CỬA KHÔNG CỬA (VÔ MÔN QUAN)
Dịch giả: Dương Đình Hỷ
CÂY BÁCH TRƯỚC SÂN
CỬ
:
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Thế
nào là ý Tổ sư từ Tây sang ?
-Cây
Bách trước sân.
Bình
:
Nếu
các ông hiểu được câu đáp của Triệu Châu thì trước
chẳng thấy có Thích Ca, sau chẳng thấy có Di Lặc.
Tụng :
言
無 展 事
Ngôn
vô triển sự
語
不 投 機
Ngữ
bất đầu cơ
承
言 者 喪
Thừa
ngôn giả táng
承
句 者 迷
Thừa
cú giả mê.
Lời chẳng triển sự
Tiếng chẳng hợp cơ
Chấp lời chết thảm
Kẹt cú mê mờ.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu 1 : ngôn ngữ văn tự không miêu tả được sự truyền tâm
ấn của Tổ Đạt Ma.
Câu
2 : cũng không khế hợp tâm cơ của mọi người.
Câu
3 : chấp vào ngôn ngữ sẽ đánh mất tuệ mạng.
Câu
4 : chấp vào văn cú sẽ bị mê hoặc.
-Bồ
Đề Đạt Ma mang Thiền đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ 6.
Do đó câu hỏi có nghĩa Thiền là gì ? Triệu Châu đã cho
một câu trả lời hay :
-Cây
Bách trước sân.
Thật
ra trong Triệu Châu Lục còn một đoạn nữa như sau :
-Xin
thầy đừng dùng cảnh mà thuyết minh.
-Tôi
không dùng cảnh để chỉ người.
-Ý
Tổ sư từ Tây sang là gì ?
-Cây
Bách trước sân.
Cây
Bách là một loại cây phổ thông, trồng rất nhiều ở Triệu
Châu (Hà Bắc). Cây to lớn, cho bóng mát vào mùa hạ. Các chùa
đều thích trồng loại cây này. Ông tăng cho là bị cảnh
chuyển, nhưng Triệu Châu đã phủ nhận. Ông tăng hỏi “Ý
Tổ sư từ Tây sang là gì ?” là hỏi cốt tủy của Phật
giáo là gì ? hay Đạo là gì ? Triệu Châu thấy cây Bách ngay
trước mắt nên nói là cây Bách. Giả sử ông thấy chim bay
ngang trời thì ông sẽ nói chim bay trên trời. Quả thực là
ông đề cập đến cây Bách, nhưng ông chỉ dùng nó để chỉ
về Đạo. Ông tăng liền chấp vào cây Bách nên đã không
thể tiến lên được Đạo ở cây Bách, Đạo cũng ở mọi
vật.
(John
C.H.Wu)
-Tại
sao hỏi “Ý Tây sang” mà lại đáp “cây Bách trước sân”
? Câu đáp là toàn bộ Pháp, cưa không được, cắn không đứt.
Có thể giải thích cho rõ ràng không ? Có thể. Cổ nhân không
chịu giải thích vì cái đó đã hiện thành. Nếu biết đem
Phật pháp nhân cách hóa thì không cần phải giải thích, đã
không nghi thì không tái nghi. Có một câu chuyện cũ có thể
giải thích công án “Cây Bách trước sân”. Đời Tống có
một lần một vị quan Đề Hình đến hỏi Phật pháp với
Ngũ tổ Diễn. Tổ hỏi :
-Đề
Hình có đọc qua 2 câu thơ Tiểu Diễm không ?
-Là
2 câu nào ?
-Là
2 câu này :
Cô nàng gọi mãi những vô ích
Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi.
Thơ
Tiểu Diễm là một bài thơ tình, kể chuyện có một
cô tiểu thơ dắt một con a hoàn đi xem hội. Tiểu thơ liếc
thấy người yêu ở gần đó bèn lớn tiếng gọi :
-Tiểu
Ngọc ! Tiểu Ngọc !
-Tiểu
thơ, có chuyện gì ?
Tiểu
thơ không đáp. Có chuyện gì vậy ? Chả có chuyện gì cả,
chỉ là tiểu thơ hy vọng tình lang nghe được tiếng và biết
nàng đang ở đó. Chỉ là vậy thôi. Nếu còn chưa rõ thì
xin kể thêm một chuyện nữa. Có một vị thiền sư mỗi lần
giảng pháp xong, sắp xuống tòa giảng đều hỏi :
-Mọi
người hiểu không ?
Mọi
người đều không trả lời, chỉ rằng không hiểu . Thiền
sư gõ xuống bàn cạch một tiếng. Tiếng cạch đó và cây
Bách trước sân hoàn toàn giống nhau, chỉ là một loại âm
thanh mà thôi.
(Canh
Vân)
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Ý
Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Cây
Bách trước sân.
Nhiều
ông tăng hỏi câu này nhiều lần. Triệu Châu đều lập lại
câu trả lời. Một hôm một ông tăng hỏi :
-Cây
Bách có Phật tánh không ?
-Có.
-Vậy
cây Bách lúc nào thành Phật ?
-Đợi
hư không rơi xuống đất sẽ thành Phật.
-Hư
không lúc nào rơi xuống đất ?
-Lúc
cây Bách thành Phật.
