Thời gian cứ lặng lờ
trôi qua, hết hạ sang thu, hết đông sang xuân, ánh sáng
chân lý của
Đấng Giác Ngộ ngày càng lan
tỏa ra khắp xứ
Ấn Độ và các nước
lân cận. Chỉ cần ba trăm năm sau thôi là người ta đã thấy được điều đó. Bây giờ, cây bồ-đề nơi thành Gaya vẫn vươn cao cành, tỏa rộng thêm và che rợp cả khu
Đại Tháp. Lúc bấy giờ,
Kim Cương Tòa nơi
Đức Phật thành đạo vẫn còn thô sơ lắm, vì nơi đây không có những chùa viện lớn
xây dựng để ghi
dấu tích nơi
Đức Phật thành đạo, mãi
cho đến triều đại Chandragupta, khoảng năm 321 trước Tây lịch, tức 305 năm sau khi
Đức Phật thành đạo. Đây gọi là vương triều
Khổng Tước,
tượng trưng cho
sức mạnh của
Ấn Độ lúc bấy giờ, nhà vua mới
để tâm đến.
Đến năm 270 trước Tây lịch thì Vua A-dục có công thống
nhất Ấn Độ. Ông đã tiếm quyền của người anh là Susmana
nhân lúc vua cha băng hà và
lên ngôi Hoàng Đế. Sau bốn năm làm vua, ông đã giết người em cùng mẹ là Để Tu và 99 người em khác mẹ để
bảo vệ ngai vàng của mình. Ông không được vua cha yêu quý bằng người anh ruột của mình là Susmana.
Nhân lúc nước Taksasi có loạn, vua cha phái ông đến đó để dẹp loạn, nhưng binh khí và lính tráng
cấp cho không đủ nên ông đã chiến đấu một cách
phi thường mới thắng được nhiều trận quan trọng. Sau đó hát khúc khải hoàn ca. Vua cha rất lo sợ, muốn trừ hậu hoạn trước, nhưng cũng không được. Thôi cứ phó thác cho vận trời. Do
vậy mà trong
huynh đệ mới phát sinh ra việc
thanh toán đẫm máu
với nhau để chiếm được ngai vàng.
Khi đến xứ Taksasi, ông đã giết chết không còn một người. Trong khi say men chiến thắng, cũng là lúc ông gặp được ý
trung nhân và sau này ông phong làm hoàng hậu. Chính nhờ hoàng hậu rất
nhân từ nên đã
chinh phục ông và góp với ông nhiều
ý kiến thắm đượm
lòng từ bi, nên bên cạnh người đẹp, ông đã
yên ổn một phần nào.
Đức Phật nhập Niết-bàn đã hơn 350 năm rồi, nhưng
tiếng tăm và
đức độ của Ngài vẫn còn
vang dội trên xứ
Ấn Độ. Do vậy ông đâm ra
ganh tỵ với Phật. Trong
thâm tâm ông nghĩ không ai có
tài đức hơn ông. Do vậy một hôm ông cho gọi người hầu cận đến bảo:
- Hãy sửa soạn lương thực và xa mã cho ta, để ngày mai ta cùng đoàn
tùy tùng đến thành Gaya.
- Muôn tâu Bệ Hạ! Xin
tuân lệnh, nhưng để làm gì và đi bao lâu thì Bệ Hạ hồi cung?
- Từ đây đến đó rất xa, đi về chắc cần đến nửa tháng. Còn đi để làm gì thì các ngươi đến đó sẽ biết.
- Muôn tâu Thánh Thượng! Nơi đó đâu có bể cả, sông dài hay gian
thần đạo tặc gì mà khiến cho Bệ Hạ phải nhọc thể như thế?
- Ta nghe nói đến danh Cồ-đàm
xưa nay. Nay ta muốn biết đến chỗ người ấy
thành đạo và vì
lý do gì mà
mọi người cho đến hôm nay, sau hơn 350 năm
vắng bóng trên
cõi trần vẫn còn có nhiều người khát ngưỡng? Không! Chính ta, ta mới là người được tôn vinh như thế. Vì ta đã thắng được tất cả.
- Bẩm Hoàng thượng!
Giáo lý của
Đạo Phật rất cao siêu
mầu nhiệm. Tuy đã thắng tất cả, nhưng bệ hạ khó thắng tự chính mình. Do vậy
huynh đệ mới tương tàn và ai nghe danh bệ hạ cũng khiếp sợ.
Một vị cận thần tâu như vậy.
- Ngươi hãy câm đi! Ta mới là người chiến thắng tất cả.
- Muôn tâu Hoàng thượng! Hạ thần được nghe rằng:
Giáo lý của Đấng
Đạo Sư ấy dạy: “Chiến thắng muôn quân không bằng tự chiến thắng chính mình, tự chiến thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất.”
- Lại thêm một người muốn chết nữa. Ngươi không sợ lưỡi gươm báu của ta hả?
- Kính xin Bệ Hạ hãy dừng lại những
ý nghĩ bất kính ấy đối với một bậc đã
giác ngộ.
- Thôi các ngươi hãy im đi! Ngày mai xa giá lên đường!
Thế là
mọi việc chuẩn bị đã xong. Trên từ vua đến hoàng hậu và các
quan đại thần cũng như dưới đến
tả hữu quân lính và xe ngựa đều
rầm rộ xuất hành, trông giống như một đoàn quân sắp xông pha vào trận mạc.
Đường đi
gập ghềnh khổ sở, vua và hoàng hậu ít quen
cực nhọc này nên cũng tự
suy nghĩ rằng:
Đức Phật là một Đông Cung
Thái Tử, nhưng tại sao phải bỏ ngôi báu để đi
xuất gia, Còn
vợ con thì chẳng
đoái hoài đến. Tại sao thế? Và đến nơi
rừng sâu núi thẳm như thế này để làm gì và tại sao lại được giác ngộ?
Mấy ngày sau thì xa giá đã đến nơi
Kim Cương Tòa, nơi
Đức Phật thành đạo. Vua A-dục
tỏ ra thất vọng. Vì chẳng thấy có ai bên cạnh đó. Cũng như chẳng có cái gì ghi dấu lại nơi
thành đạo này, ngoại trừ
Kim Cương Tòa và cây bồ-đề đang tỏa bóng mát che phủ khắp cả một vùng. Nhà vua đâm ra ghen tức với cây bồ-đề và nói rằng:
- Chính mi! Chính mi đã giúp đỡ cho người con
dòng họ Thích ấy! Ta sẽ sát phạt ngươi. Ngươi có sợ ta chăng?
Cây bồ-đề vẫn im lìm
trong khoảng không gian cô tịch.
Tuy nhiên nhìn kỹ có một sự
sống động lạ thường. Thay vì sự
trả lời là những cái cúi đầu
nhân ái khi có những
tiếng gió động
lướt qua trên những cành non vừa thay lá.
- Này ba quân! Đây là lệnh hãy nghe cho kỹ! Các ngươi hãy chặt phá cây bồ-đề này và không còn giữ lại một tàn tích gì cả cho ta. Xong
đâu đó hãy đem ra phía trước để đốt cho sạch, không để lại một cành lá nào.
- Muôn tâu Bệ hạ! Xin
tuân lệnh.
Thế là cây bồ-đề từng mảnh rồi từng mảnh, từng cành rồi từng cành..., tất cả đều đã bị chặt sạch sẽ trong mấy tiếng đồng hồ. Đến khi đem đi đốt thì những điều lạ lại
xuất hiện.
- Muôn tâu Bệ Hạ! Ngài hãy xem kìa! Tự dưng nơi lửa cháy kia đã phát sanh ra những tia
hào quang linh động!
- Đâu thể nào có
vấn đề ấy.
- Xin Bệ Hạ hãy nhìn kỹ xem.
- Đúng rồi! Đúng là một
phép lạ. Tại sao lại có
sự kiện ấy nhỉ?
Rồi Đức Vua
trầm ngâm không
nói một lời. Đoạn mới cho gọi một vị cận thần có
thâm tín với
Phật Giáo vào hỏi chuyện.
- Ngươi có biết tại sao có việc
kỳ diệu ấy chăng?
- Muôn tâu Bệ Hạ.
Giáo lý của
Đạo Phật là
giáo lý giác ngộ và
giải thoát, lấy
từ bi để hóa
giải hận thù. Còn Bệ Hạ...
- Thì sao?
- Dạ thưa...
- Ngươi cứ nói tiếp.
- Dạ thưa! Vì say men chiến thắng, có bao giờ bệ hạ nghĩ đến
đạo đức cho
muôn dân đâu và ngay cả cây Bồ-đề này là
hiện thân của sự
giác ngộ của bao đời chư Phật mà bệ hạ cũng không
kiêng nể. Do
vậy mà điềm lành ấy
xuất hiện để
cảnh tỉnh bệ hạ đó.
-
Ngoài ra giáo lý ấy còn có gì quan trọng?
- Trong kinh Đại Bát Niết-bàn
Đức Phật có huyền ký rằng: Sau khi ta
nhập diệt, nếu có kẻ nào đến nơi
Tứ Động Tâm. Đó là nơi ta sinh ra, nơi ta
thành đạo, nơi ta
thuyết pháp lần đầu tiên và nơi ta nhập Đại Niết-bàn thì cũng giống như là gặp ta lúc còn
tại thế. Bệ Hạ đến đây đã không có tâm
cung kính mà còn có tâm cao ngạo tự mãn, nên đã không gặp được Đấng
Đại Giác đó thôi. Cho nên pháp mầu kia là một sự
cảnh tỉnh.
- Nếu đúng là
vậy thì hãy cho ta thấy một
điều kỳ diệu nữa, ta mới phát
lòng tin.
