Có nhiều người hỏi tôi rằng: Sau ba tháng Thầy
nhập thất năm rồi (2003) tại Úc, Thầy thấy được gì?
Tôi
trả lời rằng: Có hai cái thấy. Một cái thấy bên trong và một cái thấy bên ngoài. Cái thấy bên trong là
biết mình thêm một chút nữa và rõ được nẻo đi về của một
hành giả tu theo
Tịnh Độ Tông. Bên trong thì chỉ có vậy. Còn bên ngoài thì
vô số chuyện mà có lẽ
chúng ta ít
để ý đến, nên xin kể một vài
câu chuyện để hầu quý vị.
Tôi và quý Thầy, quý Chú ở trên
núi rừng này năm rồi là năm vị và năm nay bốn vị. Ở đây không có truyền hình và truyền thanh, nhưng
chúng tôi biết được ngày nào sẽ nắng và ngày nào sẽ mưa. Đó là do những
động vật chung quanh mình
báo hiệu. Ví dụ như tối nay thấy những con mối bay đầy vào cửa sổ là biết
chắc chắn rằng ngày mai sẽ mưa to. Hoặc thấy những con kiến hùm càng to làm những bờ thành cao chung quanh ổ của chúng là thế nào cũng sẽ có một trận mưa
dữ dội về đêm. Đêm nghe tiếng ve sầu càng cao giọng và càng lâu thì biết ngày mai sẽ
nắng gắt. Không biết những con vật này có
giác quan nào để đo mà biết
chính xác đến 100% như thế. Nhiều khi còn hơn cả Nha Khí Tượng nữa. Nha khí tượng lúc nói mưa thì trời không mưa, còn nói không mưa thì trời mưa, chứ những con vật này nó biểu hiện những hành động đúng
chức năng của nó.
Con kiến
bình thường nó đào lỗ thật sâu và mỗi ngày chúng mang đất lên khỏi miệng hang rất
chuyên cần. Hình như con nào cũng phải có bổn phận ấy. Còn con nào đi tha mồi về thì con đó có bổn phận chỉ tha mồi, con khác không giành mồi của con này. Không biết khi đem vào tổ, chúng có ăn chung hay không thì không rõ, nhưng ở bên trên mặt đất thì thấy cùng một loại kiến, chúng sống
với nhau hòa bình lắm.
Có một điều cũng hơi
ngạc nhiên là những con kiến nhỏ rất hung tợn, đôi khi dọa nạt và
ăn thịt những con kiến lớn khác chủng loại. Con kiến lớn có cái càng dài thì khó mà cắn con kiến nhỏ được, nhưng những con kiến nhỏ thì ngược lại,
lợi dụng thế nhỏ con của mình khi một con kiến lớn bò về gần miệng hang thì đầu tiên là một rồi hai, ba, bốn con nhỏ bu vào chân con kiến lớn, cắn con kiến lớn đến cong mình rồi phải nộp mạng cho một lũ kiến nhỏ như thế. Ở đây có lẽ con kiến lớn không dùng đến trí. Còn những con kiến nhỏ ỷ thế đông nên làm càn chứ thật ra
chúng nó cũng không dùng đến
trí khôn chút nào cả. Điều này
con người khác chúng là vậy.
Nhưng tại sao chúng biết mưa bão đến, thì phải
chịu thua. Không hiểu có ai
nghiên cứu về loại côn trùng này không, chứ ở nơi
núi rừng này tôi đã thấy qua như vậy. Mà ở đây không phải chỉ có một loài kiến mà thôi. Theo tôi nghĩ
ít nhất cũng chừng hai mươi loại. Có con nhỏ rí, chúng sống thành bầy rất vui nhộn. Có con giống cây kim màu đen, đầu dẹp. Có loại kiến màu hồng chừng 1 cm. Có loại màu đen to. Cũng có những loại màu đỏ. Loại này có con 1 cm, có con 2 cm và có con đến 4 cm cũng không chừng. Có lẽ chỉ có núi đồi của xứ Úc này mới có những con kiến như thế. Chứ ở Âu Châu thì hiếm thấy lắm.
