CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT
Đoàn Trung Còn
TỔNG LUẬN
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khai sáng đạo Phật, trong hơn 49 năm thuyết pháp trên toàn cõi Ấn Độ đã giáo hóa cho đủ mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội, từ hàng vua chúa quan quyền cho đến kẻ bần dân hạ tiện, từ những người thông minh dĩnh ngộ cho đến kẻ ngu dốt thiển cận, từ những người hiền hậu bẩm sinh cho đến kẻ độc ác giết người không chớp mắt... Tất cả đều có thể nhờ nơi giáo pháp của ngài mà đạt đến một cuộc sống thanh thản giải thoát; một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, thực sự đáng sống; một cuộc sống luôn mang lại sự an vui lợi ích cho bản thân cũng như cho tất cả những người khác quanh mình.
Mặc dù sự thuyết pháp của đức Phật có giá trị lớn lao và đa dạng đến như thế, nhưng bản thân ngài chưa từng dạy đệ tử phải phân chia đạo Phật ra thành các tông phái khác nhau, cũng chưa từng phân biệt những kinh điển đã thuyết dạy ra thành những phần giáo lý khác nhau. Chỉ có một thực tế là, tùy theo đối tượng nghe pháp, ngài luôn chọn đúng phần giáo pháp thích hợp để giúp cho đối tượng ấy có thể lãnh hội được, có thể làm theo được, và nhờ đó mà có thể đạt được sự lợi ích.
Khi đức Phật nhập diệt, một thời gian rất lâu sau đó – ít nhất cũng là hơn 100 năm sau – kinh điển mới được ghi chép lại. Vì thế, trong số những người học Phật thời bấy giờ không tránh khỏi có một số điểm bất đồng về cách hiểu, hoặc về sự ghi nhớ lời dạy của đức Phật. Những điểm bất đồng này là một trong những nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự phân chia các bộ phái ngay chính trên vùng đất mà đạo Phật đã ra đời.
Nguyên nhân quan trọng thứ hai cần nhắc đến là sự khác biệt về môi trường xã hội, về tập tục, văn hóa khác nhau ở những địa phương khác nhau mà đạo Phật truyền đến. Do có những khác biệt này mà đạo Phật có sự phát triển khác nhau ở mỗi vùng. Tuy vẫn giữ được những nét chung về tổng thể nhưng không khỏi có những khác biệt nhỏ về cách hiểu và vận dụng giáo pháp trong đời sống, trong sự tu tập.
Vì những nguyên nhân trên – và một số nguyên nhân khác nữa – mà ngay trong thời kỳ đầu tiên của Phật giáo tại Ấn Độ cũng đã có sự phân chia thành các tông phái khác nhau. Các nhà nghiên cứu cho rằng ít nhất cũng đã có đến 18 tông phái khác nhau tại Ấn Độ trong thời kỳ phát triển đầu tiên của Phật giáo, nghĩa là trong khoảng từ khi đức Phật nhập diệt cho đến 500 năm sau đó.
Đạo Phật khi truyền sang Trung Hoa, Nhật Bản và cả nước ta nữa, cũng không tránh khỏi sự phân chia theo cách như trên. Chẳng hạn, Mật tông ở Ấn Độ khi truyền đến Trung Hoa thì trở thành Chân ngôn tông. Sự đổi tên này cho thấy người Trung Hoa với những tập tục khác biệt của mình đã có phần xem trọng yếu tố “khẩu quyết” hay chân ngôn, vốn thuộc về khẩu mật, hơn là các yếu tố thân mật và ý mật. Về mặt tổng quan, Chân ngôn tông của Trung Hoa cũng không khác nhiều với Mật tông ở Ấn Độ, nhưng về mặt vận dụng tu tập hoặc một số lễ nghi chi tiết, rõ ràng là đã có những sự thay đổi nhất định. Vấn đề cũng sẽ tương tự như thế nếu ta khảo sát đến hình thức Mật tông khi truyền sang và phát triển tại Tây Tạng.
