CỬA KHÔNG CỬA (VÔ MÔN QUAN)
Dịch giả: Dương Đình Hỷ
HÀNG THỨ BA NÓI PHÁP
Cử
:
Ngưỡng
Sơn nằm mộng thấy đến cung trời Đâu Xuất của Phật Di
Lặc, ngồi vào hàng thứ 3. Có vị tôn giả bạch chùy rằng
:
-Hôm
nay người ở hàng thứ 3 nói pháp.
Sơn
đứng dậy bạch chùy :
-Nghe
cho kỹ, nghe cho kỹ ! Pháp Đại Thừa là ly tứ cú, tuyệt
bách phi.
Bình
:
Thử
hỏi Ngưỡng Sơn nói pháp hay không nói pháp ? Mở miệng là
mất mạng, ngậm miệng là chôn thây; ngay cả khi không mở,
không ngậm thì cũng còn xa chân lý 10 vạn, 8 ngàn dậm.
Tụng :
白
日 青 天
Bạch
nhật thanh thiên
夢
中 說 夢
Mộng
trung thuyết mộng
捏
怪 捏 怪
Niết
quái niết quái
誑
呼 一 眾
Cuống
hô nhất chúng.
Ngay giữa ban ngày
Nói mộng trong mộng
Bịa ra chuyện này
Lừa gạt đại chúng.
Chú
Thích :
-Ngưỡng
Sơn là học trò của Quy Sơn. Hai thầy trò là sáng tổ của
dòng Quy Ngưỡng. Đây chỉ là một giấc mộng, nhưng trời
đất lại chẳng phải là mộng sao ? Ngưỡng Sơn toàn thân
là tâm bồ đề, ngay trong mộng cũng còn nói pháp.
(Thánh
Tham)
-Tứ
cú : có, không, vừa có vừa không, không có không không.
-Bách
phi : 100 sự phủ định.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 : nếu các ông đạt đạo và ở trong đại định thì mọi
sự việc đều rõ như ban ngày.
Câu
2 : các ông đang nằm mộng trong một thế giới mộng. Đừng
mộng một giấc mộng điên.
Câu
3 : đây là một chuyện kỳ thú.
Câu
4 : đây là mánh lới cũ rích của Vân Môn dùng lời nói vô
lý để tạo nghi tình nơi các ông. Ông ta đang nói về các
ông chứ không phải nói về Ngưỡng Sơn.
(Sekida)
-Các
triết gia và các nhà thần học luôn luôn phân tích và tranh
luận về chân lý. Đó chỉ là những giảng giải và khái
niệm hóa. Chân lý của Đại Thừa (trong đó có Thiền tông)
là không chấp : vượt lên lời nói và tư tưởng. Đời sống
không phải là một khái niệm mà là ở đây và bây giờ.
Đại Thừa mà Ngưỡng Sơn dạy, chỉ thẳng vào thực tại
chúng ta phải chứng nghiệm nó cả đời.
(Kubose)
Tắc hai Mươi Sáu
HAI TĂNG CUỐN RÈM
Cử
:
Trước
buổi thọ trai, chư tăng tới tham Thanh Lương Đại Pháp Nhãn.
Nhãn chỉ cái rèm. Lúc đó có 2 ông tăng ra cuốn rèm lên.
Nhãn nói :
-Một
được, một mất.
Bình
:
Thử
hỏi ai được, ai mất ? Nếu các ông có một con mắt soi thấu
bí mật thì sẽ thấy chỗ thất bại của Thanh Lương quốc
sư. Tuy là vậy, kỵ nhất là bàn cãi về việc được mất.
Tụng :
捲
起 明 明 徹 太 空
Quyền
khởi minh minh triệt thái không
太
空 猶 未 合 吾 宗
Thái
không do vi hợp ngô tông
爭
似 從 空 都 放 下
Tranh
tự tòng không đô phóng hạ
綿
綿 密 密 不 通 風
Miên
miên mật mật bất thông phong.
Cuốn bức rèm lên, thái không hiện
Thái không chưa hẳn hợp tông ta
Sao bằng tất cả đều bỏ xuống
Chặt chẽ chẳng cho gió lọt qua.
Chú
Thích :
-Giải
thích về bài kệ :
Câu
1 : đạt đạo là cuốn lên bức rèm vô minh, hòa nhập
vào Thái Không.
Câu
2 : sao bằng tất cả đều buông xuống : khi các ông đạt
được tiến bộ khi tọa thiền, các ông phải quên đi những
gì các ông đã đạt được.
Câu
3 và 4 : đừng để tay trái biết tay mặt đang làm gì.
-Mỗi
sự việc đều có 2 mặt, một tốt, một xấu, một được
một mất. 2 ông tăng cuốn rèm lên là được vì tỏ ra hiểu
ý thầy, nhưng đồng thời cũng là mất vì ra vẻ ta đây là
điều cấm kỵ trong thiền học.