Nhiều lúc tôi mang cho chúng đường, kẹo, bánh mì, cơm, gạo v.v... nhưng chúng chả thèm ăn. Chúng chỉ ăn
xác chết của những con cuốn chiếu hay ruồi muỗi và ngay cả xác của những con kiến khác loài, chứ
nhất quyết không ăn những loại mà chúng ít bắt gặp.
Tuy nhiên cũng có nhiều loại
động vật bốn chân ăn những rau quả, cơm gạo
dư thừa mà mỗi buổi chiều sau khi ăn cơm xong tôi vẫn thường mang ra cho chúng. Đến sáng mai ra rừng
kiểm soát lại thì chúng ăn sạch nhẵn không còn để sót một chút gì.
Quan sát thật kỹ thì thấy những bàn
chân thật lớn. Đây có lẽ là loại kỳ đà. Ban ngày nhiều lúc tôi thấy nó bò ngang vườn của
tu viện này, có con dài cả hơn một thước và nếu đem cân, chắc chúng nặng cũng chừng 50 kg là ít. Ở trong rừng này mỗi lần
đi xuống suối
chúng tôi men theo dấu chân đã đi mòn của những con vật này để
nhận biết đường đi và lối về. Ở đây là giang sơn riêng của chúng cả ban ngày lẫn ban đêm.
Trên cành cây thì có không biết bao nhiêu là loại chim, đủ màu đủ loại.
Dạn dĩ nhất là chim két. Năm rồi khi
chúng tôi nhập thất tại đây, mỗi buổi sáng chúng
thường hay đậu trên mái nhà liếc qua rồi liếc lại như
tỏ ý biết nghe kinh. Rồi đến lúc về lại Đức, có cả 18 con bay liệng trước xe như để
tiễn đưa chúng tôi vậy. Năm nay khi
trở lại Pháp Bảo. Thầy Phổ Huân bảo rằng: Con có lên ở trên thất cả hai tháng nhưng chẳng thấy con nào đến. Có phải
lúc ấy là
mùa đông nên các con Két này đi kiếm ăn xa chăng? Nên đã không có mặt. Rồi năm nay khi đoàn của
chúng tôi trở lại thì những con két ấy có màu sắc rất đẹp, sặc sỡ như chiếc y màu áo của
Đức Phật A-di-đà, mỗi sáng vẫn đến nghe kinh và trông có vẻ
trìu mến lắm. Năm nay chỉ còn ba con và một ít chim con. Còn những con khác thì chưa thấy bay lại đây hay đã vì
vô thường mà chúng đã bị
mai một rồi không biết nữa.
Sáng nay (11.12.2004) Thầy Đồng Văn và chú Hạnh Đức
phát nguyện đi bộ từ đây về chùa
Pháp Bảo độ chừng 40 km và theo
Hòa Thượng Bảo Lạc thì Thầy ấy đã đi 7 tiếng đồng hồ. Lúc khởi đầu đi cũng có ba con két thật đẹp vào
tiễn chân Thầy và Chú hạ san. Trông thấy cảnh này thật
cảm động. Những con vật này thấy được gì nơi
chúng tôi thì không rõ, nhưng
chúng tôi thì thấy chúng muốn gần gũi
con người. Có lẽ vì
loài người lúc nào cũng muốn hại chúng, nên chúng chẳng dám gần chăng? Chứ những con két rừng này
bình thường thì khó mà gần chúng được. Thế mà chúng đã đến với
chúng tôi. Thật là
bất khả tư nghì.