Câu
đáp của Triệu Châu ‘Đợi hư không rơi xuống đất sẽ
thành Phật “ là khẳng định cây Bách, cũng là khẳng định
tự kỷ. Vấn đề này không cần truy vấn thêm vì chỉ tạo
tranh luận không khế hợp với Đạo. Dưới con mắt thiền
giả một cái cây, một cọng cỏ đều khẳng định sự tồn
tại của nó. Thái độ trọng thiên nhiên của người xưa
thực người nay khó theo kịp. Thiền giả coi chủng chủng
hiện tượng của khí thế giới là một loại thần tánh tự
mình khẳng định. Tuy chúng là vật vô tình nhưng có thể
thuyết pháp cho hữu tình nghe, tương đối hỗ tương khẳng
định sự tồn tại của nhau. Do dó, hiển hiện ra tinh thần
đại từ, đại bi không còn khởi tâm phân biệt vô tình và
hữu tình.
(Trịnh
Thạch Nham)
Ân
Nguyên có lần đến Hoa Viên Diệu Tâm Tự ở kinh đô, hỏi
:
-Khai
sơn tổ sư của quý tự có để lại ngữ lục gì không ?
-Không
có ngữ lục, nhưng có để lại một câu “Chuyện cây Bách
có tặc cơ”.
Ân
Nguyên kinh ngạc, kính phục thiền học của Quan Sơn, hướng
về tháp Quan Sơn vái lạy.
Chữ
tặc trong tặc cơ, chỉ người mạnh cướp đi vật của người
khác, ở đây chỉ thiền giả lấy đi vọng tưởng, phiền
não, khiến thiền sinh thấy được khuôn mặt xưa nay.
(Hùng
Thuật Long)
Tắc Ba Mươi Tám
CON TRÂU QUA CỬA
Cử
:
Ngũ
tổ Diễn nói :
-Tỷ
như con trâu qua cửa, đầu, sừng, 4 chân đều qua, tại sao
cái đuôi lại không qua được.
Bình
:
Nếu
các ông mở một con mắt mà hiểu được chỗ này, hạ được
một chuyển ngữ thì có thể trên báo tứ ân, dưới độ
3 cõi. Nếu chưa thì phải để ý đến cái đuôi này.
Tụng :
過
去 墮 坑 塹
Quá
khứ đọa khanh tiệm
回
來 卻 被 壞
Hồi
lai khước bị hoại
者
些 尾 巴 子
Giả
ta vĩ ba tử
直
是 甚 奇 怪
Trực
thị thậm kỳ quái.
Quá bước lọt hố
Lùi lại hại thân
Cái đuôi trâu đó
Có thấy lạ chăng ?
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 : nếu rời khỏi định, các ông sẽ rơi vào vọng tưởng.
Câu
2 : trở lại thế giới ảo vọng, các ông sẽ lạc lối.
Câu
3 và 4 : tại sao các ông không trực tiếp nắm lấy nó ?
-Câu
2 của bài kệ nhóm biên tập của Phật Quang Sơn dịch và
giải thích là : khi quay đầu lại thì cửa song đã bị hủy
hoại : thực ra cửa song không có thực, ám chỉ người tham
đừng chấp vào vấn thoại.
-Tứ
Ân : kinh Tâm địa quán chép tứ ân là : ơn cha mẹ, ơn chúng
sanh, ơn vua (ngày nay là ơn đất nước), ơn thí chủ (có chỗ
chép là ơn Tam Bảo)
-Ba
cõi : cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.
-Con
trâu tượng trưng cho nhục thể. Đầu, sừng và 4 chân đều
qua lọt là tượng trưng cho thân, khẩu, ý bị ảnh hưởng
của 5 giác quan. Cái đuôi tượng trưng cho Phật tánh không
bị ảnh hưởng bởi mê vọng.
(Sekida)
Tắc Ba Mươi Chín
CÂU NÓI SAI CỦA VÂN MÔN
Cử
:
Một
ông tăng đọc :
-Quang
minh tịch chiếu biến hà sa.
Vân
Môn vội hỏi :
-Đó
chẳng phải là lời tú tài Trương Chuyết sao ?
-Dạ
phải .
-Nói
sai rồi !
Về
sau Tử Tâm nhắc lại chuyện trên, hỏi :
-Thử
hỏi ông tăng ấy nói sai ở chỗ nào ?
Bình
:
Ông
tăng nói sai ở chỗ nào ? Nếu các ông hiểu được chỗ này
thì hiểu được dụng ý cô nguy của Vân Môn, các ông có
thể làm thầy của trời người, còn chưa thì tự cứu mình
cũng chẳng xong.
Tụng :
急
流 垂 釣
Cấp
lưu thùy điếu
貪
餌 者 著
Tham
nhĩ giả trước
口
縫 才 開
Khẩu
phùng tài khai
性
命 喪 卻
Tính
mạng tang khước.
Thả câu nước xiết
Mắc họa tham mồi
Mồm vừa mới hé
Tánh mạng đi đời.
Chú
Thích :
-Cô
nguy : chỉ thủ đoạn tiếp cơ khiến người ta không dễ đề
phòng.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : dù thả câu ở chỗ nước chẩy xiết, nhưng cá tham
mồi vẫn bị mắc câu.
Câu
3 và 4 : khi cá mở mồm ra để đớp mồi thì đã mất mạng.
Ở đây ám chỉ ông tăng mở miệng để trả lời là đánh
mất đi tuệ mạng Phật tánh vì ông ta chỉ nhớ đến lời
của tú tài Trương Chuyết mà quên đi lời của chính mình.
