BỊ THIÊU SỐNG
HỒI KÝ RÚNG ĐỘNG THẾ GIỚI VỀ TỘI ÁC VỚI PHỤ NỮ
Souad
Nguyễn Minh Hoàng dịch
Nhà xuất bản: Phụ Nữ
12 -
SOUAD SẮP CHẾT
- “Em trai em rất tốt. Nó đã
tìm cách mang chuối vào cho em nhưng
bác sĩ đã bảo nó đừng quay lại nữa.
– Thế ai đã làm em ra nông nỗi này?
– Đấy là anh rể em, anh Hussein, chồng của chị em. Mẹ em đựng thuốc độc trong cái cốc….”
Tôi được biết thêm một chút về những chuyện đã xảy ra với Souad. Cô ấy nói chuyện nhiều với tôi, nhưng đối với cô ấy,
điều kiện chăm sóc của bệnh viện vẫn còn rất
kinh khủng. Người ta tắm cho cô ấy được
một lần bằng cách túm lấy mớ tóc ít ỏi còn dính trên đầu cô. Những vết bỏng bị nhiễm trùng, rỉ nước và chảy máu
thường xuyên. Tôi đã nhìn thấy phần thân trên của cô ấy: đầu lúc nào cũng cúi gập xuống như người đang
cầu nguyện, cằm bị
dính chặt vào ngực. Cô ấy không
cử động được hai tay. Người ta đã đổ xăng hay dầu hỏa lên đầu cô ấy. Nó bốc cháy rồi lan xuống
cổ, xuống hai vành tai, xuống lưng, xuống hai tay và phía trên ngực. Có
lẽ cô ấy nằm co quắp như xác ướp từ lúc người ta đưa cô ấy vào bệnh viện, và cô ấy vẫn trong
tình trạng như vậy từ hơn mười lăm ngày trước. Ấy là chưa kể đến việc cô ấy sinh con trong
tình trạng nửa tỉnh nửa mê và đứa bé ấy đã biến mất. Có lẽ cô trợ tá
xã hội đã mang nó vào trại trẻ
mồ côi như gửi một gói hàng, nhưng trại
mồ côi nào? Ở đâu? Tôi biết rất
rõ tương lai của những đứa bé bị xem là con hoang. Nó không có
hy vọng.
Kế hoạch của tôi quả thực điên rồ. Giai đoạn đầu, tôi muốn đưa Souad và Bethléem, thành phố đang nằm dưới quyền
kiểm soát của Israel nhưng tôi và Souad
vẫn có thể đến được. Chỉ đến đây chứ không phải nơi nào khác. Tôi biết ở đấy không có những
phương tiện cần thiết để
điều trị cho những bệnh nhân bỏng nặng. Nhưng trong giai đoạn hai ở Bethléem, Souad có thể được hưởng những
điều kiện chăm sóc
tối thiểu. Giai đoạn ba của
kế hoạch: đưa cố ấy sang châu Âu với sự
đồng ý của tổ chức Terre des hommes, lúc này tôi vẫn chưa
báo cáo tổ chức về việc của Souad.
Đó là chưa kể đứa bé, tôi
dự định trong lúc làm
thủ tục cho Souad sẽ
tranh thủ tìm đứa con của cô ấy.
Hôm anh
bác sĩ Hassan được lên ôtô của tôi để
thực hiện chuyến đi thứ hai đến nhà bố mẹ Souad, tôi thấy anh ta vẫn còn
lo lắng. Vẫn cách
tiếp đón ấy, ngoài sân, dưới bóng cây, vẫn kiểu mở đầu
câu chuyện sáo rỗng ấy, nhưng lần này tôi hỏi đến những người con mà tôi và Hassan chưa từng
gặp.
- “Bác có đông con lắm phải không? Họ đâu cả rồi?
–
Chúng nó đều ra đồng cả.
Chúng tôi có một đứa con gái đã lấy chồng. Nó
có hai thằng cu, và một đứa con trai đã có vợ, thằng này cũng sinh được
hai thằng cu.”
Sinh được con trai thì còn gì bằng.
Cần phải chúc mừng ông chủ
gia đình. Và cũng phải
phàn nàn hộ ông ta.
- “Cháu nghe nói bác có một cô con gái khiến bác
phiền lòng nhiều phải không?
– Ya haram[3]”! Chuyện xảy đến với
chúng tôi thật kinh khủng! Thật bất hạnh!
– Vâng, thật đáng tiếc cho
gia đình ta.
– Phải, rất đáng tiếc. Allah karim[4]! Chỉ có đấng Allah là cao cả!
– Ở trong làng, ai gặp phải những
vấn đề khó khăn như thế cũng sẽ rất đau buồn…
– Phải …
chúng tôi rất khổ sở.”
Bà mẹ không nói gì. Vẫn đứng thẳng, không nhúc nhích.
- “Bác ạ, dù sao chăng nữa cô ấy cũng sắp chết,
tình trạng cô ấy nguy cấp lắm rồi.
– Phải, Allah karim!”
Và anh
bác sĩ Hassan tiếp thêm bằng một câu rất chuyên môn:
- “Vâng, thật sự cô ấy nguy lắm rồi.”
Anh ta đã hiểu
mục đích của cuộc mặc cả kỳ quặc về cái chết của một cô gái trẻ. Anh ta giúp tôi bằng cách
tỏ rõ cho
gia đình này thấy Souad trước sau gì thì cũng phải chết, trong khi cả anh ta và tôi đều mong điều ngược lại…. Anh ta thay phiên tiếp sức cho tôi.
