Kệ ngôn 36: Không phải dễ thấy biết tâm mình

20/12/20203:58 SA(Xem: 1774)
Kệ ngôn 36: Không phải dễ thấy biết tâm mình
blank
Kệ ngôn 36: 
Không phải dễ thấy biết tâm mình
Giảng sư: TT. Thích Trí Siêu 

Tâm sâu kín khó thấy
Theo thị dục xoay cuồng
Bậc trí gìn tâm ý
Phòng hộ tâm an lạc.
(Việt dịch Tỳ Khưu Giác Đẳng)
Chánh Hạnh chuyển biên

 

TT Trí Siêu: Câu Pháp cú số 36

Sududdasa.m sunipuna.m,
yatthakāmanipātina.m;
citta.m rakkhetha medhāvī,
citta.m gutta.m sukhāvaha.m

Tâm khó thấy, tế nhị
Theo các dục quay cuồng
Người trí phòng hộ tâm.
Tâm hộ, an lạc đến.

Bài kệ Pháp cú này được Đức Bổn Sư thuyết tại Jetavana, đề cập đến câu chuyện của một vị Tỳ kheo mới tu trong Phật Pháp đã có sự bất mãn và có ý muốn hườn tục trở về làm người cư sĩ. Nguyên nhân câu chuyện là có một vị công tử, con nhà giàu có. Vị công tử này phát tâm trong sạch muốn tu tập trong Phật Pháp và khi hỏi một vị trưởng lão về pháp tu. Vị đó đã hướng dẫn tuần tự từ pháp bố thí đến trì giới. Vị công tử đã thực hành xong pháp bố thí, trì giới, từ ngũ giới đến bát quan trai. Rồi dần dần vị Tỳ kheo trưởng lão hướng dẫn cho tu tập thọ trì thập giới và sau đó cho xuất gia. Vị công tử này rất ngoan ngoãnhoan hỷ với đời sống xuất gia. Tuy nhiên khi vào xuất gia, thầy tiếp dẫn của vị tân Tỳ kheo là một vị luận sư. Thầy tế độ của vị tân tỳ kheo này là một vị luật sư. Cả hai vị đã dạy bảo nhắc nhở cho vị tân Tỷ kheo.

Vị luận sư vi diệu pháp dạy cho đệ tử nghe học những yếu lý trong vi diệu pháp, vị tân Tỳ kheo này học mãi và cảm thấy khó khăn, không có gì hứng thú nên vị ấy đã chán nản cuộc sống tu tập. Rồi vị tân Tỷ kheo đó đi đến Thầy tế độ của mình là vị luật sư. Vị luật sư này cũng dạy dỗ nhắc nhở, “ Ngươi đã xuất gia vào trong giáo pháp, bao nhiêu điều giới luật này cần phải được học thuộc lòng, cần phải thực hành, điều này nên làm, điều này không nên làm v.v…” khiến cho vị Tân Tỳ kheo cảm thấy bối rối và chán nản. Trong cuộc sống tu tập không còn tự do, tự tại không còn được thoải mái. Như trước đây vị ấy tưởng đời sống xuất gia là cuộc sống thoải mái vô tư. Thế rồi vị Tân Tỳ kheo quyết định hườn tục. Sau khi trình bày, vị Thầy tiếp dẫn và vị Thấy tế độ bèn dắt vị Tân Tỳ kheo đến gặp Đức Phật.

Đức Phật mới hỏi rằng,
-“ Này Tân Tỳ kheo, có phải ngươi đã bất mãn trong việc tu tập và muốn hườn tục trở về làm người cư sĩ chăng?”
Khi ấy vị Tân Tỳ kheo mới trình bày nổi niềm tâm sự của mình.
- “Vì rằng xuất gia trong giáo pháp không được tự do tự tại. Các vị Thầy buộc phải học hoặc phải hành, phải giữ giới như thế này, như thế này. Con thấy bận rộn quá nhiêu khê quá. Vì vậy cho nên con không còn thiết tha trong đời sống tu học nữa.”
Khi ấy Đức Thế tôn nhận thấy duyên lành của vị tân Tỳ kheo này có thể chứng đạt Thánh quả, cho nên Ngài đã dạy cho vị tân Tỳ kheo,
-“ Này Tỳ kheo, nếu ông có thể giữ được một điều này thì ngoài nó ra ông khỏi phải lo phòng hộ gìn giữ cái chi khác nữa”
-“ Bạch Đức thế Tôn điều chi vậy?”
-“ Này tân Tỳ kheo đó là cái tâm của ông. Ông có thể giữ gìn nó được không?”