-Công
án này chính là chuyện của các ông. Một cần câu được
thả trước mặt các ông, nếu các ông tham lam các ông sẽ
bị bắt giữ. Các ông không phải chỉ bị rù quyến bởi
ngoại vật mà còn bởi dục vọng của chính các ông. Tự
do thực sự chỉ có khi nào tâm các ông thoát khỏi dục vọng,
ngoài các ông ra thì chả có ai để đổ tội cả.
(Sekida)
Tắc Bốn Mươi
ĐÁ ĐỔ TỊNH BÌNH
Cử
:
Quy
Sơn mới đầu ở nơi Bách trượng, giữ chức Điển Tọa.
Bách Trượng sắp chọn người trụ trì núi Đại Quy bèn mời
sư và Thủ Tọa đối đáp trước đại chúng, ai trúng cách
sẽ được đi. Bách Trượng để tịnh bình trên đất, hỏi
:
-Không
được gọi là tịnh bình, các ông gọi là gì ?
Thủ
Tọa bèn đáp :
-Không
thể gọi là khúc gỗ.
Bách
Trượng bèn hỏi Sơn, Sơn đạp đổ tịnh bình, đi ra.
Bách
Trượng cười :
-Thủ
Tọa thua mất quả núi rồi.
Do
đó, phái Sơn đi khai sơn.
Bình
:
Quy
Sơn đã một phen dũng mãnh cũng không nhẩy ra khỏi vòng của
Bách Trượng. Kiểm điểm lại, ông lựa nặng hơn nhẹ. Vì
sao vậy ? Thoát được bưng mâm thì lại phải đeo gông sắt.
Tụng :
颺
下 笊 籬 並 木 杓
Dương
hạ trảo ly tịnh mộc thược
當
陽 一 突 絕 周 遮
Đương
dương nhất đột tuyệt châu già
百
丈 重 關 攔 不 住
Bách
Trượng trùng quan lan bất trụ
腳
尖 趯 出 佛 如 厤
Cước
tiêm dược xuất Phật như ma.
Ném bỏ rổ tre và môi gỗ
Đột phá phân minh không người ngăn
Bách Trượng trùng quan chẳng giữ được
Từ chân dõng xuất Phật vô vàn.
Chú
Thích :
Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : Quy Sơn ném bỏ những dụng dụ trong nhà bếp như
rổ tre, môi gỗ.
Câu
3 : không ai ngăn cản được Quy Sơn dù là Bách Trương.
Câu
4 : Từ dưới chân núi sau này sẽ có nhiều người theo học.
-Thủ
Tọa còn chấp vào bình, nên câu đáp của ông còn dính dáng
vào nó, trong khi Quy Sơn đã vượt lên trên câu hỏi. Ở bản
thể giới làm gì có danh tướng nên gọi là bình hay không
bình cũng đều sai.
(Thánh
Tham)
-Thủ
Tọa còn chấp vào tịnh bình và cố nói về nó, trong khi Quy
Sơn đã vượt lên câu hỏi. Cố trả lời câu hỏi một cách
trí thức là lối tiếp cận hoàn toàn sai lầm. Các câu hỏi
của đời sống phải được trả lời bằng cá tánh của
người đó chứ không phải bằng những gì ông ta học được.
(Kubose)
-Bách
Trượng lấy tịnh bình làm đề mục để tuyển chọn người
trụ trì tại núi Đại Quy. Ở đây tịnh bình tượng trưng
cho tự tánh. Với nguyên tắc không xúc phạm, không trái ngược.
Nếu nói ra được một câu cho thấy kiến địa của mình
thì sẽ được Bách Trượng ấn khả. Câu trả lời của Thủ
Tọa :
-Không
thể gọi là khúc gỗ.
Để
trả lời câu hỏi của Bách Trượng : “Không được gọi
là tịnh bình “ không có đường ra. Quy Sơn bước ra đạp
đổ tịnh bình là siêu việt lưỡng biên (vượt lên gọi
nó là tịnh bình, hay không gọi là tịnh bình)
-Thương
Phương Ích : Quy Sơn giống như một dõng binh vượt qua những
trở ngại trước doanh trại, một mình một đao đột nhập
tướng soái và đoạt lấy kim ấn, đắc thắng trở về.
-Cổ
Mai : biểu hiện của Quy Sơn như trên ngựa đoạt thương trong
cuộc thi, tỏ hết bản lãnh, như 1 mũi tên đoạt giang san,
từ đó pháp duyên hưng thạnh.
(Dương
Tân Anh)
Tắc Bốn Mươi Mốt
ĐẠT MA AN TÂM
Cử
:
Đạt
Ma diện bích, nhị tổ đứng dưới trời tuyết, chặt tay
thưa :
-Tâm
đệ tử chưa an, xin thầy an cho.
-Đem
tâm ra đây, tôi sẽ an cho ông.
-Con
không tìm được tâm.
-Tôi
đã an tâm cho ông rồi đó.
Bình
:
Lão
Hồ móm răng vượt mười ngàn hải lý mà đến, có thể bảo
là không có gió mà dậy sóng. Sau cùng tiếp được một người
không đủ sáu căn. Than ôi Tạ tam lang không đọc nổi chữ
tứ.
Tụng :
西
來 直 指
Tây
lai trực chỉ
事
因 囑 起
Sự
nhân chúc khởi
鐃
聒 叢 林
Nạo
quát tùng lâm
原
來 是 你
Nguyên
lai thị nễ.
Tây sang chỉ thẳng
Bịa đặt tâm tông
Tùng lâm náo loạn
Chính là tại ông.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : ý tổ sư từ Tây sang là chỉ thẳng tâm người kiến
tánh thành Phật dẫn từ điển Phật ở núi Linh Thứu phó
chúc cho Ca Diếp.
