Sau khi đến bồ-đề
Đạo Tràng nơi Đức
Thích Ca Mâu Ni thành đạo vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nơi có cây bồ-đề
lịch sử ấy. Bây giờ cành lá đã vươn cao lên và cả Hoàng Tử Mahinda lẫn
Công Chúa Sanghamita rất mừng và cả hai cùng với các cận thần quỳ xuống trước
Kim Cương Tòa lâm râm khấn nguyện:
- Kính bạch Đức Thế Tôn! Con là tỳ-kheo Mahinda, con trưởng của Vua
Phật Tử A-dục và đây là tỳ-kheo ni Sanghamita,
Công Chúa con Vua A-dục. Nay chúng con
vâng lệnh phụ Vương đi đến xứ
Tích Lan, xa xôi cách đây hàng nghìn dặm, để mang ánh sáng
giác ngộ giải thoát của
Đạo Phật đến cho
muôn dân tại đó cậy nhờ. Nhưng để làm tin. Con xin thỉnh
mang theo một cành cây bồ-đề để
giới thiệu cho
nhân dân và
Phật Tử nơi ấy biết về
cuộc đời của
Đấng Giác Ngộ là thế đấy...
Mahinda cúi đầu xuống
sát đất rồi ngước mặt lên như
đợi chờ sự
đồng ý của
Đức Phật,
mặc dầu Ngài đã
viên tịch lâu rồi. Từ trên cây, cành lá khua động, như thầm
gật đầu biểu lộ đồng ý cho
việc làm của
Thái Tử và
Công Chúa.
Sau đó cả hai và các cận thần
đảnh lễ ba lạy. Đoạn cho
hộ vệ vào
sát thân cây để đốn một cành
tương đối bụ bẫm và không lớn lắm để dễ bề
di chuyển sang
Tích Lan.
Ngày
lên đường đã đến nên Đức Vua A-dục, Hoàng Hậu và triều đình bá
quan văn võ cũng như các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo ni và
Phật Tử đã đứng chờ chật cả một bến cảng ở miền nam xứ Ấn và khi Đức Vua đến bên Mahinda, trao cho một tấm lụa màu vàng, trong đó có gói một phong thơ nhỏ để
giới thiệu với Vua
Tích Lan và Hoàng Hậu đã trao cho
Công Chúa một vài vật kỷ niệm quý giá để tặng cho Hoàng Hậu của xứ ấy. Đoạn Vua nói:
- Các con
lên đường bình an và đây là quốc thư, ta trao cho các con. Khi đến bờ biển bên kia của đảo
Tích Lan. Sau khi lên bờ các con hãy nhớ trao bức thư này và những
lễ vật kia. Các con chớ quên.
- Xin
đa tạ Phụ Hoàng. Phụ Hoàng thật chu đáo. Con không ngờ có được những
điều kiện thuận lợi như vậy để
Phật Pháp được xiển dương.
Thế rồi thuyền nhổ neo
mang theo cả đoàn
tùy tùng và cây bồ-đề cao quý được chiết ra từ cây gốc ở Bồ-đề
Đạo Tràng nơi
Đức Phật thành đạo và quan trọng hơn cả là hai vị
lãnh đạo tinh thần bằng xương bằng thịt của họ cũng đã
đồng hành.
Tất cả những tay chèo thuyền chiến được huy động đi trong chuyến này và được chia ra làm hai toán.
Thỉnh thoảng giữa trời nước
mênh mông cũng có nhiều người hầu làm thơ dâng lên cho
Thái Tử và
Công Chúa. Riêng hai vị thì lúc nào cũng
thiền định và ôn lại nhưng gì đã học được trong các
tu viện để khi đến đó có cơ hội thuật lại cho
mọi người nghe. Nhất là về
cuộc đời Đức Phật. Nghĩ thế Hoàng Tử xoay mặt về phía
Công Chúa và nói:
- Hai ta là
anh em ruột thịt. Thật là có rất nhiều
nhân duyên nên mới sinh ra trong nhà
hoàng tộc này và cũng có nhiều
nhân duyên tốt đẹp đã gây ra trong những đời trước, nên mới
xuất gia học đạo. Riêng em thì quá
thông minh mẫn tiệp, nên ta giao cho em
tiếp xúc với phái nữ để
truyền bá đạo mầu. Còn ta sẽ cùng với các Đại Thần và Vua chúa
tìm cách phát huy
đạo Phật, mà em thì chuyên nói về
cuộc đời và
tiền thân của
Đức Phật, như có lần em đã kể cho Phụ Vương và Mẫu hậu nghe
câu chuyện nguyên nhân tại sao mà
Đức Phật đã chế ra phép
lục hòa cho
chư Tăng, Ni tại xứ Kosabi đó.