Ngoài ra còn
vô số con chim hoàng oanh, se sẻ, quạ, két trắng, chuột, châu chấu, cào cào, ve sầu, dế, kangoorou, v.v... và v.v... Chúng ở gần
chúng tôi trong rừng này. Hôm nay vẫn còn
thiên nhiên như thế, nhưng chắc 10 năm nữa thì nơi đây cũng giống
Pháp Bảo bây giờ.
Hơn 20 năm về trước,
Pháp Bảo là một khu đất trống đầy cây, nhưng bây giờ là phố thị, thì
Đa Bảo này có lẽ cũng vậy thôi.
Thời gian sẽ thay đổi tất cả. Chẳng có cái gì
đứng yên một chỗ,
như định luật thành, trụ, hoại, diệt mà
Đức Phật đã nói từ lâu rồi.
Năm nay là năm
nhập thất lần thứ 2 của tôi tại đây, tôi đã bắt đầu dịch quyển “Đại Thừa Tập
Bồ Tát Học Luận” (Siksasamuccaya) của Ngài Santideva
Tịch Thiên là
tác giả. Trong Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh, Tập 32, quyển số 1636, thuộc Bộ Luận Tập, chỉ có 70 trang mà tôi và Thầy Đồng Văn đã dịch ra khoảng 230 trang đánh máy A4. Nếu in thành sách khổ A5 cũng sẽ bằng quyển Đại Đường Tây Vức Ký của tôi dịch năm rồi. Nghĩa là khoảng 450 trang. Có người dịch là
Giáo Tập Yếu và chữ Santideva dịch là Bình Thiên, nhưng đó chỉ là dịch theo âm thôi chứ không phải dịch theo nghĩa, nên có chỗ sai khác ấy.
Có nhiều người cho rằng Ngài Santideva là
tác giả của ba quyển: Một là Siksasamuccaya-
Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận và hai là Boddhi-Caryatara-
Bồ Tát Hạnh và ba là Sutrasamuccaya-
Kinh Tập Yếu. Nhưng đa phần các
học giả đều cho rằng quyển
Kinh Tập Yếu này
tác giả là Ngài
Long Thọ (Nagarjuna).
Tác phẩm Bồ Tát Hạnh thì đã được Thầy Trí Siêu
đệ tử Hòa Thượng Thích
Huyền Vi dịch sang tiếng Việt từ tháng 7 năm 1990. Thầy ấy dịch
dựa vào bản tiếng Anh, tiếng Pháp và một ít
tài liệu Tây Tạng, và năm 1985
Hòa Thượng Thích
Huyền Vi đã
dịch Kinh Tập Yếu ra tiếng Việt và lấy nhan đề là Yếu Nghĩa
Phật Pháp.
Năm nay (2004) tôi đã dịch quyển
Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận này của Ngài Santideva sang tiếng Việt xong. Như thế là phần
tác phẩm của Ngài đã đủ. Riêng
tiểu sử của Ngài Santideva quý vị có
thể tham cứu nơi
sách Bồ Tát Hạnh của Thầy Trí Siêu dịch hoặc
tham cứu nơi phần
lời nói đầu của sách
Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận mà nay mai
Viên Giác sẽ xuất bản ấn tống để có
tài liệu thật đầy đủ về vị
Đại Sư này.
Trong khi dịch, tôi đọc bản văn chữ Hán nơi
Đại Tạng ra tiếng Việt để Thầy Đồng Văn và chú
Thiện Tánh đánh máy vào computer. Sau đó in ra
sửa chữa lần thứ nhất do tôi dò lại.
Tiếp theo Hòa Thượng Bảo Lạc giảo chánh lại
một lần nữa mới đưa đi dàn trang. Sau khi dàn trang tôi
xem lại một lần cuối nữa trước khi đưa đi in. Như vậy đã qua nhiều công đoạn, nhưng
chắc chắn cũng còn sai sót. Vì văn này được dịch từ chữ Phạn sang tiếng Hán từ thế kỷ 7, 8, mà nay đến thế kỷ 21 mới chuyển ra tiếng Việt, do vậy đôi khi ý từ có chỗ trùng lặp, hoặc câu văn không được
gãy gọn lắm. Cũng do chỗ học của
chúng tôi còn kém cỏi đấy thôi. Kính mong quý
độc giả lượng thứ cho.
