Họ đang ngồi đó cả ba người trên tầng lầu của
Đại Tháp Giác Ngộ. Nơi có bóng mát cây bồ-đề tỏa rộng. Tuy tháp cao đến hơn 50 mét, nhưng tán cây bồ-đề che rộng ra đến 30 mét cũng không chừng, nơi ấy cũng là nơi cho chim chóc
reo mừng, chuyền từ cành này qua cành nọ vào mỗi buổi sáng tinh sương, khi
mặt trời chưa
xuất hiện và nơi đó cũng là nơi của những người đang
lễ bái nguyện cầu.
Họ là ai vậy? Đó là ba người tăng sĩ
Việt Nam. Một đang học tại
Đại học New Delhi, một đến từ Đức và một đến từ Đan Mạch. Cả ba đều giơ cao ba ngón tay đang đốt cháy lên và miệng mỗi người đang trì
tụng chú Đại Bi. Có người đốt tay lần thứ nhất, có người lần thứ hai có người lần thứ ba.
Thời điểm là vào năm 1999.
Mục đích của họ là gì?
Nếu ai đó trong quý vị có đọc quyển “Con Đường Vô Định” của
Vô Thức Thích Hạnh Tấn viết và qua lời
giới thiệu của tôi thì chắc quý vị đã rõ
ngọn ngành.
Tuy nhiên xin điểm qua đây một vài nét của
việc làm đầy
ý nghĩa này của hai
đệ tử và một thầy là bạn của
đệ tử.
Năm 2000 là năm mà Hạnh Tấn phải về lại Đức để lo cho những công việc chùa
Viên Giác và việc
triển lãm thế giới tại thành phố Hannover. Trước đó Thầy ấy có
phát nguyện nhập thất mấy năm, nhưng nay duyên chưa tới, nên đã
phát nguyện đi
tam bộ nhất bái (ba bước lạy một lạy) bắt đầu từ Varanasi, nơi
Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho năm anh em Kiều-trần-như bên dòng
sông Hằng và điểm đến là Bồ-đề
Đạo Tràng. Chiều dài của đoạn đường ấy là 240 km. Họ ngày đi đêm nghỉ. Có lúc thì lạy có lúc đi bộ. Chỗ nào đi không lạy thì họ tính vào, để khi đến Bồ-đề
Đạo Tràng thì họ lạy cho đủ số. Suốt đoạn đường đi đó, Thầy Đồng Văn và Hạnh Tấn phải
trải qua tất cả là bốn mươi ngày.
Hành lý mang theo người là một
bình bát để đi
khất thực vào buổi trưa, một cái khăn, một y, một áo và một ít đồ vặt vãnh khác để tùy thân. Nghĩa là trên mình họ không quá 10 kg để dễ lạy và như thế mới là một
hành giả đầu đà.
Trên đường đi họ gặp rất nhiều
thuận duyên, nhưng
chướng nạn cũng không phải ít.
Dọc đường lễ bái và
khất thực. Tuy người
Ấn Độ ở miền quê rất nghèo, nhưng họ cũng
tỏ ra rất
rộng lượng để
bố thí cho hai Thầy cơm, khoai và nước uống. Nhiều đêm còn cho ở khách sạn ở
dọc đường mà không lấy tiền nữa. Nhưng cũng có nhiều ngày đi
khất thực chẳng có cơm. Vì gặp những chỗ nhà dân quá nghèo, trong nhà chẳng có gì cả. Thế là cả hai Thầy cùng đói. Trong cơn đói như thế, họ
cảm thông Đức Phật và họ nhớ lại để
tư duy về
thân phận của mình.
Thầy Đồng Văn chẳng phải
phát nguyện chí thành lúc ra đi, mà chỉ có
ý nghĩ đi theo Thầy Hạnh Tấn để
hộ trì. Nhưng khi bắt đầu đi thì Thầy ấy
đổi ý. Nghĩa là Thầy làm sao tôi làm vậy. Trên đường đi Thầy ấy cũng gặp nhiều
thuận duyên, nhưng
nghịch cảnh cũng không phải là không theo sát Thầy ấy, như bị xe tông, chân đau v.v... Cả hai đều ở tuổi thanh niên, còn đang sức sống
dồi dào, nên trở ngại nào họ cũng
cố gắng vượt qua cả.
Cuối cùng rồi Bồ-đề
Đạo Tràng cũng đã
hiện ra trước mắt họ. Cả hai Thầy đều nghĩ rằng: “Mình sắp về đến nhà rồi, còn gì để
lo âu nữa.” Thế là
bảo sở đã đến và
lời nguyện sắp thành rồi. Cả hai rất
lạc quan và
sung sướng. Thế rồi một buổi sáng tinh sương cả ba người đều
thực hành nghi lễ đốt ngón tay để
cúng dường Chư Phật như vừa nói trên.
Thầy
Hạnh Nguyện không đi cùng với hai thầy kia, nhưng khi đến đây rồi thì cả ba đều
phát nguyện như thế để
cúng dường Chư Phật và
cầu nguyện cho việc
xây dựng Trung Tâm Tu Học Viên Giác tại bồ-đề
Đạo Tràng sớm
thành tựu viên mãn. Việc ấy chắc đã có
Long thần Hộ pháp và Chư Phật
chứng minh.
Riêng về Thầy
Hạnh Nguyện thì nếu ai đó đã đọc sách “Tự Truyện Một Người Tu” (2 tập) mà Thầy ấy đã viết vào năm 1997 để kỷ niệm sau mười năm
xuất gia, thì rõ biết nhiều
ngọn ngành hơn. Trong đây tôi chỉ nói một vài
nhận xét về
việc làm của quý Thầy
đệ tử của mình khi tôi còn sống,
nhận thấy hay hơn là khi tôi mất rồi thì
đệ tử của mình viết về mình cũng là chuyện
bình thường, và
lúc ấy tôi còn đâu nữa để đọc về mình. Tôi hay làm những việc mà thông thường ít có người làm. Chẳng phải đó là sự
mạo hiểm, mà một cái gì ít
tuân theo quy tắc như
xưa nay là trò hay viết về Thầy, chứ Thầy ít viết về trò, mà viết trong lúc còn sống như thế này thì hóa ra “con hát mẹ khen hay” cũng là chuyện thường tình. Nhưng tôi thì cố vượt lên mọi
thị phi, tốt xấu ấy để viết về việc này.
Tôi vẫn
thường hay dạy cho học trò,
đệ tử của mình rằng: Hãy đừng vui khi người khác khen mình,
tán dương mình,
lễ bái mình, mà cũng đừng buồn khi người khác chê mình, mắng mình, mạ lỵ mình, rượt đuổi mình v.v... Vì sự khen chê đó nó chẳng có
thật tướng. Dưới mắt người này họ cho là đẹp, nhưng dưới mắt người khác thì ngược lại. Hãy nên chẳng trụ vào chỗ này mà
tồn tại.
Thuở ấy vào năm 1986 tôi được một lá thư từ Đan Mạch gởi sang và tự
giới thiệu với tôi, người ấy tên là Nguyễn Hữu Tuấn,
Pháp danh là Lệ Tấn, đang học
chương trình trung học và đang định cư ở Đan Mạch, nhưng nay thì muốn đi
xuất gia và kèm theo thư ấy có gởi cho tôi một tấm hình nữa.
Lúc ấy chừng khoảng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi. Tôi liền viết hồi âm và bảo hãy qua chùa
Viên Giác để trình bày
tâm nguyện của mình. Vả lại gặp được thì nói chuyện nhiều hơn và
cuối cùng nhân mùa nghỉ
Giáng Sinh năm 1986 thì người ấy qua chùa
Viên Giác.
Trước đó vào năm 1984, 1985 tôi đã nhận mấy chú
xuất gia rồi, như Thiện Phước đến từ Phần Lan, Thiện Thành từ Guterloh (Đức),
Thiện Nam người Đức nói tiếng Việt rất rành. Nhưng rồi cả ba đều
hoàn tục vì nhiều lẽ khác nhau. Mỗi người đều có
lý do riêng của họ. Vả lại,
lúc ấy tôi cũng còn trẻ và hay nóng giận mỗi khi không
vừa ý với
đệ tử. Không phải để
chứng tỏ một
uy quyền trong đó, mà vì mong
đệ tử tiến bộ mau hơn, nên cái gì cũng mong cho nhanh và được kết quả tốt, kết quả lại trái ngược.
Sau khi Lệ Tấn đến trình bày với tôi thì tôi đã
đồng ý cho
xuất gia và khuyên rằng sau khi
xuất gia vào
mùa an cư hè năm 1987 thì hãy về lại Đan Mạch học xong trung học, mà nếu được nên học xong
Đại học tại đó, rồi qua đây sau để cùng chúng
tu tập thì hay hơn. Rồi những mùa nghỉ hè, nghỉ đông hãy về đây cũng không sao cả.
Sau khi cho Lệ
Tấn xuất gia xong thì tôi nhận được mấy lá thư của người anh ruột Lệ Tấn tên là Dũng viết thư cho tôi
phiền hà đủ cách, là tại sao
dụ dỗ em Nguyễn Hữu Tuấn như thế.
Lúc ấy tôi từ tốn
trả lời rằng: Vì lẽ Lệ Tấn đã trên 18 tuổi. Sự
quyết định ấy không
nhất thiết phải
hoàn toàn lệ thuộc bởi
gia đình, mà sự
quyết định ấy là do Lệ Tấn chọn lựa chớ tôi không biết gì về Lệ Tấn trước đó thì làm sao tôi
dụ dỗ được và sau đó còn phân tích cho Dũng biết về
cuộc đời vô thường, về khổ, về không v.v... nhưng chẳng biết rằng
lúc ấy Dũng có
để tâm gì thì không biết. Bẵng đi một
thời gian dài cũng hơn 15 năm. Vào một buổi sáng (năm 2003 tại
Tịnh Thất Pháp Hoa ở San Jose Mỹ Quốc) có một người thanh niên đi cùng vợ và con, sau thời
tụng kinh Lăng Nghiêm thì xin vào
đảnh lễ và
sám hối về những bức thư đường đột mà theo anh ấy đã
diễn tả và viết cho tôi từ năm 1986, 1987 từ Đan Mạch. Lúc đó tôi mới biết là Dũng, anh ruột của Lệ Tấn.
Bây giờ anh ta là một kỹ sư, có người vợ rất
thuần thành với
Tam Bảo và có người con trai rất
dễ thương. Riêng anh là một người rất
hiểu biết và đã
trở thành một người
Phật tử rất
thuần thành, nghe anh nói là cũng nhờ vợ hướng dẫn không ít. Đều ấy cũng thật đáng mừng và cũng
mừng thầm là được biết vợ anh và anh đã đi
Ấn Độ năm 2001, đã thấy tận mắt
công trình xây dựng Trung Tâm Tu Học Viên Giác của Thầy
Hạnh Nguyện tại Bồ-đề
Đạo Tràng nên
anh chị ấy quá
cảm phục và
cảm động, nên sự
phát tâm học Phật và tu theo Phật lại còn
dũng mãnh hơn nữa.
Đến tháng 9 năm 1987 tại chùa
Pháp Hoa ở Marseille do cố
Hòa Thượng Thích
Thiền Định trụ trì có tổ chức
Đại Giới Đàn, tôi cho Lệ Tấn và
Thiện Tín sang đây
thọ giới sa-di. Lệ Tấn tôi cho
Pháp Tự là
Hạnh Nguyện, còn
Thiện Tín tôi cho
Pháp Tự là Hạnh Tấn. Năm 1987 cũng là năm tôi được tấn phong lên
Thượng Tọa cùng với
Thượng Tọa Thích Tánh Thiệt
trụ trì chùa Thiện Minh ở Lyon (Pháp),
Thượng Tọa Thích Bửu Thanh ở Marseille và
Thượng Tọa Thích Phước Toàn ở Paris.