Công Chúa như ngượng ngập đáp rằng:
-
Sư huynh nói quá lời, muội này đâu có làm được chuyện gì. Chỉ là kẻ tay yếu chân mềm. Tất cả đều phải nương tựa vào
sư huynh cả đấy.
- Muội nói vậy không phải. Đầu óc mới là quan trọng, chứ còn tay chân thì ai lại làm không được. Vả lại khi đi
hoằng pháp như thế này, đầu óc mới dùng đến, chứ tay chân đã có những người lao động giúp mình rồi.
-
Sư huynh nói cũng phải, nhưng ý muội nói là khả năng của muội không bằng của
sư huynh đâu. Tất cả đều cậy nhờ nơi
sư huynh đấy.
Bên ngoài nước vẫn
bềnh bồng.
Thỉnh thoảng những đàn cá voi to tướng bơi dọc bên cạnh thuyền, như có ý hỗ trợ một bậc
thiên tử xuất trần làm việc
đại sự cho
nhân gian. Có nhiều người cũng nghĩ thế, nhưng Mahinda thì không. Xét ra ngai vàng đâu có
an lạc hạnh phúc. Nếu ngai vàng có
hạnh phúc thật sự thì phụ vương ta đã là một người
hạnh phúc nhất nhì ở trần gian rồi, nhưng ở đây không phải vậy. Phụ hoàng ta ngày nay vẫn say mê làm phước,
bố thí, xây chùa, dựng tháp,
tế độ tăng ni thì phải biết rằng việc sau này quan trọng hơn việc trước.
Khi chưa có
quyền thế trong tay, ai cũng muốn có được nhiều quyền hành để
tung hoành ngang dọc. Nhưng khi đã có quyền hành trong tay rồi và
xung quanh là những lời siểm nịnh, ít ai dám
nói thật với lòng mình thì thử hỏi đâu là sự thật? Vậy cái gì là chơn
giá trị của cuộc đời?
Nếu không phải là một cuộc sống
nội tâm phong phú, một sự
an lạc miên viễn nơi
tâm hồn. Điều này
Đức Phật đã mất 6 năm trường
khổ hạnh và sau 7
tuần lễ tư duy, sau đó Ngài mới dấn thân vào
con đường cứu khổ chúng sanh. Mỗi một sự việc xảy ra, mỗi một
hoàn cảnh xảy đến, mỗi một
con người có mỗi
sự kiện khác nhau và
Đức Phật từ đó có một cái nhìn rất
hiểu biết,
rộng lượng và
từ bi. Cho nên Ngài đã độ được không biết bao nhiêu là người trên
trần thế.
Có khi Ngài chỉ còn
da bọc xương, nhất là lúc
tu khổ hạnh. Đôi khi đói quá Ngài phải ăn đến phân của bò con. Gặp năm
mất mùa, Ngài đã cùng với
chư Tăng phải ăn cám của ngựa. Còn ta lâu nay
xuất thân từ chốn vương giả, chưa
khổ hạnh ngày nào. Việc gì cũng có Phụ Hoàng và Mẫu Hậu ta
cung cấp, không biết rằng những khổ nhọc như thế ta có chịu được nổi không? ...
Những dòng suy tư như thế cứ
tiếp tục mãi trong đầu óc của
Thái Tử Mahinda và
cuối cùng rôi một ngày đẹp trời cũng đã đến. Trời trong gió lặng, thuyền cập bến vào bờ biển phía bắc của đảo
Tích Lan. Miền này vẫn còn thưa dân, nhưng vẫn là một vùng
lý tưởng, vì dân nơi đây có
ngôn ngữ và phong tục gần giống như dân miền Nam xứ Ấn. Đó là
đặc điểm quan trọng khi lần đầu tiên đến xứ này.
Những con chim hải âu đã đậu trên cột thuyền buồm. Có con thì liệng quanh nhiều vòng như để đón mừng một bậc
cứu tinh về
tinh thần đã có mặt nơi quê hương mới này. Có con thì bay vào trong bờ như để báo tin cho triều đình và
nhân dân biết rằng có những người khách lạ từ phương xa đến. Có con thì ngụp lặn sâu dưới biển để tìm mồi.
Công Chúa Sanghamita nhìn
cảnh tượng này mà sanh ra cảm khái và
liên tưởng đến Mẫu Hậu của mình.
Thế là trên bờ túa ra không biết bao nhiêu là người để nghinh đón.
Mặc dầu trước đó họ đã được báo tin là có một nàng
công chúa tuyệt sắc giai nhân con gái của Vua A-dục đã chẳng màng
danh lợi ở đời và đã cắt tóc đi tu. Còn
Thái Tử thì ngai vàng đang chờ đợi để được phong vương nhưng cũng đã từ chối. Người đó hôm nay đã ở
trước mặt mọi người và ai cũng nghĩ rằng đó là
chiêm bao, chứ không phải là
sự thật.
