Ngày ấy cách đây
đã lâu lắm rồi, hơn 2500 năm
lịch sử, với bao sự đổi thay của
nhân thế, lòng người và tạo hóa. Thế mà mãi
đến nay,
trải qua cùng phong sương tuế nguyệt đã có rất nhiều người và nhiều giấy bút viết về Người.
Người
xuất thân từ
hoàng tộc, đã
từ bỏ Ngai vàng, không màng
danh lợi,
tài sắc là những thứ mà người đời vốn
tham luyến khổ đau. Sau lưng người còn biết bao nhiêu người đang chờ đợi. Nào
công chúa,
thái tử và hàng bao nhiêu
cung nữ và cận thần khác. Thế mà người đã
quyết chí giũ sạch
bụi trần, nhẹ gánh
thong dong để làm thân
đạo sĩ, rày đây mai đó, chỉ đi
xin ăn và sống đời
khổ hạnh.
Có lúc Người đã đến tận cung vua của xứ Ma-kiệt-đà và khi
hay tin Người là Đông Cung
Thái Tử của xứ
Ca Tỳ La Vệ, nhà Vua của xứ Ma-kiệt-đà đã khuyên Người hãy ở lại nơi đây và Vua sẽ nhường cho nửa giang sơn để cùng trị vì
thiên hạ. Nhưng Người từ tốn tâu:
- Muôn tâu Hoàng thượng, nơi
Ca Tỳ La Vệ kia là cả một ngai vàng mà hạ thần cũng đã
quyết chí từ bỏ thì nơi đây dầu đức vua có thương tưởng nhường cho nửa ngai vàng, thì hạ thần này chỉ xin
cảm tạ chứ không dám
vâng mệnh nhận lãnh. Vì chí thần đã quyết, chỉ ra đi tìm đạo mà thôi.
- Nếu
Thái Tử đã quyết thì ta đây chẳng dám
trói buộc.
Tuy nhiên, nếu thành được
đạo quả rồi thì nhớ
trở lại đây để độ cho Trẫm và
Hoàng gia.
Đức Vua đã nói với
Thái Tử như thế.
Chính vì
giữ lời hứa trên, nên sau khi
thành đạo dưới cội bồ-đề,
Thái Tử đã về xứ Ma-kiệt-đà, nơi
Trúc Lâm Tinh xá. Ngài đã độ cho vua tôi và muôn họ tại xứ này.
Cứ thế và cứ thế, Người đã đi về hướng núi Gaya gần sông Ni Liên. Ở đây có sông nước
hữu tình, thật là
đẹp tuyệt vời với một
nhà tu khổ hạnh. Rồi từ đó Người lần dò lên
Khổ Hạnh lâm để tìm nơi trú ẩn.
Cuối cùng, Ngài đã chọn được một hang đá và
tọa thiền tỉnh thức suốt sáu năm trường tại đây, bên dòng sông Ni Liên
hiền hòa uốn khúc, lượn mình chảy quanh,
xuyên qua bao cánh đồng trù phú, bát ngát hương thơm của lúa mạ còn xanh.
Từ nơi đỉnh Gaya đó, mỗi ngày Người chỉ ăn một hạt mè và tâm thì lúc nào cũng
tỉnh thức nhập vào
chánh định. Một ngày nọ,
thân thể suy kiệt đến nỗi Người không thể
gượng dậy để đứng lên và bỗng nhiên hoang mang với sự
tu khổ hạnh của mình trong sáu năm dài ấy. Người vội
gượng dậy đi từng
bước xuống núi.
Núi tuy không cao lắm, nhưng với vóc dáng hao gầy,
sức lực không còn, nên chỉ cần một hạt sạn nhỏ
vướng chân cũng đủ làm cho Người phải
chao đảo, mất thế thăng bằng. Mắt hướng về dòng sông
hiền hòa và tâm thì
an lạc,
tự tại tuyệt vời. Người đã đến bên dòng sông tắm rửa sạch sẽ và quyết không
thực hành khổ hạnh nhịn đói nữa, mà
quyết định dùng cơm cháo
trở lại bình thường qua sự
khất thực hằng ngày.
Rồi Người lập nguyện bằng cách quăng
bình bát theo dòng nước trôi và nguyện rằng: “Nếu ta
thành tựu được
sở nguyện thì
bình bát kia hãy trôi ngược dòng sông.”
Quả nhiên như vậy.
Mặc dầu dòng nước sông Ni Liên vẫn
lững lờ trôi, nhưng
bình bát kia, kỳ lạ thay, đã trôi ngược dòng,
trở lại nơi Người đã
phát nguyện.
Thế rồi
theo dấu chân cũ, Người đã đi
trở lại đỉnh Gaya. Từ dòng sông lên đến núi, nếu một người
bình thường di chuyển chỉ cần chừng hai tiếng đồng hồ là đến. Nhưng đối với Người vào lúc này, đây là một thách thức rất cam go.
Mặc dầu sau khi tắm gội xong,
thân thể Người thấy nhẹ hẳn đi, nhưng sao bước chân ấy vẫn không lê gót nổi.
Lúc ấy chẳng phải Người nhớ lại thuở xưa, lúc tuổi xuân xanh, đang sống trong
cuộc đời Vương giả, với bao kẻ hầu người hạ và nét đẹp ngày xuân. Còn bây giờ
chí nguyện vẫn chưa thành, mà tấm thân lại càng thêm
tiều tụy.
Không phải thế! Bỗng
ý chí Người càng
cương quyết hơn lên để tiến bước. Và kỳ lạ thay! Chính
ý chí,
sức mạnh của
nội tâm đã mang Người đến chốn cũ. Rồi Người ngồi xuống,
tự nhiên trong dạ nao nao. Vì chắc rằng sẽ có
điềm lành xuất hiện. Mà thật thế
tự nhiên có một người con gái đến
trước mặt Người và khấn rằng:
- Chính con đã nhờ được Người
ban cho một đứa con bụ bẫm qua lời
cầu nguyện suốt mấy năm nay và hôm nay con đem lễ này xin dâng lên Ngài. Kính mong Ngài nhận cho con với tấm lòng
độ lượng.
Nhà tu khổ hạnh vẫn
trầm ngâm, biết nàng đã lầm mình là thần núi. Nhưng không sao, cứ nhận lãnh sự dâng cúng ấy để nuôi thân. Ngài không nói lời nào nhưng nàng thì vẫn
thì thầm khấn nguyện.
- Đây là bát cháo
nhũ mi làm bằng sữa bột mì và sữa bò. Xin Ngài nhận cho
lòng thành của con.
Đoạn nàng dùng hai tay dâng lên Người. Hai tay như
bất động.
Tuy nhiên, người đã đỡ bát cháo
nhũ mi và húp trọn một hơi không ngừng nghỉ. Đoạn Ngài nói:
- Thật ra ta chẳng phải là một vị
thần linh nào, chỉ là một
nhà tu khổ hạnh của núi đồi này. Vì ta quyết dấn thân theo
con đường Trung Đạo nên đã dùng bát cháo của nàng. Ta xin
cảm ơn nàng và hãy cho ta biết danh tánh.
- Con là Sujata, một người dân
bình thường tại làng này.
Sau khi dùng bát cháo xong, Người
cảm thấy nhẹ nhàng
thanh thoát, tựa như những phiến mây bay
thanh thản trên trời cao với bao vì sao lấp lánh trên bầu trời vào ban đêm như thế. Đã bao đêm trong sáu năm
khổ hạnh, Ngài đã
chiêm nghiệm về
cuộc đời, về sự
vô thường của
nhân thế, nhưng đêm nay bỗng nhiên
tinh tú lại sáng rực lên. Cao cả hơn bao giờ hết. Thật là
tuyệt vời, thật là
rạng rỡ.
Trong đêm ấy, Người đã
đi vào cõi định và
dự tính sẽ
thành đạo ngay tại chốn
khổ hạnh này, nhưng
chư Thiên hiện ra trong gió và
cung kính bảo:
- Kính thưa Ngài! Nơi đây Ngài không thể
thành đạo được. Vì quả đất sẽ rung chuyển nhiều lần và đá núi này sẽ sụp xuống. Không thể được, không thể được, này người con của sự
giác ngộ.