Câu
3 và 4 : làm loạn thiền lâm là do ở nơi ông.
-Huệ
Khả không tìm thấy tâm ở đâu nên mới có chỗ vào, cuối
cùng hoát nhiên đại ngộ. Phiền não của chúng ta vốn là
không. Tội nghiệp vốn cũng không có tự tánh. Thức tâm tịch
diệt rồi thì hết vọng tưởng, động niệm tức là chánh
giác, tức là Phật đạo. Nếu có thể giữ cho tâm không loạn
thì Phật tánh sẽ hiển hiện .
(Tinh
Vân)
-Đạt
Ma là tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ tới Trung Hoa và
trở thành sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa. Ông ngồi diện
bích 9 năm. Nhị tổ Huệ Khả đến hỏi tinh túy của Thiền
tông hay con đường Đạo. Huệ Khả là một học giả, tâm
chẳng an. Ông biết tất cả về thế giới nhưng chẳng biết
gì về chính ông. Bổ Đề Đạt Ma không thèm để ý đến
Huệ Khả mặc dù Huệ Khả đứng suốt ngày đêm trong trời
Đông tuyết giá. Tuyệt vọng Huệ Khả chặt đứt cánh tay
cúng dường cho Đạt Ma. Thấy Huệ Khả thành tâm, cuối cùng
Đạt Ma mới ngó tới Huệ Khả. Huệ Khả xin an tâm. Đạt
Ma bằng lòng nếu Huệ Khả có thể đưa tâm ra. Nhưng Huệ
Khả không thể tìm thấy tâm. Những phiền não đều do chúng
ta tự tạo. Hãy nhìn vào trong, thực không có phiền não. Tâm
đã được an rồi.
(Kubose)
Tắc Bốn Mươi Hai
THIẾU NỮ XUẤT ĐỊNH
Cử
:
Văn
Thù đến nơi chư Phật tụ họp để nghe Thế Tôn giảng pháp.
Đến nơi thì chư Phật đã trở về quốc độ của các Ngài
rồi, chỉ còn một thiếu nữ, ngồi gần bên Phật tiến nhập
vào cảnh giới tam muội. Văn Thù bạch Phật :
-Thiếu
nữ này là người thế nào mà có thể ngồi gần Phật tọa
mà con thì lại không làm được ?
-Ông
hãy đưa cô ta ra khỏi tam muội mà hỏi.
Văn
Thù nhiễu quanh thiếu nữ 3 vòng, khẩy tay một cái, nâng cô
lên trời Phạm Thiên, dùng hết thần lực mà cũng không lay
tỉnh được cô.
-Giả
như có 10 ngàn Văn Thù cũng không làm cho thiếu nữ này xuất
định được. Ở dưới đây quá 12 ức hà sa quốc thổ có
Võng Minh bồ tát có thể làm cho cô ta xuất định.
Ngay
đó Võng Minh đại sĩ từ dưới đất vọt lên lễ Phật,
Phật bảo Võng Minh đến bên thiếu nữ búng tay, cô gái liền
ra khỏi định.
Bình
:
Ông
già Thích Ca dựng lên vở tạp kịch này không phải là chuyện
nhỏ. Thử hỏi các ông Văn Thù là thầy 7 vị Phật mà không
làm cho cô gái xuất định được, trong khi Võng Minh là bồ
tát sơ địa lại làm được. Nếu hiểu được chỗ này thì
nghiệp thức mang mang ma già đại định.
Tụng :
出
得 出 不 得
Xuất
đắc xuất bất đắc
渠
儂 得 自 由
Cừ
nùng đắc tự do
神
頭 並 鬼 面
Thần
đầu tịnh quỷ diện
敗
闕 當 風 流
Bại
khuyết đương phong lưu.
Lay được hay không được
Hai người vẫn tự do
Mang đầu thần, mặt quỷ
Cũng chỉ là diễn trò.
Chú
Thích :
-Đại
sĩ : chữ cổ để dịch từ Bồ tát
-Sơ
địa Bồ Tát ; Bồ Tát có 10 địa, đây là địa thứ nhất,
lãnh ngộ ngã pháp đều không.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : dù ông có lay tỉnh được thiếu nữ hay không, ông
và cô ấy đều tự do, tự tại.
Câu
3 và 4 : Văn Thù và Võng Minh đều hý lộng quỷ thần, nhưng
thực tế đã bại lộ trò diễn kịch.
-Thiếu
nữ chỉ tâm. Phật tọa chỉ tâm điểm của Định. Văn Thù
còn chấp tướng nam nữ. Theo ý kiến lúc đó người nữ có
5 chướng thành ra không thành Phật được. Đó là không kiên
cố, không thanh tịnh, không dũng cảm, không từ bi, không trí
huệ. Phật bảo Văn Thù gọi thiếu nữ xuất định mà hỏi
là bảo tự mình phản chiếu. Văn Thù đi quanh thiếu nữ 3
vòng là tỏ ý đã thông đạt tam thế, biến tam độc thành
tam đức, búng tay ám chỉ bỏ uế trược, giữ thanh tịnh.
Nhưng muốn giác người thì trước hết mình phải tự giác
đã. 12 ức chỉ 12 nhân duyên. Võng Minh là phần sâu thẳm
của tâm, không ai có thể làm thiếu nữ ra khỏi đại định
được, trừ phi là chính cô ta.