-“ Bạch Đức Thế Tôn, con có thể giữ được”

-“ Vậy thì ông hãy gìn giữ cái tâm của ông, bấy nhiêu đó cũng đủ thoát khổ được rồi”
Sau khi ban huấn từ xong, Đức Thế Tôn thuyết lên bài kệ,
Tâm khó thấy, tế nhị
Theo các dục quay cuồng
Người trí phòng hộ tâm
Tâm hộ, an lạc đến

Sau khi vị Tỳ kheo đó vừa nghe dứt bài kệ đã phát tâm hoan hỷ, chứng đắc quả dự lưu và nhiều vị khác cũng chứng đắc Thánh quả. Tất cả hội chúng Tỳ  khưu Tăng đều thành tựu lợi ích nhờ bài kệ này. Ở đây chúng tôi chỉ lược thuật tóm tắt về câu chuyện duyên khởi của câu kinh Pháp cú trên.

Bây giờ chúng tôi sẽ bắt đầu trình bày và tìm hiểu ý nghĩa câu kinh Pháp cú này. Phẩm tâm Citta Vagga là một phẩm gom tụ lại những bài kệ Pháp cú Đức Phật thuyết rải rác tại chỗ này chỗ kia và những bài kệ đó có ý nghĩa trình bày, nhắc đến về sự tu tâmý nghĩa của trạng thái tâm. Tâm tu tập lợi ích như thế nào và tâm không khéo tu tập sẽ đem đến sự tai hại như thế nào. Trong thời gian qua các câu kệ ngôn 33, 34, 35 chúng ta đã được nghe và đã hiểu một phần. Hôm nay bài kệ có một vấn đề khác mà chúng ta cần phải tìm hiểu

Hôm nay bài kệ số 36 có một vấn đề khác mà chúng ta phải tìm hiểu.Trong bài kệ số 33 Đức Phật Ngài định nghĩa tâm là tâm hoảng hốt dao động, khó hộ trì, khó nhiếp. Bài kệ 34 Đức Phật Ngài định nghĩa tâm như cá quăng lên bờ, vớt ra ngoài thủy giới, tâm này vùng vẫy mạnh. Bài kệ số 35 Đức Phật Ngài dạy rằng cái tâm khó nắm giữ, khinh động theo dục vọng quay cuồng. Bao nhiêu đó cũng thấy rằng cái tâm của chúng ta rất phức tạp. Câu kệ ngôn Pháp cú số 36 Đức Phật Ngài định nghĩa cái tâm khó thấy, tế nhị Sududdasa.m sunipuna.m. Theo các dục quay cuồng yatthakāmanipātina.m. Đối với cái tâm phức tạp như vậy nếu như chúng ta tu tập làm cho tâm ngay thẳng hay chúng ta đoạn thế lực của ma hay điều phục tâm hoặc phòng hộ tâm. Như vậy sẽ đem đến sự an lạc.

Tâm này tại sao gọi là khó thấy, rất tế nhị? Là bởi vì tâm này thuộc về danh pháp, là vô hình không có hình thể, không có hình tướng, cho nên không thể thấy được bằng mắt thường, không thể nhìn cái tâm được bằng nhục nhãn. Tế nhị sunipuna.m là bởi vì tâm này sanh diệt nhanh lẹ vô cùng , một khảy móng tay tâm sanh diệt triệu triệu sát-na tâm, rất tinh tế. “ Theo dục vọng quay cuồng” có nghĩa là tâm này luôn luôn bắt cảnh, hướng về cảnh chỗ này chỗ kia, cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc và cảnh pháp. Lúc nào tâm của chúng ta cũng  bay nhảy tìm đến đối tượng. Chúng ta khó có thể gìn giữ được nó cũng giống như một con ngựa chứng thường chạy nhảy chỗ này chỗ kia, không chịu cho người cỡi lên nó, điều phục nó. Hoặc ví như con khỉ ở trong rừng, nó luôn luôn chuyền từ cành này đến cành khác không bao giờ nó chịu nằm yên một chỗ.