(Sekida)
-Pháp
Nhãn nói một ông tăng giác ngộ còn một ông tăng thì không,
một người đúng, một người sai mặc dù họ cùng làm một
việc, cùng lúc. Công án này chỉ rằng ở trong tuyệt đối,
tương đồng là sai biệt, sai biệt là tương đồng. Giống
như nước ở trong ly. Cả 2 đều trong suốt nhưng nước là
nước, thủy tinh là thủy tinh. Mặt khác Pháp Nhãn cố làm
cho thiền sinh bối rối để thử sự hiểu biết của họ.
Đừng tin vào một cái gì chỉ vì thiền sư nói thế. Có thể
chính thiền sư đã sai.
(Kubose)
Tắc Hai Mươi Bẩy
KHÔNG PHẢI TÂM, PHẬT
Cử
:
Một
ông tăng hỏi Nam Tuyền :
-Còn
có pháp nào chưa nói cho người không ?
-Có.
-Pháp
chưa nói là pháp gì ?
-Không
phải là tâm, không phải là Phật, không phải là vật.
Bình
:
Để
trả lời câu hỏi này, Nam Tuyền đã dùng hết cả của cải,
thật đáng nực cười.
Tụng :
叮
嚀 損 君 德
Đinh
ninh tổn quân đức
無
言 真 有 功
Vô
ngôn chân hữu công
任
從 滄 海 變
Nhậm
tòng thương hải biến
終
不 為 君 通
Chung
bật vi quân thông.
Lắm lời làm mất đức
Không lời thật có công
Mặc cho đời dâu biển
Cũng chẳng chỉ cho ông.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : dù có giảng đi giảng lại cũng chỉ làm tổn thất
hình tượng của thiền sư. Đại Đạo chân chính là không
lời, diệu dụng vô cùng.
Câu
3 và 4 : dù câu hỏi của ông có đảo lộn cả trời đất
thì tôi cũng không thể nói rõ cho ông cái không hình tướng,
không thể dùng lời để miêu tả.
-Thực
ra trong Bích Nham Lục ghi vấn đáp trên là của Nam Tuyền và
Bách Trượng, còn một đoạn nữa như sau :
-Đã
nói rồi mà !
-Đệ
chỉ biết vậy, còn sư huynh thì sao ?
-Tôi
không phải là đại thiện tri thức đâu biết đã nói, chưa
nói.
Nam
Tuyền thưa :
-Đệ
không hiểu.
-Tôi
đã vì ông mà nói rồi !
Lúc
trước Mã Tổ nói “Tức tâm, tức Phật”. Tâm đã là Phật
rồi còn đi tìm Phật ở đâu nữa ? Nhưng nói vậy có vẻ
tự cao, tự đại nên lại nói :”Phi tâm, phi Phật, phi
vật”. Câu của Bách Trượng : “ Tôi không phải là đại
thiện tri thức đâu biết đã nói, chưa nói”. Là chấp nhận
câu trả lời của Nam Tuyền. Nam Tuyền nói : “Đệ không
hiểu” là cố tình truy vấn. Câu đáp của Bách Trượng “Tôi
đã vì ông mà nói rồi” là chỉ tôi đã mượn mồm ông
mà biện giải rồi còn gì !
(Viên
Thông)
-Đây
là một công án rất khó. Câu hỏi thật ra là :
-Chánh
pháp có thể giảng ra được hay không ?
Khi
Nam Tuyền được hỏi có một giáo lý vượt lên lời nói
không ? Ông trả lời có và rồi mô tả nó không phải là
tâm, là Phật, là vật. Chánh Pháp vượt lên lời nói. Khi
nói ra, giảng giải nó liền bị hạn chế và không phải là
thực tại. Chư pháp vô thường, một vật không thay đổi
thì không phải là thực tại, nó là một khái niệm.
(Kubose)
Tắc Hai Mươi Tám
NGHE TIẾNG LONG ĐÀM ĐÃ LÂU
Cử
:
Đức
Sơn thỉnh ích Long Đàm đến tối, Đàm bảo :
-Đêm
khuya rồi, sao ông còn chưa đi ?
Sơn
trân trọng vái chào, vén rèm bước ra, thấy bên ngoài tối
thui bèn quay lại thưa :
-Bên
ngoài trời tối.
Đàm
thắp đuốc giấy trao cho, Sơn định đón lấy. Đàm liền
thổi tắt. Sơn do đó bỗng nhiên có tỉnh, bèn vái lạy.
-Ông
thấy đạo lý gì ?
-Con
từ nay không dám nghi ngờ miệng lưỡi các lão hòa thượng
trong thiên hạ.
Hôm
sau Long Đàm thượng đường bảo :
-Trong
đây có một gã răng như rào kiếm, miệng như chậu máu, nện
một gậy chẳng quay đầu, một ngày kia lên cô phong đỉnh
lập đạo ta.
Sơn
đem sớ sao ra trước tăng đường giơ đuốc lên bảo :
-Những
huyền diệu chỉ là một sợi lông trong Thái Hư, mọi yếu
quyết chỉ là một giọt nước đổ vào vực lớn.