Rốt cuộc, ông bố
thổ lộ cho Hassan biết mối
lo âu chính của cả nhà:
- “Tôi chỉ mong
chúng tôi được yên thân sống trong làng.
– Chuyện ấy thì
chắc chắn rồi. Dù thế nào đi chăng nữa, cô ấy cũng sắp chết.
– Nếu Đấng
Tối cao muốn như
vậy thì cũng là
số mệnh cả thôi!
Chúng ta không thể
cưỡng lại.”
Nhưng ông ta không hề
đả động những chuyện đã xảy đến với Souad. Và tôi
đợi thời điểm
thuận tiện để tiến thêm một bước trên bàn cờ:
- “Nhưng nếu cô ấy chết ở đây thì bác vẫn phải
tốn kém nhiều. Bác sẽ cho chôn cất như thế nào? Và ở đâu kia?
– Chôn cất ngay đây, ở ngoài vườn.
– Hay là thế này bác ạ. Nếu cháu mang cô ấy theo, cô ấy sẽ chết ở
nơi khác và bác sẽ không phải
lo nghĩ đến bất cứ
vấn đề gì nữa.”
Đối với
cha mẹ Souad, việc tôi đưa cô ấy đi chết ở
nơi khác rõ ràng chẳng có
ý nghĩa gì với họ.
Cả đời họ chưa từng nghe một việc như thế. Hassan cũng
nhận thấy điều này, anh
nhấn mạnh thêm:
- “Tính kỹ lại, nếu làm như thế sẽ bớt được nhiều
phiền hà cho bác và cho tất cả
mọi người trong làng…
– Phải, nhưng
chúng tôi cứ chôn cất nó như thế, nếu Đấng
Tối cao muốn vậy, và
chúng tôi nói với
mọi người là đã chôn cất rồi, thế là xong.
- Cháu không biết, nhưng xin bác cứ
suy nghĩ kỹ lại. Cháu có thể để cô ấy chết ở
nơi khác. Cháu có thể làm như thế, nếu bác thấy tiện cho
gia đình ta….”
Thật tàn nhẫn, nhưng trong trò chơi quái đản này, tôi có thể đặt cược trên cái chết mà thôi. Nếu tôi bàn đến chuyện
cứu sống và chữa trị cho Souad thì họ sẽ hoảng sợ ngay. Thế là, họ nói với Hassan và tôi rằng họ cần
trao đổi với nhau. Một cách
gián tiếp để
chúng tôi hiểu đã đến lúc phải ra về. Sau khi
cúi chào theo phong tục,
chúng tôi hẹn sẽ
quay trở lại. Phải nghĩ ra sao về toan tính của
chúng tôi lúc ấy? Liệu
chúng tôi đã đi đúng hướng chưa? Một mặt, Souad sẽ biến mất, mặt khác,
gia đình cô
ấy sẽ
phục hồi danh dự trong mắt
mọi người trong làng.
Thánh Allah luôn cao cả, chính ông bố đã nói thế.
Cần phải biết
kiên nhẫn.
Trong khoảng thời gian ấy, ngày nào tôi cũng đến bệnh viện
tìm cách xin cho Souad những
điều kiện chăm sóc
tối thiểu. Nhờ sự có mặt của tôi mà những người ở bệnh viện bắt buộc phải
cố gắng. Chẳng hạn như tẩy trùng những vết bỏng
thường xuyên hơn. Nhưng vẫn không có thuốc giảm đau cũng như
các loại thuốc đặc trị. Da của cô gái đáng thương vẫn còn là vết bỏng khổng lồ, gây nhiều
đau đớn cho cô ấy và rất khó
chấp nhận trong mắt người ngoài. Nhiều lúc tôi nghĩ đến, như trong giấc mơ của
câu chuyện cổ tích, những bệnh viện ở đất nước tôi, ở Pháp, ở Navarre hoặc ở
nước nào đó, nơi mà những bệnh nhân bỏng nặng được chăm sóc, chữa trị rất
cẩn thận và tận tình để
hạn chế tối đa những cơn đau….
Và
chúng tôi trở lại với cuộc
thương thuyết, vẫn là hai
chúng tôi, anh
bác sĩ Hassan
can đảm và tôi. Thỏi sắt đang nóng thì phải rèn ngay,
đề xuất đưa ra phải vừa
tế nhị vừa
chắc chắn:
- “Nếu cô ấy chết tại đây, mọi chuyện sẽ không ổn. Ngay cả chết trong bệnh viện chăng nữa, thì vẫn không tiện cho bác đâu. Nhưng chúng cháu có
thể mang cô ấy đi thật xa, đến một nước nào đó. Và như thế, tất cả sẽ
kết thúc, bác có thể nói với
mọi người trong làng là cô ấy đã chết. Cô ấy chết ở một đất nước khác và nhà ra sẽ không bao giờ nghe nói đến cô ấy nữa.”
Lúc này, cuộc
thương lượng càng trở nên
căng thẳng.
Nếu không có loại giấy tờ thì dù có được họ
đồng ý tôi cũng sẽ không làm được gì. Mà tôi thì đã sắp
đạt được mục đích. Tôi không hỏi thêm chuyện gì khác, không hỏi ai đã gây ra chuyện này cũng không hỏi ai là bố đứa trẻ. Những chuyện như thế đều không
đáng kể trong cuộc
thương lượng này, có nhắc đến cũng chỉ làm hoen ố
danh dự của họ mà thôi. Điều tôi
quan tâm là
thuyết phục thế nào để họ tin rằng con gái họ sắp chết, nhưng chết ở một
nơi khác. Để họ nghĩ rằng tôi là một con điên, một người nước ngoài kỳ quái mà họ nên
lợi dụng theo chiều hướng có lợi cho họ.