Trong hoàn cảnh hiện tại Đức Thế Tôn thuyết lên bài kệ này để nhắn nhủ một vị Tỳ kheo sợ gìn giữ giới luật, giữ nhiều điều, tuân thủ theo nhiều nguyên tắc. Vị này cảm thấy không được tự do, thoải mái. Do đó vị Tỳ kheo chán nản. Bây giờ Đức Phật phải dẫn dụ vị ấy hãy làm như thế nào ngươi chỉ giữ một điều là được rồi.

“Nếu ngươi giữ được một điều đó thì ngươi sẽ được giải thoát. Vị Tỳ kheo hỏi Đức Thế Tôn giữ điều gì thì Đức Thế Tôn bảo rằng giữ cái tâm của ngươi.” Quả thật vậy mặc dầu Đức Phật Ngài chỉ cho giữ có một điều thôi chứ không phải cho giữ mấy trăm điều giới luật nhưng vị Tỳ kheo này cảm thấy nếu giữ được một điều này thì mình có thể giữ được. Chúng ta cũng nên biết rằng vị tân Tỳ kheo đó không phải là không biết rằng giữ tâm sẽ có lợi ích lớn. Khi nói đến phải gìn giữ giới luật như thế này như thế kia, từ giới trọng cho đến giới khinh, từ giới lớn cho đến giới nhỏ, từ đại giới cho đến tiểu giới, nhỏ nhặt chi tiết khó nhớ khó thanh tịnh được, nên vị Tỳ kheo đó cảm thấy sợ hãi hốt hoảng. Nhưng khi Đức Thế Tôn dạy cho biết rằng chỉ cần giữ một điều tức là giữ cái tâm thì vị ấy cảm thấy gọn nhẹ. Do đó vị Tỳ kheo này đã cố gắng  gìn giữ cái tâm và chính vì vậy đã thành tựu được Thánh quả.

Người trí được gọi là như vậy medhavi, tức là chỉ cho bậc sáng suốt, chỉ cho những người có tuệ căn mạnh, những người có sự ý thức, hiểu được điều lợi và điều bất lợi. gọi là bậc trí tuệ. Những điều nên làm và những điều không nên làm, vị đó cân nhắc, đắn đo bằng trí tuệ của mình. Người trí ở đây,  khi biết được rằng cái tâm này một khi đã loạn động chạy theo dục vọng quay cuồng thì sẽ mang đến sự tác hại to lớn. Người trí hiểu được như vậy cho nên trong việc tu tập người trí chỉ cần phòng hộ tâm citta.m rakkhetha.

Gìn giữ cái tâm là như thế nào? Gìn giữ cái tâm có hai cách, một là chế ngự nội tâm, hai là giáo hóa nội tâm.

-Chế ngự nội tâm gọi là saññama(Cittassa saññamo)
-Giáo hóa nội tâm gọi là dama (Cittassa damo)

Chữ saññama ở đây tức là gìn giữ bằng cách phòng hộ ngăn ngừa. Khi mắt thấy cảnh sắc không nắm tướng chung tướng riêng, không thấy rằng đó là tốt đó là xấu, không thấy rằng cái này thuộc về ta, cái này không phải của ta. Vị ấy biết rõ nguyên nhân nào làm cho tham ái ưu bi sanh khởi, do mắt thấy cảnh sắc. Vị này liền nhiếp phục nội tâm và khử trừ nguyên nhân đó, Đây được gọi là sự thu thúc, sự chế ngự về nhãn căn. Về nhĩ căn tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn cũng vậy. Khi mắt thấy cảnh sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý suy nghĩ, vị đó đều gìn giữ canh chừng không để cho tâm bay nhảy theo sự ham muốn hay sự bất mãn. Vì rằng sự ham muốn là tham, sự bất mãn đối với cảnh là sân. Vị ấy biết rõ như vậy cho nên cố gắng gìn giữ bằng cách là chế ngự. Một khi tham, sân đã sanh vị ấy đoạn trừ. Khi mắt, tai, mũi,lưỡi, thân, ý thấy các cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc vị ấy liền nhiếp phục không để cho tham ái, ưu bi sanh khởi.