Sau khi
thọ giới sa-di thì
Hạnh Nguyện có ý xin tôi đi
tu học theo
Phật Giáo Tây Tạng. Điều ấy tôi chẳng bằng lòng, nên đã về lại Đan Mạch để vừa học, vừa
tụng kinh Pháp Hoa và để được đi học theo
Tây Tạng ở
Ấn Độ.
Hạnh Nguyện đã
phát nguyện tự đốt một ngón tay của mình để
lời nguyện được
thành công và sau đó đem vào bệnh viện để băng bó lại. Sau khi lành, có
trở lại Đức xin tôi
một lần nữa, nhưng
lúc ấy qua nhiều lần phân tích thì tôi đã yên lặng và
Hạnh Nguyện đến
Ấn Độ vào năm 1989 thì phải. Từ đó về sau mỗi lần về thăm tôi, đều có
mang theo y áo của
Tây Tạng. Điều ấy tôi đã chẳng
đồng ý và nêu lên
lý do là: “Có biết bao nhiêu Thầy đi học ở ngoại quốc, nhưng có Thầy nào lấy
Phật giáo của xứ ấy về
làm Phật Giáo của xứ mình đâu, mà hãy lấy
tinh hoa của xứ đó cho xứ mình thì được. Ngay cả
bản thân của Thầy, Thầy đã học ở Nhật và chỉ
ứng dụng tinh thần tu học, sự
tiến bộ của
Phật Giáo Nhật Bản trong
sinh hoạt của Thầy tại đây, chứ có bao giờ Thầy đem
Phật Giáo Nhật Bản vào
Phật Giáo Việt Nam đâu.”
Đến năm 1993, khi chùa
Viên Giác tại Hannover tổ chức lễ Hoàn Nguyện cũng đã tổ chức
Đại Giới Đàn Vĩnh Gia thì
Hạnh Nguyện và Hạnh Tấn cùng
thọ giới tỳ-kheo năm ấy. Nghĩa là sau khi
xuất gia và
thọ giới sa-di là bảy năm mới đăng đàn
thọ Cụ Túc giới.
Để là một vị Thầy
vững vàng và đúng luật, đúng pháp, tôi
cho phép quý Thầy
đệ tử của tôi sau mười lăm năm
xuất gia thọ giới thì có quyền nhận
đệ tử để
tiếp tục giềng mối của đạo và việc ấy đang tiến hành rất
tốt đẹp.
Riêng
Hạnh Nguyện thì đã đủ 15 năm
xuất gia thọ giới rồi nhưng vẫn chưa có ý nhận
đệ tử xuất gia lẫn
tại gia. Thôi thì tùy nguyện vậy. Việc Thầy trò
đệ tử là chuyện
nhân duyên, không phải ai muốn cũng được. Ngay như các vị
Tôn Túc của
chúng ta ở
Việt Nam như cố
Hòa Thượng Thích Thiện Minh,
Hòa Thượng Thích
Trí Quang,
Hòa Thượng Thích
Huyền Quang đã chẳng nhận một
trưởng tử xuất gia nào cả. Trong khi đó thì cố
Hòa Thượng Thích Bửu Huệ, cố
Hòa Thượng Thích
Trí Thủ v.v... đã có rất nhiều
đệ tử xuất gia và nhiều người muốn nương nơi quý Ngài ấy để
y chỉ học đạo.
Sau khi những
đệ tử xuất gia của tôi thọ tỳ-kheo hay tỳ-kheo ni xong, tôi cho họ
Pháp Hiệu bắt đầu bằng chữ Giác. Như thế một người đi
xuất gia có ba tên trong đạo. Ngoài tên đời của
cha mẹ đã đặt cho. Đó là một
Pháp danh khi thọ
năm giới, một
Pháp Tự khi thọ 10 giới và một
Pháp Hiệu khi thọ 250 giới hoặc 348 giới.
Sau này tôi được biết là
Hạnh Nguyện đã cùng Hạnh Tấn
tham dự một
lễ điểm đạo nào đó do Đức Đạt-lai Lạt-ma chủ trì
trong khoảng năm 1996-1997, nên cả hai đều
phát nguyện đốt một ngón tay để
cúng dường. Hạnh Tấn đốt ngón tay thứ nhất và
Hạnh Nguyện đốt ngón tay thứ hai.
Khoảng năm 1998, tôi có dịp dẫn đoàn
hành hương sang
chiêm bái Phật tích, có làm lễ đặt viên đá đầu tiên ở một khu đất khác, không phải khu đất bây giờ, gần bên Maitreya Project của
Tây Tạng thuở ấy, bên cạnh
Đại Học Ma-kiệt-đà.
Lúc ấy có Giáo sư Harata người Nhật
đi theo và ông ta đã nói bằng tiếng Nhật với tôi là: “Thưa Thầy! Nơi đây dựng chùa không được và
dự án không thành.”
Lúc ấy tôi không
trả lời, chỉ nói: “Vậy sao!”
Tôi không biết ông ta
căn cứ vào đâu để nói, nhưng những điều ông ta nói,
cho đến bây giờ hầu như chuyện gì cũng đúng cả.
Tiếp tục sau đó
dự án kia bị thất bại, vì chủ đất không
thành thật và đã gạt tiền đặt cọc v.v...
quả thật ở
Ấn Độ chuyện gì cũng có thể xảy ra được.
Đến đó thì tấn thối
lưỡng nan.
Hạnh Nguyện có hỏi ý Hạnh Tấn là nên
tiếp tục như thế nào và
cuối cùng thì tháng 3 năm 1999 đã mua đất khác và làm lễ đặt viên đá đầu tiên để
xây dựng Trung Tâm Tu Học Viên Giác trên mảnh đất bây giờ, 1.000 mét vuông.
Thời gian sau đó là
vận động tài chánh để xây cất. Đầu tiên
Hạnh Nguyện thưa hỏi, dò ý tôi ra sao. Thì tôi bảo: “Thầy sẽ cho 10% trên
tổng số chi phí
xây dựng. Chùa
Viên Giác tại Hannover sẽ
đảm bảo việc ấy. Xây tới đâu thì sẽ chi đến đó
cho đến khi
hoàn thành.”
Hạnh Nguyện nghe như thế thì vui và bắt đầu
chương trình kêu gọi.
Vì là xây chùa nơi xứ Phật, cho nên đi đến đâu cũng được trên từ chư vị
Tôn Túc Hòa Thượng, dưới đến các
Phật tử đều
hết lòng. Vả lại
Hạnh Nguyện cũng đã tổ chức một số chuyến
hành hương nên đã quen một số
Phật Tử bên Hoa Kỳ, Canada. Phần Âu Châu thì đã có tôi và Hạnh Tấn lo. Phần Úc Châu,
Hạnh Nguyện đích thân đến để
vận động.
Hạnh Nguyện vừa đi
vận động tiền bạc vừa lo xây cất.
Cùng lúc đó
Diệu Huệ, em ruột
Hạnh Nguyện mới vừa học xong
Đại Học ở Đan Mạch ngành kiến trúc, chưa có
việc làm, nên qua
Ấn Độ trông coi giúp việc xây cất cho
Hạnh Nguyện.
Phải
thành thật mà nói
công trình kiến trúc đó
quả thật tuyệt vời.
Cho đến nay (2004) tại bồ-đề
Đạo Tràng có chừng 40 ngôi chùa của gần 30
quốc gia Phật Giáo trên
thế giới, nhưng không có chùa nào có lối kiến trúc nội thất bên trong đẹp và bền như là
Trung Tâm Tu Học Viên Giác này. Một phần nhờ
Hạnh Nguyện đi nhiều nơi và biết nhiều trang trí, nên đã nhờ Darasing một người
Ấn Độ giỏi tiếng Nhật và tiếng Anh giúp
liên lạc với các nhà thầu từ Kalcutta lên
xây dựng.
Thỉnh thoảng thì tôi và Hạnh Tấn có điện thoại
thăm dò công trình đã
tiến triển đến đâu.
Cho đến cuối năm 2001 thì
Hạnh Nguyện về lại Đức và thưa với tôi là việc kiến trúc gần xong,
dự định tháng 3 năm 2002 thì tổ chức lễ Khánh Thành cũng như những lễ khác, sẵn tổ chức
hành hương Ấn Độ và
Nhật Bản.
Đồng thời Hạnh Nguyện cũng thưa rằng: Nhân lễ khánh thành
Hạnh Nguyện sẽ đứng ra xin cúng cơ sở ấy cho
Giáo Hội và tôi sẽ là người điều động nhân sự để thay
thế cho Hạnh Nguyện.
Nghe xong tôi có
trả lời rằng: “Thầy chỉ lo cho
thế hệ con mà thôi, chứ đến
thế hệ cháu thì các anh em phải tự
đảm đang lấy, chứ Thầy cũng sắp
nhập thất rồi, làm sao có thể
cáng đáng được.”
Ngoài ra tôi còn đề nghị nên tổ chức
Giới Đàn Minh Hải để các
giới tử có cơ hội về đất
Phật thọ giới cũng như thỉnh
Thượng Tọa Thích Mỹ Quang từ
Việt Nam qua
phụ trách đàn
chẩn tế.
Đồng thời nhân dịp này làm lễ đại
bố thí cho những người nghèo luôn.
Trung Tâm Tu Học Viên Giác gồm bốn tầng. Mỗi tầng độ 600 mét vuông. Tổng cộng diện tích
sử dụng độ 2400 mét vuông. Tầng dưới cùng có phòng ăn tập thể có thể chứa 300 người, phòng phát hành kinh sách và phòng thu băng. Tầng hai có lobby, một số phòng ngủ,
văn phòng và nhà bếp. Tầng ba qua hành lang có
chùa Một Cột và toàn là phòng ngủ. Tầng trên cùng có bốn phòng cho
chư Tăng Ni và thư viện cũng như
chánh điện. Sân thượng dùng làm nơi chứa nước và phơi đồ. Tổng cộng số phòng đôi là 27 phòng.
Cùng lúc có thể đón 54 khách
hành hương ở lại tại
Trung Tâm với đầy đủ
phương tiện như phòng tắm riêng, phòng vệ sinh riêng và có máy lạnh cũng như giường ngủ riêng biệt.
Tất cả nền nhà đều lót bằng đá cẩm thạch Ý rất
sang trọng.
Chư Tăng Ni
Việt Nam và khách
hành hương Việt Nam đến từ khắp nơi trên
thế giới được đón mời, không có giá cả, chỉ
ủng hộ cúng dường tùy hỷ để chùa trang trải tiền điện, gas, nước và nhân công hằng tháng mà thôi. Vì đây là cơ sở do
Phật Tử Việt Nam khắp nơi đóng góp, nên bây giờ được dùng để
phụng sự người
Việt Nam.
Ngày lễ khánh thành
Trung Tâm Tu Học Viên Giác cũng đã đến. Bên
chư Tôn Đức thì có
Hòa Thượng Thích Hộ Giác,
Trưởng Lão Thích Chơn Điền,
Thượng Tọa Thích Chơn Trí,
Thượng Tọa Thích Giác Đẳng hướng dẫn
phái đoàn từ Hoa Kỳ đến. Từ Úc Châu có
Hòa Thượng Thích Như Huệ và một số quý
Phật Tử khác. Từ Âu Châu sang có
Thượng Tọa Thích Tánh Thiệt, tôi và
phái đoàn. Từ
Việt Nam sang có
Thượng Tọa Thích Mỹ Quang và một số Thầy, Cô,
Phật Tử.
Ngoài ra còn có khoảng 50
tăng ni sinh đang du học tại
Đại học New Delhi cũng đã đến
tham dự.
Cộng thêm với
chư Tăng ngoại quốc tại Bồ-đề
Đạo Tràng nữa, số người
tham dự hôm đó độ 300
Tăng Ni và 200
Phật Tử. Đây là con số lớn nhất từ trước
đến nay đối với một ngôi chùa
Việt Nam trên đất
Ấn Độ như thế.
