CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT
Đoàn Trung Còn
PHÁP TƯỚNG TÔNG
Khai tổ: Bồ Tát Thế Thân vào thế kỷ 5 ở Ấn Độ
Huyền Trang truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ 7.
Đạo Chiêu (Dơshơ) và Huyền Phảng (Genbơ) truyền sang Nhật vào các năm 660 và 734.
Giáo lý căn bản: Duy thức luận của Bồ Tát Thế Thân.
Thành Duy thức luận của Đàm-ma-ba-la.
Tông chỉ: Chỉ có thức là thật có và hàm chứa tất cả, vạn vật mà chúng ta nhận biết đều chỉ là sự biểu hiện của thức, cho nên xét về bản chất đều là không thật.
LỊCH SỬ
Giáo pháp thời
đức Phật đã có giảng rõ
nghĩa trung đạo,
Duy thức là
giáo lý cốt yếu của
Pháp tướng tông. Khoảng 900 năm sau,
Bồ Tát Vô Trước ra đời, xiển dương
giáo lý Đại thừa. Ngài là anh trai của
Bồ Tát Thế Thân, cũng chính là người đã giúp
Bồ Tát Thế Thân từ bỏ con đường Tiểu thừa để quay sang
tu tập và
truyền bá Đại thừa. Tương truyền ngài
Vô Trước đã được
Bồ Tát Di-lặc từ cung trời Đâu-suất hiện xuống dạy cho 5 bộ luận là:
1.
Du-già sư địa luận.
2.
Phân biệt Du-già luận.
3.
Đại thừa trang nghiêm kinh luận.
4.
Biện trung biên luận.
5.
Kim cang bát-nhã ba-la-mật kinh luận.
Tại một
giảng đường lớn thuộc xứ A-du-đà (Ayodhya), ngài
Vô Trước đã học và giảng 5 bộ luận này suốt trong một tháng. Ban đêm ngài học với
Bồ Tát Di-lặc, ban ngày ngài mang những điều đã học giảng lại cho rất nhiều người nghe. Nhờ vậy đã nhanh chóng
phổ biến được một cách
rộng rãi những nội dung sâu sắc của các bộ luận này, và chính từ đó
Pháp tướng tông được hình thành.
Người em trai của ngài
Vô Trước là
Bồ Tát Thế Thân sau khi quay sang
tu tập theo
Đại thừa cũng
trở thành một bậc
danh tăng lỗi lạc,
biên soạn rất nhiều bộ luận
Đại thừa. Trong số đó, có bộ
Duy thức luận được
biên soạn cuối cùng, là bộ luận sâu sắc và tóm thâu hết thảy những
ý nghĩa tinh túy nhất của
học thuyết Duy thức. Sau khi được dịch sang chữ Hán, bộ luận này đã
trở thành bộ luận chính của
Pháp tướng tông ở Trung Hoa. Có rất nhiều
luận sư giảng giải về bộ luận này, nhưng trong số đó
nổi bật nhất là ngài Đàm-ma-ba-la, người
Ấn Độ nhưng thường được người Trung Hoa biết đến với tên gọi
Hộ Pháp. Chính phần
giảng giải của ngài về sau đã được ngài
Huyền Trang dịch sang chữ Hán thành quyển
Thành Duy thức luận.
Đệ tử của Đàm-ma-ba-la, là Thi-la-bả-đà-la), người Trung Hoa gọi là
Giới Hiền Luật sư, vốn là người
nghiên cứu am tường các
kinh luận của
Bồ Tát Vô Trước và
Thế Thân, là một trong các
học giả nổi tiếng nhất của
Ấn Độ vào thế kỷ 6 – 7. Khi ngài
Huyền Trang sang
Ấn Độ đã gặp được ngài
Giới Hiền tại
tu viện Nlanda ở xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) thuộc miền
Trung Ấn, nơi
nổi tiếng là “trường
đại học Phật giáo” của thời đó. Chính từ nơi
Giới Hiền Luật sư mà ngài
Huyền Trang đã học tập được rất nhiều điều về
kinh luận và
giáo lý.
Sau khi
mang theo rất nhiều kinh văn bằng Phạn văn
trở về Trung Hoa vào năm 645, ngài
Huyền Trang được vua
Đường Thái Tông thỉnh đến ở chùa Hoằng Phước nơi kinh đô
Trường An để chuyên việc
dịch kinh điển từ Phạn văn sang Hán văn. Ngài đã
thực hiện công việc
phiên dịch trong suốt 19 năm.