Hiểu được những nguyên tắc nêu trên, chúng ta sẽ không lấy làm lạ khi thấy có những sự phân chia tông phái trong suốt quá trình Phật giáo được truyền bá và phát triển. Và cũng nhờ nắm hiểu được những nguyên tắc ấy, chúng ta sẽ thấy rằng về mặt tổng quan, các tông phái của đạo Phật không hề có sự khác biệt mâu thuẫn nhau, mà ngược lại còn mang tính bổ sung cho nhau để làm cho giáo lý đạo Phật được truyền dạy ra khắp nơi một cách hiệu quả nhất, đến với nhiều người nhất. Bất cứ khi nào một tông phái bị thay đổi, biến dạng đến mức không còn phù hợp với những nguyên tắc chung của giáo lý nhà Phật, tông phái ấy sẽ bị loại trừ ra khỏi đại gia đình Phật giáo. Đó là trường hợp của Chân ngôn tông khi tông phái này không có được những người kế thừa chân chánh, nên ngày càng lún sâu vào những niềm tin mù quáng theo kiểu mê tín dị đoan và những kiểu phù phép không liên quan gì đến giáo lý nhà Phật.
Trong tập sách này, chúng ta đã điểm qua một số những tông phái lớn, nổi bật nhất trong quá trình phát triển của đạo Phật tại Trung Hoa. Mặc dù đây chỉ có thể xem là một quá trình “cưỡi ngựa xem hoa”, vì với một lịch sử hình thành và phát triển trong nhiều thế kỷ, với những phần giáo lý tinh hoa của hầu hết các bậc tổ sư chân truyền, mà chỉ gói gọn trong hơn trăm trang sách thì quả là chuyện hoàn toàn không thể được! Tuy nhiên, chúng tôi thực sự đã cố gắng làm điều “không thể được” đó, chỉ là vì nôn nóng muốn giới thiệu với quý vị độc giả những gì tinh túy nhất của đạo Phật; và vì xét thấy rằng quá trình phát triển của Phật giáo tại Trung Hoa có những ảnh hưởng nhất định đến những tư tưởng và sự nhận hiểu giáo lý đạo Phật tại Việt Nam, thông qua việc chúng ta đã và đang sử dụng những kinh luận trong Hán tạng. Hầu hết những kinh luận đó đều có sự đóng góp của các vị cao tăng Trung Hoa, từ việc dịch thuật sang Hán văn cho đến biên soạn các phần sớ giải hoặc trước tác luận nghị.
Chúng tôi nghĩ rằng, việc tìm hiểu sơ lược qua những dòng tư tưởng khác nhau trong các tông phái của đạo Phật sẽ giúp chúng ta có được một nhận thức đúng đắn và toàn diện hơn về các phần giáo lý của đạo Phật. Những công trình nghiên cứu sâu rộng hơn chắc chắn phải cần đến nhiều thời gian và sự đóng góp công sức của nhiều người, và vì thế mà điều chắc chắn là chúng ta sẽ phải chờ đợi khá lâu trước khi những công trình như thế – nếu có – được hoàn tất. Và trong thời gian chờ đợi ấy, tập biên khảo này cũng có thể tạm xem như một ngụm nước mát làm dịu đi cơn khát bỏng giữa trưa hè oi ả. Vì thế, chúng tôi hoàn toàn không mong là quý độc giả sẽ đánh giá cao tập biên khảo này, nhưng lại rất hy vọng là quý vị sẽ tìm thấy ở đây một đôi phần lợi ích cho việc tu tập.
Chúng ta đều biết là giáo lý đạo Phật nhìn chung được chia thành hai phần rõ nét nhất là Tiểu thừa và Đại thừa. Các tông phái của đạo Phật cũng được phân chia trong phạm vi của hai phần giáo lý này. Chẳng hạn, Câu-xá tông, Thành thật tông... là thuộc về Tiểu thừa, trong khi Hoa nghiêm tông, Thiên Thai tông... là thuộc về Đại thừa. Dựa vào những nghiên cứu về mặt lịch sử, đến nay người ta vẫn cho rằng giáo lý Tiểu thừa được chính đức Phật truyền dạy từ khi còn tại thế, còn các kinh điển của Đại thừa chỉ xuất hiện sớm nhất cũng là vào đầu Công nguyên, nghĩa là sau khi đức Phật nhập diệt khoảng 5 thế kỷ. Tuy nhiên, đó là quan điểm của các nhà sử học, và khi tìm hiểu về đạo Phật, chúng ta không nên rơi vào hai sự nhầm lẫn rất thường gặp sau đây. Thứ nhất là sự nhầm lẫn giữa sử học và tôn giáo, thứ hai là sự nhầm lẫn giữa suy đoán và kết luận.
