Thuật Ngữ
Ba thân. Ba cách thế
hiện hữu và tiếp thông của một bậc
giác ngộ.
Pháp thân là
tánh Không và sự
chứng ngộ tánh Không,
Báo thân là
phương tiện tiếp thông với những thiền giả cao cấp.
Hóa thân xuất hiện như một
thân thể vật chất trong
thế giới, nhưng
hình sắc và những
hoạt động của nó được điều khiển một cách
chủ ý và cốt ở việc
giáo hóa, chỉ dạy cho những
chúng sanh chưa phát triển. Một thân thứ tư,
tinh túy thân hoặc
tự tính thân (svabhavakaya)
tiêu biểu cho sự hợp nhất của
ba thân trên.
Bošn.
Tôn giáo bản địa của
Tây Tạng.
Bồ đề tâm.
Ý định đạt đến giác ngộ cho mình để giúp đỡ,
giải thoát cho những
chúng sanh khác. Nó không phải là
bản thân giác ngộ, mà là sự
nỗ lực mong muốn
đạt đến giác ngộ vì
lợi lạc của
chúng sanh. Trong
Đại thừa nó là cái bổ sung
cần thiết cho
quán chiếu thấu suốt vào
tánh Không và trong Mật thừa là tiền đề sơ bộ để
thực hành thật sự.
cầu nguyện (pranidhana). Sự
cầu xin với chư Phật chư
Bồ tát nhân danh tất cả
chúng sanh, nhằm
cung cấp cho họ
lợi lạc, cả
tâm linh lẫn tạm thời. “Cầu nguyện” gồm cả
cầu nguyện và
quyết tâm giúp đỡ
chúng sanh, cái sau thay chỗ nghiệp và
phiền não để tạo ra sự
tái sanh và những khả năng siêu thường của một
bồ tát.
chiến sĩ (TT. dpa bo). Nhân vật nam của mật thừa.
chủng tử tự (bija).
Âm thanh một âm
hiện thân một nguyên lý
vũ trụ, một
thực tại bổn tôn hay một tiến trình
tâm linh.
chướng. Hai thứ
Phiền não chướng (klesavarana) che chướng sự
thoát khỏi khổ của
niết bàn.
Sở tri chướng (jneyavarana) là những
tri giác sai lầm căn bản về
thế giới, chúng che ám
giác ngộ trọn vẹn.
cõi pháp,
pháp giới (dharmadhatu).
Thực tại tối hậu của mọi sự.
Dakini. Những vị thần mật thừa, phái nữ, giúp đỡ thiền giả và
trông coi sự
thực hành và hạnh kiểm của thiền giả.
dấu in (vasana)
tập khí,
ấn tượng. Những dấu vết
tâm thức của
kinh nghiệm và hành động
quá khứ làm
sanh khởi hoàn cảnh sanh tử hiện tại.
đại ấn. Một
thực hành cao cấp được xếp vào hàng
Vô thượng (anuttara) Tantra Yoga ; nhắm đến sự phát hiện trực tiếp
thực tại tự nhiên của
thế giới biểu hiện
bề ngoài.
định tĩnh (samatha). Sự làm yên tĩnh có
hệ thống hoạt động tâm thức nhờ
thực hành tập trung
nhất tâm. Nó là
phương tiện để
đạt được tám cấp độ thiền và tiền đề để
thực hành quán chiếu phân tích.
geshe (kalyanamitra). “Bạn tâm linh” ; một
danh hiệu dành cho một người có
thẩm quyền đặc biệt về
kinh điển và những
chủ đề Phật giáo căn bản.
giác ngộ.
Trạng thái Phật quả do
hoàn thiện hai kho
trí huệ và
công đức và
xóa bỏ hai chướng. Đó là cấp độ
chứng đắc duy nhất vượt khỏi
sanh tử.
giai đoạn, hai (krama). Hai giai đoạn của
thực hành Mật thừa. Cái thứ nhất, giai đoạn phát sanh (utpattikrama) gồm sự phát sanh
quán tưởng những bổn tôn và trụ xứ của các vị. Cái thứ hai, giai đoạn
thành tựu (utpannakrama) là sự
thành tựu của tiến trình này do
tri giác tánh Không của mọi
hình tướng xuất hiện.
hạt (bindu). “Những chất” của
hệ thống tâm
sinh lý của thiền giả. Trong mật thừa, bindu trắng hay chất trắng, tương đương với
Bồ đề tâm. Nó phải được “nấu chảy” ở
trung tâm đầu và “nhỏ giọt” xuống kinh mạch trung ương xuống các
trung tâm phía dưới, tạo ra bốn cái “xuất thần”.
hậu
chứng đắc.