(Thánh
Tham)
-Văn
Thù tượng trưng cho Trí Huệ, tại sao lại không vào được
đại định như thiếu nữ ? Và tại sao lại không thể lay
tỉnh cô để hỏi ? Mục đích của thiền là vuợt qua mọi
nhị nguyên để trở thành vô ngã. Vô ngã giống như một
cái chai đổ đầy nước, đóng nút chai lại dù tung lên hay
hạ xuống, lắc qua lắc lại cũng không có một tiếng động
nào. Nhưng nếu chai chỉ đổ đầy một nửa thì khi lắc sẽ
có tiếng nước. Dĩ nhiên khi chai không thì cũng không có tiếng,
có nước. Thiền định nếu chỉ ngồi yên thì giống như
cái chai không, không chứa nước. Thiền định chân chánh giống
như cái chai có đầy nước. Thiếu nữ trong công án đã đạt
tới vô ngã. Ngay cả Văn Thù cũng không lay tỉnh cô được,
tại sao Võng Minh là sơ địa bồ tát lại làm được ? Ngay
cả bậc đại trí thức khi chấp vào Trí Huệ sẽ trở thành
nạn nhân của Trí Huệ. Ngay cả thiện hạnh nếu chúng ta
chấp vào nó thì nó sẽ trở thành ác hạnh. Vô chấp là con
đường Đạo vậy.
(Kubose)
Trời
Phạm Thiên : cảnh trời không còn dục vọng.
Na
Gia có 3 nghĩa : 1.Rồng, 2. Voi, 3.Bất lai. Chỉ Phật hoặc A
La Hán, có lực lượng rất lớn như rồng trong nước, như
voi trên đất. Câu nói của Vô Môn có nghĩa là nếu các ông
hiểu được tại sao Bồ Tát Võng Minh đánh thức được cô
gái mà Văn Thù lại không làm được thì các ông có thể
vào đại định dù đang sống trong thế giới ảo vọng.
Tắc Bốn Mươi Ba
TRÚC BỀ CỦA THỦ SƠN
Cử
:
Hòa
thượng Thủ Sơn giơ trúc bề lên bảo đại chúng :
-Các
ông nếu gọi nó là trúc bề thì là xúc phạm, không gọi
nó là trúc bề thì là trái ngược. Thử hỏi các ông gọi
là gì ?
Bình
:
Gọi
là trúc bề thì xúc phạm, không gọi là trúc bề thì trái
ngược. Không thể dùng lời, không thể không lời. Nói mau
! Nói mau !
Tụng :
拈
起 竹 篦
Niêm
khởi trúc bề
行
殺 活 令
Hành
sát hoạt lịnh
背
觸 交 馳
Bối
xúc giao trì
佛
祖 乞 命
Phật
tổ khất mạng.
Giơ lên gậy trúc
Là lệnh giết tha
Vượt lên bối xúc
Phật tổ xin tha.
Chú
Thích :
-Thủ
Sơn : Thủ Sơn Tĩnh Niệm (926-993), học trò Phong Huyệt, sinh
dưới trào Tống, người Hà Nam, Nhữ Châu.
-Trúc
bề : gậy trúc dài chừng 1 thước, 5 tấc.
-Xúc
là xúc phạm, sản sinh xúc giác. Có xúc giác là có người
xúc (chủ thể) và vật để xúc (đối tượng) là có đối
lập trái với chủ trương của Thiền.
Bối
là bối vi, là ngược lại, thí dụ trúc bề không gọi là
trúc bề thì mới là trúc bề. Lý này hợp với Thiền nhưng
phù hợp với thực tế.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : giơ gậy trúc lên là dậy các thiền sinh phải từ
bỏ mọi chấp trước.
Câu
3 và 4 : vượt lên được xúc, bối là giác ngộ.
-Nếu
thiền sinh gọi nó là gậy trúc, ông sẽ chấp vào tên gọi,
nếu ông không gọi nó là gậy trúc ông đã làm ngơ hiện
thực. Ông không thể khẳng định hay phủ định. Chỉ khi
nào ông vào thẳng tâm điểm của sự nghịch lý thì ông mới
giác ngộ. Thủ Sơn hỏi :
-Là
cái gì đây ?
-Chỉ
là vậy !
Đừng
nói về nó mà hãy chứng nghiệm.
(Kubose)
-Gậy
trúc chỉ tự tánh. Thủ Sơn giơ gậy trúc lên là mượn vật
nói pháp. Cử động này cũng giống như Thế Tôn giơ cành
hoa lên là cùng một thiền phong, nhưng khác ở chỗ là Thế
Tôn không dùng lời. Câu nói của Thủ Sơn là để khảo nghiệm
người học hoặc ấn khả (tha) hoặc phủ định (giết). Không
xúc phạm cũng không trái ngược chỉ người kiến tánh mới
làm được.
-Chiếu
Đường Nhất nói giơ gậy trúc lên là để khảo nghiệm người
học, là thiền sư biểu hiện chuyện giết, tha. Trong cảnh
giới tuyệt đối không thể dùng lời, giống như núi đồng,
vách sắt không thể dùng chùy nện. Nếu bị đánh một gậy
vào lưng có thể nói ra một câu về tự tánh mà không trái
với pháp lệnh. Xúc phạm hay trái ngược thì tự tánh sẽ
chiếu rọi khắp sơn hà đại địa.
-Tiếu
Ông Kham nói : Thủ Sơn giơ gậy trúc lên thử học nhân nói
xúc phạm, nói trái ngược làm cho đầu óc của người học
bị hồ đồ, bị dính cứng vào câu nói, chỉ người ngộ
tự tánh là không bị thôi.
