Một lần nọ, con người vĩ đại Jetsušn Milarepa đi đến núi tuyết Ti Se với năm đệ tử để thiền định. Một đệ tử bị bệnh và không thể tiếp tục, họ thiền định mùa hè trên một trái núi hoang vu trong miền Lowo Thượng.(33) Vài người thấy họ và tò mò : “Người nào mà có thể sống thời gian lâu trên ngọn núi trơ trọi ấy ?” Biết đó là thiền giả Milarepa, họ đến đảnh lễ và cầu pháp. Mila hát cho họ :
Lowo là xứ tối tăm của ma quỷ. Những thành phố là nhà giam của ma quỷ. Kính trọng và địa vị là sợi thừng cột trói của ma quỷ. Tiêu khiển là sự che ám của ma quỷ.
Ở đây, trong núi non vắng vẻ không người, Tỉnh giác là thiền định nở hoa. Ở đây sự chú tâmtrưởng thành lớn mạnh. Các bạn nhóm họp ở đây, hãy nghỉ ngơi đi – Tôi cầu xin cho sự may mắn và sung túctâm linh của các bạn.
Nói rồi, ngài bắt đầu ra đi. Họ kêu gọi ngài, nhưng ngài không nghe. “Mùa thu hoạch tới rồi. Tất cả các bạn có việc phải làm. Tôi sắp đi tìm lương thực cho mùa đông.” Khi ngài lên đường những thí chủnam nữ và con cái họ theo ngài đến đỉnh đèo Kora. Họ lễ lạy, đi nhiễu quanh ngài và nồng nhiệt xin ngài ở lại. Cuối cùng họ nói, “Chúng tôi không thể gặp lại ngài, Jetsušn vĩ đại. Xin ban chochúng tôi sự che chở bây giờ, trong trung ấm và trong những đời sau.”
Những sự kiện này và những bài ca của Mila được ghi lại trong Một Trăm Ngài Bài Ca.(34)
Những đệ tử cũng đi với ngài đến đèo Kora rồi trở lại Lowo để khất thực. Trong khi đó, Jetsušn tiếp tực đến Ti Se với Seben Repa. Trên cao nguyên trung tâm Drosho có nhiều người chăn gia súc tụ hội ở đó và Mila và Seben đến khất thực. Trước một lều lớn có một người có vẻ là thầy tu Bošn đang nhận đồ cúng dường của những người chăn. Họ đến gần và ngồi xuống. Những đồ thừa từ những cúng dường cho vị thầy tu Bošn được gom lại để cho họ.
Mila và Seben ngồi yên suốt buổi phục vụ cho vị thầy tu Bošn, nhưng khi ông sắp nói lời hồi hướngkết thúc, họ đứng dậy bỏ đi. Người tu sĩ hỏi họ, có vẻ giận dữ, “Tại sao các ông không nghe lờihồi hướng của tôi ?”
“Sự hồi hướng của tôi thì khác với của các bạn. Chúng ta sẽ nói riêng phần mình.”
“Tốt lắm, hãy nói cái của các bạn đi.”
“Ông không cần thiết phải nghe sự hồi hướng của tôi.”
“Nào, tốt lắm, ông không cần phảilưu tâm đến một sự hồi hướngnhân danh cái đuôi và ngực của con trâu yak dành cho tôi.”
“Tôi cũng có quyền nói một lờihồi hướng vì miếng da còn lại này từ những cúng dường cho ông đấy.”
Tu sĩgiận dữ, “Tôi không thán phục sự hồi hướng của bạn, nhưng bạn có thể cầu nguyện vì miếng da thừa của bạn – tôi sẵn sàng nghe bạn nói.”
Thế rồi Mila hát :
Lama từ ái muôn đời Bổn tôn ban cho những thành tựu, Tam Bảo đáng tôn kính của mọi người, Vô sốhộ pháp nhiều như biển của giáo lý – Xin luôn luôn giữ gìn con trong tâm.