Về sự nhầm lẫn thứ nhất, đã có không ít người căn cứ vào nhận xét của các sử gia để cho rằng kinh điển Đại thừa là “ngụy tạo”, do người đời sau tạo ra và gán cho là Phật thuyết. Đây chính là sự nhầm lẫn nghiêm trọng giữa sử học và tôn giáo. Vì sao vậy? Các sử gia chỉ làm việc căn cứ trên dữ kiện, và khi những dữ kiện mà họ tìm được không cho thấy bất cứ bằng chứng nào về sự tồn tại sớm hơn của kinh điển Đại thừa thì việc họ đưa ra một nhận xét như vậy là không có gì sai trái.
Nhưng về mặt tôn giáo thì không phải như thế. Tôn giáo được nghiên cứu dựa trên giáo pháp, và chúng ta không thể chỉ ra bất cứ sự mâu thuẫn hay bất hợp lý nào trong các kinh điển Đại thừa để có thể kết luận rằng đó không phải là do Phật thuyết. Sự phù hợp và phát triển một cách nhất quán, hợp lý trong hệ thống kinh văn Đại thừa không cho phép chúng ta nghi ngờ về xuất xứ của chúng.
Về mặt lịch sử, có thể là các kinh văn Đại thừa đã xuất hiện muộn hơn các kinh Tiểu thừa, nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là giáo pháp Đại thừa đã được hình thành sau Tiểu thừa. Chính từ những ghi chép trong kinh điển, chúng ta thấy là ngay trong thời gian đức Phật tại thế, ngài cũng đã thuyết dạy giáo pháp Tiểu thừa trước nhất, và mãi đến cuối đời, trước khi nhập Niết-bàn ngài mới thuyết dạy về phần giáo pháp rốt ráo nhất của Đại thừa. Điều đó cho thấy là trật tự xuất hiện của các phần giáo pháp ngay trong thời đức Phật đã cần có sự khác nhau, là do có sự tùy thuộc vào đối tượng nghe pháp. Chính vì thế mà việc giáo pháp Đại thừa do chính đức Phật truyền dạy nhưng phải đợi đến 5 thế kỷ sau mới được truyền bá rộng rãi cũng là điều hoàn toàn có thể hiểu được.
Cũng về mặt lịch sử, nếu chúng ta có thể hoài nghi về xuất xứ của các kinh Đại thừa chỉ vì chúng xuất hiện sau Phật nhập diệt khoảng 500 năm, thì cũng với lý do đó, chúng ta hoàn toàn có thể hoài nghi về xuất xứ của các kinh Tiểu thừa, vốn cũng xuất hiện sớm nhất là 100 năm sau Phật nhập diệt. Sự thật là, trong khoảng tối lịch sử hơn 100 năm sau Phật nhập diệt, các sử gia không thể tìm thấy bất cứ dữ kiện nào có thể làm bằng chứng cho sự tồn tại của cả hai phần giáo pháp!
Thế nhưng, sự
tồn tại của
giáo pháp là có thật, cho dù không phải dưới
hình thức văn bản. Và
nhân thân của một
con người lịch sử như
đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã được
xác nhận chắc chắn qua việc
tìm thấy trụ đá do vua A-dục (cai trị từ năm 274 đến 236
trước Công nguyên) dựng lên tại khu vườn
lịch sử Lam-tì-ni (Lumdini), ghi lại
sự kiện đức Phật đã đản sinh nơi đây.