Đêm đó đức vua nằm không chớp mắt và
suy nghĩ rất nhiều về ánh sáng
tỏa ra khi đốt những cành lá bồ-đề. Bỗng nhà Vua
chợp mắt lúc nào chẳng hay và
lúc ấy có một
chư Thiên từ
cõi trời Tứ Thiên Vương trong cõi Dục
hiện ra nói:
- Tâu bệ hạ! Nếu bệ hạ muốn thấy một
điềm lành xuất hiện nữa thì ngay sáng mai bệ hạ hãy cho người hầu cận đem sữa tưới vào gốc cây bồ-đề đã chặt rồi thì sẽ thấy.
- Nhưng thấy cái gì?
- Thì ngày mai Bệ Hạ sẽ
chứng kiến điềm lành ấy.
Nhà Vua choàng
tỉnh dậy, như có ai khe khẽ gọi bên tai mình. Nhà Vua
mở mắt lớn ra thì thấy hoàng hậu và nhà vua đem giấc mơ ấy kể cho hoàng hậu nghe.
Sáng sớm tinh sương hôm ấy nhà vua đã
chứng kiến một cảnh
lạ kỳ chưa từng thấy
trong đời. Đó là khi đổ sữa vào gốc cây bồ-đề đã chặt hôm qua, thì kỳ lạ thay, từ
dưới đất, ngay nơi gốc cây đã bị chặt ấy bỗng
tức thời mọc lên một cây khác, bắt đầu đâm chồi nảy lộc trước sự
chứng kiến của đức vua. Thế là vua và hoàng hậu cùng với các cận thần quỳ xuống bên gốc cây bồ-đề ấy để
đảnh lễ và nhà Vua đã lập lại 3 lần câu:
Kể từ nay đến
suốt đời con xin
quy y Phật, kể từ nay đến
suốt đời con xin
quy y Pháp, kể từ nay đến
suốt đời con xin
quy y Tăng.
Đoạn vua cho xa giá hồi cung và trên đường về trong đầu óc
miên man suy nghĩ về những pháp mầu và nghĩ phải có một cách gì đó để
tạ ơn Tam Bảo đã
soi sáng cho sự
tỉnh thức của mình.
Nhà vua nghĩ rằng: Chỉ có
xây dựng những
bảo tháp bằng đá và cho chạm trổ lên đó những dòng chữ ghi dấu những nơi
xuất hiện quan trọng trong
cuộc đời của
Đức Phật thì sau này có người kiếm tìm mới biết đâu là thật hư.
Ngoài ra, vua cũng cho xây nhiều chùa để
chư Tăng Ni có nơi
tu tập và
giữ gìn những
bảo tháp xá-lợi ấy. Kết quả là có 84.000
bảo tháp và 84.000 ngôi chùa đã được
xây dựng trong suốt mấy mươi năm đức vua trị vì và cũng chính nhờ Ngài Hải tỳ-kheo mà đức vua hiểu được
Đức Phật đã huyền ký là sau hơn 350 năm
Đức Phật nhập diệt, sẽ có một vị vua như thế ra đời.
Vua nghe vị Hải tỳ-kheo nhắc lại
câu chuyện của đời mình, sinh ra
cảm động và khóc lóc sầu thảm, than trách tại sao mình không được sanh ra lúc Phật ra đời. Sau đó đích thân Vua đã đến thành
Vương Xá, xứ Ma-kiệt-đà để lấy 4 thăng
xá-lợi Phật mà Vua A-xà-thế đã chôn giấu và lấy hết tất cả xá-lợi được chôn giấu ở 6
nơi khác. Vua sai làm 84.000 chiếc hộp báu, mỗi hộp đựng một viên xá-lợi, lại làm 84.000 chiếc vò báu, 84.000 chiếc lọng báu, 84.000 tấm lụa, làm đồ trang sức, rồi chọn ngày cung thỉnh
chư Tăng đến mỗi tháp như thế cung nghinh xá-lợi nhập
bảo tháp và ra những chiếu chỉ để
nhân dân phụng thờ xá-lợi, chùa tháp cũng như
hộ trì chư Tăng.
Ngày nay nếu ai đến
chiêm bái vườn Lam-tỳ-ni, nơi
Thái Tử đản sanh, thì sẽ thấy trên cây trụ đá Vua A-dục có cho khắc những dòng chữ như sau:
“Đây là nơi Đản Sanh của
Thái Tử Tất Đạt Đa.
Trẫm (Asoka) miễn một phần bảy thuế cho dân làng này.”
Chính nhờ Vua A-dục đã cho dựng tháp và các trụ đá trước Tây lịch 250 năm, rồi đến đầu thế kỷ 7 vào năm 628 sau Tây lịch, Ngài
Huyền Trang từ
Trung Quốc đã sang
Ấn Độ, đi đến đâu Ngài cũng ghi chép lại thật
rõ ràng về những trụ đá Vua A-dục dựng còn sót lại. Nghĩa là từ khi dựng
cho đến khi Ngài
Huyền Trang có mặt tại
Ấn Độ khoảng chừng hơn 800 năm. Sau khi về lại Kinh Đô
Trường An vào năm Trinh Quán thứ 19, Ngài
Huyền Trang đúng 50 tuổi, tức năm 645. Ngay năm sau, tức là năm 646, Ngài đã thuật lại cho
đệ tử mình chuyến
hành trình gian khổ suốt 17 năm trường gồm 4 năm đi về và 13 năm học tại
Đại Học Nalanda cũng như
chiêm bái các
nơi khác. Lại
trải qua 19 năm
phiên dịch Kinh điển, đến năm 664 thì Ngài
viên tịch, để lại không biết bao nhiêu là
bản kinh đã
phiên dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán và một bộ ký sự “Đại Đường Tây Vức Ký”.
Sau này các
học giả Âu Mỹ có dịch bộ ký sự này sang tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Nga, nên theo đó mà khai quật những
di tích lịch sử mà ngày trước Vua A-dục đã dựng lên, gồm những tháp và bia ký kỷ niệm.
Ngay cả
Đại Tháp bồ-đề ngày nay mà
chúng ta thấy đó, cao 50 mét, nhưng theo các nhà khảo cổ học phương Tây thì chỉ có phần trên cùng của tháp và nền tháp là còn nguyên vẹn. Còn thân giữa của tháp chỉ mới được
xây dựng lại khoảng 200 năm về trước.
Thời gian trải qua mấy ngàn năm, phong sương cùng tuế nguyệt, vật đổi sao dời, quả đất
chuyển đổi, nên ngày nay khách
hành hương khi vào trong
Đại Tháp sẽ thấy rằng
chúng ta đang
đi xuống dưới mặt đất để vào
đảnh lễ. Điều ấy có nghĩa là, chân tháp bị chôn sâu dưới mặt đất. Còn bên ngoài
chúng ta thấy mặt đất
bình thường cao hơn cả năm sáu thước. Thật là
bất khả tư nghì và
nếu không có Vua A-dục cho
xây dựng 84.000
bảo tháp ngày trước, thì ngày nay đâu còn lưu lại dấu vết gì.
Phật lịch 2548 (Dương lịch 2004) cũng là năm
Liên Hiệp Quốc đã lấy ngày Vesak Rằm Tháng Tư làm
lễ kỷ niệm Đản Sanh,
Thành Đạo và nhập Đại Bát Niết-bàn và cũng trong năm này UNESCO là một tổ chức gồm nhiều nước thành viên trên
thế giới cũng đã
công nhận bồ-đề
Đạo Tràng là
di sản văn hóa thế giới,
cần phải được
trân trọng bảo quản
giữ gìn.
Công đức ấy là do Vua A-dục cho
xây chùa dựng tháp mà thành và đã
trải qua hơn 2.300 năm
lịch sử.
Sau khi
lên ngôi vua 17 năm, nhà vua đã chủ trương việc
kết tập kinh điển lần thứ 3 tại thành
Hoa Thị gồm có 1000 vị
trưởng lão, tụng lại tất cả những kinh, luật, luận
trong suốt 9 tháng thì xong. Trong lần
kết tập này, các Ngài chỉ
đọc tụng để nhắc lại những
lời Phật dạy qua 2 lần
kết tập trước. Lần đầu do Ngài Ma-ha Ca-diếp
chủ tọa, cách sau Phật
nhập diệt 7 ngày,
gồm có 500 vị A-la-hán. Lần
kết tập thứ 2 cách Phật
nhập diệt 100 năm, tại thành Tỳ-xá-ly. Do có 10 việc
phi pháp nổi lên, nên Ngài Da-xá đã
triệu tập 700 vị
Thánh Chúng ở vườn Ba-lị-ca để rà soát
Luật tạng cho được
chuẩn xác. Lần thứ 3 là do vua A-dục chủ trương. Lần này Ngài Mục-kiền-liên Tử-đế-tu
chủ tọa và lần thứ 4 cách Phật
nhập diệt 400 năm do nhà vua Ca-nị-sắc-ca xứ Kiền-đà-la ở thành Ca-thấp-di-la chủ trương, có 500 vị A-la-hán
kết tập và Ngài A-la-hán Ca-chiên-diên làm
Thượng Thủ. Đây là
thời kỳ Kinh, Luật, Luận đã được viết thành
văn tự. Theo các nhà sử học
Tây phương thì đó là vào năm 85 trước Tây lịch.
Sau khi
kết tập lần thứ ba rồi, Đức Vua A-dục phái Ngài Majihantika (Mạt-xiển-đề) đến nước
Kế Tân (Kasmina) và xứ Gandhara (Kiền-đà-la), phái Ngài Mahisamandala (Ma-hệ-sa Mạt-đà-la), Ngài Lặc-khế-đa (Rakkhita) đến nước Ba-na-sa-tư (Varanasi), phái Ngài Đàm-vô-đức (Yonaka-dhammarakkhita) đến nước A-ba-lan-đa-ca (Aparantaka), phái Ngài Ma-ha Đàm-vô-đức (Mahadhamana-rakkhita) đến nước Ma-ha Lặc-xá (Ma-ha-raha), phái Ngài Ma-ha Bột-khí-đa (Maharakkhita) đến Tẩu-la
Thế Giới (Yonaloka=Hy Lạp), phái Ngài Mạt-thị-ma (Majihima) đến nước bên núi
Tuyết Sơn (Himavantapoda), phái Ngài Tu-na-ca-va (Sonaka) và Uất-đa-la (Uttaka) đến đất Kim (Suvarra-bhumi) thuộc Miến Điện, phái Ngài Ma-hi (Mahinda) đến nước
Sư Tử (Lanka-Tích Lan). Tất cả những
sự kiện này trong luật
Thiện Kiến ghi rất
rõ ràng.