Do công đức Của sự cúng dườngthức ăn dư Cho những thiền giả đi khất thực, Nguyện cho tất cả chúng sanh, mà đầu hết Là những thí chủ và con cái các bạn, Có được hạnh phúc tốt nhất trong đời này.
Nguyện các bạn không có khổ đau vào lúc chết Có được một thân người hay trời rỗi rảnh và cơ hội may mắn Trong mọi hoàn cảnh của tái sanh Và sau khi hưởng thụ cái tốt nhất của mọi cuộc đời Cuối cùngđạt đượctoàn giác.
Nguyện tất cả những thiền giả khất thực, Vô số hồn linh v.v... Thỏa mãn với sự cúng dường đồ thừa này Đạt đếncảnh giớithanh tịnh của thực tại.
Trong thực tế, sự cúng dường, hồi hướng và những người cho, Người yêu cầuhồi hướng, người hồi hướng v.v... Đều như một giấc mộng, ảo huyễn và tiếng vang, Như ảo ảnh và những hoa đốm trong không trung.
Vị lama đạo Bošn bấy giờ nói, “Đây là một thí dụ của câu cách ngôn : “Từ đống rác rưởi một con cọp vươn mình lên.” Ông là ai ? Ông từ đâu đến ? Dòng phái của ông là gì ? Ông đã học hỏi ở đâu ? Sự thực hành của ông là gì ?”
Trả lời, Mila hát bài ca này :
Con lễ lạy chân lama của con. Ngài chuyển hóa đất thành vàng, Vàng thành viên ngọc như ý, Và viên ngọc như ý thành nguồn của mọi phẩm tính tốt đẹp.
Bây giờ con sẽ đưa ra vài câu trả lời Cho những câu hỏi của vị thầy đạo Bošn này :
Quê hương tôi là Tsa Rošn trên đồng bằng Gungthang. Tôi đến UŠ và Tsang để học. Vào thời trẻ tôi đã hủy diệt những kẻ thùđáng ghét của tôi Với tà lực, nguyền rủa và mưa đá.
Sau đó tôi cảm thấyhối hậnvô cùng Và đi gặp Marpa dịch giả. Nhận được pháp, tôi lấy thực hành làm mối quan tâmduy nhất. Và khai quangxuyên quamê lầm đến trạng tháitự nhiên. Với sự chứng ngộtrạng tháihiện thực sanh ở bên trong, Giờ đây tôi không còn sợ ngay cả cái chết.
Cái nhìn của tôi là thấy thực tại ; Tôi trau dồi những khí, kinh mạch và hạt. Tôi thực hành trong trạng thái của thực tạihiện tiền – Ba thântự nhiên là kết quả của tôi.
Lama của tôi là Marpa Lotsawa, Dòng của ngài truyền từ Tilopa và Naropa Cho đến bậc chiến thắng Vajradhara. Tôi theo sự thực hành những Tantra Nói Thầm Vào Tai(35) Và như thế đạt được sự làm chủ những khí và kinh mạch.
Vị thầy tu đạo Bošn xúc động mạnh, “Tôi kinh ngạc ! Và những người thực hành Pháp các vị nói gì về tôn giáo Bošn, cái swastika (nghĩa là thực tại) tối hậu ?”
Mila tiếp tục :
Hãy nghe, vị thầy Bošn – tôi sẽ làm an ổn những nghi ngờ, Lồng cũi mê lầm và suy nghĩ sai của ông.
Trước tiên, về nguồn gốc của Pháp Ngài được gọi là Phật Ngài đã khai triển trí huệ sáng soi Qua sự loại trừ mọi huyễn hoặc.
Phật thì không có bắt đầu hay kết thúc – Phật nguyên sơ(36) thì không có nguyên nhân – Điều này thường được nói trong kinh điển. Chúng sanhvô minh từ khởi thủy, Thu góp hành động (nghiệp) qua vô minh ấy. Họ có những thân thểtương ứng, Và như trước, thu góp những hành động khác nhau Với cái thân mới này.
