Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
禪 之 花
QUYỂN THƯỢNG
Dịch giả: Dương Đình Hỷ
Một lần, có một vị khách đến tham phỏng Triệu Châu. Vị khách không mang theo lễ vật, cảm thấy bất an, nên nói:
- Đệ tử đến tay không.
Triệu Châu đáp:
- Bỏ xuống đi!
Vị khách không hiểu hỏi:
- Đệ tử không mang gì đến, làm sao bỏ xuống được?
- Vậy ngươi hãy mang đi!
(Thiền Viên)
Ý của Triệu Châu là: ngươi không mang theo lễ vật có gì là quan trọng đâu! Hãy buông bỏ cái tâm chấp trước của ngươi đi. Bỏ tất cả, vượt lên tất cả chấp trước là có thể thành Phật.
2. Lão tăng hiếu sát.
Có
ông tăng theo Triệu Châu ra vườn rau, thấy một con thỏ hoảng
sợ chạy trốn.
Ông
tăng hỏi:
-
Thiền sư là người tu, vì sao con thỏ trông thấy lại sợ?
-
Vì lão tăng hiếu sát.
(Thiền
Cơ)
Ông
Tăng thấy thỏ hoảng sợ bỏ chạy là lạc vào hiện tượng
giới mà không tự biết. Câu đáp của Triệu Châu có ý bảo
ông phải cắt đứt mọi trói buộc.
3. Cây cờ.
Trong
thiền viện có một cây cờ bị gió thổi gẫy. Một ông tăng
hỏi Triệu Châu:
-
Cây cờ đi về phàm hay đi về thánh?
-
Không phàm, không thánh.
-
Vậy đi về đâu?
-
Rơi xuống đất.
(Thiền
Cơ)
Câu
hỏi của ông tăng còn phân phàm thánh là còn có sai biệt,
vì vậy Triệu Châu bảo không phàm, không thánh.
4. Con lừa kêu.
Duy
Chính nhân có việc phải đến kinh thành, trên đường gập
một viên quan lại. Ông này mời thiền sư thọ trai. Bỗng
nhiên một con lừa hí lên, viên quan lại kêu "Thiền sư.”
Duy Chính ngẩng đầu lên, viên quan lại bèn chỉ con lừa.
Thiền sư bèn chỉ viên quan lại.
(Thiền Cơ)
Ở
hiện tượng giới, con lừa, thiền sư, viên quan lại có sai
biệt, nhưng ở bản thể giới thì chỉ là một
5. Chín chín tám mốt.
Một
ông tăng hỏi Ba Tiêu:
-
Ẩn thân ở Bắc Đẩu là ý gì?
-
Chín chín tám mốt.
Ngưng
lại một lát, Ba Tiêu lại hỏi:
-
Ngươi hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Một, hai, ba, bốn, năm...
(Thiền
Cơ)
Ẩn
thân ở Bắc Đẩu chỉ trụ ở bản thể giới. 81 là chung
điểm của 9x9.
1,
2, 3, 4, 5... sẽ dẫn đến vô cực.
6. Hét, đánh.
Có
ông tăng hỏi Thủ Sơn:
-
Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh, cứu cánh là ý nghĩa gì?
-
Ngươi thử làm coi.
Ông
tăng bèn hét một tiếng.
-
Đồ mù!
Ông
tăng lại hét một tiếng nữa.
-
Đồ mù hỗn, còn ra thể thống gì?
Ông
tăng nghe rồi bèn hướng Thủ Sơn hành lễ. Thủ Sơn đánh
ông một gậy.
(Thiền
Viên)
Đánh
và hét đã làm nhiều thiền sinh khai ngộ là do áp dụng đúng
thời cơ; nhưng cái cơ duyên đó nhìn không thấy, cảm không
được, nếu ta cứ đánh hét một cách máy móc thì chẳng
khác gì nói chuyện với người câm, điếc.
7. Nhất tự quan.
Có
ông tăng hỏi Đầu Tử :
-
Thế nào là Phật?
-
Phật.
-
Thế nào là Đạo?
-
Đạo.
-
Thế nào là Thiền?
-
Thiền.
(Thiền
Viên)
Nhất
Tự Quan là loại công án mà lời đáp chỉ bằng một tiếng.
Những câu trả lời của Đầu Tử dường như là không trả
lời, nhưng xét kỹ lại thì đó lại là những câu trả lời
hoàn toàn nhất.
8. Trăng lặn hướng Tây.
Một
ông tăng hỏi Như Mẫn:
-
Thiền sư bao nhiêu tuổi rồi?
-
Ngày nay sanh, ngày mai mất.
-
Vậy sao? Sanh ở đâu vậy?
-
Mặt trời mọc phương Đông, mặt trăng lặn phương Tây.
(Thiền Cơ)
Ở
hiện tượng giới có sai biệt về thời gian (nay, mai) về
không gian (Đông, Tây) nhưng ở bản thể giới chỉ là một.
9. Muốn ngủ thì ngủ.
Một
ông tăng hỏi Chiêu Hiền:
-
Thế nào là tâm bình thường?
-
Muốn ngủ thì ngủ, muốn ngồi thì ngồi.
-
Đệ tử không hiểu.
-
Nóng thì tìm chỗ mát, lạnh thì lại gần lửa.
(Thiền Cơ)
Tâm
bình thường là chỉ cảnh giới an nhiên, tự tại.
10. Làm lừa, làm ngựa.
Một
ông tăng hỏi Chiêu Hiền (đệ tử của Nam Tuyền):
-
Nam Tuyền mất rồi đi đâu?
-
Đến nhà phía Đông làm lừa, hoặc đến nhà phía Tây làm
ngựa.
-
Nghĩa là sao?
-
Muốn cưỡi thì nhẩy lên, không muốn thì nhẩy xuống.
(Thiền Cơ)
Lừa,
ngựa chỉ hiện tượng giới; cưỡi hay không cưỡi chỉ phàm,
thánh là một.
11. Ngươi thiếu gì?
Một
ông tăng hỏi Linh Mặc:
-
Thiền sư không có pháp nào tiếp dẫn người sao?
-
Đợi ngươi thỉnh cầu, ta sẽ tiếp dẫn.
-
Thỉnh thiền sư tiếp dẫn.
-
Ngươi thiếu gì?
(Thiền
Cơ)
Tự
tánh ai cũng có, việc gì phải cầu xin ở bên ngoài?
12. Cửa thiên đường.
Một
vị tướng quân hỏi Bạch Ẩn:
-
Có thật là có Thiên Đường và Địa Ngục không?
-
Ngươi làm gì?
-
Thưa, là một vị danh tướng.
-
Ha! Ha! Đồ ngu ngốc nào mời ngươi làm tướng, trông ngươi
giống như một tên đồ tể!
Vị
tướng quân gầm lên: “Nói cái gì? “và rút phắt kiếm
ra.
Bạch
Ẩn nói:
-
Cửa địa ngục đã mở ra rồi đấy!
Vị
tướng quân bừng tỉnh, vội đút kiếm vào vỏ và tạ tội.
-
Đó! Cửa thiên đường đã mở rồi!
(Thiền
Thuyết)
Địa
ngục và thiên đường không phải sau khi chết rồi mới có,
mà ngay trong hiện tại, ngay trong một niệm, tùy thiện hay
ác mà cửa mở.
13. Gà vàng chưa gáy.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử:
-
Gà vàng chưa gáy thì sao?
-
Không có tiếng.
-
Gáy rồi thì sao?
-
Mọi người tự biết thời khắc.
(Thiền
Cơ)
Gà
vàng chỉ tự tánh, chưa gáy chỉ chưa ngộ, gáy rồi chỉ
đã ngộ. "Mọi người tự biết thời khắc" chỉ tự tánh
phải tự mình thể hội.
14. Người đắc đạo.
Một
ông tăng hỏi Như Nột:
-
Thế nào là người đắc đạo?
-
Đi không lưu dấu chân, đứng ngồi không người biết.
(Thiền Cơ)
Câu
đáp mô tả cảnh giới kiến tánh.
15. Dao Giang Tây.
Tư
Minh thưa :
-
Đệ tử không mang đến lễ vật gì tốt, chỉ tại Hà Nam
mua một con dao Giang Tây để tặng thiền sư!
Bảo
Ứng đáp :
-
Ngươi từ Hà Nam lại, mua dao ở đâu?
Tư
Minh nắm lấy tay Bảo Ứng bóp một cái.
Thiền
sư nói :
-
Thị giả! Mau nhận lấy dao.
(Thiền
Cơ)
Giang
Tây chỉ dòng thiền của Nam Nhạc Hoài Nhượng. Hà Nam chỉ
dòng thiền của Thanh Nguyên Hành Tư. Dao chỉ phương cách kiến
tánh. Câu hỏi của Bảo Ứng "Ngươi từ Hà Nam lại,
mua dao ở đâu?" là hỏi Tư Minh giác ngộ do phương pháp của
Hoài Nhượng, Hành Tư hoặc từ phái khác? Tư Minh bóp tay thiền
sư biểu thị không phải do phái ngoài. Do đó, thiền sư gật
đầu kêu thị giả nhận dao.
16. Sanh tử trật tự.
Có
một vị phú ông nhờ Tiên Nhai viết chữ.
Tiên
Nhai viết:"Cha chết, con chết, cháu chết.”
Phú
ông nổi giận :
-
Đệ tử nhờ thầy ban cho những lời tốt lành, sao lại giỡn
cợt như vậy?
-
Đây là những lời tốt lành đó nha! Nếu như con ông chết
trước ông, có phải là ông đau khổ không? Lại nữa nếu
cháu ông chết trước con ông thì hai cha con ông đau khổ biết
chừng nào? Nếu gia đình ông cứ theo như lời ta viết thì
có phải là thực sự hưng vượng không nào?
(Thiền
Thuyết)
Sống
gửi, thác về; chết ví như kẻ du tử về nhà. Nếu cứ theo
trật tự mà chết chẳng phải là có phúc sao!
17. Đại Thừa, Tiểu Thừa.
Có
một lần Hoàng Bá lên chơi Ngũ Đài Sơn, trên đường gập
một vị quái tăng. Hai người vừa đi vừa chuyện vãn, tâm
đầu ý hợp. Gập một con suối, sức nước rất mạnh. Vị
tăng bảo Hoàng Bá:
-
Chúng ta qua bờ bên kia đi!
Hoàng
Bá nói:
-
Ngươi muốn qua thì cứ tự mình qua đi.
Vị
tăng không nói một lời vén quần chạy qua suối như chạy
trên đường lộ, còn quay đầu lại kêu Hoàng Bá:
-
Lại mau! Lại mau!
Hoàng
Bá đáp :
-
Nếu ta biết ngươi như vậy ta đã chặt chân ngươi rồi!
Vị
tăng nghe rồi tán thán rằng: “Ngươi thật là một vị đại
thừa pháp khí, ta thật không bằng!”, nói rồi biến mất.
(Thiền
Viên)
Tiểu
thừa là tự độ; Đại thừa là tự độ rồi độ tha. Do
đó vị quái tăng biểu thị cho tiểu thừa phải biến mất.
18. Không rửa mặt.
Một
ông tăng hỏi Đạo Hạnh:
-
Thế nào là đường tu chánh?
-
Sau niết bàn sẽ có.
