Đời người không dài lắm, nhiều lắm cũng chỉ đến trăm năm là cùng. Trong trăm năm đó nếu chia ra làm 3 hay bốn giai đoạn và mỗi giai đoạn là 33 năm hay 25 năm thì thử nhìn lại xem ta đã được những gì?
Giai đoạn đầu và
giai đoạn cuối thật ra ít có người nào làm được chuyện gì cho hữu ích. Vì lẽ lúc trẻ chỉ tốn “cơm cha, áo mẹ, chữ thầy”, chưa
đủ khả năng để làm được gì. Còn lúc già rồi thì “lại như con nít”, bệnh tật, lú lẫn, điếc v.v... chỉ có báo khổ những người trong
gia đình, chứ nào có ích chi?
Vậy thì thời gian ở khoảng giữa của tuổi thọ ấy, ta đã làm gì được cho ta và cho người khác?
Tôi tự chia
cuộc đời mình ra làm 4 giai đoạn, nhưng không phải ở tuổi một trăm năm, mà ở tuổi 70 thôi.
Thời gian đầu đi học,
thời gian thứ hai ra làm việc,
thời kỳ thứ ba
nhập thất, viết sách,
dịch kinh,
ở ẩn và
thời kỳ cuối đời
niệm Phật để
cầu vãng sanh. Không biết chia như thế có lẩm cẩm không, chứ riêng
cá nhân mình thì tôi đã hướng cái hướng đi ấy phải được
thực hiện như thế.
Năm 1989, trong khi
xây dựng chùa
Viên Giác tại Hannover Đức quốc, tôi cũng đã
trải qua nhiều
thử thách gian nan.
Mặc dầu năm nào cũng
an cư kiết hạ,
lạy Phật trong 3 tháng và ngày nào cũng dậy sớm lúc 5 giờ 30 phút và cùng
đại chúng lên
chánh điện lúc 5 giờ 45 phút để
ngồi Thiền và trì tụng
Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, hầu
như không thiếu một ngày nào, nhưng
tự lực yếu quá nên
gánh vác việc
xây dựng ấy khó khăn.
Bỗng đâu có Thầy
Huyền Diệu xuất hiện và Thầy ấy có khuyên là tôi nên đi
Ấn Độ một lần để có thêm lực
gia trì từ chư Phật.
Ban đầu tôi vẫn còn chần chừ. Vì nghĩ rằng chùa đang xây
dang dở, không ai
trông nom. Phần khác thì tài chánh
lúc ấy cũng eo hẹp. Nhưng
cuối cùng rồi tôi cũng đã
liên lạc được với
Hòa Thượng Minh Tâm trụ trì chùa Khánh Anh ở Paris Pháp quốc để cùng đi.
Lúc ấy,
Ấn Độ đối với tôi sao mà xa xôi quá.
Nghèo đói, bẩn thỉu, bệnh tật v.v... làm cho tôi nản lòng. Mới đặt chân xuống phi trường New Delhi đã thấy
nóng bức, khó chịu. Mẫu điền đơn nhập cảnh phải khai đến tên ông nội, bà nội của mỗi người. Chắc chưa có một
quốc gia nào trên
thế giới như
Ấn Độ thuở ấy cả. Đi từ New Delhi xuống nhà ga Gaya bằng xe lửa phải mất hơn 20 tiếng đồng hồ, dơ nhớp, bụi bặm và phải chen chúc với người là người,
đặc biệt là những người ăn xin.
Bước đầu tiên ấy tôi đã chê
liên tục, làm Thầy
Huyền Diệu cứ động viên hoài.
Rồi một sáng tinh sương
cuối năm 1989, nghĩa là cách Phật
Nhập Diệt cũng đã gần 2.500 năm,
Hòa Thượng Minh Tâm, tôi và Thầy
Huyền Diệu có mặt nơi chùa
Việt Nam và sau đó Thầy ấy dẫn sang
Đại Tháp Bồ-đề, nơi
Đức Phật đã
giác ngộ. Sau khi tụng một thời kinh ngắn và xướng lạy
đảnh lễ nơi
Kim Cương Tòa và cây bồ-đề,
chúng tôi vào bên trong để cụng đầu mình vào gốc cây.
Hòa Thượng Minh Tân bật khóc nức nở mà
bình thường tôi
chưa bao giờ thấy điều đó. Rôi đến phiên tôi
cũng thế, nước mắt lưng tròng. không biết là khóc thương cho số phận của mình hay vì
cảm động khi đến nơi Thánh Địa? Có lẽ cả 2
lý do ấy chăng? Cho nên những nơi có lưu
dấu chân Phật, gọi là
Thánh địa và Động tâm cũng đúng thôi.
Tôi ngồi chờ nhặt những lá bồ-đề rơi rụng để đem về làm quà cho quý cô, quý chú và quý
Phật Tử tại chùa. Tôi ngồi đấy lâu lắm, để
chiêm nghiệm lại
cuộc đời Đức Thế Tôn. Rồi sau đó Thầy
Huyền Diệu hướng dẫn
chúng tôi đến trước một
Thánh Tượng Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát, nằm trên tường
Đại Tháp,
đối diện với cây Bồ-đề. Thầy
Huyền Diệu bảo rằng: “Quý vị nên lập một
lời nguyện rồi đứng cách xa tượng chừng 12 thước, nhắm mắt lại rồi
đi thẳng. Nếu
lời nguyện sẽ được
thành tựu thì quý vị sẽ
đi thẳng đến được giữa tượng.
Nếu không thành tựu thì một dẫn lực sẽ đưa quý vị đi lệch sang trái hoặc sang phải. Xin quý vị làm trong sự
thành tâm.”
Tôi nghe thế như cởi mở được tấm lòng. Vì về đất Phật lần này tôi chỉ có 3
lời nguyện thôi. Nếu những nguyện ấy mà không thành thì tôi cũng chẳng biết phải làm sao.
Lời nguyện thứ nhất là xin
Bồ Tát gia hộ cho con làm sao cho ngôi chùa
Viên Giác xây xong
trọn vẹn.
Lời nguyện này tôi đi đúng ngay giữa tượng.
Lời nguyện thứ hai là cho con đầy đủ
nghị lực để đi suốt
con đường tu của mình.
Lời nguyện này dẫn lực cũng đã đưa tôi
đi thẳng đến tượng.
Lời nguyện thứ ba là “xin cho những chướng duyên
phiền não đừng đến với con”, thì sau khi nhắm mắt bước đi, chân tôi tự động bị dẫn lệch về phía bên trái của
tôn tượng. Tôi không buồn, nhưng biết rằng
cuộc đời tu hành của mình chắc cũng còn nhiều phong ba bão táp lắm.
Mặc dầu đã nghiệm lại rằng mình chẳng gây ra cho ai khổ đau thì mình làm sao gặt những quả xấu được. Thế nhưng có lẽ quả đâu của
kiếp trước còn sót lại, nên chuyện “cứu vật vật
trả ơn, cứu nhơn nhơn trả oán”, tôi cũng đã bị vấp phải khoảng 15 năm sau đó. Đúng là việc ấy tôi chẳng chờ đợi, nhưng phải
chấp nhận thôi. Vì bên mình, tôi đã có luận
Bảo Vương Tam Muội giúp rồi. Tôi
vui vẻ trả quả và
chấp nhận trả quả nếu còn dư lại ở đời trước và
sám hối tội lỗi của mình trong nhiều kiếp đã gây nên. Thế là tâm tôi
thanh tịnh, chẳng có
phiền não nào có thể làm cho tôi khó chịu cả.
Lần đó tôi và
Hòa Thượng Minh Tâm được Thầy
Huyền Diệu hướng dẫn đi hết
Tứ Động Tâm cũng như Vườn ông
Cấp Cô Độc, nền nhà của chàng
Vô Não v.v... Có đi đến Lam-tỳ-ni nữa, nhưng lần ấy ít giờ quá
chúng tôi không đi thăm Cung Thành Ca-tỳ-la-vệ và dòng sông A-nô-ma. Trong ý đinh ninh rằng đã lỡ một cơ hội.