Đoàn người được mời lên xe ngựa rước về
hoàng cung và dân chúng thì theo hai bên xa mã
tung hô vạn tuế. Tiếng tù và, tiếng voi đi, tiếng ngựa hí, tiếng người, tiếng giậm chân của hàng vạn người làm cho khung cảnh càng thêm náo nhiệt hẳn lên như một ngày hội.
Sau khi xuống xe ngựa thì
thái tử và
công chúa trong vóc dáng của người tu y vàng quấn quanh người, đầu cạo nhẵn, vào thẳng nơi cung vua để trình thư
giới thiệu của phụ vương lên cho đức vua và
công chúa cũng không quên mang quà của mẫu hậu đem tặng cho hoàng hậu nơi đây.
Ngoài ra các cận vệ đã khiêng cây bồ-đề một cách
cung kính vào chỗ vua lâm triều để tiến dâng
biểu tượng của sự
giác ngộ.
Nhà vua tỏ vẻ
hoan hỷ khi
tiếp nhận văn thư cũng như những vật biếu mà quan trọng nhất là cây bồ-đề.
Đồng thời lại có
công chúa và
thái tử đi theo, là những người tăng sĩ đầu tiên đặt chân đến đất nước này. Hoàng hậu mời trà
công chúa và
thái tử cũng như đoàn
tùy tùng. Đoạn vua phán rằng:
- Này các khanh trong triều nội! Hôm nay là
ngày lành tháng tốt,
công chúa Sanghamita và
thái tử Mahinda con Đại Đế A-dục đã đến nước
chúng ta. Các ngươi từ đây phải lo phụng dưỡng và tạo mọi cơ hội tốt để hai vị này
giảng kinh thuyết pháp tại quê hương của
chúng ta.
Đồng thời hãy đem trồng cây bồ-đề này vào bên trong vườn thượng uyển của ta. Ta sẽ cho lập chùa nơi đó để ta và hoàng hậu ngày trăng tròn và trăng khuyết sẽ đến đấy
lễ bái nguyện cầu. Còn những ngày khác thì cứ cho dân chúng vào
đảnh lễ.
- Muôn tâu Thánh Thượng! Chúng hạ thần xin tuân chỉ!
Cây bồ-đề đã được trồng một nơi rất
thích hợp trong vườn ngự uyển của vua, chẳng mấy chốc cành lá sum sê vươn vai thẳng đứng như thi gan cùng tuế nguyệt nơi mảnh đất mới này.
Thái Tử mặc dầu đầu tiên mang
luật tạng vào đây để truyền nhưng nhiều người chưa hiểu đạo. Do đó
Công Chúa thay cho
Thái Tử đã kể lại
cuộc đời Đức Phật cho họ nghe cũng như
Tăng Đoàn của Ngài và nhất là kể từ khi
Đức Phật còn
tại thế đã
cho phép người nữ
xuất gia như thế nào. Rồi
chánh pháp 500 năm hưng thịnh ra sao. Những kỳ
kiết tập kinh điển trong hơn 300 năm qua và vua cha đã phát huy
Phật Pháp như thế nào cho họ nghe.
Ban ngày thì
Công Chúa Sanghamita kể chuyện cho Hoàng Hậu và
cung nữ cũng như những cận thần nghe. Đêm về
Công Chúa kể chuyện cho dân chúng nghe. Khi nghe xong một mẩu chuyện về
cuộc đời của
Đức Phật, ai cũng
hoan hỷ. Có người
trố mắt nhìn
Công Chúa vì không tin đó là
sự thật. Có người thì quá
cảm động đến
rơi lệ.
Một hôm,
thái tử Mahinda đã giảng về
tam quy ngũ giới cho vua, hoàng hậu và bá quan nghe. Sau khi nghe xong trên từ vua, hoàng hậu, dưới
cho đến các cận thần bề tôi đều xin
quy y Tam Bảo và
thọ trì năm giới cấm của Phật chế. Bắt đầu từ hôm ấy trở đi đã có nhiều người có
tín tâm đối với
đạo Phật và
hằng ngày vẫn có nhiều người đến trong cung điện của Vua để
đi nhiễu quanh cây bồ-đề, để
đảnh lễ, hoặc cúng hương, hoặc đốt đèn để tỏ
lòng thành kính.
Trong nhiều
kinh điển khác nhau,
Đức Phật dạy rằng: “Sau khi ta
tịch diệt, nếu có người dùng một cành hoa, một nén nhang, hay nhang bột đem đến
cúng dường nơi
tháp miếu của Phật, thì
phước đức của người ấy hưởng được rất
lâu đời. Lại có kẻ quét dọn tháp Phật cũng như lo
tu bổ tháp,
công đức cũng lại dường ấy. Nhưng nếu có người
đọc tụng 4 câu kệ của một đoạn kinh, rồi đem giảng nói hay biên chép rồi bảo người khác làm theo, thì
công đức của người sau này nhiều hơn gấp trăm ngàn lần so với người trước.” Như vậy đủ thấy rằng việc
bố thí pháp là
vấn đề quan trọng hơn tất cả những nhu cầu
vật chất khác.