Trong thời gian ấy, ngài cũng
truyền bá rộng rãi học thuyết của
Pháp tướng tông.
Một trong các
đệ tử lớn của ngài là
Khuy Cơ có soạn một trăm bài
giảng luận về Kinh và Luận, được người đương thời tôn xưng là
Từ Ân Đại sư, vì ngài ở chùa
Từ Ân. Và vì
Pháp tướng tông phát khởi từ chùa
Từ Ân, do công
truyền bá của
Từ Ân Đại sư, nên người ta cũng gọi tông này là
Từ Ân tông.
Từ Ân Đại sư sau khi được nghe những lời
giảng giải của thày là
Huyền Trang đã ghi chép lại và sau đó soạn lại thành sách.
Sau
Khuy Cơ,
đệ tử của ngài là
Huệ Chiểu cũng có công lớn trong việc
tiếp tục truyền bá Pháp tướng tông ở Trung Hoa.
Pháp tướng tông về sau có nhiều lần được truyền sang
Nhật Bản. Trong đó có hai lần đáng
quan tâm nhất. Lần thứ nhất là khi có một vị tăng
Nhật Bản tên Doshơ sang Trung Hoa
học đạo với ngài
Huyền Trang. Ông là bạn
đồng môn và có quan hệ
giao du rất
thân thiết với ngài
Khuy Cơ, được người Trung Hoa gọi là
Đạo Chiêu. Năm 653, ông theo đường biển đến Trung Hoa. Ngoài việc theo học với ngài
Huyền Trang, ông còn theo học
Thiền học với ngài
Huệ Mãn. Năm 660, ông
trở về nước Nhật và
truyền bá học thuyết của
Pháp tướng tông ở miền Nam, vì ông là người xứ Asuka thuộc miền Nam nước Nhật.
Đầu thế kỷ 8, vào năm 717, một người Nhật khác là Genbơ dẫn theo một số tăng sĩ
Nhật Bản khác sang Trung Hoa theo học với
đệ tử của ngài
Huệ Chiểu là
Trí Chu. Ông có
tư chất thông minh, học lực
uyên bác, được vua Đường
Huyền Tông rất khâm phục,
ban cho áo cà-sa màu đỏ, là một biểu hiện rất
tôn kính. Năm 734, ông
trở về Nhật Bản,
truyền bá học thuyết Pháp tướng tông ở kinh đô Nại Lương (Nara) và các vùng thuộc miền Bắc nước Nhật.
Hiện nay,
Pháp tướng tông vẫn còn hưng thịnh ở Nhật và có nhiều bậc cao đồ
thông minh tài trí.
Pháp tướng tông hiện có hơn 40 ngôi chùa, 700 vị tăng sĩ, khoảng 1.000
cư sĩ và hơn 10.000
tín đồ thường xuyên đến
tham học.
[36]
HỌC THUYẾT
A. Ba giai đoạn thuyết pháp: Sau khi đức Phật thành đạo, ngài quán xét căn cơ trí tuệ của chúng sinh và quyết định không thể mang những giáo pháp cao siêu nhất ra giảng dạy, vì như thế sẽ không ai có thể lãnh hội được. Thay vì vậy, việc thuyết pháp của ngài được chia thành ba giai đoạn. Trước hết, ngài giảng dạy giáo pháp Tiểu thừa, hay Thanh văn thừa, là những điều gần gũi và dễ tiếp nhận nhất đối với đa số chúng sinh. Sau đó, ngài giảng dạy giáo pháp Trung thừa, hay Duyên giác thừa, là những giáo lý thuộc tầng bậc cao hơn và mang lại những kết quả tu tập cũng cao hơn. Cuối cùng, vào khoảng thời gian trước khi nhập Niết-bàn, ngài thuyết giảng giáo pháp Đại thừa, phần giáo pháp rốt ráo nhất dẫn đến quả vị Phật. Chỉ những ai có được niềm tin sâu vững và trí huệ sáng suốt mới có thể tiếp nhận được phần giáo pháp này.