Cuối cùng rồi tôi cũng đề nghị được một Ban
Điều Hành cho
Trung Tâm gồm:
Hạnh Nguyện Giám Đốc
Trung Tâm, Hạnh Tấn Phó Giám Đốc Ngoại Vụ, Hạnh Hảo
Tri Sự Nội Vụ, Tuệ Đàm Hương Thủ Quỹ và Hạnh Định
thư ký.
Sau lễ khánh thành thì
Hạnh Nguyện đi học tại
Trung Quốc, nên Hạnh Hảo (người Đức) thay thế
trông coi Trung Tâm này trong
thời gian một năm và từ năm 2003
đến nay (2004) do Hạnh Định
trông coi. Ở đây có lẽ hai năm phải đổi
một lần người
Quản lý hay
Tri sự, vì lẽ khí hậu khắc nghiệt về mùa hè. Có khi nóng lên đến 45°C.
Mùa đông thì sương mù và còn bao nhiêu
vấn nạn khác nữa. Nếu một người mà ở luôn đây
suốt đời thì chắc có nhiều
vấn đề lắm.
Chương trình tiếp theo là
Hạnh Nguyện sẽ
nhập thất tại Thái Lan, trong hai năm tới
trong vòng 3 năm và sau đó là
gì nữa thì tôi chưa rõ.
Tuy nhiên,
vấn đề tài chánh của
Trung Tâm Tu Học Viên Giác ở
Ấn Độ vẫn do
Hạnh Nguyện cáng đáng.
Trung Tâm này
xây dựng tốn độ 1 triệu đô-la Mỹ và chùa
Viên Giác tại Hannover đã phụ vào đó 10% như tôi đã hứa. Số nợ còn không bao nhiêu, từ từ sẽ trả xong trong một vài năm là hết. Ngôi chùa này nếu xây tại
Âu Mỹ sẽ tốn gấp 3 lần như thế.
Khi nhìn
công trình như thế, tôi đứng ở
địa vị là Thầy của các vị này, tôi cũng đã khâm phục. Vì nếu thiếu phước, thiếu
nhơn duyên, thiếu hạnh tu thì không thể nào có thể
thành tựu được một
công trình to lớn như thế. Vả lại nhìn 3 ngón tay trên hai bàn tay của Thầy ấy thì ai cũng phải phục
sát đất là đời này những thanh niên như thế, ai có được cái
ý chí kiên cường như vậy. Dầu ai nói gì đi nữa thì
giá trị vật chất này cũng để lại hằng trăm năm sau, chứ Thầy
Hạnh Nguyện khi ra đi đâu có
mang theo Trung Tâm Tu Học Viên Giác này làm gì cho nó khổ công nhọc sức, dầu cho ở
thế giới bên này hay ở
thế giới bên kia đi nữa cũng vậy thôi.
Bởi thế phải luôn luôn nhớ câu rằng:
“Nam-mô hai chữ
từ bi,
Phật còn
mắc nạn huống gì
chúng sanh.”
Cuộc đời của
Đức Phật tổng cộng cũng bị mười hai nạn phải trả trong kiếp này, thì
chúng ta đâu có thấm thía gì. Vì
nghiệp chướng và
vô minh còn đầy dẫy, nên phải chịu nhận quả để rồi
nhân không còn có cơ hội
tiếp tục sanh nữa.
Trong
thời gian năm 2002 đến 2004 tại
Trung Tâm có bốn người
xuất gia ở đây đang
phụ giúp công việc chùa. Đó là chú Đồng Thuận (Thông Trị), chú Hạnh Giải, chú Đồng Tác (người
Ấn Độ) và cô Thiện Liên.
Ngoài ra còn có chín người
Ấn Độ làm
hằng ngày cho
Trung Tâm như gác cổng, dọn dẹp lau chùi, làm nhà bếp v.v...
Qua một
lời nguyện và cũng đúng là
Hạnh Nguyện, Thầy ấy đã cùng với Thầy Đồng Văn và Thầy Hạnh Tấn đốt mỗi người một lóng tay để
cúng Phật vào năm 1999 ấy mà nay đã
trở thành sự thật như trong
kinh Pháp Hoa phẩm thứ hai mươi hai về
Dược Vương và
Dược Thượng Bồ Tát đã tự đốt mình để
cúng dường chư Phật, thì đây là
tinh thần Đại Thừa cầu
quả vị Bồ-đề từ xa
xưa kia đã có chứ không phải chỉ có ngày nay và chỉ có những Tăng sĩ
Việt Nam mới
thực hiện.
Một
lời khen, một lời
chúc tụng, một lời
cầu nguyện của Thầy Bổn Sư đối với quý Thầy
đệ tử cũng là một việc xứng đáng thôi. Vì việc ấy Thầy đã không làm được.
Dĩ nhiên việc ấy Thầy không khuyến khích,
tuy nhiên lời nguyện của các anh em Thầy phải
tôn trọng là vậy.
Vào những năm 1985, 1986 gì đó khi mà chùa
Viên Giác vẫn còn thuê nơi đường Eichelkampstrasse số 35A tại Hannover thì có một cậu sinh viên trạc tuổi hai mươi mốt, hai mươi hai gì đó hay đến chùa để mượn sách đọc và
thường hay mặc quần ngắn vào chùa. Hỏi ra mới biết cậu ta là Lữ Thành Nghĩa sinh năm 1964 đang học
đại học năm thứ hai chứng chỉ
Sinh Hóa (Biochemie) tại
Đại Học Hannover.
Thời gian sau thì cậu ta đến chùa đều hơn.
Tuy nhiên tôi cũng
cảm thấy bình thường, vì có rất nhiều sinh viên vẫn hay tới chùa như thế.
Lúc ấy ở chùa chỉ có cô Diệu Niên (Hạnh Niệm) lớn tuổi và một vài anh em làm
công quả, còn các chú hầu
như không có ai.
Thời gian sau cậu sinh viên ấy xin vào chùa ở. Tôi
đồng ý. Vì
lúc ấy cũng đã thuê thêm được một nơi bên cạnh chùa nữa, nên có chỗ rộng hơn. Do vậy tôi đón nhận cậu ta.
Một hôm trong năm 1987 tôi đi Mỹ về thì
Thiện Tín (lúc trước đó đã
quy y với tôi) ra nhà gare Hannover đón và thưa với tôi một cách
rụt rè là: “Con muốn xin đi
xuất gia.” Trên xe tôi có hỏi
lý do vì sao đang học mà xin đi tu?
Thiện Tín trả lời rằng: “Nằm đêm con nghe mưa rơi và cảm nhận những giọt nước
vô thường mà con có
ý hướng ấy.” Đó là câu
trả lời lúc ấy, tôi còn nhớ vậy. Tôi
bảo học Lăng Nghiêm cho thuộc và chờ
Lễ Tự Tứ rằm tháng bảy năm 1987 thì sẽ làm lễ xuống tóc, nhưng tôi nhớ không lầm thì làm lễ xuống tóc sớm hơn và ngày đó có
thân mẫu của
Thiện Tín cũng về chùa, không phải để dự lễ, mà để
yêu cầu tôi đừng có cho
Thiện Tín xuất gia.
Tôi quay sang bà nói: “Thật ra việc này
Thiện Tín tự
quyết định sau khi đã ở chùa một năm, chứ tôi không có
dụ dỗ gì đâu.”
- Không biết! Thầy làm sao trả con tôi về, tôi một là chết ở đây, hai là đưa tôi về lại
Việt Nam, chứ tôi không muốn cho con tôi đi tu.
- Bà dụ được chú ấy về lại sống
cuộc đời bình thường thì cứ dụ, chứ tôi thì sẽ làm theo ý chú đã muốn.
Dĩ nhiên là con trai một thì chẳng ai muốn con mình đi tu, nhưng chú ấy chọn
con đường đúng chứ đâu có chọn
con đường sai mà bảo chú ấy phải về?
Có người giữ bà lại, chứ
nếu không lúc ấy trong
cơn giận bà ta có thể cào hết ngói trên mái chùa xuống cũng nên. Thế rồi bác Diệu Anh
dỗ ngọt và khuyên răn bà ta nguội lại từ từ.
Cuối cùng rồi lễ cũng đã diễn ra như
dự định. Có người mẹ nào không thương con đâu. Vì biết rằng cho con đi tu là cắt núm ruột của mình dâng lên
Tam Bảo nên không muốn đấy thôi.
Mặc dầu ai cũng thấy rằng
con đường đi
xuất gia là
con đường tốt chứ không phải
con đường xấu.
Ngay từ thuở
Đức Phật, rồi chư Tổ cũng như
chư Tăng ngày nay khi đi
xuất gia cũng phải
thực hiện bao nhiêu bước mới có thể cắt đứt được sự
ràng buộc của
gia đình. Chứ đâu phải
đơn giản muốn đi là được. Cho nên đó cũng là chuyện thường tình vậy.
Về sau này thì cô
Diệu Thanh, mẹ chú
Thiện Tín, năng
lui tới chùa hơn và
nỗi buồn cũ cũng nguôi ngoai dần. Năm 1994 khi
Thiện Tín sang
Ấn Độ du học thì đó cũng là lần cuối không còn gặp lại mặt mẹ mình nữa. Bà đã ra đi tại bệnh viện Hannover rất
an nhiên tự tại trong khi tôi
hộ niệm bằng kinh Cầu An và nửa chừng thấy tai, mắt, hai tay chuyển sang màu xám xanh nên tôi đã tụng qua cầu siêu
vãng sanh. Hết
chú vãng sanh thì
Đạo Hữu Diệu Thanh đã trút
hơi thở cuối cùng.
Đời người chỉ có thế.
Sau đó tôi điện thoại qua cho Hạnh Tấn ở
Ấn Độ nhờ Thầy Chơn Thiện nhắn giùm và khi chú ấy về có thỉnh
Thượng Tọa Thích Tánh Thiệt sang
chủ lễ, còn tôi vì có
chương trình đi Mỹ để
hoằng pháp đã định trước nên phải đi, không có mặt ở nhà để đưa tang
Thân Mẫu của Hạnh Tấn.
Pháp Tự Hạnh Tấn tôi đặt cho chú sau khi
thọ giới sa-di cùng với
Hạnh Nguyện tại
giới đàn chùa
Pháp Hoa ở Marseille năm 1987 và
pháp tự này vẫn gọi
cho đến ngày nay.
Khi
xuất gia chú đang học năm thứ 2 chứng chỉ
Sinh Hóa (Biochemie) tại
Đại Học Hannover, tôi thấy không
thích hợp lắm nên khuyên đổi lại môn
triết học và khoa học
tôn giáo. Đến năm 1992 thì Thầy ấy đã xong Cao Học tại
Đại Học Hannover.
Thời gian ấy cũng là
thời gian cực khổ nhất của
một đời tu. Vì chùa
Viên Giác tại Hannover đang
xây dựng từ 1989 đến 1991 là đợt 1, để làm lễ Khánh thành và từ 1991 đến 1993
hoàn thành, tổ chức lễ Hoàn nguyện và
Đại Giới Đàn Vĩnh Gia tại chùa
Viên Giác, Hạnh Tấn
thọ giới tỳ-kheo với Thầy
Từ Trí, Minh Tánh và
Hạnh Nguyện.
Thời ấy, làm xong ngôi chùa hết 9 triệu Đức mã, tương đương với 5 triệu rưỡi Mỹ kim, nhưng nhiều lúc không đủ 8 Đức mã để mua một bao xi-măng. Những lúc như thế Hạnh Tấn và Hạnh Bảo đều có bên cạnh tôi.
Dĩ nhiên quý Thầy, quý chú ấy không chia sẻ được gì trực tiếp với tôi
trong lúc ấy, nhưng cũng đã chia công
việc làm với
Sư Phụ của mình bằng cách lái xe chở gạch, đất, đá hay phụ sơn phết với anh em
công quả v.v...
Thời gian ấy quý Thầy, quý chú vào tu với tôi
thiệt thòi rất nhiều. Vì lẽ tôi dạy trực tiếp không được nhiều, kể cả chữ Hán lẫn tiếng Việt, chỉ có tự học mà thôi. Vả lại ban ngày còn đi học ở trường, khi về chùa phải lo giúp đỡ nhiều việc nên cũng ít
thì giờ lắm.