-
Sau niết bàn sẽ có là ý gì?
-
Không rửa mặt
-
Đệ tử không hiểu!
-
Không mặt để rửa!
(Thiền
Cơ)
Mặt
chỉ tự tánh, vì tự tánh không bẩn, không sạch nên không
cần rửa.
19. Nơi sanh.
Một
ông tăng hỏi Huệ Hải :
-
Thiền sư có biết nơi mình sẽ sanh không?
-
Chưa chết làm sao biết nơi sanh?
(Thiền Cơ)
Chết
chỉ ngộ, sanh chỉ tự tánh.
20. Nước vẩy không tới.
Một
ông Tăng hỏi Đạo Khuông:
-
Một trận mưa pháp, có nơi nào không thấm nhuần không?
-
Có
-
Là nơi nào vậy?
-
Nước vẩy không tới!
(Thiền
Cơ)
Câu
trả lời của Đạo Khuông có nghĩa là tự tánh phải tự
mình tự chứng.
21. Văn Thù.
Văn
Hỷ có lần lên Ngũ Đài Sơn, trên đường gập một ông lão.
Văn
Hỷ hỏi ông lão:
-
Nơi đây, Phật pháp như thế nào?
-
Rồng rắn hỗn tạp, phàm thánh giao tham.
-
Có bao nhiêu người?
-
Trước 33, sau 33.
Tới
hôm sau không thấy ông lão đâu nữa, chỉ thấy bồ tát Văn
Thù cưỡi sư tử hiện trên không. Sau Văn Hỷ tu tập ở Ngưỡng
Sơn mà ngộ, làm việc ở nhà bếp. Một hôm, nhân mở vung
nồi cơm, trong hơi nóng bốc ra lại thấy Văn Thù hiện ra.
Văn Hỷ vơ lấy đồ vụt Văn Thù và nói: "Văn Thù tự Văn
Thù, Văn Hỷ tự Văn Hỷ, hôm nay không thể cảm hoặc ta được
đâu!"
(Thiền Viên)
Người
tu Thiền thấy cảnh lạ: Phật, Thánh sinh lòng sợ hãi hoặc
kính ngưỡng đó là vì tâm chưa thanh tịnh. Ngộ rồi, thì
đó chỉ là hiện tướng, là mê hoặc mà thôi.
22. Giả Thiền.
Trong
đám đệ tử của Bạch Ẩn có một ông tăng có vẻ đã khai
ngộ. Ông không lễ Phật, không dâng hương, thậm chí còn
xé kinh Đại Niết Bàn làm giấy đi cầu, nói rằng: “Ta chính
là Phật, kinh văn là ghi lại những lời Phật nói. Đã có
Phật ở đây rồi, thì kinh văn chỉ là mớ giấy lộn làm
việc vệ sinh lại chẳng đuợc sao?”
Bạch
Ẩn biết chuyện, gọi ông tăng lại bảo rằng: “Nghe nói
ngươi đã thành Phật! Đáng mừng! Đáng mừng! Nhưng mà đít
Phật cũng đáng tôn quý, dùng giấy lộn làm vệ sinh thì không
xứng chút nào, sau này ngươi nên dùng giấy trắng thanh khiết
thì hơn.”
(Thiền
Viên)
Ông
tăng nghe Bạch Ẩn nói "đít Phật cũng đáng tôn quý" mà không
có phản ứng gì, đủ biết đó là giả ngộ. Sau ông tăng
đó hướng Bạch Ẩn mà sám hối.
23. Không cho mọc rễ.
Dược
Sơn thấy một ông tăng đang trồng rau, bèn chạy lại nói:
-
Trồng thì cứ trồng nhưng đừng cho nó mọc rễ.
-
Nếu không cho nó mọc rễ thì đại chúng ăn cái gì?
Dược
Sơn hỏi:
-
Ngươi còn dùng miệng sao?
Ông
tăng không trả lời được.
(Thiền
Cơ)
"Rễ"
trong câu nói của Dược Sơn là chỉ căn trần không phải
là rễ cây.
24. Quay đầu.
Linh
Mặc vào phòng phương trượng thấy Thạch Đầu đang ngồi
thiền bèn hỏi:
-
Nếu nói một câu khế hợp, thì ta ở lại, bằng không thì
ta đi!
Thạch
Đầu ngồi yên không nói. Linh Mặc bèn đi ra. Thạch Đầu
theo ra đến ngoài cửa hét: "Hòa thượng!"
Linh
Mặc quay đầu lại.
Thạch
Đầu nói:
-
Từ sanh đến tử, chỉ là cái đó, quay đầu lại làm gì?
(Thiền
Cơ)
Cái
đó chỉ tự tánh, quay đầu chỉ sự hướng ngoại.
25. Địa Tạng gập trộm.
Lý
Sùng nhân đi tuần phương Nam, vào thăm thiền viện Văn Thù
thấy tượng bồ tát Địa Tạng bèn hỏi:
-
Vì sao Địa Tạng giơ tay?
Viên
Minh đáp:
-
Hạt châu trong tay bị trộm lấy mất.
-
Đã là Địa Tạng sao còn gập trộm?
-
Hôm nay bắt được rồi.
(Thiền
Cơ)
Châu
chỉ tự tánh, trộm chỉ trần ai.
26. Một đám mây trong không.
Đường
Túc Tông hỏi Huệ Trung đã đắc pháp Phật nào?
-
Bệ Hạ có thấy đám mây trong không?
-
Thấy.
-
Lấy đinh sắt mà đóng nó lại.
(Thiền
Cơ)
Phật
pháp lưu động như mây, cố định một chỗ là không phải.
27. Phí công khoác cà sa.
Một
ông tăng nói :
-
Dộng chuông rồi, thỉnh thiền sư thượng đường.
Dược
Sơn bảo:
-
Ngươi mang giúp ta y bát.
-
Thiền sư không có tay bao lâu rồi?
-
Uổng cho ngươi khoác áo cà sa!
(Thiền Cơ)
Ông
tăng còn phân biệt ta, người nên bị Dược Sơn mắng.
28. Cho ta một đồng.
Tòng
Thần thấy một ông tăng đang đếm tiền bèn nói:
-
Cho ta một đồng.
-
Thiền sư vì sao tới nước này?
-
Ta tới nước này!
-
Nếu đã tới nước này, cầm lấy một đồng.
-
Ngươi vì sao tới nước này?
(Thiền
Cơ)
Tiền
là vật ngoài thân. Thiền sư muốn ám chỉ phải quay vào trong
để ngộ tự tánh; ông tăng không hiểu tưởng thiền sư nghèo
quá nên phải xin tiền thật.
29. Rau sống, rau chín.
Triệu
Châu hỏi ông tăng coi vườn rau:
-
Hôm nay ăn rau sống hay rau chín?
Ông
tăng lấy một nắm rau đưa cho thiền sư.
Triệu
Châu nói:
-
Ngươi biết ơn ít, ngươi phụ ơn nhiều!
(Thiền Cơ)
Muốn
biết rau sống hay chín, phải tự mình ăn mới biết, đưa
cho thiền sư làm gì?
30. Tới số.
Nhất
Hưu từ nhỏ đã rất thông minh. Sư phụ ông có một cái tách
để uống trà là một đồ cổ rất hiếm quý. Một hôm ông
vô ý đánh vỡ, trong lòng cảm thấy khốn đốn. Ngay lúc đó
ông nghe tiếng bước chân sư phụ đến nơi ông liền hỏi:
-
Sư phụ! Con người vì sao phải chết?
Sư
phụ ông đáp:
- Đó là chuyện tự nhiên, ở trên thế gian này, tất cả mọi
sự vật có sanh thì có tử!
Lúc
đó Nhất Hưu đưa mảnh tách vỡ ra và nói:
-
Tách trà của sư phụ đã tới số rồi!
(Thiền Thuyết)
Nếu
đã hiểu được sanh tử của con người thì cũng hiểu được
sự thành hoại của sự vật.
31. Không biết gã này.
Khế
Xung là một vị đại sư ở thời Minh Trị, trụ trì Đông
Phúc Tự nhiều năm. Một hôm đại tướng quân Bắc Viên là
Tổng Đốc Kinh Đô đến thăm viếng. Thị giả đưa danh thiếp
có mấy chữ "Tổng Đốc Kinh Đô Bắc Viên" trình lên.
Thiền
sư nói:
-
Ta chẳng có quan hệ gì với gã Tổng đốc này, bảo gã hãy
đi đi.
Thị
giả đưa trả danh thiếp.
Bắc
Viên ngỏ lời xin lỗi :
-
Đó là lỗi của ta, (bèn lấy bút xóa bốn chữ Tổng Đốc
Kinh Đô), phiền thầy trao lại.
Thiền
sư đọc danh thiếp nói:
-
A, thì ra là Bắc Viên, ta tiếp gã này.
(Thiền
Thuyết)
Danh
lợi, địa vị, của cải, thành tựu thường làm che mất
chân ngã, làm chúng ta mê man như du tử lạc lối về nhà.
32. Đại ý Phật Pháp.
Có
ông tăng hỏi Thạch Sương:
-
Đại ý Phật pháp là thế nào?
-
Ngày xuân, gà gáy.
-
Đệ tử không hiểu.
-
Trung thu, chó sủa.
(Thiền
Viên)
Đạo
là do tham cứu những sự vật tầm thường mà ngộ.
33. Con lừa.
Quang
Dũng là truyền thừa của Ngưỡng Sơn, một hôm về thăm Ngưỡng
Sơn.
Ngưỡng
Sơn hỏi:
-
Đến làm gì?
-
Đến tham bái hòa thượng.
-
Còn thấy lão tăng không?
-
Thấy!
Ngưỡng
Sơn lại hỏi:
-
Thấy lão tăng giống con lừa không?
-
Lão tăng cũng không giống Phật.
-
Vậy giống cái gì?
-
Nếu giống cái gì thì đối với con lừa có gì là khác biệt
đâu?
Ngưỡng
Sơn nghe rồi khen rằng:
-
Ta dùng câu này 20 năm rồi để khảo nghiệm mà chỉ có con
là đáp được, thật là phàm thánh tận tình hộ trì!
(Thiền
Viên)
Câu
đáp của Quang Dũng chỉ rằng ông đã thể hội Tánh, Tướng
là một.
34. Trời đất cùng cười.
Một
tối, Dược Sơn lên núi kinh hành, đột nhiên mây tan, lộ
vầng trăng sáng, thiền sư bỗng phá lên cười. Kết quả
là dân dưới núi trong vòng 10 dậm đều nghe thấy tiếng cười,
không biết ở đâu tới. Ngày hôm sau, mọi người đều hỏi
nhau, tin tức lan truyền tới núi, chúng đệ tử nói rằng:"Đó
chính là sư phụ chúng tôi đêm qua tại đỉnh núi cười đó."
(Cảnh Đức Truyền Đăng Lục)
Dược
Sơn đã vong ngã, hòa cùng trời đất thành một thể mà cười
lớn vậy. Lý Cao có làm một bài thơ tặng Dược Sơn nói
về chuyện này:
選
得 幽 居 合 野 情
Tuyển
đắc u cư hiệp dã tình
終
年 無 送 亦 無 迎
Chung
niên vô tống diệc vô nghinh
有
時 直 上 孤 鋒 頂
Hữu
thời trực thượng cô phong đỉnh
月
下 披 雲 叫 一 聲
Nguyệt
hạ phi vân khiếu nhất thanh
Chọn chốn cô liêu thỏa dạ quê
Quanh năm nào biết đón đưa gì
Có khi lên tận đầu non vắng
Điểm nguyệt khơi mây lớn giọng kỳ.