Về sau, các bậc tổ sư cũng giữ theo phương cách thuyết pháp chia thành ba giai đoạn như trên, nhưng có sự linh hoạt là tùy theo căn cơ của đệ tử chứ không phải phân chia theo thời gian như vào thời đức Phật. Đối với những người căn cơ thấp kém, trí huệ nông cạn, các ngài chỉ dạy cho tu tập giáo pháp Tiểu thừa. Đối với những ai có phần sáng suốt hơn, các ngài dạy giáo pháp Trung thừa. Và chỉ với những ai có căn cơ nhạy bén, trí huệ sáng suốt, các ngài mới mang giáo pháp Đại thừa ra truyền dạy.
Nhìn từ góc độ của Pháp tướng tông thì sự phân biệt thuyết pháp như trên là dựa theo ba mức độ nhìn nhận về thực tại. Ở mức độ thấp nhất (Tiểu thừa), người ta thừa nhận thực tại là thật có (chấp hữu), và hướng sự tu tập đến việc hoàn thiện những điều bất như ý trong thực tại đó. Ở mức độ thứ hai, người ta nhận rằng bản chất của thực tại là hư ảo, là không thật có (chấp vô), và hướng sự tu tập đến chỗ tách rời ra khỏi thực tại không thật có để đạt được sự giải thoát cho riêng mình. Ở mức độ thứ ba, mức độ cao nhất, người ta nhận ra rằng thực tại là chẳng phải có cũng chẳng phải không (phi hữu phi vô), và hướng sự tu tập vào việc đạt đến giải thoát bằng chính tự tâm, bởi vì khi tự tâm mê lầm thì thực tại là thực có và đầy dẫy khổ đau, nhưng khi tự tâm sáng suốt thì không còn bị trói buộc bởi thực tại mà có thể nhận ra được thật tánh của vạn pháp, từ đó mà đạt được sự giải thoát tự tại. Giáo lý về phi hữu phi vô này chính là con đường trung đạo của Pháp tướng tông.
Học thuyết trung đạo của Pháp tướng tông là “Duy thức”, nghĩa là chỉ duy nhất “thức” là thật có mà thôi. Các pháp đều từ trong thức sinh khởi mà thành. Học thuyết ấy cho rằng những gì ở trong thức sẽ biểu hiện ra ngoài thành muôn hình vạn trạng, cho nên hết thảy đều là không thật. Công năng của thức tạo ra tất cả. Nó hiển lộ thế giới vật chất cũng tương tự như một máy chiếu phim tạo ra hình ảnh. Cho nên, hết thảy thế giới đều chỉ là mộng ảo, cho đến ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới cũng chỉ là những biểu hiện của thức mà thôi.
Giáo lý trung đạo thuộc tầng bậc cao, không
phù hợp với những ai mới bước chân vào
tìm hiểu đạo Phật. Để
lãnh hội được
ý nghĩa chẳng phải có chẳng phải không, người ta phải thấu hiểu
sâu xa cả nghĩa có và
nghĩa không, rồi từ đó mới có thể nhận được rằng
giáo lý này
bao gồm trong nó cả
nghĩa không và nghĩa có. Nó
viên dung, bao hàm tất cả chứ không phải là một kiểu “nằm ở khoảng giữa” như rất nhiều người lầm tưởng.
B.
Học thuyết Pháp tướng tông: Dựa theo
ý nghĩa trung đạo của
Duy thức luận,
Pháp tướng tông phân quy chiếu hết thảy mọi
hiện tượng trong
thế giới vật chất và
tinh thần về thành 100 pháp khác nhau (
bách pháp), rồi lại chia 100 pháp ấy ra thành 5 nhóm lớn là: tâm (8 pháp),
tâm sở hữu (51 pháp), sắc (11 pháp),
tâm bất tương ưng hành (24 pháp) và
vô vi (6 pháp). Cộng cả thảy là 100 pháp,
bao gồm tất cả mọi
hiện tượng trong
thế giới, gồm cả các
pháp hữu vi và
vô vi.
Trong 5 nhóm trên thì nhóm đầu tiên –
tâm pháp – là quan trọng hơn hết. Nhóm này gồm 8 pháp, chính là 8 thức của mỗi
chúng sinh. Đó là:
nhãn thức,
nhĩ thức,
tỵ thức,
thiệt thức,
thân thức,
ý thức,
mạt-na thức và
a-lại-da thức.
Theo thứ
tự như trên mà gọi tên, nên
ý thức cũng gọi là thức thứ sáu,
mạt-na thức là thức thứ bảy, và
a-lại-da thức là thức thứ tám. Chính ba thức
cuối cùng này
điều hành tất cả mọi
hoạt động của
chúng sinh.