Lần này đến Úc ít
thời gian hơn lần trước.
Tuy nhiên chỉ chưa đầy một tháng (từ 16 tháng 11 đến 12 tháng 12 năm 2004) mà tôi đã dịch xong dịch phẩm trên và viết
tác phẩm này.
Tác phẩm này tên là Dưới Cội
Bồ Đề gồm 174 trang viết tay vào những cuối tuần và mỗi sáng sau thời
Kinh Lăng Nghiêm.
Hy vọng sau khi đánh máy và in thành sách chắc cũng được gần 200 trang như
tác phẩm “Làm Thế Nào Để
Trở Thành Một Người Tốt” như năm rồi.
Cả hai
tác phẩm như thế mà
chúng tôi đã
hoàn thành không vội vã, hấp tấp
trong vòng chưa đến một tháng thì quý vị biết mỗi ngày
chúng tôi phải làm việc
ít nhất là 9 tiếng đồng hồ, chưa kể gần 3 tiếng đồng hồ
hành trì vào buổi tối và buổi sáng.
Năm 2003, khi dịch xong
tác phẩm Đại Đường Tây Vức Ký
chúng tôi đã cho xuất bản 1.000 cuốn vào
lễ Vu Lan năm 2004 tại Đức. In ấn tống 4.000 cuốn do chùa
Phật Bảo ở Chicago
lo liệu và đã phát hành hôm
lễ Vu Lan năm 2004 tại Mỹ và Canada. Đến tháng 12 năm 2004 nhân lễ húy kỵ lần thứ 29 của cố
Hòa Thượng Thích Trí Hữu là Bổn Sư của
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc chùa
Pháp Bảo, quý
Phật Tử tại Úc đã ấn tống 1.000 cuốn nữa.
Ngoài ra hôm 21 tháng 9
âm lịch Thầy Như Tịnh ở
Việt Nam báo tin cho tôi hay là nhân lễ húy kỵ của
Sư Phụ tôi, Thầy ấy có mua 80 quyển Đại Đường Tây Vức Ký tại
Việt Nam họ in lụa. Nghĩa là in lại không
chính thức tại
Việt Nam nhiều ngàn số để phát hành. Tuy không ai hỏi tôi để xuất bản sách ấy tại
Việt Nam. Nhưng tôi rất vui. Vì có như thế
Phật pháp mới được
truyền bá khắp nơi nơi.
Như vậy chỉ một dịch phẩm ấy trong khi tôi
nhập thất đã dịch ra tiếng Việt mà có cả bốn châu đã in ấn tống, phát hành số lượng
ít nhất là 8.000 cuốn như thế, quả là một sự
thành công không bao giờ
mong đợi mà có được như vậy.
Công đức ấy nếu có được xin
hồi hướng lên
Tam Bảo và
pháp giới chúng sanh. Nguyện cầu cho
mọi người và mọi loài được vào nhà
tri kiến của
Như Lai.
Ngoài ra tác phẩm “Làm Thế Nào Đế
Trở Thành Một Người Tốt” tôi đã cho xuất bản ở Đức và Âu Châu chỉ 1.000 số và điều
may mắn là
Đạo Hữu Tâm
Kiến Chánh ở Hoa Kỳ đã đọc vào băng Cassette cũng như MP3 và có diện toàn cầu hóa người nghe, nên chỉ sau một tháng đọc sách ấy vào băng đã có 1.042 người vào Internet để tải về gồm hai mươi hai
quốc gia trên
thế giới, trong đó có cả
Việt Nam và số lượng người tải về nhiều nhất vẫn là ở Hoa Kỳ. Điều này
sở dĩ có được cũng xin
cảm ơn đạo hữu Tâm
Kiến Chánh rất nhiều.