Sau khi đi
Ấn Độ về tôi
bị cảm nắng, cảm sương. Vừa ngồi viết quyển “Lòng Từ Đức Phật” mà vừa chùi nước mũi
liên tục trong mười mấy ngày mới viết xong quyển ấy. Trong đó tôi cũng đã
diễn tả những cảnh khổ, khó nhọc, dơ nhớp của xứ
Ấn Độ, nên ai đọc đến cũng ngán, không dám đi
Ấn Độ nữa và tôi cũng có viết là sẽ không bao giờ đi
Ấn Độ lần thứ hai. Thế nhưng
đến nay (2004) tôi đã đi thêm 6 lần và
dĩ nhiên từ đây về sau còn nữa, chứ không phải chỉ chừng ấy lần mà thôi. Vậy do đâu mà như thế? Xin
trả lời đơn giản là “phép Phật nhiệm mầu”.
Không phải chỉ riêng mình tôi, mà bao nhiêu người khác đi
Ấn Độ cũng vậy, không phải chỉ
một lần mà đã đi nhiều lần như thế. Hỏi họ tại sao thì mỗi người
trả lời mỗi cách, nhưng chung quy là không có phép nhiệm mầu nào hơn phép Phật cả.
Sau này có Hạnh Tấn và
Hạnh Nguyện ở
Ấn Độ, tôi cũng đã tổ chức mấy chuyến
hành hương nữa để quý Thầy ấy hướng dẫn đoàn và lần ấy của năm 1994 tôi quyết phải đi thăm dòng sông A-nô-ma cho được. Vì từ nhỏ trong
Gia Đình Phật Tử Hà Linh ở xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam nơi tôi sinh ra và đã
sinh hoạt từ năm 1958 đến năm 1964, đêm rằm và mồng một nào
chúng tôi cũng
quây quần dưới ánh trăng hay dưới ngọn lửa hồng để
sinh hoạt, chơi Morse, hát ca. Trong đó có
bài hát Dòng A-nô-ma như sau:
“Dòng A-nô-ma sóng nhấp nhô bờ lau xanh
Nhìn dòng nước biếc Thích-ca Ngài lòng
vững bềnThôi đi con hãy về để ta vui ánh vàng
Ta đã quyết tìm đạo sáng cứu
chúng sanhA-nô-ma vẫn còn nhớ ghi
gương sáng ngời
Nơi Lam-tỳ-ni vườn ghi bao ngày vui.
Thành Ca-tỳ-la sống yên vui đời
Tịnh VươngNgười người
sung sướng Thích Ca Ngài vừa ra đời
Muôn chim hót mừng đóa
hoa thơm ngạt ngào
Muôn
hào quang ngời rạng chiếu khắp núi sông
Cây vô ưu đến nay chúng sanh luôn nhớ hoài... ”
Đại khái là như vậy. Các
Gia Đình Phật Tử Việt Nam đang
sinh hoạt tại các châu lục vẫn còn đang hát bài này. Nếu ai đó cần
xem lại thì giở những bản nhạc ra sẽ tìm được nguyên bài. Riêng tôi chỉ nhớ vậy và từ ấy
đến nay cũng gần 50 năm rồi, đâu có ít ỏi gì. Rồi sau này tôi có xem một tấm hình của
Đức Bổn Sư trước khi đi
xuất gia, bỏ lại vòng vàng xuyến ngọc cũng như
Công Chúa Da-du-đà-la phía sau mình. Dưới tấm hình ấy có ghi câu tiếng Đức là: “Alles verlassen, um alles zu haben”. Nghĩa là: “Xả bỏ tất cả, sẽ được tất cả”. Trông tấm hình rất đẹp và đã để lại nơi
tâm thức của tôi nhiều
ý nghĩa hay ho.
Bây giờ tôi đã đứng nơi cung thành Ca-tỳ-la-vệ rồi. Đường đi từ Lam-tỳ-ni vào đây khá
vất vả. Không biết ngày trước
Thái Tử đi xe ngựa, chắc cũng chỉ vậy thôi chứ bây giờ không khá hơn được mấy.
Chúng tôi được
giới thiệu với một số người thuộc
dòng họ Thích-ca vẫn còn sống nơi đó và khi vào bên trong Cung Điện, chỉ còn trơ
nền móng. Về phía đông có ghi mấy hàng chữ bằng tiếng
Ấn Độ và tiếng Anh là: “Nơi đây
Thái Tử Siddharta đã vượt thành
xuất gia tìm đạo.” Đến đây để nhớ lại người xưa như Bà Huyện
Thanh Quan vào cuối thế kỷ thứ 18 đã có bài thơ nhan đề là Thăng Long Thành
Hoài Cổ:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi
kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống
đoạn trường.”
Ngày ấy cách đây đã 2.500 năm rồi. Nơi đây
thuở ấy là lầu đài cung điện, có
cung phi mỹ nữ, có những
cuộc vui thâu đêm suốt sáng, nhưng giờ đây đâu còn lại được gì. Tôi cảm nhận được cái
vô thường của
nhân thế và tang thương của
cuộc đời.
Quả thật chẳng ai ngờ. Nếu
ngày xưa Thái Tử Tất Đạt Đa chỉ bằng lòng với
vị trí làm vua thì ngày nay đâu có ai nhọc công đến đây để mà tìm dấu vết. Nếu có chăng cũng chỉ là người
Ấn Độ. Nhưng Ngài đã
quyết chí ra đi tìm đạo, nên
con người ấy ngày nay là
con người của
thế giới chứ không phải chỉ có riêng
biên cương Ấn Độ mà thôi. Do đó có không biết bao nhiêu đoàn
hành hương đã về đây để tìm lại dấu xưa.
Khi tôi hỏi người hướng dẫn - người
Ấn Độ - là sông A-nô-ma ở đâu, thì anh ta có vẻ ngơ ngác. Hình như anh ta chẳng biết con sông này, nên khi hỏi một người lớn tuổi hơn, đang làm
nhiệm vụ khai quật
cổ tích tại đó, thì ông ta chỉ về hướng bắc của cung thành và bảo là ở đó. Nhưng giờ đây chỉ có những thửa ruộng với mạ non xanh rờn, đâu còn thấy “sóng nhấp nhô” nữa? Nhưng
chúng ta đoán chắc một điều là dòng sông ấy không xa cung thành Ca-tỳ-la-vệ là bao và phải là hướng nam chứ không thể hướng bắc của dãy
Hy Mã Lạp Sơn được.
Tiện đây xin chép lại bài thơ về
cuộc đời của
Đức Phật, chẳng biết ai
sáng tác và tự bao giờ, không có tên
tác giả và cũng chẳng biết là tôi đã thuộc tự thuở nào. Có lẽ là trước khi đi
xuất gia (1964) để
mọi người cùng thưởng lãm. Nếu được cứ
học thuộc lòng chứ bài này ít thấy đăng trong sách báo nào nữa cả:
“Ngày mồng tám vang lừng trên
thế giới,
Cả
chúng sanh kỷ niệm Đấng cha hiền.
Ngài là một Đấng
Thiêng Liêng,
Con Vua
Tịnh Phạn tên là
Đạt Đa.
Ca Tỳ La Vệ quê nhà,
Sanh ngày mồng tám chính là tháng tư.
Ngài là đáng bậc Bổn Sư,
Chẳng ham phú quý không màng
giàu sang.
Nào là điện ngọc ngai vàng,
Cung phi mỹ nữ và nàng Da-du.
Ngài
xem như đám sương mù,
Như dây
ràng buộc cuộc đời của ta.
Thà rằng
lỗi đạo mẹ cha,
Giã con từ vợ quyết ra
tìm đường.
Ngài cho
vạn vật vô thường,
Hôm qua còn đó nay thì mất đi.
Cảnh đời
mãi mãi sầu bi,
Không sao
thoát khỏi phạm vi luân hồi.
Sanh già bịnh chết ai ôi,
Công danh phú quý cũng qua một thời.
Ngài khuyên tất cả ai ơi,
Càng cao
danh vọng càng dày
gian nan.
Cho hay hoa nở rồi tàn,
Pháo kia nổ lớn lại tan xác nhiều.
Thế rồi Ngài quyết một điều,
Thoát vòng
tục lụy dắt dìu
chúng sanh.
Nửa đêm vắng vẻ cung thành,
Ngài cùng Xa-nặc
đồng hành xuất gia.
Đến nơi dòng nước Nô-ma,
Ngài thề cắt tóc để mà đi tu.