Rồi một hôm người ta thấy Ngài Mahinda làm
lễ xuất gia cho những người thanh niên. Còn
Công Chúa Sanghamita thì
cạo tóc cho những người nữ.
Hạt giống bồ-đề càng ngày càng phát triển mạnh hơn.
Nếu ngày hôm nay, sau hơn 2200 năm
lịch sử, có ai đó là khách
hành hương có dịp sang
Tích Lan, đến miền Bắc xứ này sẽ gặp cây bồ-đề này vẫn còn
tồn tại. Cây này và cây bồ-đề A-nan tại
tinh xá Kỳ Viên ở nước Xá-vệ là những cây
nguyên thủy được chiếc ra từ gốc mẹ ở Bồ-đề
Đạo Tràng nơi
Đức Phật thành đạo.
Một hôm, Ngài Mahinda viết một bức thư nội dung như thế này để gởi về cho Phụ Vương và Mẫu Hậu:
“Kính gởi Phụ Vương và Mẫu Hậu.
Ngày tháng thoi đưa, trăng tròn rồi lại khuyết. Mỗi ngày thủy
triều lên xuống 2 lần. Cái gì của ngày hôm qua, qua rồi thì hôm nay không còn
trở lại nữa và cái gì của ngày mai thì vẫn chưa đến. Cho nên
Đức Phật đã dạy cho
mọi người trong
kinh Kim Cang là: Tâm
quá khứ chẳng thể được, tâm
hiện tại cũng không được và tâm
vị lai cũng chẳng được. Vì sao vậy? Vì
quá khứ là những gì đã
trôi qua.
Vị lai là những gì chưa đến. Còn
hiện tại vẫn luôn thay đổi trong từng
sát na sanh diệt...
Thời gian chúng con ở đây nhờ vào sự
giới thiệu của Phụ Vương, quà biếu của Mẫu Hậu và nhất là
hình ảnh của cây bồ-đề, chúng con đã
cảm hóa từ Vua chúa đến thần dân không biết bao nhiêu mà kể. Đã có nhiều người
phát tâm quy y Tam Bảo và
xuất gia học đạo với con và em con. Nhưng để
tỏ rõ niềm tin nơi các
Phật Tử mới
phát tâm, con xin Phụ Vương
cúng dường sang xứ đảo quốc này một chiếc răng trong 40 chiếc răng của
Đức Phật, để cho
Phật Tử nơi đây
chiêm ngưỡng và sẽ tạo cho họ một
niềm tin vững chắc hơn. Theo con nghĩ chắc rằng Phụ Vương không từ chối.
Ngoài ra con cũng xin Phụ Vương cho gởi thêm
chư tăng ni đến xứ này, vì
hạt giống giác ngộ đang nảy mầm tốt tại đây nhưng đang thiếu người chăm bón. Ngày phụ vương tặng chiếc răng quý ấy thì nên trao cho
chư tăng để cung thỉnh qua xứ này thì chúng con
mãn nguyện lắm rồi.”
Sau khi đọc thư xong, vua giao cho Hoàng Hậu rồi
trầm ngâm suy nghĩ rằng: “Ngày xưa khi
Đức Thế Tôn sắp
thị tịch Niết-bàn, Ngài đã giao lại xá-lợi của Ngài cho 8 vị vua. Điều ấy
chứng tỏ rằng
Đức Phật đã tin cẩn nơi giới
cư sĩ. Vì biết rằng
chúng ta mới có đầy đủ
điều kiện vật chất để xây tháp
phụng thờ. Nay thì ta đã tóm thâu tất cả giang sơn về một mối và
tháp miếu cũng đã dựng xong để thờ Xá-lợi. Nay cũng chẳng hẹp hòi gì để chia cho xứ ấy một chiếc răng
phóng quang xá-lợi của
Đức Phật để tạo
niềm tin cho vua quan và
Phật Tử tại đó, như thư của con ta đã đề nghị.”
Lại một chiếc tàu nữa sắp ra đi từ cảng miền Nam
Ấn Độ để trực chỉ sang
Tích Lan và trên chuyến tàu này sắm đủ các
vật dụng cho hàng trăm
chư tăng như ba y,
bình bát, đãy lọc nước,
tọa cụ,
thức ăn uống, thuốc men v.v..., chất đầy cả chiếc thuyền và vị sư cả đi trong lần này
đặc biệt có
nhiệm vụ phải
giữ gìn chiếc răng xá-lợi của
Đức Phật trong một hộp nạm vàng.