Như thế phải nói rằng, nhà vua là một bậc
minh quân hàng đầu
trong lịch sử Phật Giáo thế giới và
lịch sử Ấn Độ và có lẽ vì thế mà
cho đến ngày nay lá cờ
quốc gia của
Ấn Độ 3 màu xanh, đỏ, trắng, trên ấy có hình bánh xe
chuyển pháp luân của
Đức Phật.
Mặc dầu trong
hiện tại (2004) xứ
Ấn Độ có đến 800.000.000 người theo Ấn Giáo và
Phật Giáo chưa đến 1.000.000 người, thế mà
hình ảnh hoằng pháp lợi sanh của vua A-dục sau khi Phật
nhập diệt vẫn còn
hiện hữu.
Quả thật là pháp Phật nhiệm mầu.
Ngày đó mà nhà Vua đã phái các
vị đạo cao đức trọng ra khỏi
biên giới của
Ấn Độ như Miến Điện,
Tích Lan, Hy Lạp, đến tận cả Trung Đông ngày nay để
hoằng pháp, thì phải biết rằng
uy tín của nhà vua cũng như
giáo lý của
Đạo Phật lúc ấy ảnh hưởng không biết bao nhiêu mà kể trong
nhân gian và trong
xã hội đời thường.
Trong những vị đi xa này có 2 người con của vua A-dục. Đó là
Công Chúa Shanghamita và
Hoàng Thái Tử Mahinda. Điều ấy
chứng tỏ rằng trên từ vua cha
cho đến con cái,
hoàng tộc đã được
ảnh hưởng bởi
giáo lý nhiệm mầu của
đấng Thế Tôn. Còn hoàng hậu thì sao chẳng thấy đề cập đến?
Một triều đình như thế thì chắc hoàng hậu không có vui. Vì cả ngày lẫn đêm nhà Vua vẫn bên chồng kinh sách,
nghiên cứu thâm sâu nội điển và nhiều khi
luận bàn với những vị
quốc sư cho đến thâu đêm và dường như nhà vua đã
bỏ quên hoàng hậu nơi hậu cung. Có nhiều đêm hoàng hậu chỉ
một mình, chẳng biết tâm sự với ai nên cũng ghen tuông với
Đức Phật. Bà nghĩ rằng chính
Đức Phật là
nguyên nhân để cho Đức Vua bỏ bê bà ta.
Thỉnh thoảng lắm nhà Vua mới ghé thăm một chút, rồi về nơi tịnh dưỡng của mình.
Vào một
đêm trăng rằm sáng tỏ Hoàng Hậu đến cạnh bên Đức Vua và
thỏ thẻ như sau:
- Muôn tâu Thánh Thượng! Tiện thiếp có điều gì
sai trái mà lâu nay chẳng thấy Hoàng Thượng đoái hoài? Vả chăng Hoàng Thượng đã quên chánh cung rồi?
-
Chắc chắn là không phải. Nhưng nay ta vừa bận việc triều chính lẫn việc đạo, nên mới ít thăm nom ấy thôi. Còn Hậu thì tuổi cũng đã cao. Nên
tĩnh tâm mà tu niệm.
- Lúc nào tiện thiếp cũng chỉ nghe toàn là
đạo đức, là
luân lý. Có khi nào Hoàng Thượng nhắc lại những năm nơi sa trường, những lúc thắng trận khải hoàn ca. Nơi đó
vẫn có sự đóng góp của tiện thiếp. Sao vậy Bệ Hạ?
- Những việc ấy chỉ là thời còn son trẻ. Còn nay thì ta đã già và chỉ có
giáo lý của
Đức Phật mới làm cho ta
an lạc được. Còn mọi thứ trên đời này chẳng qua chỉ là giả tạm mà thôi.
- Ngay cả Hậu này chăng?
- Đúng thế! Dầu là Hậu đi chăng nữa, một ngày nào đó thân cát bụi sẽ trả về cho cát bụi. Còn lại
tâm thức sẽ đi
đầu thai ở chốn nào? Đó là chưa kể lúc còn trai trẻ ta đã giết không biết bao nhiêu vạn
sinh linh, giờ đây ta
hối hận lắm.
- Cả hoàng nhi và hoàng nữ Bệ Hạ cũng tóm thâu luôn.
-
Dĩ nhiên những đứa con
hiền lành của
chúng ta do
nghe pháp mà hiểu
cúng dường, rồi
phát tâm xuất gia, chứ đâu có ai
ép buộc chúng bao giờ. Hậu thử
nghĩ lại xem.
Hoàng Hậu không còn
đối đáp với Đức Vua nữa mà buồn bã
trở lại hậu cung, trong đầu óc đang có một vài tính toán.
Một hôm Hoàng Hậu cho mời những
cung nữ thân tín vào và ra lệnh:
- Các ngươi hãy chuẩn bị xa giá và lương thực cho ta trong bảy ngày và ngày mai
chúng ta ra đi.
- Muôn tâu Hoàng Hậu! Tiện tỳ xin
vâng lệnh, nhưng đi đâu thưa Hoàng Hậu?
- Đi báo thù!
- Báo thù?
- Đúng vậy! Đi
báo thù.
- Lâu nay chúng nô tỳ thấy Hoàng Hậu
hiền lành chẳng
thù oán với ai. Ngay cả có 2 người con cũng cho đi
xuất gia thì chắc hẳn
lòng từ bi của Hoàng Hậu
độ lượng lắm!
- Ngươi hãy im đi! Hãy vào trong gọi 4 tên
đại lực sĩ ra đây cho ta.
- Xin
vâng lệnh.
Từ bên ngoài hậu cung 4 tên
đại lực sĩ đi vào và ra mắt Hoàng Hậu.
- Kính xin lịnh bà cho
tôn ý.
- Ta muốn các ngươi ngày mai cùng ta
lên đường và nên chuẩn bị
đem theo rìu, rựa, giáo, mác cho thật bén.
- Để làm gì thưa Hoàng Hậu?
- Đến đó rồi các ngươi sẽ biết.
Ngày hôm sau cả đoàn
tùy tùng lên ngựa,
theo sau long xa
tứ mã của Hoàng Hậu. Đi suốt cả mấy ngày đường mới đến bên dòng sông Ni Liên. Từ đây đường đi
gập ghềnh cho nên tất cả đều xuống xe đi bộ. Chỉ riêng Hoàng Hậu
một mình một ngựa tiến đến nơi
Kim Cương Tòa và ra lệnh:
- Hãy chặt đứt cây bồ-đề này đi! Chính mi đã
quyến rũ chồng con ta. Ngày đêm chồng ta chỉ cận kề bên mi và chẳng còn
đoái hoài đến ta nữa. Từ nay mi sẽ không còn sức
quyến rũ nữa. Quân bay đâu! Hãy tiến vào chặt lấy.
- Chúng thần
vâng lệnh.
Đây cũng là cơ hội để những người bà-la-môn lâu nay vốn ganh tị với
Phật Giáo ra tay chặt phá, chẳng chút
nhân nhượng. Riêng những người
Phật Tử theo hầu thì vừa
đau xót vừa làm cho có lệ. Một hồi sau, cây bồ-đề không còn một cành lá nào nữa. Hoàng Hậu rất
hả dạ và cho
mọi người ra về.
Tự nhiên, Hoàng Hậu bỗng thấy đau xốn ở đầu, mỏi ở lưng và cổ, rồi đột quỵ xuống chẳng biết vì
lý do gì. Nhìn khắp chung quanh, thấy nơi đây vẫn
hiền lành yên tĩnh. Trong
thâm tâm Hoàng Hậu trách thầm - Ngỡ rằng ông Cồ-đàm cũng
từ bi nhân hậu, nhưng sao lại trách phạt ta.
Mọi người chung quanh bu đến rồi các tỳ nữ đỡ Hoàng Hậu lên ngựa. Đêm ấy Hoàng Hậu nằm mơ thấy:
- Ta là
Tứ Thiên Vương từ
cõi trời đến, báo cho ngươi biết rằng:
Mặc dầu Đức Thế Tôn thị tịch đã 350 năm rồi. Chồng ngươi đã
một lần chặt bỏ cây bồ-đề này vì ganh tức với hão danh
uy quyền của
thế tục và nhờ sau đó đã
hồi tâm, nên ngày nay đã
trở thành một bậc
minh quân hiền đức. Còn ngươi
nếu không sám hối thì ngươi sẽ liệu thân.
- Hóa ra không phải ông Cồ-đàm trừng phạt?
-
Đức Phật thương tất cả loài
hữu tình nên chẳng làm việc đó. Chỉ có
chúng ta ở trên
thượng giới, đã vì
Phật Pháp mà
phát tâm bảo hộ, giúp đỡ nên đã
thức tỉnh và
trừng phạt ngươi. Ngươi hãy mau
tỉnh thức.
- Nhưng ta phải làm thế nào?
- Ngày mai ngươi hãy ra lệnh cho chính những người bà-la-môn đã chặt phá cây bồ-đề hôm qua mang sữa đổ vào gốc cây thì
tự nhiên cây sẽ mọc lên như cũ.
- Xin
tuân lệnh.