Một lẽ thứ hai nữa là vị này phòng hộ tâm bằng cách luôn luôn giáo hóa, dạy dỗ tâm đừng để cho nó sanh khởi, đừng để cho nó hư hỏng vì sự dốt nát thiếu hiểu biết. Cũng giống như người mẹ giáo dục đứa con bằng hai cách. Một là dạy ngon dỗ ngọt cho con nghe những điều hay lẽ phải, khi con phạm vào những lỗi lầm thì người mẹ sẽ quở trách đánh đòn, sẽ hình phạt. Nhờ vậy mà đứa con được ngoan ngoãn thành người. Cũng như thế đó người trí khi phòng hộ tâm bằng hai cách. Chế ngự tâm, khi tâm tiếp xúc với cảnh sắc sẽ là nguyên nhân để phát sanh lên tham áiưu bi (tham và sân), người trí chế ngự khắc phục. Khi bình thường tâm chưa có nguy hiểm khởi lên tham ái ưu bi, người trí luôn luôn kiểm soát tâm dạy dỗ tâm.

Như đối với bậc xuất gia Đức Phật Ngài thường nhắc nhở, Bậc xuất gia hằng ngày phải có sự tâm niệm gọi là Abhinhapaccavekkhana, tức là phải thường xuyên tâm niệm rằng, “Ta là vị có tướng mạo khác hơn kẻ thế, mạng sống của ta phải nương nhờ vào kẻ khác, hành vi thân khẩu của ta phải khác hơn kẻ thế, ta có thể tự mình khiển trách được mình hay không, sau khi suy xét giới hạnh hay không. Ngày đêm qua mau ta đã làm được gì, các pháp thượng nhân ta đã chứng đạt chưa, ta có thích nơi thanh vắng chăng. Và nếu trong giờ phút lâm chung các bạn đồng phạm hạnh có trí hỏi ta về những pháp thượng nhân thì lúc bấy giờ ta có hổ thẹn chăng v.v…”

Hằng ngày vị Tỳ kheo cần phải giáo hóa nội tâm bằng những điều tâm niệm như vậy. Hoặc suy xét rằng,
Jarādhammomhi Jaram anatīto
Ta phải có sự già, không thể thoát khỏi sự già 
Byādhidhammomhi  byādhim anatīto
Ta phải có sự bệnh, không thoát khỏi sự bệnh
Maranadhammomhi maranam anatīto
Ta phải có sự chết, không thoát khỏi sự chết
Sabbehi me piyehi  manāpehi  nānābhāvo  vinābhāvo
Ta phải xa lìa nhân vật thương yêu quý mến
kammassakomhi kammadāyādo  kammayoni kammabandhu kammapatisarano yam kammam karissāmi kalyānam vāpāpakam vātassa  dāyādo  bhavissāmi
Ta là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng là quyến thuộc là chổ y cứ. Khi ta làm việc lành hay việc ác ta phải cảm thọ hậu quả của nghiệp lành hay nghiệp ác ấy.

Đó là năm điều quán tưởng Đức Phật đã dạy cho hàng xuất gia và  tại gia để giáo hóa nội tâm như vậy.

Quả thật khi chúng ta tu tập, nếu chúng ta kềm giữ và phòng hộ được nội tâm, như vậy chúng ta không cần phải tu pháp môn khác nữa, vì tất cả những phiền não đều phát sanh từ nơi nội tâm này, do nội tâm loạn động quay cuồng chi phối các cảnh và bị những điều kiện chủ quan và khách quan chi phối cho nên phát sanh lên những thứ phiền não và khi tâm đã bị phiến não chi phối sai xử thì lúc bấy giờ nó mới tạo nên những hành động ác hoặc lời nói ác hoặc ý nghĩ ác. Nếu như tâm ác sai xử cho hành động lời nóitư tưởng bất thiện pháp như vậy, sẽ dẫn đến những hậu quả cay đắng, những cảm thọ khổ đau đời này và đời sau.