Đêm khuya vắng vẻ mịt mù,
Nhờ về báo lại Da-du, Phụ Hoàng.
Nói rằng ta quyết một đàng,
Tìm đường giải thoát cứu đời
chúng sanh.
Rồi Ngài lên núi
một mình,
Ra công
tu luyện chịu đời
gian nan.
Biết bao nông nỗi cơ hàn,
Vùi thân sương gió một đàng mà tu.
Hằng ngày ra sức
công phu,
Tham thiền nhập định gốc cây bồ-đề.
Mai sau Ngài mới
trở về,
Để cùng
hóa độ dắt dìu
chúng sanh.
Thị thành
cho đến xóm làng,
Vui lên đón lấy đạo vàng
Thích Ca.
Nghe theo lời dạy người cha,
Cứu người ra khỏi đường tà sông mê.
Chúng sanh thành kính quay về,
Nương theo
giáo lý một bề
tu thân.
Ngài gieo khắp hết
xa gần,
Thế là Ngài thọ tuổi trần tám mươi.
Chúng sanh hớn hở reo cười,
Đón chào kính lạy người cha
hiền lành.”
Đứng ở cửa Đông nơi
Thái Tử vượt thành, tôi cũng nhớ lại mấy câu đối thoại trong một vở kịch nhan đề là “xuất gia” kể chuyện của
Thái Tử mấy mươi năm về trước.
Thái Tử sau khi
đánh thức người giữ ngựa
Kiền Trắc là Xa-nặc dậy thì trong cơn
mơ màng xa-nặc hỏi rằng:
- Trời tối
nhân gian mờ mịt quá,
Giờ này
Thái Tử định đi đâu?
- Ta phải đi
tìm ra ánh đạo,
Cứu
chúng sanh mù mịt muôn màu.
Vâng! Đúng thế! Chính vì
nhân gian,
thế thái nhân tình đang vui say nơi bãi danh mùi lợi, nên
Thái Tử phải ra đi. Đi để tìm
chân lý, đi để ánh đạo được rạng ngời.
Bài hát “Đêm đã đến rồi”
cũng thế, đã thúc giục
chí hướng xuất trần của
Thái Tử:
“Đêm đến
đã lâu rồi!
Đêm nay nơi
hoàng cung, chí
xuất trần Ngài đã quyết.
Lòng vì bao
chúng sanh, quyết
hy sinh đời
cấm cung...”
Những
bài hát như thế làm cho
tuổi trẻ của
chúng tôi đã say mê và bây giờ về lại quê cha thấy
bùi ngùi cảm động quá. Không biết có
nhân duyên gì mà đã được bao lần đi, rồi bao lần đến. Đến đây để gục đầu vào
Kim Cương Tòa, vào cội bồ-đề, gục đầu khóc nức nở như đứa trẻ lên ba khi lỡ phạm một
lỗi lầm gì. Những giọt nước mắt ấy đã đổ ra nơi thành Câu-thi-na, khi thấy
hình ảnh của
Đức Phật đang
nhập diệt. Đã có không biết bao nhiêu người khóc như thế, từ những bậc
chân tu cho đến những người mới biết
Đạo Phật lần đầu tiên. Từ những ông
bà già cho đến những em
Phật tử theo ba mẹ về
chiêm bái xứ Phật. Đến đây rồi, ai cũng khóc.
Chính nơi ấy, nơi
Đức Phật thành đạo, ngày nay
hằng ngày vào
mùa đông cũng như
mùa hạ, có hàng trăm, hàng ngàn vị tăng sĩ và
cư sĩ đảnh lễ “tam bộ nhứt bái” quanh tháp và cây bồ-đề. Hay có những vị lạy cả 1.000 đến 3.000 lạy mỗi ngày bằng lối
ngũ thể đầu địa. Nghĩa là đứng lên lạy xuống, đầu, mặt cùng
tứ chi, cả
năm vóc đều
sát đất. Cả người
Ấn Độ lẫn người
Phật tử Tây phương, cả người Thái lẫn người
Tích Lan, ai đến đây cũng chỉ có một
niềm tin. Người thì mặc áo vàng, kẻ mặc áo nâu, người
dâng hương, kẻ
dâng hoa, người gục đầu vào tường thành tháp để kể lễ, người đi trì bình
khất thực trong
Đại tháp.
Cứ ngồi lặng yên chừng một tiếng đồng hồ nơi
Đại tháp này thì ta thấy mọi
sinh hoạt được diễn ra một cách nhịp nhàng.
Thỉnh thoảng có những ông lớn tới, họ cũng là
Phật tử, nhưng là những yếu nhân nên được
bảo vệ cẩn thận. Họ là
chư Tăng đến từ Thái Lan và
Phật tử hôm đó dâng y Kathina cho cả hàng 500 vị. Họ là những
thí chủ thuần thành đến từ
Việt Nam,
Đại Hàn,
Nhật Bản,
Đài Loan v.v... có người đến đây rất sớm. Từ 3 giờ sáng,
cửa chính Đại tháp đã được mở. Có người xin
ngồi thiền suốt đêm trong khuôn viên
Đại Tháp. Có người
tham dự buổi lễ định kỳ của
chư Tăng Nam Tông đang
trông coi tháp từ 5 giờ 30 đến 6 giờ sáng. Từ 6 giờ sáng
cho đến 7 giờ sáng là giờ mở cửa gốc bồ-đề, nơi
Kim Cương Tòa, bất cứ ai cũng có thể vào
đảnh lễ. Buổi tối, sau thời
kinh chiều, người ta mở cửa gốc cây bồ-đề
một lần nữa từ 19 đến 20 giờ.
Ngày xưa người ta còn cho đốt nến chung quanh
Đại Tháp và trong nhà đốt nến của
Tây Tạng gần cây bồ-đề, nhưng nay thì không còn nữa. Vì các nhà
thực vật học sợ
tổn hại cây bồ-đề, cho nên đã dời nhà đốt nến ra phía sau gần hồ cá, nơi có tượng
Đức Phật đang
tham thiền có Thần Long
che chở ấy.
Khung cảnh về đêm nơi đây rất
thanh tịnh, mát dịu. Những ánh nến lung linh làm
sáng ngời Đại Tháp, nhắc lại một đêm nào
Đức Phật đã
chứng ngộ nơi đây. Để
cung kính và thắp sáng
tuệ giác của Phật nên
Phật tử Nam tông hay
Bắc tông,
Tây Tạng hay
Việt Nam... tất cả đều đến đây với
tâm thành kính.
Đại Đức Thích Minh Tánh, người có
xuất xứ từ Na Uy và Đan Mạch,
đệ tử của
Hòa Thượng Thích
Minh Tâm tại Pháp, mỗi năm sang
Ấn Độ 3 đến 6 tháng và mỗi ngày Thầy ấy lạy chừng 1.000 đến 3.000 lạy,
tùy theo thời tiết mát hay nóng. Theo Thầy ấy
cho biết, đã lạy gần 1 triệu lạy rồi, theo cách lạy của
Tây Tạng, nghĩa là
ngũ thể đầu địa. Có lẽ đây là vị thầy
Việt Nam lạy nhiều nhất, so với trong cũng như ngoài nước, chưa có ai làm được như vậy.
Quý vị thử tưởng tượng, một
bộ kinh Pháp Hoa dày gần 700 trang, nếu tụng từ sáng đến tối thì hết 1 bộ, nhưng nếu lạy mỗi ngày 300 lạy thì phải hơn 200 ngày mới xong 77.000 lạy, khi
phát tâm lạy kinh mỗi chữ mỗi lạy. Đó là chưa kể những ngày trái gió trở trời, đau ốm nữa. Còn nếu lạy một
bộ kinh Đại Bát Niết-bàn gồm 2 quyển dày, mỗi chữ mỗi lạy thì cũng chừng 500.000 lạy là cùng. Còn ở đây Thầy Minh Tánh đã lạy được gần 1 triệu lạy. Quả là
bất khả tư nghì. Nói thì dễ nhưng
thực hành thì khó lắm, không phải ai cũng làm được. Chướng duyên nhiều lắm.