Nếu không có
phương tiện hoằng pháp bằng cách
hiện đại hóa
như đạo hữu đang
thực hiện thì số người đọc và nghe làm sao có thể nhiều được đến thế.
Ngoài ra đạo hữu Tâm
Kiến Chánh ở Hoa Kỳ cũng sẽ đọc một số
tác phẩm cũng như dịch phẩm của
chúng tôi trong
thời gian tới đây. Xin cảm niệm
công đức ấy.
Trong
mùa An Cư Kiết Hạ năm nay (2004) tại Đức tôi đã dịch số cũ và số mới tổng cộng đến 850 trang viết tay trong Tập 32 thuộc Đại Chánh Tạng và chú Sanh ở Đức đang đánh máy. Như vậy mỗi năm tôi có từ hai đến ba
tác phẩm và dịch phẩm được xuất bản. Đây là một
giá trị tinh thần rất
miên viễn, mong quý
đạo hữu và quý
độc giả ủng hộ bằng lối ấn tống cũng như thỉnh sách, băng để đạo được phát triển
sâu rộng hơn vào
quần chúng,
đồng thời đó cũng là sự khuyến khích để những dịch phẩm và
tác phẩm càng ngày càng có mặt nhiều hơn trên
thế giới ngày nay với
ngôn ngữ tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của
chúng ta.
Mỗi năm như vậy bây giờ trở đi tôi có ba tháng ở Úc để
nhập thất dịch kinh, tịnh tu, dạy chúng. Một tháng ở
Ấn Độ để
lạy Phật và hai tháng ở Canada cũng như ở Hoa Kỳ để
hoằng pháp. Như vậy đã hết sáu tháng rồi. Sáu tháng còn lại đa phần tôi ở Đức và Âu Châu. Trong sáu tháng đó có ba tháng
An Cư Kiết Hạ tại chùa
Viên Giác Hannover, lạy kinh và
dịch kinh, dạy chúng. Chỉ còn lại ba tháng cho các
Phật sự tại Âu Châu.
Như thế
thời gian trôi qua nhanh lắm. Hết hạ sang thu, hết thu sang đông, rồi xuân rồi hạ
trở lại.
Nếu không hạ thủ công phu thì mỗi năm chỉ có trừ thêm một tuổi chứ chẳng cộng được tuổi nào. Sự già, bệnh, chết đang chờ trước cửa
tử sinh. Do
vậy mà tôi luôn luôn
quán niệm về
thời gian như “lửa cháy trên đầu” phải lo
quay về với tự thân để
tu học là vậy.
Việc này
sở dĩ có được không phải chỉ
đơn thuần mà
thành tựu. Dưới đây là những
lý do chính.
Hòa Thượng Thích Bảo Lạc là bào huynh của tôi đã cùng với quý
Phật Tử tại
Pháp Bảo mua xong một cơ sở và đất đai độ 25 mẫu Tây, tính ra đâu chừng 100.000 mét vuông nếu tôi nhớ không lầm. Trong đó có một ngôi nhà rất
xinh xắn gồm hai tầng. Thầy Bảo Lạc đã cho Thầy trò
chúng tôi sử dụng suốt ba tháng như thế, điện, gas, nước mưa đều do
Pháp Bảo đài thọ. Ngay cả
thức ăn cũng có các
Phật Tử cúng dường. Do vậy ở đây xin niệm ân trên từ
Hòa Thượng đến Thầy Phổ Huân, quý Cô Giác Trí, Giác Thủy, Giác Duyên, Giác Anh và dưới đến quý
Phật Tử tại
Pháp Bảo đã
gia trì và hỗ trợ cho
cá nhân tôi cũng như Thầy trò của
chúng tôi được có những ngày tháng yên tĩnh,
đẹp tuyệt vời như vậy để
tu học và
hành trì mà kết quả của năm 2003 đã thấy rõ. Còn năm này 2004 cũng lại là một năm đầy đủ
ý nghĩa nữa.