Bởi vậy khi chúng ta gìn giữ, phòng hộ được tâm sẽ có nhiều sự an lạc. Sụ an lạc ở đây, khi chúng ta gìn giữ được nội tâm này bằng cách chế ngựgiáo hóa nội tâm. Hay nói một cách khác nếu như muốn chế ngự nội tâm thì chúng ta phải có chánh niệm, phải có sự ghi nhớ biết mình luôn luôn. Muốn giáo hóa nội tâm chúng ta phải dùng trí tuệ gọi là pháp tỉnh giác. Khi thực hành được những pháp đó, ngay trong hiện tại chúng ta cảm thọ an lạc gọi là hiện tại lạc trú. Theo trong A-tỳ-đàm mỗi khi tâm thiện sanh khởi, tâm thiện đó sẽ tạo nên sắc tâm  gọi là cittaca rupa. Một sắc tâm thuần thiện tốt đẹpkhinh an nhẹ nhàng. Như vậy người tu tập và phòng hộ nội tâm, không cho nội tâm phang duyên theo trần cảnh,lúc bấy giờ chúng ta được hoan hỷ được thoải mái, nên gọi là hiện tại lạc trú.

Khi chúng ta tạo những thiện pháp, phòng hộ được tâm không để cho phiền não sanh khởi. Như vậy được an lạc do nhờ không bị phiền não thiêu đốt, không bị nhiệt não bởi những bản chất bất thiện. Quả thật vậy khi một người làm điều bất thiện, họ sẽ bị đau khổ. Sự đau khổ đó không phải do ai mang đến cho họ, chưa nói đến quả báo trong tương lai, chỉ nói trong hiên tại khi nhìn thấy nghiệp bất tịnh mình đã làm, người đó khởi lên sự đau khổ thì đã muộn rồi. Bởi vậy khi tu tập chúng ta giữ được nội tâm tốt đẹp, chúng ta sẽ có sự an lạc. Hai điều an lạc ngay trong hiện tại như thế một là hiện tại lạc trú, hai là chúng ta không bị nhiệt não bởi những mặc cảm tội lỗi.

Lợi ích thứ ba khi chúng ta tu tập nhiếp phục được tâm, chính điều này sẽ dẫn đến nếu như ngay trong hiện tại chưa đắc được Thánh quả giải thoát còn sự tái sanh thì được thuận lợi trong sự tái sanh đến những cảnh giới an lạc nhất là các cõi trời hay cõi Phạm thiên.
Do đó khi người Phật tử tu tập trong giáo pháp này chúng ta nên biết rằng,
Manopubbaṅgamā dhammā,
manoseṭṭhā manomayā;
manasā ce paduṭṭhena,
bhāsati vā karoti vā;
tato naṃ dukkhamanveti,
cakkaṃva vahato padaṃ.

 

Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu nói hay hành động
Với tâm tư ô nhiễm
Đau khổ sẽ theo sau
Như bánh xe theo vật kéo   
Câu Pháp cú số 1

 

Manopubbaṅgamā dhammā,
 manoseṭṭhā manomayā;
manasā ce pasannena,
bhāsati vā karoti vā;
tato naṃ sukhamanveti,
chāyāva anapāyinī.

Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình

Câu pháp cú số 2

Ở đây chúng ta nói đến hai câu pháp cú này để nói về tại sao chúng ta phải phòng hộ tâm vì tâm, ý được phòng hộ tốt, trở thành một tâm thiện, một ý thiện. Như vậy chính tâm này khiến cho hành động hay nói năng bằng thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh. Do vậy hạnh phúc sẽ theo mình như bóng không rời hình. Còn khi không khéo tu tập, không khéo phòng hộ tâm sẽ đưa đến quả đắng cay bởi vì thân nghiệp khẩu nghiệp chúng ta hành động bằng ý bất thiện. Sự đau khổ đó sẽ theo sát bên mình như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe vậy. Người phật tử tu tập, không cần phải tu tập bằng hình thức thái quá. Hình thức những nghi lễ, những phong tục tôn giáo chúng ta vẫn tuân thủ nhưng sự tuân thủ đó là để an lập trật tự trong việc sinh hoạt của một hội chúng toàn thiện để hội chúng trở nên tốt đẹp nhưng không phải chúng ta tu tập suông bằng hình thức. Nếu chỉ tu tập bằng hình thức như thế chúng ta sẽ không đạt được lợi ích gì.