Vì vậy, dù muốn hay không thì người ta vẫn phải
thừa nhận rằng chính
đức Phật là vị
giáo chủ vĩ đại đã
thuyết giảng toàn bộ phần
giáo pháp được
truyền khẩu trong hơn 100 năm sau đó, để rồi được ghi chép lại và hình thành
Tam tạng kinh điển sau này. Và như thế, khả năng
giáo pháp Đại thừa khi chưa tìm được
điều kiện truyền bá thích hợp đã được các vị
cao tăng âm thầm truyền nối dưới
hình thức phi văn bản
cho đến 5, 6 thế kỷ sau đó là
hoàn toàn có thể xảy ra.
Điều này có lẽ sẽ trở nên phần nào
dễ hiểu hơn nếu như
chúng ta nhớ lại rằng trong thế kỷ 7,
Lục tổ Huệ Năng cũng đã phải
ẩn cư chờ đợi đến hơn 15 năm trước khi bắt đầu hoằng
truyền pháp Thiền Đốn ngộ tại phương Nam!
Sự thật là
xã hội Ấn Độ vào thời
đức Phật ra đời cũng như sau đó 5 thế kỷ không phải là mảnh đất
thuận lợi cho sự phát triển của
giáo pháp Đại thừa. Đó là
thời gian mà
hình ảnh của vị “sa-môn Thích tử” vẫn còn được
cung kính một cách
tuyệt đối theo cách như đối với các
giáo sĩ Bà-la-môn, nghĩa là theo
truyền thống tôn giáo đã ngự trị từ nhiều thế kỷ trước đó. Và
quần chúng đang chuyển dần
trọng tâm sự kính ngưỡng của mình từ các vị bà-la-môn sang các vị tỳ-kheo
xuất gia, nhưng lại chưa dám
chấp nhận rằng chính
bản thân mình cũng có thể trở nên tôn quý như các vị, mặc dù đó chính là điều
đức Phật luôn thuyết dạy.
Giáo lý Tiểu thừa phù hợp với bối cảnh
xã hội như thế, khi mà sự
phân biệt giữa
cư sĩ và tăng sĩ luôn được
nhấn mạnh với một khoảng cách
đáng kể, và càng có sự
phân biệt rõ nét hơn nữa giữa các vị tăng sĩ thông thường với các vị
thánh tăng A-la-hán được xem là đã
chứng ngộ. Vì thế, không phải
vô cớ khi tên gọi của một trong các
bộ phái lớn của
Tiểu thừa vào thời đầu lại là
Thượng tọa bộ, một tên gọi
nhấn mạnh đến “vai vế” cao vời của các vị tăng sĩ. Và cũng vì thế mà
chúng tôi tin rằng chính
bộ phái mang tên
Đại chúng bộ phải là mảnh đất đã ươm mầm
giáo pháp Đại thừa trong
thời kỳ ấy.
Như vậy, sự
xuất hiện khá muộn của các kinh văn
Đại thừa rõ ràng là phải có những
nguyên nhân nhất định, và điều đó không thể là
lý do để
chúng ta cho rằng những kinh văn ấy “không phải do Phật thuyết”. Các sử gia đưa ra
nhận xét của họ
dựa vào dữ kiện, nhưng về mặt
tôn giáo, ta
cần phải chú ý nhiều hơn đến nội dung
giáo pháp thay vì là
hình thức hay thời điểm được
tìm thấy của các kinh văn.
Bây giờ nói về sự nhầm lẫn thứ hai mà
chúng tôi gọi là sự nhầm lẫn giữa
suy đoán và
kết luận. Các sử gia đưa ra
nhận xét rằng
kinh điển Đại thừa xuất hiện sớm nhất cũng là
vào khoảng đầu Công nguyên, đó chỉ là sự
suy đoán dựa vào những
dữ kiện “hiện nay đang có được”. Điều đó có nghĩa là, họ không thể
xác nhận sự
xuất hiện sớm hơn của các kinh văn
Đại thừa, nhưng
đồng thời cũng không hề phủ nhận rằng một sự
tồn tại như thế là không thể có. Đối với họ, điều này tất nhiên còn phải
tùy thuộc vào những
dữ kiện mới có thể sẽ được
tìm thấy trong tương lai, và họ
hoàn toàn không đưa ra
kết luận về
vấn đề khi chưa
tìm thấy được những
dữ kiện có
giá trị chứng minh điều ngược lại.