Tôi
cảm thấy câu chuyện có vẻ
tiến triển. Nếu họ bằng lòng thì
ngay sau khi chúng tôi ra về, họ có thể
tuyên bố với cả làng rằng con gái họ đã chết, không
cần phải giải thích thêm
chi tiết nào, không
cần phải tổ chức chôn cất trong vườn. Họ có thể kể bất cứ chuyện gì họ muốn và thậm chí, họ còn có thể
báo thù cho
danh dự của mình theo cách riêng của họ. Quả thực rất điên rồ nếu ra nghĩ đến chuyện này theo lối
tư duy của người phương Tây… và
không tưởng tượng nổi khi ta
đạt được mục đích trong những
điều kiện như vậy. Như thế, sự mặc cả này không làm
lương tâm họ
cắn rứt một chút nào. Ở đây,
đạo đức và
luân lý có điểm
đặc biệt là chỉ
chống lại đàn
bà con gái, buộc họ phải
tuân theo những
luật lệ có
lợi cho cánh đàn ông trong bộ tộc. Chính bà mẹ đã
chấp nhận đạo luật này khi muốn đứa con gái của mình phải chết và biến mất
vĩnh viễn. Bà ta
không thể làm khác và trong
thâm tâm, tôi
cảm thấy thương bà ta.
Nếu không, tôi sẽ không còn
cảm thấy gì khác. Dù ở châu Phi,
Ấn Độ, Jordanie
hoặc ở Cisjordanie, tôi đều phải tự
thích ứng với các nền
văn hóa và
tôn trọng những phong tục
cổ truyền.
Mục đích duy nhất của tôi là giúp đỡ nạn nhân của những hủ tục ấy, không
phân biệt họ là nam hay nữ. Nhưng
trong đời tôi, đây là lần đầu tiên tôi
thương lượng một mạng người theo
cách này. Họ đã nhượng bộ.
Ông bố bắt tôi phải hứa và bà mẹ cũng bắt tôi phải hứa là không bao giờ để họ phải thấy lại cô con gái nữa! KHÔNG BAO GIỜ nữa ư!
- “Không! Không bao giờ nữa! KHÔNG ĐỜI NÀO!”
Tôi hứa. Nhưng để giữ được
lời hứa của mình, để đưa được Souad ra nước ngoài tôi
cần phải làm đủ giấy tờ cho cô ấy.
- “Cháu xin bác giúp cho việc này nữa… Có lẽ cũng khó khăn cho bác một chút, nhưng cháu sẽ cùng đi với bác và cháu sẽ giúp bác.
Chúng ta phải đến
cơ quan cấp giấy tờ căn cước và xuất nhập cảnh”.
Trở ngại mới này
ngay lập tức khiến họ
lo lắng. Mọi sự
tiếp xúc với
cộng
đồng Israel, nhất là đối với các nhà chức trách Israel đều là
vấn đề rất đáng ngại đối với họ.
- “Hai bác sẽ cùng đi với cháu đến Jérusalem, cả bác và bác gái, cùng ký tên.
– Nhưng
chúng tôi không biết đọc, biết viết!
– Không sao cả, bác chỉ cần lấy dấu vân tay điểm chỉ cũng được….
– Được rồi,
chúng tôi sẽ đi với cô.”
Lần này, tôi phải
dọn đường với nhà chức trách Israel trước khi quay lại
tìm
cha mẹ Souad. Thật may là tôi có quen với rất nhiều người làm việc ở
bộ phận cấp
thị thực tại Jérusalem. Ở đây, tôi trình bày
ý định của tôi
và các nhân viên cũng biết rõ những việc tôi làm cho trẻ em. Vả lại, tôi đang cứu một đứa trẻ. Souad bảo với tôi là mười bảy tuổi nhưng có hề
chi, cô ấy vẫn còn là một đứa trẻ. Tôi cho các viên chức Israel biết tôi sẽ đưa đến chỗ
cha mẹ của một cô gái đang bệnh nặng và nhắc họ không
nên để hai người này phải đợi đến ba tiếng đồng hồ vì như thế, họ sẽ bỏ
về ngay mà không chịu ký gì cả. Họ là những người không biết chữ và tôi
cần phải có mặt để giúp họ làm
thủ tục. Tôi sẽ đưa họ đến, nếu họ có giấy khai sinh, họ sẽ
mang theo và
cơ quan ở đây chỉ cần
xác nhận tuổi cô gái trên giấy
thông hành.
Một lần nữa, tôi thấy mình quá
liều lĩnh khi nói thêm rằng cô ấy sẽ ra nước ngoài với một đứa con. Trong khi tôi vẫn chưa biết hiện đứa bé đang ở đâu và làm thế nào để
tìm ra nó.
Nhưng đó không phải là
vấn đề lúc này: cứ
lần lượt giải quyết từng việc một.
Vấn đề duy nhất hiện nay là thúc giục
cha mẹ Souad nhanh hơn và làm
thế nào để Souad được chăm sóc nhiều hơn.
Dĩ nhiên, nhân
viên hành chính Israel hỏi tôi:
- “Nhưng chị có biết tên của cha đứa bé không?
– Không, tôi không biết.
– Thế có phải ghi là con hoang không?”
Lối gọi ấy
áp dụng đối với giấy tờ hành chính làm tôi
bực mình.
- “Không, anh không nên ghi như thế. Mẹ đứa bé sẽ ra nước ngoài và tại các nước ấy chuyện con hoang của các anh không có
giá trị gì đâu!”
