Chương 18: Siêu Việt Nhị Biên

12/06/201012:00 SA(Xem: 17140)
Chương 18: Siêu Việt Nhị Biên

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG 
Thích Phước Tịnh Giảng Giải

CHƯƠNG XVIII
SIÊU VIỆT NHỊ BIÊN

Thưa quí vị,
Đây là một chương Kinh gồm những chữ Hán mà chúng ta đều biết nhưng để giải thích những từ nầy không phải dễ. Siêu Việt Nhị Biên là tên của chương mười tám nầy.
Siêu việt là vượt lên trên. Nhị biên là cặp song đối giữa phải và quấy, thánh và phàm, có và không, tốt và xấu... và vượt lên trên cặp đối đãi trong nhân gian gọi là siêu việt. Siêu là vượt lên trên, việt là nhảy ra khỏi, bước thẳng lên.

A. CHÁNH VĂN.

Phật ngôn: “Ngô pháp, niệm vô niệm niệm. Hành vô hành hạnh. Ngôn vô ngôn ngôn. Tu vô tu tu. Hội giả cận nhĩ, mê giả viễn hồ. Ngôn ngữ đạo đoạn. Phi vật sở câu. Sai chi hào ly, thất chi tu du.”

Đức Phật dạy: “Pháp của ta niệm mà không có người niệm và đối tượng niệm. Làm mà không còn người làm và đối tượng làm. Nói mà không có người nói và đối tượng nói. Tu mà không còn người tu và đối tượng tu. Người hiểu biết thì rất gần, kẻ mê thì rất xa. Dứt đường ngôn ngữ, không có vật gì ràng buộc. Sai chỉ một hào ly, mất liền tức khắc.”

Có lẽ chương nầy và chương cuối bốn mươi hai là hai chương khó nhất nhưng lại hay nhất. Chúng ta đọc đoạn chữ Hán trên thấy kinh văn ngày xưa thật là nghèo chữ, có phải không?

B. ĐẠI Ý.

Chương nầy có đại ýsiêu việt các cặp song đối, thể hiện đạo lý hiện tiền và phải cực kỳ cẩn trọng trên đường tu.

C. NỘI DUNG.

1. Đối tượng và chủ thể.

Thưa đại chúng, nội dung giáo lý đạo Phật có hai từ ta thường gặp nhất: là Năng và Sở. Nội hàm của hai chữ nầy tùy theo ngữ cảnh mà giải thích cạn và sâu khác nhau.

Năng là chủ thể, sở là khách thể hay đối tượng. Chủ thể (năng) là mình, khách thể (sở) là những đối tượng. Nếu ta quay lại bên trong thì thấy thân nầy là của tôi thuộc về sở, tức là cái bị tôi nhận diện và nó là sở hữu của tôi. Còn tôi là cái nhận biết bên trong, nhận biết đây là thân của tôi.

Cái khả năng nhận biết vô hình, vô thinh nằm bên trong ta gọi nó là chủ thể. Còn cái ta sờ, đụng đến được, cân đong đo đếm được như hình hài nầy là khách thể, là vật bị nhận biết. Từ ví dụ nầy, các vị quay vào bên trong thì các vị thấy cái gì bị ta nhận biết đều là khách thể cả. Còn “cái biết nguyên sơ” không phải bằng tri thức gọi là chủ thể. Và tùy theo khả năng ta đi vào đạo lý sâu bao nhiêu thì nhận ra ta là tự thể không sinh không diệt rõ bấy nhiêu. Con đường nầy là con đường quay trở vào.

Ví dụ ta nhìn ra ngoài, mặt cạn khách thể là rừng núi chung quanh. Chủ thể là tu viện, thiền đường. Do vì Tu Viện Lộc Uyển có mặt nên cảnh quan rừng núi, đất đai, cây cỏ bạt ngàn chung quanh có mặt. Người ta gọi tu viện gồm có thiền đường, tăng xá là chủ, mà đất đai cảnh tríbất động sản của tu viện. Nên những cơ sở vật chất được xây dựng là chủ. Còn núi rừng chung quanh là khách.

Về lãnh vực con người, thì con người là chủ, là năng. Tất cả cơ sở động sản hay bất động sản đều là sở hữu của ta cả.

Quay lại chúng ta, hình thể ngũ uẩn nầy là vật sở hữu của mình. Còn khả năng suy nghĩ, vận động ý chí bên trong của mình, điều động hình thể vật lý nầy, như tư duy, tình cảm của mình thì gọi là chủ thể. Nhưng những phần nầy có bóng dáng, cảm nhận được dù rất mịn, rất tinh tế và vô hình đều thuộc lãnh vực của sinh diệt nên là khách. Còn chủ là những gì thường trụ, không sinh diệt, không đến không đi, không vui không buồn.