Bèn
đốt hết sớ sao, lạy tạ rồi đi.
Bình
:
Đức
Sơn khi chưa ra cửa, lòng giận bừng bừng, miệng thốt lời
cay đắng muốn đi về Nam để giệt ngoài giáo truyền riêng.
Khi trên đường đến Lễ Châu, hỏi bà lão mua đồ điểm
tâm.
Bà
lão hỏi :
-Trong
xe của đại đức chở sách gì vậy ?
-Sớ
sao kinh Kim Cương.
-Trong
kinh nói “Tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều không nắm
được. Đại đức muốn điểm tâm là điểm tâm nào ?
Đức
Sơn bị một câu hỏi như vậy thì câm miệng, không chết
quách đi cho rồi mà còn hỏi lại bà lão :
-Ở
gần đây có vị thầy nào chăng ?
-Ngoài
đây 5 dậm có hòa thượng Long Đàm.
Đức
Sơn bèn đến Long Đàm giở hết lỗi lầm. Câu trước chẳng
ăn nhập gì với câu sau. Long Đàm như người thương con không
biết xấu, thấy con nghịch lửa vội dội nước bẩn dập
tắt. Trầm tĩnh mà xét thật đáng tức cười.
Tụng :
聞
名 不 如 見 面
Văn
danh bất như kiến diện
見
面 不 如 文 名
Kiến
diện bât như văn danh
雖
然 救 得 鼻 孔
Tuy
nhiên cứu đắc tỵ khổng
爭
奈 瞎 卻 眼 睛
Tránh
nại hạt khước nhãn tinh.
Nghe danh chẳng bằng gập mặt
Gập mặt chẳng bằng nghe danh
Dù rằng cứu được lỗ mũi
Nào ngờ con mắt thông manh.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : kiến văn chẳng bằng thể nghiệm.
Câu
3 và 4 : nếu chấp kinh điển thì bị kinh điển xỏ mũi lôi
đi. Đức Sơn đốt sớ sao là cứu được cái mũi. Nhưng không
chấp vào kinh điển khác với không đọc kinh điển. Không
đọc kinh điển giống như có mắt mà bị mù.
-Tâm
không có thực thái, chỉ bất quá xuất hiện trong một thời
gian ngắn ngủi rồi biến mất. Tâm quá khứ đã qua rồi,
tâm hiện tại thì chỉ trong sát na, tâm vị lai thì còn chưa
xuất hiện, như vậy đều không nắm được.
(Đạo
Long)
-Thiền
không dùng lời, cứu cánh là chứng ngộ tâm không phân biệt.
Đêm tối đen, đốt đèn lên rồi lại thổi tắt đi ám chỉ
ánh sáng ở bên ngoài tắt rồi, ánh sáng ở nội tâm sẽ
sáng lên khiến ta thấy được chân ngã. Do đó, ngôn ngữ
văn tự, ý thức phân biệt chỉ là một giọt nước trong
biển cả.
(Tinh
Vân)
-Công
án này so sánh học vấn và trí tuệ. Học vấn là loại tri
thức có thể thu thập được do nghe, đọc.
Trí
huệ là độc nhất, sáng tạo, cá nhân, không thể cho ai, cũng
không ai có thể lấy đi được. Đức Sơn là một học giả
chuyên nghiên cứu kinh Kim Cương và nương dựa vào đó. Khi
nhận đèn giấy từ Long Đàm ông tưởng sẽ dựa vào đó
mà soi đường đi. Khi Long Đàm thổi tắt đèn, ông không còn
gì để nương tựa vào. Chúng ta phải có ánh sáng nội tâm
để không gì thổi tắt được.
(Kubose)
-Trong
sinh hoạt hàng ngày có thể từ những sự việc bình thường
mà có thể thân thiết lãnh hội thiền ý, thì sự lãnh hội
này còn thật hơn là do sự suy luận. Cũng như người chỉ
học lý thuyết bơi lội chưa chắc đã dám xuống sông bơi
lội như những đứa trẻ nhà quê bơi lội chỉ nhờ kinh nghiệm.
(Học
Thành cư sĩ)
-Bất
kể chúng ta đang ở đâu, nên nhận định mình ở hoàn cảnh
nào ? trạng huống mình ra sao ? không so sánh mình trong quá
khứ và hiện tại, cũng không so sánh mình với người, vì
sẽ sinh ra tự tôn hoặc tự ty, vĩnh viễn bị ngoại cảnh
ảnh hưởng, không làm chủ được mình. Mình là sao thì là
vậy. Ngoài trời tối, có đèn thì càng tốt, không có đèn
cũng chẳng sao. Vượt lên sáng tối, đối lập mới thật
là giải thoát tự tại.
(Thánh
Nghiêm)
Tắc Hai Mươi Chín
KHÔNG PHẢI GIÓ, KHÔNG PHẢI CỜ
Cử
:
Nhân
gió thổi, cờ bay, có 2 ông tăng biện luận. Một ông nói
cờ động, một ông nói gió động. Cãi qua cãi lại chưa ra
lẽ. Lục tổ bảo :
-Không
phải gió động, không phải cờ động, là tâm các ông động.