Có nhiều cô hay quý
Phật tử hay than rằng: Sao
Phật Giáo Việt Nam mình không giống như
Phật Giáo Tây Tạng hay không có những vị Sư
chứng đạo,
vãng sanh để làm gương cho
Phật Tử tu học. Thật ra nói như thế không đúng hẳn. Nếu nhìn lại
lịch sử Phật Giáo nước nhà, ta sẽ thấy những vị Sư như Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu ngoài
Bắc Việt Nam, sau khi
thị tịch đã còn lưu lại chơn thân xá-lợi. Và nghe đâu Ngài
Quảng Trí ở Ninh Bình tịch đã 300 năm,
mới đây xá-lợi của Ngài nguyên cả khối hình
ngồi thiền định cũng đã được
tìm ra. Xa xưa hơn nữa, có hai vị tăng vào triều Trần và Lý cũng đã nhập
đại định như thế.
Ngoài ra có
vô số người tu theo
pháp môn Tịnh Độ đã được
vãng sanh.
Dĩ nhiên là những
tài liệu hướng dẫn không có nhiều, nên
Phật tử chúng ta ít có dịp tiếp cận đến. Nếu có, chắc rằng
mọi người Phật tử sẽ vững tâm hơn
để hạ thủ
công phu và
tiếp tục con đường giải thoát của mình.
Phật giáo Việt Nam chúng ta cần phải thể hiện việc
hành trì nhiều hơn nữa. Không có tông nào hơn tông nào, phái nào hơn phái nào cả. Điều khác nhau là có
hành trì miên mật,
dứt khoát hay không mà thôi. Kẻ tu theo
Tịnh Độ cứ lấy câu
niệm Phật A-di-đà làm chính, người theo Thiền cứ việc
tọa thiền, kẻ tu theo
Mật Tông cứ việc
trì chú v.v... Nghĩa là người nào đã lập nguyện rồi thì cứ thế mà
hạ thủ công phu. Có nhiều Thầy, Cô
Việt Nam ở trong lẫn ở ngoài nước, ngày nay sau khi lên làm
trụ trì,
thủ tọa rồi thì không còn
hành trì Lăng Nghiêm nữa, Thiền cũng chẳng
quan tâm, câu
niệm Phật cũng chỉ có khi chùa có
Phật sự như
cầu an hay cầu siêu... Như
vậy thì quả thật chưa đủ, phải
gia tâm nhiều hơn nữa cho việc tu và việc học.
Phật Giáo Tây Tạng thực ra không phải
đặc biệt hơn
Phật Giáo Việt Nam hay
Nhật Bản. Điều
đặc biệt là
chư Tăng của họ
hành trì rất miên mật. Ngay cả Đức Đạt-lai Lạt-ma, theo
truyền thống Phật Giáo Tây Tạng được tôn xưng là một vị
hóa thân của
Bồ Tát Quán Thế Âm mà mỗi ngày vẫn
hành trì từ 4 đến 6 tiếng đồng hồ, trước khi thăng tòa
thuyết pháp hoặc
chứng minh đàn tràng. Còn
Phật Giáo Việt Nam chúng ta phải
nói thẳng ra rằng những vị ẩn tu và
hành trì miên mật như thế trong
hiện tại rất ít.
Riêng tôi cũng như bao nhiêu người Tăng sĩ
Việt Nam khác thôi, nhưng được
may mắn là sống ở ngoại quốc từ hơn 32 năm qua (1972 - 2004), đã học ở
Nhật Bản và đi khắp nơi trên
thế giới, kể cả thăm
tứ đại danh sơn ở
Trung Quốc và đi các xứ
Phật Giáo khác, nên năm 2003 sau khi giao lại chùa chiền cho
đệ tử Hạnh Tấn
trụ trì, tôi quyết chia
thời giờ mỗi năm 3 tháng về Úc để tịnh tu,
dịch kinh, viết sách và
hành trì.
Nơi đây có
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc là bào huynh của tôi đang
trụ trì chùa
Pháp Bảo ở Sydney, đã dành nhiều
ưu ái cho Thầy trò
chúng tôi nhập thất nơi
Tu Viện Đa Bảo trên núi đồi ở Campbelltown, cách thành phố chừng 40 km.
Mỗi ngày tôi được rất nhiều
an lạc, khi trải lòng mình vào những trang kinh chữ Hán dịch sang tiếng Việt. Tôi cũng rất
an tịnh khi mỗi đêm trì 21 biến
Đại Bi, một biến
kinh Kim Cang và 3
tràng hạt niệm Phật. Cứ như những giọt suối
thanh lương rót vào lòng mình. Tôi chỉ mong có được chút
phước báo nào thì
hồi hướng đến
cha mẹ, anh em,
sư trưởng,
đàn na tín thí và
chúng sanh thì
mãn nguyện lắm rồi. Còn mình sẽ được gì trước và
sau khi chết khỏi cần nhắc đến. Vì
chúng ta luôn biết rằng, nếu nhân tốt thì quả sẽ tốt thôi. Không bao giờ có
quả thật tốt khi nhân xấu hoặc ngược lại. Tôi tin thế và cứ vững tâm mà
hành trì.
Ở trên núi đồi này có nhiều điều huyền bí
mầu nhiệm lắm. Năm rồi (2003) sau khi mãn 3 tháng
nhập thất tại đây,
phái đoàn về lại Đức thì cả bầy két màu lông sặc sỡ, giống như chiếc áo của Đức A-di-đà sà lên trên xe của
chúng tôi như để
tiễn đưa. Rồi bây giờ (2004) sau gần một năm
trở lại, vào mỗi buổi sáng khi
chúng tôi hành trì kinh Lăng Nghiêm thì những con két đẹp kia đã bay đậu trên mái hiên để nghe kinh.
Thỉnh thoảng kêu lên vài tiếng như
chứng tỏ rằng chúng đang
hiện diện nơi ấy.
Trong rừng này có rất nhiều loại
động vật lớn. Ví dụ như con kỳ đà, nhiều con mình dài hơn 1 thước và nếu cân thì chắc cũng vài chục kí-lô. Chúng hay ra phía bìa rừng dùng những cây trái ăn dư trong ngày và khi
chúng tôi đi chúng cũng buồn. Lần này đến đây chúng lại
vui vẻ đón chào bằng nhiều cách khác nhau.
Theo
dự tính của chính phủ Úc thì đến năm 2025 chính phủ sẽ gặp khó khăn về lượng nước
dự trữ. Đó là điều
thực tế. Vì ở Úc có nhiều ngày nắng đến 47°C, họ không cho tưới cây và nhiều năm có những đàn cừu bị bắn chết, vì lẽ chúng thiếu nước uống. Riêng tại
Tu Viện Đa Bảo này cũng không có nước máy. Chỉ hứng nước mưa để tắm, giặt giũ, tưới cây v.v... còn nước uống thì phải đun sôi nước mưa hoặc ra siêu thị mua nước chai về để uống.
Tuy nhiên năm rồi (2003) và năm nay trời vẫn mưa đều nên hồ nước chứa năm nay (2004) đầy ắp và ngay khi tôi đang viết tay những trang này trong khi Thầy Đồng Văn và các chú xuống chùa
Pháp Bảo thì trời bên ngoài vẫn còn mưa nặng hạt, khiến cho núi đồi xanh hẳn lên và
chắc chắn là muông thú trong rừng cũng mừng lắm. Vì chúng đang tắm được ơn mưa móc của đất trời.
Ngày 23 tháng 12 năm 2004 này là ngày
đánh dấu 25 năm
thành lập Hội
Phật Giáo Việt Nam tại New South Wales và chùa
Pháp Bảo. Mới đó mà đã 25 năm rồi. Đúng là
thời gian và thủy triều chẳng
đợi chờ ai. Năm này
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc đang ở vào tuổi 63 còn tôi ở vào tuổi 56. Trong thời trung niên
chúng tôi đã hiến dâng hết cho
Phật pháp. Đến giai đoạn này, còn 2 năm nữa khi
Hòa Thượng Bảo Lạc ở Úc được 25 năm thì Thầy ấy sẽ cử Thầy
Đệ Tử Thích Phổ Huân
trụ trì. Còn
Hòa Thượng sẽ
lui về ngôi vị
Phương Trượng. Điều ấy cũng thật là hay. Vì như thế
tuổi trẻ mới có cơ hội tiến thân và đóng góp phần mình vào sự phát triển
Phật Giáo nơi đây.