Sau khi
thọ giới tỳ-kheo năm 1993 thì Hạnh Tấn xin tôi đi
Ấn Độ học, tôi
hy vọng Hạnh Tấn làm xong
Tiến Sĩ tại đó. Năm 1994 Hạnh Tấn
chính thức đến
Ấn Độ,
lúc ấy có gặp Thầy Đồng Văn và Hạnh Chánh từ
Việt Nam sang du học ở đây và Hạnh Tấn vừa ghi danh học Mphil tại
Đại Học New Delhi, mặt khác về
Tu Viện Sera ở làng Bylakuppe gần thành phố lớn Mysore, Nam
Ấn Độ để học chung với
Hạnh Nguyện. Từ năm 1994 đến năm 2000 Hạnh Tấn học được rất nhiều ở
Ấn Độ,
mặc dầu chương trình Tiến Sĩ đã học xong, nhưng không chịu trình
luận án mà thôi, cũng là thời điểm tôi gọi về để lo cho ngôi chùa
Viên Giác mà tôi đã
sắp đặt trước cho năm 2000 cũng như những năm sau đó.
Hạnh Nguyện viết thư cho tôi đề nghị là: “Chỉ có Hạnh Tấn mới có thể kế thế
trụ trì chùa
Viên Giác tại Hannover và
Sư Phụ có giao cho con thì con cũng giao cho Thầy Hạnh Tấn.
Mặc dầu con là
sư huynh của Thầy Hạnh Tấn, nhưng qua những hạnh tu của Thầy ấy, con có thể
đảnh lễ để Thầy ấy làm Thầy của mình.”
Điều ấy cũng đúng thôi! Vì tôi cũng đã có ý giao
Trụ trì chùa
Viên Giác cho Hạnh Tấn từ lâu rồi, nhưng chờ học cho xong. Hơn nữa, thời còn trẻ thì sự học rất cần và
thời gian rất ngắn, chứ khi già rồi thì không còn sức học nữa. Vả lại
con đường tu cần cả một
cuộc đời người chứ đâu phải chỉ một hai ngày, nên chẳng vội tấn phong là vậy.
Đến năm 2003 thì việc ấy đã
chính thức. Nhân lễ sinh nhật lần thứ 55 của tôi (28.06.2003) dưới sự
chứng minh của
chư Tôn Đức từ khắp năm châu, tôi
chính thức bàn giao nhiệm vụ Trụ trì ngôi chùa
Viên Giác cho Thầy Hạnh Tấn và tôi đã
lui về ngôi vị
Phương Trượng của mình như đã
dự định từ lâu.
Ngoài ra,
nhiệm vụ Chi Bộ Trưởng Chi Bộ Đức Quốc
trong suốt 25 năm qua tôi nắm giữ, bây giờ cũng giao qua cho Thầy Hạnh Tấn và kể cả tài chánh của chùa. Còn tôi chỉ đứng phía sau để hỗ trợ những công việc của Thầy ấy và chúng lý
Viên Giác mà thôi. Vì tôi
quan niệm rằng: Mỗi
thế hệ chỉ bắc được một nhịp cầu. Không thể cứ bắc tiếp mãi như thế, mà nhịp cầu thứ hai sẽ do
thế hệ thứ hai bắc tiếp qua
thế hệ thứ ba, chứ
thế hệ thứ
nhất không thể bắc thẳng qua nhịp cầu thứ ba được. Nếu bắc sẽ lỡ một nhịp cầu.
Đành rằng nếu không có nhịp cầu thứ nhất thì sẽ khó có nhịp cầu thứ hai và thứ ba, nhưng
chúng ta không nên
ôm đồm quá, là điều tối kỵ trong
vấn đề giáo dục và việc
truyền thừa. Vì mỗi thời điểm mỗi khác nhau, không có thời nào giống thời nào cả.
Hồi ấy năm 1984, 1985 tôi có ra một giải thưởng. Nếu ai
học thuộc lòng kinh Lăng Nghiêm trong vòng từ 1 tuần đến 1 tháng và sau đó tôi khảo ngược, khảo xuôi mà không bị vấp quá 3 lần thì tôi sẽ thưởng một cái bằng lái xe.
Lúc ấy học một cái bằng lái xe tại Đức nếu thi
một lần đậu phải tốn chừng 1000 Euro, tương đương với 2000 Đức Mã.
Thuở ấy có Ngô Ngọc Hiếu
pháp danh Thị Nhơn, con của Bác Thị Tâm Ngô Văn Phát cựu Hội Trưởng Hội
Phật Tử Việt Nam tỵ nạn tại Cộng Hòa
Liên Bang Đức và Hiếu là em ruột của
Phật Tử Thị Chơn Ngô
Ngọc Diệp,
đệ tử tại gia đầu tiên của tôi
quy y với tôi từ năm 1978 tại
Niệm Phật Đường
Viên Giác Kestnerstr. 37 Hannover. Hiếu chỉ học trong 1 tuần là thuộc và sau đó là
Thiện Pháp Nguyễn Văn Luận học trong 3 tuần thì xong. Cả hai sau khi khảo hạch đều nhận được phong bì của tôi trao và bây giờ
suốt đời họ, mỗi khi leo lên chiếc xe lái đi là họ biết cái bằng lái ấy do tôi
đại diện cho chùa
Viên Giác đã
cấp cho họ. Họ sẽ
hãnh diện với
vợ con và bạn bè họ về việc này.
Thiện Pháp Nguyễn Văn Luận đã
lập gia đình,
thỉnh thoảng có về chùa, đã ra Kỹ sư. Còn Thị Nhơn Ngô Ngọc Hiếu đã ra Nha sĩ và có phòng mạch tại Berlin.
Một hôm sau khi vào phòng mạch của Hiếu làm răng xong thì Hiếu tâm sự:
“Bạch Thầy,
ngày xưa hai mươi năm về trước, khi con thuộc lòng Lăng Nghiêm thì chú
Thiện Tín (tức Hạnh Tấn bây giờ) còn đứng phía ngoài cửa sổ chùa nhìn vào. Còn bây giờ mới gần hai mươi năm mà Thầy Hạnh Tấn đã là như thế, có
đệ tử và
tiếp nối ngôi vị
Trụ trì của Thầy. Còn con sau chừng ấy năm dong ruổi với
cuộc đời,
địa vị, tiền tài, phòng mạch đã có, nhưng
xem ra đâu có cái gì có
ý nghĩa đâu. Học xong ra làm việc kiếm tiền, lo cho
bản thân, đôi khi giúp cho ba mẹ chút đỉnh để trả hiếu, nhưng đâu có thấm vào đâu. Chỉ có
con đường tu hành mới là
con đường rộng mở phải không thưa Thầy? Tình yêu,
danh vọng là gì nhỉ? Nhưng mấy ai dám thoát ra khỏi chốn này!”
Hiếu đã tâm sự với tôi như thế, khi mà
đường công danh của Hiếu đang rộng mở, nhưng để làm
gì nữa thì mỗi người phải tự chọn một lối đi cho mình mà thôi. Tôi quay lại bảo Hiếu.
Cuộc đời của quý Thầy là:
“Nhất
bát thiên gia phạn,
Cô thân
vạn lý du.
Kỳ vi
sanh tử sự,
Thuyết pháp độ xuân thu.”
Nghĩa là:
Một bát, cơm nghìn nhà,
Một thân, muôn dặm xa.
Chỉ vì sự
sanh tử,
Thuyết pháp độ người qua.
Cuộc đời của người tu cũng là một chuyến lữ hành,
thong thả ra đi, nhưng
thong thả đến. Vì họ đã có
mục đích rõ ràng. Dầu cho trên đoạn đường
phát tâm bồ-đề ấy có nhiều chướng duyên đi chẳng nữa nhưng họ sẽ
nhẫn nhục và
tinh tấn như đi
khất thực hết ngày này qua ngày khác và
cuối cùng thì sẽ đến nơi mình muốn đến. Đó là ra khỏi
vòng sanh tử luân hồi.
Kế đến là Thầy Đồng Văn, một trong ba Thầy ngồi đốt ngón tay trên
Đại Tháp, dưới cây bồ-đề, để
cầu nguyện cho việc
xây dựng Trung Tâm Tu Học Viên Giác được
thành tựu, có
nguyên nhân như sau:
Năm 1994 tôi đi
hành hương tại
Ấn Độ, Hạnh Tấn
lúc ấy đã có mặt nơi đó và
giới thiệu Thầy Đồng Văn với tôi và Thầy Hạnh Chánh từ
Việt Nam sang đây du học, nhưng thiếu
phương tiện tài chánh, nên nhờ tôi hỗ trợ.
Dĩ nhiên là tôi
đồng ý ngay. Vì lẽ
thân phận mình ngày trước 1975 cũng đi du học cho nên dễ
thông cảm với
trường hợp này. Tôi có hỏi mỗi vị, mỗi tháng đóng tiền ăn ở và tiền học tốn bao nhiêu, thì quý Thầy cho tôi biết rằng: Vừa tiền học phí thuê chỗ ở và
ăn uống độ 100 đô-la Mỹ. Như vậy mỗi năm, mỗi người cần 1200 đô-la. Tôi hứa giúp và sẽ chuyển làm hai lần,
một lần vào tháng hai và
một lần khác vào tháng chín mỗi năm, và chùa
Viên Giác tại Hannover sẽ nuôi quý vị học
cho đến khi nào không học nữa thì thôi.
Quý Thầy ấy nghe thế thì vui lắm. Vì ở ngoại quốc mà có được một sự giúp đỡ như thế, chẳng vui sao được. Lần ấy hình như tôi bắt đầu giúp chừng mười Thầy Cô và khi phát học bổng tôi không
phân biệt Bắc Trung Nam hay
Nguyên Thủy,
Đại Thừa hay Du Tăng
Khất Sĩ. Số lượng ấy cứ tăng dần.
Cho đến nay (2004) sau mười năm phát học bổng như thế, khâu phát hành bánh trái của chùa
Viên Giác phải
cung cấp riêng cho 100 xuất học bổng tại
Ấn Độ là 75.000 USD, đó là chưa kể những
nơi khác trên
thế giới. Tổng cộng có 350 vị nhận và số tiền giúp đỡ mỗi năm là 150.000 US. Trong đó cũng có một số ít tiền từ quý
Phật Tử và quý Thầy Cô các nơi ở ngoại quốc
ủng hộ, nhưng đa phần là do quý Cô, quý Bác trong khâu phát hành bánh của chùa
Viên Giác ở Hannover Đức Quốc
cung cấp.
Đến nay thì đã có 25 vị ra
Tiến sĩ Phật Học tại
Đại Học New Delhi và các
Đại Học khác ở
Ấn Độ. Có người thì về nước
phục vụ, có vị thì đi ra ngoại quốc để giúp đỡ các chùa, các hội. Trong đó có
Đại Đức Thích Đồng Văn. Thầy ấy
xuất thân từ Bình Định, thuộc hệ phái
Lâm Tế Chúc Thánh, sinh năm 1964, bằng tuổi Hạnh Tấn,
xuất gia năm 1974, thọ tỳ-kheo năm 1984 và năm ấy cũng là năm Thầy được nhập học khóa I của cao cấp
Đại Học Vạn Hạnh. Cứ bốn năm
Đại Học Vạn Hạnh mở một khóa.
Cho đến bây giờ sau hai mươi năm đã gần xong khóa thứ V rồi. Những khóa đầu độ chừng năm mươi
Tăng Ni sinh học. Khóa thứ V niên khóa 2001-2005 có độ khoảng 600 vị đang học tại Sài Gòn.