Đêm ấy Hoàng Hậu hối cải vô ngần và nghĩ rằng ngoài cõi này, ngoài
loài người trên trái đất này, còn không biết bao nhiêu là
chư Thiên và những
chúng sanh ở cõi khác cũng
hộ trì Đức Phật. Do vậy ta phải
sám hối ngay từ bây giờ. Đoạn Hoàng Hậu quỳ xuống, ngửa mặt lên trời khấn nguyện:
- Con là Chánh Cung của Vua A-dục. Vì chẳng có
lòng tin, lại thêm sự ganh tị nhỏ mọn mà mới sanh tâm
ác độc như thế. Kính mong
Đức Thế Tôn từ bi chứng minh cho con.
Bỗng đâu từ trên không trung một luồng
hào quang nhập vào đầu của Hoàng Hậu. Bà
tỉnh táo lại như cũ và trời chưa sáng đã
thân hành đến cội bồ-đề cùng với những người bà-la-môn đã chặt phá cây ngày hôm qua, đem sữa tưới lên đó.
Lạ kỳ thay! Những dòng sữa ngọt tưới đến đâu thì ngay từ nơi gốc cây ấy những cành lá xanh
mơn mởn lại vươn lên như đứa trẻ thật chóng lớn. Hoàng Hậu và đoàn
tùy tùng quỳ xuống
đảnh lễ cây bồ-đề, đoạn cho xa giá
trở lại Hoàng Cung.
Khi Đức Vua A-dục thấy Hoàng Hậu
vắng bóng nhiều ngày mà chẳng biết đi đâu, nên một hôm mới gọi cận vệ đến để hỏi:
- Ngươi có biết
lý do tại sao mà Hoàng Hậu
vắng mặt ở hậu cung chăng?
- Muôn tâu Hoàng Thượng! Bầy tôi sợ
phạm thượng lệnh, bị chém đầu, nên không dám trình bày
sự thật.
- Ngươi cứ tường trình ta rõ. Tội chết sẽ
tha cho.
- Muôn tâu Hoàng Thượng! Có
mật báo về
cho hay là Hoàng Hậu đã cùng với
cung nữ và bốn vị
đại lực sĩ bà-la-môn đem giáo mác đến thành Gaya để chặt cây bồ-đề nơi
Đức Phật thành đạo rồi.
- Có lẽ nào? Hậu ta vẫn
nhân từ, đâu có khi nào trái ý ta. Sao hôm nay lại ngông cuồng như thế?
- Hạ thần cũng chẳng rõ. Nhưng chắc rằng Hoàng Hậu rất buồn, vì Hoàng Thượng sau khi hướng về
Phật Pháp, ngày đêm chỉ cận kề bên
kinh điển và cây bồ-đề. Chứ ít
đoái hoài đến Hoàng Hậu. Có lẽ đây là
lý do chính vậy.
- Nhưng ta đã già rồi và đâu có
phước đức nào hơn
phước đức tạo chùa, xây tháp,
đúc tượng, giúp đỡ
Tăng Ni tu học để
chuộc lại những
lỗi lầm xưa mà ta đã gây tạo ngày trước. Chắc Hậu ta đã rõ điều này?
- Đúng vậy! Muôn tâu Thánh Thượng! Nhưng tâm
chúng sanh khi chưa
liễu ngộ giáo lý của
Đấng Thế Tôn thì còn
chấp ngã và chưa chịu
chấp nhận những sự
hiện hữu khác nơi mình.
- Ngươi
nói đúng.
Đức Vua phán như thế.
Trên đường hồi cung, Hoàng Hậu rất lo sợ, vì biết rằng nếu Đức Vua hay được điều này thì chắc rằng cũng không yên.
Tuy nhiên Hoàng Hậu đã có cách.
Rồi một hôm Đức Vua gọi Hoàng Hậu vào bảo:
- Ta biết Hậu rất thương hai con, dầu cho hai con đã
xuất gia rồi, nhưng Hậu vẫn một mực lo
tứ sự cúng dường đầy đủ. Nay ta có việc muốn nói với Hậu đây.
- Xin Bệ Hạ cứ giải bày.
-
Phật Pháp ngày càng được phát triển. Ta có cử nhiều phái bộ đi về phía bắc, phía tây, phía nam và phía đông của nước
chúng ta,
mục đích là đem
giáo lý nhiệm mầu của
Đức Thế Tôn qua truyền dạy cho các nước lân bang để họ
quy ngưỡng về
Phật Pháp và cũng vì
lý do ấy mà ta cũng định cho hai con đi sang đảo
quốc Sư Tử để
truyền đạo, không biết Hậu nghĩ sao?
- Thật sự ra trước đây tiện thiếp rất căm tức với
giáo lý của
Đức Phật. Vì
giáo lý ấy mà Bệ Hạ và hai con đã bỏ bê Hậu, nhưng bây giờ thì tiện thiếp đã rõ rồi và thiếp có một điều muốn giải bày cùng Bệ Hạ.
- Điều gì thế?
- Đó là việc tiện thiếp đã ra lệnh chặt cây bồ-đề nơi
Đức Phật thành đạo để cho
hả dạ này. Nhưng ngờ đâu...
- Thật ra việc ấy ta đã rõ.
- Ai trình tâu Bệ Hạ?
- Đâu có việc gì qua khỏi mắt ta đâu.
Tuy nhiên việc của Hậu làm đã có
Tứ Thiên Vương giáo huấn.
Thiết nghĩ ta không
cần phải nói thêm nữa. Như Hậu biết, nội Tổ ta thuộc
triều đại Chandragupta đã làm không biết bao nhiêu việc
phước thiện cho đời. Do
vậy mà ta mới kế thế Vương nghiệp
cho đến ngày nay.
Mặc dầu thân phụ ta không thích cho ta lên làm Vua, nên đã có ý đưa
ta ra biên thùy và
cô lập tại đó, để
chết mòn đi, nhưng ngờ đâu
Hoàng Thiên vẫn còn có mắt, do đó ta đã hát khúc Khải Hoàn Ca. Trong khi anh ta,
Thái Tử Susmana tuy
hiền hậu, nhưng rất nhu nhược. Không thể thống nhất giang sơn này. Do
vậy mà ta đã hạ sát để
lên ngôi. Chưa hết, 99 người em khác mẹ cũng không còn. Do vậy bây giờ ta
hối hận lắm.
Dĩ nhiên chúng ta nhờ phúc báu mới được làm Vua, nhưng
đồng thời nếu ta không
ăn năn tội lỗi của
ngày xưa thì chắc rằng
nghiệp lực,
nhân quả ấy vẫn theo ta hoài. Cho nên Hậu hãy để ta rảnh tay lo những việc
phước thiện.
- Xin quân Vương chớ sầu lo và Hậu này xin
cảm ơn tấm lòng
độ lượng của Bệ Hạ, đã không trách cứ về việc đốn phá cây bồ-đề, lại còn khuyên nhủ tiện thiếp chung vai cùng Bệ Hạ để lo việc
phước đức tế độ muôn dân,
đồng thời để
chuộc lại những
lỗi lầm đã gây ra trong kiếp này và nhiều
kiếp trước nữa.
Hai người giờ đây như hình với bóng. Khi nhà Vua làm phước ở đâu thì Hoàng Hậu cũng có mặt ở đó. Khi nhà Vua vào
tinh xá để
cúng dường cho
chư Tăng thì Hoàng Hậu cũng theo hầu và rất rộng lòng
bố thí cho những người
nghèo khổ.
Do
vậy mà nghĩa trọng thâm ân ấy vẫn còn vang vọng khắp chốn
Hoàng Cung cũng như trong dân gian thuở bấy giờ. Tất cả
của cải trong kho báu, tiền bạc, ngọc ngà, lương thực v.v... Vua và Hoàng Hậu từ từ cho đem tất cả ra để
bố thí và
cúng dường trai tăng, hoặc xây chùa tháp. Tiếng lành ấy càng ngày càng
vang dội khắp đó đây.
Một hôm,
Thái Tử Mahinda và
Công Chúa Sanghamita sau khi đã đi
xuất gia, từ
tự viện trở về Hoàng Cung xin ra mắt Vua Cha và Mẫu Hậu.
- Các con chẳng cần thi lễ. Vì giờ đây các con là người
xuất gia rồi.
-
Tuy nhiên các con vẫn là con của Phụ Vương và Mẫu Hậu.
- Đúng thế! Các con đã quên rồi chăng? Khi
thọ giới sa-di và sa-di ni các con đã lạy
tạ ơn cha mẹ rồi,
thì giờ đây không còn phải quỳ lạy nữa.
- Xin thâm tạ Phụ Vương và Mẫu Hậu và có việc gì xin Phụ Vương và Mẫu Hậu truyền dạy.
- À! Này Mahinda con trai trưởng của ta và Sanghamita
Công Chúa thân yêu của ta. Nếu hai con không đi
xuất gia thì ngai vàng này đã vào trong tay các con. Giờ đây đối với hai con, ngai vàng chỉ tạo nên khổ đau và
công danh phú quý chỉ là
ảo ảnh của
cuộc đời. Như các con thấy đó, ngày nay
Phật Pháp đã được
truyền bá khắp
mọi nơi. Ta muốn hai con hãy đến xứ
Tích Lan, các con nghĩ sao?
-
Dĩ nhiên chúng con phải
vâng lệnh Phụ Vương và chúng con cũng đang chờ ý của Mẫu Hậu nữa.
- Nếu là ngày trước thì ta đã chẳng vui chút nào. Nhưng bây giờ thì ta đã hiểu thêm một ít
giáo lý của
Đức Phật, nên ta rất
vui lòng để cho các con đi. Nhưng Hậu có ý này xin Bệ Hạ xét phân.
- Hậu cứ nói.