2
ông tăng kinh sợ.
Bình
:
Không
phải gió động, không phải cờ động, không phải tâm động,
các ông thấy tổ ở đâu ? Nếu các ông biết rõ chỗ này
thì các ông biết 2 ông tăng bán sắt được vàng. Tổ sư
không thể nhịn được, bị lận đận một phen.
Tụng :
風
幡 心 動
Phong
phan tâm động
一
狀 領 過
Nhất
trạng lĩnh quá
只
知 開 口
Chỉ
tri khai khẩu
不
覺 話 墮
Bất
giác thoại đọa.
Gió, cờ, tâm, động
Tất cả đều nhầm
Chỉ biết mở miệng
Lời đã sai lầm.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : chấp vào cảnh (gió, cờ), hay vào tâm (Lục tổ) đều
sai.
Câu
3 và 4 : mở miệng ra là sai vì khái niệm không phải là thực
tại.
-Từ
công án này chúng ta có thể thấy quan điểm của các thiền
sư đối với ngoại cảnh là quay về với tự tâm, chứ không
ngừng lại ở sự vật. Sự tồn tại của hiện tượng là
phiến diện, hoàn toàn do chúng ta khởi tâm động niệm, phân
biệt mà có. Do đó chúng ta phải đạt tới cảnh giới động
tĩnh là một. Nếu tâm chúng ta trừ được vọng tưởng sai
biệt thì chứng được Niết Bàn tịch tĩnh.
(Tinh
Vân)
-Câu
chuyện đến đây vẫn chưa hết. Về sau trong các đệ tử
của Ngưỡng Sơn có một ni cô tên Diệu Tín, sử sự mọi
việc rất thông minh, nhanh nhẹn. Ngưỡng Sơn biết ni cô có
tài bèn giao cho toàn quyền phụ trách tiếp đãi những khách
bên ngoài tới. Một ngày kia có 17 vị hành cước tăng người
Tứ Xuyên đến thăm chùa, chuẩn bị hỏi pháp Ngưỡng Sơn.
Sau bữa ăn chiều, các vị hành cước tăng không có chuyện
gì làm, bèn tranh luận về Phật pháp. Khi đề cập đến gió
động, cờ động thì 17 vị có 17 ý kiến, tranh cãi náo loạn,
âm thanh lọt đến tai Diệu Tín. Diệu Tín lập tức hét lớn
lên :
-17
ông tăng kia, ngày mai trước khi đi phải thanh toán tiền phòng,
tiền cơm cho rõ ràng.
Thái
độ uy nghiêm khiến các ông hành cước tăng bỗng im bặt,
không biết làm sao cho phải. Diệu Tín lại ra lệnh :
-Không
được tranh cãi, hãy đến trình diện tôi. Tôi sẽ nói cho
các ông nghe.
17
người bất giác chạy đến trước mặt Diệu Tín. Diệu Tín
nói :
-Nếu
đã không phải gió động, cũng không phải cờ động làm
sao tâm động ?
Các
ông tăng hoát nhiên khai ngộ; đều thấy không cần phải nghe
Ngưỡng Sơn giảng pháp nữa. Ngày hôm sau, toàn thể đến
từ biệt Diệu Tín mà đi.
Hai
ông tăng chấp vào ngoại cảnh (gió, cờ). Câu nói của Lục
tổ là chấp vào tâm. Thực ra thì tổ đã vượt lên tâm và
cảnh. Ở đây tổ chỉ đơn giản chỉ cho 2 ông tăng chấp
vào cảnh là sai lầm. Câu nói của Diệu Tín phá cả tâm và
cảnh mới là hoàn toàn không chấp. Những gì khái niệm hóa
thì không phải là thực tại. Thiền dạy chúng ta nhìn và
hiểu sự vật như chính nó, chứ không bằng sự phân tích
hay khái niệm hóa.
((Kubose)
Tắc Ba Mươi
TÂM LÀ PHẬT
Cử
:
Đại
Mai hỏi Mã Tổ :
-Phật
là thế nào ?
-Tâm
là Phật.
Bình
:
Nếu
ngay đó các ông hiểu được thì mặc áo Phật, ăn cơm Phật,
nói lời Phật, làm việc Phật, là Phật vậy. Tuy là thế,
Đại Mai đã dẫn không thiếu người nhận lầm định tinh.
Sao ông có thể hiểu ra hễ nói đến chữ Phật chúng ta phải
xúc miệng 3 ngày ? Nếu là một người hiểu biết nghe nói
tâm là Phật, hắn phải bịt tai chạy mất.
Tụng :
青
天 白 日
Thanh
thiên bạch nhật
切
忌 尋 覓
Thiết
kỵ tầm mịch
更
問 如 何
Cánh vấn như hà
抱 臟 叫 屈
Bão tang khiếu khuất.
Ban ngày sáng tỏ
Chớ đi tìm quanh
Lại hỏi sao thế ?