Nhìn lại mình thì cái gì không sinh, không diệt, và cái gì là sinh diệt? Vui buồnsinh diệt, sâu hơn một tầng vui buồnsuy nghĩ, tiếng nói thì thầm cũng là sinh diệt. Lặn sâu hơn một tầng nữa, ta thấy lúc có tiếng nói thì thầm thì ta chính là dòng suy tư. Nếu chúng ta tĩnh tâm, tu chánh niệm vững vàng thì tiếng nói thì thầm nầy là cái bị nhận diện, mà ta là năng lực nhận biết.

Năng lực nhận biết nầy không có tiếng nói, nó như mảnh gương phẳng lặng trong veo và chiếu sáng nhưng chợt có tiếng thì thầm là nó nhận biết ngay. Ta gọi “tự thể rỡ ràng, tỉnh sáng, trong lặng nhận biết” ấy là chủ thể ban đầu của ta. Và nếu lúc nào ta cũng sống trong sự nhận biết liên tục nầy, là chúng ta đang an trú trong chánh niệm. Đạt đến trạng thái an trú trong chánh niệmchúng ta đang an trú trong tự thể Niết Bàn.

2. Siêu việt cả hai.

Thưa đại chúng, từ sự giải thích trên chúng ta đi vào câu: “Niệm vô niệm niệm.” có nghĩa là niệm mà không có đối tượng.

Niệm là gì? Niệm là chú ý. Chú ý thì phải có đối tượng để ta chú ý, và có cái gì bên trong để ta vận dụng ý thức đặt sự chú ý vào. Khi chúng ta có một đối tượng để đặt tâm thức vào, và bên trong tâm thức đang vận động năng lực đặt sự chú ý vào nó, cố gắng vận dụng để quán chiếu, thì thầm nói về nó là chúng ta đang còn trong trạng thái có mặt của đối tượng, chủ thể. Có mặt của năng và sở.

Nếu chúng ta vượt lên, không vướng vào đối tượng, không khởi tâm bên trong; chỉ an trú trong trạng thái lặng lẽ, rạng ngời thì gọi đó là “niệm vô niệm niệm.” Niệm mà không có đối tượng, không có chủ thể gì cả, siêu việt cùng một lúc, vượt lên trên hai tầng chủ thể, khách thể của năng và sở.

Chúng ta tu mà đạt đến trình độ công phu sâu sắc niệm mà vô niệm cũng là công phu bình thường nhất, là cái gì giản dị nhất. Vô niệmchúng ta an trú trong tâm Phật bản nhiên của mình, an trú trong tầng rất sâu của tự thể tâm. Trong kinh Viên giác gọi là niệm Chân Như hay niệm vô niệm.

Ở đây từ “niệm vô niệm niệm” được lập đi lập lại nghe khó hiểu nhưng nếu chúng ta luôn sống chánh niệm, tỉnh thức trong trạng thái tâm lặng lẽ, trống rỗng chiếu sáng thì gọi là niệm mà vô niệm. Và chỉ một câu nầy sẽ mở bung cho chúng ta dễ dàng đi vào những câu kế tiếp.

– “Hành vô hành hạnh.” Chúng ta có nhiều cấp độ để giải thích “hành vô hành hạnh.” như sau:

Cấp độ cạn nhất là những việc làm trong đời sống chúng ta. Chúng ta làm mọi việc mà muốn cho người khác biết đây là tôi làm, tức là có việc để mình làm, có tôi là tác nhân của những việc làm đó. Thông thường nếu tâm thức còn bản ngã thì chúng ta đều chạy theo qui luật như vậy. Ví dụ tôi ở trong chúng, tôi đã làm tất cả mọi việc bằng tấm lòng và thành công thì mọi người phải biết sự thành công đó do tôi làm, cho nên có năng và sở, có việc làm và có người làm. Đó là cấp độ cạn mà người ta thường muốn chứng minh cho mọi người biết việc ta làm, tức thì theo sau nó nào những buồn phiền, ganh tị, bất an, sân si, vô minh... sắp hàng dài trong việc có người làm và có việc đã làm. Nói một cách khác, khi có bản ngã chen vào, có cái ta ở trong đó thì mọi việc trở thành phiền não. Đây là phạm vi hẹp của đời sống con người.

Thưa đại chúng, nhìn vào phạm vi của đạo, nếu chúng ta còn tâm thức nhị biên thì đời sống tâm linh của chúng ta không vươn cao lên được. Ví dụ sống trong chúng cùng tu học, mình là người giỏi nhưng sống rất hài hòa, không muốn chứng minh mình là người giỏi dù đã làm mọi việc hoàn thành tốt đẹp. Ta cứ để đời sống mình hòa nhập trong chúng, tuôn chảy như dòng sông đẩy công việc đi, mang mọi người cùng đi thì đời sống đó là một đời sống đẹp lành, và chắc chắn sẽ vươn lên tầm cao trong đời sống tâm linh. Và đây chỉ là “hành vô hành hạnh” ở mức độ thấp cạn. Nếu trong chúng có được một người như thế là một sự đóng góp lớn cho tu viện, cho một trung tâm tu học.