Ý thức kiểm soát và
điều hành cả 5 thức trước nó trong
hiện tại.
Mạt-na thức và
a-lại-da thức là những người
chỉ huy đứng ở hậu trường.
Đặc biệt,
a-lại-da thức có
công năng ghi nhớ và
chất chứa tất cả những
hạt giống thiện hay ác mà
con người đã tạo ra
trong đời sống, gọi là
chủng tử, rồi đến khi có đủ
điều kiện thích hợp thì những
chủng tử ấy sẽ
sinh khởi thành những sự việc tốt xấu của mỗi
chúng sinh. Đó là nền tảng của
lý thuyết về
nhân quả. Một
chủng tử xấu sẽ
sinh khởi tạo thành những
điều kiện xấu, và ngược lại, những
chủng tử thiện sẽ tạo nên
một đời sống
tốt đẹp cho
chúng sinh.
Vì tất cả những gì xảy ra và được
chúng ta nhận biết đều chỉ là sự
sinh khởi của những
chủng tử chất chứa trong
a-lại-da thức, nên xét theo
ý nghĩa này thì có thể nói rằng chính
a-lại-da thức đã tạo ra tất cả,
kiểm soát tất cả.
Pháp tướng tông cho rằng tất cả các pháp đều
do nơi thức, từ nơi thức mà
sinh khởi, rồi
vận hành trong thức và cũng diệt mất đi trong thức ấy. Tuy là có 8 thức, nhưng
chính lý thuyết về
a-lại-da thức mới là quan trọng nhất và
bao gồm trong nó tất cả.
Theo chiều
suy luận ngược lại, nếu 8 thức không
nhận biết thế giới này, không
vận hành và
sinh diệt trong
cuộc đời này, thì
thế giới này sẽ không
thể hiện hữu,
tương tự như khi người điều khiển không cho máy chiếu phim
hoạt động thì không thể nhìn thấy các
hình ảnh.
Dựa trên luận thuyết này,
chúng ta sẽ hiểu được vì sao tất cả những điều
tốt đẹp,
quý báu và đáng ưa muốn của
thế gian như sự
giàu sang, nhà cửa to lớn,
thức ăn ngon, vợ đẹp, con ngoan... lại chẳng có
ý nghĩa gì cả đối với những bậc
xuất gia tu hành chân chánh. Bởi vì trong
tâm thức của các vị không có sự
hiện hữu của những thứ ấy, cũng không có sự
ham muốn,
ưa thích chúng, và vì thế mà chúng phải
tự nhiên mất đi.
C.
Sự giải thoát: Sự phân ra ba giai đoạn
thuyết pháp hay ba mức độ
giáo hóa đều là nhằm có thể
mang đến sự giải thoát cho tất cả
chúng sinh. Từ những người có
căn cơ thấp kém,
ngu độn nhất
cho đến những bậc
thông minh xuất chúng đều không ra ngoài
phạm vi giáo hóa của
Ba thừa.
Đối với những người có
căn cơ thấp – thường là chiếm phần
đa số – thì
cuộc đời này vốn là thật có, những
đau khổ mà họ phải nhận chịu trong
cuộc đời là không thể phủ nhận. Vì thế, họ học theo
luận thuyết Pháp tướng tông để
được giải thoát khỏi chính những sự khổ đau
cụ thể đó. Nhờ
học đạo, họ sẽ
giảm bớt đi sự mê đắm,
lầm lạc, vì hiểu được
ý nghĩa không thật của những
giá trị vật chất vốn luôn thay đổi và
cuối cùng đều sẽ phải hoại mất. Từ đó,
con người không còn
đau khổ bởi những
cảm xúc bất bình vì trái ý, tiếc nuối vì mất mát,
đau đớn vì chia ly... Bởi vì họ hiểu ra được rằng tất cả những điều đó đều là không thể
tránh khỏi, đều là sự
vận hành tự nhiên, và
bản chất của chúng đều là
không thật, chỉ từ nơi các
thức biến hiện ra. Khi hiểu được như vậy, người ta có thể
giải thoát khỏi rất nhiều nỗi khổ đau thường gặp trong
cuộc đời này.