Năm 1988, Thầy Đồng Văn tốt nghiệp và đến 1994 thì du học qua
Ấn Độ để học MA và đến năm 2001 thì đã xong
Tiến Sĩ tại đó. Sau khi xong, tôi hỏi Thầy có muốn đi qua Đức hay không, thì
Giáo Hội ở đây
bảo trợ. Thầy
đồng ý. Thế là giấy tờ
bảo lãnh tiến hành và chỉ
trong vòng một tháng là Thầy ấy có mặt tại Đức. Mới đó mà cũng đã gần bốn năm rồi. Trong hơn hai năm đầu Thầy ở chùa
Viên Giác lo giúp đỡ dạy chữ Hán và Luật cho quý Cô, quý Chú tại chùa. Đến giữa năm 2003, Thầy
Từ Trí muốn tịnh tu nên đã
yêu cầu Chi Bộ cử người về chùa
Tâm Giác ở Munchen để chăm lo
Phật sự. Thế là tôi đã cử Thầy Đồng Văn đi và hiện bây giờ có
Giác Đức đang phụ Thầy với
vai trò là
Tri Sự chùa.
Sau
mùa An Cư Kiết Hạ năm 2003, tôi
dự định sang Úc để
nhập thất ba tháng và nhờ Thầy Đồng Văn đi cùng để đánh máy và hỗ trợ việc dịch thuật cho tôi. Đây cũng là lần đầu tiên tôi làm theo cách này. Nghĩa là tôi xem văn bản trong
Đại Tạng Kinh bằng chữ Hán, đọc ra tiếng Việt và Thầy Đồng Văn đánh máy liền vào computer. Nếu chữ nào tôi không rõ thì hỏi Thầy ấy. Nếu cả hai cùng không biết thì tra tự điển. Sau đó nhờ
Hòa Thượng Bảo Lạc, Bào huynh của tôi giảo chính lại
một lần nữa. Như vậy là tạm xong, để khi về Đức chỉ cần layout rồi đem đi in, chứ không
cần phải đánh máy lại nữa.
Đây là do tôi
sáng tạo, chứ đa phần quý Thầy, quý Cô dịch bằng lối viết tay từ
ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ khác và sau đó giao cho người khác đánh máy. Điều này có cái lợi là còn bản gốc. Lỡ có bị mất trang trên máy điện toán cũng không sao, nhưng bất tiện là tốn nhiều
thời giờ và nếu người đánh máy rành danh từ
Phật Học thì đỡ sửa lại,
nếu không rành thì lỗi chính tả cũng là một
vấn đề nan giải, phải tốn nhiều
thì giờ hơn nữa để
hoàn thành một dịch phẩm như thế.
Năm 2003,
chúng tôi đã dịch quyển Đại Đường Tây Vức Ký từ chữ Hán sang tiếng Việt, đã
ấn hành tại Hoa Kỳ 4.000 bản, Âu Châu 1.000 bản và Úc Châu cũng 1.000 bản và được biết ở
Việt Nam cũng đã được in lại nhiều ngàn bản nữa. Như vậy chỉ trong một
thời gian ngắn mà việc
lưu hành quyển sách này nhanh như thế.
Ngoài ra chúng tôi cũng có dịch truyện
Giám Chân Hòa Thượng đăng trên báo
Pháp Bảo và một số kinh ngắn khác đăng trên báo
Viên Giác,
Tâm Giác v.v...
Cứ mỗi cuối tuần, quý Thầy quý chú xuống chùa
Pháp Bảo ở Sydney để phụ lễ và nghe
Hòa Thượng Bảo Lạc giảng về
Quy Sơn Cảnh Sách cũng như
Duy Thức học, thì ở trên núi tôi
cố gắng viết thêm một
tác phẩm nữa.
Tác phẩm đó có
tính cách giáo dục mang tựa đề là “Làm Thế Nào Để
Trở Thành Một Người Tốt”. Sách này chỉ xuất bản ở Đức 1.000 cuốn và vào tháng 10 năm 2004
Đạo Hữu Tâm
Kiến Chánh ở Oklahoma USA đã đọc vào băng Cassette cũng như chuyển thành định dạng MP3 đưa lên mạng Internet.
Đạo Hữu Tâm
Kiến Chánh cho biết trong vòng 14 tiếng đồng hồ đã có 172 vị vào mạng để download xuống, trong đó có cả
Việt Nam và một số
quốc gia Đông Âu. Nhiều nhất là Hoa Kỳ và Canada. Kết quả như thế làm cho tôi rất
hoan hỷ. Vì có nhiều người vào nghe và
tham khảo cũng như đọc về
giáo lý của
Phật Giáo. (Đầu tháng 5 năm 2005, đã có 5.000 người vào mạng xem sách này.)
Năm 2004 tôi đến Úc trễ hơn năm trước, vì
lẽ phải tham dự khóa
Lễ Hội Hành Hương của
Gia Đình Phật Tử Việt Nam Hải Ngoại tại
Trung Tâm Tu Học Viên Giác ở Bồ-đề
Đạo Tràng,
Ấn Độ, nên ngày 10 tháng 11 năm 2004 mới đến Sydney.
Bắt đầu làm việc từ ngày 16 tháng 11 năm 2004 và Thầy Đồng Văn vẫn chưa có visa vào Úc, nên tôi đã bắt đầu dịch và
Thiện Tánh đánh máy vào computer. Luận lần này mang tựa đề là “Đại Thừa
Bồ Tát Học Luận” (Siksasamuccaya) do Ngài
Pháp Xứng Bồ Tát (Santideva-
Tịch Thiên) soạn, gồm 25 quyển. Độ 70 trang trong
Đại Tạng. Sau khi dịch và in thành sách chắc cũng gần bằng quyển Đại Đường Tây Vức Ký vừa qua. Nghĩa là cũng hơn 400 trang A5 như thế.
Từ quyển 1 đến quyển thứ 12
Thiện Tánh đánh máy. Từ quyển 13 đến quyển thứ 25 thì Thầy Đồng Văn
đảm nhận. Thầy ấy bắt đầu làm việc chung từ 30 tháng 11 năm 2004 đến 15 tháng 1 năm 2005. Năm nay tôi có viết thêm một
tác phẩm khác mang tựa đề là “Dưới cội Bồ-đề”. Sách này gồm những tản văn
liên quan đến cuộc đời Đức Phật,
Hoàng Đế Asoka, Hoàng Tử Mahinda và những chuyện
liên quan đến việc
tu học.
Ngày xưa chư Tổ dạy: “Tạo tự dị, tạo tăng nan.” Nghĩa là làm chùa thì dễ mà
đào tạo một vị tăng sĩ thì rất khó. Do đó ngày nay tôi
quan niệm xây dựng con người là
vấn đề tối quan trọng, hơn là việc xây chùa.
Mặc dầu xây chùa cũng là
vấn đề cần thiết, nhưng
vấn đề nào
cần thiết hơn thì phải làm trước vậy. Trong khi chùa viện có nhiều mà thiếu
chư tăng ni thực tu, thực học cũng là điều
thiếu sót to lớn.
Ngày nay, trong cũng như ngoài nước, việc
phiên dịch Đại Tạng Kinh đã bắt đầu
rầm rộ.
Hy vọng là chừng mười năm nữa
Phật Giáo Việt Nam sẽ dịch hết
Đại Tạng Kinh chữ Hán ra tiếng Việt. Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh gồm 100 bộ. Mỗi bộ độ 1.000 đến 2.000 trang chữ
li ti. Như quý vị thấy đó, chỉ 70 hay 80 trang trong
Đại Tạng khi dịch ra tiếng Việt đã phải lên tới 400 trang A5 rồi. Do
vậy mà một
Đại Tạng Kinh Việt Nam nếu thật sự hoàn chỉnh phải cần gấp bốn hay năm lần số trang và số quyển như vậy. Đó không phải là công việc của một người, mà là công việc của tập thể.
Một con én không làm nên
mùa xuân, nhưng nếu
mùa xuân có nhiều cánh én thì bầu trời sẽ
rạng rỡ hơn. Vì
quan niệm như vậy nên tôi đã bắt tay vào việc
sáng tác từ năm 1974 cũng như dịch thuật vào những năm sau này.
Hiện tại (2004) tôi đã viết và dịch độ bốn mươi
tác phẩm, nhưng chừng ấy cũng chưa đủ vào đâu. Vì nhu cầu ngày nay càng ngày càng nhiều lắm, mà món ăn
tinh thần thì không tăng, như thế sẽ có một số
thiệt thòi cho những người đi sau.
Thị
trường sinh hoạt trên
thế giới ngày nay người ta
dựa trên cung và cầu, nếu cung nhiều mà cầu ít sẽ tạo nên
dư thừa hàng hóa và ngược lại nếu cầu nhiều mà cung ít thì sẽ bị khan hiếm hàng hóa. Đó là
vấn đề vật chất mà các xí nghiệp phải biết tính toán thì cơ sở mình mới có thể
tồn tại và phát triển được. Còn
vấn đề tư tưởng,
vấn đề tinh thần cũng giống vậy thôi. Không thể chỉ có cái đầu
tiến bộ, cởi mở mà cái
chân không chạy theo kịp, thì cả hai cách này đều
mâu thuẫn và níu kéo nhau, làm sao
con người có thể
tiến bộ được.
Nếu không đi tới, ắt phải lùi, mà một nhịp đập như thế của
tôn giáo phải cần một cung cách
sáng tạo hơn mới có thể tạo thành một
động lực cho mọi giới được, nhất là cho những
thế hệ về sau này, khi mà khoa học càng ngày càng phát triển hơn.
Khoảng
cuối năm 1989 hoặc đầu năm 1990, có một cậu thanh niên tuổi độ chừng 26, 27 có mái tóc quăn từ địa phương Regensburg về Hannover để thăm chùa
Viên Giác và có
ý muốn cúng để tang cho Mẹ. Từ đó về chùa đi xe lửa độ sáu tiếng đồng hồ, vì khoảng cách gần 500 km. Ngày ấy chưa có xe lửa chạy nhanh. Nếu bây giờ thì chỉ cần ba tiếng rưỡi là đến.
Cậu ta tên là Nguyễn Phước Bảo Tần, con của một nữ sĩ, bút hiệu Chim Hoàng, có làm thơ, bạn của nữ sĩ Hỷ Khương ở
Việt Nam.
Chẳng may mẹ cậu
bị mất tích và bây giờ về chùa nhờ tôi cúng cầu siêu, nhưng chẳng biết còn sống hay chết, nên lấy ngày ra đi khỏi nhà làm ngày giỗ và để tang.
Cũng như bao nhiêu người khác thôi, ngày sau tôi có làm lễ và có tụng bài “Cuộc Hồng Trần”. Thế là cậu ta khóc tha thiết, khóc nức nở khi nhớ về người mẹ sinh ra mình. Rồi từ đó cậu ta
trở lại chốn cũ của mình và vẫn thư từ
liên lạc đều với tôi. Sau đó định về chùa ở một
thời gian dài để làm
công quả. Tôi
đồng ý. Vì lúc đó chùa
Viên Giác đang xây cất. Cũng trong mùa
Phật Đản năm 1990 cậu ta
quy y, tôi cho
pháp danh là Thiện Quang và sau đó
xuất gia.
Nhân duyên đã
chín muồi cho nên đến năm 1991 thì
thọ giới sa-di tôi cho
Pháp Tự là Hạnh Bảo và năm 1994 thì
thọ giới tỳ-kheo. Lúc đó tuổi đời của Hạnh Bảo vừa đúng ba mươi mốt tuổi. Cái tuổi thanh niên đang
trưởng thành và biết bao nhiêu chuyện
thế gian đã gác lại và cố nhìn phía trước để
tu học cũng như
báo ân cho mẹ. Đây là một trong những người
đệ tử xuất gia của tôi, vì chữ hiếu với mẹ mà đi tu.
Dĩ nhiên mỗi người đi
xuất gia có mỗi một
hoàn cảnh và mỗi một
mục đích khác nhau, không ai giống ai cả.
Từ năm 1996 đến năm 1999 tôi cho Hạnh Bảo đi
Đài Loan học thêm sinh ngữ và sau ba năm thì về lại
Viên Giác. Trước đó có ở Singapore mấy tháng. Lẽ ra Hạnh Bảo đã học ở
Trung Quốc, nhưng vì thuở đó giao thương giữa Đức và
Trung Quốc còn khó khăn, nên
cuối cùng phải chọn
Đài Loan.