Nhớ ngày nào vào
cuối năm 1979, lần đầu tiên tôi có dịp đặt chân đến xứ Úc này, từ Đức sang
thăm viếng một người quen ở Brisbane. Lần ấy đến đây tôi chỉ qua trong trung chuyển để đi tiếp Brisbane, nhưng có nhiều người báo tin là tôi một tăng sĩ
Phật Giáo hiện có mặt tại Úc, nên anh Lê
Thắng Tiến lúc bấy giờ được bầu vào ngày 23 tháng 12 năm 1979 là chức vụ Hội Trưởng của Hội
Phật Giáo Việt Nam tại New South Wales, có ý mời tôi ghé thăm, nói một bài pháp và cho
ý kiến về việc
thành lập Niệm Phật Đường nơi đây.
Tôi đã chẳng ngại về những
kinh nghiệm nhỏ bé của mình khi học lại từ
Hòa Thượng Thích
Minh Tâm ở Pháp, nên đã giúp chỉ cho họ cách đóng tiền
cúng dường định kỳ hằng tháng và cho mượn Hội Thiện, chùa mượn mỗi cổ phần 300
Úc kim không lấy lời trong
thời gian dài và sau đó rút thăm để được trả lại.
Sau khi thăm Brisbane nơi nhà anh Phụng, chị Hà, Bác Phúc, anh Cát, chị Giang v.v... cùng những vườn cây ăn trái của Bác Hai, tôi rất thích và qua cách tổ chức của
Đạo Hữu Trương về Hội
Phật Giáo tại đó, tôi đã về lại Sydney để
tham dự một phiên họp quan trọng tại một nhà hàng
Việt Nam của anh Tiến. Lúc đó tôi nhớ là đầu năm 1980 và có độ chừng 30 vị đến
tham dự.
Lần đầu tiên kêu gọi đóng góp cho mượn Hội Thiện độ gần 9.000
Úc kim qua những người
hiện diện để lập chùa.
Lúc ấy nếu tôi nhớ không lầm thì 1
Úc kim bằng khoảng 3 US đô-la hoặc 3 Đức Mã gì đó. Một số tiền đầu tiên hứa cúng và cho mượn như vậy là lớn lắm. Sau đó tôi chỉ vẽ cho cách thuê nhà để làm
Niệm Phật Đường và sau đó tôi
trở lại Nhật thăm Thầy Bảo Lạc sau 3 năm tôi ở Đức đã có giấy tờ tỵ nạn và đã được định cư
chính thức ở xứ ấy.
Khi tôi về lại Nhật thì ở bên Sydney quý Bác và quý
anh chị em đang chuẩn bị đi tìm nhà để thuê làm
Niệm Phật Đường. Còn tôi về lại Nhật có một
nhiệm vụ tương đối cũng quan trọng. Đó là thỉnh Thầy Bảo Lạc sang Úc.
Lúc ấy (1980) Thầy đã học xong
Đại Học và đang chuẩn bị hành trang đi Hoa Kỳ.
Tiện thể tôi mới bàn và mời Thầy sang Úc để
lãnh đạo tinh thần đồng bào
Phật Tử nơi đây.
Thầy Bảo Lạc hỏi tôi rằng:
- Ở Úc có những gì?
- Có nhiều điều lắm, nhất là khí hậu tốt. Mùa này bên đó là mùa hè cả 40°C, trong khi Đông Kinh lạnh giá. Lại có mít, có xoài, có rau muống, có chôm chôm, có mía, có rau thơm v.v... và v.v...
- Vậy chắc là tôi không đi Mỹ nữa, sẽ đi Úc.
- Vì ở Mỹ đã có nhiều Thầy rồi. Vả lại ở Mỹ quá rộng mà
chư Tăng cũng đông nên có lẽ chưa cần đến mình. Trong khi ở Úc đang cần đến một vị
lãnh đạo tinh thần. Thầy nên
chấp thuận và Như Điển sẽ nhờ anh Khôi, Giáo sư tại
Đại Học New South Wales cùng với anh Lê
Thắng Tiến và anh Công lấy chữ ký của Hội Viên, sau đó đưa qua Bộ Ngoại giao Úc để
can thiệp, chắc là nhanh lắm.
Tôi biết Thầy Bảo Lạc
đồng ý vì
lúc ấy Thầy nghe có nắng ấm và có những cây trái quê hương cũng như một
Cộng đồng người Việt
thuở ấy (1979) có đến 100.000 người mà chưa có vị
lãnh đạo tinh thần nào của
Phật Giáo cả, nên Thầy thuận cũng là
lẽ tự nhiên. Thật là:
“Đất khách muôn trùng sao nhỏ hẹp,
Quê nhà một góc nhớ
mênh mông.”
Tâm trạng của
chúng tôi lúc ấy là tâm trạng nhớ quê hương, nên những nơi nào có gợi nhớ quê hương là muốn tìm đến. Quê Hương, hai từ ấy thật khó định nghĩa, nhưng khi mất đi rồi thì thấy
gắn bó lạ kỳ.
Từ năm 1975 đến 1985,
chúng tôi ở ngoại quốc
thuở ấy liên lạc về quê hương rất khó và ngược lại
cũng thế. Một lá thư của Cụ thân sinh tôi khi người còn sinh tiền gởi đi Nhật từ Đà Nẵng năm 1976 mà 6 tháng sau mới đến. Tôi nhìn trên dấu ấn bưu điện là đầu
tiên thư ra Hà Nội, chuyển tiếp đến Bắc Kinh, rồi sang Nga và từ Nga chuyển lại Tokyo,
Nhật Bản. Khi bóc thư ra tôi chẳng đọc được dòng nào, vì giấy đục hơn giấy đi cầu và chữ thì nhòe nhoẹt.
Thuở ấy đâu có ai nghĩ là những
thế giới cộng sản làm hòa với
thế giới tư bản. Nhưng từ 1986 rồi 1989
đến nay, sự giao thương của
thế giới đảo ngược hoàn toàn gần như là 180 độ. Bởi vậy, Phật nói rất nhiều lần trong nhiều
kinh điển khác nhau,
đặc biệt trong
kinh Kim Cang, là các
pháp không có tướng
nhất định. “Phàm
sở hữu tướng giai thị
hư vọng.” Phàm cái gì có
hình tướng đều là
hư vọng, vì
giả hợp và không thường tồn.
Vì vậy, cái đúng của hôm qua cũng có thể là cái sai của hôm nay và cái sai của hôm nay cũng có thể là cái đúng của ngày mai. Ai nắm được
nghĩa chơn thật này thì hiểu được
Đạo Phật.
Hòa Thượng Bảo Lạc là một trong những du
học Tăng cuối cùng ở Nhật trước năm 1975 và ngày nay những người sinh viên
Tăng Ni thuở ấy, kẻ thì đã ra đi về miền
An Dưỡng như
Hòa Thượng Thích
Thiền Định,
Hòa Thượng Thích Minh Lễ ở Pháp, Thầy Thích An Thiên ở Úc... Số còn lại như
Hòa Thượng Trí Hiền,
Hòa Thượng Chơn Thành,
Hòa Thượng Nguyên Đạt v.v... tất cả hầu như đã trên 60 tuổi. Chỉ còn có mỗi mình tôi là “già nhất trong lớp trẻ và trẻ nhất trong lớp già”. Rồi một ngày nào đó già, bịnh, chết cũng sẽ đến thôi. Ai tránh được?
Hòa Thượng Bảo
Lạc trước khi sang Nhật có đi dạy Việt Văn nhiều năm ở các trường Bồ-đề Hạnh Đức,
Giác Ngộ ở Sài Gòn, nên cũng đã có nhiều học trò
liên lạc với Thầy trong
thời gian Thầy ấy ở Nhật. Thật đúng câu:
“Đón đưa bao kẻ qua sông,
Nhớ quên
mặc kệ vẫn ông chèo đò.”
Làm thầy dạy học hay thầy trong đạo cũng giống như thế thôi. Dạy học là bổn phận, còn ai quên ai nhớ thì mặc lòng. Riêng việc của mình, mình cứ phải làm cho xong thôi. Còn đến, đi, còn, mất là chuyện thường tình của
nhân thế.