Khi  chúng ta tu tập, biết rõ rằng nếu tâm này được phòng hộ được gìn giữ thì tâm đó sẽ mang đến sự an lạc.
Citta.m gutta.m sukhāvaha.m.
Chữ gutta.m (gup+ta =gutta) ở đây từ đông từ gopeti (gup+ne+ti), Chữ gopeti quá khứ phân từ là gutta.m đồng nghĩa với chữ rakkhati là phòng hộ gìn giữ. Khi một người có tâm được phòng hộ được gìn giữ,  sukhāvaha.m tức là mang đến sự an lạc. Chữ āvaha.m, āvahati ám chỉ cho tâm mang đến sukhā là sự an lạc tâm được phòng hộ sẽ mang đến sự an lạc, sẽ dẫn đến sự an lạc.

Người Phật tử biết rằng khi chúng ta tu tập, mà tâm còn khởi lên phiền não, còn vọng động chi phối bởi những phiền lụy trong cuộc sống, như vậy mặc dầu kẻ thù, kẻ đối lập hay người bất mãn với mình, những người đó chưa có làm cho mình đau khổ thì chính nội tâm phức tạp này, nội tâm hướng đến bất thiện này cũng đủ làm cho chúng ta phải phiền lụy, phải đau khổ rồi. Vì vậy sự tu tập của chúng ta là phải cố làm sao gìn giữ được tâm. Điều này khó chứ không phải là dễ, nhưng chúng ta nên nhớ rằng, cái gì người ta làm được thì mình làm được. Chúng ta chỉ cần có sự nổ lực cố gắng để thu thúc để kềm chế, lâu ngày chúng ta quen dần gọi là thường cận y duyên, chúng ta sẽ quen dần gìn giữ được tâm.

Một vị Tỳ kheo nọ, Tỳ kheo Anupubla xuất gia vào trong giáo pháp. Vì các vị Thầy của vị tân Tỳ kheo này  không hiểu được tâm trạng của vị ấy nên đã dạy theo cách riêng của mình, dạy những pháp môn mà mình đã thọ trì, mình đã thông  hiểu. Dạy nhiều quá như vậy vị đệ tử không thể tu tập được nhưng đến khi dẫn đến Đức Phật thì Ngài bết rõ vị Tỳ kheo này chỉ mong làm sao được tu tập một cách đơn giản thôi. Chính sự đơn giản đó Đức Phật Ngài dạy cho chỉ cách duy nhấtgìn giữ nội tâm. Nghe nói thì đơn giản, nhưng khi phòng hộ tâm này không đơn giản một chút nào, bởi vì tâm rất khó thấy và rất tế nhị luôn luôn hướng tìm ngoại cảnh từ chỗ này sang chỗ khác.

Bài kệ này đã dạy cho chúng ta tu tập về cách phòng hộ tâm. Nếu chúng ta biết phòng hộ, gìn giữ nội tâm, đừng để cho nó xu hướng theo ác bất thiện pháp thì như vậy đã đủ rồi. Chúng ta để tâm xu hướng theo thiện pháp sẽ mang đến sự an lạc cho mình. Bài kệ này thật ra không phải là khó hiểu, chúng tôi muốn nói hơi nhiều một chút để làm cho phần giảng giải được sung mãn, đầy đủ ý nghĩa chứ nếu giảng khoảng 15 phút cũng đầy đủ. Cái khó khăn nhất là sau khi nghe xong bài kệ này, hiểu được ý nghĩa, chúng ta có sự nổ lực để tu tập tâm phòng hộ tâm hay không. Đó là điều chúng ta cần lưu ý.

Chúng tôi xin dứt lời tại đây

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
14/06/2010(Xem: 57132)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.