Khi đến bờ biển bên kia, Ngài Mahinda và Đức Vua cùng Hoàng
Hậu thân hành ra để cung nghinh xá-lợi răng của
Đức Phật. Cả những thớt voi hùng dũng có trang trí cờ lọng
rực rỡ nhiều màu và trên ấy có để một bàn
gỗ trầm hương. Sau khi Đức Vua để xá-lợi lên đầu, chính Vua đã cung thỉnh xá-lợi ấy lên để trên bàn
gỗ trầm hương trên lưng con voi oai vệ nhất. Rồi cả đoàn người, nào kèn, nào trống, nào thanh la, nào sáo, nào nhạc địa phương đã trổi lên một điệu nhạc oai hùng để cung nghinh chiếc răng
lịch sử ấy.
Từ đó về sau
Phật Giáo tại
Tích Lan đã
trở thành quốc giáo. Có điều
đặc biệt là chùa ở
Tích Lan rất nhỏ, còn trường học thì rất lớn. Còn
chư Tăng chuyên về
giáo dục,
nghiên cứu kinh điển bằng tiếng Pali là một
ngôn ngữ truyền thống từ đó
đến nay.
Tích Lan được
xem như là một nước
Phật Giáo Nam Truyền chuyên về
kinh tạng. Họ lấy cây bồ-đề làm gốc, chứ không lấy chùa làm gốc.
Cùng thời ấy Đức Vua A-dục đã gởi Ngài Somaka và Uttara đến đất Kim (Suvana-bhumi) thuộc Miến Điện để
truyền giáo và Miến Điện
cho đến ngày nay
Phật Giáo vẫn là
quốc giáo, nhưng họ lấy chùa viện làm gốc.
Chư Tăng ở đây thì chuyên về
chú giải luận tạng. Họ
đắp y màu vàng sẫm, gần như là màu nâu của
Việt Nam.
Còn Thái Lan thì
Phật Giáo Nam Truyền được truyền vào sau Miến Điện. Họ cũng
đọc tụng tiếng Pali và
Phật Giáo ở đây vẫn là
quốc giáo.
Đặc biệt ở Thái Lan chuyên về
luật tạng và những ngôi chùa cũng như những
tượng Phật được tạc rất lớn ở xứ này để cho
Phật tử lễ bái nguyện cầu.
Như vậy
chúng ta có thể thấy được sự
liên quan mật thiết về
Phật Giáo tại xứ này. Kinh, Luật và Luận thời Phật còn
tại thế đã được các vua chúa và tăng, ni tại các
quốc gia này nối truyền rất
thịnh hành không
gián đoạn.
Như
chúng ta biết là
đạo Phật được truyền đến
Tích Lan do
Công Chúa Ni Cô Sanghamita và Hoàng Tử
Đại Đức Mahinda, nhưng ngày nay ở đảo quốc này
dấu tích của Ni không còn nữa. Những
Phật Tử ở đây đang khôi phục lại. Ngay cả ở Thái Lan và Miến Điện ngày nay họ chỉ còn những người nữ tu thọ 8 giới, cạo đầu mặc áo trắng chứ chưa
chính thức từ
Hội Đồng Tăng Già cho họ quấn y vải và thọ tỳ-kheo
ni giới. Đây là một sự khác biệt lớn với những xứ
Phật Giáo theo
Đại Thừa như
Việt Nam, Trung Hoa,
Đại Hàn và
Nhật Bản.
Người
Tích Lan cũng tin rằng
Đức Phật đã đến xứ họ, nên đã để lại dấu vết của một bàn chân trên núi, nằm ở miền Trung
Tích Lan ngày nay.
Dĩ nhiên đây là việc tương truyền nên họ có quyền tin. Còn thật có đến hay không lại là chuyện khác. Khi người Anh đến đô hộ xứ
Tích Lan vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 thì họ đã dẹp sạch
Phật Giáo.
Cho đến hình ảnh linh thiêng nhất là chiếc răng của
Đức Phật họ cũng đem về Anh Quốc. Những trường học, những tờ báo của
Phật giáo cũng bị
đóng cửa. Họ chỉ tuyên truyền vào đó
tinh thần của
Thiên Chúa Giáo và Anh Giáo mà thôi.
May thay, cuối thế kỷ 19 có một Đại tá người Mỹ tên là Henry Olscott là người đọc sách
Phật học nhiều và
lưu tâm đến
tình trạng ấy nên vào năm 1940 ông
chính thức đề nghị
Phật Giáo Tích Lan lấy năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, cam trong
hào quang của
Đức Phật làm lá cờ
Phật Giáo thế giới và mãi đến năm 1951, sau
Đại hội Phật Giáo thế giới tại Colombo thủ đô
Tích Lan thì lá cờ này mới
trở thành biểu tượng của
Phật Giáo khắp năm châu.
Công lao ấy là nhờ ông Đại tá Henry Olscott vậy.
