Thế Giới của Milarepa
Đạo sư Ấn Độ Phadampa Sangye
một lần nói với Jetsušn Milarepa : “Dòng phái của ông giống như một dòng sông – nó sẽ chảy rất dài.” Và
quả thật, nó đã giữ được
sinh lực và
sống động cho tới ngày nay. Không phải
ngẫu nhiên mà những lời dạy
ứng khẩu thành
bài hát của Milarepa đang nhận được sự chú ý từ những
hành giả của
thế giới Tây phương, bởi vì
tình hình tôn giáo của
chúng ta rất giống với thời của Mila.
Cho đến khi
Phật giáo đi vào Tây Tạng, dân chúng hầu hết là những người chất phác về
tôn giáo, theo một sự tôn thờ bùa phép
phức tạp. Khi
Phật giáo bắt đầu được thâu hóa qua
giáo huấn của
đại diện nhiều trường phái, một tiến trình
đánh giá,
thích ứng và hòa nhập xảy ra, để lại trên lối đi của nó những
tâm hồn tôn giáo thức tỉnh mới mẻ. Cũng như thế ở
Tây phương, những
truyền thống tôn giáo của
chúng ta đã được
thiết lập từ hàng nhiều thế kỷ như là một
chấp nhận mặc nhiên một số
niềm tin và
giáo điều hơn là một sự
thực hành để
giải thoát cho chính mình. Và ở đây
ảnh hưởng của những
hệ thống tôn giáo Đông phương cũng có sự
thúc đẩy phụ trợ cho sự sanh ra một
ý thức hiểu biết hơn về
bản chất tâm linh của
chúng ta và tiềm năng của nó.
Một
yếu tố chính cho sự
chuyển đổi sâu xa trong bất kỳ thời nào là sự
rối loạn bất định. Đối mặt với nhiều sự
lựa chọn trong
niềm tin và
thực hành như vậy, người
Tây Tạng vận dụng
cảm quan căn bản của họ trong
viễn cảnh và khuynh hướng về sự thống nhất, cũng như
chúng ta, với
tính cách hướng đến sự xác định những nguyên lý thống nhất của sự vật, luôn luôn đi tới một
quan điểm hợp nhất và
trật tự về
vũ trụ. Cả hai nền
văn hóa đôi khi bị rơi vào cùng những
lầm lẫn trong việc thâu hóa sự việc mới này : quá
đơn giản hóa đến mức không dùng được, trộn lẫn những
yếu tố khác biệt thay vì hội
nhập chúng vào một
hệ thống thống nhất, tư biện
trí thức không khơi mở được sức sống mới, và sự
gắn bó giáo điều vào một cách
giải thích hơn mọi thứ khác.
Trong những
thời kỳ chuyển biến như vậy, những
con người có khuynh hướng
thực tiễn lưu ý trước tiên đến sự
đánh giá những
hệ thống tư tưởng khác nhau để xác định “sự
thực hành chân chánh”. Milarepa
xuất hiện trong lúc một số
hành giả cũng dấn thân như vậy. Một số
theo đuổi sự
tìm kiếm trong những nhóm lớn hoặc nhỏ của các
tu viện, trong khi số khác, như Milarepa lang thang núi đồng theo kiểu sống sannyasin của
Ấn Độ – tóc dài,
xa cách xã hội, không nhà cửa,
tài sản,
khất thực trên những đường làng và
thiền định trong những chốn
ẩn cư hẻo lánh. Đây là sự khác biệt có
ý nghĩa nhất giữa môi trường
văn hóa của Milarepa với
chúng ta. Trong xứ
Tây Tạng thời Milarepa cũng như ở
Ấn Độ trước đó, có sự
công nhận của
xã hội và ngay cả sự
kính trọng đối với việc
theo đuổi giải thoát cho chính mình. Dầu cho nó vượt khỏi quan kiến của
đa số dân chúng, có một
không gian hiện hữu ngoài những
biên cương của những
hình thức xã hội giành cho những ai muốn bỏ
gia đình và
tài sản vì cơ may
mong manh đạt đến giác ngộ.