Cầm
vật kêu oan.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 ; Tâm là Phật, đi tìm Phật ở ngoài tâm thì không
thể nào thấy.
Câu
3 và 4 : Phật trong tâm mình còn chưa lý giải, nhận thức,
thể nghiệm lại còn đi hỏi người ta thế nào là Phật ?
-Câu
trả lời cho câu hỏi đơn giản này có thể là bất cứ cái
gì, quan trọng là không chấp vào lời, nhưng hiểu rõ lời
chỉ về đâu. Mọi người đều có tiên kiến rằng Phật
là hoàn toàn, cao quý, thánh thiện, giác ngộ. Nhưng Phật không
phải là một đấng thượng đế, tách rời khỏi đời thường.
Phật tánh thì thanh tịnh nhưng đồng thời hiển hiện ở
mọi vật, kể cả những vật ô uế, tầm thường.
(Kubose)
Đại Mai (752-839) : pháp danh Pháp Thường, họ Trịnh người Tương Dương.
Tắc Ba Mươi Mốt
TRIỆU CHÂU KHÁM PHÁ BÀ LÃO
Cử
:
Một
ông tăng hỏi bà lão :
-Đi
hướng nào đến Đài Sơn ?
-Cứ
đi thẳng.
Ông
tăng vừa đi được năm, ba bước, bà thêm :
-Thật
là ông tăng tốt, lại đi đường ấy.
Sau
có ông tăng kể lại cho Triệu Châu nghe, Châu nói :
-Đợi
tôi đi khám phá bà lão này cho các ông.
Ngày
hôm sau liền đi, cũng hỏi như vậy, bà lão cũng đáp như
vậy.
Châu
trở về bảo đại chúng :
-Tôi
đã vì các ông đi khám phá bà lão ở Đài Sơn rồi !
Bình
:
Bà
lão chỉ biết ngồi trong màn bầy binh bố trận, giặc tới
không hay. Lão Triệu Châu giỏi nghề đánh úp cướp trại,
lại không có vẻ đại trượng phu. Kiểm điểm lại, cả
2 người đều sai. Thử hỏi Triệu Châu khám phá bà lão ở
chỗ nào ?
Tụng :
問
既 一 般
Vấn
ký nhất ban
答
亦 相 似
Đáp
diệc tương tự
飯
裡 有 砂
Phạn
lý hữu sa
泥
中 有 刺
Nê
trung hữu thứ.
Hỏi đã là một
Đáp cũng thế thôi
Trong cơm có cát
Trong bùn có gai.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : câu hỏi trước sau là một, câu đáp trước sau không
khác.
Câu
3 và 4 : câu hỏi và câu đáp đều là cơ ngữ, không thể
căn cứ trên chữ mà lý giải, phải chứng ngộ ý ở ngoài
lời.
-Một
câu trả lời cố định không thích hợp cho mọi trường hợp,
chân lý của đời sống là sự biến dịch.
(Thái
Chí trung)
-Đài
Sơn Tự là một ngôi chùa nổi tiếng được nhiều khách hành
hương viếng thăm. Dưới chân núi có một quán nước của
một bà cụ. Bà cụ là một thiền giả, cụ nội quán các
ông tăng ghé qua. Khi Triệu Châu đến quán nước, ông cũng
như các ông tăng, hỏi đường đến Đài Sơn và bà cụ đã
trả lời tương tự. Khi ông đi được vài bước, bà cụ
cũng nói :
-Lại
một ông tăng tốt đi đường đó.
Vấn
đáp thì tương tự, chỉ là các ông tăng khác bị bà cụ
khám phá, còn lần này bà cụ lại bị Triệu Châu khám phá.
Chủ ý của công án này là ông đang ở đâu ? Triệu Châu
tuy lập lại hành động của các ông tăng nhưng ông tự đi
đường riêng của mình.
(Kubose)
-Bà
lão nói “Cứ đi thẳng” là khuyên các ông tăng chuyên tâm
nhất ý cầu Phật đạo đừng để ngoại cảnh sai xử, nếu
bị người cười chê, chọc giận cũng không bị sân hận
làm lay chuyển lòng cầu đạo. Con người là một động vật
có cảm tính. Cảm tính dễ làm mất lý tính. Do đó chúng
ta nên nhớ kỹ lời bà lão “cứ đi thẳng”. Để cầu chân
lý chúng ta phải vứt bỏ mọi sân hận đối với đối phương,
hiểu biết đối phương, yêu thích ưu điểm của đối phương.
Lấy ưu điểm của đối phương bổ túc cho khuyết điểm
của mình. Nếu được vậy con người sẽ gần gũi nhau hơn,
xã hội cũng không có đối lập tranh chấp. Đó mới là vượt
qua đối phương và chính mình.
(Chung
Sĩ Phật)
Tắc Ba Mươi Hai
NGOẠI ĐẠO HỎI PHẬT
Cử
:
Ngoại
đạo hỏi Thế Tôn :
-Không
hỏi có lời, không hỏi không lời.