Ví như nước ngoài bể chứa càng ngày càng nhiều hơn, mưa nhiều hơn, cây cối trong rừng tươi
tốt hơn,
mặc dầu chính phủ
dự tính năm nay nóng lắm và cháy rừng nhiều. Nhưng điều ấy đã trái ngược lại. Có lẽ nhờ sức
gia trì của tám vị Thần
Kim Cang và bốn vị
Bồ Tát mà đêm nào tôi cũng thỉnh các Ngài về để nghe kinh cùng
hộ trì gia hộ. Đó là kết quả không chỉ bằng
lời nói mà bằng sự
hạ thủ công phu của
chúng tôi và
Đại Chúng tại
Tu Viện Đa Bảo trên
núi rừng này.
Thầy Đồng Văn đã
chịu khó cùng tôi dịch thuật và đánh máy từng chữ rồi từng chữ, từng câu lại từng câu,
phân đoạn, ngắt ý v.v... Chú
Thiện Tánh lo phụ cho
Sư Phụ trong những khâu đánh máy bản
dịch kinh tạng hai tuần đầu và quyển sách này. Chú Hạnh Đức đã
hoàn thành những món chay
tinh khiết và
xây dựng một
cảnh trí vườn tược trong
tu viện rất
đẹp mắt.
Ngoài ra còn
hăng hái lái xe lên xuống giữa
Tu Viện và chùa
Pháp Bảo nữa. Do
vậy mà sự
thành công này không phải chỉ một người mà
thành tựu được. Xin cảm niệm tất cả và mong rằng những ngày tháng đẹp ấy nơi
Tu Viện vẫn còn trong tâm khảm của
mọi người.
Ngoài ra, mỗi tối trong khi tôi trì kinh,
niệm Phật thì Thầy Đồng Văn đã hướng dẫn hai chú về chữ Hán qua việc học Tỳ Ni, sau đó là
Oai Nghi và 30 phút sau cùng của mỗi tối là
thực tập chuông mõ,
nghi lễ tán tụng v.v... Như vậy mỗi người trong
chúng ta đều
nỗ lực, nên trời năm nay đã mưa nhiều hơn. Cây rừng xanh hơn mọi năm và chim chóc lại tụ hội về đây đông hơn, càng ngày càng có nhiều loại khác nhau nữa.
Có nhiều người hỏi tôi rằng: Thầy ở trên đó toàn là rừng núi,
buồn hiu hắt, có gì vui đâu? Tôi hỏi lại những vị ấy rằng: Vậy theo
đạo hữu cái gì là vui? Có người
trả lời thế này. Có người
trả lời thế nọ, nhưng
rốt cuộc chẳng thấy cái đó là những niềm vui.
Ngày xưa cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi làm quan về trí sĩ. Chán cảnh quan lại của triều đình, chỉ muốn
tiêu khiển với non cao núi thẳm nên mới có hai câu thơ rằng:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.”
So ra một vị được người đời
xưng tụng là Trạng Trình mà khi
đi vào chỗ vắng vẻ ở để an thân, cụ tự cho mình là dại. Còn nơi lao xao thị tứ, nơi chốn
ba quân,
tung hô vạn tuế đó. Có áo mũ cân đai... là chỗ khôn thì xin người cứ tìm vào. Như vậy
quan niệm giữa dại và khôn,
sống yên ổn an nhàn thủ phận và vào lại chốn thị thành,
danh lợi, mỗi người đều có mỗi
quan niệm khác nhau.
Còn người tu sống hạnh xả ly, phải xa rời nơi
ồn ào và phải tập trung vào nội tại. Nơi ấy gọi là a-lan-nhã hay chốn
không tịch. Người
xuất gia nên vui với niềm vui như thế. Đây là điều
Đức Phật đã dạy tự ngàn xưa. Còn bây giờ
đa số phải chen chân vào
xã hội để
sinh hoạt chung với
Phật Tử.