- Mỗi một vị ra đi đến một nước khác như thế, ngoài
kinh điển khẩu truyền ra, ta nên cho mỗi vị
Đại Sư một nhánh cây bồ-đề
mang đến xứ họ để tạo
niềm tin thì
chắc chắn rằng
nhân dân và
Phật Tử xứ đó sẽ
vui vẻ đón nhận và tạo
niềm tin cho họ nhiều hơn nữa.
- Điều đó ta đã nghĩ từ lâu, nhưng hôm nay nghe Hậu nhắc đến ta cũng mừng. Vì có thêm một người nữa để chăm lo cho
Phật Pháp.
Hoàng Hậu
bẽn lẽn cúi đầu xuống đất như thầm nhớ lại một điều gì, đoạn
tiếp tục câu nói khi nãy còn
dở dang.
- Tiện thiếp xin Hoàng Thượng xá tội cho việc chặt phá cây bồ-đề.
Nếu không thì cành lá bây giờ sum sê nhiều lắm và chắc rằng mỗi vị ra đi sẽ nhận được một nhánh lớn hơn.
- Ta
ngày xưa cũng thế thôi. Nhưng
Đức Phật cũng đã dạy rằng...
- Dạ sao thưa Bệ Hạ?
- Ngài dạy rằng: Ở trên đời này chỉ có hai hạng người đáng quý. Hạng người thứ nhất là không bao giờ tạo
tội lỗi và hạng người thứ hai là đã gây ra tội rồi và biết
sám hối về những
tội lỗi xưa. Như thế cả hai
chúng ta đều nằm vào trong
trường hợp thứ hai. Còn
trường hợp thứ nhất thì chắc chẳng phải rồi.
- Nghe nói Bệ Hạ và các con làu thông kinh sách. Vậy có
câu chuyện gì hay, xin kể cho tiện thiếp nghe với.
Công Chúa Sanghamita chen vào:
- Con xin kể để hầu Mẫu Hậu.
- Con cứ
tiếp tục.
- Ngày ấy không xa, cách đây chừng hơn 350 năm khi mà
Đức Phật còn
tại thế. Sau khi Ngài chỉnh y ngay ngắn
đi vào thành
khất thực, theo thứ lớp mà đi xin. Sau đó về lại trụ xứ, rửa chân, trải tòa rồi dùng ngọ trong
chánh niệm. Sau khi dùng xong Ngài bắt đầu
thuyết pháp cho
đại chúng nghe. Có khi là Vua, có khi là các quan và có khi là những người
bình dân, nhưng hôm ấy thì
Đức Phật không
thuyết pháp mà Ngài chỉ lắng nghe những điều xầm xì nơi chúng tỳ-kheo và của các vị
đệ tử nhỏ trong đoàn.
Sau khi khuyên lơn đủ điều cả hai nhóm, nhưng nhóm nào cũng không chịu nhường nhịn, nên Ngài đã vào rừng...
- Rôi sao nữa con? Thật là
khổ tâm cho
Đức Phật.
- Con xin kể tiếp đây.
Câu chuyện xảy ra nơi
tinh xá là có một vị tỳ-kheo
chuyên hành trì giới luật, khi vào trong phòng tắm thấy một tỳ-kheo khác chỉ chuyên
thuyết pháp, còn luật thì ít
thông suốt, nên sau khi tắm rồi vị ấy để ngửa cái chậu tắm lên. Thế là vị tỳ-kheo giữ luật đã
quở trách và vị tỳ-kheo
thuyết pháp đó đã xin
sám hối.
Ngỡ đâu như thế là xong, nhưng khi về lại hậu liêu của mình, vị tỳ-kheo giữ luật đem chuyện ấy nói với
đệ tử của mình. Thế là
câu chuyện càng ngày càng vỡ to ra, không ai
ngăn cản nổi.
- Rồi sao nữa?
-
Dĩ nhiên là cũng đến tai của những
đệ tử của Thầy hay
thuyết pháp kia và cả hai bên lớn tiếng cãi vã nhau, nên hôm đó sau khi độ ngọ,
Đức Phật quyết định đi vào trong rừng sâu để hành thiền.
Khi vào rừng
Đức Phật cũng gặp một con khỉ già buồn bã đến trước Ngài và than rằng:
- Con cái bây giờ lớn rồi, chúng tranh nhau chí chóe và xem
lời khuyên của người mẹ không ra gì.
Khỉ già tủi thân lắm và đem tâm sự ấy kể lên cho
Đức Phật nghe.
Rôi một hôm khác có một con voi đầu đàn cũng đến bên
Đức Phật để bày tỏ sự
cung kính và
thổ lộ tâm tư của mình rằng: Những con voi con bây giờ càng ngày càng lớn, chúng
đánh nhau dữ dội, khuyên can không được. Cho nên voi già mới vào đây.
Thế là từ đó voi cùng khỉ có bạn. Mỗi sáng tinh sương sau khi nằm bên
Đức Thế Tôn lúc Ngài
tọa thiền thì chúng, đứa đi tìm
thức ăn, đứa đi tìm đồ uống để về dâng lên
Đức Phật và Ngài đã sống như thế trong rừng tại xứ Kosabi đến ba tháng.
- Nhưng khi ấy thì các vị tỳ-kheo sống như thế nào?
-
Dĩ nhiên không còn hình bóng của
Đức Phật thì ai cũng buồn. Buồn nhất là những
vị cư sĩ,
hoàng thân quốc thích muốn đến
cúng dường cho
Đức Phật hằng ngày mà chẳng gặp được Ngài. Khi hỏi Ngài đã đi đâu, thì được biết
câu chuyện đã xảy ra như trên. Thế rồi các
vị cư sĩ ấy mới ra một
điều kiện. Nếu quý Thầy cả hai nhóm, không vào rừng
thỉnh Phật về lại thì chúng
cư sĩ sẽ không
cúng dường tứ
vật dụng cho
chư tăng nữa.
Khi đó cả hai nhóm cùng hứa là sẽ vào thỉnh
Đức Phật về lại
tinh xá.
Hôm đó có rất đông, từ
đệ tử lớn đến những vị
đệ tử nhỏ của
Đức Phật đến trước nơi Ngài ngồi trong rừng, đầu, mặt cúi
sát đất đảnh lễ rồi dâng lời cung thỉnh.
- Rồi
Đức Phật có về không con?
-
Dĩ nhiên là phải có
điều kiện, thưa Mẫu Hậu.
- Con hãy kể nhanh lên, mẹ
nóng lòng để được biết đây.
Điều kiện gì thế?
-
Đức Phật bảo các vị
đệ tử rằng: Ta sẽ về với
điều kiện tất cả các ngươi phải
chấp nhận pháp
lục hòa sau đây:
* Thứ nhất là thân hòa đồng trú. Nghĩa là cùng
hòa thuận với nhau, sống chung
với nhau trong một
tinh xá, một chùa, một Đại
Tùng Lâm hay
xa hơn nữa trong làng xóm và quốc thổ.
* Thứ hai là
khẩu hòa vô tranh. Nghĩa là miệng hòa không tranh
cãi nhau. Người này phải tập hạnh lắng
nghe lời nói,
ý kiến của người kia, không được tranh cãi.
* Thứ ba là ý hòa đồng duyệt. Nghĩa là có những
ý kiến dầu khác nhau đi chăng nữa, phải mang ra trước
đại chúng mà
duyệt lãm qua, để đi đến một điểm chung.
* Thứ tư là kiến hòa đồng giải. Nghĩa là những
ý kiến hay chỗ thấy nghe phải đem ra cùng giải bày cho nhau nghe.
* Thứ năm là giới hòa đồng tu. Nghĩa là Tăng hay Ni sống nơi một trụ xứ phải lấy giới làm Thầy và hãy cùng hòa mình vào đó để mà
tu học.
* Điều thứ sáu cũng là điều
cuối cùng. Đó là lợi hòa đồng quân. Nghĩa là
tài sản,
của cải của đàn-na
cúng dường cho
chư tăng phải nên chia điều ra. Có như thế mới
hòa hợp được.
- Đây chỉ là những
điều kiện căn bản. Nếu cả hai bên
đồng ý thì ta mới về sống chung với
Tăng đoàn.
Nếu không ta sẽ ở đây vì có con voi già và con khỉ kia cũng cùng tâm trạng với ta, ta chẳng lẻ loi đâu.
Đức Phật ôn tồn bảo thế.
Tất cả các thầy tỳ-kheo lớn
cho đến những
đệ tử nhỏ cũng đã dập đầu khấu tạ,
vâng lời Phật dạy và đồng xướng lên thật lớn rằng:
- Chúng con xin y giáo
phụng hành.
Đức Vua, Hoàng Hậu, Mahinda sau khi nghe xong
câu chuyện rất
hoan hỷ và khen
công chúa Sanghamita rằng:
-
Quả thật nhà ta có người con gái đại tài!
Sanghamita thầm
cảm ơn và cúi đầu xuống. Đoạn Hoàng Hậu nhìn qua Đức Vua và hỏi rằng:
- Đó là bài học mà
Đức Phật dạy cho
chúng xuất gia. Còn
tại gia chúng ta thì sao?
-
Dĩ nhiên là cũng có thể
áp dụng được vậy, Đức Vua
trả lời thế. Cũng giống như ta và hậu đó, nếu lâu nay ta không
áp dụng tinh thần lục hòa này vào cuộc sống
hằng ngày thì làm sao giữa ta và hậu có thể còn
tồn tại cho đến ngày nay.
Hoàng Hậu
hiểu ý nên nguýt yêu chồng, rồi nhìn qua phía hai con nói:
- Phụ Vương và Mẫu hậu rất
hãnh diện về hai con và mong rằng hai con khi đi đến xứ
Tích Lan xa xôi ấy, với
kiến thức Phật học đã hiểu được, hãy đem ra trang trải cho đời và hãy đem cây bồ-đề ấy trồng nơi đất kia, mong rằng một ngày nào đó cành lá sẽ sum sê như cây gốc nơi xứ của mình vậy.