Thế
Tôn vẫn ngồi yên. Ngoại đạo tán thán :
-Thế
Tôn đại từ, đại bi vẹt đám mây mê khiến con có chỗ
vào.
Bèn
lạy rồi đi ra. A Nan hỏi Phật :
-Ngoại
đạo chứng được gì mà tán thán rồi đi ?
-Như
con ngựa hay, thấy bóng roi đã chạy.
Bình
:
A
Nan tuy là đệ tử của Phật mà kiến giải không bằng ngoại
đạo. Thử hỏi các ông ngoại đạo và đệ tử Phật khác
nhau bao nhiêu ?
Tụng :
劍
刃 上 行
Kiếm
nhẫn thượng hành
冰
稜 上 走
Băng
lăng thượng tẩu
不
涉 階 梯
Bất
thiệp giai thê
懸
崖 撒 手
Huyền
nhai tát thủ.
Đi trên kiếm sắc
Chạy trên tảng băng
Khỏi vượt thang bậc
Vách đá tay buông.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : diễn tả câu hỏi có lời, không lời của ngoại
đạo.
Câu
3 và 4 : Thiền tông không có giai đoạn, ngộ là bước vào
ngay cảnh giới Phật.
-Sự
im lặng của Thế Tôn rất năng động. Vị ngoại đạo liền
hiểu ngay và cảm ơn Ngài, nhưng A Nan thì lại không hiểu.
Chân lý vượt lên lời nói. Đời sống chỉ có thể hiểu
được bằng chính cuộc sống.
(Kubose)
-Khi
đã ngộ rồi thì sống trong thế giới không, không thể dùng
lời để diễn tả được vì như vậy là chủ quan, là chọn
lọc do đó bị trói buộc. Nhưng nếu không nói ra thì làm
sao truyền bá Phật pháp ? Ý của Bà La Môn là vậy. Để trả
lời Đức Phật chỉ ngồi yên lặng, chỉ rằng chỉ cần
thiền định, thoát ly phiền não. Vị Bà La Môn đã tu hành
thâm sâu nên mới hiểu được ý Phật. Câu đáp của Phật
xác nhận sự xuất sắc của vị Bà La Môn.
Kinh
Tạp A Hàm có ghi 4 loại ngựa :
1.Thấy
bóng roi đã chạy.
2.Roi quất vào đuôi đã chạy.
3.Roi
quất vào mình đã chạy.
4.Phải
đánh mạnh có khi đến chẩy máu mới chạy.
(Minh
Tuệ)
Tắc Ba Mươi Ba
CHẲNG TÂM, CHẲNG PHẬT
Cử
:
Một
ông tăng hỏi Mã Tổ :
-Phật
là Thế nào ?
-Chẳng
tâm, chẳng Phật.
Bình
:
Nếu
các ông thấy được chỗ này, thì việc tham học đã xong.
Tụng :
路
逢 劍 客 須 呈
Lộ
phùng kiếm khách tu trình
不
遇 詩 人 莫 獻
Bất
ngộ thi nhân mạc hiến
逢
人 且 說 三 分
Phùng
nhân thả thuyết tam phân
未
可 全 施 一 片
Vị
khả toàn thi nhất phiến.
Nếu gập kiếm khách thì tặng kiếm
Không gập thi nhân chẳng tặng thi
Gập người chớ nên nói ra hết
Chừa lại cho mình một chút chi.
Chú Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : khi giảng pháp phải tùy vào đối tượng và hoàn
cảnh, phải linh hoạt để người nghe tự ngộ.
Câu
3 và 4 : giảng pháp là một thủ đoạn khai ngộ phải dùng
phương tiện thiện xảo.
-Để
trả lời câu “Phật là thế nảo ?”, các vị thiền sư
đều trả lời khác nhau. Lúc trước Mã Tổ nói “Tức tâm,
tức Phật”, đã làm Đại Mai khai ngộ, nay ông lại nói ngược
lại “Phi tâm, phi Phật”. Nhiều giải thích tỷ mỉ đã
được nêu lên, nói tóm lại “Tức tâm, tức Phật” là
chánh đề, “Phi tâm, phi Phật” là phản đề, còn kết luận
đề là sao ?
Chính
Mã Tổ đã trả lời câu hỏi này. Ông nói :
-Tức
tâm, tức Phật là để dỗ con nít khỏi khóc.
-Khi
con nít ngưng khóc rồi thì sao ?
-Phi
tâm, phi Phật.
-Thầy
sẽ dạy thế nào khi một người đã trừ được cả 2 thứ
này ?
-Phi
vật.
-Nếu
một người đã vượt hết những thứ này ?
-Bảo
hắn hãy thể hội đại đạo.
Vậy
thế nào là Đại Đạo ? Chính tâm này là Phật . . . và cái
vòng luẩn quẩn tiếp diễn.
(Sekida)
Mã Tổ (709-788) : pháp danh Đạo Nhất, họ Mã, người Thập Phương, Hán Châu.
Tắc Ba Mươi Bốn
TRÍ CHẲNG LÀ ĐẠO
Nam Tuyền nói :
-Tâm chẳng là Phật, Trí chẳng là Đạo.