(Dương
Tân Anh)
Tắc Bốn Mươi Bốn
CÂY GẬY CỦA BA TIÊU
Cử
:
Hòa
thượng Ba Tiêu bảo đại chúng :
-Nếu
các ông có gậy, tôi sẽ cho các ông gậy, nếu các ông không
có gậy, tôi sẽ đoạt gậy của các ông.
Bình
:
Gậy
giúp đỡ khi cầu gẫy để đi qua lạch, là bạn khi đi trên
đường làng không trăng. Nếu gọi là cây gậy thì các ông
sẽ vào địa ngục nhanh như tên bắn.
Tụng :
諸
方 深 與 淺
Chư
phương thâm dữ thiển
都
在 掌 握 中
Đô
tại chưởng ác trung
橕
天 並 拄 地
Sanh
thiên tịnh trụ địa
隋
處 振 宗 風
Tùy
xứ chấn tông phong.
Bốn phương sâu và cạn
Đều tại bàn tay thôi
Đầu đội trời đạp đất
Tông phong vang khắp nơi.
Chú
Thích :
-Ba
Tiêu : Ba Tiêu Huệ Thanh thiền sư, học trò Nam Tháp Dõng thiền
sư, người Đại Hàn.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : tâm lý của thiền giả nông hay sâu tôi đều rõ.
Câu
3 và 4 : vì có bản lãnh nên có thể chấn hưng Thiền tông.
-Cây
gậy chỉ sự giác ngộ, nếu các ông đã ngộ tôi sẽ giúp
các ông bảo nhiệm ngộ cảnh và tu đến toàn giác. Khi đã
được toàn giác (không gậy) thì phải quên sự toàn giác
đó đi (tôi sẽ đoạt đi) không để lại vết tích gì.
(Sekida)
-Các
ông tăng dùng gậy là xuất xứ từ Ấn Độ. Khi một ông
tăng ra ngoài, ông dùng gậy để xua đuổi rắn rết, các thú
vật, để lượng định mực nước nông sâu khi đi ngang qua
suối. Đừng bị rối trí bởi lời nói, phải vượt lên trên
không và có. Công án này cố chỉ dẫn thiền sinh tới chỗ
mà họ có thể nắm lấy cây gậy đích thực.
(Kubose)
-Cây
gậy tượng trưng cho tự tánh. Ba Tiêu ám chỉ tự tánh khác
với các thiền sư khác. Câu nói của ông không thể dùng ý
để hiểu mà phải dùng thiền pháp xuất thế. Khi các ông
kiến tánh thì tự tánh có thể sinh ra vạn pháp, do đó các
ông là giầu có. Nếu chưa kiến tánh thì như gã cùng tử
trong áo có châu báu mà không biết. Kiến tánh thì có tất
cả, không kiến tánh thì chả có gì cả.
Khi
các ông kiến tánh (không có gậy), Ba Tiêu không thể cho các
ông thêm cái gì. Khi các ông chưa kiến tánh (có gậy), Ba Tiêu
cũng không thể đoạt đi cái gì của các ông.
-Đại
ý bài kệ : thiền giả đã kiến tánh rồi, tự biết mình
biết người, đối với người học các nơi sâu nông
đều biết rõ, sát hoạt tự tại. Kiến tánh là mục đích
của thiền giả, có thể tự đương đầu, nâng cao tông phong
.
-Thiên
Đồng Giác nói : Có cũng tốt, không cũng tốt, đều do người
học tự mình làm chủ, có liên quan gì đến Ba Tiêu ? Nghe
câu nói của Ba Tiêu các ông hãy tham chính các ông có gậy
hay không (Kiến tánh)
(Dương
Tân Anh)
Tắc Bốn Mươi Lăm
HẮN LÀ AI ?
Cử
:
Đông
Sơn Diễn bảo :
-Thích
Ca, Di Lặc còn là nô tài của hắn. Thử hỏi hắn là ai ?
Bình
:
Nếu
các ông thấy được hắn thì như gập bố ở ngã tư đường.
Chẳng cần phải hỏi ai là phải hay không phải bố mình.
Tụng :
他
弓 莫 挽
Tha
cung mạc vãn
他
馬 莫 騎
Tha
mã mạc kỵ
他
非 莫 辯
Tha
phi mạc biện
他
事 莫 知
Tha
sự mạc tri.
Chớ dương cung người
Chớ cưỡi ngựa người
Người sai mặc kệ
Người đúng kệ người.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Từ
câu 1 đến câu 4 : toàn là chuyện của người, mặc kệ họ
hãy lo chuyện của mình, tự chứng tự ngộ.
-Hắn
trong công án này không phải là hắn tương đối như trong
hắn và tôi, mà là hắn tuyệt đối. Hắn là thầy của Đức
Phật lịch sử Cồ Đàm và Phật Di Lặc tương lai. Hắn là
thầy của chư Phật, là tinh túy của mọi đời sống. Hắn
là Đức Phật lý tưởng A Di Đà. Tìm hắn là tìm nguồn gốc
của các ông. Giác ngộ nghĩa là phát hiện ra hắn. Khi một
người phát hiện hắn ở nơi mình thì sẽ thấy hắn ở mọi
chúng sinh.
(Kubose)
-Tự
tánh nếu rơi vào trí giải liền biến thành đối tượng
của thức tâm. Đặc điểm của Thiền tông là chẳng lập
văn tự, ngoài giáo truyền riêng. Do đó, nếu dùng trí giải
thì không phù hợp với chẳng lập văn tự. Hướng cư sĩ
đã từng nói :
-Lấy
không tên làm tên do đó sanh thị phi, lấy không lý làm lý
do đó khởi tranh luận.