- Thế thì ta phải làm gì đây?
Nhà tu khổ hạnh đang
suy nghĩ như thế thì
chư Thiên tiếp lời trong gió:
- Cách bên kia dòng
sông Ni Liên Thiền không xa, có một
Kim Cương Tòa. Nơi ấy chính là nơi để Ngài
thành đạo. Vì nơi ấy chư Phật trong
quá khứ đã thành, chư Phật trong
hiện tại đang thành và chư Phật trong tương lai sẽ thành.
Ba đời chư Phật đều
thành tựu sự
giác ngộ nơi ấy. Do đó, Ngài nên đi về hướng đông kia, xin Ngài đừng từ chối.
Trong
trí tuệ, trong sự
tỉnh thức Người đã choàng dậy và sửa lại tấm y vàng,
thong thả bước về hướng dòng sông mà ngày trước Người đã đặt chân đến. Mùa này dòng sông đã cạn bớt nước nên Người không phải
vất vả tìm đò mà tự mình lội qua con sông rộng
thênh thang ấy.
Vạch lau sậy và cây cỏ Người tìm đến dưới một gốc cây có tàn lá sum sê phủ kín cả một vùng. Người thấy rằng đây là chỗ
lý tưởng để
thiền định và đạt
thành sự giác ngộ.
Bỗng đâu có hai em bé chăn cừu
xuất hiện và mang trên tay những lọn cỏ
kiết tường. Chúng dâng những lọn cỏ này cho Ngài và Ngài đã nhận.
Nghĩ lại thuở xưa, trên bước đường thiên lý trước khi tu sáu năm
khổ hạnh, Người đã chẳng nhận một nửa ngai vàng của vua ban. Còn bây giờ lại nhận những lọn cỏ của hai em bé chăn cừu, quả là điều
hy hữu.
Thế là từ đó Người đã có cỏ lót để ngồi, vẫn với dáng thẳng đứng, Ngài ngồi
bất động dưới cội cây ấy
cho đến ngày
giác ngộ.
Lúc ấy vào đúng khi sao mai mọc vào ngày mồng 8 tháng 12 năm 624 trước Tây lịch,
đánh dấu một sự chiến thắng
hoàn toàn bằng
lòng từ bi và
tuệ giác của đấng
Điều Ngự trước bao sự quấy phá của
thiên ma và
ngoại đạo. Kể từ ấy Ngài có danh xưng là Phật, hiệu là
Thích Ca, cũng gọi là Bậc
tỉnh thức,
Đấng giác ngộ.
Tuần lễ đầu tiên, ấy Ngài
quán sát về
căn cơ của
chúng sanh và đã thốt lên rằng: “Kỳ lạ thay! Tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh.”
Câu này nếu đem phân tích, ta sẽ thấy
ý nghĩa sâu sắc trong từng chữ vậy.
Nghĩa là trước khi
thành đạo Ngài chưa thấy rõ
Phật tánh nơi mỗi
chúng sanh, mà chính sau khi
thành đạo rồi, qua
sự quán chiếu bằng
tuệ giác, Ngài mới
khám phá ra được điều đó. Do vậy, Ngài mới thốt lên là: “Kỳ lạ thay!” Ba chữ này cũng có thể hiểu là một
phép mầu mà lâu nay
chúng sanh,
nhân loại đang
tìm kiếm và
cầu nguyện. Thật ra nó không ở bên ngoài, mà đang ở bên trong ta, bên trong tất cả
mọi người.
Tất cả
chúng sanh ở đây là chỉ chung
mọi người, mọi loài. Từ
loài người cho đến những côn trùng nhỏ nhiệm đang
ở chung quanh Ngài, nơi cây Bồ-đề hay trong
mười phương vô biên thế giới cũng đều đầy đủ. Từ những
chúng sanh nơi
cõi trời đến những
chúng sanh nơi
địa ngục. Từ những
chúng sanh ở cõi Dục
cho đến những
chúng sanh ở cõi Sắc và
Vô sắc cũng đều giống nhau! Chỉ khác biệt ở chỗ có
chúng sanh thì
tâm thức đã
chín muồi, có
chúng sanh thì vẫn còn nằm trong
tối tăm mờ mịt.
“Đều có Phật tánh” nghĩa là với khả năng này, nếu có tu, tất cả
chúng sanh đều sẽ
thành Phật như Ngài, nhưng phải
trải qua nhiều năm, nhiều tháng, nhiều a-tăng-kỳ kiếp.
Phật tánh ấy cũng
ví như sự
chuyển hóa từ vị chát đến vị ngọt của một trái hồng khi còn ở trên thân cây. Nếu trái hồng còn xanh thì vị rất chát, nhưng qua tháng ngày
hấp thụ bởi nhựt
nguyệt tinh tú, mưa móc, sương rơi... hồng ấy sẽ
biến thể, để đến một ngày vị sẽ ngọt lịm và khi đã ngọt lịm rồi thì không thể bị chát
trở lại nữa. Nghĩa là khi đã
thành chánh giác rồi thì không còn
trở lại con đường luân hồi khổ đau như những
vị đắng chát của
cuộc đời nữa.
Nhưng
vấn đề được nêu ra ở đây là, khi nào thì
vị đắng chát ấy chuyển thành vị ngọt?
Thời gian ấy do tự
chúng ta quyết định, chứ không phải do một
nguyên nhân ngoại tại nào cả.
Đến
tuần lễ thứ hai, từ
thiền định mà dậy, rồi Đấng
Đại Giác đi về hướng đông của cây bồ-đề. Cứ mỗi bước đi, từ dưới chân Ngài nở một đóa sen. Ngay tại nơi đó,
cho đến bây giờ khách
hành hương khi về
Thánh Địa này vẫn bàng bạc lâng lâng, vì biết rằng bên cạnh mình,
trước mắt, sau lưng mình
đâu đâu cũng có sự
hiện hữu của Đấng
Toàn Giác.
Nếu người ta
bảo hoa súng là
hoa thiên tử thì
hoa sen là hoa
quân tử, vì gần bùn mà không bị bùn dơ làm
vẩn đục. Ngài bước đi 18 bước như thế trong tư thế của bậc
tỉnh thức,
thong thả, nhẹ nhàng,
thảnh thơi như mây bay, như gió thổi. Về sau này, căn
cứ theo đặc tính thoát tục của
hoa sen nên người ta đã
giải thích hoa sen có năm
đặc tính như sau:
Đặc tính thứ nhất là
đặc tính thoát tục của
hoa sen. Đó là:
“Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Hoa sen mọc từ nơi bùn nhơ nước đọng, nhưng khi đã
thoát khỏi mặt nước rồi lại
tỏa ra những hương thơm
tinh khiết lạ thường. Cũng như thế đó, trong cuộc lữ
tử sinh của
kiếp người, tất cả
chúng ta đều
xuất phát từ chỗ
luân hồi mà
thành tựu được thân
ngũ uẩn này. Rồi cũng từ đây, ta phát triển
Phật tâm của mình, để một ngày nào đó
Phật tánh sẽ
biểu lộ, như đóa
bạch liên đang tỏa ngát hương thơm nơi
bùn lầy nước đọng.
Đặc tính thứ hai là
nhân quả đồng thời. Nghĩa là trong nhân có quả, trong quả có nhân. Không bao giờ có được một loài hoa khác nào như thế. Nghĩa là khi tỏa rạng
gương sen, cũng chính là lúc nhân hạt sen đã đầy đủ nơi
gương sen kia rồi. Thông thường của tất cả loài hoa là sau khi
hoa tàn rồi quả mới bắt đầu ló dạng.
Đặc tính thứ ba là
nhân quả dị thời. Nghĩa là nhân có ở trong lúc này, nhưng quả là gặt nơi lúc khác. Không
nhất thiết là chỉ ở cùng trong một lúc. Đó là
lá sen và
hoa sen. Hoa và lá không cùng trên một cành, mà từ
dưới đất hai
chủng tử này đã phát triển riêng biệt thẳng đứng và từ đó
lá sen phát triển theo phần lá. Còn bông sen phát triển theo phần bông. Chưa có một loài hoa nào khác có
đặc tính như thế này.