Vì có khiếu tiếng Hoa cho nên chẳng mấy chốc Hạnh Bảo đã thành thạo
ngôn ngữ này và khi về lại Đức, tôi có dẫn đi một số nơi để
tham gia các
buổi lễ Thọ
Bát Quan Trai cũng như
Lễ Vu Lan hay
Phật Đản. Khi đến chùa
Vạn Hạnh tại Odense Đan Mạch và
Niệm Phật Đường Viên Ý tại Ý thì Hạnh Bảo được hai nơi này mời về
trụ trì.
Cuối cùng thì tôi và
Giáo Hội đã thuận cho Hạnh Bảo
chính thức trụ trì chùa Viên Ý từ năm 2003 và tại chùa
Vạn Hạnh Đan Mạch chưa
chính thức là
trụ trì.
Tuy nhiên trong
hiện tại ngoài Hạnh Bảo tại đó ra, chùa này không có Thầy nào khác nữa cả.
Năm 2004 vừa qua
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu giao cho địa phương nước Ý tổ chức khóa
tu học Phật pháp kỳ thứ 16 đã
thành công viên mãn. Có hơn 100
Tăng Ni tham gia chứng minh giảng dạy và đến để học tập.
Ngoài ra có 100 trẻ em và 800 học viên đến từ khắp Âu Châu cũng như Hoa Kỳ, Canada cũng như Úc Châu. Sau 16 năm tổ chức, đây là lần đầu tiên có số học viên và
chư Tăng Ni đông nhất, gồm 1.000 người, và cũng là lần đầu
tiên thành công nhất về tất cả mọi
phương diện, dưới sự điều động của Hạnh Bảo và
Bác sĩ Bảo Chí cũng như Ban Chấp Hành Hội
Phật Tử Việt Nam tại Ý.
Cây bồ-đề ở Âu Châu khó phát triển như Á Châu hay Úc Châu hoặc Mỹ Châu, vì nơi đây khí hậu rất lạnh.
Mùa Đông có khi âm 30°C, chẳng có cây nào có thể mọc được
ngoài trời, mà phải trồng ở trong nhà. Do đó tôi vẫn
thường hay nói: Trồng cây Bồ-đề - cũng có nghĩa là cây
giác ngộ - ở xứ Đức này phải
cố gắng lắm mới
giữ gìn và phát triển được. Điều đó hẳn đúng cả
nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng.
Bây giờ, sau nhiều năm
tu học,
Phật Tử tại Âu Châu đã có chừng hơn 1.000 vị thọ
Bồ Tát Giới tại gia,
ăn chay trường và
kinh kệ,
giáo lý rất rành. Quý Thầy
lãnh đạo tại Âu Châu rất
hãnh diện về điều đó và
đặc biệt trong 1.000 người
tham dự khóa học đó có đến 700 người là thanh niên rồi, lão niên chỉ chừng 200 vị. Như thế ta có quyền
hy vọng Đạo Phật Việt Nam tại Âu Châu sẽ phát triển mạnh trong
thời gian tới, vì đã có
thế hệ trẻ ấy đứng ra
cáng đáng Phật sự.
Riêng tôi chẳng biết có duyên gì mà từ năm 1981
đến nay đã độ cho bốn mươi bốn vị
xuất gia. Bên tăng hầu như 95% là thanh niên chưa
lập gia đình. Có
trình độ thế học trước khi đi
xuất gia được chia ra làm ba loại: Loại một có Tú tài rồi mới đi tu được 40%. Số từ lớp 10 đến Tú tài độ chừng 35%. Số dưới lớp 10 là 25%. Cũng chính là nhờ
kén chọn ngay từ đầu vào như thế, cho nên đầu ra có nhiều kết quả cao.
Nếu không rõ ràng ngay từ đầu thì lượng sẽ có nhưng phẩm lại không.
Vì vậy cho nên nhiều người cho rằng tôi khó, đi
xuất gia rồi mà còn trọng bằng cấp. Thật sự ra tôi muốn dưỡng nuôi cây bồ-đề ấy tươi tốt, cành lá vươn cao, chứ không thể bỏ nhiều công sức và phân bón để chỉ chăm lo cho những cây bị sâu ăn, bị cụt đầu hay bị quằn lá v.v... Nhờ
vậy mà riêng đội ngũ
Viên Giác bây giờ giới
xuất gia bên tăng đã có hơn 10 vị có học vị từ
Cử nhân, lên Cao học và
Tiến sĩ.
Quý Cô thì đa phần trung niên
xuất gia, nghĩa là có
gia đình rồi mới đi tu.
Tuy nhiên, họ đã
nỗ lực rất nhiều. Cô Hạnh Thông, cô Hạnh Bình học và tu rất siêng, cô
Hạnh Ngộ thì làm kinh tế cho chùa rất giỏi. Các cô lớn tuổi như cô Hạnh Châu, cô Hạnh Ân, cô Hạnh Ngọc, cô Hạnh Niệm, cô Hạnh Tịnh cũng vậy. Họ đã dùng
thì giờ tu phước, làm bánh trái để giúp quý Thầy Cô
Việt Nam đi du học ở ngoại quốc và nhờ
vậy mà Phật Giáo Việt Nam mới có chỗ đứng sau này trong lòng dân tộc cũng như trên
diễn đàn của
Phật Giáo thế giới.
Những người có bằng cấp từ
Cử nhân trở lên thì có: Hạnh Tấn, Hạnh Hảo, Hạnh Giới, Hạnh Giả, Hạnh Nhẫn,
Thiện Tánh, Đồng Tâm (Thông Trụ,
đệ tử Hạnh Tấn) và có từ Tú Tài trở lên thì có Hạnh Bảo, Hạnh Hòa, Hạnh Sa, Hạnh Thức, Hạnh Giải, Đồng Thuận (Thông Trị,
đệ tử Hạnh Tấn).
Ngoài ra những vị
y chỉ có
trình độ Tiến Sĩ như
Sư cô Minh Huệ, Thầy Đồng Văn, Cao học như Thầy Tông Nghiêm và rất nhiều vị khác có
trình độ như thế.
Những người có
trình độ từ lớp 10 trở lên có Hạnh Vân, Hạnh Từ, Hạnh An, Hạnh Luận, Hạnh Lý, Hạnh Tuệ, Hạnh Định, Hạnh Nhân, Hạnh Đức v.v...
Ngoài ra là
trình độ dưới lớp 10.
Trong 44 vị
xuất gia ấy có 5 người ra đời và 3 vị đã ra đi. Như vậy, 36 vị còn lại là những vị đang vun xới tưới tẩm
tinh thần tu học của mình của chùa
Viên Giác sẽ càng ngày càng
rạng rỡ hơn xưa nữa.
Dĩ nhiên ở đây mỗi Thầy, mỗi Cô, mỗi Chú đều có mỗi
biệt tài riêng. Ví dụ như Hạnh Vân rất giỏi
nghi lễ, Hạnh Từ rất giỏi
thuyết pháp...
Người làm thầy cũng giống như làm
cha mẹ, nếu bênh vực cho ai đó thì cũng chỉ bênh vực
lẽ phải và khiển trách ai đó thì cũng là khiển trách những điều không đúng, chứ không thể
thiên vị người nào.
Dĩ nhiên, người học giỏi bao giờ cũng được thưởng và người học dở thì được khuyến khích và
sửa đổi nhiều lần để tiến thêm.
Trong quý thầy, nhiều người có cả bốn hay năm
anh em ruột đi
xuất gia, có người thì ba hoặc hai cũng là chuyện rất
bình thường. Vì người anh hay người chị đi rồi, về thăm nhà thì những người em thấy thế nên cũng muốn nối bước theo. Đa phần
thành công, vì lẽ có tấm gương của anh hay chị mình
đi trước làm
nền móng rồi.
Cá nhân tôi
cũng thế, năm 1958, khi
Hòa Thượng Bảo Lạc đi
xuất gia thì cả nhà hầu
như không đồng ý. Đến năm 1964 khi tôi đi
xuất gia cũng không phải là trong
gia đình ai cũng
hài lòng. Vì tôi là con út trong
gia đình. Người xưa thường nói “giàu út ăn, khó út chịu”, nhưng
phần hương hỏa của
gia đình chúng tôi sau khi
xuất gia chẳng còn lo được mà phải cậy vào ông anh thứ tư và các cháu của
chúng tôi ngày nay
cáng đáng.
Ở ngoại quốc ngày nay có nhiều
anh chị em ruột cũng đi tu như
Hòa Thượng Thanh An,
Thượng Tọa Thiện Tường, Thầy Trí Dung, Thầy Trí Dũng,
Thượng Tọa Nhất Chơn,
Thượng Tọa Thiện Huệ, Hạnh Giới, Hạnh Giả v.v... Hôm nay trong
tác phẩm này tôi sẽ đề cập đến hai người
đệ tử xuất gia có
tính cách đặc biệt một chút, không phải để khoe khoang mà để khích lệ cho những ai đang có
ý hướng đó thì
con đường xuất gia cũng đang đón chờ.
Có nhiều người
quan niệm rằng đi
xuất gia là vì bị
bạc đãi, bị thất sủng, hay vì
thất tình v.v... nên mới tìm vào cửa chùa, nhưng những
đệ tử xuất gia của tôi không rơi vào những
trường hợp đó, mà với bằng cấp, học lực như thế, nếu họ ở đời có thể kiếm ra nhiều tiền, cuộc sống
sung túc. Nhưng tại sao họ lại đi
xuất gia để chôn chặt đời mình vào trong một khuôn khổ
nhất định, mà
chắc chắn ở đời họ không phải bị
chi phối điều này?
Gia đình và
tôn giáo đóng góp một
vai trò rất quan trọng. Nếu trong
gia đình ông bà,
cha mẹ, chú bác không có
nhân duyên với
đạo Phật thì phải nói rằng con cháu ít ai có
nhân duyên với cửa chùa. Như vậy,
gia đình là một nhân tố nội tại và là
nguyên nhân xa để người
xuất gia có thể nương vào đó mà
thực hiện ý chí xuất trần.
Gia đình anh chị Quảng Ngộ và
Diệu Hiền,
Đức Hương và Diệu Tịnh ở Đức là những
gia đình tiêu biểu như thế, là những “Gia đình Phật Hóa Phổ”. Trên từ ông bà
cha mẹ, dưới đến rể con, dâu cháu
nội ngoại hầu như đều đã
quy y Tam Bảo và rành rẽ về
giáo lý của nhà Phật. Phải nói rằng, đây là những
gia đình lý tưởng khi sống ở ngoại quốc ngày nay. Không ai là không muốn như thế, nhưng nhiều khi
nhân duyên đưa đẩy không thuận thì
lúc ấy chỉ biết quy trách về
nghiệp duyên mà thôi.
Hạnh Giới và Hạnh Giả là
thế hệ thứ hai lớn lên và
thành công tại Cộng Hòa
Liên Bang Đức, nhưng cả hai đều đi
xuất gia và đã được
gia đình đồng ý lẫn
trợ duyên, khuyến khích cho việc này. Thông thường thì
cha mẹ ít khi hoan hỷ,
mặc dầu biết rằng
xuất gia là việc tốt và chỉ có những bậc
cha mẹ hoặc
gia đình hiểu đạo mới có thể biểu tỏ được sự đồng tình ấy.
Hạnh Giới
tên thật là Hồ Lộc,
pháp danh Đức Thụ,
quy y với
Hòa Thượng Thích Quảng Thạc,
Trụ trì chùa
An Lạc tại Sài Gòn.
Hòa Thượng là một
danh Tăng lẫn
danh Nho của đất Việt. Tại chùa
Viên Giác Hannover có treo câu đối của Ngài là:
慧炬高標光越地
慈鐘長叩震西洋
“Tuệ cự cao tiêu quang Việt địa,
Từ chung trường khấu chấn Tây dương.”