Sau 3 tháng,
thủ tục đón Thầy Bảo Lạc qua Úc đã xong. Khi tôi về lại Đức thì được báo tin như vậy. Tôi rất mừng và
đồng thời cũng được biết rằng Hội
Phật Giáo tại New South Wales đã thuê xong một nơi để làm
Niệm Phật Đường. Cả mấy việc quan
trọng như thế đã xong và
để dành một sự
ngạc nhiên cho Thầy Bảo Lạc, nên ngôi chùa ấy chưa đặt tên, dành
ưu tiên cho Thầy ấy.
Riêng tôi
cuối năm 1980 qua Úc lại
một lần nữa và cùng với anh Phước đi thỉnh tượng
Quán Thế Âm bằng gỗ ngoài siêu thị đem về thờ và tượng ấy ngày nay đang thờ trên
Quán Âm Các trong hồ sen của chùa
Pháp Bảo.
Thầy Bảo Lạc đến Úc đầu năm 1981. Đến hôm nay (2004) cũng đã 23 năm rồi. Trong 23 năm đó,
Hòa Thượng đã đóng góp công sức của mình không ít cho ngôi chùa
Pháp Bảo mới được
xây dựng chính thức từ năm 1984
đến nay và cũng đã đúng 20 năm rồi. Đến năm 2006 là năm thứ 25 Thầy ở Úc. Có lẽ một
lễ nghi lớn sẽ được
cử hành vào
lúc ấy.
Trong sân chùa
Pháp Bảo ngày nay có một cây bồ-đề cành lá sum sê tỏa rộng cả một khu đất trong vườn. Chắc cây này cũng chưa được 20 năm, nhưng đất ở Úc rất tốt nên cây bồ-đề
tượng trưng cho sự
giác ngộ mau đâm chồi ra quả. Chẳng
bù lại với tôi, trong
Tổ Đường chùa
Viên Giác tại Hannover cũng trồng một cây bồ-đề có gốc gác từ
Tích Lan đem qua, đã 25 năm rồi mà chiều cao chưa được 1 mét. Quả là 2
thế giới khác nhau một trời một vực.
Cội bồ-đề tại
Ấn Độ và các xứ mới phát triển nhanh không cần
săn sóc, chăm bón gì. Trong khi ở trời Âu lạnh giá, phải chăm sóc
thường xuyên, nhưng cây ấy vẫn cằn cỗi. Hay là tôi không có tay trồng cây mà chỉ có tay trồng người?
Trong sân chùa
Pháp Bảo có một hồ sen rất đẹp. Mùa hè của Úc vào tháng 12 dương lịch, hoa khoe sắc thắm và xông ngát hương thơm, chẳng khác gì nơi quê hương
thân yêu của mình hay những xứ Á Châu khác. Trong vườn chùa còn có những cây hoa
anh đào Nhật Bản trông rất xinh và thường cho hoa vào
mùa xuân, tháng 10 hằng năm. Xứ Úc là thế. Trong khi Âu Châu và Á Châu mùa hè thì tại đây
mùa đông. Ngược lại, khi tại Âu Châu tuyết phủ nhiều vào
mùa đông tháng 12, tháng 1 hằng năm thì tại Úc nhiệt độ lên đến chừng 40°C. Bởi vậy, mỗi năm 3 tháng của tôi ở Úc là 3 tháng
lý tưởng nhất và tôi vẫn thường nói với
mọi người là mỗi năm tôi có đến 2 mùa hè mà chẳng có
mùa đông nào cả.
Công việc
dịch kinh, viết sách,
nhập thất,
hành trì có lẽ kéo dài chừng 10 năm nữa.
Lúc ấy tuổi cũng đã cao, dành
thì giờ niệm Phật có lẽ có nhiều
lợi ích hơn. Khi ấy mắt càng ngày càng kém, tai càng ngày càng nặng, lưng càng ngày càng mỏi thì đành để cho
thế hệ đệ tử, đồ tôn
tiếp nối con đường của mình đã đi. Như thế tôi cũng đã
mãn nguyện lắm rồi.
Tôi và
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc là 2
anh em ruột, sanh ra trong một
gia đình gồm 5 trai, 3 gái. Tôi là con út trong
gia đình và kém Thầy Bảo Lạc 7 tuổi. Tôi phải nói rằng: Nếu
gia đình tôi không nhờ
Phật pháp chuyển đổi và Thầy Bảo Lạc cũng như tôi không nhờ đi
xuất gia,
thọ trì ơn
Tam Bảo và ơn
chúng sanh thì
chắc chắn chúng tôi không có được ngày hôm nay.
Vì vậy tất cả những gì
chúng tôi có được ngày hôm nay, đều là nhờ ơn
Tam Bảo sắp đặt cả.
Những
anh chị tôi đã già, có người đã về bên kia cõi
tử sinh và trong
dòng họ thì ít có cơ hội ra nước ngoài. Còn
chúng tôi thì chưa có cơ hội về nước, nên
thế hệ thứ hai, thứ ba trong tộc họ hầu
như không rõ mặt.
Ngày xưa Đức Phật và chư vị
Tổ Sư có lẽ
cũng thế thôi. Vì khi đã
xuất gia rồi thì
gia đình không còn
liên hệ mật thiết nữa. Có một điều đáng nói ở đây là làng tôi có đến 50 người đi
xuất gia và suốt gần 50 năm qua chỉ có vài người ra đời, còn bao nhiêu vẫn
tiếp tục tu. Cho nên nhiều bậc kỳ lão mới nói rằng: “Những làng khác thì phát tài, phát lộc, còn làng Xuyên Mỹ của
chúng tôi đang phát đức.” Đúng là “ở có đức không sức mà ăn”, ông bà mình
ngày xưa vẫn nói vậy. Cho nên tôi mong rằng cái đức ấy vẫn lan tỏa khắp trong làng, trong
dòng họ và
xa hơn nữa là trong nước và ngoài nước.
Đúng với câu:
Xứ Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu hồng đào chưa nhắm đà say.
Ngày nay người Quảng Nam có mặt khắp nơi trên
thế giới và cũng
hãnh diện mình là con dân của Xứ Quảng nói riêng cũng như con dân
Việt Nam nói chung, đang làm
rạng danh cho nòi giống. Những nhà thơ, nhà văn
nổi danh, theo đó là
thế hệ thứ 2, thứ 3 ở ngoại quốc đã tiến vào các lãnh địa khoa học, y khoa, chính trị,
tôn giáo v.v... rất được
thế giới lưu tâm.
Phải nói rằng năm 1975 là một mốc
lịch sử, một
sự kiện đau thương của dân tộc, nhưng
nếu không có năm 1975 thì
Phật Giáo hẳn không có 600 ngôi chùa đang
hiện diện khắp năm châu như hôm nay và cũng không có hơn 2 triệu người đã bỏ nước ra đi tìm
tự do, trong đó cũng có nhiều
Tăng Ni.
Đến đây rồi thì phải làm một điều gì đó, như Nguyễn Công Trứ đã nói “Phải có danh gì với núi sông”, nên bất cứ ai trong những người ra đi cũng muốn làm một điều gì đó để
đền ơn sông núi, ơn
quốc gia, Thầy Tổ, ơn
cha mẹ, ơn
Tam Bảo, ơn
chúng sanh. Nếu
gia đình đó là một người thợ thì họ
xem như thế hệ bắt cầu. Họ
hy sinh cho con cái, đi làm lụng kiếm tiền để nuôi con ăn học. Phần khác, họ lo
tần tảo gởi về giúp cho những
thân nhân còn kẹt lại
Việt Nam. Nếu là một
gia đình thương gia thì họ sẽ
tiếp tục bỏ vốn ra để đầu tư sau khi đã
tìm hiểu kỹ thị trường nơi đó. Nếu là giáo chức thì họ sẽ chăm lo
đời sống học tập của
gia đình mình. Nếu là những quân nhân, chính
trị gia v.v... thì họ sẽ
tiếp tục con đường tranh đấu của họ. Họ ra đi không phải vì miếng cơm manh áo mà họ đã ra đi vì 2 chữ
Tự Do đã bị đánh mất nơi quê hương.