Đặc tính thứ tư là
hoa sen không phải là loài hoa để trang sức, mà chỉ dùng để
cúng Phật. Nghĩa là nơi nào trang trọng là nơi đó có sự ngự trị của
hoa sen. Bởi vì
đặc tính quân tử của nó.
Đặc tính thứ năm và cũng là
đặc tính cuối cùng. Đó là
hoa sen không phải là một loài hoa để ong bướm dễ vào như những loài hoa khác.
Chứng tỏ sen vẫn trinh nguyên, tự
bảo vệ sự thanh cao của mình, quyết không lả lơi trước gió và trăng sao.
Ở một vùng quê nào đó, nhằm vào
đêm trăng rằm sáng tỏ, ta thử dạo chung quanh một hồ sen để
thưởng thức hương sen và để xem vẻ kiêu kỳ
quân tử của sen thì
thú vị biết
chừng nào.
Ngày nay
chúng ta thấy những
hình ảnh tôn tượng của chư Phật và
Bồ Tát, đa phần ngồi hoặc đứng trên
tòa sen là
tượng trưng cho những
ý nghĩa vừa kể.
Bên cạnh
Đại Tháp Bồ-đề nơi
Đức Phật thành đạo,
cho đến ngày nay những đóa sen
tượng trưng bằng đá ấy vẫn còn
hiện hữu và in
dấu chân Ngài.
Đến
tuần lễ thứ ba thì cũng từ
thiền định mà dậy, Ngài đi về
hướng tây của cây bồ-đề. Ngay
lúc ấy Ngài đã gặp hai người
thương gia Miến Điện đến đây và thấy dáng đi
trang nghiêm,
hình dung đĩnh đạc, tỏa ánh
quang minh, nên hai vị này quỳ xuống
chắp tay và xin
trở thành những
đệ tử tại gia đầu tiên của
Đức Phật. Hai vị này lúc đó chỉ xin
quy y Phật,
quy y Pháp chứ không có
quy y Tăng. Vì
lúc ấy Tăng đoàn chưa
thành lập. Hai vị này sau khi
quy y bạch Ngài rằng:
- Chúng con từ xa đến, đúng là đã có
nhân duyên nhiều kiếp với Ngài, nên chúng con muốn tìm một vật gì nơi thân Ngài để làm chỗ quy hướng
phụng thờ sau khi về lại nước.
Ngài
trầm ngâm một lúc lâu như
suy nghĩ điều gì. Đoạn Ngài đưa tay lên đầu, tự bứt những sợi tóc xuống và cắt một ít móng tay sau những tháng ngày
tu khổ hạnh và
thiền định để trao cho hai vị
thương gia này. Kể từ đó
đến nay suốt hơn 2.500 năm
lịch sử, tại kinh đô Ngưỡng Quang của Miến Điện, người ta thấy từ Vua chúa
cho đến dân giả đã xây những chùa tháp nguy nga
tráng lệ, trên tháp chỉ thếp vàng. Đó là nơi để thờ xá-lợi tóc và móng tay của
Đức Phật.
Xá-lợi của Ngài hay chư vị
Thánh Tăng ngày nay vẫn còn
lưu bố khắp nơi. Trong đó
đáng kể nhất là hai chiếc răng trong 40 chiếc răng còn lại. Một chiếc được thờ tại Kandy, cố đô của
Tích Lan và một chiếc được thờ ở chùa
Linh Quang tại
Trung Quốc.
Ngoài ra, xá-lợi xương của Ngài sau khi
hỏa thiêu tại rừng
Ta La nơi Kushinagara ngày nay vẫn còn
hiện hữu khắp năm châu bốn bể. Ngay cả trên
thiên cung hay
long cung cũng vẫn đang tôn thờ xá-lợi của Ngài.
Đức Phật có
ba thân. Đó là
Báo Thân,
Hóa Thân, và
Pháp Thân.
Báo Thân tức do
cha mẹ sanh ra
trong đời này, lớn lên
xuất gia tu học,
thành đạo và
thị tịch Niết-bàn. Đó là một thân bằng da, bằng thịt. Nếu một người
bình thường thì thân này do
nghiệp chướng mà
thành tựu, còn thân Phật hay thân
Bồ Tát hoặc chư vị
Tổ sư là do
nguyện lực mà
thành tựu. Ta thì
nghiệp lực dẫy đầy nên bị sanh vào
thời mạt pháp. Còn Phật
mặc dầu cũng còn
báo thân, nhưng do
công phu tu tập bao đời và
nguyện lực đã đầy đủ, nên
đức Phật đã
thành đạo trong kiếp này.
Hóa thân hay
ứng hóa thân là do
nguyện lực mà
thành tựu mọi
hạnh nguyện.
Ví như đức
Quán Thế Âm Bồ Tát có tới 32
hóa thân và có thể nhiều hơn nữa. Lúc muốn độ cho người nam, thì Ngài
hiện thân ra nam tử. Lúc muốn độ cho người nữ, Ngài
hiện ra nữ nhân v.v...
Vì vậy tiếng Đức nói: “Buddha hat weder Form noch Gestalt.” Nghĩa là “Phật không những chỉ có
hình thức này mà còn ở dạng thức khác nữa.” Do vậy nam hay nữ, Vua hay quan, Tể tướng hay lính hầu, tất cả
hình thức ấy
Bồ Tát do
nguyện lực mà
hóa thân tự tại vô ngại để ứng vào trong từng
hoàn cảnh một để
độ sanh.
Pháp thân tức là chơn
thân thanh tịnh. Không đến không đi, không còn, không mất. Vì thế, trong
kinh Kim Cang có đoạn nói: “Như Lai giả,
vô sở tùng lai diệc
vô sở khứ, cố danh
Như Lai.” (
Như Lai tức là chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là
Như Lai.) Ấy là “như như bất động”, là
diệu pháp chơn như,
thường hằng bất biến vậy.
Những người
thương nhân này nhận được những xá-lợi ấy
chắc chắn là rất mừng và chính nhờ họ mà vua chúa Miến Điện mới có cơ hội để xây tháp, làm phước
bố thí cúng dường mãi
cho đến ngày nay.
Tuần lễ thứ tư, Ngài đi
xa hơn một chút nữa cũng từ cơn
tỉnh thức mà dậy. Nơi ấy cách cây bồ-đề chừng 200 thước, mà ngày nay khi khách
hành hương đến viếng
Thánh địa này khi vào cổng chính đều
đảnh lễ trước khi vào bên trong. Ngài đã nói một cách
dõng dạc rằng: “Không có ai khi sinh ra đã là bà-la-môn hay sát-đế-lỵ, mà tất cả sự sinh ra đời này của
chúng sanh đều do
nghiệp lực mà thành.”
Ở
Ấn Độ ngày xưa và ngay cả ngày nay
cũng thế, có sự
phân chia bốn giai cấp rất
rõ ràng. Đó là
giai cấp Bà La Môn hay
giai cấp giáo sĩ. Thứ hai là
giai cấp Sát Đế Lợi hay
giai cấp hoàng tộc.
Giai cấp thứ ba là
giai cấp Phệ Xá, tức là các
thương nhân.
Giai cấp thứ tư là
giai cấp Thủ Đà La, chuyên làm những nghề
thấp kém, hạ tiện trong
xã hội, bị
xem như nô lệ của ba
giai cấp trên.
Ngoài ra còn có một hạng
thấp hèn nhất gọi là Chiên-đà-la, bị khinh rẻ đến mức không được xem là một
giai cấp.
Để thấy rõ việc này, khách
hành hương ngày nay có thể đi đến suối nước nóng gần
Trúc Lâm Tinh xá để xem, hoặc tự lặn hụp vào dòng nước ấm ở đây thì sẽ thấy rõ ra những
giai cấp như thế. Người
Ấn Độ họ tự sắp theo thứ tự, tự biết và tự
hài lòng với chính mình và với những gì
giáo lý của họ hay đấng
Phạm Thiên của họ đã đặt ra. Người thuộc
giai cấp sang trọng thì lên phía trên dòng nước để tắm và người
biết mình là kẻ hạ tiện
bình dân thì hụp mình ở cuối dòng nước. Chỉ khác trâu bò là thân người chứ không phải thân
súc sanh mà thôi.