Tờ giấy
thông hành mà tôi xin cho Souad và con của cô ấy không phải là hộ chiếu mà chỉ là một tờ giấy
cho phép đi khỏi lãnh thổ Palestine để đến một nước khác. Và Souad sẽ không bao giờ
trở lại Palestine nữa. Nghĩa là, cô ấy không còn
tồn tại trên đất nước của mình, sẽ bị gạch tên
trong sổ
quản lý nhân khẩu, cô gái bị thiêu sống ấy. Như đã chết.
- “Anh làm cho tôi hai giấy
thông hành, một cho người mẹ và một cho đứa bé.
- Nhưng đứa bé ấy đâu?
– Tôi sẽ đi tìm.”
Thời gian dần trôi, nhưng khoảng một giờ sau, nhà chức trách Israel đã bật đèn xanh cho tôi. Và ngay sáng hôm sau, tôi đi đón bố mẹ Souad, lần này tôi đi
một mình, như một chiến thắng lớn. Cả hai người
lẳng lặng bước lên xe, như hai chiếc mặt nạ, và một lát sau,
chúng tôi đến Jérusalem,
đi thẳng vào phòng cấp
thị thực. Đối với bố mẹ Souad, đây là vùng đất của
kẻ thù, nơi mà theo lệ thường, họ vẫn bị đối xử chẳng ra gì.
Tôi ngồi bên cạnh họ và chờ. Đối với người Israel, tôi được xem là vật
bảo đảm rằng hai người đi cùng với tôi không
mang theo bom. Ở đây, kể từ
ngày tôi làm việc với
cộng đồng người Palestine và Israel, ai cũng biết
tôi. Bỗng một
nữ nhân viên đang xác lập giấy tờ vẫy tôi lại gần:
- “Giấy khai sinh của cô gái là mười chín tuổi! Thế mà em bảo với bọn chị là cô ấy chỉ mới mười bảy!
–
Chúng ta không nên
cãi nhau vì chuyện nhỏ nhặt này, vả lại, cô ấy mười bảy hay mười chín thì cũng có thay đổi gì đâu….
– Sao em không đưa cô ấy đến đây? Cô ấy cũng phải ký tên chứ.
– Em không thể đưa cô ấy đến đây được vì cô ấy đang sắp chết trong bệnh viện.
– Thế còn đứa bé?
– Chị ơi, chị có thể bỏ qua tất cả được không.
Trước mặt ông bố và bà mẹ
này, chị đưa giấy
thông hành của cô gái để họ ký tên vào, còn riêng cái
giấy của đứa bé, em sẽ
cung cấp cho chị đầy đủ các
chi tiết và em sẽ đến lấy sau.”
Với những
trường hợp không
liên quan đến an ninh quốc gia, các nhân viên
Israel đều
tỏ ra hợp tác. Dạo tôi mới đến bắt đầu làm việc với tổ chức
nhân đạo, mỗi lần đi công tác tại các vùng bị
chiếm đóng, tôi thường bị binh sĩ Israel gọi lại. Mỗi lần như thế tôi phải tự xoay sở với họ. Nhưng khi biết tôi cũng lo cho những trẻ em Israel bị khuyết tật
nghiêm trọng, kết quả của cuộc
hôn phối giữa những người có cùng huyết thống trong một số
cộng đồng thì
mọi việc đối với tôi cũng được
cải thiện rõ rệt. Khổ nhất là những đứa trẻ sinh ra trong những
gia đình sùng đạo đến
mức
cực đoan, anh em trong họ thường lấy nha nên đẻ ra những đứa con thiểu năng
trí tuệ hoặc bị khuyết tật
nghiêm trọng. Chuyện này cũng xảy ra trong một số
gia đình Ả Rập sùng đạo. Công việc của tôi
dạo ấy chủ yếu là
giải quyết vấn đề này trong hai
cộng đồng Israel và Ả Rập. Nhờ thế tôi có thể làm việc trong bầu không khí
tin cậy lẫn nhau,
đặc biệt với các
cơ quan hành chính.
Cơ quan cấp giấy
thông hành nằm bên ngoài khu vực tường thành, bên cạnh thành cổ Jérusalem. Cầm tờ giấy
thông hành quý giá trong tay, tôi cùng
cha mẹ Souad – từ bấy đến giờ chưa hề hé một lời – đi bộ giữa binh lính Israel súng ống đầy người, để lên ôtô. Lúc sáng vào làng đón họ đi như nào thì bây giờ tôi đưa họ về tận nhà như thế. Ông bố người thấp bé, tóc
hung đỏ, cặp mắt xanh biếc trong bộ quần áo Keffieh màu trắng với chiếc
gậy trong tay và bà mẹ mặc toàn màu đen, mắt lúc nào cũng cúi nhìn gấu
áo dài.
Ít nhất cũng phải mất một tiếng để đi từ Jérusalem về đến ngôi làng. Lần
đầu tiên, tuy cố tỏ vẻ xông xáo nhưng
thực ra, tôi rất sợ gặp mặt họ. Còn bây giờ, tôi không sợ nữa, tôi cũng không phán xét họ mà tôi chỉ thầm nghĩ: “Những
con người đáng thương.” Tất cả
chúng ta đều là những con cờ trong tay
định mệnh.
Trong lượt đi cũng như lượt về, họ
lẳng lặng đi theo tôi, không
nói một lời. Khi đến Jérusalem, họ
tỏ ra lo sợ người Israel sẽ gây
phiền hà. Tôi
nói với họ là không phải sợ và
mọi việc sẽ diễn ra
tốt đẹp thôi. Ngoài một vài câu
trao đổi cần thiết, tôi không có
cuộc nói chuyện nào với họ.