Bình
:
Có
thể nói Nam Tuyền là lão già không biết mắc cỡ. Vừa mở
miệng hôi, nếp xấu của nhà đã lộ. Tuy là vậy cũng ít
kẻ biết ơn.
Tụng :
天
睛 日 頭 出
Thiên
tinh nhật đầu xuất
雨
下 地 上 濕
Vũ
hạ địa thượng thấp
盡
情 都 說 了
Tận
tình đô thuyết liễu
只
恐 信 不 及
Chỉ
khủng tìn bất cập
Trời tạnh nhật sáng lòa
Mưa xuống đất được tưới
Có gì đều nói ra
Chỉ sợ tin không tới.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : trời tạnh mặt trời chiếu sáng, trời mưa thì đất
được tưới ướt.
Câu
3 và 4 : chân lý là tâm bình thường là đạo, rất giản dị,
nhưng nói ra thì ít người tin nhận.
-Nam
Tuyền là đệ tử của Mã Tổ. Mã Tổ dạy “Tức tâm, tức
Phật”. Câu trả lời nổi tiếng, phổ biến cho câu hỏi
“Phật là thế nào ?” Khái niệm hóa Phật mà không có kinh
nghiệm sống là điều tệ hại nhất trong Thiền học. Để
phá cái chấp này Nam Tuyền nói tâm không phải là Phật, trí
không phải là Đạo.
(Kubose)
Tắc Ba Mươi Lăm
THIẾN NỮ LÌA HỒN
Cử
:
Ngũ
tổ Diễn hỏi một ông tăng :
-Thiến
nữ lìa hồn, người nào là thật ?
Bình
:
Nếu
các ông ngộ được chỗ này thì vào thân, ra thân như ra vào
lữ quán, còn chưa thì chạy loạn. Khi đất, nước, gió, lửa
phân tán, thì các ông như con cua bể bị nước sôi, càng cua
khua loạn, đừng trách tôi không báo trước.
Tụng :
雲
月 是 同
Vân
nguyệt thị đồng
溪
山 各 異
Khê
sơn các dị
萬
福 萬 福
Vạn
phúc vạn phúc
是
一 是 二
Thị
nhất thị nhị.
Khe núi mỗi khác
Mây trăng chẳng sai
Vạn phúc vạn phúc
Là một, là hai.
Chú
Thích :
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 và 2 : trăng sáng chỉ có một nhưng có thể chiếu sáng vạn
vật thiên sai vạn biệt, cũng tương tự như tự tánh
Thể chỉ có một, nhưng Dụng thì thiên hình vạn trạng.
Câu
3 và 4 : -Phổ Dung tăng chủ nói : Tự tánh và sắc thân hợp
thành một người (tỷ dụ 2 Thiến Nữ hòa lại thành một)
Tuy là trong sắc thân có tự tánh nhưng mọi người không biết,
không thấy. Sắc thân và tự tánh tuy cùng ở chung nhưng 2
bên không liên lạc với nhau.
-Trong
tập Thái Bình Quảng Ký, Trần Huyền Hữu có chép truyện
Ly hồn ký. Đời Đường, Trương Giật sống ở Hoành Châu
có một đứa con gái là Thiến Nữ và một đứa cháu ngoại
là Vương Trụ. Từ nhỏ 2 đứa chơi đùa với nhau rất thân,
Trương thường nói đùa khi lớn lên sẽ cho 2 đứa làm vợ
chồng. Cả 2 đều tưởng thật. Về sau, Trương muốn gả
con cho người khác. Vương Trụ buồn rầu bèn từ giã cậu
mà đi, nói dối là lên kinh đô. Nửa đêm đang nằm trên thuyền
bỗng nghe tiếng chân chạy tới, nhìn xem thì là Thiến Nữ.
Mừng tủi lẫn lộn, cả 2 cùng đào tẩu. Hai người sống
chung ở đất Thục 5 năm, sinh được 2 đứa con. Thiến Nữ
nhớ nhà bèn cùng chồng trở lại Hoành Châu. Trụ về nhà
trước để tạ tội. Giật kinh ngạc Trương nói cho Trụ biết
Thiến Nữ từ khi Trụ bỏ đi thì bị bệnh hôn mê chưa hề
rời khỏi khuê phòng. Khi Thiến Nữ từ thuyền trở về nhà,
Thiến Nữ bị bệnh choàng dậy ra đón. Hai người ôm choàng
lấy nhau hòa thành một. Phật giáo không chấp nhận có một
linh hồn bất biến. Tất cả đều biến đổi trong tiến trình
từ nhân đến quả.
(Thánh
Tham)
-Hai
cô Thiến Nữ (một bị bệnh, một theo Vương Trụ) tượng
trưng cho Dụng của tự tánh trước và sau khi giác ngộ.