Hành động (nghiệp) có ba thứ – tốt, xấu và trộn lẫn. Hành động bị điều động bởi ba độc Giận ghét dẫn sanh về địa ngục, Tham muốn dẫn sanh hồn ma không thỏa mãn, Và mê lầm dẫn sanh thành thú vật. Hành động trộn lẫn sanh ra những kết quả khác nhau trong ba trạng thái này.
Hành động tốt dẫn đến những trạng thái cao hơn, Và hành động tốt tối cao Làm tăng trưởng hai kho công đức và trí huệ Bố thí, trì giới và nhẫn nhục Là nguồn của công đức ; Và định và huệ, Trong cuộc sống làm người hay làm trời, Là nguồn của đại trí huệ.
Tuy nhiên định mà không có trí huệthấm nhuần, Dầu có tốt đến bao nhiêu, Chỉ dẫn sanh bốn thiền và bốn xứ Ở trên đỉnh của hiện hữusanh tử.(37) Khi nghiệp quả đã hết tận, Người ta lại lang thang trong sanh tử luân hồi.
Tinh tấntham dự vào tất cả các ba la mật kia :(38) Và trí huệ được hoàn thiện Bằng cách hòa hợp định và huệ Qua sự chứng ngộtrạng tháitự nhiên như nó vốn là.
Những kết quả của việc hoàn thành hai kho Công đức và trí huệ theo lối này Gồm pháp thân như hư không cho chính mình, Do bởitrí huệthanh tịnh, Báo thân như một mặt trời giữa hư không Dành cho sự tu hành của những đệ tử đã phát triển, Và hóa thân như những tia sángmặt trời Dành cho những người tu hành kém phát triển, Cả hai đều từ kho công đức.
Cấu trúc này được gọi là “Ba thân tự nhiên là quả” ; Mẩu nhỏ hấp dẫn của giáo lý như thế Là một phần nhỏ của giáo pháp.
Những người ngu càn rỡ của thời trước Nói rằng Bošn và Pháp là anh em. Lý do của điều này Được những người đạo Bošn ngày xưagiải thích như sau :
“Vào khởi thủy không có đất hay trời. Nước, lửa, không khí không hiện hữu. Từ trạng thái trống không nguyên thủy này Mẹ Bošn “Kho Tàng-Không Gian” nổi giận Thở nguyên tố không khí từ miệng bà, Phát ra nguyên tố nước như là nước tiểu, Và chớp sáng ra lửa từ hơi nóng của tâm mình.
“Bà ép răng và móng tay thành nền đất Trên đó cái trứng của hiện hữu được tự sinh, Và từ sự bể vỏ của cái trứng này Sáu loại chúng sanh, thế giớihình tướng và cả đạo Bošn khởi sanh.”
Họ tuyên bố Pháp khởi sanh sau đạo Bošn ! Vì lý do đó chúng là anh em của nhau Theo sự càn rỡ của những người ngu ấy.
Vào khởi thủy trời không hiện hữu. Trời thì tương đương với không gian. Không gian thì tự nhiên trống rỗng Và không thể nói là hiện hữu hay không.
Một “bà mẹ-không gian” trong cái trống không ban sơ này Cũng là điều xằng bậy của những người ngu – Hãy bịt tai ông với hai bàn tay Trước tiếng vang của điều càn rỡ đó.
Theo những nguồn tài liệu mới mẻ hơn Một pháp sưPhật giáo rất thông tuệ Ở trong xứ Ấn Độ Đến thăm nhà một cô gái điếm.
Thức dậy trước bình minh, ông mặc y phục, Nhưng do lầm lẫn ông mặc vào Cái váy của người đàn bà thay vì của mình.
