn sinh về
thế giới khác liền được
như ý nguyện nhưng không còn phải đọa vào trong
ba đường ác.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi lăm: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta dùng đủ loại
hương hoa, cờ phướn,
trân châu,
chuỗi ngọc, cùng với đủ mọi thứ phẩm vật
cúng dường, muốn hiện đến
vô số cõi
thế giới để
cúng dường chư Phật, liền chỉ
trong khoảng thời gian của một
bữa ăn có
thể hiện đến đủ khắp
mọi nơi.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi sáu: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta nếu muốn dùng đủ mọi thứ phẩm vật
cúng dường để
cúng dường vô số chư Phật trong
mười phương, liền
tức thời hiện đến trước các vị Phật ấy với đầy đủ mọi thứ phẩm vật.
Cúng dường rồi, ngay trong ngày ấy chưa đến giờ thọ trai đã kịp
trở về.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi bảy: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta
thọ trì kinh pháp, tụng đọc,
giảng thuyết, liền có đủ
biện tài trí huệ.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi tám: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta có thể
giảng thuyết hết thảy các pháp, được
biện tài trí huệ không hạn lượng.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi chín: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát trong
thế giới của ta đều được
sức mạnh như
lực sĩ Kim cang na-la-diên ở
cõi trời,
thân thể đều toàn một màu sáng đẹp như vàng
tử ma, có đủ
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp,
giảng kinh hành đạo không khác gì chư Phật.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi: Sau khi ta
thành Phật, cõi
thế giới của ta
thanh tịnh soi chiếu khắp
vô lượng thế giới trong
mười phương. Các vị
Bồ Tát nếu muốn nhìn vào trong cây quý để thấy được hết thảy những
cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh trong khắp
mười phương, liền
tức thời nhìn thấy
hiện ra đầy đủ như trong tấm
gương sáng ở ngay
trước mặt.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi mốt: Sau khi ta
thành Phật, những vị
Bồ Tát trong cõi
thế giới của ta, dù có ít
công đức cũng có thể thấy biết được cây bồ-đề nơi
đạo tràng của ta cao đến bốn ngàn do-tuần.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi hai: Sau khi ta
thành Phật, hết thảy
chư thiên và
loài người cùng với
vạn vật trong cõi
thế giới của ta đều
trang nghiêm thanh tịnh,
sáng suốt đẹp đẽ,
hình dáng và màu sắc đều
đặc biệt kỳ diệu, nhiệm mầu
tinh tế đến mức không ai có thể nói hết được.
Chúng sinh dù có
đạt được thiên nhãn cũng không thể
phân biệt gọi tên hay tính đếm được hết mọi thứ trong
thế giới của ta.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi ba: Sau khi ta
thành Phật, hết thảy
chúng sinh trong cõi
thế giới của ta,
tùy theo chí nguyện, nếu muốn
nghe pháp liền
tức thời được nghe.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi bốn: Sau khi ta
thành Phật, hết thảy hàng
Bồ Tát hay
Thanh văn trong cõi
thế giới của ta đều có đủ
trí huệ,
thần lực, trên đỉnh đầu cũng có
hào quang chiếu sáng, tiếng nói phát ra vang rền, lưu loát,
giảng kinh hành đạo đều không khác với chư Phật.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi lăm: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát ở những phương khác được nghe
danh hiệu của ta đều
quy y tinh tấn, đều được phép Tam-muội
thanh tịnh giải thoát. Các vị trụ yên nơi phép tam-muội này thì chỉ trong
thời gian một
ý niệm khởi lên đã có thể
cúng dường vô số chư Phật mà vẫn không rời khỏi
thiền định.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi sáu: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát ở những phương khác được nghe
danh hiệu của ta đều
quy y tinh tấn, đều được phép Tam-muội
Phổ đẳng, từ đó
cho đến khi
thành Phật luôn thường được nhìn thấy
vô số chư Phật.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi bảy: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát ở những phương khác được nghe
danh hiệu của ta đều
quy y tinh tấn, liền được ngay
địa vị không còn
thối chuyển.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi tám: Sau khi ta
thành Phật, các vị
Bồ Tát ở những phương khác được nghe
danh hiệu của ta đều
quy y tinh tấn, liền được ngay các bậc
nhẫn nhục từ thứ nhất, thứ hai
cho đến thứ ba,[54] đều được phép Tam-muội
thanh tịnh giải thoát. Các vị trụ yên nơi phép tam-muội này thì chỉ trong
thời gian một
ý niệm khởi lên đã có thể
cúng dường vô số chư Phật mà vẫn không rời khỏi
thiền định.
Nếu không được vậy, ta quyết không
thành Phật.