- Chúng con xin
vâng lời của Phụ Vương và Mẫu hậu.
Sau khi hai người con
thân yêu nhất đã đi khỏi chốn
hoàng cung rồi thì chỉ còn hai thân già và ngày đêm luôn luôn bên cạnh nhau như hình với bóng. Có khi cùng làm phước
bố thí với nhau bên cạnh những người nghèo. Có khi ngự triều để lắng nghe những lời tâu của các quan cận thần. Đôi khi ngự đi khắp nơi khắp chốn để
thăm viếng dân chúng và
coi sóc những
bảo tháp chưa xây cất xong. Thật là hạnh phúc! Thật là cao cả.
- Muôn tâu Hoàng Thượng! Hôm nay hậu có điều muốn tâu. Kính mong Hoàng Thượng
đại xá cho sự đường đột này.
- Được! Hậu cứ nói.
- Muôn tâu! Hoàng Thượng có biết không, trong
quá khứ để chiến thắng lên làm Vua, Bệ Hạ và ngay cả hậu này hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp đã gây ra không biết bao nhiêu sự khổ nhọc
lầm than cho
nhân sinh. Đã có không biết bao nhiêu người
chết oan uổng và những hồn oan ấy không được
siêu thoát, đêm đêm đã hiện về báo mộng. Vậy thiếp đề nghị Bệ Hạ cùng bá quan nên tổ chức một lễ
trai đàn bạt độ cho những người chết trên không, trên
đất liền, trên sông sâu biển cả và trong rừng. Không biết là ý Bệ Hạ như thế nào?
-
Quả thật ta và triều đình có một Hoàng Hậu đúng là
mẫu nghi của
thiên hạ. Hậu không những đã lo cho ta, cho hai con, cho sơn hà xã tắc, cho những người sống khổ đau
thiếu thốn, mà còn lo cho cả những người đã
chết oan uổng trong chiến trận vừa qua nữa. Ta đề nghị nên đi đến Bồ-đề
Đạo Tràng, nơi đó
Đức Thế Tôn đã
giác ngộ và cũng chính nơi đây ta đã cho xây cất
Đại Tháp để kỷ niệm
Kim Cương Tòa mà
Đức Phật đã
thành đạo, tiện làm lễ khánh thành và cũng chính nơi đây ta cũng như hậu vì không hiểu
Phật Pháp nên đã hai lần hạ lệnh đốn cây bồ-đề này. Những
lỗi lầm ấy, nhân cơ hội này
chúng ta sẽ
sám hối luôn.
- Thật là
tuyệt vời, tiện thiếp cũng đã có
ý định như vậy.
Thế là lễ
trai đàn chẩn tế cầu
siêu bạt độ đã được bắt đầu và
nguyên nhân của
câu chuyện như sau:
Khi
Đức Phật ngự trên
Linh Thứu Sơn tại xứ Ma-kiệt-đà thì Ngài A-nan
làm thị giả. Hang động của Ngài A-nan cách nơi ở của
Đức Phật chừng vài chục bước. Do đó trước khi ai muốn đến gặp Phật, phải gặp Ngài A-nan trước. Đó cũng là một trong 5 điều mà Ngài A-nan đã
phát nguyện khi
làm thị giả cho
Đức Phật. Một hôm Ngài A-nan đang
nhập định thì bị
Ma Vương vây nhiễu và bảo rằng:
- Chỗ này là chỗ của
chúng tôi ở lâu nay. Sau khi Ngài đến đây ở, lại còn
trì chú,
quán sát về
vô thường cho nên
chúng tôi nhức đầu quá. Xin Ngài đừng
trì chú nữa, hãy để cho
chúng tôi yên với.
Ngài A-nan run người lên và chính
Đức Phật đã từ trên đỉnh núi Linh Thứu dùng
thần lực lấy tay để lên đầu Ngài A-nan
an ủi vỗ về, bảo rằng
đừng sợ. Đó chỉ là
ma cảnh mà thôi. Sau đó Ngài A-nan
tiếp tục nhập định thì thấy hình Ngài
Bồ Tát Quan Âm thị hiện thành vị thần mặt đen le lưỡi dài để
cứu khổ chúng sanh chốn
địa ngục. Ngài bèn
bạch Phật và
Phật bảo nên cúng cơm cháo cho
cô hồn. Cũng do tích này mà trong khoa nghi
chẩn tế có câu:
Nan-đà
Tôn Giả nhân tập định,
Cứu khổ Quan Âm thị
Diện Nhiên.
Cũng chính nhờ Ngài A-nan
mà cả người sống lẫn người chết đều được
lợi lạc. Nhưng Ngài trong kỳ
kết tập kinh điển lần thứ nhất tại động Thất Diệp sau 7 ngày
Đức Phật nhập diệt, là người bị
quở phạt nhiều nhất.
Ngày ấy chỉ có 12 loại
cô hồn nên văn
triệu thỉnh chỉ có chừng ấy. Nếu ngày nay Phật còn
tại thế Ngài sẽ còn chỉ vẽ thêm nhiều loại
cô hồn nữa.
Loại thứ nhất là thỉnh những vị “lũy triều đế chúa” tức là những ông vua trong các
triều đại đã qua. Trong khi làm vua đã giết không biết bao nhiều là người vô tội để
củng cố quyền uy của mình.
Hoặc giả khi hai
triều đại thay đổi cũng có không biết bao nhiêu ông vua
chết oan.
Mấy đời chín lớp ở cao,
Non sông muôn dặm thâu vào một tay.
Thuyền chiến phút đổi thay vượng khí,
Xe loan còn rủ rỉ oan thinh.
Ôi thôi!
Đỗ quyên kêu trót tàn canh,
Máu hờn nhuộm mãi trên cành đào hoa.
Nghe đến đó Hoàng Hậu và Vua A-dục lạnh ớn người.
Lẽ dĩ nhiên các vị
Pháp sư lúc ấy triệu thỉnh bằng tiếng
Ấn Độ. Còn
văn vần trên đây là được soạn dịch lại do cố
Hòa Thượng Bích Liên, người
Việt Nam chúng ta biên soạn. Nhưng khi đã được
thỉnh mời thì
cô hồn nào cũng
tụ tập lại được. Ngay cả nhà vua, khi sống thì có không biết bao nhiêu
uy quyền, nhưng khi chết đi rồi thì hồn oan không đi
đầu thai được. Lúc còn sống thì “Non sông muôn dặm thâu vào một tay”, còn khi chết rồi có muốn nắm lại
quyền lực, có muốn thâu gọn giang sơn cũng chả được một tí nào. Do vậy Hoàng Hậu rất tủi thân và càng
tỏ ra hối hận nhiều hơn.
Câu thỉnh thứ hai là thỉnh đến những võ quan hay tướng tá như sau:
“Ngàn cân lực cử đảnh vàng,
Thân trường thành vững trăm ngàn dặm khơi.
Trướng hùm lạnh
uổng đời hãn mã,
Khói lan tràn nào gã phan long.
Ôi thôi!
Ngựa nhà chiến tướng vắng không,
Hoa hèn cỏ nội một vùng buồn thiu.”
Khi còn làm tướng tá thì da ngựa bọc thây, cố chiến đấu để
bảo vệ giang sơn đất nước. Khi thất trận thì thà chết chứ không hàng. Khi chết rồi thì ngựa cũng buồn mà cây cỏ cũng chả vui lây.
Việt Nam chúng ta cũng có nhiều ông tướng tài từ dựng nước
đến nay trải qua mấy ngàn năm
lịch sử. Trong đó có ông Trần Bình Trọng đời nhà Trần ở thế kỷ 13 là can cường hơn cả. Khi bị quân
Mông Cổ bắt thì ông đã nói: “Thà làm quỷ nước Nam chứ không làm Vương đất Bắc.”
Trần Bình Trọng
anh hùng ngàn thu trước,
Đem tấm thân bảy thước chống sơn hà.
Mãi lo đền
nợ nước với tình nhà,
Trong tâm khảm nặng tình yêu Tổ Quốc.
Nhưng
than ôi! Tài trai dầu thao lược,
Hùm thiêng kia không địch được bầy hồ.
Vì
sa cơ nên
bị bắt cầm tù,
Tan mộng đẹp
anh hùng đành thất thế.
Lũ giặc thấy người tài nên rất nể,
Đem quan sang tước trọng dụ Ngài hàng.
Quân bây lầm dầu dâng cả ngai vàng,
Khó lay chuyển vì lòng ta thờ cố quốc.
Hễ bắt được ta thôi chớ nói gì lâu,
Cứ đem chém ta không hề
than tiếc.
“Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương đất Bắc.”
Loại
cô hồn thứ ba được
triệu thỉnh là “bách quận danh thần” hay những
quan văn ngày xưa. Gồm những ông
tứ trụ triều đình, quan huyện, quan phủ v.v...
“Nhà châu quận xa lòng
phụ mẫu,
Chốn nước trời
theo dấu thần tiên.
Ôi thôi!
Chinh chinh biển loạn sông nghiêng,
Mờ mờ hồn bướm ly miền dương quan.”
Những ông
quan văn tay mềm chân yếu, nhưng khi phê bằng mực đỏ vào những
bản án của con dân là cả một sự khổ thân. Họ sống làm quan xa
gia đình chỉ có niềm vui rượu chè và
nữ sắc, nên
cần phải có nhiều tiên. Mà tiền đâu dễ có,
nếu không qua sự
đút lót. Do vậy chuyện đúng cũng có thể thành sai, chuyện sai cũng có thể thành đúng. Do vậy
ngày xưa và
cho đến nay hay mãi
cho đến đời sau nữa, gương xử án của Bao Công ở
Trung Quốc vẫn là bài học cho ngàn đời.