Vươn lên đến tầm cao hơn nữa thì “hành vô hành hạnh” là hành Bồ Tát Đạo, đi trong lục đạo luân hồi và tất cả việc làm của mình như cúng dường chư Phật, hóa độ chúng sanh, giảng kinh, thuyết pháp, bố thí thân thể nầy... của các vị chỉ là công việc của một người do “tùy duyên nhậm vận” theo tâm đại bihành trì. Công hạnh sâu dày đã bao nhiêu kiếp tu tập, giáo hóa chúng sanh hay bé nhỏ như nâng niu sinh mạng của một con kiến... tất cả chỉ là việc bình thường như hơi thở, như mây trời lang thang thế thôi, chẳng có gì để tự hào cả. Làm mà không có việc để làm, năng và sở triệt tiêu. Nhưng năng lực của Đại bi tâm như nắng ấm hiến tặng nhân gian vô phân biệt; gọi đó là “hành vô hành hạnh,” ở cấp độ thâm sâu.

– “Ngôn vô ngôn ngôn,” là nói mà không có đối tượng để cho mình dạy dỗ, và tự thấy mình là người không dạy dỗ gì cả. Thường thì khi chúng ta nói ra là muốn người kia phải chú ý nghe mình, dạy người ta mà họ không nghe thì mình rất là phiền não. Đó là tâm thức đang ở tầng cạn. Trong đời sống tu học, chúng ta khá một chút thì trách nhiệm của ta là đóng góp, chia xẻ còn nghe hay không là chuyện của người ta. Nếu ta có nhiệt tình rất lớn, muốn giúp người nhưng họ không nghe mà chúng ta sinh phiền não thì ta tự chuốc lấy khổ cho mình. Cho nên nâng tâm thức của mình lên một tầng cao hơn thì chúng ta đã làm tròn trách nhiệm, còn nghe hay không là chuyện của họ. Và lòng từ bi của mình nếu mênh mông hơn nữa thì thưa đại chúng, chúng ta phải vận dụng trí tuệ làm thế nào để người ta có thể hiểu được những gì mình muốn trình bày. Đức kiên nhẫn, sự đợi chờ làm lớn tình thương yêu của những người tu Bồ Tát hạnh. Bằng khả năng của tình yêu thương chúng ta sẽ chế tác ra những phương pháp, những lời nói xuất phát từ trái tim, những cách thế cho người vượt qua những đau khổ, chông gai trong cuộc đời.

Tôi chia xẻ những điều trên để qui lại “Ngôn vô ngôn ngôn” là khi trong trái tim ta có hai chất liệu: tuệ giácthương yêu thì chúng ta làm tất cả vì người không phải vì mình. Ví dụ, một vị Thầy lên bục giảng có hai cách dạy: cách thứ nhất là muốn trình bày, khoe sự hiểu biết, kiến thức của họ. Cách thứ hai là làm thế nào giúp người nghe hiểu, và thực tập để tự chuyển hóa tâm thức. Hai điều nầy rõ ràng một là vì người mà nói, và một là muốn khoe mình.

Vì thế tùy thính chúng trong pháp hội mà vị thầy nói những lời bình dị, hay những chuyện cao vời hợp với nhu cầu trí thức của người nghe. Họ vì người mà nói, không phải vì mình nên gọi là nói mà không nói.

Ở tầng cao hơn nữa.“Ngôn vô ngôn ngôn,” là xóa mất đi biên giới chủ thể, đối tượng khi nói. Nếu mở những trang Kinh ngày xưa của Đức Thế Tôn, chúng ta thấy Ngài nói: “Trong bốn mươi lăm năm qua, đi khắp lưu vực sông Hằng ta chưa hề nói một lời.” Câu nói nầy của Ngài chúng ta nên hiểu là trong khi nói mà tâm ta vẫn an trú trong trạng thái chánh niệm thì lời nói tự nhiên như dòng suối từ bên trong chảy ra, không mất mình trong những điều mình nói. Tức chúng ta nói, làm mọi việc nhưng không bước ra khỏi vùng đất Như Lai bất động mình đang đứng.

– “Tu vô tu tu” có nghĩa tu mà không có đối tượng để thành đạt. Nói một cách dễ hiểu là không có quả vị để chứng đắc, không có người chứng quả gọi là tu mà không tu gì cả.