Cũng như thế đó, năm 1640 nhà Thanh đã cướp ngôi nhà Minh bên
Trung Quốc, những người không muốn
cộng tác với nhà Thanh thì họ ra đi tỵ nạn. Họ đã đến Hội An,
Việt Nam đầu tiên vào thời chúa Nguyễn Phước Nguyên ở Đàng Trong đang trị vì. Rồi chúa Nguyễn đã thức thời biết trọng dụng kẻ sĩ và thương người Trung Hoa trong cơn nguy biến ấy nên đã cho mở ra làng Hoa Kiều ở Hội An. Một số tướng tài khác như Mạc Cửu thì đưa vào Hà Tiên để khai khẩn đất hoang và tạo nên công ăn
việc làm tại đó.
Chúa Nguyễn Phúc
Nguyên không những trọng dụng họ mà còn lập nên một làng lấy tên là làng Minh Hương, nghĩa là quê hương của người thờ nhà Minh. Làng ấy nay vẫn còn tại Hội An và trải dài suốt 400 năm
lịch sử và ngày nay Hội An đã được tổ chức UNESCO
công nhận là một
di sản văn hóa thế giới.
Năm 1975, người Việt
lũ lượt bỏ nước ra đi, đến Hoa Kỳ là nhiều nhất, hơn 1 triệu người. Họ đã
thành lập thành phố Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon) tại Garden Grove, tiểu bang California. Họ sống ở đó, một mặt hội nhập vào
đời sống văn hóa, chính trị,
tôn giáo của nước sở tại,
đồng thời họ cũng không quên
bảo tồn và phát huy
truyền thống văn hóa của
Việt Nam. Nếu họ
giữ gìn thì mấy trăm năm sau nữa, thành phố với tên Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon) sẽ còn
hiện hữu nơi đất Hoa Kỳ như người Hoa thờ nhà Minh đã đến Hội An
Việt Nam hồi đầu thế kỷ 17.
Những ngày đầu của thế kỷ 17, có lẽ có nhiều sự trình tâu của người Minh Hương nên chúa Nguyễn đã cho người sang Trung Hoa
thỉnh mời Ngài
Hòa Thượng Thạch Liêm Thích
Đại Sán và Ngài
Nguyên Thiều đến xứ Đàng Trong. Đầu tiên, quý Ngài đến Hội An rồi sau đó đến Bình Định.
Tiếp theo là chính quý Ngài đã đích thân về lại
Trung Quốc mời thêm 9 vị
Đại Sư nữa sang Kinh Đô Huế,
thuở ấy chỉ mới có chùa
Thiên Mụ là
tiêu biểu, làm
giới đàn để
truyền giới cho những người
xuất gia Việt Nam của
chúng ta. Trong đó có 3 Ngài ở lại quê hương mình để
tiếp tục lãnh đạo tinh thần cho
Phật Tử của người Hoa lẫn người Việt, nhưng sau đó thì Ngài Minh Hải
Pháp Bảo và Ngài Minh Lượng vào lại Hội An để xây chùa
Chúc Thánh và chùa
Vạn Đức. Có lẽ nơi đây có nhiều người Hoa và do sự
yêu cầu của Hoa kiều làng Minh Hương lúc bấy giờ nên các Ngài đã ở lại và
Tông phái Minh Hải
Chúc Thánh đã
truyền thừa từ đó
đến nay, từ Trung vào Nam, từ Nam ra hải ngoại như Thái Lan,
Nhật Bản, Úc Đại Lợi, Hoa Kỳ, Đức Quốc v.v... Còn Ngài
Minh Hoằng Tử Dung thì ở lại Huế để
khai sơn chùa Từ Đàm và truyền cho Ngài Thiệt Diệu
Liễu Quán. Phái Thiền này ngày nay cũng đang có mặt khắp nơi tại trong cũng như ngoài nước. Riêng phái
Nguyên Thiều thì truyền từ Bình Định trở vào Nam và ngày nay cũng có một số
danh tăng tại hải ngoại.
So ra cuộc ra đi của người Minh năm 1640 với người Việt ra
đi vào năm 1975 cũng giống nhau thôi.
Dĩ nhiên, hai thời điểm tuy có khác nhau, nhưng
lý tưởng của những cuộc ra đi ấy giống nhau và dù ở xa quê hương đất tổ, nhưng họ vẫn giữ nề nếp
gia phong của
Trung Quốc. Họ lập chùa Ngũ Bang và các Hội quán để gặp gỡ nhau và nói
ngôn ngữ của quê hương mình cũng như xây trường học dạy tiếng Trung Hoa và tiếng Việt cho
thế hệ thứ 2 được sinh ra tại đó. Họ lấy chữ hiếu làm đầu. Đây là đạo của
thánh hiền, nhờ thế mà họ vẫn còn
tồn tại cho đến ngày nay, dầu cho họ ở bất cứ nơi nào trên
quả địa cầu này.
Trong chữ Hán, chữ hiếu (孝) gồm chữ lão (老) và chữ tử (子) ghép lại. Lão nghĩa là già, tử nghĩa là trẻ. Người già sinh ra trước, có bổn phận lo cho người trẻ và người trẻ sinh ra sau
thừa hưởng sự giáo dục của người già, nên khi lớn khôn rồi có bổn phận phải lo cho người già. Đó là
Đạo học của
Đông phương nói chung và của đạo Khổng hay của người Minh Hương nói riêng.
Riêng việc cung thỉnh
chư Tăng Ni đến trụ xứ của họ đã định cư ở Hội An cũng
tương tự như việc người
Việt Nam đã định cư nơi Úc rồi sau đó sang Nhật để cung thỉnh
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, để lo cho
đời sống tinh thần của người
Phật Tử tại đây. Không thể về lại
Việt Nam để cung thỉnh, vì
lúc ấy Việt Nam chưa mở của
tự do (1980). Vả lại
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc ra đi du học trước năm 1975 từ miền Nam
Việt Nam, nên sang Nhật thỉnh qua Úc vẫn là điều hữu lý.
Sau đó, những vị
Hòa Thượng Thích Tắc Phước,
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn,
Hòa Thượng Thích Như Huệ,
Thượng Tọa Thích Quảng Ba,
Thượng Tọa Thích Phước Nhơn,
Thượng Tọa Thích
Trường Sanh và nhiều
Đại Đức,
Ni Sư khác đã đến Úc và Tân Tây Lan bằng
con đường tỵ nạn vượt biển để đến các đảo tại Đông Nam Á Châu trước, sau đó mới làm đơn hoặc được
bảo lãnh để vào Úc định cư.
Sau năm 1990, khi
phong trào tỵ nạn không còn nữa thì quý Thầy, Cô ra
đi theo thủ tục bảo lãnh của
Giáo Hội. Cho nên số ấy hiện ở Úc và các
nơi khác trên
thế giới không nhỏ.
Làn sóng những người ra đi sau năm 1975, cả Nam lẫn
Bắc Việt Nam, để tỵ nạn và đã đến được các nước
tự do ở Mỹ Châu, Âu Châu và Úc Châu định cư
chính thức, kéo dài
cho đến năm 1995, khi các trại tạm cư tại các nước Đông Nam Á Châu không còn
hoạt động nữa. Trong số hơn 2 triệu người ra
đi vào thời gian này, có hơn 500.000 người
chết chìm trên biển cả hay giữa rừng sâu.
Tiếp theo đó, những người này làm đơn
đoàn tụ cho
thân nhân mình như vợ chồng, con cái vị
thành niên để
đoàn tụ gia đình.
Ngoài ra còn một số người Việt định cư ở Âu Châu sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ năm 1989, sau 40 năm chia đôi Đông Tây Đức,
đa số những thanh niên, thanh nữ đi lao động trả nợ cho Liên Xô và Đông Âu tràn sang Âu Châu để xin tỵ nạn. Số này riêng nước Đức là 50.000 người. Kể cả các nước Âu Châu độ chừng 100.000 người, đa phần là những người Bắc sinh sau năm 1954. Nếu người miền Nam, miền Trung có mặt cùng chỉ là số ít và thuộc về những
gia đình có tiền, có
thế lực hoặc có
liên hệ với chính quyền nên mới đi được các nước Đông Âu như thế.
Trong khi đó, ở Úc và Mỹ Châu thì không có những người tỵ nạn loại này, nhưng lại có những người
đi theo chính sách
nhân đạo (HO), nghĩa là lo cho
gia đình của những quân nhân đã chiến đấu trong chế độ
Việt Nam Cộng Hòa với người Mỹ và đồng minh, nên các nước này mở mối
từ tâm để đón nhận họ.