Trở vềtu viện lúc bình minh Người ta thấy ông mặc một cái váy xanh Và ông bị đuổi khỏi cộng đồng.
Sau cùng ông tìm đường đến Tây Tạng Và với cảm nhận khắc nghiệt trong xứ sở lưu đày này Đã sáng tạo một tôn giáosai lầm và đặt tên là Bošn. Vào lúc đó ở miền Thượng Tây Tạng(39) Một đứa con trai do một người đàn bà sanh ra Bởi một con rồng đen vĩ đại và thần lực.
Nó có hai tai rất lớn Và như thế được biết Với cái tên Đứa Bé-Lừa.
Dù nó là con của một con rồng thần lực, Mẹ nó theo đạo Bošn, Thế nên khi cậu bé lớn lên Cũng được học đạo Bošn, Và được gọi là người-Lừa Shenrab.(40)
Bấy giờ nghe danh tiếng Của vị thầy đạo Bošn là Váy Xanh, Shenrab đi qua bình nguyên bao la miền Bắc để đến với ông.
Dòng đạo Bošn mới này Chỉ có từ Váy Xanh và Shenrab. Như thế nếu ông nghĩ : “Nếu cả hai đều dẫn đến cái tối hậu, Đâu là sự khác biệt giữa Pháp và đạo Bošn ?” Tôi sẽ trả lời rằng tổ tiên của đạo Bošn Là người thoái hóatôn giáo, rồng thần lực và ma quỷ – Làm sao nó đưa đến cái tối hậu ?
Như thế đạo Bošn có một dòng dõitổ tôngthấp kém, Và giống như mọi tôn giáo “ngoại đạo” Khác với Pháp ở nguồn gốc quy y : Tam Bảo là nơi quy y cho những người Phật tử, Trong khi Brahma, Isvara và Visnu cho những người ngoại đạo.
Đức Phật toàn hảo là bậc Có thể giải thoát cho những người khác Dù ngài đã giải thoát khỏi sanh tử ; Nhưng những vị trời thế gian như Isvara, Họ còn bị trói buộc vào sanh tử, Chỉ có thể ban cho Những thành tựu thế giannhất thời – Làm sao họ có thể ban cho sự tự do của giải thoát ? Đó là lý do họ được gọi là “ngoại đạo”.
Quả thực những người thực hành đạo Bošn, Có thể chữa bệnh, xóa bỏ những ngăn chướng, Và sở đắc những thành tựubình thường. Nhiều thành tựu giả đạo Bošn Cỡi những cái trống bay qua bầu trời, Đốt những đám lửa lớn trên nước, Cắt sắt bằng một lông vũ, vân vân. Nhưng nếu ông nghĩ đấy là những dấu hiệu của sự phát triển, Tôi sẽ giải thích nó như vầy :
Thiền định về thế giới rỗng không, như huyễn, hình tướng bên ngoài Sẽ chuyển thành tương ứng – Ông đã nghe trở thành một con cọp Bằng cách quán tưởngthân thể ông là một con cọp ?
Thiền định về đất, không khí, lửa và nước Cũng tạo ra như những kết quả, Nhưng gốc rễ của ảo tưởng này Chỉ một vị Phật mới chặt đứt được – Không ai khác có thể phá hủyảo tưởng.
Như thế con đườngchân thật được du hành Khi thực hành những lời dạy của một vị Phật không còn mê lầm – Phật quả không đạt được bằng bất kỳ con đường nào khác.
Nếu người ta bị hạn cuộc vào những thành tựu thế gian, Làm sao người ta đạt đến cái tối hậu Bằng Ấn giáo, Bošn, hay những đường lối khác ? Và nếu bay trên trời là đủ Thì mọi con chim phải là những vị Phật !