Nếu ta dùng lăng kính của Thiền Đông Độ thì tự ta đã có sẵn hạt mầm Phật bên trong rồi. Tu chỉ là nói trên ngôn ngữ mà thôi. Điều quan trọng là chúng ta trở về hồi phục được, sống được trong vùng đất tự tâm mà không cần phải làm gì thêm cả. Con đường tu là con đường loại dần ra. Lão Trang có câu:“Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn.” có nghĩa học thì một ngày một thêm, tu tập thì một ngày một bớt. Người xưa hay ví tự ta đã là viên kim cương, không cần đi tìm kim cương đâu nữa. Tự ta là Phật rồi, điều quan trọng là chúng ta biết loại bỏ những cấu uế bên ngoài trở về với tự thể kim cương chói sáng của ta.

3. Hai nẻo quay về.

Trong nhà Thiền có câu chuyện Ngài Vân Phong tham vấn một vị Thầy để xin mở con mắt đạo, được vị Thầy trả lời: “Phật pháp đâu phải cá sình, thiu thối đâu mà ông lo. Từ từ rồi ta sẽ dạy cho.” Và từ đó ông trải qua nhiều tháng năm làm lụng cực nhọc như mùa lạnh thì đi kiếm củi, chùa hết gạo thì phải đi kiếm gạo về nuôi chúng, làm thư ký lo sổ sách cho nhà chùa... Ngày qua tháng lại, lòng buồn vô cùng thấy nghiệp duyên mình sao nặng quá. Xin học đạo thì không được dạy, Thầy cứ hẹn hoài nên làm việc nhưng lòng không vui. Một hôm ngồi tọa thiền sau bếp, bất chợt ông nghe tiếng ầm không biết do chuột mèo chạy làm đổ rổ rá gì đó vang đến tai đánh thức ông, tự nhiên ông ngộ đạo.

Sau khi ngộ đạo, ông khóc vì quá vui mừng và ông đi lên phương trượng đảnh lễ Thầy. Vừa bước tới cửa, vị Hòa Thượng mở cửa bước ra cười bảo: “Ta mừng cho ông, việc lớn đã xong.” Ông liền đảnh lễ: “Thưa Thầy, đạo lý giản dị như thế nầy thì Thầy đâu cần gạt con mấy lần, Thầy làm cho con khổ sở, tham thiền học đạo ngày đêm như thế.” Hòa Thượng bảo: “Nếu ta không làm như thế thì ta vùi dập ông rồi. Tuy đạo lý rất gần, diện mục thật, tâm Phật bản nhiên ông tự có nhưng nếu không giúp ông, làm cho niềm khát khao của lòng ông lớn thì ta chôn luôn một đời của ông, ông không thể sáng được đạo, không thể nhận ra tâm Phật bản nhiên của ông.”

Thưa đại chúng, từ câu chuyện nầy chúng ta có hai lối để đi vào. Thứ nhất là đi vào bằng con đường ngộ lý. Thứ hai là đi vào bằng tác sự, có nghĩa là thực tập.

Thế nào là con đường ngộ lý, là con đường để chúng ta nhận ra lý? Nhận ra lý không phải khó, nếu có một chút kinh nghiệm chúng ta nhận ra rất dễ.

Tôi xin chia xẻ cùng quí vị từ cạn đến sâu. Cái cạn nhất, dễ nhận nhất là cái gì chúng ta gọi là của mình, là vật sở hữu thì không phải là mình.

Và ngộ lý là con đường để chúng ta nhận ra cái gì gọi là của ta thì đó chỉ là vật sở hữu mà không phải là ta. Đi vào chỗ cực thâm sâu sẽ nhận ra “Ta”chính là cái biết thường hằng, tĩnh lặng. Đó là trạng thái Niết Bàn tịch tĩnh có mặt ngay trong hình hài nầy. Chứng nghiệm được trạng thái nầy và luôn an trú trong vùng đất bất động ấy gọi là an trú nơi hữu dư Niết Bàn.

Chúng ta nên nhớ Vô Ngã là trái tim của giáo lý đạo Phật. Chư Phật vô ngã nhưng vẫn tràn đầy năng lượng đại bi và thường trú trong Niết Bàn. Tuy vô ngã nhưng vẫn có trạng thái Niết Bàn để chứng. Dĩ nhiên qua lời dạy của Đức Phật, chúng ta vững tin rằng thân nầy vốn là không nhưng vẫn có trạng thái an tịnh của Niết Bàn.

Khi nhận được điều nầy và vững tin thì gọi là người ngộ được lý. Tuy nhiên ngộ được lý rồi nhưng mỗi ngày chúng ta nhảy ra, nhảy vào vùng đất Niết Bàn ngàn vạn lần. Cho nên tu là làm thế nào để luôn sống với cái “nhận biết tỉnh sáng” từ sáng đến chiều mà không sống với những mênh mang suy nghĩ, không sống với những tiếng nói liên tục không dứt của dòng sông tâm thứcchúng ta an trú được trong tâm Phật bản nhiên. Con đường nầy, tức con đường ngộ lý rồi thì chúng ta tu rất nhẹ, và cách dụng công của chúng ta thong donghiệu quả rất cao. Khi đã ngộ lý rồi, đang trên con đường thực tập thì mọi bóng dáng quá khứ, buồn phiền, sầu khổ... chúng ta loại trừ rất dễ. Không một điều gì có thể phủ lên tâm thức để đọa đày ta cả.