Dù với sự
chấp nhận của
xã hội,
đời sống cũng không dễ dàng cho một thiền giả vào thời Milarepa. Có sự
cạnh tranh từ những người ăn xin
đói khát khác và từ những cơ cấu
tôn giáo được
thiết lập vững chắc hơn. Không luôn luôn dễ dàng để xin một
bữa ăn từ những người
nông dân nghèo đã
mệt mỏi vì nhu cầu của những người
xa lạ với cặp mắt
hoang dã trong làng của họ. Đối với những dân làng này Milarepa là một
kinh ngạc và
thích thú thường trực. Ngài
tiêu khiển cho họ bằng những
bài hát, khiển trách và phê phán, tán tỉnh, kể những chuyện mua vui
châm chọc, và khuyến khích họ với lòng
đại bi của mình. Ngài dạy họ
Chánh Pháp, và qua
mọi việc đó luôn luôn chiếu sáng tính độc nhất của nhân cách ngài,
sức mạnh thẩm thấu của
trí năng ngài và sự tỏa sáng của sự
chứng đắc của ngài.
Cuộc đời của Mila và nhiều kỳ công của ngài đã được kể lại rất hay trong
tiểu sử và Một Trăm Ngàn Bài Ca. Ngài thường giải bày chính mình và kể
câu chuyện đời ngài nhiều lần, như trong bài đầu tiên của cuốn sách này. Ngài sinh năm 1052 trong một
đô thị nhỏ của miền quê
Tây Tạng. Tên
gia đình của ngài là Mila truyền từ một nội tổ được xem là có những
thần lực phù thủy, và ngài được đặt là Thošpa Ga,
Vui Vẻ Nghe. Nhờ công việc buôn bán
thành công của cha,
gia đình ngài
giàu có trong làng ; nhưng cái chết của cha ngài khi Mila và em gái còn con nít, đã làm cho họ thành kẻ không nhà. Họ còn là nạn nhân của bà cô và ông chú,
ép buộc người mẹ và hai đứa con làm việc như đầy tớ và người lao động. Mila bỏ đi và theo lời
chỉ bảo của mẹ, đến học với một người bùa phép
thông thạo những
năng lực siêu nhiên. Mila có một khuynh hướng
tự nhiên với những điều huyền bí và đã nhanh chóng sở đắc những
năng lực hủy hoại,
đặc biệt là
năng lực tạo ra những trận mưa đá tàn phá. Trang bị như vậy rồi, Mila
trở về làng mình để làm
thỏa mãn ước muốn
báo thù của mẹ. Ngài phạm vào việc giết hại tất cả
gia đình người cô và trốn đi. Sau đó ngài
hối tiếc cho những hành động của mình và những
nghiệp quả khổng lồ của những hành động ấy. Hiểu rằng
việc làm ấy cần được
sửa chữa lại
trong đời này để tránh một
tái sanh rất xấu sau này, ngài đi tìm sự
dạy bảo trong
Phật giáo. Vị thầy đầu tiên của ngài thuộc về cựu phái, tức là phái Nyingma,
bảo đảm với ngài rằng
hệ thống của ông sẽ đem lại những kết quả
chắc chắn và
tức thời. Sau một
thời gian thực hành không kết quả, vị thầy bảo với Mila rằng mối
liên hệ nghiệp quả của ngài thì mạnh hơn với một lama khác tên là Marpa Lotsawa, “Dịch giả họ Mar”, và gởi Mila đến tìm gặp vị này.
Marpa là một người lạ thường. Ông là một người chủ
gia đình, một bậc thầy Mật thừa vĩ đại, và là một dịch giả nhiều
kinh điển Phật giáo tiếng Phạn, chúng đã
trở thành một phần
tiêu chuẩn của
đại tạng kinh Tây Tạng. Ông đã
sống sót sau vài chuyến đi khó khăn và nguy hiểm đến
Ấn Độ trong đó nhiều bạn
đồng hành đã chết. Ở
Ấn Độ, vị thầy chính của ông là Naropa, và thầy của Naropa là Tilopa, vị này đã nhận những
giáo pháp từ
đạo sư bổn nguyên của họ là Phật Vajradhara,
đức Phật nguyên sơ của dòng phái Kagyu.
Trở về Tây Tạng, Marpa dịch những kinh sách đã học được ở
Ấn Độ và trao truyền những
giáo phái cho những
đệ tử.