(Tuệ
Sĩ dịch)
Hòa
Sơn cũng đã từng nói qua "Lạ thật! Lạ thật! Giả
như ta cười thì trời cũng cười, đất cũng cười!"
35. Tạp dịch.
Một
hôm Tây Viên đun nước để tắm, một ông tăng thấy nói
rằng:
-
Những việc tạp dịch này, thiền sư để các chú tiểu lo
được rồi!
Tây
Viên không nói, chỉ phủi tay.
(Thiền
Viên)
Thiền
phải do tự mình thể hội, không thể nhờ kẻ khác.
36. Hai rồng tranh châu.
Một
ông tăng hỏi Thủ Sơn :
-
Hai rồng tranh châu, con nào được?
-
Con được, thua.
-
Con không được, thì sao?
-
Châu ở đâu?
(Thiền
Cơ)
Châu
chỉ tự tánh; được, thua chỉ sai biệt là hiện tượng giới.
Không thể tìm tự tánh trong sự sai biệt.
37. Mới vào cửa Thiền.
Ông
tăng hỏi :
-
Đệ tử mới vào cửa Thiền, xin thiền sư chỉ dậy.
Trần
Tôn Túc đáp:
-
Ngươi không biết cách hỏi.
-
Vậy sao, ý của thiền sư là gì?
-
Tha cho ngươi 30 gậy, hãy tự mang đi.
(Thiền Cơ)
Đừng
hỏi người, hãy tự hỏi mình.
38. Thế nào là giải thoát.
Một
ông tăng hỏi Thạch Đầu:
-
Thế nào là giải thoát?
-
Ai trói ngươi?
-
Thế nào là Tịnh Độ?
-
Ai làm bẩn ngươi?
-
Thế nào là Niết Bàn?
-
Ai làm ngươi, sống, chết?
(Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục)
Câu
trả lời của Thạch Đầu chỉ mình tự trói, tự ô uế,
tự gây ra sanh, tử.
(Thiền
Cơ)
39. Gà mẹ ấp trứng.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử:
-
Đệ tử hỏi một câu, thiền sư liền đáp ngay; nếu bỗng
nhiên hỏi ngàn vạn câu thì thiền sư làm sao?
-
Giống gà mẹ ấp trứng.
(Thiền Cơ)
Phương
pháp có nhiều nhưng không ngoài mục đích kiến tánh.
40. Ta có thể đánh trống.
Có
ông tăng hỏi Hòa Sơn:
-
Thế nào là chân quá?
-
Ta có thể đánh trống!
-
Thế nào là chân đế?
-
Ta có thể đánh trống!
-
Tức tâm tức Phật không thể hỏi, nhưng phi tâm phi Phật
là sao?
-
Ta có thể đánh trống!
-
Đối với bậc thượng nhân, làm sao mà giáo hóa?
-
Ta có thể đánh trống!
(Thiền
Viên)
Chân
là chân thật, quá là độ quá; chân quá nghĩa là đã giác
ngộ. Trong Phật học, tu tập học vấn gọi là văn; học tận
học vấn gọi là "lân" đã tiếp cận đạo, là hàng
xóm của Phật. Đã thông quá "Văn" và "Lân" là đạt tới
cảnh giới tối cao gọi là "Chân Quá.” Ngôn ngữ không truyền
đạt được sự thật, nếu bị lời nói làm cho khốn quẫn
thì càng ngày càng đi sâu vào mê lộ, không tìm ra được
chân lý.
41. Mắt thấy như cục đất.
Một
ông tăng hỏi Lệnh Siêu:
-
Hai rồng tranh châu con nào được?
-
Châu ở khắp nơi, mắt thấy như cục đất.
(Thiền
Cơ)
Châu
chỉ tự tánh.
42. Một đám mây trắng.
Một
ông tăng hỏi Nguyên An:
-
Kinh Phật nói cúng dường cho trăm ngàn vị Phật chẳng bằng
cho một người phàm tục ăn cơm, không biết trăm ngàn vị
Phật có tội lỗi gì, còn người phàm tục có công đức
gì?
-
Một đám mây trắng ngang cửa hang, biết bao chim lạc lối
về tổ.
(Thiền Cơ)
Mây
trắng chỉ sự chấp Phật, càng chấp càng xa lìa tự tánh.
43. Thế nào là siêu Phật, vượt Tổ?
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Thế nào là siêu Phật, vượt Tổ?
-
Ma Hoàng Bồ Châu, Phụ Tử Ích Châu!
(Vân
Môn Lục)
Câu
hỏi hãy còn chấp Phật, pháp; Câu đáp đả phá mọi trói
buộc để tiến tới cảnh giới tối cao.
(Long
Mãn)
44. Không nói.
Đạo
Ngô dẫn đệ tử Tiệm Nguyên đến tang gia phúng điếu. Tiệm
Nguyên vỗ quan tài mà nói:
-
Sống ư? chết ư?
Đạo
Ngô nói:
-
Ta không nói sống, cũng không nói chết.
-
Tại sao không nói?
-
Không nói! Không nói!
Khi
về tự viện, Tiệm Nguyên nói:
-
Lão sư nói mau, nếu không con sẽ đánh.
-
Muốn đánh, cứ đánh, ta không nói.
Tiệm
Nguyên bèn đánh sư phụ. Khi Đạo Ngô mất Tiệm Nguyên đến
Thạch Sương và kể lại câu truyện trên. Thạch Sương nói:
-
Ta không nói sống, cũng không nói chết!
-
Tại sao không nói?
-
Không nói, không nói.
Tiệm
Nguyên nghe rồi liền ngộ. Một hôm, tại pháp đường Tiệm
Nguyên vác cuốc đi từ Đông sang Tây. Thạch Sương hỏi:
-
Ngươi làm gì đó?
-
Tìm linh cốt của tiên sư.
-
Ngươi chẳng thấy nước lớn mênh mông, sóng bạc ngập trời,
tìm linh cốt tiên sư cái gì?
-
Vậy, con đã phí công rồi!
(Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục)
Đạo
Ngô và Thạch Sương không nói sống, không nói chết vì sống
chết là những ý niệm đối đãi, còn ở trong hiện tượng
giới. Câu của Thạch Sương "ngươi chẳng thấy nước lớn
mênh mông, sóng bạc ngập trời" chỉ Phật tánh sung mãn khắp
trời đất. Câu đáp của Tiệm Nguyên hàm ý "Đúng vậy! Đó
là điều con muốn nói!"
(Long
Mãn)
45.
Người có Nam, Bắc; Phật Tánh vốn không Bắc, Nam.
Huệ
Năng lúc mới đến gập Ngũ tổ Hoàng Nhẫn, Hoằng Nhẫn hỏi:
-
Ngươi là người ở đâu, đến đây cầu việc gì?
-
Đệ tử người Lãnh Nam đến vái sư phụ, chỉ cầu làm Phật,
không cần gì khác.
-
Người Lãnh Nam còn dã man sao thành Phật được?
-
Người có Nam, Bắc, Phật tánh vốn không Bắc, Nam
(Pháp Bảo Đàn Kinh)
Phật
tánh ai cũng có, làm gì có phân biệt!
46. Làm trâu.
Phổ
Nguyện lúc sắp mất, một ông tăng hỏi:
-
Thiền sư mất rồi đi đâu?
-
Xuống núi làm trâu.
(Thiền
Cơ)
Tự
tánh ở khắp mọi nơi, không vì sanh tử mà tăng hay giảm.
47. Xanh, vàng, đỏ, trắng.
Một
ông tăng hỏi Huệ Chân:
-
Thế nào là tùy sắc ma ni châu?
Ngộ
Chân đáp:
-
Xanh, vàng đỏ, trắng.
-
Thế nào là không tùy sắc ma ni châu?
-
Xanh, vàng, đỏ, trắng.
(Thiền
Cơ)
Tùy
sắc ma ni châu chỉ tướng; không tùy sắc ma ni châu chỉ thể.
Câu đáp của Ngộ Chân chỉ thể tướng là một.
48. Lão Tăng đau lưng.
Một
ông tăng thưa với Đầu Tử:
-
Đệ tử từ ngàn dậm lại, thỉnh cầu thiền sư tiếp dẫn.
-
Hôm nay lão tăng đau lưng.
(Thiền
Cơ)
Câu
đáp của Đầu Tử ám chỉ ông tăng tự tiếp.
49. Dụng tâm liền sai.
Một
ông tăng hỏi Thủy Lục:
-
Đệ tử dụng tâm chỗ nào?
-
Dụng tâm liền sai.
-
Khi không khởi một niệm thì sao?
-
Là một gã vô dụng.
(Thiền
Cơ)
Dụng
tâm là có sai biệt, là còn ở trong hiện tượng giới; không
khởi một niệm là bước vào bản thể giới, "là một gã
vô dụng" là lại quay về hiện tượng giới.
50.
Xá Lợi.
Một
hôm Đơn Hà đến Huệ Lâm Tự ở Lạc Dương. Hôm đó trời
rất lạnh. Đơn Hà bèn lên điện Phật lấy tượng Phật
bằng gỗ xuống, đốt để sưởi ấm. Chính lúc đó viện
chủ
tới, bèn hét lên:
-
Sao ngươi lại đốt tượng Phật vậy?
Đơn
Hà lấy gậy bới trong đống tro mà đáp:
-
Ta tính đốt tượng Phật này để tìm xá lợi.
Viện
chủ kinh ngạc hỏi:
-
Phật gỗ làm sao có xá lợi?
-
Không có sao? Vậy ta xin thỉnh hai vị nữa, đốt để sưởi
ấm được không?
(Thiền
Thuyết)
Đạo
nhân vô tâm, nên mọi hành động đều tự do, tự tại không
bị hình thức trói buộc.
51. Ngươi tên chi?
Tam
Thánh là đồ đệ của Lâm Tế đến gập Ngưỡng Sơn. Ngưỡng
Sơn hỏi:
-
Ngươi tên chi?
-
Huệ Tịch.
-
Huệ Tịch là tên của lão nạp.
-
A! Đúng rồi, đệ tử là Huệ Nhiên.
Ngưỡng
Sơn ha hả cười lớn.
(Bích Nham Lục)
Khi
vượt lên khỏi cá thể thì Huệ Tịch tức là Huệ Nhiên,
Huệ Nhiên tức là Huệ Tịch.
52. Thùng nước thủng đáy.
Ni
cô Như Đại mới đầu theo Tổ Nguyên học thiền, sau lại
theo Thánh Nhất quốc sư, phụ trách bửa củi, gánh nước.
Một hôm, ni cô đội thùng nước trên đầu mà đi, bỗng đáy
thùng rơi ra. Ni cô do đó tỉnh ngộ, bèn làm bài kệ:
頂
頭 桶 底
Đính
đầu dõng để
忽
脫 落
Hốt
thoát lạc
水
已 不 留
Thủy
dĩ bất lưu
月
不 宿
Nguyệt
bất túc.