Chúng ta làm được công việc nầy gọi là tu mà không có tu, tu như chơi, tu rất thảnh thơi, rất thong dong không có gì để làm cả. Chúng ta chỉ ngồi đó mà nhận diện đơn thuần các cảm thọ của tâm hành, các ý nghĩ ruổi rong trong vùng trời tâm của ta thôi. Như bà mẹ trìu mến nhìn con, để nó chạy chơi một mình đến lúc mệt nó ngủ thế thôi.

4. Cẩn trọng từng bước đi.

Thưa đại chúng, tôi xin lập lại và đi sâu vào nội dung của chương mười tám với chủ đề “Siêu Việt Nhị Biên.”

Siêu việt nhị biênvượt qua khỏi hai bên. Nhị biên là hai phía... Từ nhị biên nầy có rất nhiều nghĩa, như sinh tử, Niết Bàn cũng thuộc loại hai phía. Có và không, phải và quấy, tốt và xấu, dễ thương và không dễ thương, hạnh phúc và khổ đau đều thuộc về loại hai phía.

Điều đầu tiên chúng ta nên ghi nhận nhị biênthực tại của đời sống, tức là không hề có cái nầy mà không có cái kia. Như khi hạnh phúc có mặt thấp thoáng bên sau có khổ đau, tình bạn có mặt thì bên sau đều có bóng dáng của sự phản bội. Chưa bao giờ có sự thù địch trên hành tinh nầy mà không bắt đầu từ tình hữu nghị, bạn hữu với nhau cả. Ví dụ như chiến tranh trên thế giới xảy ra giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản, họ đã từng là bạn với nhau nhưng cũng từ họ mà làm nên những cuộc tương tàn, giết chóc, phá hủy từ nhân mạng đến văn hóa, kinh tế, tài chánh... trên hành tinh nầy. Thậm chí những cuộc Thánh chiến nhuộm đen một giai đoạn lịch sử châu Âu cũng phát sinh từ những người cùng một niềm tin vào đấng Cứu thế.

Trở lại vấn đề nhỏ của tự thân. Tự tâm chúng ta luôn có hai mặt của đời sống. Khổ đau hạnh phúc, nước mắt nụ cười đều cùng lúc có mặt. Và trên con đường tu chúng ta làm thế nào để vượt lên trên hai điều nầy gọi là siêu việt nhị biên. Và cuối cùng của đường tu là vượt lên trên Sinh tử Niết Bàn.

Trong toàn bộ Kinh Bốn Mươi Hai Chương thì đây là chương rất đặc biệt, chương bốn mươi hai tức chương cuối cùng có sắc thái đặc biệt như thế nầy. Nhưng ngôn ngữ sâu sắc, hay, ngắn gọn là chương Kinh thứ mười tám mà chúng ta đã và đang bước vào: “Niệm vô niệm niệm. Hành vô hành hạnh. Ngôn vô ngôn ngôn. Tu vô tu tu. Hội giả cận nhĩ. Mê giả viễn hồ. Ngôn ngữ đạo đoạn, Phi vật sở câu. Sai chi hào ly. Thất chi tu du.” Có nghĩa “niệm mà không niệm, hành mà không hành, nói mà không nói, tu mà không tu. Người hiểu thì rất gần, người không hiểu thì xa mịt mù. Dứt bặt nói năng, không có bất cứ một đối tượng nào, vật chất, tư duy, tình cảm... câu thúc ràng buộc tâm thức mình cả. Với pháp hành của mình nếu lệch một kẽ tóc, đường tơ thì mất liền đạo lý nhiệm mầu đang có trước mặt.”

Từ “vật” ở đây ngoài nghĩa ngoại vật thô là những đối tượng bên ngoài có hình thể, màu sắc, âm thanh, mùi vị... cũng còn là nội vật tinh tế như ý tưởng trừu tượng, tư duy, ý thức... của mình.

Thưa quí vị, khi chúng ta đi vào đời hoằng pháp, độ sinhnăng lượng tu của mình đã đầy, đã trong lặng sáng ngời thì sự có mặt của ta là một đóng góp lớn. Chúng ta giúp người chuyển hóa, giúp người phát triển tâm Bồ Đề mà không cần phải dụng công gì hết. Tự nhiên năng lượng lành thấm vào trái tim người.