Mặc dầu thân ông đen đúa, nhưng lòng của ông
trinh bạch trắng tinh như tấm lụa đào. Còn nhiều ông quan mặt tuy trắng nhưng
lòng dạ thì đen đúa hơn quạ, diều hâu, cho nên chết xuống không đi
đầu thai được. Bây giờ phải
triệu thỉnh về để nghe kinh và nhờ
Phật lực gia hộ sẽ siêu sanh hoặc
đầu thai về cõi khác.
Loại
cô hồn thứ tư là những thư sinh học chữ Hán, sinh viên,
học sinh ngôn ngữ của nước mình. Đây là thỉnh “bạch ốc thư sinh”.
“Tan lửa đóm tiếc
dày công học,
Mòn đĩa nghiên uổng nhọc chí bền.
Ôi thôi!
Lụa hồng bảy thước đề tên,
Đất vàng một cụm lấp nền
văn chương.”
Ngày xưa việc tổ chức thi cử rất
rườm rà. Các sĩ tử ở
Ấn Độ chắc cũng phải thế, phải đi đến kinh đô nơi vua ngự mới có trường thi. Cho nên
Trung Quốc,
Việt Nam cũng không ra khỏi
định mệnh này. Trước khi đi thi phải dùi mài kinh sử, những mong chiếm bảng vàng để làm
rạng danh cha mẹ và quê hương, nhưng không ngờ đâu
công danh chưa tỏ rạng thì đã ra người
thiên cổ. Bên nấm mồ ở chốn kinh kỳ ấy chẳng ai hương khói. Cho nên bây giờ
triệu thỉnh về đây.
Không phải ai đi thi cũng thi đậu cả. Cho nên thi đậu là một
vinh dự lớn cho
bản thân mình. Riêng quê hương xứ Quảng Nam được xưng là xứ Ngũ Phụng Tề Phi là xứ
văn chương lỗi lạc. Đó cũng là nhờ năm 1898, cách đây hơn 100 năm, khoa thi Đình năm Mậu Tuất đời Thành Thái thứ 10 đã diễn ra ở Huế. Quảng Nam có 5 người đi thi thì 5 người đều đỗ đầu. Cho nên Vua Thành Thái mới phong cho
danh hiệu là “5 con phụng cùng bay” là vậy. Đó là:
-
Tiến Sĩ Phạm Liệu (1873-1937)
-
Tiến Sĩ Phan Quang (1873-1939)
-
Tiến Sĩ Phạm Tuấn (1852-1917)
- Phó Bảng Ngô Truân (1873-1899)
- Phó Bảng Dương Hiển Tiến (1866-1907)
Tuy đỗ cao, đỗ đầu như vậy nhưng
vẫn có người chết non mới 26 tuổi như Phó Bảng Ngô Truân. Ông Phó Bảng Dương Hiển Tiến cũng mới 41 tuổi. Còn 3 vị
Tiến Sĩ kia thì 64, 66 và 65, chưa ai lên được tuổi 70 để gọi là “thất thập
cổ lai hy”. Như thế
quả thật đường công danh tuy
rạng rỡ, nhưng nước nhà đang tao loạn, các ông cũng khổ nhọc với dân sinh, nên có lẽ vì thế mà tuổi thọ không cao chăng?
Loại
cô hồn thứ năm là các vị
tăng ni, được gọi là “xuất trần thượng sĩ”, câu thỉnh được các
pháp sư gia trì cũng như các vị
kinh sư xướng lên từng 2 câu như sau:
“Cửa kinh trăng thảm
lạnh lùng,
Nhà Thiền
leo lét đèn chong canh dài.”
Và:
“Không đàm
bí mật chơn thuyên
Nói về chuyện khổ chẳng
chuyên tu hành.”
Khi đi
xuất gia, ai cũng mang
chí cao nguyện cả để
lập thân lập hạnh, nhưng khi vào chùa thì nghiệp cũ trong
vô lượng kiếp đã nối tiếp
hiện ra, nên khi ngồi bên song cửa để xem kinh sách thì
chuyện đời xưa đã hiện về, trông vẻ
thê lương ảm đạm, gợi nhớ tình xưa, bây giờ lại
chiếc bóng. Miệng thì nói chuyện
bí mật tánh không, khổ,
vô thường, nhưng chính mình lại đang bị cái
ái nhiễm, cái không ấy nó
hành hạ. Do đó khi chết xuống chẳng
siêu thoát. Do
vậy mà đây cũng là cơ hội để
triệu thỉnh họ về để nghe kinh, lắng sâu niềm
tục lụy nhằm
giải thoát kiếp luân hồi này.
Đến loại
cô hồn thứ sáu là những
huyền môn,
đạo sĩ, những người luyện
linh đơn, hay những loại tu theo
ngoại đạo phạm chí, những người
bói toán,
thiên văn địa lý. Chuyện của người thì rõ, nhưng chuyện của mình thì không. Ai hỏi đến mình thì chỉ có câm lặng, hoặc nói trớ đi việc khác.
Ôi thôi!
Lò
hương lâm quán lạnh sương,
Tiêu đàn gió lạnh thổi tàn hạnh hoa.
Ấn Độ ngày xưa và ngay cả
cho đến bây giờ
vẫn có rất nhiều người tu theo những đạo
mê tín cũng như bên
Trung Quốc hay
Việt Nam. Do
vậy mà đây cũng là cơ hội để nhắc nhở cho họ
quay về nẻo thiện.
Hạng
cô hồn thứ bảy là
thương gia lữ khách, những người đi buôn xuôi bán ngược để kiếm lời, rồi bị
chết oan khiên ở
dọc đường, không có người hương khói. Câu
triệu thỉnh được nhắc rằng:
“Thân sương gió thịt chôn bụng cá,
Bước đá mây xương rã đường đê.
Ôi thôi!
Vía theo mây bắc sề sề,
Hồn theo ngọn nước xuôi về biển đông.”
Đây cũng là hạng ra khơi chết biển chìm thuyền. Chẳng thấy được quê hương cố quốc. Do vậy nhờ những lời
triệu thỉnh này mà hồn oan sẽ đến
đàn tràng nghe kinh để siêu sanh
giải thoát.
Hạng
người thứ tám là chiến sĩ trận vong. Đây là những người: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.” Cho nên khi có lệnh gọi là đã khăn gói
lên đường. Ngày đi thì có ngày về lại không. Câu
triệu thỉnh được xướng lên rằng:
“Cờ điều phất ngọn tương tranh,
Trong chòm mũi bạc đem mình chống đương.
Gan ruột nát theo trường
kim cổ,
Da thịt rơi đầy chỗ
can qua.
Ôi thôi!
Cát vàng văng vẳng tiếng ma,
Mờ mờ xương trắng ai mà nhặt cho.”
Quả thật là thế! Vốn tự ngàn xưa
cho đến nay đã có không biết bao nhiêu cuộc chiến chinh như thế mà có không biết bao nhiêu người trai trẻ đã ra đi chiến đấu rồi gởi thân nơi chiến trường. Chết rồi chẳng có ai chôn, nên xương phơi như thế. Do vậy
cô hồn sẽ theo lời
triệu thỉnh này mà về đây thọ thực, nghe kinh.
Hạng thứ chín là những sản phụ khi sinh con
chẳng may chết cả mẹ lẫn con. Nên cũng thỉnh về đây để nghe kinh
giải thoát.
“Vần
cung phụng phút chường hung kiến,
Tuồng ngõa chương rơi rớt
mẹ con.
Ôi thôi!
Nhành hoa nở trận mưa tuôn,
Đương khi trăng tỏ gặp luồng mây xâm.”
Trong kinh
Báo Ân Phụ Mẫu và
kinh Vu Lan Bồn,
Đức Phật cũng đã dạy rõ điều này và khi sinh con ra chẳng có
cha mẹ nào chẳng thương, chẳng lo dạy dỗ, nhưng khi sinh ra mà bị
chết oan như thế thì quả là một
nghiệp chướng của nhiều đời chẳng nhẹ chút nào.
Hạng
cô hồn thứ mười là những kẻ điếc, đui, câm, ngọng, tôi tớ, nô tỳ bị chết trong khi đang làm việc cho chủ của mình.
“Cần lao thất mạng thương nô,
Đố kị thương thân tỳ thiếp.
Khinh
Tam Bảo tội dường cát bãi,
Nghịch
song thân ác dẫy
cõi người.
Ôi thôi!
Đêm trường
thăm thẳm bóng ma,
Cửa mù
thui thủi như tòa bóng đêm.”
Khi còn sống thì tránh cha lánh mẹ để
lập thân, nhưng
chẳng may rơi vào chốn lầu hồng, rồi làm vợ lẽ cho người ta. Đôi khi cả câm, cả ngọng và điếc, đui, mù nữa. Tội ấy là do đời trước
phỉ báng Tam Bảo mà đời này lại cũng chẳng có
lòng tin, nên mới ra nông nỗi ấy.
Hạng thứ mười một là
cung phi mỹ nữ. Có nhiều người con gái đẹp bị tiến cung, nhưng
suốt đời chẳng được vua
đoái hoài đến, nên nhiều khi đã tự tử. Hồn oan ấy vẫn còn
vất vưởng đâu đây.
“Hồn vân vũ tan vườn kim cốc,
Ruột
trăng hoa héo dọc Mã Ngôi.
Ôi thôi!
Phong lưu ngày trước đâu rồi,
Xương khô lạnh lẽo trên chồi cỏ cây.”
Khi Hoàng Hậu nghe xướng những câu như thế, lạnh cả đến tóc gáy của mình. Vì khi nghĩ đến số phận của những
nhi nữ trong cung cấm của mình. Chỉ có chánh cung Hoàng Hậu là được cận kề bên vua, chứ còn những
cung phi khác thì số phận của họ oan nghiệt biết
chừng nào. Hoàng Hậu nghĩ đến họ mà giọt vắn giọt dài, châu sa đẫm lệ.