Trên đầu đội thùng nước
Đáy thùng bỗng vỡ tung
Không còn nước trong thùng
Không còn trăng trong nước!
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Bài
kệ cho thấy Ni cô đã đạt được tâm cảnh chân không vô
tướng.
53. Chết đứng.
Có
một lần Ẩn Phong đi đường gập hai đoàn quân đang giao
chiến chưa phân thắng bại. Thiền sư lấy tích trượng ném
lên không. Hai đạo quân đang đánh nhau, bỗng thấy một vị
hòa thượng bay qua bèn ngưng đánh nhau mà xem sự kiện lạ
lùng ấy. Ẩn Phong hiển lộ thần thông rồi, sợ người nói
mình thi hành yêu thuật hoặc chúng bèn về Ngũ Đài Sơn mà
nhập diệt. Ẩn Phong hỏi chư tăng:
-
Ngoài chết ngồi, chết nằm, có ai chết đứng chưa?
Mọi
người đáp có. Lại hỏi:
-
Có chết đứng rồi, nhưng có lộn ngược đầu mà chết chưa?
Chư
tăng đáp:
-
Chưa thấy qua.
Ẩn
Phong bèn lộn ngược đầu mà hóa. Chúng tăng rất phục, muốn
đem đi hóa nhưng đẩy thế nào cũng không được. Thiền sư
có một em gái là Tỳ khưu ni, nghe vậy chạy đến nói rằng:
-
Sư huynh sống tác quái, chết rồi còn tác quái!
Nói
rồi đẩy một cái, thây liền ngã.
(Thiền
Viên)
Thiền
có chỗ không thể nghĩ bàn, đây chính là một trong những
truyền kỳ của Thiền vậy.
54. Chẳng đi đêm.
Triệu
Châu hỏi Đầu Tử:
-
Kinh nghiệm của người tu Thiền “chết đi sống lại” như
thế nào?
-
Đêm tối chẳng đi, đợi trời sáng hãy đi.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền)
Người
tu Thiền tham công án đến mức hòa với công án là một,
lúc đó là đạt tới mức Chân Không Vô Tướng, từ cái không
đó lại tạo ra cái có (Chân Không Diệu Hữu). Đó là từ
u ám (đêm) mà dẫn tới sáng (trời sáng) vậy.
55. Bán một cân thịt thượng hạng.
Có
một lần Bàn Sơn đi đường, thấy một người khách mua thịt
heo, nói với người bán thịt rằng:
-
Bán cho ta một cân thịt thượng hạng.
Người
bán thịt bỏ dao xuống, khoanh tay trước ngực, nói rằng:
-
Thớt thịt này chẳng phải toàn là thượng hạng sao?
Bàn
Sơn nghe câu nói đó bỗng nhiên tỉnh ngộ.
(Chánh
Pháp Nhãn Tạng)
Bàn
Sơn vì vấn đề thiện ác đối lập làm cho phiền não, nghe
được câu nói của người bán thịt rồi liền nhập vào
cảnh giới Bình Đẳng Vô Sai Biệt, không còn ác cũng không
còn thiện.
(Long
Mãn)
56. Hành cước tăng.
Có
một ông tăng tới tham kiến, Trần Tôn Túc hỏi:
-
Ngươi là một vị hành cước tăng phải không?
-
Phải.
-
Lễ Phật chưa?
-
Lễ Phật đất đó làm gì?
Ngươi
hãy tự mình mang đi!
(Thiền
Cơ)
Đã
biết Phật đất, vậy hãy tự mang Phật thật đi.
57. Tường Đông đánh tường Tây.
Một
ông tăng hỏi Lũng Chân:
-
Thế nào là ý của Tổ sư từ Tây sang?
-
Tường Đông đánh tường Tây.
(Thiền
Cơ)
Phải
phá bỏ sai biệt (Đông, Tây) mới thấy được tự tánh.
58. Đinh một tấc.
Một
ông tăng hỏi Thẩm Triết:
-
Thế nào là chỗ thăm thẳm?
-
Lấy đinh một tấc đóng vào gỗ, tám con trâu kéo chẳng ra!
(Thiền Cơ)
Chỗ
thăm thẳm chỉ tự tánh.
59. Thả trâu.
Một
hôm Tuệ Tạng đang làm việc ở nhà bếp. Mã Tổ hỏi:
-
Làm gì vậy?
-
Thả trâu.
-
Thả làm sao?
-
Khi trâu vào bụi cỏ, buông liềm, kéo mũi lôi ra.
-
Ngươi thực biết thả trâu!
(Thiền Cơ)
Trâu
chỉ tự tánh.
60. Chỉ có ta thôi.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử:
-
Trên trời, dưới trời chỉ có ta là hơn cả, cái ta đó là
gì?
-
Đẩy ngã lão Hồ đó!
(Thiền Cơ)
Lão
Hồ chỉ Phật Thích Ca; câu đáp của Đầu Tử là để phá
cái chấp Phật của ông tăng.
61. Ngón tay trỏ mặt trăng.
Ni
cô Vô Tận Tạng thưa với Huệ Năng rằng:
-
Con tụng kinh Niết Bàn đã nhiều năm nhưng vẫn còn nhiều
chỗ chưa hiểu, nhờ thầy chỉ dậy.
-
Ta không biết chữ, ngươi cứ tụng đi ta sẽ giải nghĩa cho.
-
Chữ thầy còn chẳng đọc được thì làm sao giảng chân lý?
-
Chân lý và chữ viết có liên quan gì với nhau đâu! Chân lý
ví như mặt trăng ở trên trời, chữ viết ví như ngón tay.
Ngón tay có thể chỉ cho biết mặt trăng ở chỗ nào, nhưng
ngón tay không phải là mặt trăng, muốn ngắm trăng đâu cần
thiết phải nhờ ngón tay.
(Thiền
Thuyết)
Lời
nói, chữ viết chỉ là công cụ để diễn tả chân lý; tưởng
lầm lời nói, chữ viết là chân lý cũng như tưởng lầm
ngón tay là mặt trăng vậy.
62. Kẻ cướp giác ngộ.
Một
buổi chiều Thất Lý đang tụng kinh, bỗng có một tên cướp
xông vào dí dao vào người Thất Lý:
-
Đưa tiền ra đây, nếu không ta sẽ lấy cái mạng già của
ngươi.
-
Tiền ở trong ngăn kéo, ngươi tự tiện mà lấy nhưng để
lại một ít để ta mua thực phẩm.
Nói
rồi lại tiếp tục đọc kinh. Tên cướp lấy tiền rồi định
đi, Thất Lý nói:
-
Lấy tiền của người ta mà không nói một tiếng cám ơn sao?
Tên
cướp bèn nói "Cám ơn" rồi bỏ đi. Về sau tên cướp còn
cướp giật nhiều nơi, nhiều người nữa và cuối cùng bị
bắt. Thất Lý được kêu ra làm chứng. Thất Lý nói:
-
Người này không phải là cướp, như ta biết, ta cho hắn tiền
và hắn còn cám ơn ta nữa.
Tên
cướp vẫn bị phán có tội và bị giam vào ngục. Hết hạn
tù gã tìm ngay đến Thất Lý và xin được làm đệ tử.
(Thiền
Thuyết)
Câu
nói "Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật" thật khó làm
được. Cái động lực khiến cho phải "buông dao đồ tể"
chính là lòng từ bi vậy.
63. Số mạng trong tay mình.
Một
vị võ tướng Nhật Bản tên là Tín Trưởng, một lần ông
quyết tâm đánh bại địch thủ có số quân nhiều gấp mười
lần quân số của ông. Ông rất tin tưởng là mình sẽ thắng
nhưng bộ hạ của ông thì lại tỏ vẻ nghi ngờ. Khi dẫn
quân đi ngang một tòa miếu, ông dừng lại bảo bộ hạ rằng:
-
Ta muốn vào để bói một quẻ xem sao. Nếu mặt chính ở trên,
chúng ta sẽ thắng, bằng ngược lại chúng ta sẽ thua, vận
mạng của chúng ta nằm trong tay thần vậy!
Tín
Trưởng vào trong miếu, yên lặng cầu nguyện một lúc. Sau
dó quay mình ra trước mặt ba quân, tung đồng tiền lên. Kết
quả mặt chính ở trên. Do đó, bộ hạ ông đều đòi đi
đánh trận ngay. Đánh thắng trận rồi, một bộ hạ nói:
-
Ai cũng không thể cải biến được số mạng.
Tín
Trưởng không nói giơ đồng tiền ra: hai mặt đều là mặt
chính cả.
(Thiền
Thuyết)
Trời
đất chẳng tư vị ai, phải tự mình cứu mình.
64. Vô Ngôn Đồng Tử Kinh.
Quy
Sơn hỏi một ông tăng:
-
Xem kinh gì vậy?
-
Vô Ngôn Đồng Tử Kinh
-
Có mấy cuốn?
-
Hai cuốn.
-
Đã vô ngôn sao lại chỉ có hai cuốn
Ông
tăng không trả lời được.
(Thiền Cơ)
Vô
ngôn tức có thể là 1 cuốn, 2 cuốn, vạn cuốn?
65. Đánh vào đầu.
Tòng
Triển thấy một ông tăng chạy lại, bèn giơ thiền trượng
đánh vào đầu, ông tăng kêu đau. Tòng Triển nói:
-
Cái đó vì sao không đau?
(Thiên
Cơ)
Cái
đó chỉ tự tánh.
66. Giết trâu.
Có
người hỏi Huệ Giác:
-
Tôi thường thích giết trâu, có tội không?
-
Không tội.
-
Vì sao không tội?
-
Giết một, trả một.
(Thiền
Cơ)
Có
và không là sai biệt vì vậy thiền sư bảo phải bình đẳng.
67. Gia phong của La Hán.
Một
ông tăng hỏi La Hán:
-
Gia phong của La Hán là gì?
-
Không nói với ngươi.
-
Tại sao không nói?
-
Đó là gia phong của ta.
(Thiền
Cơ)
Gia
phong chỉ tự tánh.
68. Rùa đá nói rồi
Một
ông tăng hỏi Cư Độn:
-
Thế nào là ý của tổ sư từ Tây sang?
-
Đợi rùa đá nói, ta sẽ bảo!
-
Rùa đá nói rồi!
-
Nói gì với ngươi vậy?
(Thiền
Cơ)
Tự
tánh không thể dùng lời để diễn tả được
69. Trời, trăng chưa sáng.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử:
-
Trời, trăng chưa sáng, Phật và chúng sanh ở đâu?
-
Thấy lão tăng giận nói giận, thấy lão tăng vui nói vui.
(Thiền
Cơ)
Ông
tăng còn phân biệt Phật và chúng sanh là còn sai biệt, Đầu
Tử phàm thánh vô ngại, thấy giận nói giận, thấy vui nói
vui, tùy duyên mà điểm hóa đại chúng.
70. Thiền lý của tách trà.
Nam
Ẩn là một thiền sư Nhật Bản sống dưới thời Minh Trị
(1868-1912). Một hôm, có một vị giáo sư đại học đến hỏi
thiền. Thiền sư lấy trà ra đãi khách. Ông rót nước trà
vào tách của khách cho đến khi tách đầy mà vẫn tiếp tục
rót. Vị giáo sư trợn mắt trừng trừng, nhìn nước trà tràn
khỏi tách cho đến khi không giữ yên lặng được nữa, thưa
rằng:
-
Tách đã tràn rồi, xin đừng rót nữa.