Trạng thái theo ngay sau bất kỳ
kinh nghiệm trực tiếp,
siêu việt nào về
tánh Không, cái này gọi là “trạng thái
chứng ngộ thực sự”. Trong
trạng thái chứng ngộ thực sự,
tri giác về
thế giới bề ngoài nhường chỗ cho
tri giác về
tánh Không của
thế giới, nhưng trong
trạng thái hậu
chứng đắc,
tri giác định kiến về
thế giới bề ngoài trở lại làm
biến chất một cách
vi tế kinh nghiệm trước đó.
hiểu biết (jnana). Tổng quát, là
hiểu biết hay Trí ;
đặc biệt, là
trí huệ nhờ đó
thế giới giả tạo
bề ngoài và
thật tánh của nó được
tri giác đồng thời.
hình tướng xuất hiện,
thế giới bề ngoài (TT. snang ba).
Thực tại như nó
xuất hiện với một
cá nhân bình thường. Với một người như vậy,
tri giác của họ bị
điều kiện hóa, bị méo mó khiến họ
kinh nghiệm thực tại trong
hình thức những sự vật rời rạc,
cô lập. Đồng nghĩa :
thế giới huyễn ảo,
thực tại giả tạo
bề ngoài.
hồi hướng (parinama). Sự
chia xẻ với những người khác hành động
đức hạnh của mình,
thực hành thành công của mình và
chứng đắc của mình. Nó cốt ở
cầu nguyện,
quán tưởng, và
thái độ chúng khép lại mỗi
thời thực hành, và cũng gồm sự
hồi hướng theo
thủ tục của những thiền giả khi nhận
thực phẩm.
huyễn,
hư vọng (mayopama, bhranti). Mayopama, “như huyễn, như một trò huyễn thuật”,
nhấn mạnh sự kiện rằng
tâm thức làm méo mó
kinh nghiệm về
thực tại theo kiểu một nhà
ảo thuật làm
sai lạc những
tri giác của
chúng ta.
Tri giác bị
quy định, bị
điều kiện hóa của
chúng ta khiến cho
thế giới xuất hiện như một cái gì không là như vậy.
khí (prana). Những
sức mạnh tâm-vật lý của
tâm thức,
thân thể và môi trường.
kho, hai (sambhara). Hai
sự tích tập
thần lực cá nhân : kho
công đức căn cứ trên hạnh kiểm và
nghi lễ, và kho
trí huệ. Khi đã đầy đủ, hai kho
cung cấp những
yếu tố cần thiết để
hoàn thành kinh nghiệm trực tiếp về
tánh Không.
không
phân biệt (niravalamba). Trong
trí huệ,
tri giác thoát khỏi những sự bị
quy định định kiến, chúng đã “tạo ra” những bản sắc
độc lập của
thế giới giả tạo
bề ngoài.
mantra (
thần chú).
Âm thanh trong
hình thức các chữ và lời có thể tương thông với những
thực thể các bổn tôn mật thừa,
ban cho những
thần lực siêu nhiên (siddhi) hoặc làm tịnh hóa và đưa đến
chứng ngộ.
niết bàn. Sự dừng dứt của khổ đau
cá nhân do nhổ dứt mọi
phiền não. Trong
Đại thừa,
niết bàn được dùng
phân biệt với
giác ngộ.
Giác ngộ bao gồm không chỉ sự nhổ dứt
thống khổ mà còn là sự
chứng đắc những khả năng chỉ có Phật chứng được và những
huệ quán vào
thực tại.
phiền não. Những
tác động của
tâm thức ngăn che sự tĩnh lặng của
niết bàn. Có sáu
phiền não chủ yếu :
vô minh, tham, sân, nghi,
kiêu mạn và những
tà kiến ; và một số
phiền não phụ.
phương tiện (upaya). Sự biểu hiện
năng động của
Bồ đề tâm. Nó là cái bổ sung của
trí huệ ba la mật, làm
quân bình những phát giác mãnh liệt của
trí huệ và là cái mà
bồ tát dùng để
liên hệ với
chúng sanh, khéo léo (
thiện xảo) chuyển mỗi
hoàn cảnh thành một cơ hội cho sự
tiến bộ của tất cả.
phương tiện xã hội, bốn (samgrahavastu,
tứ nhiếp pháp). Bốn
thực hành của một
bồ tát chủ yếu vì
lợi lạc của những người khác :
bố thí,
giao thiệp tốt,
tham dự vào sự phát triển của người khác và
phụng sự như một tấm gương cho những người khác.
quán chiếu phân tích (vipasyana). Tiến trình khảo sát
chi tiết đối tượng
thiền định cũng như là cách thế
hiện hữu của đối tượng đó. Nó
bao gồm tư tưởng và nhằm thấu rõ tiến trình
ý niệm. Kết quả của nó là sự
tiếp nhận tri giác trực tiếp về
tánh Không.
repa. Một thiền giả đã làm
hoạt động nội nhiệt bằng yoga tummo và như vậy chỉ mặc một áo vải mỏng dù trong
mùa đông.