Quả thật Đạo Phật có
đi vào đời đó, nhưng
Đạo Phật, nhất là người tu, tự đánh mất đi
giá trị nội tại của mình rất nhiều.
Ở chốn
núi rừng này mà tâm an, ý tịnh, tự chịu
chấp nhận đời sống thanh bần sau khi để lại phía sau mình bao tiếng khen chê, phê phán thì quả là một niềm vui
vi diệu,
an lạc tự tại đâu có chốn nào bằng. Khi mà tâm tư của mình vốn cần có những nơi như thế để dễ
tỉnh thức hơn.
Còn niềm vui ngoài
thế tục. Có đó chứ, nhưng kết quả là bao nhiêu sự chán chường
ngao ngán. Niềm vui của
công danh thành tựu, niềm vui của tiền tài
vật chất, niềm vui của
hạnh phúc lứa đôi, niềm vui của rượu nồng, của thuốc cay, của sắc đẹp v.v... Tất cả đều sẽ
trôi qua nhanh như ngọn gió thổi trong chốn
bụi trần này thôi. Chẳng có gì để phải chờ đợi và tiếc thương cả.
Mới đây báo chí đăng tin là có một người ở Mỹ chỉ còn 78 xu trong tài khoản ngân hàng và sau hơn 10 ngày khai
phá sản, đã
vỡ nợ đến gần 50.000 USD. Anh ta mua một vé số và
may mắn đã đến, anh ta trúng
độc đắc được 150.000.000 USD. Anh ta muốn lãnh
một lần, do vậy chỉ lãnh được 88.000.000 USD. Khi đó, đài truyền hình có
phỏng vấn vợ chồng anh ta rằng số tiền ấy dùng để làm gì và vợ chồng sẽ sống ra sao thì cả hai đều
trả lời rất ngọt ngào và
trôi chảy. Nhưng 10 ngày sau đó, cô vợ ra tòa
ly dị đòi chia tiền trúng số làm hai phần.
Rõ ràng, khi ông chồng khai
phá sản và
nợ nần đến 50.000 USD, bà vợ chẳng chia đôi để trả nợ. Còn bây giờ khi có tiền thì nợ cũ đã quên mà tình xưa cũng chẳng nhớ, chỉ có tiền đã làm mờ mắt người ta như thế. Thử hỏi
hạnh phúc là gì? Nó ở đâu? Nó ở ngoài hay ở trong những điều đó?
Cũng
mới đây, trước khi đi
nhập thất, ở Đức tôi có xem truyền hình và biết có một người Đức trúng 33.000.000 Euro nhưng ông ta không nhận. Người ta
phỏng vấn ông ta rằng tại sao ông trúng số mà ông không nhận? Ông ta bảo rằng tôi mua vé số cho vui vậy thôi. Trúng ít thì tôi nhận, nhưng trúng nhiều như thế tôi không nhận. Vì tôi biết
đồng tiền ấy nó sẽ làm hư hoại
hạnh phúc gia đình tôi và bây giờ tất cả số tiền ấy tôi giao lại cho
cơ quan từ thiện làm phước giúp đỡ
mọi người. Thế là có người tiếc, có người chê, cho ông ta là người không biết việc. Dở quá, dại quá đi thôi! Của trời cho mà, sao lại không nhận v.v... và v.v... Nhưng vợ chồng ông bây giờ rất vui và vẫn còn sống
hạnh phúc với nhau. Họ đã làm chủ được
đồng tiền kia, chứ không phải
đồng tiền kia đã làm chủ họ được.