Nam
Ẩn trả lời:
-
Ông cũng giống như tách trà này. Trong óc ông đầy những
tư tưởng, nếu ông không đổ hết tách trà của ông đi thì
tôi làm sao mà nói chuyện Thiền cho ông nghe được.
(Thiền
Thuyết)
Nếu
đã có thành kiến thì khó lòng chấp nhận ý kiến của người
khác.
71. Ta chẳng vào địa ngục thì ai vào?
Có
người hỏi Triệu Châu:
-
Thiền sư mất rồi đi đâu?
-
Làm lừa, làm ngựa.
-
Sau đó thì sao?
-
Ta vào địa ngục.
-
Có thể nào một vị thánh tăng như sư phụ sa địa ngục?
-
Chính ta là người đầu tiên đi vào!
-
Một vị đại thiện tri thức sao vào địa ngục được?
-
Nếu ta không vào thì làm sao gập mà cứu con được?
(Thiền Thuyết)
Nếu
chỉ cúng Phật ở chỗ thanh khiết, vậy ở nơi ô uế không
có Phật sao? Phật không đâu không có: thiên đường dĩ nhiên
là có Phật, nhưng địa ngục lại chẳng là nơi cần Phật
hơn sao?
72. Trên trời, dưới trời chỉ có ta là đáng tôn quý.
Theo
truyền thuyết Phật giáo, đức Phật khi được sanh ra, liền
bước đi bẩy bước, tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ
xuống đất nói rằng: "Trên trời, dưới trời chỉ có ta
là đáng tôn quý.”
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Cái
ta ở đây là chỉ tự tánh.
73. Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước.
Có
ông tăng hỏi Ba Lăng:
-
Tổ ý và giáo lý là cùng hay là khác?
-
Gà lạnh lên cây, vịt lạnh xuống nước.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Gà
vịt đều tìm cách trốn lạnh, nhưng phương pháp thì khác.
74. Cầu đá Triệu Châu.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Từng nghe tiếng Cầu Đá Triệu Châu, tới nơi nhìn mới thấy
nguyên lai chỉ là cầu gỗ.
-
Ngươi chỉ mới thấy cầu gỗ chứ chưa thấy Cầu đá Triệu
Châu.
-
Cầu đó như thế nào?
-
Lừa, ngựa đều qua được.
(Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục)
Cầu
gỗ hữu hình, chỉ độ người một thời, cầu đá vô hình
do lòng từ bi của bồ tát độ tất cả chúng sanh.
(Thái
Chí Trung).
75. Bạch Cư Dị và Điểu Sào Thiền Sư.
Thiền
sư Đạo Lâm trú trên cây tùng, do đó người đời gọi là
Điểu
Sào
thiền sư. Một hôm thi sĩ Bạch Cư Dị hướng Đạo Lâm thỉnh giáo:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
-
Không làm các điều ác, nguyện làm mọi điều lành.
Bạch
Cư Dị nghe rồi bảo thiền sư rằng:
-
Nói vậy thì đứa trẻ lên ba cũng biết.
-
Tuy là đứa trẻ lên ba cũng biết, nhưng ông lão tám mươi
cũng chưa làm được!
(Thiền
Thuyết)
Chúng
ta đều biết câu "biết khó, làm dễ" nhưng quên mất câu
"biết dễ, làm khó"; làm được như thế phỏng được mấy
người?
76. Tiếng mưa.
Cảnh
Thanh hỏi:
-
Có tiếng gì ngoài cửa?
Một
ông tăng đáp:
-
Tiếng mưa rơi!
-
Chúng sanh điên đảo mê chạy theo vật.
(Thiền Cơ)
Câu
nói của Cảnh Thanh chỉ: chớ chạy theo ngoại vật, ngoại
cảnh, ngoại duyên, ngoại trần.
77. Sừng trái, sừng phải.
Thường
Quán hỏi một ông tăng:
-
Ngươi thấy trâu không?
-
Có thấy.
-
Thấy sừng trái hay sừng phải?
Ông
tăng không đáp được. Thường Quán nói:
-
Thấy không phân phải, trái.
(Thiền
Cơ)
Trâu
chỉ tự tánh, phải thấy cả con trâu chứ không thể chỉ
thấy sừng trái hay sừng phải.
78. Cây gậy hóa rồng.
Vân
Môn cầm cây gậy hướng về các đệ tử, nói rằng:
-
Cây gậy này biến thành rồng, nuốt cả càn khôn, sơn hà
đại địa làm sao mà có đây?
(Bích
Nham Lục)
Gậy
chỉ tâm, rồng chỉ sự giác ngộ. Khi ngộ rồi thì thấy
thân tâm và vũ trụ đều cùng một thể.
(Long
Mãn)
79. Tuyết rơi về đâu?
Bàng
cư sĩ đến bái phỏng Dược Sơn, lúc cáo từ Dược Sơn sai
mười thiền khách tiễn ra cửa. Bàng cư sĩ chỉ tuyết trong
không trung mà nói:
-
Tuyết đẹp thay! Từng bông, từng bông rơi tới chỗ.
Lúc
đó có một vị thiền khách tên là Tố Toàn hỏi rằng:
-
Vậy sao! Rơi về đâu vậy?
Bàng
cư sĩ bèn tát ông một cái. Tố Toàn hỏi:
-
Sao lại ra tay đánh người?
-
Ngươi như vậy mà cũng dám xưng là thiền khách, thiệt Diêm
Vương cũng không dám cứu.
Tố
Toàn hỏi:
-
Vậy còn cư sĩ thì sao?
Cư
sĩ lại tát Tố Toàn một cái nữa, nói rằng:
-
Có mắt như mù, có lời như câm.
Tuyết
Đậu bình rằng:
-
Như quả là ta, thì khi Bàng cư sĩ hỏi, ta lấy một nắm tuyết
ném vào người cư sĩ nói rằng:
-
Rơi xuống chỗ này!
(Bích
Nham Lục)
Thiên
hạ vạn vật chẳng kể to nhỏ, quý tiện đều có công dụng,
chỗ đứng của nó.
(Thái Chí Trung)
80. Quan lớn ngốc.
Hai
thiền sư Đại Ngu và Ngu Đường được một vị quan to mời
đến tiếp kiến. Đến nơi, Ngu Đường nói với vị quan to
rằng:
-
Ngài vốn thông mẫn có thể học thiền được!
Đại
Ngu mắng:
-
Nói bậy! Tên quan ngốc này tuy có địa vị cao nhưng biết
quái gì về thiền!
Kết
quả, viên quan này xây tự viện cho Đại Ngu và theo ông học
thiền.
(Thiền
Thuyết)
Đại
Ngu không bị ngoại cảnh mê hoặc, trong tâm không phân biệt
thiện ác, nên tiếp cận với Thiền.
81. Ngay trước mắt.
Nam
Tuyền đang giẫy cỏ trên núi, có vị du tăng muốn đến tham
phỏng Nam Tuyền bèn hướng về Nam Tuyền hỏi đường:
-
Xin hỏi muốn đến Nam Tuyền thì đi đường nào?
-
Cái liềm này ta mua 30 đồng đấy!
-
Ta không hỏi cái liềm của lão mà muốn biết đường đến
Nam Tuyền.
-
Cắt cỏ vừa nhanh vừa sắc.
(Thiền Viên)
Chuyện
đời thường giống như vậy, có lúc người mình muốn gập
ở ngay trước mắt mà mình không biết. Câu đáp một của
Nam Tuyền chỉ thể, câu 2 chỉ dụng.
82. Chủ nhân ông.
Thụy
Nham mỗi ngày đều tự gọi "Chủ nhân" và tự trả lời "Dạ"
rồi lại nói "Hãy tỉnh thức" và tự đáp "Dạ!" "Đừng bao giờ để kẻ khác lừa dối!" "Dạ!"
(Thiền
Thuyết)
Con
người thường bị hoàn cảnh chi phối, vì vậy phải tỉnh
thức để làm chủ lấy mình.
83. Ngồi lâu sanh mệt.
Có
ông tăng hỏi Hương Lâm:
-
Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Ngồi lâu sanh mệt.
(Bích
Nham Lục)
Khi
ngồi thì biết là mình ngồi, khi mệt thì biết là mình mệt.
Đó là sự tỉnh thức trong mọi quán niệm.
(Long
Mãn)
84. Cây Hoàng Dương.
Đại
Tuệ, một bữa cơm chiều, mải tham công án tới mức vong
ngã, cầm đũa mà quên cả ăn.
Viên
Ngộ nói:
-
Người này đã tham được Hoàng Dương Mộc Thiền.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Cây
hoàng dương là cây cứng nhưng không mọc cao, theo truyền thuyết
thì càng mọc cao gỗ càng kém nên tỷ dụ cho thiền cảnh
"chết đi nhưng chưa sống lại.”
85. Tre cao, tre thấp.
Thanh
Bình hỏi Thúy Vi:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Đợi lúc không người ta sẽ nói cho ngươi biết.
Đợi
một lúc Thanh Bình nói:
-
Không có ai rồi, mời thầy nói.
Thúy
Vi xuống thiền sàng, dẫn Thanh Bình ra vườn tre và nói:
-
Ngươi xem chỗ này tre cao, chỗ kia tre thấp.
(Thiền
Thuyết)
Người
có trí, ngu; tre có cao, thấp. Trí, ngu, cao, thấp không tuyệt
đối tốt hay xấu. Cao có cái tốt của cao, thấp có cái khéo
của thấp.
86. Tre đen, tre đỏ.
Có
người nhờ một họa sĩ vẽ một bức tranh Tre. Tranh vẽ xong,
ông ngắm nghía bức tranh và nói:
-
Đẹp lắm! Đẹp lắm! Nhưng dùng mầu không đúng, tre sao lại
vẽ đỏ?
-
Vậy phải dùng mầu gì?
-
Đương nhiên là mầu đen.
Họa
sĩ hỏi lại:
-
Có ai thấy tre đen bao giờ chưa?
(Thiền
Thuyết)
Mặc
dầu chúng ta có thể chỉ ra những chỗ sai lầm của người
khác, nhưng những quan niệm của chúng ta cũng có thể sai lầm
mà chúng ta vẫn cứ tưởng là đúng.
87. Trích Thủy Hòa Thượng.
Nghi
Sơn một hôm đi tắm, vì nước nóng quá bèn gọi một đệ
tử nhỏ tuổi sách một thùng nước lạnh vào pha. Người
đệ tử này vâng lệnh mang thùng nước lạnh đến đổ vào
bồn tắm, chỗ nước thừa đem đổ ngay trên mặt đất. Nghi
Sơn mắng:
-
Đồ ngu! Sự việc lớn nhỏ đều có công dụng, sao không
mang nước thừa mà tưới cho cây cỏ? Ngươi đã làm lãng
phí giọt nước của chùa.
Nghe
lời nói đó người đệ tử hoát nhiên khai ngộ bèn đổi
pháp hiệu thành Trích Thủy.
(Thiền
Thuyết)
Vạn
vật đều có công dụng, dù xuất xứ thấp hèn đến đâu
cũng có một vị trí trong trời đất.