Dĩ nhiên, từ những
giai cấp dưới đã có nhiều người theo
tinh thần của Phật dạy là: “Không có sự khác biệt giữa
tôn giáo và
giai cấp khi trong máu người cùng đỏ và nước mắt người cùng mặn.” Cho nên họ đã làm nhiều cuộc
cách mạng để vươn lên từ
giai cấp thấp nhất, lên đến
giai cấp cao nhất để
lãnh đạo xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ cũng như bây giờ. Nhưng những người như thế thì
mạo hiểm lắm, phải chống chọi với
tôn giáo của họ, với phong tục tập quán cổ của
Ấn Độ, mới có thể ngoi lên được với đời.
Những ai
chấp nhận giáo lý và lời dạy của
Đức Phật, tức
chấp nhận về
nghiệp lực và
tái sinh thì khó mà
chấp nhận được những
giáo lý khác không tin vào
luân hồi nhân quả, nhất là
giáo lý của
Ấn Độ Giáo. Tất cả họ đều tin rằng: “Giai cấp
Bà La Môn nhất định sanh ra từ miệng của
Phạm Thiên và đã sinh ra là
Bà La Môn thì
suốt đời và
trải qua bao nhiêu kiếp vẫn là
Bà La Môn.” Điều này
đức Phật nhận định khác ngay từ
tuần lễ thứ tư sau khi Ngài đã suy niệm. Rồi họ bảo: Kẻ nào thuộc
giai cấp hạ tiện thì phải sanh dưới chân
Phạm Thiên và
suốt đời như thế chứ không được hoán cải. Chỉ điều này thôi cũng không hợp với
giáo lý của
đạo Phật rồi. Do
vậy mà Ngài đã xác minh rằng: Không phải khi sanh ra đã là một
Bà La Môn là
lý do đó. Người ta phải làm gì để
trở thành một
Bà La Môn hoặc cao hơn nữa mới là điều đáng nói, chứ “Con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa phải quét lá đa” thì đó chẳng phải là một
định mệnh vậy.
Ngày nay các
học giả Tây Phương chấp nhận đạo Phật một cách dễ dàng, vì họ thấy rằng
giáo lý của
Đạo Phật hoàn toàn mang
tính chất nhân bản và
toàn thiện. Ví dụ như ở thế kỷ 20, trên 5 châu lục đã có 6 tỷ người. Trong 6 tỷ người đó, những khoa học gia
tên tuổi của
thế giới đã chỉ bình chọn được một người
đại diện cho
thế giới của khoa học. Đó là nhà
Bác học Albert Einstein, là một người Đức sinh ở Neu Ulm, gốc
Do Thái. Lớn lên dạy học tại Thụy Sĩ. Trước đệ
nhị thế chiến (1939-1945), ông lấy quốc tịch Hoa Kỳ và là cha đẻ của
thuyết tương đối. Ông đã khẳng định ba điều như sau:
- Điều thứ nhất: Tôi là người không có
tôn giáo, nhưng nếu muốn lấy
tôn giáo để làm
niềm tin thì tôi
chấp nhận Phật Giáo.
- Điều thứ hai:
Phật Giáo không cần đi
tìm kiếm nơi khoa học nữa, vì trong
Phật Giáo đã đầy đủ
tính chất khoa học rồi.
- Điều thứ ba: Nếu có một
tôn giáo trong tương lai mà
nhân loại có thể
chấp nhận được thì đó là
Phật Giáo.
Vậy thì một nhà
Bác học người
Tây phương,
đại diện cho 6 tỷ người nói ra điều ấy đã đủ tin chưa hay còn thắc mắc và
biện bạch là lúc nào “Phật cũng ở tại tâm” mà tâm ấy chẳng bao giờ chịu tu thì làm sao có
thể đạt thành chánh quả,
giác ngộ giải thoát được.
Ngày nay nếu ai đó có dịp sang Mỹ quốc, hãy đến
con đường số 16 dẫn vào Tòa Bạch Ốc, sẽ thấy một tượng bằng đồng rất
đơn giản, mà có không biết bao nhiêu khách du lịch đã dừng xe để vào đây chụp hình lưu niệm. Đó là tượng của nhà
Bác Học Albert Einstein. Đã có nhiều người dí dỏm gọi ông ta là một
Phật Tử nhưng chưa
quy y Tam Bảo.
Đúng là vậy!
Đại Triết gia Schopenhauer của Đức sinh cùng thời với Cụ Nguyễn Du của
Việt Nam chúng ta vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Nghĩa là cách đây hơn 200 năm về trước. Ông là người đầu tiên nói về
giáo lý đạo Phật trong những bài nói chuyện bằng tiếng Đức trong những sách vở của mình.
Kể từ đó, những
triết gia như Nietzsche, Hermann Hesse v.v... đã
ảnh hưởng triết
lý Phật Giáo vào
tư tưởng của mình không ít và chắc rằng những vị này cũng chưa
quy y Tam Bảo bao giờ. Điều
đặc biệt là những
triết gia này của Đức đa phần
nghiên cứu theo
giáo lý Nam truyền, nên nhìn
Phật Giáo dưới dạng
tiêu cực. Thực sự ra thì: Buddhismus ist weder persimistisch noch optimistisch, sondern realitisch. Nghĩa là: “Phật Giáo không phải
tiêu cực lẫn
thụ động, mà
Phật Giáo rất
hợp lý.” Ngày nay, đa phần các
triết gia Đức đã
nhận ra được điều này nơi
Phật Giáo.
Ngày nay,
mặc dầu người theo Ấn Giáo vẫn tin
Đức Phật là một trong 6 vị Thần của họ, nhưng người
Phật Tử thì ít
quan tâm vấn đề này. Ai nhận
Phật thế nào cũng được, nhưng Phật chỉ là Phật của
trí tuệ, của
chúng sanh chứ không chỉ riêng cho người theo Ấn Giáo. Nếu
Đạo Phật và
Đức Phật chỉ nằm trong
phạm vi của Ấn Giáo thì
Đạo Phật đã không vượt
biên giới để
đi vào Trung Hoa,
Nhật Bản,
Việt Nam, Trung Đông, Châu Mỹ, Châu Úc v.v...
Phật Giáo và
Đức Phật phải là
Phật Giáo của
nhân loại vậy.
Đến
tuần lễ thứ năm Ngài đi
xa hơn nữa về hướng đông của cây bồ-đề, cách đó chừng 400 m. Ngài đã nói: “Ta thầm
cảm ơn ngươi. Vì nhờ ngươi mà đã
che mưa nắng cho ta suốt trong
thời gian hướng đến
giác ngộ.”
Quả thật chưa có một bậc
giáo chủ nào có một
cuộc đời rõ ràng và
thánh thiện như
Đức Phật. Ngài đã
thương yêu muôn loài như con đẻ của mình. Sau khi tìm được
chân lý giác ngộ giải thoát, còn mang
chúng sanh qua bên kia bờ
sanh tử nữa, thì quả là trên
thế gian này chỉ có một không hai, ít thấy một
con người giác ngộ nào được như thế cả.
Cây cỏ vốn vô tình theo cái nhìn của
loài người, nhưng những nhà
thực vật và những bậc
giác ngộ thì không. Cây cỏ
vẫn có sự sống của nó. Nếu ta thương nó mà chăm sóc thì nó sẽ tốt tươi. Nếu ta bỏ bê không bón phân chăm sóc thì hoa kia lá nọ cũng sẽ tàn tạ theo
thời gian và không còn
hiện hữu với ta nữa. Vì cây không nói được tiếng người. Nếu cây cỏ nói được tiếng người thì chúng sẽ có nhiều cách
phàn nàn khác nhau. Vì
loài người đã đối xử với chúng
tệ bạc lắm.