Tôi cũng không gặp những thành viên khác trong
gia đình, cũng không xem
bên trong ngôi nhà họ. Nhìn kỹ
cha mẹ Souad, tôi thấy khó có thể tin được họ đã định giết con gái họ. Mặc dù kẻ ra tay giết người là người anh rể nhưng chính họ mới là người ra quyết định…
Về sau, từ
kinh nghiệm đầu tiên này, tôi có cùng những cảm nhận khi
tiếp xúc với những ông bố và bà mẹ khác trong những
trường hợp tương tự trường hợp của Souad. Tôi không thể xem họ là những kẻ giết người.
Cha mẹ Souad không khóc nhưng tôi thấy nhiều người khóc vì chính họ là tù nhân của hủ tục
kinh khủng ấy: giết người vì
danh dự.
Khi xe dừng trước ngôi nhà
gia đình họ, ngôi nhà lúc nào cũng
đóng cửa im ỉm để che giấu những
bí mật, những
bất hạnh, họ
lẳng lặng bước xuống.
Tôi cũng
lẳng lặng bước xuống. Tôi cũng
lẳng lặng ra về. Kể từ đấy, tôi
và họ không còn
gặp nhau nữa.
Tôi có rất nhiều
việc phải làm.
Trước tiên,
cần phải gặp sếp của tôi.
Edmod Kaiser là người
sáng lập tổ chức Terre des hommes. Tôi chưa nói cho ông ấy biết về
ý tưởng điên rồ của tôi. Trong bước thứ nhất, tôi phải “chung kết hóa”, nếu tôi có thể gọi như thế, về mặt hành chính. Thế
rồi tôi xin gặp Edmond Kaiser. Hồi ấy Kaiser chưa hề nghe nói đến những
chuyện như thế này. Tôi trình bày tóm lược
tình hình với ông:
“Thế này, tôi có một cô gái bị thiêu sống, và cô ấy mới sinh một đứa bé.
Tôi có
ý định đưa cô ấy sang châu Âu nhưng tôi không biết đứa bé đang ở
đâu. Ông có
đồng ý làm vậy không?
–
Dĩ nhiên là tôi
đồng ý."
Edmond Kaiser là như thế. Một
con người tuyệt vời, rất nhạy bén trước những
trường hợp khẩn cấp. Câu hỏi vừa đặt ra là ông có câu
trả lời ngay. Người ta có thể nói chuyện với ông một cách ngắn gọn như thế.
Tôi vội đưa Souad ra khỏi phòng cách ly vì ở đấy, Souad phải chịu
đau đớn khổ sở như một con vật. Nhưng cũng chính tại nơi này, Souad và tôi đã
may mắn nhận được sự giúp đỡ to lớn của
cá nhân bác sĩ Hassan.
Nếu không có sự
tốt bụng và
lòng can đảm của anh, chỉ Chúa mới biết tôi có
thành công được hay không.
Cả hai
chúng tôi quyết định đợi đến đêm để âm thầm đưa Souad ra ngoài trên một chiếc cáng cứu thương. Tôi cũng
đồng ý với giám đốc bệnh viện là phải làm thế nào để không bị ai trông thấy. Tôi không biết họ có phao
tin là Souad đã chết trong đêm ấy hay không, nhưng có lẽ họ đã làm vậy.
Tôi đặt Souad nằm ở ghế sau, khi đó
vào khoảng ba hay bốn giờ sáng, và
chúng tôi chạy thẳng đến một bệnh viện khác. Hồi ấy, chưa có nhiều hàng rào
kiểm soát như khi
xuất hiện phong trào nổi dậy của người Palestine. Chuyến đi không gặp trở ngại gì và tảng sáng, tôi đã đến nơi. Ở bệnh viện này, mọi thứ đã được chuẩn bị từ trước. Giám đốc bệnh viện đã được
báo trước và tôi cũng đề nghị ở bệnh viện, đừng ai hỏi Souad về
gia đình, về
cha mẹ cô ấy.
Bệnh viện này được trang bị đầy đủ hơn,
đặc biệt là sạch sẽ hơn. Họ nhận
được sự giúp đỡ của Hội
Nhân Đạo Malte. Souad được đưa vào một phòng riêng biệt. Hàng ngày, trong khi chờ đợi xin được
thị thực đi châu Âu và
nhất là chờ tim được đứa bé, tôi đều đến thăm cô ấy.
Cô ấy không nhắc gì đến đứa bé. Hình như với cô ấy, chỉ cần biết nó còn sống ở một nơi nào đó là đủ và vẻ
dửng dưng bề ngoài ấy kể ra cũng rất
dễ hiểu.
Đau đớn, tủi nhục,
lo lắng,
áp lực: xét cả về
tâm lý lẫn
thể chất, cô ấy không thể tự xem mình là một người mẹ.
Cần phải biết rằng, những
điều kiện để người ta
tiếp nhận một đứa con hoang do người mẹ có tội,
cụ thể là bị thiêu sống vì
danh dự sinh ra, khắc nghiệt đến nỗi
tốt
hơn hết là tách nó ra khỏi
cộng đồng này. Nếu trên đất nước của mình, đứa bé có thể sống trong những
điều kiện tốt thì có lẽ tôi đã
quyết định
để con của Souad lại. Đối với đứa bé cũng như đối với mẹ nó, đó sẽ là
giải pháp đau lòng hơn cả. Nhưng buồn thay, đó là điều không thể.
Suốt đời, đứa bé ấy sẽ phải sống với những nỗi nhục của mẹ nó, trong một trại
mồ côi và sẽ bị
mọi người khinh bỉ. Tôi phải đưa nó ra khỏi nơi ấy, cũng như Souad.