Sau khi người Anh trao trả lại nền
độc lập tự chủ cho
Ấn Độ và
Tích Lan vào năm 1948 thì họ cũng đã trao lại chiếc răng của
Đức Phật cho Hội
Phật Giáo Tích Lan. Ngày nay chiếc răng ấy được thờ rất
cung kính tại một cung điện của nhà vua nơi cố cung thuộc xứ Kandy. Từ thủ đô Colombo đi xe hơi về đây mất độ 2 giờ đồng hồ và ở giữa cánh đồng
mênh mông bát ngát ấy là một cung điện. Trong cung điện ấy giờ này chỉ thờ một chiếc răng của
Đức Phật.
Muốn
đi vào đảnh lễ chiếc răng của
Đức Phật phải đi từ sáng sớm tinh sương. Từ ngoài vào trong
ít nhất phải có 7 hay 8 hàng rào
kiểm soát. Vì lẽ
Phật Giáo Tích Lan rất quý và
cung kính chiếc răng này. Đây là
quốc bảo của quê hương đảo quốc này.
Đồng thời cũng sợ có những
phần tử không
thân thiện với
Phật Giáo phá hoại, nên đã được lính của chính quyền canh gác rất
cẩn mật.
Nơi thờ răng của
Đức Phật là tầng lầu cao nhất của tòa nhà 5 tầng. Chung quanh và bên trong của tầng lầu này đã được
Phật Giáo Nhật Bản cúng vàng để dát lên
cho đến trên trần nhà. Còn tháp đựng răng của Phật toàn bằng vàng và chung quanh để toàn là những
kim cương, ngọc ngà
châu báu của các vị vua Thái Lan, các vị
Thủ Tướng, Ngoại Trưởng v.v...
cúng dường. Không phải lúc nào cũng được
đảnh lễ thấy tận mắt chiếc răng này được, mà đa phần chỉ được nhìn thấy chiếc tháp bằng vàng ở bên ngoài mà thôi. Tương truyền rằng mỗi năm chiếc răng này chỉ được thấy
một lần. Đó là lúc 4
vị quan trọng bên chính quyền như Tổng Thống,
Thủ Tướng và
bên Giáo Hội có vị
Tăng Trưởng và vị Sư
Trụ Trì có mặt
cùng lúc mới mở 4 chìa khóa khác nhau chung quanh hộp vàng này, thì mới có thể trông thấy được.
Mỗi năm chính phủ cũng cho rước chiếc răng này ra ngoài
hoàng thành để cho dân chúng
đảnh lễ. Vì
lý do khu vực
Hoàng Cung trở nên quá chật, so với lượng người quá lớn
hằng ngày đến
đảnh lễ, nên những cuộc lễ rước như vậy là cơ hội để dân chúng được đón xem, tạo
niềm tin và
nếp sống lành mạnh cho người
Phật Tử tại gia.
Mỗi ngày có cả mấy đội lính trực thay phiên nhau dàn chào trước răng thiêng. Họ mặc quân phục, mang găng tay màu trắng, đầu đội mũ, nét mặt
nghiêm nghị và những động
tác lễ nghi là của quân nhân để gác chiếc răng của Phật. Mỗi khi họ thay phiên nhau lại có một
nghi thức rất
đặc biệt.
Người ta cúng hoa rất nhiều ở nơi thờ chiếc răng ấy. Nhiều đến nỗi mà hằng phút, hằng giờ đều phải có người
túc trực nơi ấy để thay hoa
liên tục,
dời đổi đi
nơi khác.
Nếu không, chỉ trong chốc lát đã ngập tràn những
hoa tươi cúng dường dâng lên nơi chiếc răng của
Đức Phật.
Đạo Phật ở
Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện là
đạo Phật sống. Trong khi đó
Đạo Phật tại Trung Hoa và
Đạo Phật tại
Ấn Độ ngày nay là một
Đạo Phật chết. Người Trung Hoa cũng có một chiếc răng của
Đức Phật đang thờ tại chùa
Linh Quang ở Bắc Kinh, nhưng sự thờ tự nơi đây cũng giống như là một viện
bảo tàng đang trưng bày đồ cổ, chứ không phải thờ
báo thân và
pháp thân xá-lợi của
Đức Phật.
Mặc dầu Đạo Phật truyền đến
Tích Lan là từ
Ấn Độ, nhưng ngày nay
Phật Giáo tại
Tích Lan phát triển rất tốt.
Trải qua hơn 2.200 năm rồi vẫn ngày một thăng hoa. Còn
Ấn Độ tuy là xứ
Đạo Phật ra đời, nhưng ngày nay không còn
thịnh vượng nữa. Vả chăng, cây Bồ-đề nơi ấy đã bị
ngoại đạo phá phách đi nhiều lần vào thế kỷ 11, 18 và nhất là
Ấn Độ Giáo cũng như
Hồi Giáo chẳng thích gì
Đạo Phật, nên ở tại quê hương nơi
Đức Phật thành đạo vẫn bị giậm chân tại chỗ.