Trong
giáo lý của
Đức Phật ngày nay
chúng ta thấy đa phần
chư tăng đi
khất thực để nuôi thân và khi đi
khất thực như thế, kẻ
tín thí cho vật gì cũng phải nhận hết. Sau khi về lại
tinh xá thì chia đồ
khất thực ra làm bốn phần như sau: Phần đầu dành cho những kẻ đồng
phạm hạnh. Phần thứ hai cho những kẻ ăn xin. Phần thứ ba cho những loài
súc sanh và phần thứ tư
để dành cho mình dùng trong
giờ ngọ.
Như vậy ta thấy
Đức Phật đã thương khắp muôn loài. Không phải chỉ có
loài người không thôi mà còn không biết bao nhiêu vạn
sinh linh nữa.
Trong
giáo lý Nam truyền,
chư tăng khi đi
khất thực được dùng 3 loại thịt. Đó là thịt của con vật khi
bị giết chết mình không nhìn thấy, không nghe tiếng kêu, và không có sự
nghi ngờ rằng con vật đó
bị giết thịt vì mình. Nhưng trong
tinh thần Đại Thừa thì Phật đã
nghiêm cấm vị tỳ-kheo không được ăn bất kỳ loại thịt nào, nhất là trong kinh Đại Bát Niết-bàn và
Bồ Tát Giới kinh. Vì để
thể hiện lòng từ với tất cả
chúng sanh, người tăng sĩ không dùng những bất kỳ loại
thực phẩm nào được làm bằng máu thịt của
chúng sanh.
Còn cây cỏ thì sao? Cây cỏ
vẫn có linh hồn? Cây cỏ
vẫn có thể
đầu thai làm người?
Dĩ nhiên là không phải thế.
Loài người và những
chúng sanh khác có phần
tâm thức cao hơn.
Sau khi chết, những
tâm thức này lìa khỏi thân xác và
tái sinh theo
nghiệp lực của chính mình đã gây tạo từ
kiếp trước hay trong kiếp này. Nếu giết một con bò thì một con bò khác sẽ
không sinh ra được, nhưng nếu cắt một cành cây thì cây mẹ ấy không chết đi, mà còn cho ra nhiều cành khác nữa. Giống như cành
hoa hồng hay hoa thược dược, nếu ta để thẳng, nó chỉ có một cành ra hoa, rồi ta chỉ được một
hoa hồng. Nếu ta cắt hoặc tỉa bớt cành cây chính, thì ta sẽ được nhiều bông hoa hơn.
Tuy nhiên, trước khi dùng những món
thanh trai bằng rau đậu không
máu mủ ấy,
chư tăng vẫn phải
chú nguyện bằng “tam đề ngũ quán”.
Tam đề là:
Nguyện đoạn nhứt thiết ác.
Nguyện tu nhứt thiết thiện.
Nguyện độ nhứt thiết chúng sanh.
Chỉ từng ấy việc thôi mà
chư tăng và các vị
khất thực cũng đã nói lên được tấm
lòng từ bi của mình rồi. Điều ấy có nghĩa là:
Nguyện bỏ tất cả các việc ác.
Nguyện làm tất cả các
việc lành.
Nguyện độ tất cả
chúng sanh.
Hạt cơm của
tín thí nặng dường ấy. Cho nên trước khi ăn phải
chú nguyện.
Ngoài ra là
ngũ quán, cũng phải thường
chú tâm, chứ chẳng
chểnh mảng khi dùng những vật thực này để nuôi mạng sống của mình. Đó là:
Nhứt kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ. Nhị thốn kỷ
đức hạnh, toàn khuyết
ứng cúng. Tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. Tứ chánh sự
lương dược, vị liệu hình khổ.
Ngũ vị thành đạo nghiệp, ưng thọ thử thực.
Nghĩa là:
- Một là tính xét
công lao làm ra
thực phẩm,
ước lượng sự khó nhọc của người từ xa
mang đến.
- Hai là tự xét
đức hạnh của mình, có xứng đáng để nhận việc
cúng dường thực phẩm này hay không.
- Ba là
đề phòng tâm
tham lam khởi lên, vì tham là cội gốc.
- Bốn là xem
thực phẩm như vị thuốc hay để chữa bệnh khô gầy cho
thân thể.
- Năm là vì để làm nên
đạo nghiệp nên mới thọ nhận
thực phẩm này.
Quả thật đây là một cuộc sống
vị tha đầy
đạo vị. Nếu ai mới
xem qua hoặc mới làm quen, khó mà
lãnh hội hết được.
Ngày xưa khi Phật còn
tại thế, lúc đi
khất thực, Ngài đã vào một nhà
nông dân giàu có. Anh ta đã không
bố thí cúng dường lại còn bảo:
- Này Sa Môn! Sao khỏe mạnh như ông mà không tự đi làm để nuôi thân lại đi
xin ăn vậy?
- Tôi cũng đi làm đấy chứ!
Đức Phật trả lời thế.
- Nếu
Sa Môn đi làm thì phải có cày, có ruộng, có trâu bò, có
hạt giống. Tại sao chẳng thấy gì hết cả?
-
Hạt giống của tôi làm đây là
hạt giống của
từ bi và
trí tuệ, sẽ gieo vào
ruộng phước của tất cả
chúng sanh. Còn cày, bừa chính là sự
trì giới,
tinh tấn và
nhẫn nhục. Trâu bò là
thân hành sự
tỉnh thức, siêng năng nhớ nghĩ đến mình và
tha nhân.
Sau khi người chủ nhà nghe vậy liền đem cơm bỏ vào bát vàng và sớt bát cho
Đức Phật. Đoạn thốt lên rằng:
- Đúng là bậc
Sa Môn chân chánh. Thật xứng đáng với
danh hiệu là bậc
Chánh Biến Tri, là bậc Thầy của Trời và Người. Con xin
đảnh lễ, xin
quy y theo Phật và con xin làm
đệ tử tại gia của Ngài.
Những bài pháp
vô giá như thế vẫn còn phân tán khắp nơi trong tạng Nikaya hay
Luật Tạng của cả Nam truyền và Bắc truyền.
Đến
tuần lễ thứ sáu, Ngài đã đến bên hồ nước và ngồi
tĩnh tọa nơi đây, mặc cho trời giông bão và
ma quái hiện về.
Đức Phật vẫn
bình tĩnh và thần long lại
che chở. Rồng bảy đầu
hiện ra để
che mưa đỡ nắng cho Ngài, khiến Ngài chẳng bị thấm lạnh.
Lúc ấy Đức Phật chỉ có tấm lòng và
trí tuệ,
chư Thiên,
loài người và tám bộ chúng đã
cảm động, nên đã
hộ trì Ngài qua khỏi những giông tố
phũ phàng của
thiên nhiên và
ngoại vật.
Ngày nay hồ nước ấy vẫn còn. Chỉ thấy toàn là hoa súng, còn
hoa sen đã
biến dạng. Trong ấy đầy những con cá
phóng sanh. Con lớn nhất chắc cân cũng được 10 kg. Rồi những con nhỏ bỏ vào hồ hay được sinh ra nơi đó bị con lớn ăn bớt.
Mặc dầu hồ thì rất lớn nhưng cá thì quá nhiều.
Ngài ngồi đây suy niệm rất lâu là có nên
chuyển bánh xe pháp chăng hay
thị tịch vào Niết-bàn. Vì điều ấy
Ma Ba Tuần rất muốn, nhưng
chư Thiên và
Đế Thích thì lo toan. Do
vậy mà họ đã
hiện ra nhiều thân khác nhau để cung
thỉnh Phật ở lại với đời và Ngài đã nhận lời thưa thỉnh ấy. Theo thuyết của
Đại Thừa thì trong 21 ngày của 7
tuần lễ nhập định này,
đức Phật đã dùng để
quán sát nhân duyên của
chúng sanh và Ngài đã nói
kinh Hoa Nghiêm, nhưng rất ít
chúng sanh hiểu lời Ngài dạy. Chỉ có những bậc
thiện căn,
thiện trí mới
tỏ tường.
Vì vậy phần này trong
giáo lý Nam truyền không thấy đê cập đến.