- “Bao giờ
chúng ta đi?”
Souad chỉ nghĩ đến chuyện ra đi, mỗi lần tôi vào thăm, cô ấy đều hỏi tôi câu đó.
- “Khi nào có
thị thực chúng ta sẽ đi.
Nhất định sẽ có, em đừng lo gì cả.”
Cô ấy
phàn nàn với tôi về những cô y tá không
cẩn thận khi tháo băng, mỗi lần trông thấy họ
đến gần, cô ấy hét lên, và
cảm thấy bị ngược đãi. Tôi ngờ rằng các
điều kiện chăm sóc ở đây, tuy có vệ sinh hơn, vẫn chưa đáng được gọi là
lý tưởng. Nhưng làm sao có thể khác được khi
thị thực còn chưa xong? Những giấy tờ kiểu này không bao giờ làm nhanh được.
Và
trong lúc ấy, tôi
vận động những chỗ
quen biết để tìm đứa bé. Chị bạn
tôi, người trước đây đã báo với tôi về
trường hợp của Souad, liền
liên hệ với một nữ trợ tá
xã hội với
thái độ hết sức dè dặt. Cô này còn
tỏ ra
dè dặt hơn. Chị bạn tôi đã thuật lại rất
rõ ràng:
- “Cô ấy bảo cô ấy biết đứa bé đang ở đâu, đó là một bé trai, nhưng không thể mang nó ra ngoài dễ dàng như thế được, đó là điều không thể. Cô ấy còn cho là chị
sai lầm khi muốn
xen vào chuyện đứa bé. Nó sẽ là một
gánh nặng nữa cho chị và sau đó là cho mẹ nó!”
Tôi đi hỏi
ý kiến của Souad:
- “Con trai em tên gì?
– Tên nó là Marouan.
– Em đặt cho nó cái tên ấy phải không?
– Vâng. Em đã đặt tên cho nó.
Lúc ấy, ông
bác sĩ đã hỏi em tên của nó….”
Cô ấy có những lúc
mất trí nhớ xen với những lúc
tỉnh táo lạ thường thành ra nhiều khi tôi không biết đâu mà lần. Cô ấy đã quên những giây phút khủng khiếp nhất khi đứa con được sinh ra, quên là người ta nói đó là con trai và
chưa bao giờ nói với tôi về tên của nó. Thế mà
đột nhiên,
bằng một câu hỏi
bình thường, tôi đã có ngay câu
trả lời chính xác. Tôi
tiếp tục theo hướng ấy:
- “Em nghĩ thế nào về việc này? Chị cho rằng
chúng ta sẽ không đi
nếu không có Marouan. Chị sẽ đi tìm nó,
chúng ta không thể bỏ nó ở lại đây được…”
Souad len lén nhìn tôi, nhìn một cách khó khăn vì cằm vẫn
dính chặt vào ngực.
- “Chị tin như thế ư?
– Phải, chị tin. Em, em sắp đi, em sắp được
cứu thoát. Nhưng Marouan thì
sao? Chị biết rõ nếu bị bỏ lại, nó sẽ sống trong những
điều kiện như thế nào, đó sẽ là
địa ngục đối với nó.”
Nó sẽ mãi là con trai của một charmuta. Con trai của một con đĩ. Tôi không nói ra nhưng
chắc chắn Souad đã biết. Tôi hiểu điều đó qua câu: “Chị tin như thế ư?” đầy thảng thốt. Cô ấy rất
thực tế.
Thế là tôi đi tìm đứa bé.
Trước tiên, tôi đến thăm một, hai trại
mồ côi,
cố tìm dấu vết của một đứa bé
hiện giờ được khoảng hai tháng tuổi và có
tên là Marouan. Nhưng tôi không thấy và tôi cũng không có được những
điều kiện thuận lợi để có thể
tìm ra đứa bé. Cô trợ tá
xã hội lại không ưa những cô gái như Souad. Cô ta là người Palestine, thuộc một
gia đình tử tế, nhưng
truyền thống vẫn là
truyền thống.
Nếu không có cô ta giúp, có lẽ tôi sẽ không làm gì được. Do tôi
năn nỉ mãi, và nhất là để làm
vui
lòng chị bạn tôi, cô ta đã cho tôi biết
trung tâm nơi thằng bé được gửi
vào. Hồi ấy, đó thật sự là một ổ chuột chứ không phải là trại
mồ côi. Và đưa thằng bé ra khỏi đấy là một việc
vô cùng phức tạp. Nó là tù nhân của chính
hệ thống đã đưa nó vào đây.
Tôi bèn đi
vận động khắp nơi, và
cuối cùng, khoảng mười lăm ngày sau, tôi đã
tìm thấy lối thoát. Tôi đến gặp rất nhiều người. Có người chủ trương để thằng bé chịu chung số phận với mẹ nó, có người muốn gạt bỏ một
vấn đề rắc rối đồng thời bớt đi một miệng ăn.
Rốt cuộc cũng có người
có
lòng nhân ái và hiểu được sự bướng bỉnh của tôi.
Sau cùng, tôi được bế trên tay một đứa bé hai tháng tuổi, một cái đầu bé xíu, trông như quả lê, trên trán có một cục u,
hậu quả của sự ra đời sớm hơn
thời hạn tự nhiên. Nhưng nó có
sức khỏe tốt, về phần nó, như thế
có thể xem là một
kỳ tích. Nó không được nằm trong lồng ấp dành cho trẻ
sinh thiếu tháng, cũng không được
âu yếm vỗ về. Nó chỉ còn dấu vết của bệnh vàng da thường thấy ở trẻ sơ sinh. Tôi chỉ sợ nó có những
vấn đề nghiêm trọng hơn. Mẹ nó đã bốc cháy như ngọn đuốc với cái thai trong bụng và sinh nó trong những
điều kiện rùng rợn như cơn
ác mộng. Nó gầy nhưng vẫn ổn. Nó giương đôi mắt tròn nhìn tôi, không khóc, không quấy.