88. Pháp Thân.
Một
ông tăng hỏi Đại Long:
-
Sắc thân bị hủy hoại, còn thế nào là pháp thân kiên cố?
-
Hoa núi nở đẹp như gấm, nước suối trong xanh.
(Bích Nham Lục)
Hoa
nở để rồi tàn, nhưng hoa không hề ngưng nở bao giờ; mặt
suối bình lặng, nhưng nước vẫn lưu chuyển không ngừng.
Ý nghĩa của cuộc đời có thể tìm trong quá trình của cuộc
sống, trong đó biến dịch là chân lý không dời đổi.
89. Cái gì chẳng phải là Phật Pháp?
Đời
Đường Đức Tông, Hội Thông một vị lục quan sử 11 tuổi
thọ 5 giới, 22 tuổi từ quan, xuất gia, được Điểu Sào
thiền sư thế phát. Ngày đêm chuyên cần học tập, tụng
đọc kinh điển đại thừa, tu tập an ban tam muội. Một hôm
bỗng cáo từ ra đi.
Thiền
sư hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Vân du thiên hạ, học tập Phật Pháp.
-
Nói đến Phật Pháp ở đây ta cũng có chút ít.
-
Phật Pháp của hòa thượng là gì?
Thiền
sư rút một sợi tơ từ áo ra giơ lên nói:
-
Đây chẳng phải là Phật Pháp sao?
(Thiền
Thuyết)
An
Ban Tam Muội: phương pháp quán sát hơi thở đưa tới định.
Nguyên
lý của vạn vật không phải ở chốn xa xôi không thể đến
được, nó ở ngay trong tâm chúng ta. Vạn vật đều có Phật
tánh, cái gì chẳng phải Phật pháp?
90. Cha ngươi tên gì?
Một
ông tăng hỏi Minh Chân:
-
Làm sao để thoát khỏi vòng sanh tử?
-
Mang sanh tử ra!
-
Người đã tới, làm sao nói không được?
-
Cha ngươi tên gì?
(Thiền
Cơ)
Còn
sanh, tử là còn ở hiện tượng giới, "mang sanh tử ra" thì
vào được bản thể giới. Đốn ngộ là một loại kinh nghiệm
tự tu, tự chứng làm sao nói ra được? "Cha ngươi tên gì
" là hỏi bản lai diện mục của ngươi ở đâu?
91. Nắm bắt hư không.
Thạch
Củng hỏi sư đệ Tây Đường Trí Tạng:
-
Ngươi có thể nắm bắt hư không chăng?
-
Được.
-
Ngươi làm thử coi.
Tây
Đường lấy tay chộp không khí.
Thạch
Củng nói:
-
Làm vậy có bắt được gì!
-
Vậy sư huynh bảo phải làm sao?
-
Phải như thế này.
Vừa
nói Thạch Củng vừa bóp mũi Tây Đường. Tây Đường kêu
toáng lên.
(Thiền Thuyết)
Vì
"Sắc tức thị không, không tức thị sắc", thay vì nắm không
khí chi bằng bóp mũi đối phương lại gần hiện thực hơn.
92. Không thể thay thế.
Một
người kia hỏi một thiền sư:
-
Thế nào là ý nghĩa của Thiền?
-
Ta cũng muốn bảo ngươi, nhưng hiện ta mắc đi tiểu; ngươi
thử nghĩ coi, ngay việc nhỏ mọn như vậy ta cũng phải tự
làm. Xin hỏi, ngươi có thể thay thế ta đi tiểu được không?
(Thiền Thuyết)
Muốn
ngộ được việc lớn sanh tử, phải do chính mình, không thể
nhờ ai được. Ỷ lại vào những kiến giải của kẻ khác
thì chẳng khác gì con vẹt học nói tiếng người, tuy là nói
được nhưng chẳng hiểu lời nói đó có ý nghĩa gì.
93. Vì ta ở đó.
Vân
Nham đang đun nước pha trà, sư huynh Đạo Ngô bước vào hỏi:
-
Ngươi đun nước cho ai vậy?
-
Có người cần uống.
-
Hắn muốn uống sao không tự đun?
-
Vì đệ ở đây.
(Thiền
Thuyết)
Người
hiểu được không có sự phân biệt giữa chủ và khách có
thể phân biệt được chủ khách; có thể biến khách thành
chủ.
94. Thiền không thể giảng.
Dược
Sơn đã lâu không lên đàn giảng pháp. Viện chủ đến gập
thưa rằng:
-
Đệ tử chúng con hy vọng được nghe sư phụ giảng pháp.
-
Được! Hãy đánh chuông kêu mọi người lên đại điện nghe
pháp.
Đại
chúng tụ tập đầy đủ rồi, thiền sư bèn trở về phòng
phương trượng.
Viện
chủ chạy theo hét lên:
-
Sư phụ, vì sao không nói một lời đã bỏ đi rồi?
-
Viện chủ, kinh có kinh sư, luật có luật sư, luận có luận
sư, sao lại trách cứ ta?
(Tổ
ĐườngTập)
Thiền
không thể giảng, có giảng ra cũng vô dụng.
(Thái
Chí Trung)
95. Tâm động.
Một
ngày kia, tại Pháp Tánh Tự, gió thổi, cờ bay. Có hai ông
tăng tranh luận. Một người nói cờ động, một người nói
gió động; không ai chịu ai.
Huệ Năng nói:
- Không phải gió động, không phải cờ động, mà là tâm các ông động.
Mọi người nghe thấy đều kinh ngạc. Câu chuyện trên đã trở thành một giai thoại trong chốn Thiền môn.
Câu chuyện đến đây vẫn chưa hết. Về sau, trong các đệ tử của Ngưỡng Sơn có một ni cô tên là Diệu Tín, sử sự mọi việc rất thông minh, nhanh nhẹn. Ngưỡng Sơn biết ni cô có tài bèn giao cho toàn quyền phụ trách tiếp đãi những khách bên ngoài đến. Một ngày kia có 17 vị hành cước tăng người Tứ Xuyên đến thăm chùa, chuẩn bị hỏi pháp Ngưỡng Sơn. Sau bữa cơm chiều, các vị hành cước tăng không có chuyện gì làm, bèn tranh luận về Phật pháp. Khi đề cập đến gió động, cờ động thì 17 vị có 17 ý kiến, tranh cãi náo loạn, âm thanh lọt đến tai Diệu Tín. Diệu Tín lập tức hét lớn lên:
- 17 ông tăng kia, ngày mai trước khi đi phải thanh toán tiền phòng, tiền cơm cho rõ ràng.
Thái độ uy nghiêm khiến các ông hành cước tăng bỗng im bặt không biết làm sao cho phải. Diệu Tín lại ra lệnh:
- Không
được tranh cãi, hãy đến trình diện ta, ta sẽ nói cho các
ông nghe.
17
người bất giác chạy đến trước mặt Diệu Tín. Diệu Tín
nói:
- Nếu
đã không phải gió động, cũng không phải cờ động làm
sao tâm động?
Các
ông tăng hoát nhiên khai ngộ, đều thấy không cần phải nghe
Ngưỡng Sơn
giảng
pháp nữa. Ngày hôm sau, toàn thể đều từ biệt Diệu Tín
mà đi.
(Nhất
Vị Thiền)
Hai
ông tăng chấp vào ngoại cảnh (gió, cờ). Câu nói của Lục
tổ là chấp vào Tâm. Thực ra thì ngài đã vượt lên tâm
và cảnh. Ở đây ngài chỉ đơn giản chỉ cho hai ông tăng
chấp vào cảnh là sai lầm. Câu nói của Diệu Tín phá cả
Tâm và Cảnh mới là hoàn toàn không chấp. Những gì khái
niệm hóa thì không phải là thực tại. Thiền dạy chúng ta
nhìn và hiểu sự vật như chính nó, chứ không bằng sự phân
tích hay khái niệm hóa.
(Kubose)
96. Vượt lên lời nói.
Một
thiền sư bảo các đồ đệ:
-
Hai người đi dưới mưa, trời mưa không làm ướt một người.
Các ngươi giải thích chuyện này thế nào?
Các
đệ tử đua nhau trả lời:
-
Vì một người mặc áo tơi, một người không.
-
Vì mưa cục bộ nên người bị ướt, người không.
-
Vì một người đi giữa đường, một người đi dưới hàng
hiên.
Thiền
sư nói:
-
Các ngươi chấp vào câu "không làm ướt một người"
, vì vậy nên không tìm ra ý nghĩa. Thực ra câu "không
làm ướt một người" chẳng phải là chỉ cả hai người
đều bị ướt hay sao?
(Thiền
Thuyết)
Ngón
tay trỏ mặt trăng, nhưng mặt trăng không ở đầu ngón tay.
Lời nói để diễn tả chân lý, nhưng chân lý không nằm
trong lời nói.
97. Thiết Nhãn in Kinh.
Thiết
Nhãn là một vị thiền sư Nhật Bản. Ông có tâm nguyện là
khắc bộ Đại Tạng Kinh bằng tiếng Nhật, vì lúc đó bộ
kinh đang dùng là bộ kinh chữ Hán. Bộ Đại Tạng Kinh gồm
7000 cuốn, vì vậy tâm nguyện của ông quả là một hoằng
nguyện (lời nguyện lớn). Để trả phí dụng cho việc in
kinh ông bắt đầu lạc quyên. Một số ít đồng tình cho ông
tiền vàng, còn đa số chỉ cho những bạc vụn. Ai tặng cúng
ông cũng cảm kích tạ ơn như nhau. Sau 10 năm quyên góp, ông
chuẩn bị để khắc bản in. Bỗng nhiên Vũ Trị Xuyên Hà
ngập nước. Thủy tai xẩy ra. Trước cảnh đói khổ của
nạn dân, Thiết Nhãn mang hết tiền quyên góp để in kinh ra
phát chẩn. Nạn đói qua khỏi Thiết Nhãn lại bắt đầu quyên
góp. Vài năm sau, Nhật Bản lại có bệnh truyền nhiễm lan
truyền khắp nước. Thiết Nhãn lại đem hết tiền khổ công
quyên góp ra giúp đỡ mọi người. Sau đó Thiết Nhãn lại
bắt đầu quyên góp lần thứ 3. Ông không sợ khổ sở, đắng
cay, khó khăn, dòng dã 20 năm, cuối cùng ông đã hoàn thành
được tâm nguyện. (Nhất Vị Thiền, Quyển Phong)
Ngày nay những bản khắc gỗ dùng để in kinh của Thiết Nhãn được tàng trữ ở Hoàng Bá Tự ở Đông Kinh và được coi là bảo vật của chùa. Thiết Nhãn chỉ khắc bộ Đại Tạng Kinh một lần, nhưng người đời đều biết ông khắc 3 lần, 2 lần trước tuy không thấy hình nhưng so với lần thứ 3, đã đi sâu vào trong lòng người.
98. Tri Thánh Thiền Sư.
Như
Mẫn ở Linh Thụ Viện dòng dã 20 năm trường mà không chọn
người nào làm thủ tọa. Một lần, thiền sư nói với chư
tăng rằng :
-
Thủ tọa của chúng ta đã sinh ra rồi.
Lại
nói thêm:
-
Hiện đang chăn trâu.