Thông thường theo thống kê về những người trúng số
độc đắc, những tháng năm sau đó là những tháng năm họ sống khổ sở nhất. Cũng chính vì
quan niệm của trời cho nên
tha hồ tiêu xài, có khi đi đánh bạc còn thâm thủng
nợ nần nữa là khác. Nếu người nào có
tâm từ chia số tiền ấy ra làm nhiều phần và lấy một phần làm
từ thiện thì còn được
tiếng thơm và
ơn nghĩa.
Nếu không, tiền ấy nó cũng sẽ vuột khỏi tầm tay mình.
Việc làm từ thiện không
nhất thiết phải đem cúng xây chùa, mà xây trường học, làm cầu cống, đào giếng, giúp trẻ em
mồ côi v.v... tất cả đêu là những điêu
lợi ích đáng làm.
Tục ngữ Pháp có câu: “Après la pluie, il fait beau.” Nghĩa là: “Sau cơn mưa trời lại sáng.” Hay như
Việt Nam mình cũng có câu: “Đâu có ai giàu
ba họ, chẳng ai khó
ba đời.” Hoặc có câu: “Hết cơn bĩ cực đến ngày thái lai.” v.v... Những
quan niệm ấy cũng đã giúp cho bao nhiêu người có một cuộc sống
an ổn, tự tin vào mình hơn là vào người. Đó là
nghĩa bóng. Còn
nghĩa đen như ta thấy đó: Sau cơn mưa làm cho đất cát tươi nhuận, cây cỏ nở hoa,
mặt trời sẽ
rọi sáng vào nơi nơi và thế là
mọi người có những ngày
quang đãng khác. Chẳng lẽ cứ mưa hoài hoặc nắng hoài thì
loài người hoặc bao nhiêu côn trùng cây cỏ khác làm sao
chịu đựng nổi được.
Có người bài bạc đỏ đen quên hết cả
vợ con, tình nghĩa. Chỉ còn sát phạt với con bài để tìm chút niềm vui, nhưng vui đâu chẳng thấy, chỉ thấy cửa nát nhà tan. Nếu họ hiểu được kết quả là gì thì làm sao có thể gây ra nhân hư đốn như thế. Tất cả cũng chỉ muốn hòa với những niềm vui giả tạm vụt tắt mà thôi. Còn niềm vui
miên viễn như Tất-đạt-đa Gautama đã
đạt đến thì ít người có được. Vì niềm vui ấy không phải trời cho mà phải do chính ta tìm lấy. Nó ở bên trong chứ không ở bên ngoài.
Vua A-dục, Hoàng Hậu,
Thái Tử Mahinda,
Công Chúa Shanghamitta v.v...
chắc chắn đã có những niềm vui
miên viễn nhờ vào
giáo lý của
Đạo Phật, chứ không phải ngai vàng hay tiền bạc đã làm cho
tên tuổi của họ còn
gắn bó mãi mãi đến
đời sau này.
Rồi chư Tổ,
chư Tăng và những người
tỉnh thức, họ sống với chủ trương “Tăng
vô nhất vật.” Chẳng có cái gì là
của riêng mình, với chỉ ba y và một
bình bát để
hộ thân thì hẳn nhiên họ không phải là những người nghèo, mà là những người có cuộc sống “thiểu
dục tri túc”,
giàu có nhất trong
thiên hạ.
Mong rằng
tác phẩm này sẽ giúp cho quý
độc giả có một cái nhìn
thực tế qua nhiều
thời đại khác nhau của những
con người tỉnh thức, nhằm đưa mình đến một
chân lý vĩnh hằng. Đó là sự
giác ngộ giải thoát khỏi chốn
luân hồi đau khổ của
kiếp người mà
chúng ta đang trả vay, vay trả như trong
hiện tại.
Nguyện cầu cho
mọi người mọi nhà đều
an lạc, hỉ hoan trong ánh sáng
từ bi của Đức
Từ Phụ.
Viết xong vào ngày 12 tháng 12 năm 2004 tại Tu Viện Đa Bảo Sydney- Úc Đại Lợi, nhân kỳ nhập thất lần thứ 2 tại đây.