Tôi là ai được nhỉ? Zorro chăng? Tôi ngốc thật, nó làm sao biết Zorro là ai…
Tôi đã quen với những đứa trẻ bị suy dinh dưỡng. Hồi ấy, trong một nhà
tình thương,
chúng tôi có sáu mươi đứa như thế. Nhưng tôi vẫn đưa Marouan về nhà, ở đấy tôi có đủ những thứ
cần thiết để chăm sóc bé. Tôi đã từng đưa những đứa trẻ bị bệnh nặng sang châu Âu phẫu thuật. Ban đêm,
tôi cho Marouan
nằm ngủ trong một cái giỏ, quấn tã, mặc quần áo và cho bé bú sữa. Tôi đã nhận được
thị thực. Tôi đã có mọi thứ
cần thiết. Edmond Kaiser đang chờ
chúng tôi ở Lausanne, trụ sở của CHU[5], trong khu dành riêng cho bệnh nhân bỏng nặng.
Sáng mai, chuyến
khởi hành vô cùng quan trọng sẽ bắt đầu. Người mẹ được chở trên chiếc cáng cứu thương để đáp máy bay từ Tel–Aviv. Souad
ngoan ngoãn như một cô bé.
Xem chừng cô ấy đau lắm nhưng khi tôi hỏi:
- “Ổn chứ? Em không quá đau chứ?”
Cô ấy đã
trả lời tôi rất
đơn giản:
- “Có, em đau”.
Thế thôi.
- “Hay chị xoay cho em
nằm nghiêng một chút nhé, như thế đỡ hơn chứ?
– Vâng, như thế sẽ đỡ hơn.
Cảm ơn chị.”
Lúc nào cũng “cảm ơn”.
Cảm ơn về cái xe lăn ngoài sân bay, loại xe
mà cả
đời Souad chưa từng nhìn thấy.
Cảm ơn về cốc cà phê uống bằng ống hút.
Cảm ơn vì được đặt nằm nghỉ trong một góc, trong khi chờ được
kiểm tra vé. Do tôi phải bế thằng bé và như thế sẽ rất vướng víu khi làm những
thủ tục thường mất khá
thời gian, nên tôi bảo Souad:
- “Này, chị để thằng bé nằm trên người em đấy, em đừng nhúc nhích nhé…”
Ánh mắt của Souad thoáng chút hoảng hốt. Những vết bỏng không
cho phép cô ấy có thể ôm đứa bé trong tay. Cô ấy chỉ có thể nhấc hai tay sát vào người đứa bé với nét mặt
căng thẳng. Lúc tôi giao thằng bé cho cô ấy, cô
ấy phác một
cử chỉ lộ rõ vẻ
sợ hãi. Quả thực rất khó khăn đối với cô ấy.
- “Em cứ nằm yên như thế. Chị quay lại ngay.”
Tôi buộc phải để cô ấy trông thằng bé.
Một mình tôi không thể vừa đẩy chiếc xe lăn, vừa bế thằng bé vừa đến từng bàn ở sân bay để trình hộ chiếu,
thị thực, giấy
thông hành và
giải thích về những người đi kèm kỳ lạ của tôi.
Và đó quả là một cơn
ác mộng vì hành khách đi qua chỗ Souad nằm đều
cất tiếng trầm trồ như bất cứ ai khi nhìn thấy một đứa bé: “Ôi, thằng bé kháu nhỉ! Ôi,
dễ thương quá!”.
Họ thậm chí không nhìn người mẹ, khuôn mặt
biến dạng, đang gục đầu trên thằng bé ấy. Dưới lớp áo bệnh nhân, cả phần trên cơ thể Souad đều quấn băng kín. Rất khó có thể mặc quần áo cho cô ấy, cô ấy chỉ mặc một trong những cái áo vest bằng len của tôi và một cái chăn đắp ngang người. Cô ấy không thể
ngẩng đầu lên để nói “cảm ơn” những người đi qua, và tôi biết đứa bé mà người này cho là kháu khỉnh đã làm Souad hoảng sợ đến thế
nào.
Khi để Souad nằm đấy với đứa bé để đi làm
thủ tục, tôi tự nhủ rằng
cảnh tượng vừa rồi thật siêu thực. Cô ấy nằm đó, bị bỏng
toàn thân, với thằng
bé trong tay. Cô ấy đã sống trong
địa ngục, thằng bé
cũng thế và
mọi người đi ngang qua thì
mỉm cười: “Ôi! Đứa bé xinh ghê!”
Lúc lên máy bay, một
vấn đề khác bỗng nảy sinh: Làm thế nào để đưa Souad
vào bên trong máy bay. Tôi đã đẩy chiếc xe lăn lên cầu thang máy bay nhưng rồi tôi không biết phải
tiếp tục xoay sở ra sao. Nhiều người Israel đã có kỹ thuật riêng của họ. Họ đưa một chiếc cần trục khổng lồ đến và Souad được ngồi vào một cái “cabin” treo
lơ lửng ở đầu cầu trục. “Cabin” từ từ lên cao, đến ngang tầm cửa máy bay thì hai nhân viên đón chiếc xe lăn của Souad rồi đẩy vào trong.
Tôi đặt sẵn ba chỗ ở phía trước để cô ấy có chỗ nằm và các tiếp viên hàng không đã căng một tấm màn để hành khách khác không nhìn thấy cô ấy.