Ngày xưa, các vị tỳ kheo sinh vào thời Đức Phật, có duyên lớn sống gần Ngài, năng lượng giác ngộ từ Đức Thế Tôn thấm đẫm vào trái tim của đệ tử nên các vị dễ chứng A La Hán quả vô cùng. Sự có mặt của các bậc giác ngộ là như thế.

Trong đời sống tu chúng ta đang thực hành “vô hành hạnh,” là tu mà không tu gì cả, độ sinh mà không có độ sinh gì cả. Nếu chúng ta tu giỏi, khi làm Phật sự lớn, Phật sự nhỏ hay độ sinhcông đức bằng hư không chúng ta thấy như trò chơi. Tại sao? Thưa, đó là những gì rất tự nhiên tuôn chảy từ trong tim ta, không có sự dụng công, không phải làm để người mang ơn mình. Nếu chúng ta tu dỡ thì khi giúp người một chút việc nhỏ nhoi, ta cũng thấy là mình đã làm việc lớn lao vĩ đại. Đối với người tu thật, thì đạt đến chỗ không còn dụng công nữa. Lòng từ bi, những việc lành đã làm xem nhẹ như tơ, như đôi dép rách không có gì phải bận tâm. Đó là việc phải làm của người tu.

Thưa, tôi nói đều nầy nghe rất ngược nhưng rất đúng. Tại sao? Vì nếu thầy tu không làm những việc tu tập độ sinh như vậy thì không thể làm điều gì khác, và họ phải cảm ơn những người họ đã giúp đỡ, giáo hóa, nuôi dưỡng vì nhờ người kia làm điều kiện cho lòng từ bi của họ tuôn chảy. Có người múc nước cho giếng của họ trong thêm, ngọt thêm.

5. Mặc tình theo duyên.

Chúng ta thường có một thói quen rất kỳ lạ là cứ tôn xưng quí thầy, thần thánh hóa vị thầy của mình. Tất nhiên ở mặt tích cực, đây là điều cần có để xây dựng niềm tin cho người mới phát tâm tu và quần chúng Phật tử. Nhưng ở mặt tiêu cực, điều nầy xoi mòn phẩm hạnh, nuôi lớn bản ngã của đời sống Tăng già. Sự sùng mộ, tôn vinh quá đáng dẫn đến hủ tục cúng dường vật chất phi chánh pháp, làm thành một tập thể người tu chìm dần trong đam mê danh lợi. Và những đạo tràng có các vị Tôn sư giỏi; các thầy, cô thừa hưởng được uy đức của Thầy mình tâm thức tự phụ, ỷ lại phát sinh tạo nên một tập thể kiêu mạn Tăng rất khó chịu.

Nếu các triều đình phong kiến những tôi thần được sủng ái do có công với vua đều trở thành một loại “kiêu binh” làm giảm tuổi thọ một đế chế. Thì trong đạo nhóm “kiêu mạn tăng” cũng dễ phát sinh và phá hoại chánh pháp cùng một cách thế như vậy.

Chúng ta hãy hồi tâm lại, nhìn kỹ vào điều nầy để thấy cái dỡ của mình là chính mình không lo tu, không quay về đào xới vùng đất tâm của mình mà cứ núp bóng những vị thầy lớn, rồi thấy hào quang của ông thầy là của mình. Tự hào về những điều của thầy mình. Nên nhớ, thầy mình là thầy mình, còn mình là mình đừng tự hào về ông.

Trong nhà Thiền người ta phân định ra ba loại đệ tử: loại thứ nhất đến với thầy để mong ve vuốt tình cảm yêu thương, là chỗ tựa để học trò kiếm chút tình cảm của thầy. Đó là cái dỡ của người đệ tử thấp nhất.

Loại thứ hai là lợi dụng danh tiếng, uy tín của thầy mình để làm ăn trên lãnh vực lợi danh.

đệ tử giỏi nhất là bước ngang qua hai điều đó. Đến với thầy để làm sáng lòng mình, để được trưởng thành trong sự rèn dũa, mài đập của thầy. Đến với thầy để đưa viên kim cương nguyên sơ lấm lem cát bụi cho người thợ ngọc kia mài dũa cho những cạnh thêm sắc bén, thêm sáng long lanh. Chứ không phải đến để nương tựa cuộc sống tình cảm, không phải đến để dựa vào tên tuổi lớn, danh tiếng của ông để ăn nên làm ra. Đây là những điều rất rõ chúng ta nên nhớ.

Thưa quí vị, khi đạo lý đã nhập cốt, tức đạo lý đã thấm vào xương tủy, thì từng tế bào máu của mình là chánh niệm, hơi thở của mình là chánh niệm, bước đi của mình là chánh niệm. An trú trong vùng trời chánh niệm trong sáng, tĩnh lặng thì từng lời, từng lời tuôn chảy một cách tự nhiên. Đối cơ giúp người chứ không phải vận dụng tư duy, nầy nọ để chứng minh cho người ta biết mình là người tài giỏi.