Trong 3 đợt ra đi ấy, đợt đầu có nhiều
điều kiện nhất, vì họ không phải lo toan với chiến tranh,
nghèo đói v.v. vả lại họ có sở học và sở tu, nên khi đến các nước thứ 3 để xin tỵ nạn là họ hội nhập liền.
Đợt thứ 2 đa phần gặp sóng to gió lớn trên biển Đông, một phần sống chín phần chết, cho nên khi đến định cư họ lo tạo mọi
điều kiện cơ sở
vật chất để hội nhập vào quê hương mới.
Theo chỗ
chúng tôi biết,
trong khoảng 20 năm từ 1975 đến 1995 đã có khoảng 600
Tăng Ni ra đi từ
Việt Nam, chết trên biển cả và ra đời độ chừng 400 vị, chỉ còn lại khoảng 200 vị đang
hành đạo khắp nơi. Trong 200 vị ấy, kể cả Châu Âu và Châu Mỹ mới chỉ có 3 vị ra
Tiến Sĩ và 10 vị học Cao Học, 20 vị đậu
Cử nhân. Như thế con số này vẫn còn khiêm tốn lắm.
Đợt thứ 3 cũng có một số người
phát tâm xuất gia, nhưng số ấy chưa được 20 người.
Cộng thêm với số đi du học tại
Ấn Độ,
Đài Loan, Thái Lan kể từ sau 1994
đến nay thì
hiện tại số ấy cũng có trên 200 vị hiện ở tại Á Châu và một vài nước
Âu Mỹ, nhưng số này đa phần học xong ở các nước Á Châu là về lại
Việt Nam.
Như thế, việc ra đi của người
Việt Nam có nhiều
lý do khác nhau và chỉ tạm chia ra 3 giai đoạn, 3
hoàn cảnh như thế để thấy sự khác biệt. Nếu chia tỉ mỉ như những
nhà xã hội học thì còn nhiều loại và nhiều
hoàn cảnh khác nhau nữa.
Năm 1778, sau khi Quang Trung Nguyễn Huệ dấy binh ở Tây Sơn, Bình Định thì cho quân ra Hội An đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn thua chạy vào Gia Định, rồi sau đó
tiếp tục chạy qua Thái Lan. Chúa Trịnh ở miền Bắc cũng không nằm yên tại đó, nên đã đem binh vào Hội An để đánh Quang Trung Nguyễn Huệ. Quân của Nguyễn Huệ thua tan tành phải chạy về Bình Định. Còn quân của Chúa Trịnh vẫn
tiếp tục ở Quảng Nam. Trong đoàn quân này có cụ Nguyễn Nghiễm là
thân phụ của cụ Nguyễn Du. Cả 2
dòng họ Nguyễn này đều làm quan dưới thời Chúa Trịnh ngoài Bắc để thờ vua Lê, nhưng sau khi Gia Long Nguyễn Ánh,
hậu duệ của 9 đời Chúa, từ Chúa Nguyễn Hoàng thế kỷ 17 đã có mặt tại miền Trung, từ Thái Lan
trở về với sự giúp sức của Pháp thì các mặt trận của Nguyễn Huệ, Chúa Trịnh đều bị thua. Kẻ bị đày, người
đầu hàng, kẻ không chịu ra làm quan, trong đó có cả cụ Nguyễn Du. Cho nên
Đoạn Trường Tân Thanh hay Kim Vân Kiều Truyện là tiếng kêu xé lòng của cụ giữa 2
thế lực mạnh và yếu đã ra đời. Cái nào là
chính nghĩa cũng khó nói, cho nên cụ đã mang tất cả tâm sự của mình để viết nên truyện Kiều theo mẩu chuyện
Thanh Tâm tài tử của đời nhà Minh bên
Trung Quốc là vậy.
Gia Long
lên ngôi Hoàng Đế năm 1802 và triều nhà Nguyễn làm vua
cho đến năm 1954,
gồm có 13 vua. Như thế, 150 năm của lần này và 200 năm của 9 vị chúa thì tổng cộng triều Nguyễn cũng đã ngự trị trên quê hương
chúng ta gần 350 năm
lịch sử.
Trong khoảng thời gian ấy biết bao nhiêu là
vinh nhục, sử sách đã kể nhiều rồi, thiết tưởng ở đây không cần nói thêm nữa. Nhưng cũng chính trong những năm chinh chiến giữa Gia Long và Nguyễn Tây Sơn ấy mà tại Thái Lan ngày nay
chúng ta có được 17 ngôi chùa
Việt Nam. Khi đi tỵ nạn như thế Gia Long cũng đã
mang theo một số các vị tăng sĩ hữu danh. Vì họ chẳng muốn
cộng tác với Nguyễn
Huệ Quang Trung cũng như chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài, nên họ đã
an phận ở đất Thái. Bây giờ sau 200 năm
vắng bóng các Chúa, các Vua đã ra đi, chỉ còn lại
hình ảnh của những ngôi chùa. Nơi đó ngày đêm vẫn còn vang lên lời kinh tiếng mõ khắp kinh đô Bangkok ngày nay.
Cho hay vật đổi sao dời là thế. Tình đời nghĩa đạo,
thế sự nhiễu nhương. Thời nào cũng có
anh hùng hào kiệt, thời nào cũng có gian thần, nịnh thần và cái đúng cái sai cũng chỉ có
giá trị vào một thời điểm nào đó thôi, chứ không phải là
giá trị miên viễn trên
cuộc đời này. Ví dụ như đứng về
phương diện lịch sử thì Quang Trung Nguyễn Huệ là
anh hùng dân tộc, vì đã
đại thắng quân Thanh, đuổi họ chạy về Tàu, nhưng đứng về
phương diện kẻ mạnh khi đã chiếm được quyền hành thì Nguyễn Ánh gọi Nguyễn Huệ là Ngụy Tây Sơn. Đã là Ngụy thì không còn chơn chính nữa dưới một
triều đại khác. Cho nên những ai đã
cộng tác và
phò tá triều đại đó thì bị đày ải hoặc
bị giết chết,
thủ tiêu v.v... và v.v... Rồi
lịch sử đã lập lại sau năm 1975, kẻ đã thắng xem người bại là Ngụy. Nhưng chữ Ngụy đó nó cũng chỉ đúng với người chiến thắng thôi, chứ nó không
hoàn toàn đúng với
lịch sử của dân tộc.
Nếu không có ngày 30.04.1975 thì làm sao có một Little Sài Gòn ở California, có 600 ngôi chùa ở ngoại quốc, như người Minh Hương đã có mặt tại Hội An vào năm 1640? Họ đã mất, nhưng họ vẫn còn. Sự còn ấy là còn “chót vót một ngôi chùa” như cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã nói.
Triều đại nào, chính thể nào rồi cùng
trôi qua, chỉ có sự
hiểu biết,
giác ngộ,
lòng từ bi,
vị tha là luôn còn lại với đời. Điều ấy
lịch sử đã
chứng minh và đã được lặp lại nhiều lần chứ không phải chỉ
một lần như
lịch sử Trung Quốc,
Việt Nam,
Nhật Bản,
Triều Tiên hay của những dân tộc khác trên
thế giới.
Nhìn mây bay, nhìn gió thổi, nhìn bóng cây rung theo chiều gió, nghe tiếng chim kêu, thấy
hình ảnh của những con vật 4 chân, nhiều chân đang
sinh hoạt tại núi đồi của
Tu Viện Đa Bảo này, tôi thấy mình như hòa lẫn vào trong
không gian ấy và rất
tự tại giở từng trang kinh để
chiêm nghiệm và biết rằng:
“Chúng sanh,
chúng sanh giả,
Như Lai thuyết phi
chúng sanh, thị danh
chúng sanh.” (
Kinh Kim Cang)
Nghĩa là "những
chúng sanh ấy, theo
Đức Như Lai nói là chẳng phải
chúng sanh, đó mới là
chúng sanh." Vì tất cả những gì có
hình tướng đều
hư vọng, chỉ có những gì vượt lên khỏi
hình tướng thì cái ấy mới là chơn thật nghĩa, chơn
thật ngữ vậy.