Thế nhưng có không ít người đã nhầm lẫn cho rằng
nhận xét dựa vào suy đoán như trên của các sử gia là
kết luận của
vấn đề. Và vì thế nên họ mới dám
dựa vào đó để đưa ra “kết luận”
của riêng mình rằng
kinh điển Đại thừa là “ngụy tạo”. Nếu chú ý đến sự khác biệt giữa
suy đoán và
kết luận,
chúng ta sẽ thấy ngay rằng những
kết luận được đưa ra
tiếp theo như thế là
hoàn toàn thiếu cơ sở
chính xác,
nếu không muốn nói là thật nông cạn và
vô lý.
Lược qua đôi nét về sự
phân chia thành hai nhóm
Tiểu thừa và
Đại thừa như trên là để quý
độc giả có một cái nhìn
kiên định rằng sau khi
so sánh nội dung các phần
giáo lý,
chúng ta hoàn toàn có thể
chắc chắn rằng cho dù là
Đại thừa hay
Tiểu thừa thì đó cũng đều là những phần
giáo pháp do chính
đức Phật đã thuyết dạy, chỉ là trong những
hoàn cảnh khác nhau và dành cho những đối tượng khác nhau mà thôi.
Khi
tìm hiểu về các
tông phái của
đạo Phật, có một điều mà
chúng ta luôn dễ dàng
nhận ra là các bậc
tổ sư của mỗi
tông phái đều không bao giờ tự
giới hạn việc
tu học trong
phạm vi giáo lý của
tông phái mình. Thay
vì vậy, các vị
thường tinh thông nhiều phần
giáo lý khác nhau, và luôn biết cách vận dụng
sáng tạo trong việc
giáo hóa đồ chúng, khiến cho ai cũng có thể
tiếp nhận và
tu tập được. Điều này cho thấy là đối với các vị, việc
phân chia thành các
tông phái khác nhau chẳng qua chỉ là một
phương tiện giúp cho người
tu tập có thể dễ dàng chọn lựa và tìm học những phần
giáo pháp khác nhau, sao cho
phù hợp nhất với
trình độ và
căn cơ của mình.
Trong khi
tìm hiểu về các
tông phái ở Trung Hoa,
chúng tôi cũng
cố gắng đề cập đôi nét về sự
truyền bá của các tông này sang
Nhật Bản. Điều này tuy không trực tiếp có
ảnh hưởng đến các dòng
tư tưởng Phật học tại
Việt Nam, nhưng sự
nhận thức vấn đề trong quan hệ
so sánh sẽ có thể giúp người đọc
nhận ra được những nét tương đồng và khác biệt, để có được một
nhận thức toàn diện hơn về mỗi một
tông phái. Riêng đối với một số
tông phái chỉ được hình thành riêng ở
Nhật Bản như một chi phái của các tông lớn hơn và không có hoặc có
liên hệ rất mờ nhạt với
Phật giáo Việt Nam,
chúng tôi tạm không đề cập đến trong sách này, chẳng hạn
như Pháp hoa tông phát sinh từ
Thiên Thai tông,
Chân tông phát sinh từ
Tịnh độ tông...
Nhìn lại
lịch sử hình thành các
tông phái,
chúng ta có thể
nhận thấy một điểm chung là: tuy cơ sở
giáo lý của mỗi
tông phái thường
xuất hiện rất sớm, nhưng một
tông phái chỉ thực sự ra đời và phát triển khi có đủ những
điều kiện thuận lợi nhất định cho việc
truyền giáo cũng như
phù hợp với các
điều kiện lịch sử của
xã hội vào thời điểm đó.
Lấy ví dụ như
Thành thật tông chẳng hạn, đã được
thành lập sớm hơn so với
Tam luận tông, mặc dù cả hai đều
dựa trên các bộ luận do ngài Cưu-ma-la-thập dịch sang Hán văn vào cùng một thời điểm. Hơn thế nữa, trong khi
Thành thật tông được
truyền bá và phát triển mạnh ngay từ đầu, thì
Tam luận tông phải đợi đến ngài
Cát Tạng (549 – 623) mới được phát triển mạnh.