Trong dạy dỗ, ngài Marpa
biểu lộ một nhân cách cứng rắn và
đe dọa trên
bản chất ấm áp và
từ bi của mình.
Phương cách làm việc này đối với các
đệ tử tỏ ra đặc biệt thích hợp cho Mila-repa, người có nhiều
yếu tố tiêu cực và những
chướng ngại về nghiệp lớn lao cần được tẩy trừ. Marpa bắt Milarepa chịu vài năm
thử thách làm nản lòng trước khi trực tiếp chỉ dạy. Sau sự tịnh hóa và lòng thiết tha được
kích thích dữ dội như vậy, Mila
hoàn toàn hiến mình cho việc
thực hành những
giáo pháp này, mới được chuyển từ
Ấn Độ qua trồng trên đất
Tây Tạng. Ngài đã
thành công, hoặc người
Tây Tạng đã tin như thế, và
đạt đến mục đích của mình là xác chứng
bằng kinh nghiệm
hệ thống giải thoát của
Phật giáo, để lại trên lối đi của mình những
thế hệ hành giả thành tựu và rất nhiều chỉ dạy bằng bài ca.
Khi Mila đã từ giã Marpa và sống tự mình, ngài đã
theo đuổi sự
thực hành liên tục, hầu hết là ở trong những động nơi núi non hẻo lánh của vùng tây nam
Tây Tạng và tây Nepal. Sự
thực hành khổ hạnh của ngài suốt năm chỉ mặc một chiếc áo vải khiến ngài có tên là “repa”, thêm vào với tên
gia đình là “Milarepa”.
Thỉnh thoảng ngài viếng thăm một làng hay chỗ cắm lều của những người chăn
gia súc để xin
thức ăn, và đổi lại ngài hát những bài ca chỉ dạy
ứng khẩu, một tục lệ đã có trong thời của ngài. Sự việc đôi khi khó khăn, nhưng Mila luôn luôn
biểu lộ một sự
can đảm không thể khuất phục được trong khi đối mặt với những cản ngại cho
thực hành và những
hoàn cảnh đối nghịch. Rồi
tiếng đồn về ngài lan truyền trong dân chúng, và người ta tin ngài là một siddha
thành tựu.
Danh tiếng không làm
vui lòng ngài, và ngài không dễ gặp được. Người ta có thể nghĩ ngài là một thiền giả
quan tâm đến
lợi lạc riêng đến nỗi mất mọi
lưu ý đến những tương quan
con người và nhìn sự
tiếp xúc xã hội như là
rắc rối không
cần thiết. Mila đã
ghi nhận những
cảm giác như vậy trong những bài ca của mình, và hình như ngài luôn luôn từ chối những người muốn
trở thành đệ tử và vật
cúng dường của họ ; nhưng đây đúng là một
nghịch lý trong nhiều
nghịch lý của nhân cách độc đáo của ngài – những
nghịch lý ngài đã dùng rất
thiện xảo trong việc
giáo hóa dân chúng. Mila có một cảm thức khôi hài
châm biếm nghiêng về sự chế giễu và
tuyệt đối bộc trực và
thẳng thắn với người khác. Nhưng không phải ngài không có
phương pháp, trên bề mặt thì khác với cách của Marpa, nhưng
phán đoán từ con số những
đệ tử thành tựu, có khi còn
hiệu quả hơn. Ngài có một số lớn
đệ tử so với một người
cố gắng tránh gặp gỡ
con người như vậy. Họ bị lôi kéo về phía ngài, như những vệ tinh không cưỡng
chống lại sức hút bất khả kháng của một hành tinh lớn : những người
cô độc, những
học giả, những
đệ tử của các vị thầy khác. Và còn
vô số nông dân và chủ
gia đình mà
ước mong siêu thoát được làm bùng cháy lên khi gặp gỡ thiền giả vĩ đại này.
Để
hiểu biết Milarepa, hãy cân sức nặng những
lời nói so với những hành động của ngài ; chính trong những trái nghịch và bổ sung của chúng mà sự đối xử khéo léo của nhân cách Milarepa và những mối tương quan được mang ra ánh sáng.