Dịch nghĩa:
“Đuốc Tuệ giương cao (sáng) soi đất Việt,
Chuông từ gióng tiếng (chấn) động trời Tây.”
Bây giờ thì Ngài đã
viên tịch rồi, những
đệ tử tại gia và
xuất gia của Ngài có nhiều người giỏi ở trong cũng như ngoài nước.
Quy y với Ngài Quảng Thạc, Hồ Lộc có
pháp danh là Đức Thụ, sinh năm 1970 theo giấy khai sinh, nhưng tuổi thật là sinh năm 1967. Ra đi tỵ nạn với
gia đình đạo hữu Đức Hương Hồ Thanh và đến trại tỵ nạn Hồng Kông cách đây hơn hai mươi năm về trước. Lúc đó Đức Thụ cùng Đức Hinh, hai
anh em ruột, đã theo chú đi tỵ nạn khi tuổi đời mới trên dưới mười tuổi.
Đến Đức phải học tiểu học tại Furth và sau đó mới
bảo lãnh cho
cha mẹ qua. Khi qua thì
gia đình đạo hữu Quảng Ngộ dẫn thêm
Từ Vũ và
Đức Lập qua và tất cả bốn cô cậu đi học tiểu học ở trường Đức. Những năm đầu theo học phải nói là thiên nan
vạn nan vì
ngôn ngữ không rành, phong tục tập quán khác biệt v.v... Nhưng về sau nhờ
Phật độ và có sự
kiên nhẫn nên đã
vượt qua và sau đó thì
gia đình dọn về Laatzen ở gần chùa.
Đạo hữu Quảng Ngộ và
Diệu Hiền thì
sinh hoạt trong Chi Hội
Phật Tử Hannover, còn bốn cô cậu thì học trung học tại trường Trung Học Albert Eintein tại Laatzen và
sinh hoạt trong
Gia Đình Phật Tử Tâm Minh thuộc chùa
Viên Giác.
Bắt đầu vào học
Đại Học Hannover ngành
Tôn Giáo và
Ngôn Ngữ học là Đức Thụ đã xin vào ở chùa, từ năm 1991 và ở được hai năm thì
dọn ra, nêu
lý do ở chùa ít có
thì giờ cho việc học và làm bài ở
Đại Học. Bẵng đi một
thời gian, sau khi làm nghĩa vụ công dân tại Malterserhilfsdienst lo cho các em người Đức khuyết tật và đậu Magister (Cao Học) về ngành trên thì cậu ta mới vào chùa cùng ba mẹ và xin tôi đi
xuất gia, nghĩa là giữ lại
chí nguyện cũ. Tôi nghĩ chắc có lẽ bị rớt rồi, vì khi không còn ở trong chùa nữa, sống với cuộc sống đầy
quyến rũ ở bên ngoài đời, không phải là chuyện
đơn giản. Nhưng sau tôi được biết
thời gian ở ngoài cư xá sinh viên
Đại Học Hannover cậu vẫn
ăn chay và
lui tới chùa đều vào những ngày cuối tuần.
Khi vào chùa lần thứ hai để đi
xuất gia, tôi bắt buộc phải đi học
tiếp tục lên
Tiến Sĩ. Đức Thụ
đồng ý và từ đó vừa học vừa tu. Kể từ năm 1999 thì
xuất gia chính thức, năm 2000 thì
thọ giới sa-di, tôi cho
pháp tự là Hạnh Giới và năm 2002 thì thọ tỳ-kheo tại
Trung Tâm Tu Học Viên Giác ở Bồ-đề
Đạo Tràng,
Ấn Độ.
Năm 2001-2002,
nghiên cứu một năm ở
Đại Học Santa Cruz, California Hoa Kỳ. Sau khi về thì
hoàn thành luận án tiến sĩ về
sinh hoạt Phật Giáo của người
Việt Nam tại Hoa Kỳ với
hạng tối ưu.
Đồng thời Hạnh Giới cũng là thông dịch viên hữu thệ của Tòa Án Hannover từ Đức sang Việt và ngược lại.
Ngoài ra Hạnh Giới cũng
thông thạo Anh,
Pháp ngữ và bây giờ thì thêm tiếng
Phổ Thông Trung quốc. Những sách của tôi viết sau này đều do Hạnh Tấn và Hạnh Giới
chuyển ngữ.
Sau khi lấy văn bằng
tiến sĩ vào
cuối năm 2003,
lúc ấy mới 33 tuổi theo giấy tờ, Hạnh Giới còn muốn học thêm nữa và đã xin tôi đi học ở
Đài Loan trong vòng một đến hai năm, nghĩa là từ 2004 đến 2005. Sau đó thì về lại làm việc ở Đức với
danh nghĩa là
Tri Sự của chùa
Viên Giác, Phó Chi Bộ đặc trách ngoại vụ và thành viên của tổ chức DBU (Deutsche Buddhistische Union) là một tổ chức
Phật Tử Đức.
Con đường đã đi tuy có
gay go, nhưng đã
thông suốt về học vị. Bây giờ chỉ còn
hạ thủ công phu, nghiên tầm
kinh điển để
cống hiến đời mình cho đời và cho đạo. Ấy là tất cả nguyện vọng của một người
xuất gia. Nếu với bằng cấp ấy và
gia đình giàu có như thế mà ở đời cũng đâu có thiếu
công danh sự nghiệp,
tiếng tăm và
lợi dưỡng, nhưng đã
quyết chí xuất gia thì quả là điều đáng
tán dương.
Dĩ nhiên cuộc đời từ đây
trở về sau vẫn còn nhiêu khê lắm, những
thử thách không dừng tại đó và khi nào “nắp quan tài đậy lại” rồi thì mới
biết mình đã
trọn vẹn đời tu hay không? Đó là câu nói của
Hòa Thượng Thích Hộ Giác mà tôi hay thường đem ra để khuyên dạy
đại chúng.
Nhiều người bảo rằng đi tu là phải
khổ hạnh, chịu cực chịu khổ, không nên dùng những
phương tiện hiện đại. Như vậy ta có thể nhìn lại
cuộc đời Đức Phật để
chiêm nghiệm. Về
vật chất, với
đời sống vương giả của một Đông Cung
Thái Tử, Ngài đã có
dư thừa, nhưng Ngài đã đi tìm
lối sống khổ hạnh và nếu
lý luận như người ngoài đời là
hạnh phúc nằm nơi tiền tài
vật chất, vợ đẹp con ngoan thì Ngài đã bỏ
hạnh phúc và đi tìm khổ đau trong
cuộc sống khổ hạnh hay sao? Nhưng sau đó thì Ngài đã
sống lại con đường Trung Đạo và từ đó mang lại
hạnh phúc an lạc cho nhơn sinh qua
trí tuệ tuyệt vời ấy. Chứ nhứt quyết
hạnh phúc không nằm nơi tiền, tài, tình,
địa vị. Nếu nói là thật có thì không ai dại gì mà bỏ nó để đi tìm cái
viễn ảnh xa vời.
Đi
xuất gia như thế để người đời tự hỏi là: Tại sao mình không đi tu, để thấy
giá trị của người tu là gì? Đi tu không phải để cho người ta
thương hại, mà phải làm cho người ta ngưỡng vọng cái
giá trị tinh thần cao thượng đó, vì ít có người làm được. Chứ không phải đi tu là chôn chặt đời mình nơi sâu thẳm của
tâm thức khổ đau, như cô Lan đã chôn xác bướm Điệp để quên đi một mối tình oan trái. Việc ấy quá tầm thường và đấy không phải là
mục đích của người
xuất gia để “trên cầu
Phật Đạo, dưới
hóa độ chúng sanh”.
Nhiều người bảo tôi là đi tu rồi sao vẫn trọng bằng cấp. Thật ra thì không phải trọng, mà là tôi quý những người ham tu và ham học. Nhiều người
nói khoác rằng: “Ôi! Cái bằng
tiến sĩ ấy đâu có
ý nghĩa gì!” Nói vậy cũng được, nhưng xin đưa ra cho xem một cái bằng
tiến sĩ mà anh, chị hay ông bà đã có rồi thì
lúc ấy phủ nhận cái bằng
tiến sĩ kia cũng không muộn. Nếu Thánh Ghandhi
tranh đấu với thực dân Anh vào những năm 1940-1948 mà không có bằng cấp của Anh cấp và bảo
mọi người Ấn Độ khi
tranh đấu giành lại chủ quyền cho đất nước thì hãy đốt cháy đi và vứt vào
thùng rác những gì của người Anh cấp. Người làm đầu tiên là Thánh Ghandhi. Sau đó những người
Ấn Độ mới
tiếp tục làm theo. Nếu ông ta không có, khi bảo có ai làm theo đâu.
Tôi vẫn thường nói: “Sự học nó không làm cho người ta
giải thoát được, nhưng nếu muốn mở cánh
cửa giải thoát kia, không thể thiếu sự tu và sự học được.” Đó là điều
căn bản mà người
xuất gia nào trong
hiện tại ở thế kỷ 21 này cũng phải
suy nghĩ kỹ trước khi đi
xuất gia.
Nếu không, khi vào chùa sẽ gặp khó khăn. Vì mỗi ngày chùa nhận được hàng trăm lá thư, điện thoại đến từ
mọi nơi khác nhau và bằng nhiều
ngôn ngữ khác nhau, thì vị
Trụ Trì ấy phải làm sao đây?
Nếu không có
trình độ ngoại ngữ thì việc ngoại giao của chùa đó
xem như thất bại.
Ngoài ra còn không biết bao nhiêu là sự trở ngại khác đang chờ đợi mình ở phía trước nữa. Không học, chẳng tu thì ở chùa có
ích lợi gì?
Vì thế phải học, mà còn phải học cho thật giỏi để người ta khỏi khinh chê là người tu dốt nát và phải tu cho
chín chắn, chứ không phải chỉ tu có từng mùa. Mình là
nhà sư phạm,
nhà giáo dục, nhà
lãnh đạo quần chúng, không thể là kẻ mê mờ được, mà lúc nào cũng dùng ánh
sáng trí tuệ để soi đường cho chính mình và cho
mọi người, đó mới là điều quan trọng.
Xuất gia không phải là để
củng cố cho
bản ngã mà
xuất gia theo cái nhìn của kinh
Kim Cương mà
Đức Phật đã khuyên Ngài Tu Bồ-đề là tu theo
tinh thần Vô Ngã,
không chấp về mình,
không chấp về người,
không chấp về
chúng sanh,
không chấp vào những loại hình khác. Nghĩa là, tất cả mọi thứ, mọi loài trên đời này cái gì cũng chẳng có chủ thể cả.
“Như Lai thường thuyết,
nhữ đẳng tỳ-kheo tri ngã
thuyết pháp như
phiệt dụ giả,
pháp thượng ưng xả
hà huống phi pháp.” Nghĩa là: “Như Lai thường nói: Này các tỳ-kheo, nên biết
giáo pháp mà ta thuyết dạy cũng giống như chiếc bè, [qua sông rồi phải bỏ đi], pháp ấy còn nên xả bỏ, huống chi là những gì chẳng phải pháp.”
Vậy thì đúng hay sai cũng đều là
giả danh, đâu có gì là thật tướng? Chỉ có người nào vượt lên được trên tất cả thì mới có
giá trị tất cả. Còn kẻ nào còn
chìm đắm trong sự
chấp trước,
đối đãi thì pháp ấy là pháp
thế gian chứ không phải là pháp
xuất thế gian.
Nói như thế để phủ nhận tất cả mọi sự
hiện hữu trên đời này, đều chỉ là do
duyên sanh thôi, không có gì để phải buồn khi nó bỏ ta đi và cũng chẳng có gì vui khi nó vẫn còn
hiện hữu bên mình. Vì lẽ buồn hay vui, tốt hay xấu, giàu hay nghèo, có hay không v.v... cũng chỉ là những
đối đãi của cuộc sống
tương đối này mà thôi. Vì
chúng ta chưa phải là Phật, cũng chẳng là
Bồ Tát hiện thân, nên
chúng ta phải làm những gì thuộc về “thế gian
trụ trì Tăng bảo” chứ cũng chưa lên được việc “xuất
thế gian trụ trì Tăng bảo”. Còn “Đồng thể Tăng Bảo” lại còn xa xôi
diệu vợi lắm, vượt khỏi tầm tay của
chúng ta đang sinh sống
trong đời mạt pháp này.