Marouan thì nằm trong một cái nôi do công ty hàng không
cung cấp. Bay thẳng đến Lausanne.
Souad không hề
than phiền lấy một lời. Chốc chốc, tôi lại cố giúp cô ấy thay đổi tư thế nằm nhưng không có cách gì giúp cô ấy bớt đau được. Những viên thuốc giảm đau không giúp được nhiều. Trông cô ấy hơi phờ phạc, có
vẻ buồn ngủ nhưng đầy tự tin. Cô ấy đang chờ. Tôi không thể cho
cô ấy ăn được, chỉ cho cô ấy uống bằng một ống hút. Tôi lo thay tã cho Marouan, còn Souad vẫn tránh không dám nhìn thằng bé.
Cô ấy đã
chịu đựng rất nhiều chuyện
vô cùng phức tạp. Cô ấy không hề biết Thụy Sĩ, đất nước mà tôi đưa cô ấy đến chữa trị, là gì.
Chưa bao giờ cô ấy trông thấy một chiếc máy bay, một chiếc cần trục, và nhiều người đến thế tại sân bay. Tôi đã
mang theo một cô gái “hoang dã”,
mù chữ nhưng không ngừng
khám phá mọi vật, những vật có thể sẽ rất
kinh khủng đối với cô ấy. Và tôi cũng biết rằng những
đau đớn đó còn lâu mới có thể
kết thúc được. Phải mất nhiều
thời gian thì sự
sống sót ấy mới có
thể dần
trở thành một cuộc sống
bình thường. Tôi cũng không biết người ta có thể phẫu thuật được cho cô ấy hay không, cũng không biết còn có thể ghép da cho cô ấy hay không. Sau đấy sẽ là hòa nhập với
thế giới phương Tây, học một
ngôn ngữ mới và tất cả những điều khác. Mỗi khi “đánh tháo” cho một nạn nhân,
chúng tôi biết đó là
trách nhiệm phải
đảm nhận suốt đời, như Edmond Kaiser vẫn còn.
Souad nằm xoay đầu về phía cửa sổ máy bay. Trong
tình trạng hiện nay, tôi không tin cô ấy có khả năng nghĩ đến những gì đang chờ đợi mình trong những ngày sắp tới. Cô ấy đang
hy vọng mà không biết
chính xác mình đang
hy vọng điều gì.
- “Em nhìn thấy gì kia không? Người ta gọi là mây đấy.”
Cô ấy đang ngủ. Tuy có lớp màn bao quanh nhưng một vài hành khách vẫn
phàn nàn có mùi khó chịu trên máy bay. Kể từ lần đầu tiên tôi đến thăm Souad trong gian phòng cách ly và chết chóc ấy, tính
đến nay đã hai tháng. Mỗi centimet da nửa người phía trên và hai cánh tay Souad đã phân
hủy thành một vết thương rộng hoác, rỉ mủ. Những hành khách đi cùng chuyến bay có thể đã
bịt mũi và nhăn mặt với các nữ tiếp viên để
tỏ ý ghê tởm, nhưng tôi không bận tâm chuyện đó. Tôi đưa sang châu Âu một cô gái bị thiêu sống và đứa con của cô ấy, một ngày kia họ sẽ biết ra sao. Họ cũng sẽ biết rằng, ở tất cả những nước có tục lệ giết người vì
danh dự theo luật của những người đàn ông, đã có nhiều cô gái khác
bị giết hoặc sẽ
bị giết. Chuyện ấy xảy ra tại Cisjordanie nhưng cũng có thể tại Jordanie, Thổ Nhĩ Kỳ, Irak, Yémen,
Ấn Độ, Pakistan, thậm chí tại Israel và cả châu Âu nữa. Họ sẽ biết rằng rất ít
phụ nữ thoát chết sau đó đã phải
trốn tránh suốt đời để không bị những kẻ sát nhân
tìm thấy. Bởi vì có nhiều
trường hợp bọn sát nhân tìm được nạn nhân của chúng. Họ sẽ biết
được rằng phần lớn các tổ chức
nhân đạo không
quan tâm đến những
phụ nữ
ấy vì đó là những
trường hợp xã hội cá biệt, mang đặc thù “văn hóa”! Và
rằng, tại một số
quốc gia,
luật pháp bảo vệ những kẻ sát nhân. Những
trường hợp này không nằm trong khuôn khổ các chiến dịch lớn được phát động nhằm đẩy lùi nạn đói và chiến tranh, giúp đỡ những người tị nạn hoặc
đối phó với đại dịch. Tôi có thể hiểu và
chấp nhận điều ấy. Trên công trường
thế giới buồn thảm này, mỗi người trong
chúng ta ai cũng có
vai trò của riêng mình. Và
kinh nghiệm mà tôi vừa
trải qua chứng tỏ rằng
phải rất khó khăn và mất
thời gian hơn nữa mới có thể
bí mật thâm nhập vào một
quốc gia, tìm dấu vết của những nạn nhân của
tội ác vì
danh dự, và giúp đỡ họ, bất chấp mọi nguy hiểm
rủi ro.
Souad là vụ “đánh tháo” đầu tiên của tôi, nhưng
nhiệm vụ của tôi vẫn chưa
kết thúc. Ngăn không để cho Souad phải chết là một chuyện, nhưng để
cho cô ấy
sống lại là một chuyện khác.
Chú Thích:
[3] Haram (tiếng Ả Rập): Khốn nạn thay!
[4] Allah karim (tiếng Ả Rập): Lạy thánh Allah!
[5] CHU: Trung tâm điều trị của phân viện y khoa.