Người ta bảo rằng:
Đạo Phật cũng giống như một cây
đại thọ. Càng lớn bao nhiêu thì gốc rễ tuy to lớn, nhưng nó khô cằn. Chỉ có cành lá là có thể đâm chồi nảy lộc ở bên trên thân cây chứ ở gốc thì không thể phát triển được nữa. Điều ấy cũng hữu lý thôi. Nếu
Đức Phật ngày ấy chỉ muốn phát triển
giáo lý của Ngài tại
Ấn Độ thì ngày nay
thế giới đâu có ai biết được một
tôn giáo vốn có mặt
lâu dài trên quả đất này đâu. Mà ngày nay đi đến châu lục nào cũng thấy, cũng nghe và cũng biết đến sự
hiện hữu của
Đạo Phật.
Ngày nay trên
quả địa cầu này có rất nhiều
tôn giáo, nhưng chỉ có 5
tôn giáo được xếp vào loại đông
tín đồ và
lâu đời nhất thứ tự theo
thời gian như sau:
- Một là
Ấn Độ Giáo có
lịch sử 3000 năm với gần 1 tỷ
tín đồ chỉ phát triển riêng tại
Ấn Độ. Có số
tín đồ nhiều thứ hai trên
quả địa cầu này.
- Hai là
Phật Giáo,
hiện hữu trên quả đất này chừng 2600 năm. Số
tín đồ không kể Trung Hoa lục địa là 700 triệu, đứng
hạng thứ tư trên
thế giới.
- Thứ ba là
Do Thái Giáo hơn 2000 năm
lịch sử và số
tín đồ chừng 100 triệu đứng hàng thứ 5 trên
thế giới.
- Thứ tư là
Thiên Chúa Giáo, có
lịch sử gần 2000 năm
truyền thừa và có hơn 1 tỷ
tín đồ trên
thế giới. Đứng hàng số một về số lượng.
- Thứ năm là
Hồi Giáo, phát xuất từ Trung
Đông độ hơn 1700 năm nay và có số
tín đồ đứng hàng thứ ba trên
thế giới với 800 triệu người.
Đây là 5
tôn giáo có mặt trong 6 tỷ người trên trái đất hiện nay và năm
tôn giáo này đã đóng
vai trò quan trọng, hướng dẫn cho
Phật tử,
giáo dân, con chiên của mình lấy
từ bi xóa đi thù hận, lấy
đạo đức để trang trải cho
cuộc đời và lấy khó nhọc để
thể hiện lòng
nhẫn nhục để cứu người qua những cảnh khổ
lầm than đang xảy ra khắp nơi trên mặt đất này.
Ngày xưa khi Phật còn
tại thế, có người bà-la-môn đến hỏi Phật rằng: Tại sao ông ta đi đến đâu cũng nghe nói rằng
giáo phái của bà-la-môn này
tốt hơn giáo phái của bà-la-môn kia, ông ta chẳng biết tin ai là đúng và ông quay sang hỏi
Đức Phật là
giáo lý của Phật có hay hơn
giáo lý của những đạo khác chăng?
Đức Phật từ tốn
thong thả trả lời rằng: Thật ra chẳng có
giáo lý nào
tốt hơn hoặc
thua kém cả. Điều quan trọng là đối với
giáo lý ấy mình đã qua 3 giai đoạn văn, tư và tu chưa? Nếu đã nghe qua, đã
suy nghĩ chín chắn thì việc
chấp nhận để tu theo
giáo lý ấy là hợp với
trình độ,
căn cơ của mình thì
giáo lý ấy không dở. Chỉ sợ mình không
đủ khả năng để
nhận ra giáo lý ấy mà thôi.
Vị bà-la-môn ấy khen hay và
cuối cùng ông ta đã
gia nhập vào
Tăng Đoàn của Phật để sống
một đời tỉnh thức.
Đức Phật ngày xưa thường hay độ người như thế và hầu như từ việc nhỏ đến việc lớn gì Ngài cũng đều
thể hiện qua thân giáo, khẩu giáo và ý giáo cả.
Cố
Hòa Thượng Tuyên Hóa là một vị
Đại Sư người Trung Hoa đã sang Hồng Kông và
đặc biệt là Mỹ quốc
hoạt động vào cuối thế kỷ thứ 20, đã độ được cho
vô số người Mỹ tu theo
Đạo Phật và có lần có người hỏi Ngài rằng:
- Bạch Ngài! Tại sao Ngài xuất gia?
- Ngài hỏi lại. Tại sao anh không xuất gia? Nếu anh
trả lời được câu hỏi của tôi, tức anh đã hiểu thế nào là
xuất gia rồi.
Quả thật rất khó cho người
trả lời, nhưng để
trả lời cho một sự
trả lời,
ngày xưa chư Phật và chư Tổ hay
đánh thức con người trong lối
lập luận như vậy. Để người hỏi cũng là họ mà
trả lời cũng chính là họ.