Lúc chưa ngộ đói ăn, mệt ngủ, gánh nước, bổ củi nhưng
không làm chủ được mình, là nô lệ cho dục vọng. Khi ngộ
rồi cũng đói ăn, mệt ngủ, gánh nước, bổ củi nhưng làm
chủ được mình, không làm nô lệ cho dục vọng. Ngũ tổ
dẫn chuyện trên để đề tỉnh đại chúng phải quay về
với chính mình, nỗ lực minh tâm kiến tánh, lúc đó đối
với sinh tử tự do, tự tại đến đi, không cần biết cô
Thiến Nữ nào là thật, vả lại trong truyện kể cũng không
xác minh cô nào là thật.
Đại
Hàm nói :
初
三 初 四 月 曚 曨
Sơ
tam sơ tứ nguyệt mông lung
不
似 金 鉤 不 似 弓
Bất
tự kim câu bất tự cung
誰
把 玉 環 敲 兩 段
Thủy
bả ngọc hoàn xao lưỡng đoạn
半
沈 滄 海 半 懸 空
Bán
trầm thương hải bán huyền không.
Mồng ba, mồng bốn trăng mông lung
Chẳng giống móc vàng, chẳng giống cung
Ai đem mảnh ngọc chia hai mảnh
Nửa chìm đáy biển, nửa treo không.
-Giải
thích bài kệ :
Câu
1 : khe và núi đều cùng một giải đất, nhưng cái này là
núi, cái kia là khe.
Câu
2 : trăng tỏ, trăng mờ (bị mây che), trăng tròn, trăng khuyết
đều vẫn là một trăng
Câu
3 : tất cả đều bình thường.
Câu
4 : chúng là một, chúng cũng là 2
-Mồng
ba, mồng bốn trăng mông lung : chỉ lúc chưa kiến tánh. Sắc
thân và tự tánh vốn là Thể, không thể phân ra. Ai đã phân
ra như chia vòng ngọc một nửa để dưới biển, một nửa
treo trên không ? (tỷ dụ chưa kiến tánh, thấy tự tánh xa
vời không đạt được)
(Dương
Tân Anh)
-Khi
một người giác ngộ, ông vượt lên khỏi thế giới nhị
nguyên và hiểu được chân lý của vạn pháp. Chân lý không
thể phân hai. Thực tại và ảo tưởng chỉ là tương đối.
Không có cái được gọi là Thực tại của ảo tưởng. Cái
mới chỉ có đối với cái cũ, Đông với Tây, thị và phi.
Sống và chết chỉ là hai giai đoạn của một tiến trình.
Hãy hưởng thụ mùa Xuân, mùa Hạ, cũng hưởng thụ mùa Thu,
mùa Đông. Chân lý là một, chân lý cũng là nhiều.
(Kubose)
-Ngũ
tổ Diễn xuất gia năm 35 tuổi, mới đầu học kinh điển,
nhưng tâm chẳng an. Ông bèn đi tham học các thiền sư. Một
hôm nghe Bạch Vân giảng cho một ông tăng về công án “Không”
của Triệu Châu, ông hoảng nhiên đại ngộ. Ông bèn làm bài
kệ :
山
前 一 片 閒 田 地
Sơn
tiền nhất phiến nhàn điền địa
叉
手 叮 嚀 問 組 翁
Thoa
thủ đinh ninh vấn Tổ ông
幾
度 賣 來 還 似 買
Cơ
độ mại lai hoàn tự mãi
為
憐 松 竹 引 清 風
Vi
lân tùng trúc dẫn thanh phong.
Trước núi một mảnh ruộng bỏ hoang
Khoanh tay tha thiết hỏi Tổ ông
Mấy lần bán đi rồi mua lại ?
Vì thương gió mát luồn rặng thông.
-Mảnh
ruộng ở đây là chỉ tâm (tâm điền)
-Mấy
lần bán đi rồi mua lại : ông khảo sát tâm đủ mọi phương
diện : chủ quan, khách quan.
(Sekida)
Tắc Ba Mươi Sáu
TRÊN ĐƯỜNG GẬP NGƯỜI ĐẠT ĐẠO
Cử
:
Ngũ
tổ Diễn nói :
-Trên
đường gập người đạt Đạo, nói, hay im thử hỏi
phải làm sao ?
Bình
:
Nếu
các ông biết chuyện này lại chẳng vui sao ? Nếu chưa thì
đối mọi sự phải cẩn thận.
Tụng :
路
逢 達 道 人
Lộ
phùng đạt đạo nhân
不
將 語 默 對
Bất
tương ngữ mặc đối
攔
腮 劈 面 拳
Lan
tai phách diện quyền
直
下 會 便 會
Trực
hạ hội tiện hội.
Gập được người đạt Đạo
Chẳng nói cũng chẳng im
Một đấm thoi ngay mặt
Lập tức hiểu ra liền.
Chú
Thích :
Giải
thích bài kệ :
Câu
1 : đó chính là các ông chứ không phải là ai khác.
Câu
2 : chẳng ai hạn chế các ông ngoài các ông
Câu
3 và 4 : hãy hiểu một cách trực tiếp đừng vòng vo.
(Thánh Tham)