THIỀN LỤẬN
Quyển Trung
Việt Dịch: Tuệ Sỹ
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản PL. 2533 - 1989
01 Luận Một: TU TẬP CÔNG ÁN: MỘT PHƯƠNG TIỆN CHỨNG NGỘ.
Phần I
1 Một kinh nghiệm siêu việt tri kiến
2. ý nghĩa của chứng ngộ ở Thiền
3. Nhưng đặc điểm của Ngộ
4. Những hành tích tâm lý của tiền chứng ngộ đối với hệ thống công án - Một vài thí dụ thực tiễn
5. Nhưng yếu tố quyết định kinh nghiệm Thiền
6. Hành tích tâm lý và nội dung của kinh nghiệm Thiền
7. Thủ thuật của pháp môn Thiền học trong thời sơ khởi
8. Sự phát triển của hệ thống công án và ý nghĩa của nó
9. Những chỉ thị thực tiễn đối với tu tập công án
10. Các đặc tính tổng quát về tu tập công án
11. Truyện ký về những kinh nghiệm Thiền
12. Tầm quan trọng của vai trò nghi tình
Phần II
1 Tu tập công án và Niệm Phật
2. Niệm Phật (Nembutsu) và Xưng danh (Shômyô)
3. Giá trị của Xưng danh trong Tịnh độ tông
4. Tâm lý Xưng danh và những tương quan của nó đối với tụ tập công án
5. Chủ đích của thực hành Niệm Phật
6. Sự huyền diệu của Niệm Phật và Xưng danh
7. Kinh nghiệm và thuyết lý
8. Quan điểm của Bạch Ẩn về công án và Niệm Phật
02 Luận Hai: MẬT TRUYỀN CỦA BỒ ĐỀ ĐẠT MA HAY NỘI DUNG CỦA KINH NGHIỆM THIỀN.
03 Luận Ba: HAI KHOÁ BẢN THIỀN.
I. Bích nham tập
II. Vô môn quan
04 Luận Bốn: TÍNH KHAM NHẪN TRONG ĐỜI SỐNG ĐẠO PHẬT.
I
Giáo lý về nghiệp
Khái niệm về Ngã chấp
Lý thuyết về nghiệp trong Phật giáo Đại thừa
II
Sự phát triển của ý niệm tội lỗi trong đạo Phật
Một thực tại siêu bản ngã
Một giai đoạn mới của Phật giáo
III
Tâm lý thụ động
Chủ trương tuyệt đối thụ động và tự do chủ nghĩa
Mô tả cuộc sống kham nhẫn
Tính kham nhẫn và Phật giáo Tịnh độ tông
Tính kham nhẫn là chấp nhận sự sống như thế là như thế
Vô trí và kham nhẫn
Ngã Không và Pháp Không.
IV
Thụ động và Kham nhẫn hay khiêm tốn
Sự tích Thường Đề Bồ tát
V
Cầu nguyện và Niệm Phật
Tu tập tọa thiền và tính kham nhẫn
Nhiệm vụ của công án trong Thiền tông
Sự viên mãn của tính Kham nhẫn trong đời sống đạo Phật
Tánh Không và đời sống của Thiền
PHỤ LỤC.
Bảng đối chiếu phát âm về Nhân danh và Địa danh
Vi
tính: Diệu Tánh - Diệu An
Tu
Viện Quảng Đức
Khi Thiền luận Bộ Thượng được xuất bản năm 1927, tác giả có ý định viết luôn Bộ Trung ngay sau đó; nhưng bấy giờ tác giả thấy cần khảo cứu kinh Lăng già (Lankàvatàra Sùtra), một bản văn hệ trọng của Phật giáo Thiền tông. Kết quả này được ra mắt với tác phẩm Studies in Lankàvatara Sùtra (1930), và một bản dịch Anh ngữ của Kinh này từ Sanskrit (1932), và một bản Sách dẫn Phạm Hán Tạng của Kinh (1933).
Trong Thiền luận Bộ Trung này, điểm cốt yếu là trình bày về lối “Thực hành Công án”, vốn là điểm thủy chung chí yếu của pháp môn Thiền, nhất là được hành trì nơi phái Thiền Lâm Tế. Thủ thuật công án dẫy đầy những hiểm trở, nhưng sự phát triển của nó là lý đương nhiên; nếu không, Thiền đã chẳng tồn tại. Việc khảo cứu về thực hành công án của tôi trong Tập này chưa phải là đầy đủ lắm, nhưng tôi hy vọng mang đến cho độc giả một ý tưởng đại quan về tinh thể của nó. Tôi cũng mong rằng nhà tâm lý học và triết học sẽ coi khảo cứu này như những sự kiện của kinh nghiệm được khai triển riêng biệt nơi các tâm hồn Viễn Đông.
“Mật chỉ của Bồ Đề Đạt Ma”, “Hai tác phẩm Thiền” và “Tính kham nhẫn trong đời sống Phật tử” đã được in trong Eastern Buddhist. Nhưng mỗi bài đều có sửa chữa và thêm nhiều tài liệu mới.
Từ khi một số tài liệu có giá trị của Thiền bị vùi lấp ở Đôn hoàng trên một nghìn năm vừa được khám phá, chúng ta có ánh sáng vô cùng mới mẻ soi sáng cho lịch sử Phật giáo Thiền tông ở Trung Hoa, nhất là chung quanh thời đại Huệ Năng (637-713). Sau các Bộ Thiền luận, tôi có ý viết lại một bộ sử nói về Thiền tông Trung Hoa, với những tài liệu có thể thâu thập được. Bộ Hạ của Thiền luận đã sửa soạn xong, và tôi hy vọng chẳng bao lâu sẽ được ra mắt.
Trong sách này, tôi cho phụ bản những họa phẩm thủy mặc do các họa sĩ Nhật Bản và Trung Hoa. Đối với những người quen với các đối tượng nghệ thuật của phương Tây, một vài họa phẩm trong đây có vẻ như những điển hình quái dị của nghệ thuật phương Đông. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng Tâm có rất nhiều đường lối để đạt và diễn Thực tại. Ngay ở những độc giả phương Tây, đối với tập sách này, cũng có một số có thể vươn tới các bức tranh ấy bằng lề lối thẩm định nghệ thuật.
Tên họ người bạn tốt của tôi, Yakichi Ataka, mong được khắc đậm trong lòng độc giả, nếu thấy thích thú sách này, dù với mục đích nào; vì không có ông thì có lẽ sách không bao giờ thành hình để ra mắt công chúng.
Cũng vậy, tác giả nhờ cậy người bạn đường của mình, Beatrice Lane Suzuki, rất nhiều; bà đã đọc kỹ qua trọn bản thảo và sửa chữa ấn bản.
Trong thời đại duy lý cùng cực của khoa học và cơ khí, một chút triết lý nhân sinh của Đông phương há dễ không chứng tỏ một Phúc âm hóa giải và đồng thời mở ra một thế giới của những nghịch lý tâm linh?
Daisetz Taitaro Suzuki Kyoto, February 1933