Có nhiều người hỏi chơi, hỏi để mà hỏi, hỏi để
chọc tức, hỏi cho bỏ ghét, hỏi để
chứng tỏ mình là người
hiểu biết hơn người kia, hỏi để khoe
danh lợi và
bản ngã của mình... Thật sự ra một người học Phật như thế chẳng có
lợi ích gì.
Bởi vậy có một
câu chuyện thiền của
Nhật Bản kể rằng: Khi một người
trí thức đến muốn học thiền với
thiền sư thì điều đầu tiên là
thiền sư ấy mời người
trí thức ấy uống trà. Khi rót trà, không phải
thiền sư lơ đễnh, mà
cố ý rót cho tràn ra bên ngoài ly. Đoạn người
trí thức ấy hỏi
thiền sư:
- Thưa Ngài nước đã tràn ra ngoài rồi?
Thiền Sư từ tốn đáp:
- Chính việc Ngài đến với tôi hôm nay
cũng thế. Những gì mà Ngài cầu học khó lắm. Vì ly nước tâm của Ngài đã chứa đầy ắp rồi, còn chỗ đâu để học
Phật học nữa?
Thật ra khi
Đạo Phật đi đến đâu nó phải hòa nhập vào nơi ấy và
trở thành Đạo Phật của xứ ấy, chứ không thể
giữ khư khư là
Đạo Phật của xứ
Ấn Độ hay
Đạo Phật của
Đạo Phật được. Khi người ta đến với
Đạo Phật là người ta muốn học cái hay của
Đạo Phật tại xứ đó, chứ không phải người ta muốn học cái
văn hóa của xứ đó.
Mặc dầu văn hóa cũng là điều
cần thiết, để người ta dễ
đi vào sự học Phật của xứ kia, nhưng nó không là tất cả.
Tinh thần hội nhập của các xứ
Phật Giáo Nam Tông cũng thế. Tuy tất cả đều tụng tiếng Pali, nhưng cách
giải thích về kinh, luật, luận của
Phật Giáo Tích Lan không giống
Phật Giáo Thái Lan hay Miến Điện. Trong khi đó
tinh thần của
Phật Giáo Đại Thừa còn cởi mở hơn nữa. Nghĩa là khi
Đạo Phật được truyền vào Trung Hoa là
Đạo Phật xứ Trung Hoa. Khi
Phật Giáo có mặt tại
Tây Tạng,
Nhật Bản,
Mông Cổ,
Việt Nam,
Đại Hàn v.v... là của những xứ đó, chứ không thể là của
Phật Giáo thời
Đức Phật. Do vậy người ta ví
Đạo Phật như là biển cả,
đại dương.
Mục đích của
giáo lý ấy là làm cho
con người bớt khổ,
thoát ly kiếp sống
luân hồi. Còn những con sông con chảy từ trên núi cao hay chảy ngầm
dưới đất, chảy vào ruộng đồng hay chảy vào sa mạc v.v... tất cả rồi cũng sẽ chảy ra biển cả mà thôi. Nơi ấy có thể dung chứa tất cả mọi dị biệt của
tư tưởng,
tông phái và
quốc độ,
ngôn ngữ.
Ngày nay người ta đến
Tích Lan để nhớ đến những đoàn
truyền giáo khác của Vua A-dục đã gởi đi đến tận Hy Lạp.
Thuở ấy các xứ Alexandria, các
xứ Trung Đông ngày nay hầu như đều có bước chân của những
Đại Sư của
Phật Giáo đi qua và mang món ăn
tinh thần ấy cho các
xứ Trung Đông này. Ngày nay người ta khai quật những
tu viện cổ tại xứ Hy Lạp và Alexandria đã thấy được những dấu vết huy hoàng của một
thời đại xa xưa kể từ thời Vua A-dục còn sót lại, nhưng tiếc thay những xứ này ngày nay hầu
như không còn một bóng
hoàng y nào
hiện hữu.
Vả chăng
thức ăn của
Phật Giáo,
thức ăn giải thoát sanh tử luân hồi ấy nó chỉ
thích hợp với một số cơ thể thôi chứ không phải cơ thể nào cũng
thích hợp hết được. Đó là do
nhân duyên vậy.
Nhân duyên sẽ
trói buộc ta vào
con đường tình ái,
con đường sanh tử luân hồi.
Nhân duyên đồng thời cũng
mở trói cho ta nếu ta biết dừng lại.
Vì vậy cho nên
Đức Phật đã nói tất cả pháp đều là
Phật pháp.
Vậy thì Phật pháp dầu cho có
hiện thân dưới một
hình thức nào đó cũng đâu có sao, khi mà người ta đã
hiểu rõ lý
duyên sanh và
tánh không trong
Đạo Phật.
“Nhất thiết
hữu vi pháp,
Như
mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện,
Ưng tác
như thị quán.”