Một tâm thức thiếu sự thực tập, chúng ta thường cố đem hết tài ba của mình ra để làm đuôi công xòe ra lòe mắt thiên hạ. Người tu mà đạo lý thấm vào cốt tủy, thấm vào từng tế bào thì không phải như vậy; mà từng hơi thở là sự truyền đạt, từng lời nói là sự khiêm tốn, là lòng từ bi thấm đến người.

Người xưa khi đã đạt đến chỗ nầy thì: “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, nhậm vận trước y xiêm.” Sống tùy duyên để cho nghiệp cũ trôi mòn dần, thong dong mặc áo, ăn cơm thật thảnh thơi, tự tại.

Trong Thiền sử có ghi chuyện một vị quan lớn đến Thiền viện nọ hỏi: “Chúng ở đây có tụng kinh không?” Vị Thầy trả lời: “Chúng ở đây không có tụng kinh.” Ông quan ngạc nhiên: “Vậy thì chúng cả ngày tọa thiền ư.” “Không, ta cũng không dạy họ tọa thiền.” Vị quan liền nói: “Đã không tụng kinh, cũng không tọa thiền, vậy họ tu cái gì?” Vị Thiền sư: “Ta chỉ dạy cho họ làm Phật, làm Tổ chứ không dạy họ gì hết.” Ông quan thắc mắc: “Làm Phật làm Tổ là thế nào?”

“Ta chỉ dạy họ những sinh hoạt bình thường như ăn cơm, rửa chén, quét nhà... làm lụng như mọi người. Đời sống của họ là như thế. Nếu có ai nói phải tu là kẻ đó gieo tai họa cho Thiền đường ta.”

Thưa, đó là đạt đến trình độ tu mà không phải tu.

“Tùy duyên, nhậm vận.” là mặc tình theo duyên. Tức là khi nắm được pháp hành vững niềm tin nơi tâm Phật của chính mình, chứng nghiệm được pháp lạc trên con đường tâm linh thì người ấy có thể an trụ trong Già lam hay trôi nổi vào đời lúc nào cũng ứng dụng được công phu. Họ đem được sự thực tập vào mọi lãnh vực xã hội, mọi sinh hoạt trong những hoàn cảnh khác nhau, điều kiện khác nhau, không có hạn chế, không có khuôn khổ thì mới đáng gọi là một thiền nhân. Là người mà cả một đời trong từng hơi thở luôn an trú trong định, và cuộc sống thì mặc tình theo duyên.

Nếu chúng ta đã hiểu rồi thì rất là gần, nếu không hiểu thì xa vời vợi. Ví dụ pháp thực tập của chúng tachánh niệm, có niềm tin với phương pháp nầy thì càng ngày ta đi càng sâu. Khi thực tập sâu rồi thì thấy chánh niệmvô niệm, vô ngã, là Niết Bàn thường tại. Nó không khác gì với ngôn ngữ người xưa diễn đạt là thấy tánh, là ngộ đạo, là mở con mắt pháp, nhận ra mặt mũi thật của mình.

6. An trú nơi sự nhận biết.

Thưa quí vị, thực tập chánh niệm là mời tâm về an trú nơi thân. An trú trong chánh niệm hiện tiền, dừng lại ngay phút giây nầy, tâm không chạy đến tương lai, không chạy lui về dĩ vãng mà là luôn nhận biết. Nhìn là nhận biết mọi vật trước mắt, lắng tai nghe là nhận biết mọi âm thanh đang đến với tai mình. Và có hai tầng của sự nhận biết:

Nhận biết mà có tiếng thì thầm, vận dụng ngôn ngữ để đối thoại và độc thoại thì nhận biết đó không phải an trú trong chánh niệm thực sự, không phải an trú trong tâm Phật bản nhiên không sinh, không diệt; không phải an trú trong tự thể Niết Bàn.

Nhận biết không có tiếng nói thì thầm là sự nhận biết trực tiếp, rạng ngời, tỏa chiếu mênh mông. Chỉ khác nhau một tí vậy thôi. Hai trạng thái nầy qua lại tích tắc, lắt lay rất nhẹ.

Có một vị Thiền sư lên pháp tòa, ông ngồi yên không nói tiếng nào. Thính chúng chờ hồi lâu bảo nhau đi về. Khi thính chúng đi ra ông mở mắt nói: “Các ông toàn là lũ ăn hèm, (tức ăn đồ cặn bã). Ta nói pháp bình thường bằng ngôn ngữ thì các ông chịu nghe, còn ta đang nói pháp nhiệm mầu, tuyệt vời đệ nhất không ngôn ngữ thì các ông không biết nghe.”