Bởi thế, mọi thứ này Chỉ là những dấu hiệu của chứng đắcthế gian Có một bản chấthình tướngbề ngoài, như huyễn Không thể đưa người ta đến giác ngộ. Khi mọi sự được thiền định là hoàn toàn trống không Để có được sự chứng nghiệm về trống không Và cắt đứt ảo tưởng của tâm thức Về huyễn ảo có từ vô thủy, Nó dẫn đến lý thuyếthư vô khiến sa vào các trạng thái thấp Và không thể ngăn ngừa sự tăng trưởng của thống khổ. Hơn nữa, ham muốn có những thành tựu là theo vật chất, Nó cũng cột trói người ta vào sanh tử.
Như thế nếu ông muốn đi vàocon đường không sai lầm, Hai thực tại cần được biết : Thế giới giả tạo và cái tuyệt đối.
Cái giả tạo cũng có hai : Cái giả dối và không thực. Và cái thực nhưng theo điều kiện mà có.
Cái trước, cái giả tạo hư giả – Như cái phản chiếu trong nước hay trong gương – Không được xem là thực thậm chí với con trẻ ở đời. Cái sau, tất cả mọi hiện tượngbề ngoài – Cho đến khi đạt đếnNiết Bàn Có vẻ là thực – Như vậy đều là thực một cách bề ngoài giả tạo.
Để chứng ngộthực tạituyệt đối, Hãy dẹp bỏ những ngăn chướng của hành động và của phiền não Bằng cách thu góp một kho vĩ đại công đức Nhờ bố thí, trì giới, nhẫn nhục và tinh tấn. Và hãy dẹp bỏ sự ngăn chướng với toàn giác Bằng tập trung thấm nhuầntrí huệ.
Bấy giờ bằng cách hòa nhập định tĩnh thuần khiết và quán chiếu, Thực tạituyệt đối được giáp mặt. Đó là con đườngchứng ngộ của những thiền giả repa.
Sự giải thíchchi tiết của Mila về những điểm này qua trung gianngôn ngữ hùng biện của ngài gợi ra niềm tinvững chắc nơi những người nghe. Khi tiếp xúc với Jetsušn, tu sĩ đạo Bošn từ bỏtôn giáo của mình và xin được quán đảnh và dạy dỗ. Ông xoay hướng cái nhìn về mục tiêuthực tại và sau khi hoàn thànhgiai đoạn phát triển được đời biết đến như một thiền giả lão luyện, tuyệt hảo.
Nhân dịp Tết cổ truyền dân tộc - Xuân Quý Mão, thay mặt Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi có lời chúc mừng năm mới, lời thăm hỏi ân cần tới tất cả các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tới chư tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; kính chúc quý vị một năm mới nhiều an lạc, thành tựu mọi Phật sự trên bước đường phụng sự Đạo pháp và Dân tộc!
Trong ngày hội truyền thống dân tộc, toàn thể đại khối dân tộc đang đón chào một
mùa Xuân Quý mão sắp đến, trước nguồn hy vọng mới trong vận hội mới của đất nước,
vừa trải qua những ngày tháng điêu linh thống khổ bị vây khốn trong bóng tối hãi hùng
của một trận đại dịch toàn cầu chưa từng có trong lịch sử nhân loại, cùng lúc gánh chịu
những bất công áp bức từ những huynh đệ cùng chung huyết thống Tổ Tiên; trong nỗi
kinh hoàng của toàn dân bị đẩy đến bên bờ vực thẳm họa phúc tồn vong,
Khi tuyết trắng xóa phủ đầy miền đất Bắc Mỹ và những cơn gió đông rét mướt tràn xuống miền nam của Bắc Bán Cầu cũng là lúc Tết truyền thống Việt Nam đang về với hàng triệu trái tim và gia đình người Việt tha hương. Thay mặt Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNHK, tôi xin kính gửi đến chư tôn Thiền Đức Tăng, Ni và quý đồng hương Phật tử lời chúc mừng năm mới Quý Mão 2023 phước huệ trang nghiêm, thân tâm thường lạc và vạn sự kiết tường.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.