Một
lần khác nói:
-
Thủ tọa của chúng ta đang vân du.
Nói
rồi rất cao hứng. Một hôm, thiền sư sai người đánh chuông,
nói rằng :
-
Mọi người trong chùa mau tập hợp, cuối cùng vị thủ tọa
của chúng ta đã đến.
Do
đó, mọi người đều tập hợp ở sơn môn để nghinh đón,
trong lòng nghi hoặc không biết thật hay giả. Chẳng bao lâu
Vân Môn quả nhiên xuất hiện. Thiền sư lập tức thỉnh vào
phòng Thủ Tọa. Do đó, về sau mọi người đều gọi Như
Mẫn là Tri Thánh thiền sư.
(Thiền
Viên)
Hiện
đang chăn trâu: chỉ Vân Môn đã ngộ rồi, còn đang tu tập.
99. Đại Đạo.
Có
người hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là Đạo?
-
Ở ngoài tường ấy!
-
Không hỏi cái đó.
-
Ngươi hỏi cái nào?
-
Đại Đạo.
-
Đại Đạo dẫn đến Trường An.
(Thiền
Viên)
Phật
pháp không lìa thế gian pháp: thiền đạo là bình thường
đạo.
100. Cách ngôn.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Câu cách ngôn tối trọng yếu của sư phụ là gì?
-
Đến nửa câu cách ngôn ta cũng chẳng có.
-
Sư phụ chẳng phải là phương trượng ở nơi này sao?
-
Đúng! Nhưng đó là ta, chẳng phải cách ngôn.
(Nhất
Vị Thiền, Quyển Nguyệt)
Cách
ngôn là lời nói có thể dùng làm phép tắc được. Thiền
đâu có thể cố định, công thức hóa được?
101. Ngoại cảnh mê hoặc.
Có
người hỏi Dược Sơn:
-
Làm thế nào để không bị ngoại cảnh mê hoặc?
-
Mặc ngoại cảnh đến đi, có quan hệ gì?
-
Chẳng hiểu.
-
Ngoại cảnh nào làm ngươi bị mê hoặc.
(Nhất
Vị Thiền, Quyển Nguyệt)
Chúng
ta bị ngoại cảnh chi phối vì tâm chưa được thanh tịnh.
Đối với người có định lực cao thì ngay núi thái sơn đổ
cũng không biến sắc, trái lại với người kém thì làn gió
nhẹ làm lay động cỏ thôi cũng ngồi chẳng yên.
102. Chổi và phất trần.
La
Hán thấy một ông tăng đi tới bèn giơ phất trần lên. Ông
tăng trông thấy bèn lạy và nói :
-
Tạ ơn thiền sư chỉ thị.
-
Ngươi thấy ta giơ phất trần lên thì lạy, còn người giơ
chổi lên thì sao?
(Nhất
Vị Thiền, Quyển Nguyệt)
Chổi
và Phất trần đều để quét bụi, giơ chổi hay phất trần
lên không có gì sai khác, chỉ cần quét sạch những đám mây
hắc ám trong tâm thì sẽ thấy trời tạnh vạn dậm.
103. Con chim phóng uế.
Thôi
tướng quốc vào đại điện, thấy một con chim nhỏ đang
phóng uế trên đầu tượng Phật, liền hỏi Như Hội :
-
Chúng sanh đều có Phật tánh, vì sao con chim nhỏ lại phóng
uế trên đầu tượng Phật?
-
Xin cứ yên tâm, nó không phóng uế trên đầu chim Diêu đâu!
(Nhất
Vị Thiền, Quyển Nguyệt)
Phật
và tượng thường bị chúng ta đồng hóa là một, nên thấy
chim phóng uế trên đầu tượng Phật là bất kính, nhưng đối
với con chim, thì tượng Phật hay khúc gỗ nào có khác gì.
104. Hạ cây phướn xuống.
A
Nan hỏi Ca Diếp:
-
Sư huynh, đức Thế Tôn truyền y bát cho sư huynh rồi, còn
truyền gì nữa không?
Ca
Diếp gọi :
-
A Nan.
-
Dạ!
-
Hạ cây phướn trước chùa xuống!
A
Nan hốt nhiên đại ngộ.
(Vô
Môn Quan)
Tâm
bình thường là Đạo, chẳng cần phải đi đâu để tìm chân
lý, chỉ cần chú ý những sự việc nhỏ nhặt trong sinh hoạt
hàng ngày mà thể hội.
(Thái
Chí Trung)
(A
Nan là em họ của Phật, nhỏ tuổi hơn Phật khoảng 30 tuổi.
Ông có một trí nhớ đặc biệt; vào năm 20 tuổi ông bắt
đầu làm thị giả cho Phật cho đến khi Phật tịch diệt.
Trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất, dưới sự chủ
tọa của Ma Ha Ca Diếp, ông đã thuật lại đầy đủ những
gì đức Phật đã giảng dậy. Tuy nghe nhiều nhưng thiếu tu
dưỡng cho nên đến khi Phật tịch diệt rồi mà ông vẫn
chưa giác ngộ.)
105. Nắm bắt hiện tại.
Đức
Phật hỏi các đệ tử :
-
Cuộc đời dài ngắn thế nào?
-
60 năm.
-
Sai!
-
70 năm.
-
Sai!
-
80 năm.
-
Sai!
-
Vậy là bao lâu?
-
Chỉ trong một hơi thở.
(Thiền
Thuyết)
Đừng
chìm đắm trong quá khứ, đừng mơ mộng trong tương lai, hãy
nắm bắt hiện tại, hãy cảm nhận những sự việc đẹp
đẽ quanh ta.
106. Ta không nói cho ngươi biết.
Có
một lần Quy Sơn, Ngũ Phong, Vân Nham đều đứng hầu Bách
Trượng.
Bách
Trượng hỏi Quy Sơn :
-
Miệng ngậm làm sao nói pháp?
Quy
Sơn đáp :
-
Thỉnh sư phụ nói đi!
-
Ta không nói cho ngươi biết sợ tuyệt con cháu.
Bách
Trượng lại hỏi Ngũ Phong.
Ngũ
Phong đáp:
-
Hòa thượng câm miệng lại!
Bách
Trượng nói :
-
Cơ phong của ngươi sắc bén quá, sợ người tu đạo không
giám thân cận, kính phục nhưng mà xa lánh vậy!
Bách
Trượng lại hỏi Vân Nham.
Vân
Nham đáp :
-
Sư phụ có pháp đó thật sao?
Bách
Trượng nói :
-
Cứ như cách nói của ngươi, ta sẽ không còn người thừa
kế.
(Bích
Nham Lục)
Câu
hỏi của Bách Trượng có nghĩa là làm sao để diễn tả chân
lý? Nếu người đã ngộ thì chân lý và người chỉ là một,
đi đứng, nằm, ngồi, mở miệng hay ngậm miệng đều là
đạo. Quy Sơn, Ngũ Phong, Vân Nham đều ngộ Đạo, nhưng khác
biệt ở thô và tế.
(Long
Mãn)
107. Mẹ trâu đến rồi.
Ni
cô Thiết Ma ở gần am Quy Sơn, một hôm đến thăm.
Quy
Sơn thấy ni cô đến, nói rằng :
-
Mẹ Trâu đã đến!
Ni
cô nói :
-
Ngày mai Ngũ Đài Sơn có cung ứng trai phạn, lão sư có đi
không?
Quy
Sơn nghe rồi, nằm xuống mà ngủ. Ni cô không nói một lời,
bỏ đi.
(Bích
Nham Lục)
Quy
Sơn ở Hồ Nam, Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây, có muốn đến thọ
trai ngày mai cũng không thể được. Quy Sơn nằm ngủ có ý
nói đã ăn no rồi, không cần đi Ngũ Đài Sơn thọ trai nữa.
(Long
Mãn)
108. Tất cả đều không.
Thiết
Chu đi khắp nơi tham phỏng danh sư. Một hôm tới chùa Tướng
Quốc gập Độc Viên. Để biểu thị ngộ cảnh của mình
Thiết Chu đắc ý nói :
-
Tâm, Phật, chúng sanh đều không. Chân tánh của mọi hiện
tượng là không, nên không có ngộ, mê, thánh, phàm, cho, nhận.
Độc
Viên lấy gậy gõ vào đầu Thiết Chu.
Thiết
Chu hét lên :
-
Vì sao thầy đánh đệ tử?
-
Tất cả đều không, sự tức giận của ngươi từ đâu tới
vậy?
(Thiền
Thuyết)
"Không
thiện, không ác, không khổ, không vui, tất cả đều không.”
Câu nói này không phải ai cũng hiểu được. Những lời của
Thiết Chu chỉ là thiền ngoài miệng.
109. Giới Ngữ.
Có
bốn học tăng ước hẹn nhau ngồi thiền 7 ngày không được
nói chuyện. Ngày đầu tiên 4 người ngồi thiền không nói,
tới khuya, cây nến lập lòe lúc sáng lúc tối. Một ông tăng
bỗng mở miệng:
-
Cây nến sắp tắt kìa!
Ông
tăng thứ hai:
-
Chúng ta đã hẹn không nói mà!
Ông
tăng thứ ba:
-
Các ngươi vì sao lại nói?
Ông
tăng thứ tư:
-
Ha! Ha! Chỉ có ta là không nói!
(Thiền
Thuyết)
Rất
nhiều người chỉ trích những sai lầm của kẻ khác mà không
biết chính mình cũng sai lầm nốt.
110. Cho và nhận.
Vô
Nan chỉ có một đồ đệ thừa kế là Chánh Thọ. Một hôm
Vô Nan bảo Chánh Thọ:
-
Ta đã già rồi, nay giao cho ngươi cuốn sách này làm chứng
tích cho sự thừa kế.
-
Con đã tiếp nhận thiền chẳng lập văn tự của sư phụ
rồi và con rất thỏa mãn, cuốn sách này sư phụ hãy tự
giữ lấy.
-
Cuốn sách này đã được lưu truyền 7 đời rồi, và ta cũng
có thêm thắt những kiến giải của ta nữa. Ngươi hãy cầm
lấy như một biểu tượng tiếp thụ y bát.
-
Dạ, được!
Lúc
đó trời rất lạnh, bên ngoài tuyết rơi tơi bời, trong phòng
có nhóm một hỏa lò để sưởi. Chánh Thọ cầm cuốn sách
quẳng ngay vào lò. Vô Nan nổi giận hét lên:
-
Ngươi làm gì vậy?
Chánh
Thọ cũng hét lại:
-
Sư phụ nói gì?
Vô
Nan nhìn Chánh Thọ đột nhiên tâm ý bình hòa trở lại, trong
khoảng khắc cuốn sách đã thành tro.
(Thiền
Thuyết)
Tri
và hành phải hợp nhất, giảng học mà không thực hành thì
chỉ là thiền ngoài miệng.
111. Lên Ngũ Đài Sơn đi đường nào?
Gần
Quán âm Tự của Triệu Châu có một quán trà của một
bà lão. Trước quán có đường phân ngả. Các du tăng lên
Ngũ Đài Sơn bái phỏng đều hỏi đường bà lão:
-
Lên Ngũ Đài Sơn, đi đường nào?
Bà
lão đều trả lời:
-
Cứ đi thẳng.