Sở dĩ như thế là vì khi
giáo pháp buổi đầu truyền đến Trung Hoa,
niềm tin và sự nhận hiểu còn chưa
sâu rộng, người ta khó lòng
chấp nhận những
giáo pháp có phần
uyên áo và
sâu xa. Do đó mà
Thành thật tông có thể nói là
thích hợp để phát triển hơn so với
Tam luận tông. Ngược lại, sau một
thời gian phát triển đủ để tạo ra những
ảnh hưởng nhất định, khi
nhận thức của người học Phật đã được nâng lên đến một
trình độ cao hơn, thì
Thành thật tông lại bắt đầu
bộc lộ những điểm yếu của mình, trong khi
Tam luận tông lại
tỏ ra chặt chẽ hơn, sâu sắc hơn, và vì thế lại trở nên
thích hợp và phát triển mạnh mẽ hơn.
Vì thế, sự
thịnh suy hưng hoại của các
tông phái thật ra cũng chỉ là
tuân theo quy luật chung của tất cả các pháp ở
thế gian,
tùy duyên tan hợp. Nhưng
nhận xét về sự
thịnh suy hưng hoại đó chỉ đúng khi ta nhìn các
tông phái dưới góc độ là những
phương tiện được
sử dụng để
truyền bá giáo pháp trong từng giai đoạn khác nhau. Còn về
bản chất thật sự là
giáo pháp mà các
tông phái ấy truyền dạy thì lại chưa từng có sự
thịnh suy hưng hoại. Chẳng hạn, hầu hết các
tông phái cho đến ngày nay đều không còn phát triển như trong
quá khứ, nhưng
giáo pháp mà các
tông phái ấy
nghiên cứu và
tu tập thì
đến nay vẫn chưa từng thay đổi. Ngay đến như
Câu-xá tông là một tông đã mất đi từ lâu, nhưng bộ
Câu-xá luận thì mãi
đến nay vẫn là một bộ luận
giá trị được nhiều người tìm học. Cũng vậy, những
bộ kinh lớn như
Hoa nghiêm,
Pháp hoa... từ
xưa nay bao giờ cũng được những người học
Phật cung kính tìm học.
Người học Phật ngày nay có phần khác với
xưa kia, không mấy ai đặt nặng
vấn đề tông phái. Sự
phân chia lớn nhất vẫn
tồn tại cho đến ngày nay chỉ là giữa
Đại thừa và
Tiểu thừa.
Tuy nhiên, theo cách nhìn của những người thực sự nhận hiểu được
lời Phật dạy thì
Đại thừa hay
Tiểu thừa cũng đều là
chân lý giải thoát do
đức Phật truyền dạy, chỉ khác biệt nhau ở chỗ là
giáo pháp nào
thích hợp hơn với chính
bản thân mỗi người mà thôi. Người
tu tập theo
giáo pháp Tiểu thừa mà thực sự có được
đời sống an lạc thì vẫn là hơn xa so với những ai tự xưng là
Đại thừa mà không tự
giải thoát nổi cho chính
bản thân mình!
Cho nên, dù là
Đại thừa hay
Tiểu thừa, chỉ cần người tu chịu
tinh tấn hành trì theo đúng những
lời Phật dạy thì
chắc chắn sẽ
đạt được sự giải thoát bản thân khỏi những
khổ não trong cuộc sống. Và khi
bản thân ta đã được thoát khổ thì mới có thể nói đến việc cứu giúp hay
nâng đỡ cho những người quanh ta. Khi hiểu được điều này,
chúng ta sẽ thấy rằng sự
phân biệt giữa
Tiểu thừa hay
Đại thừa thật ra cũng không còn là điều quan trọng nữa.
Quả thật hoàn toàn đúng như
lời Phật dạy: “Tất cả những gì mà
đức Như Lai thuyết giảng đều có chung một vị
duy nhất: đó là vị
giải thoát.”