Một chú khác đi tu thì làm cho nhiều người buồn. Hỏi ra mới biết là vì chú đẹp trai quá, học giỏi quá, nhưng tại sao lại đi xuất gia? Họ buồn là
trong đời thiếu đi một người như thế. Nhưng nếu đặt câu hỏi lại cho những người buồn kia là: Như thế ở trong chùa toàn là những người xấu, dở mới đi
xuất gia chăng? Có nhiều người khóc vì
cảm động. Vì lẽ trẻ trung như thế, học giỏi như thế, làm ăn đàng hoàng, tiền bạc đầy đủ như thế mà bỏ hết để đi
xuất gia thì quả là điều khó ai có thể nghĩ đến được.
Đó là chú Hạnh Giả, thế danh là Hồ Thanh,
pháp danh Đức Lập,
xuất gia hồi đầu năm 2002, sau ba tháng tôi cho
thọ giới sa-di giới tại Bồ-đề
Đạo Tràng với
pháp tự là Hạnh Giả. Chú này là em ruột của Hạnh Giới. Sau khi dời về Hannover học trường trung học Albert Einstein tại Laatzen, ra trường Tú Tài 2, lớp 13 đỗ thủ khoa toàn trường, đứng trên hết cả mấy trăm người Đức và
báo chí Đức lúc bấy giờ cũng
ca ngợi người
Việt Nam hết lời, mang
vinh dự cho
thế hệ thứ hai của người
Việt Nam khi đến tỵ nạn tại xứ này. Đến khi tốt nghiệp Diplom Ingenieur (Kỹ Sư) về Informatik (Điện toán) cũng được xếp vào loại
ưu tú. Sau khi đi làm một năm, giá lương chưa trừ thuế gần 50.000 Euro, đó là số tiền không nhỏ cho
một sinh viên Cao Học mới ra trường. Nhưng chú đã
từ bỏ tất cả.
Lý do vì sao?
Một hôm tôi đang ở trong thư phòng thì anh Quảng Ngộ dẫn
Đức Lập vào, cậu ta
ăn mặc như ở sở, tôi cứ ngỡ là đi coi ngày đám cưới cho
Đức Lập. Không ngờ anh ta mặc áo lễ vào xin
đảnh lễ và nói
lý do là muốn đi
xuất gia.
Dĩ nhiên là tôi rất vui, nhưng cũng gạn hỏi kỹ lại những
lý do chính và nêu ra một số
điều kiện. Nếu
đồng ý thì
dọn vào chùa ở và
tiếp tục con đường tu học. Chú ấy có xin mấy điều trong đó có một điều là vẫn
tiếp tục ghi danh ở
Đại Học ngành Anh ngữ và
Tôn Giáo Học,
đồng thời xin
tiếp tục đi dạy tiếng Anh cho người Đức vào mỗi tối thứ tư tại trường
Bình Dân (Volkshochschule) ở Laatzen.
Dĩ nhiên là tôi
đồng ý, vì đó cũng là cách để chú ấy
rèn luyện khả năng Anh ngữ của mình.
Ngày xưa ở
Việt Nam và ngày nay ở ngoại quốc
cũng thế, những ai học
cùng lúc chương trình nội điển lẫn
ngoại điển thì rất cực. Vì phải lo học bài cho cả trường Đạo lẫn
trường Đời.
Tuy nhiên khi ra trường xong thì có cơ hội dùng sở học của mình để đi làm việc. Nếu vị nào chỉ học
nội điển không, vẫn tốt thôi, nhưng giao tế bên ngoài không có khả năng nhiều. Ngược lại một vị Tăng Sĩ hay
Ni Cô chỉ có học
ngoại điển mà không trau giồi
nội điển thì quả là một
thiếu sót lớn.
Ở chùa
Viên Giác tại Hannover mỗi năm
an cư kiết hạ ba tháng, từ sau
lễ Phật Đản đến
lễ Vu Lan.
Chương trình mỗi ngày rất khít khao. Sáng
thức dậy từ 5 giờ 30 phút. Sau đó tất cả
Tăng Ni lên
chánh điện,
tọa thiền từ 5 giờ 45 phút đến 6 giờ. Sau đó là trì tụng
thần chú Thủ Lăng Nghiêm và
kinh hành nhiễu Phật đến khoảng 7 giờ 20 phút.
Tiếp theo là chấp tác. 8 giờ dùng
điểm tâm.
Từ 9 giờ đến 11 giờ sáng đọc sách, ôn bài hay đi học ở ngoài. 11 giờ là
giờ ngọ trai và
kinh hành nhiễu Phật đến 12 giờ. Từ 12 giờ 30 phút đến 14 giờ 30 phút là giờ nghỉ trưa. Chiều từ 14 giờ 30 phút đến 16 giờ
Tăng chúng học
nội điển. Ví dụ ngày thứ hai trong tuần tôi hướng dẫn
Đại Trí Độ Luận, ngày thứ ba
huân tu Tịnh Độ. Ngày thứ tư học
Thanh Tịnh Đạo Luận với Hạnh Tấn. Ngày thứ năm và thứ sáu học
nghi lễ và chữ Hán thuộc về luật với Thầy Đồng Văn, hoặc một vị khách Tăng nào đó trong
mùa an cư kiết hạ được mời dạy.
17 giờ là giờ
công phu chiều. 18 giờ 30 phút vãn thực. Từ 20 giờ đến 21 giờ 45 phút là giờ lạy kinh Đại Bát Niết-bàn mỗi chữ mỗi lạy.
Cho đến năm 2004,
chư Tăng Ni và
Phật Tử đã lạy gần xong quyển I. Còn quyển II sẽ lạy trong những năm tới. Nếu lạy hết hai quyển này chắc cũng hơn 500.000 lạy. Mỗi đêm như thế lạy chừng 300 đến 350 lạy,
tùy theo đánh khánh nhanh hay chậm. Cách lạy này cũng là cách
sám hối cho
thân tâm thanh tịnh và làm cho sự
tu học càng ngày càng
tinh tấn hơn. Mới lạy mấy ngày đầu hơi đau chân, nhưng những ngày sau quen dần, sẽ trở nên
bình thường. Chỉ trừ tối Chủ Nhật là không lạy thôi.
Ngoài ra trong ba tháng
an cư ngày nào cũng lạy cả.
Kể từ năm 1984 đến 2004 là hai mươi năm. Mỗi năm tôi và
Tăng Ni chúng chùa
Viên Giác tại Hannover đều đã
thể hiện sự
tu học của mình như thế. Đầu tiên tôi lạy Ngũ Bách Danh. Đó là 500
danh hiệu của Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát. Sau đó lạy
Tam Thiên Phật Danh gồm 3.000 lạy.
Quá khứ Trang Nghiêm Kiếp có 1.000 vị Phật.
Hiện tại Hiền Kiếp có 1.000 vị Phật và
Vị lai Tinh Tú Kiếp có 1.000 vị Phật. Sau đó thì tôi
phát nguyện lạy kinh
Vạn Phật. Cũng là
danh hiệu Phật và 11.100 lạy chứ không phải chỉ 10.000 lạy mà thôi. Tiếp đến sau kinh
Vạn Phật chúng tôi phát nguyện lạy
kinh Pháp Hoa mỗi chữ mỗi lạy. Phần mở đầu của
kinh Pháp Hoa nói có hơn 60.000 lời, nhưng khi dịch ra tiếng Việt đã có 77.000 chữ.
Chúng tôi lạy
trong vòng 5 năm như thế mới xong
bộ kinh này và
tiếp tục là
Bộ Kinh Đại Bát Niết-bàn cũng mỗi chữ mỗi lạy. Chắc cũng trên 200.000 lạy rồi.
Mỗi vị tu có mỗi hạnh khác nhau, như
sám hối,
lễ bái, trì kinh,
tọa thiền,
niệm Phật,
trì chú v.v... tất cả cũng là những
pháp môn của
Đức Phật dạy cho
chúng ta mà thôi. Nếu
chúng ta thâm tín và siêng năng
hạ thủ công phu thì cách nào cũng tốt hết, không
nhất thiết chỉ có một cách
duy nhất.
Sau khi lạy kinh buổi tối, toàn chúng
tọa thiền một lần nữa. Khi về lại phòng riêng chắc cũng đã gần 10 giờ đêm. Ai siêng năng thì học bài tiếp, hoặc làm công việc riêng của mình và 11 giờ lên giường ngủ, để chuẩn bị cho ngày hôm sau.
Nếu không có
sức khỏe thì
chắc chắn không kham nổi. Có người bảo: “Để già, rảnh việc hãy vào chùa tu.” Nếu chờ cho rảnh việc và chờ cho già đến thì chẳng làm được việc gì cả.
Dĩ nhiên cũng
tốt hơn là đã chẳng
thể hiện ý chí của mình cho một việc gì
nhất định cả thì uổng phí cho
một đời người
làm Phật Tử
đi chùa.
Do vậy, đi tu ở tuổi thanh niên, thanh nữ vẫn
tốt hơn. Thứ nhất là có nhiều
thời giờ để
học hỏi. Thứ hai là có thể lạy tròn một lạy với cách
ngũ thể đầu địa hay cách lạy như của
Việt Nam mình là đứng lên ngồi xuống.
Ngày xưa Thái Tử Tất Đạt Đa phát tâm xuất gia lúc 19 tuổi, độ tuổi đẹp nhất của
cuộc đời và
thành đạo lúc 30 tuổi cũng là độ tuổi quá đẹp để còn
thì giờ đi hoằng
hóa độ sanh trong 49 năm nữa mới
thị tịch Niết-bàn. Chứ nếu chờ 60 hay 70 tuổi mới đi
xuất gia thì
quả thật khó học và tu theo chúng được.
Còn chín tháng khác trong năm,
Tăng Ni chùa
Viên Giác vẫn
công phu ngày hai buổi như thế. Ai muốn
nhập thất trong 1 tuần hay 2 tuần cũng sẽ dễ dàng
thực hiện, vì ở chùa có nhiều phòng ốc. Chỉ sợ mình không đủ
ý chí mà thôi. Trong mùa không
an cư thì cuối tuần đi
Phật sự đến các nước khác, các chùa khác hoặc các Chi Hội để dự lễ như
Phật Đản, Vu Lan, Thọ
Bát Quan Trai, khóa
giáo lý v.v...
Ngoài ra là những khóa tu từ ngày 1 tháng 7 đến 14 tháng 7 mỗi năm cũng như từ 25 đến 30 tháng 12 mỗi năm đều có những khóa
tu học,
niệm Phật,
trì chú và khóa tu gieo duyên để
kết duyên với
Tam Bảo cho chúng
Phật Tử tại gia.
Dĩ nhiên là tôi không thể kể hết về những
đệ tử xuất gia, vì mỗi vị có một hạnh như những vị đã đề cập bên trên.
Tuy nhiên, những
đệ tử không đề cập ấy vẫn nằm trong tâm tôi. Ví dụ khi Hạnh Bảo ở
Đài Loan về thì giở cái đầu cho tôi xem là đã
phát tâm đốt 9 liều một lúc để
cúng dường ở một
giới đàn tại Đài Bắc.
Dĩ nhiên đệ tử mình mà có được nhiều người
chuyên tu hơn,
hạ thủ công phu hơn mình thì mình càng quý hơn cũng như sẽ hỗ trợ cho họ nhiều mặt khác nhau để vị ấy
thành tựu sở tu của họ. Riêng tôi, tôi rất
hãnh diện về những
đệ tử xuất gia và những
đệ tử y chỉ của mình. Vì họ đã nương tựa
vững chãi tâm linh của họ và từ đó đã phát đi những lời
đại nguyện để vào đời
độ sanh và tự chiến thắng chính mình.