(Bồ
Đề Học Xã)
-Thiền
tông chỉ luận kiến tánh. Tự tánh là nguyên nhân thứ nhất
từ đó sanh ra vạn pháp. Chư Phật quá khứ, vị lai đều
do kiến tánh mà thành Phật. Phật không phải là nguyên nhân
thứ nhất, do đó Ngũ tổ Diễn mới nói : Thích Ca, Di Lặc
đều là nô tài của hắn. Nô tài là không thể làm chủ,
có thể làm chủ là tự tánh.
-Thử
hỏi hắn là ai ?
Đây
là câu hỏi của Pháp Diễn dùng để khảo nghiệm người
học. Người học nếu biết hắn là ai liền biểu thị biết
có tự tánh nhưng không thể thẳng thắn trả lời :
-Hắn
là tự tánh.
Bởi
vì tự tánh vốn vô danh. Nếu lập danh thì đã có năng (chủ
thể), sở (đối tượng) đối đãi, không phải là tự tánh
tuyệt đối nữa. Lúc trước Thần Hội nói :
-Là
gốc của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội.
Liền
bị Lục tổ trách mắng :
-Tương
lai ông chỉ là tông đồ trí giải.
Thiền
tông chỉ trọng hành giải, không trọng trí giải.
-Đại
ý bài kệ : hãy để ý nhìn dưới chân ông, đừng quan tâm
đến chuyện thiên hạ, toàn tâm toàn ý lo việc kiến tánh.
-Bình
Dương Mân nói : Đông Sơn Diễn lấy hoa quả của thường
trú mà dùng riêng. Thiên Đồng thì không vậy. Đối với câu
hỏi Thích Ca, Di Lặc còn là nô tài của hắn, hắn là ai ?
liền lớn tiếng hô :
-Đại
chúng, hôm nay là ngày tiểu cận 29 mời đại chúng đi uống
trà.
Hoa
quả của Thường trú là đồ ăn chung của đại chúng tỷ
dụ tự tánh ai ai cũng có, ai mà chả biết nhưng Pháp Diễn
nói như là chỉ có mình biết, còn Thiên Đồng thì không vậy,
chí công vô tư mời mọi người uống trà ăn trái, tỷ dụ
bảo cho mọi người biết họ đều có tự tánh .
(Duong
Tân Anh)
Tắc Bốn Mươi Sáu
ĐẦU GẬY BƯỚC THÊM
Cử
:
Hòa
thượng Thạch Sương bảo :
-Leo
đến đầu gậy 100 thước, làm sao leo thêm ?
Lại
có cổ đức nói :
百
尺 竿 頭 坐 底 人
Bách
xích can đầu tọa để nhân
雖
然 得 入 未 為 真
Tuy
nhiên đắc nhập vị vi chân
百
尺 竿 頭 須 進 步
Bách
xích can đầu tu tiến bộ
十
方 世 界 現 全 身
Thập
phương thế giới hiện toàn thân.
Gậy đầu nghìn thước chẳng lung lay
Dù đã lên đây, chưa thật đây
Chót gậy nghìn tầm còn bước nữa
Mười phương thế giới thiệt thân này.
(Tuệ
Sĩ dịch)
Bình
:
Nếu
ông có thể bước thêm bước nữa, ông có thể chuyển thân
thì ngại gì chỗ nào chả làm thầy được ? Tuy là thế,
thử hỏi đã lên đến đầu gậy rồi làm sao leo lên nữa,
hả ?
Tụng :
瞎
卻 頂 門 眼
Hạt
khước đỉnh môn nhãn
錯
認 定 盤 星
Thác
nhận định bàn tinh
拚
身 能 捨 命
Phiên
thân năng xả mạng
一
肓 引 眾 肓
Nhất
manh dẫn chúng manh.
Mắt trên trán bị tật
Nên nhìn lầm định tinh
Liều thân bỏ tính mạng
Một mù dẫn chúng manh.
Chú
Thích :
Cổ
đức ở đây là chỉ Trường Sa Cảnh Sầm. Bất cứ người
nào cố gắng cũng có thể leo tới chót sào trăm trượng,
nhưng leo xa hơn thì theo lý không thể nào làm được. Thiền
sinh phải làm sao ? Thiền sinh có thể hiểu ngộ là gì, nhưng
biết ngộ là gì không phải là Thiền. Thiền là đời sống
và đời sống thì vượt lên lý luận, nếu thiền sinh không
để cả đời vào đó thì sẽ không bao giờ đạt được.
Dùng lửa thử vàng, muốn bắt cọp con thì phải vào hang cọp.
Leo lên chót gậy là giác ngộ, chưa đủ phải đi xa hơn (mười
phương), phải sống giác ngộ. Ta bà là Niết Bàn, Niết Bàn
là Ta Bà.
(Kubose)
Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : người chưa có thiền nhãn sẽ có những nhận thức
sai lầm.
Câu
3 và 4 : dù có tinh thần xả thân táng mạng, cũng chỉ làm
khổ người sau ví như một người mù dẫn đường cho một
bọn mù.
Thạch Sương Sở Viên (986-1039) người Kim Châu Thanh Tương (Hiệp Tây, An Khang) là đệ tử của Phần Dương Thiện Chiếu. Ông họ Lý, 22 tuổi xuất gia, theo Thiện Chiếu học tập 7 năm. Về sau trú ở Đàm Châu (Hồ Nam, Trường Sa), đệ tử nổi danh có Hoàng Long và Dương Kỳ.