Thưa đại chúng, mức độ thâm sâu hơn, đạo lý nhiệm mầu nầy nếu hiểu thì rất là gần, đang có mặt ngay đây trong từng phút từng giây. Nếu không hiểu, chúng ta chạy tìm thì đời nầy qua kiếp khác, chạy hoài không biết đâu là đạo lý cả; trong khi nó ở ngay trong ta. Cho nên câu Kinh trên Phật dạy:“người biết thì rất gần, người không biết thì đường mê rất xa.”

– “Ngôn ngữ đạo đoạn, phi vật sở câu.”

Thưa quí vị, ngôn ngữ thường rất hạn chế. Điều hạn chế đầu tiên là chúng ta đều có khái niệm khác nhau về vấn đề được trình bày. Ví dụ như từ dùng; chúng ta ở đây thường xử dụng chữ Bụt thay cho Phật. Đối với chúng ta thì khi đọc lên không có gì dị ứng trong tâm thức, chúng ta thấy đây chỉ là từ được dịch từ nguyên gốc. Nhưng những người đã quen với truyền thống dùng chữ Phật thì họ dị ứng, không có cảm tình. Cho nên mỗi ngôn ngữ đi kèm theo ý tưởng của mỗi người khác nhau nên ngôn ngữ hạn chế là như vậy.

Phải dùng tới ngôn ngữ để truyền đạt đạo lý không phải là con đường thật. Con đường thật không dùng ngôn ngữ. Chúng ta phải vượt ngang qua tầng ngôn ngữ để đạt thẳng đến đạo lý. Ngôn ngữ chỉ là một phương tiện, và nó rất vụng về. Đôi khi dùng nó, đã không chuyên chở được những gì ta muốn mà còn truyền đạt ngược lại điều mình muốn nói. Cho nên “ngôn ngữ đạo đoạn” là dứt bặt đường ngôn ngữ bên ngoài.

Ở tầng sâu, chúng ta hãy thử nhìn vào bên trong tâm thức. Không có những lo âu, bất an, sầu não... nào mà không khởi lên từ câu nói thì thầm. Chúng ta buồn cũng có câu nói thì thầm, có thể có những câu nói thô ta nhận diện được, nhưng có những sóng ý thức thầm lặng chúng ta không nhận diện được nhưng vẫn có những câu thì thầm làm phát sinh phiền não.

Lời nói thô là lời nói ra chúng ta nghe được. Lời nói mịn là lời nói tâm thức, tư duy để có thể viết thành những trang truyện, những lời thơ, những trang sách.

Ý tưởng, tư duy gọi là lời bên trong. Sâu hơn lời thì thầm là những đợt sóng lao xao của ý thức. Ví dụ có những nỗi buồn dệt bằng lời, có những hờn giận chỉ gợn sóng thôi cũng thuộc về lời.

Và sâu nhất là dòng chảy của vọng thức tạo thành nghiệp sinh tử luân hồi miên man. Nghiệp sinh tử không chấm dứt do vì đường ngôn ngữ nầy chưa dứt.

Thưa đại chúng, khi chúng ta an trú, thể nhập được trong vùng trời tâm bất sinh, bất diệt thì lời liền bặt dứt. Lúc bấy giờ ta sống trong trạng thái sáng tỏ nhận biết hiện tiền, nhưng chỉ cần nhích sai một ly thì ta mất liền. Ví dụ ta chỉ cần khởi một câu nói, nhưng không khéo thì câu thứ nhất dẫn đến câu thứ hai và kéo theo một tràng dài vui buồn, phiền não phát sinh. Chỉ cần lạc một chút buổi ban đầu thì sẽ đi mênh mông trong cõi luân hồi. Cho nên tổ Tăng Xán gọi “sai một hào ly, mất trong khoảnh khắc.”

Tóm lại, trên lý chúng ta có thể nhận được đạo rất dễ, ta có niềm tin vào phương pháp thực tập chánh niệm rất dễ. Nhưng để sống được với chánh niệm hiện tiền nhận biết, đòi hỏi công phu hành trì bền bỉ, kiên trì. Như lời cuối cùng của Ngài Milarepa dạy đệ tử lúc từ giã Ngài xuống núi sau bao nhiên năm theo Ngài tu học: “Đây là phương pháp bí mật. Học thì ngươi đã học xong nhưng tọa thiền thì phải cần ngồi nhiều hơn nữa. Ngươi hãy coi đây! Vừa nói Ngài vừa kéo cái khố lên đưa đôi mông chai sạn, lở lói của mình cho Gampopa.”

Thưa quí vị, chúng ta chọn con đường nầy để học làm Phật, làm Tổ, vượt lên trên phàm phu thành tựu quả vị Thánh. Đây là con đường không phải dành cho người giãi đãi, biếng lười, thiếu nhiệt tình mà có thể làm được. Điều nầy rất rõ ràng, xin nhắc nhau một lời như vậy.
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/06/2010(Xem: 57132)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.