Hạng
cô hồn thứ mười hai cũng là hạng
cô hồn cuối cùng thời đó, là những người đi
xin ăn, tù nhân
bị án tử hình, bị
thú dữ ăn thịt,
ngộ độc,
tự sát, tai trời, ách nước v.v... cũng được
triệu thỉnh về đây tất cả.
“Lại thỉnh kẻ cơ hàn khất cái,
Cùng tù nhân mang phải
trọng hình.
Gặp tai nước lửa hại mình,
Hoặc vương hùm sói tan tành
thịt xương.”
Đó là tất cả những loại
cô hồn cần phải mời thỉnh về với
đàn tràng chiêu mộ và
cuối cùng vị
Gia Trì ngồi giữa đọc rằng:
“Tôi nay thừa
oai thần chư Phật, xin mời tất cả
quỷ thần trong
ba nẻo sáu đường. Nguyện cho tất cả các
bộ loại quỷ thần nhờ
năng lực Như Lai, vào giờ này được
hấp thụ pháp vị cam lồ ngon nhất của Phật,
ăn uống no đủ,
phát tâm Bồ-đề
xa lìa tà hạnh. Nhờ vậy không còn phải
luân hồi trong các
ác đạo,
ba nghiệp thân, miệng,
ý thanh tịnh,
chứng đạo Bồ-đề.”
Sau đó vị
Gia Trì tiếp tục khai thị cho
cô hồn về
chân lý nòng cốt của Phật là:
“Tất cả các
đau khổ tội ác đều do
vô minh,
ái nhiễm mà ra. Ánh sáng
từ bi của Phật chiếu cùng khắp, như
mặt trời không
soi sáng cho riêng ai, chỉ tại người mù không thấy. Bây giờ hãy
từ bỏ vô minh cố chấp, nương theo ánh
từ quang của Phật, tức thì
được giải thoát khỏi các đường dữ.”
Đó là những lời khai thị của vị
Gia Trì. Hôm đó
chắc chắn rằng các
cô hồn đêu được
lợi lạc. Riêng
Đức Phật,
Pháp thân vẫn còn đó nên đã chứng biết cho
việc làm của Vua A-dục và Hoàng Hậu. Đây là lần đầu tiên mà một Đại
Trai Đàn Chẩn Tế như thế được
thực hiện kể từ khi
Đức Phật thị hiện ra đời.
Hoàng Hậu và Đức Vua sau khi dự
Đại Lễ Trai Đàn Chẩn Tế về thì
an lạc vô cùng và trong triều ngoài nội, nơi nơi đều loan tin
tán dương đức độ của Vua cũng như Hoàng Hậu, không những đã lo cho người sống mà còn lo cho người chết nữa.
Thế nhưng trong triều cũng có những vị cận thần ngầm ý không thích
Phật giáo lắm, như Đại Thần
Da Xá chẳng hạn. Ông ta theo Bà-la-môn giáo, nên một hôm ở giữa triều ông ta đã tâu rằng:
- Muôn tâu Thánh Thượng! Ngài là một bậc vua
nhân từ đức độ. Từ lâu nay
trong lịch sử Ấn Độ chúng ta chưa có vị nào như Đức Vua, nhưng hạ thần thấy Ngài quá
cung kính chư Tăng, nhiều khi
đảnh lễ thái quá và lúc nào cũng chỉ có
đạo Phật. Còn những đạo khác thì không
quan tâm.
Đức Vua giơ tay ra
tỏ ý ngăn chặn câu nói của
Da Xá và nói:
- Ta đã
hiểu ý ngươi. Nhưng việc ấy thì có sao đâu?
- Bệ Hạ là bậc
đứng đầu trong
thiên hạ. Cái đầu của Bệ Hạ cao quý hơn cả. Tại sao Bệ Hạ lại đi lạy những kẻ ăn xin, không
gia đình ấy, làm cho chúng hạ thần rất khó xử.
Đức Vua nghe xong
trầm ngâm không nói lời nào. Một hồi lâu Vua A-dục ra lệnh:
- Các khanh hãy nghe đây! Đúng vào 8 giờ sáng mai khi lâm triều tất cả các quan đều
mang đến cho ta một cái đầu của
súc vật. Đầu con gì cũng được. Ví dụ như đầu trâu, đầu bò, đầu chó v.v... Riêng
quan Đại Thần Da Xá mang đến cho ta một cái đầu người.
Mọi người khi nghe vua phán xong đều
tiu nghỉu rụng rời, không biết tại sao hôm nay Vua lại ra lệnh như thế.
Thế rồi ngày mai đúng hẹn,
mọi người lục tục kéo nhau đến triều như những lần khác, nhưng lần này trên tay của các quan thì nặng thêm một vật. Nếu ai đó
cố ý xem thì sẽ thấy có nhiều đầu con vật mà máu me còn đẫm ướt, trông thật
tội nghiệp. Đoạn tất cả họ đều vào triều nội. Rồi một
vị quan văn tâu:
- Muôn tâu Thánh Thượng! Đúng như lời dạy của Đức Vua hôm qua, hôm nay chúng hạ thần đã
mang đến mỗi người một cái đầu con vật...
Vua
tỏ ý vừa lòng và nhác trông qua
Da Xá hất hàm hỏi:
- Còn Đại Thần
Da Xá thì sao?
- Bệ Hạ vạn tuế, hạ thần vẫn y lệnh.
- Tốt lắm! Tất cả các ngươi hôm nay khỏi lâm triều mà
mọi người hãy mang tất cả đầu những con vật ấy ra chợ bán đi, kể cả cái đầu người của
Da Xá.
Sau khi bán xong, kẻ được nhiều, người được ít, ai ai cũng
thong thả về lại cung điện. Riêng
Da Xá thì không. Hạ giá đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng chẳng có ai dám đến để hỏi mua cái đầu người kia. Thế rồi đến buổi tan chợ,
Da Xá cũng phải mang cái đầu người ấy về triều. Vua A-dục thấy vậy chẳng nói gì và bảo
Da Xá ngày mai hãy mang ra chợ
tiếp tục bán nữa. Rồi ngày mốt ngày kia chẳng có ngày nào bán được, mà cái đầu người ấy mỗi ngày càng hôi thối thêm hơn.
Da Xá muốn bỏ đi. Nhưng bỏ chẳng được. Vì sợ lệnh
phạm thượng khi quân.
Cuối cùng rồi
Da Xá cũng tâu với Vua rằng:
- Muôn tâu Thánh Thượng! Có lẽ cái đầu người này không thể bán được.
- Tại sao vậy?
Vậy thì cái đầu người sau khi cắt rời khỏi thân xác rồi, có còn
giá trị gì chăng? Có bằng đầu những
súc vật kia chăng?
- Thật quả chẳng bằng. Tâu Bệ Hạ.
-
Vậy thì tại sao ngươi không cho ta
đảnh lễ chư Tăng? Cũng cái đầu ấy, nhưng được
phước đức vô cùng. Ngươi có hiểu điều ấy chăng?
- Bệ Hạ dạy
quả thật quá đúng, nhưng hạ thần lâu nay vì
cố chấp, vả lại cũng không phục những vị Tăng, nên mới có ý khuyên Bệ Hạ như thế. Nào ngờ...
- À! Đúng rồi. Chắc ngươi nghĩ rằng
chư Tăng Ni là những kẻ không có công ăn
việc làm nên mới đi
xin ăn chứ gì? Đâu phải vậy, mà trong đó có cả những bậc
Hoàng thân quốc thích nữa kia mà! Ngay cả
Thái Tử Mahinda và
Công Chúa Sanghamita con trai và con gái ta đó, đâu có
nghèo khó gì. Có thể ở đời, sống cuộc sống đế vương,
quá dư thừa, đâu
cần phải đi khất thực?
Khất thực là một hạnh của người tăng sĩ, đâu phải là một
việc làm không
ý nghĩa. Nếu vậy, ngươi có thể đi xin một ngày thử
xem sao.
Nghe đến đó Đại Thần
Da Xá đã giãy nảy lên và lấy hai tay khoa khoa như có ý không thể
thực hành được và tâu:
- Muôn tâu Thánh Thượng! Như thế cũng đã đủ lắm rồi. Xin Bệ Hạ đừng
đày đọa hạ thần này nữa. Nhọc lắm cho tấm thân già này.
- Thế thì từ nay
trở về sau, nếu ngươi thấy ta làm một việc
phước đức gì, nhất là việc
cúng dường và
đảnh lễ chư Tăng v.v... không được phép bàn ra tán vào. Đã không thi lễ thì thôi. Hãy đừng “cản duyên thiện sự”. Đó là việc cao quý mà.
Tốt hơn cái đầu, khi nó bị đem đi bán mà chẳng được.
- Muôn tâu Thánh Thượng. Đó là một bài học
luân lý mà hạ thần sẽ ghi nhớ
suốt đời, không bao giờ dám
tái phạm. Kính mong Bệ Hạ
đại xá cho.
- Ta sẽ không đề cập đến
vấn đề này nữa.
Từ đó trở đi trong triều ngoài nội
đâu đâu cũng lo làm phước,
bố thí cúng dường. Người nghèo thì được nhà Vua và Hoàng Hậu giúp đỡ. Các quan lại ít tham ô hơn. Thuế má ít đánh nặng lên đầu lên cổ dân chúng, khi bị hạn hán, đói kém
mất mùa. Vì Vua đã đem
đạo từ bi của Phật dạy ra
áp dụng cho trong triều ngoài nội, nên mới được vậy.
Quả thật từ sau khi
Đức Phật giác ngộ đến nay đã hơn 350 năm chưa có một vị vua nào
áp dụng triệt để đạo đức học,
luân lý học được
hoàn hảo như thế.
Một cuộc sống
thanh bình an lạc của
nhân dân Ấn Độ đã kéo dài
tiếp theo đó hàng mấy trăm năm,
mặc dầu Đức Vua A-dục đã băng hà.