Tắc Bốn Mươi Bẩy
ĐÂU SUẤT BA CỬA
Cử
:
Hòa
thượng Đâu Suất Duyệt dựng 3 cửa để chất vấn người
học :
-Vạch
cỏ tham huyền chỉ mong thấy tánh. Ngay chính lúc này tánh
ông ở đâu ?
Thấy
được tự tánh thì mới thoát vòng sanh tử, khi ông nhắm
mắt, làm sao thoát.
Thoát
vòng sanh tử thì biết được chỗ về. Khi bốn đại phân
ly, ông sẽ đi đâu ?
Bình
:
Nếu
các ông có thể hạ được 3 chuyển ngữ thì ở các nơi,
các ông đều có thể làm chủ, gập duyên là tông. Còn chưa
thì đồ ăn đơn giản cũng làm no, nhai kỹ thì không đói.
Tụng :
一
念 普 觀 無 量 劫
Nhất
niệm phổ quán vô lượng kiếp
無
量 劫 事 即 如 今
Vô
lượng kiếp sự tức như kim
如
今 覷 破 個 一 念
Như
kim thứ phá cá nhất niệm
覷
破 如 今 覷 底 人
Thứ
phá như kim thứ để nhân.
Một niệm coi như vô lượng kiếp
Vô lượng kiếp chỉ là lúc này
Lúc này nếu phá được niệm ấy
Thì con người đó ngộ ngay thôi.
Chú Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : Vô lượng kiếp là một niệm lúc này.
Câu
3 và 4 : phá được niệm này thì giác ngộ.
-Công
án này đặt câu hỏi về bản chất của Thiền : cái gì là
tự tánh của ông ? Ông phải làm sao mới được tự do ? Và
ông đang ở đâu ? Những câu hỏi này cũng là những câu hỏi
cơ bản về đời sống. Nếu một người muốn sống một
đời sống có ý nghĩa, an bình và hạnh phúc thì người đó
phải tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi trên. Thiền không
tách rời khỏi sinh hoạt hàng ngày. Thiền dạy chúng ta sống
bằng cách tìm ra chân ngã. Học Thiền là tìm chân ngã : tôi
là ai ?
(Kubose)
Đâu Suất Duyệt (1044-1091) đệ tử của Chân Tĩnh Khắc Văn.
Tắc Bốn Mươi Tám
MỘT ĐƯỜNG CỦA CÀN PHONG
Cử
:
Một
ông tăng hỏi Càn Phong :
-Thập
phương Bạc Già Phạm chỉ cần một đường Niết Bàn, không
biết đường bắt đầu ở đâu ?
Phong
giơ gậy lên vạch một vạch :
-Ở
đây.
Sau
có ông tăng đem hỏi Vân Môn. Môn giơ quạt lên :
-Cây
quạt này vọt lên tầng trời 33 chạm vào lỗ mũi Đế Thích,
lại đánh vào con cá chép ở biển Đông, trời mưa như trút
nước.
Bình
:
Một
người đi dưới đáy bể sâu, bụi tung mù mịt. Một người
đứng trên đỉnh núi cao, sóng bạc ngất trời, một người
nắm chặt, một người buông lơi. Mỗi người đều dang tay
giúp đỡ tông thừa, giống như 2 kỵ sĩ bắt đầu từ 2 phía
đối nghịch, gập nhau ở giữa đường, trên đời này không
có ai rõ lẽ ấy. Lấy chánh nhãn mà xem thì cả 2 lão đều
chẳng biết đầu đường ở đâu .
Tụng :
未
舉 步 時 先 已 到
Vị
cử bộ thời tiên dĩ đáo
未
動 舌 時 先 說 了
Vị
động thiệt thời tiên thuyết liễu
直
燒 著 著 在 機 先
Trực
thiêu trước trước tại cơ tiên
更
須 知 有 向 上 竅
Cánh
tu tri hữu hướng thượng khiếu.
Chân chưa bước thì đã tới nơi
Môi chưa hé lời đã xong rồi
Dù mọi việc đều đi đến trước
Vẫn còn đường khác để mà noi.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : khen ngợi thủ đoạn ứng cơ của 2 vị thiền sư
Càn Phong và Vân Môn.
Câu
3 và 4 : không nên chấp vào cơ ngữ của 2 lão thiền sư này.
-Càn
Phong thuộc dòng Thiền Tào Động. Ông tăng đặt câu hỏi
còn chấp vào chữ nghĩa kinh điển. Cử chỉ của Càn Phong
hàm ý :
-Đạo
ở ngay đây, trước mắt ông, việc gì phải tìm kiếm đâu
đâu.
Câu
nói của Vân Môn chỉ cảnh giới vô ngã.
(Thánh
Tham)
-Câu
trả lời của Càn Phong và Vân Môn trong công án này không
được thỏa đáng. Câu hỏi của ông tăng là : Đường giác
ngộ dẫn khắp nơi, nhưng bắt đầu ở đâu ? Càn Phong vạch
một vạch trong không, còn Vân Môn kể câu chuyện về cái
quạt. Tại sao họ không nói con đường ở khắp nơi, ngay
đây, ông đang đứng ở đầu đường dẫn đến Niết Bàn.
Hãy là chính mình, đừng để ý đến kẻ khác, chính ngay
dưới chân ông,chính là ông.
(Kubose)
Bạc Già Phạm : một trong 10 danh hiệu của Phật.