Đến
tuần lễ thứ bảy, cũng
từ định mà dậy, Ngài đã
quán chiếu hoàn toàn những nơi cần
quán chiếu và điều đầu tiên là Ngài muốn
trở lại chốn xưa để độ cho Thầy cũ của mình là ông
Uất Đầu Lam Phất, nhưng tiếc thay ông đã
thác sanh về
cõi trời trước đó không lâu. Sau đó Ngài
quyết định đi về phía
sông Hằng, nơi
Vườn Nai để độ cho năm anh em Kiều-trần-như đang
tu khổ hạnh tại đó. Giờ này chắc là cây bồ-đề cũng buồn lắm, vì biết rằng
chắc chắn mình đã phải xa bậc
Đại Giác rồi.
Tuy
Đức Phật di chuyển đi nhiều nơi
trong suốt 49 năm
hóa độ, nhưng lúc nào
đệ tử của Ngài cũng nhớ đến cây bồ-đề tại thành Gaya. Chính cây này và chính nơi
Kim Cương Tòa ấy
Đức Phật đã
giác ngộ và ánh sáng
giác ngộ từ đó tỏa đi khắp năm châu
hoàn vũ như ngày hôm nay. Không những thế, chư Phật trong
vị lai cũng sẽ ngồi dưới cội cây bồ-đề và nơi
Kim Cương Tòa này để thành
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tuy nhiên, vì
thương nhớ cây bồ-đề nên nơi nào có bước chân bậc
Đại Giác đặt đến là các vị
Đại Đệ Tử của
Đức Phật đều đến nơi Bồ-đề
Đạo Tràng để thỉnh một nhánh bồ-đề về trồng nơi ấy.
Dĩ nhiên nơi
Vườn Nai chắc chắn cũng có
sự kiện như vậy, nhưng qua phong sương cùng tuế nguyệt, chinh chiến
triền miên ở những thế kỷ trước, cho nên những cây bồ-đề
nguyên thủy ấy không còn nữa.
Sau khi Đức
Điều Ngự độ cho 5 anh em Kiều-trần-như xong thì Ngài
trở lại xứ Ma-kiệt-đà và
thuyết pháp cũng như
cư ngụ tại
Tinh xá Trúc Lâm. Đây là nơi tụ hội đầu tiên sau khi
thành lập Tăng Đoàn và
lúc ấy Ngài bắt đầu
kết hợp từng người một, từng nhóm một. Số lượng càng ngày càng
gia tăng. Lúc nhiều nhất là 1250 vị, gồm
đệ tử của các Ngài Ca-diếp,
Mục Kiền Liên và Xá-lợi-phất. Một số lượng tăng sĩ đông như vậy, cho nên
Đức Phật phải chọn nơi gần thành
Vương Xá để mỗi ngày
thuận tiện đi
khất thực và
chư tăng chia ra từng nhóm nhỏ để đi.
Đi theo thứ lớp như trong các
Luật Tứ Phần,
Ngũ Phần, Thập Tụng, Ma-ha
Tăng Kỳ,
Thiện Kiến và Luật Pàli đều đã dạy rất
rõ ràng từng
chi tiết cho giới
xuất gia thuở bấy giờ và ngay cả bây giờ những
giới cấm căn bản ấy vẫn còn có
giá trị.
Trong 12 năm đầu tiên, cả
chúng tăng đều
thanh tịnh, đa phần là những bậc có căn trí
tối thượng thừa, nên
Đức Bổn Sư đã không chế ra một
giới bổn nào cả.
Cho đến năm thứ 13 sau khi Ngài
thành đạo, nghĩa là
lúc ấy Ngài đã 47 tuổi theo thuyết của
Nam tông và 42 tuổi theo
truyền thống của
Phật giáo Bắc tông, Ngài mới bắt đầu
chế giới.
Lúc ấy đã có nhiều bậc vua chúa, hoàng hậu,
công chúa,
thái tử và những người
giàu có đã nghe
danh tiếng của
Đức Phật nên đến để
nghe pháp, xin
quy y hoặc
cúng dường Tam Bảo,
cúng dường trai phạn
hằng ngày cho
chư Tăng v.v...
Trong
thời gian này có một vị
giàu có là
Trưởng giả Cấp Cô Độc đến từ nước Xá-vệ, cách
tinh xá Trúc Lâm này chừng 300 trăm cây số về
hướng tây, đến xứ Ma-kiệt-đà để thăm người chị có chồng nơi đây.
Tiện thể Trưởng Giả ghé qua để nghe những buổi
giảng pháp của Đức
Điều Ngự tại
Tinh xá Trúc Lâm. Càng nghe càng thấm thía, càng
hiểu rõ về pháp
nhân duyên, về
vô thường,
vô ngã, khổ, không nên chẳng mấy chốc
trưởng giả đã thật chứng được nghĩa các pháp.
Vì vậy, vào một buổi sáng tinh sương, ông ta vào hầu Phật và bạch rằng:
- Kính bạch Đấng Đại Giác! Kính mong Ngài mở lượng
hải hà gia ân cho quê hương của con cũng được
nhân duyên cung đón Phật và
Tăng Đoàn về nơi ấy để
nghe pháp và
học hỏi,
cung phụng cúng dường, thì quả là
nhân duyên của xứ chúng con có duyên với Ngài. Kính mong Ngài
chấp nhận lời thưa thỉnh của con hôm nay.
Đức Phật dùng
huệ nhãn soi thấu
tâm địa cầu pháp của
trưởng giả này nên đáp lời rằng:
- Điều ấy hẳn tốt!
Lành thay cho người có
nhân duyên với Phật Pháp! Nhưng ta sẽ cử Xá-lợi-phất đi cùng, vì với số lượng Tăng sĩ đông như vậy phải lo chuẩn bị nơi ăn chốn ở trước, sau đó ta và
Tăng Đoàn sẽ đến xứ Xá-vệ.
Nghe như cởi mở cả tấm lòng, nên
Trưởng giả Cấp Cô Độc vội
thu xếp hành trang để cùng Ngài Xá-lợi-phất
lên đường trở về lại nơi quê hương cũ. Chắc hẳn ngày ấy các Ngài đi dọc theo sông Ni Liên, rồi
sông Hằng, rồi tiến vào những nhánh sông nhỏ khác để
trở lại xứ Xá-vệ. Phải làm thế vì dọc theo sông thì mới có dân cư sinh sống và có nước non để uống cũng như có nơi để đi
khất thực, hoặc nghỉ qua đêm. Vì 300 cây số đường bộ ấy
ngày xưa chỉ đi bộ hoặc đi ngựa nên tốn nhiều
thời gian lắm.
Đi dọc bên sông, Ngài Xá-lợi-phất và
Trưởng Giả Cấp Cô Độc đã cho thuê người đào giếng để chuẩn bị cho chuyến
hành trình xa của
Tăng Đoàn đi về xứ Xá-vệ và cũng để có nước cho dân địa phương dùng nữa.
Ngày xưa phương tiện giao thông chưa có, mà với một số lượng đông như thế thì chỉ có đi bộ, chứ xe nào mà chở cho hết. Có lẽ chỉ có những Ngài có
thần thông là nhanh lẹ hơn ai hết, nhưng
đức Phật cấm Ngài
Mục Kiền Liên và các
đệ tử khác thi triển
thần lực. Do vậy trong
trường hợp này chẳng có ai dùng đến.
Khi về đến xứ Xá-vệ, điều đầu tiên là
Trưởng Giả Cấp Cô Độc trình diện dân làng và các quan chức địa phương, nói lên
ý định của ông. Thế là những người
lãnh đạo của 6 phái
ngoại đạo lúc bấy giờ đưa ra
điều kiện khắt khe và chống sự
hiện diện của
Đức Phật nơi xứ họ. Nghe xong, ông
Cấp Cô Độc buồn lắm, nhưng Ngài Xá-lợi-phất thì
thản nhiên. Đoạn Ngài hỏi những người
đại diện của
ngoại đạo muốn gì thì họ bảo rằng:
- Nếu
đệ tử của ông Cồ-đàm mà
tranh luận thắng được
chúng tôi thì
chúng tôi sẽ nhượng bộ để
Trưởng Giả mua đất lập
tinh xá. Còn nếu thua thì từ nay về sau không bao giờ ông Cồ-đàm và
đệ tử được bén mảng đến nơi đây.