Đối với những người có phần
trí tuệ cao hơn,
sự giáo hóa không dừng lại ở đó mà còn đi sâu vào quán xét
tính chất không thật có của
thế giới vật chất. Ngay cả những
hiện tượng thành, trụ, hoại, không của
vật chất cũng chỉ là những sự biểu hiện
không thật, như những con sóng nổi lên trên mặt biển.
Người ta không thể
tìm thấy cái gọi là “con sóng” ở bên ngoài mặt biển. Khi có gió bão, con sóng
xuất hiện, mặt biển nhấp nhô; khi trời yên tĩnh, con sóng biến mất, mặt biển phẳng lặng. Nhưng thật ra thì con sóng chưa từng “có” mà cũng chưa từng “không”. Nếu nói sóng là có, vì sao khi mặt biển yên ta không nhìn thấy sóng? Nếu nói sóng là không, vì sao khi biển động lại thấy có sóng? Khi biển yên thì sóng đi về đâu? Khi biển động thì sóng từ đâu mà đến?
Suy xét ý nghĩa này,
chúng ta sẽ
nhận ra được cái gọi là “con sóng” thật ra chỉ là sự biểu hiện
kết hợp nhiều
điều kiện khác nhau: có mặt biển, có gió mạnh thì con sóng
hiện ra. Khi những
điều kiện đó không còn nữa, con sóng cũng không còn.
Tất cả mọi
hiện tượng trong
thế giới này đều là như vậy. Khi có đủ các
nhân duyên hợp lại, một
hiện tượng khởi lên, và
chúng ta nói rằng nó đang “có”. Khi các
nhân duyên tan rã,
hiện tượng ấy mất đi, và
chúng ta nói rằng nó là “không”. Thật ra, chỉ có sự
kết hợp của các
nhân duyên mà không có bất cứ
hiện tượng nào là thật có!
Khi hiểu được như vậy, người ta không còn mê đắm đối với mọi đối tượng
vật chất. Nhờ đó, người ta có thể sống một cách giản dị,
thanh đạm, không bị
lôi cuốn theo sự
tham muốn, và do đó không gây ra các
ác nghiệp.
Nhưng đối với những bậc
thượng căn thượng trí thì cả hai cách nhìn nhận có và không như trên đều chưa phải là
rốt ráo. Khi nói rằng
thế giới vật chất này là có, thì
rõ ràng chỉ là cách nhìn ở bề mặt mà thôi, vì không thấy được
tính chất giả hợp, thay đổi và tan rã đang diễn ra
liên tục trong
thế giới ấy. Nhưng nếu bảo tất cả đều là không thì cũng không
thỏa đáng, vì sự
hiện hữu của
chúng ta là thật có, đang song song
tồn tại cùng với mọi
hiện tượng giả hợp của
thế giới. Vì thế, họ quay sang nhìn nhận rằng sự
tồn tại của
thế giới vật chất và
tinh thần chính là biểu hiện từ sự
tồn tại của thức. Khi
nhận thức như vậy, người ta không còn
quan tâm đến việc
thế giới này là có hay là không, vì chúng chẳng qua chỉ là sự biểu
hiện ra bên ngoài của các thức mà thôi.
Pháp tướng tông khi truyền sang
Nhật Bản cũng tạo ra rất nhiều
ảnh hưởng tích cực trong đời sống của dân tộc này. Khi
nhận biết rằng những
giá trị vật chất trong cuộc sống vốn là
không thật, họ không rơi vào chỗ
bi quan yếm thế hay lười nhác,
trốn tránh.
Trái lại, họ vận dụng được
nhận thức này để
rèn luyện sự
kiên tâm và một
nghị lực vững vàng trước mọi
biến động trong cuộc sống. Nhờ vậy, họ có thể
chịu đựng được những cơn động đất, bão tố, nạn đao binh...
Trải qua thảm họa, họ
thản nhiên xây dựng lại cuộc sống; gặp những mất mát
đau thương, họ
mỉm cười chấp nhận để
nỗ lực vượt qua. Họ biết rằng không có gì là
trường tồn. Những điều
tốt đẹp hay
xấu xa, thảy đều sẽ qua đi với
thời gian. Và nhờ đó, họ không bao giờ đánh mất đi những
nỗ lực vươn lên
hoàn thiện cuộc sống. Họ
tin tưởng rằng, tuy mọi cái đều
không thật, đều giả tạm, nhưng chính phần
tâm thức,
nghị lực của mỗi
con người là thật có.