Siddha.
Thành tựu giả ; người
thành tựu những siddhi.
siddhi. Những
thần lực siêu thường khai triển từ
thực hành yoga :
thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông, bay lên,
tha tâm thông, và
kiểm soát được
thân thể và
thế giới bên ngoài. Mọi
thành tựu (siddhi) đều là
thế gian,
sanh tử, chỉ trừ sự
thành tựu tối thượng là
giác ngộ.
tantra. Những
kinh điển của Phật
Thích Ca và những vị Phật khác
liên hệ đến sự
thực hành bí mật, mật thừa.
tánh Không (sunyata).
Bản tánh thực sự của mọi sự vật ; sự không có bản sắc,
tự tánh của
bản ngã con người và của sự vật.
tạo tác (prapanca). Dòng bên trong của sự
ý niệm hóa được điều khiển bởi những
định kiến đã in dấu.
Từ ngữ này gồm cả hai cái : dòng chảy bên trong của
tư tưởng tạo dựng và cái ngã cùng môi
trường sinh ra từ những
định kiến đã in dấu đó.
Thân-huyễn. Thân được
tâm thức kiểm soát của một thiền giả
thành tựu. Đồng nghĩa : thân-cầu vồng, thân-kim cương.
thiền, những cấp độ thiền (dhyana). Những
trạng thái riêng biệt, siêu-vững chắc
đạt được qua sự làm định
tĩnh tâm thức bằng tập trung
nhất tâm. Có tám cấp độ
liên tiếp nhau của định tĩnh (tám thiền), loại trừ
tư tưởng và những vọng động của
tâm thức. Bốn cái đầu thuộc về cõi sắc và bốn cái sau thuộc về cõi
vô sắc. Sự kéo dài của chúng thuộc vào
sức mạnh của tiến trình loại trừ
vọng niệm. Chúng là những
trạng thái chung cho mọi yoga và về
bản chất hoàn toàn thuộc
sanh tử.
thức căn bản (alayavijnana). Thức thứ tám, theo
hệ thống Duy Tâm do Asanga phát triển trong thế kỷ thứ năm. Nó là tầng nền của thức
cá nhân,
mang theo những dấu in của những “chủng tử” của những
kinh nghiệm quá khứ và tương lai.
thực tại, hai (satyadvaya). Hai cách thế
hiện hữu của những
hiện tượng.
Thực tại bề ngoài (samvrtisatya,
tục đế,
chân lý quy ước) là
thế giới xuất hiện trong
hình thức những bản sắc
độc lập theo
tri giác bình thường bị
quy định bởi những
định kiến.
Thực tại tuyệt đối (paramathasatya,
chân đế,
chân lý tuyệt đối) là
tánh Không của tất cả mọi
hiện tượng, đó là sự không có bản sắc,
tự tính độc lập của chúng.
thực tại bề ngoài,
thế giới bề ngoài (samvrtisatya).
Thế giới như nó
xuất hiện khi
tri giác bị
quy định bởi những
quy ước ngôn ngữ. Danh từ “thực tại”
nhấn mạnh sự kiện rằng do tính tự
nhất quán của nó, nó có vẻ là một
thực tại vững chắc với
chúng sanh bình thường.
tiệc vòng tròn : Một tiệc cúng được
chúng hội dakini
tham dự.
tịnh quang (TT. od gsal, Skt. abhasvara).
Kinh nghiệm về
trạng thái tự nhiên, nguyên sơ, không tạo tác chỉnh trị của
tâm thức.
tummo (canda). Sức nóng bên trong (
nội nhiệt) được khai triển bởi một loại yoga mật thừa.
tự tánh (svabhava). “Bản sắc nội tại” của mọi sự.
Tâm thức bình thường chia ngăn
kinh nghiệm của nó thành những đối tượng
xuất hiện như những
thực thể độc lập, riêng rẽ. Sự
vắng mặt bẩm sinh “bản sắc” trong
con người và sự vật chính là
tánh Không còn gọi là
vô tự tánh, nó là cách thế
hiện hữu chân thật.
trạng thái tự nhiên (TT. gnas lugs). Cách thế
tự nhiên của sự
hiện hữu của tất cả mọi sự ;
trạng thái tâm thức trong đó
kinh nghiệm không bị méo mó bởi những
tri giác định kiến về những bản sắc.
trí huệ (prajna). Tổng quát, mọi
hiểu biết đúng.
Đặc biệt,
trí huệ siêu việt (
ba la mật),
trí huệ trực tiếp về
tánh Không của người và vật. Trong một
kinh nghiệm như vậy,
tri giác về
thế giới giả tạo
bề ngoài tạm thời bị biến mất.
Vajradhara. Phật siêu sử, nguồn gốc của dòng Kagyu.