-
Dĩ nhiên là
chúng tôi chấp nhận.
Ngài Xá-lợi-phất
trả lời chậm rãi và rất tự tin.
Sau bao nhiêu đêm
tranh luận từ thuyết
nhân duyên đến
nghiệp lực,
tái sanh, phước tội,
tâm thức v.v...
Cuối cùng thì Ngài Xá-lợi-phất đã
nghiễm nhiên trở thành bậc
Đại Luận Sư,
Đại Trí Tuệ, đánh bạt tất cả những thuyết của
ngoại đạo kia. Người mừng nhất là
Trưởng Giả Cấp Cô Độc. Ông thưa với Ngài Xá-lợi-phất rằng:
- Thật là cao cả! Thật là
tuyệt diệu.
Nếu không phải Ngài về đây lần này thì chắc là
chúng ta sẽ chẳng làm được gì để cung đón
Đức Phật và
Tăng Đoàn.
-
Quả thật, Đấng
Đạo Sư đã
biết trước điều ấy.
- Do vậy Ngài mới gởi bậc
Đại Trí Tuệ về đây, chứ không thì con sẽ phải
khổ tâm không biết là dường nào.
Trước khi làm
đệ tử Phật, Ngài Xá-lợi-phất đã là một bậc
trí tuệ kỳ tài của phái
ngoại đạo Trường Trảo rồi (người để móng tay dài). Nay gặp những phái kia thì Ngài đóng vai là Thầy của họ, làm sao không thắng thế được.
Suy nghĩ miên man như thế, đoạn
Trưởng giả tiếp lời:
- Chắc là
chúng ta phải tiếp lo công việc đi
tìm kiếm đất đai để
xây dựng tinh xá.
- Theo Ngài nghĩ là nên chọn chỗ nào?
Ngài Xá-lợi-phất hỏi thế.
- Con đã
xem xét hết tất cả đất đai vườn tược trong thành này rồi, chẳng có nơi đâu
thích hợp hơn vườn cây của
Thái Tử Kỳ Đà.
Ông
Cấp Cô Độc trả lời.
- Nếu
vậy thì xin Ngài cứ tiến hành.
Những ngày sau đó chính
Trưởng Giả Cấp Cô Độc thân hành đến nơi
cư ngụ của
Thái Tử Kỳ Đà để
thương lượng giá cả.
Dĩ nhiên là
Thái Tử cũng chẳng muốn bán khu vườn của mình làm gì, vì có
túng thiếu gì đâu.
Tuy nhiên,
Thái Tử cũng thách thức rằng:
- Nếu ông lót vàng hết được vườn ấy thì tôi sẽ bán cho ông.
- Việc ấy tôi sẽ
thực hiện.
Ông
Cấp Cô Độc trả lời.
Thế là từ đó ngày lại ngày,
Trưởng giả Cấp Cô Độc cho lấy hết vàng trong kho ra và chở đến để lót vườn của
Thái Tử. Một hôm
Thái Tử ngự ra vườn xem thì thấy lót gần xong, nên
ân hận và bảo với
Trưởng Giả Cấp Cô Độc rằng:
- Tôi chỉ
thử lòng ông thôi. Không ngờ ông đã lót vàng gần xong rồi.
- Thưa Thái Tử! Một bậc
trượng phu, kẻ sắp
đứng đầu nhân dân trăm họ không thể nói đùa giỡn như thế được.
- Nhưng ta hỏi ngươi, vì sao mà ngươi
tôn kính Sa-môn Cồ-đàm như thế?
- Đâu có gì lạ! Ngài cũng là một Đông Cung như
Thái Tử đây, nhưng đã
lìa bỏ ngôi báu và
tìm ra con đường giác ngộ để
cứu khổ nhân sanh.
-
Con đường ấy như thế nào?
- Đó là khổ,
nguyên nhân gây ra sự khổ,
phương pháp để
diệt khổ và tám
con đường hướng đến
sự giải thoát.
- Còn gì nữa?
-
Dĩ nhiên là còn nhiều lắm. Kẻ hèn này không thể
lãnh hội hết
một lần được, nên mới có ý cung
thỉnh Phật và
Tăng Đoàn về đây để
thuyết pháp cho
nhân dân nghe và từ đó xứ sở của
chúng ta sẽ được
lợi lạc nhiều hơn.
- Nếu là
vậy thì ta
hoàn toàn đồng ý bán khu vườn này cho ngươi. Và cũng để tỏ lòng
tôn kính bậc
Đại Giác ấy, những nơi nào ngươi lót vàng không được (ý chỉ những gốc cây) thì nơi đó thuộc về ta. Còn nơi nào ngươi lót được thì nơi đó thuộc về ngươi. Cả hai
chúng ta đều dâng cúng lên
Đức Phật vậy.
Từ đó về sau mỗi khi
chúng ta tụng kinh, những trang kinh mở đầu như
kinh A Di Đà chẳng hạn đều có câu:
“Như thị ngã văn,
nhứt thời Phật tại Xá-vệ quốc,
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỳ-kheo Tăng, thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu, giai thị Đại A-la-hán, chúng
sở tri thức.
Trưởng Lão Xá-lợi-phất, Ma-ha
Mục Kiền Liên, ...”
Nghĩa là: “Tôi nghe
như vầy, một thuở nọ
Đức Phật ở tại nước Xá-vệ, nơi cây của
Thái Tử Kỳ Đà, vườn của
Trưởng Giả Cấp Cô Độc cùng với 1250 vị Đại tỳ-kheo Tăng. Họ đều là những vị Đại A-la-hán,
mọi người đều biết đến, như Ngài
Trưởng Lão Xá-lợi-phất, Ma-ha
Mục Kiền Liên...”
Ngài A-nan lúc nào cũng thân cận với
Đức Phật. Chính ngày
Đức Phật thành đạo ở Gaya là ngày Ngài A-nan ra đời, anh em cùng cha khác mẹ với
Đức Phật và chữ A-nan Đà có nghĩa là Khánh Hỷ - niềm vui của
mọi người. Đến năm hai mươi tuổi, Ngài A-nan mới đi
xuất gia. Như vậy, suốt hai mươi năm ấy Ngài đã chẳng nghe, chẳng
làm thị giả của
Đức Phật. Cho nên, trước khi nhận
làm thị giả cho
đức Phật, Ngài A-nan có
yêu cầu năm điều, trong đó có một điều rất quan trọng. Đó là: Dầu cho
Đức Phật thuyết pháp ở nơi đâu, nếu
vắng mặt ngài A-nan thì sẽ lặp lại cho Ngài A-nan được nghe.
Đây cũng là một
yêu cầu dễ hiểu thôi. Vì lẽ trong hai mươi năm đầu sau khi Phật
thành đạo, Ngài A-nan chưa có mặt bên Phật và những lúc
Đức Phật lên
Thiên Cung để
thuyết pháp cho mẫu hậu
Ma Da hay xuống
Long Cung để nói pháp nơi cung rồng
Ta Kiệt La thì làm sao Ngài A-nan có thể
đi theo được? Vì lẽ khi Phật còn
tại thế Ngài A-nan chưa chứng được quả A-la-hán, mà mãi đến sau khi
Đức Phật nhập diệt 100 ngày, nhân việc
kết tập kinh điển lần thứ nhất tại động Thất Diệp thì Ngài A-nan mới được
lậu tận nhờ sự
cổ võ của Ngài Ca-diếp. Từ đó về sau Ngài A-nan có bổn phận ghi nhớ để
truyền đạt lại những gì mình đã nghe và đã thấy biết khi
làm thị giả cho
Đức Phật.
Những tháng ngày
Đức Phật đi
giảng đạo xa như trên các
cõi Trời hay
Long Cung thì
tinh xá Kỳ Viên nơi vườn của
Trưởng Giả Cấp Cô Độc trống vắng lạ thường. Ai đến thăm cũng đều chẳng gặp Phật. Do đó Ngài A-nan nảy ra ý rằng nên về nơi
Kim Cương Tòa thỉnh một cành cây bồ-đề về đây trồng. Nếu ai không có
nhân duyên gặp Phật thì đi
đảnh lễ chung quanh cây Bồ-đề để tỏ lòng kính ngưỡng bậc
Đại Giác thì cũng có
công đức như vậy.
Nghĩ là làm, sau đó Ngài A-nan mang nhánh cây Bồ-đề về
tinh xá Kỳ Viên để trồng và đến ngày hôm nay, sau hơn 2.500 năm
lịch sử, cây đó vẫn còn, gọi là cây Bồ-đề A-nan. Cây này không lớn lắm so với cây chính, nhưng thân cây sần sùi, vạm vỡ
chứng tỏ rằng đã
trải qua không biết bao nhiêu phong sương cùng tuế nguyệt. Cây này đã
tồn tại với
mọi người và mọi
thời đại. Ngay cả khi Phật còn
tại thế, trong 25
mùa an cư kiết hạ tại
tinh xá Kỳ Viên,
Đức Phật cũng đã nhìn ngắm cây bồ-đề này nhiều lần rồi. Trong
cuộc đời Ngài, suốt 49
mùa an cư thì riêng tại đây đã hơn phân nửa ghi dấu bước chân của bậc
Đại Giác rồi.
Rồi
Đức Phật cùng
Tăng Đoàn di chuyển qua núi Linh Thứu, Tỳ-xá-ly cũng như các miền khác của
Trung Ấn Độ. Nơi đâu Ngài cũng đã để lại không biết bao nhiêu là kỷ niệm khó quên. Như nơi này Ngài độ cho chàng
Vô Não, nơi kia độ cho hoàng hậu vợ của vua Ba-tư-nặc, nơi đó độ cho A-xà-thế, Đề-bà-đạt-đa, hoàng hậu Vy-đề-hy. Hoặc
cuối cùng độ cho Thuần-đà, Tu-bạt-đà-la nơi rừng Sa-la Song Thọ ở thành Câu-thi-na v.v... và v.v..., tất cả là
chính sử và hầu như
cuộc đời của Ngài chưa có cái gì là
giả sử hay huyền sử cả.
Một hôm trên
pháp hội Linh Sơn ở xứ Ma-kiệt-đà, nơi
Đức Phật đã giảng những
bộ kinh quan
trọng như Bát-nhã,
Pháp Hoa, Đại Bát Niết-bàn v.v... Ngài đã đưa lên một cành
hoa sen. Trong
chúng hội ai cũng ngơ ngác chẳng hiểu gì, chỉ có Ngài Ca-diếp là
mỉm cười hiểu ý. Từ đó
chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn
diệu tâm chính
Đức Phật đã trao truyền cho Ngài Ma-ha Ca-diếp.
Chánh pháp ấy, mạch sống đạo đã giúp cho bao nhiêu người
giải thoát được
sanh tử trần lao là do con mắt tuệ mới thấy rõ được. Khi đã thấy rõ được
chánh pháp ấy thì Niết-bàn chính là đây và
chơn tâm diệu hữu vốn là đó. Tâm này chỉ có thể truyền cho tâm kia qua sự
nhận biết sự thật mà thôi, còn người ngoài thì quyết chẳng hiểu được điều gì.
Sau khi
kết tập lần thứ nhất thì Ngài Ca-diếp cũng
lần lượt viên tịch với những vị
A-nhã Kiều-trần-như. Còn
tâm truyền ấy Ngài Ca-diếp đã trao lại cho Ngài A-nan để làm Đệ Nhị Tổ. Ngài A-nan cố sống cho thật dài lâu để làm cho
chánh pháp được
cửu trụ Ta-bà và một hôm vào rừng,
lúc ấy Ngài đã 120 tuổi, nghĩa là sau khi Phật
nhập diệt 70 năm, Ngài nghe một
chú tiểu đọc kinh Pháp Cú rằng:
“Dẫu cho sống đến trăm năm
Mà không thấy con vịt nước
Chi bằng sống một ngày
Mà thấy con vịt nước.”
Ngài A-nan đau buồn mới hỏi rằng:
- Ai dạy con điều đó?
- Thầy của con dạy con.
- Tại sao dạy cho con đọc sai vậy?
- Thầy con là bậc
thông thái làm sao sai được. Chỉ có sư ông già rồi nên có sự nhầm lẫn thì có.
- Chắc không phải vậy đâu. Đây là nguyên văn của
bài kệ:
“Dẫu cho sống đến trăm năm,
Mà không thấy pháp
sanh diệt.
Chi bằng sống một ngày,
Mà thấy được pháp
sanh diệt.”
Thấy sự
sanh diệt mới quan trọng, chứ thấy con vịt nước để làm gì? Ngài A-nan buồn quá mới than rằng: Nào ngờ đâu ta muốn sống để kéo dài
thọ mạng này cho
chánh pháp được dài lâu, nhưng
thực tế thì không phải vậy. Do đó mà Ngài muốn thâu thần
tịch diệt vào Niết-bàn.
Các vua chúa thành Tỳ-xá-ly và thành Ba-la-nại, nơi nào cũng muốn Ngài
nhập diệt nơi quê hương của mình để được
lợi lạc quần sanh.
Vì vậy cho nên cả hai nước đem binh hùng tướng dũng đến để đòi chia được quyền
thiêng liêng ấy.
Sau đó Ngài A-nan mới
quyết định là Ngài
nhập diệt trên
sông Hằng. Ngài dùng
thần lực bay lên
hư không, rồi dùng lửa tam-muội để
hỏa thiêu thân mình. xá-lợi
từ không trung rơi xuống hai bên
sông Hằng và vua chúa hai nước đã thu xá-lợi của Ngài A-nan. Sau đó mỗi bên đem về nước mình, dựng lên tháp báu để thờ xá-lợi của Ngài A-nan.
Cả hai cây bồ-đề tại Gaya và nước Xá-vệ chắc là buồn lắm. Vì hai bậc
Đại Giác Ngộ đã đi rồi.
Dĩ nhiên là vẫn còn chứ. Còn nhiều lắm những người ngày đêm đến đây
chiêm ngưỡng,
lễ bái nguyện cầu và cây thiêng kia cứ thế mà đâm chồi nảy lộc. Có người mang nước đến để tưới vào gốc cây. Có người mang sữa bò quý hiếm cũng đổ vào gốc cây để mong rằng gốc cây càng ngày càng được phát triển.
Mặc dầu cây, cành, lá bồ-đề cũng buồn thương đó, nhưng càng ngày càng đâm chồi nảy lộc xanh tươi hơn, khiến ai cũng
hoan hỷ vui mừng. Mặc cho
thời tiết của
Ấn Độ vào mùa hè ở những nơi đó đôi khi khí trời lên đến 50 độ C. Còn
mùa đông cũng không thiếu sương sa giá buốt, nhưng nhờ
từ lực của
Thế Tôn, nhờ
lòng bi mẫn của Ngài A-nan mà những cành cây ấy càng ngày càng phát triển nhiều hơn xưa. Mới chỉ hơn một trăm năm thôi mà như một cây
đại thọ đã sống qua cả mấy ngàn năm rồi.
Chữ bồ-đề có nghĩa là
giác ngộ. Chữ này nguyên văn tiếng Phạn là boddhi. Trong này có hai thành tố, một là chữ “bod” có nghĩa là người, kẻ... Còn tiếp vĩ ngữ “dhi” có nghĩa là
giác ngộ,
hiểu biết,
thông suốt. Như thế bất cứ cây nào mà các bậc
Đại Giác ngồi nơi ấy
giác ngộ thì cây ấy cũng sẽ gọi là cây bồ-đề.
Như Ngài
Di Lặc sẽ ra đời trong chừng bảy triệu năm nữa, Ngài vẫn ngồi nơi
Kim Cang Tòa này, nhưng
lúc ấy Vua Rồng giúp đỡ để
thành đạo, nên cây này sẽ được gọi là cây rồng (Long) và
trổ bông (Hoa) đến ba lần như thế và mỗi lần Ngài độ được khoảng một triệu người
giác ngộ. Ngày tháng ấy tuy xa nhưng cũng đã sắp lại gần.