Họ
đi được vài bước lại nghe bà lão nói :
-
Lại có hòa thượng tốt đi đường đó!
Có
ông tăng đem chuyện này mách Triệu Châu.
Triệu
Châu nói :
-
Nếu vậy để ta đi thăm bà lão coi sao.
Ngày
hôm sau Triệu Châu cũng hỏi đường, và bà lão cũng trả
lời như vậy. Triệu Châu không nói cúi đầu mà về, hướng
đại
chúng
nói rằng:
-
Lão nạp đã vì các ngươi đi khám phá bà lão đó rồi!
(Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục)
Một
câu trả lời cố định không thích hợp cho mọi trường hợp,
chân lý của đời sống là biến dịch.
(Thái
Chí Trung)
112. Không gì không là thuốc.
Một
hôm, bồ tát Văn Thù kêu Thiện Tài đồng tử đi hái thuốc,
bảo rằng:
-
Ngươi đi hái bất cứ thứ gì không là thuốc đem về đây!
Thiện
Tài tìm không thấy trở về nói :
-
Không gì không là thuốc!
-
Vậy ngươi hái bất cứ cái gì là thuốc đem ra đây!
Thiện
Tài ngắt một cọng cỏ đưa cho Văn Thù. Văn Thù cầm lấy
cọng cỏ bảo đại chúng rằng:
-
Cái này có thể giết người, nhưng cũng có thể cứu người!
(Bích
Nham Lục)
"Không
gì không là thuốc", nói cách khác là phiền não tức bồ đề,
sinh tử tức Niết Bàn. Vô minh và phiền não có thể giết
người, nhưng cũng có lúc có thể cứu người.
(Long
Mãn)
113. Ba giới không Pháp, cầu Tâm ở đâu?
Bàn
Sơn nói với đệ tử rằng:
-
Thế giới này cái gì cũng không có, các ngươi đi đâu mà
cầu tâm?
Tuyết
Đậu có bài kệ rằng :
三
界 無 法
Tam
giới vô pháp
何
處 求 心
Hà
xứ cầu tâm
白
雲 爲 蓋
Bạch
vân vi cái
流
泉 作 琴
Lưu
tuyền tác cầm
一
曲 兩 曲 無 人 會
Nhất
khúc lưỡng khúc vô nhân hội
雨
過 夜 塘 秋 水 深
Vũ
quá dạ đường thu thủy thâm
Tam
giới không pháp
Chỗ nào tìm tâm
Mây trắng làm lọng
Dòng Suối khảy đàn
Một bản, hai bản không người hiểu
Mưa xuống hồ đêm nước thu sâu.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Bích
Nham Lục)
Câu
1: ba giới là: dục giới, sắc giới, vô sắc giới; không
pháp: phải thăng hoa mọi khái niệm, dùng trực giác mà thể
hội.
Câu
2 - 3: Trời đất giao hòa tạo ra nhạc điệu nhưng ít người
hiểu được.
Câu
4: khi đã vào được định rồi thì sẽ thể nghiệm được
vô pháp, vô tâm bằng kinh nghiệm chứ không phải bằng suy
luận.
(Sekida)
114. Cây kiếm của Hoàng Sào.
Nham
Đầu hỏi một ông tăng:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Từ Tây kinh tới.
-
Sau loạn Hoàng Sào không nghe nói đến cây kiếm của hắn,
ngươi có được thanh kiếm đó không?
-
Có mang theo đây.
Nham
Đầu đến gần ông tăng nghểnh cổ lên và kêu: ối!
-
Lão sư đã rơi đầu rồi!
Nham
Đầu ha hả cười lớn.
Ông
tăng lại đến tham bái Tuyết Phong.
Tuyết
Phong hỏi :
-
Từ đâu tới?
-
Từ Nham Đầu tới.
-
Nham Đầu nói cái gì?
Ông
tăng kể lại câu chuyện. Tuyết Phong đánh ông tăng 30 gậy
và đuổi đi.
(Bích
Nham Lục)
Theo
truyền thuyết, một cây kiếm từ trên trời rơi xuống, trên
kiếm có khắc hàng chữ "Trời ban cho Hoàng Sào.” Hoàng
Sào liền đó tự xưng là Xung Thiên đại tướng quân mà làm
loạn. Đánh phá Trường An, vua phải bỏ chạy. Câu nói của
Nham Đầu chỉ Kim Cương Vương bảo kiếm mà ai cũng có. Câu
đáp của ông tăng "có mang theo đây" chỉ trỏ được thể,
không trỏ được dụng, hãy còn khiếm khuyết. Câu nói của
ông tăng "Lão sư rơi đầu rồi" chỉ là khẩu đầu thiền
nên bị Nham Đầu cười và Tuyết Phong đánh.
(Long
Mãn)
115. Rợ Hồ không râu.
Hoặc
Am khi xem một bức tranh vẽ Bồ Đề Đạt Ma rậm râu bèn
phàn nàn rằng: "Sao tên rợ Hồ này lại không râu?"
(Vô
Môn Quan)
Lời
nói và khái niệm đều do tâm tạo, chỉ làm che lấp chân
lý; phải nắm bắt chân lý, chứ đừng khư khư chấp vào
cái bóng của nó.
(Sekida)
116. Tới Giang Bắc hoặc Giang Nam Hỏi Lão Vương.
Có
ông tăng hỏi Trí Môn :
-
Hoa sen chưa ra khỏi nước thì thế nào?
-
Là hoa sen.
-
Khi ra khỏi nước rồi thì sao?
-
Là lá sen.
Tuyết
Đậu có bài kệ:
蓮
花 荷 葉 報 君 知
Liên
hoa hà diệp báo quân tri
出
水 何 如 未 出 時
Xuất
thủy hà như vị xuất thời
江
北 江 南 問 王 老
Giang
bắc giang nam vấn vương lão
一
狐 疑 了 一 狐 疑
Nhất
hồ nghi liễu nhất hồ nghi.
Hoa sen lá cọng bảo anh tri
Khỏi nước sao bằng chưa khỏi thì
Giang Bắc, Giang Nam hỏi Vương lão
Một hồ nghi, lại một hồ nghi.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Bích
Nham Lục)
Hoa
sen chỉ thể, lá sen chỉ dụng. Thể, dụng là một. Nếu chẳng
hiểu thì có thể đi Giang Bắc hoặc Giang Nam mà hỏi lão Vương
(chỉ Nam Tuyền hoặc bất cứ một người nào đó). Đừng
đi hỏi một người nào khác vì thắc mắc sẽ vô tận
khi mình chưa tự giác.
Dã
Hồ tính rất đa nghi, khi qua sông đóng băng thường lắng
nghe tiếng nước chẩy dưới băng. Nếu thấy băng dầy thì
mới chịu đi qua, từ đó mà có từ ngữ hồ nghi. (Long Mãn)
117. Tuyết đầy chén bạc.
Một
ông tăng hỏi Ba Lăng:
-
Đề Bà Tông là thế nào?
-
Tuyết đầy chén bạc.
(Bích
Nham Lục)
Ba
Lăng là đệ tử của Vân Môn; Đề Bà là tên của Cana
Đề Bà tôn giả, là đệ tử của ngài Long Thọ, là một
người rất giỏi biện luận.
Tuyết
chỉ Đề Bà Tông, chén bạc chỉ Phật giáo.
(Sekida)
Câu
hỏi của ông tăng trong công án này có nghĩa là “Thiền là
gì?” Tuyết đầy chén bạc, chúng cùng mầu trắng rất khó
phân biệt, nhưng chúng khác nhau. Thiền có thể mô tả dưới
3 khía cạnh: thể, tướng, dụng. Nhưng nếu chỉ nhìn từ
một khía cạnh thì không thấy Thiền mặc dù mỗi phương
diện đều là Thiền.
(Kubose)
118. Trường Sa đi dạo.
Một
hôm, Trường Sa lên núi tản bộ. Khi về đến cổng chùa,
thủ tọa hỏi rằng :
-
Lão sư đi đâu vậy?
-
Lên núi tản bộ.
-
Đi tới đâu mới về?
-
Trước, theo lối cỏ thơm mà đi; sau theo lối hoa rụng mà
về!
-
Rất giống xuân ý.
-
Còn hơn sương thu rơi trên hoa sen.
(Bích
Nham Lục)
Câu
hỏi của thủ tọa "Lão sư đi đâu vậy?" là hỏi lão sư
đã đạt tới cảnh giới nào?
Câu
đáp của Trường Sa "Trước, theo... mà về" là nói "vô
tâm" đi chơi núi thì còn có cảnh giới nào mà đạt.
Câu
nói của thủ tọa "Rất giống xuân ý" là một cái bẫy
giương ra, nếu Trường Sa trả lời thẳng thì "vô tâm" sẽ
biến thành "hữu tâm.”
Trường
Sa đáp "Còn hơn sương thu rơi trên hoa sen.” Sương thu là
phiền não, hoa sen là mê hoặc, ý nói vô tâm đã thắng phiền
não và mê hoặc.
(Long
Mãn)
119. Ngồi một mình trên đỉnh núi Đại Hùng.
Có
ông tăng hỏi Bách Trượng:
-
Thế nào là kỳ đặc?
-
Bách Trượng ngồi một mình trên đỉnh núi Đại Hùng.
Ông
tăng bèn lạy tạ.
(Bích
Nham Lục)
Sự
kỳ đặc chỉ sự giác ngộ. Câu đáp của Bách Trượng có
nghĩa là khi Thân và Tâm hợp nhất.
(Long Mãn)
120. Cơm trong bình bát, nước trong thùng.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn :
-
Thế nào là trần trần tam muội?
-
Cơm trong bình bát, nước trong thùng.
(Bích
Nham Lục)
Trần
trần là rất nhỏ, tam muội là định. Nếu có thể đem quán
niệm tập trung vào một vi trần thì đạt được định. Câu
đáp chỉ cảnh giới Tâm Vật hợp nhất.
(Long
Mãn)
121. Hoa Dược Lan.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn :
-
Thanh tịnh pháp thân là thế nào?
-
Hoa Dược Lan.
-
Nếu đệ tử cứ hiểu như vậy thì sao?
-
Là sợi lông vàng của sư tử.
(Bích
Nham Lục)
Hoa
Dược Lan : là hàng cây trồng quanh nhà cầu để át đi mùi
hôi thối. Câu đáp của Vân Môn phá chấp Phật là phải thanh
tịnh, để diễn ý bình đẳng. Ông tăng muốn chắc nên hỏi
lại. "Sợi lông vàng của sư tử" là chỉ đừng để bề
ngoài mê hoặc. Trong kinh Báo Ân có kể câu chuyện một con
sư tử hay đến nghe các ông tăng tụng kinh. Một người thợ
săn muốn bắn con sư tử này để lột da mang dâng vua. Ông
ta cạo đầu, khoác áo cà sa giả làm tăng, và bắn được
con sư tử. Sư tử muốn vồ lại ông, nhưng nghĩ ông là tăng
nên thôi và chịu chết. Câu nói của Vân Môn có nghĩa là
"Ngươi chưa đạt tới cảnh giới tịnh, uế bất nhị đâu,
hãy còn xa lắm!" (Viên Thông)
122. Mù, câm, điếc.
Huyền
Sa bảo đệ tử rằng :
-
Các thiền sư đều muốn phổ độ chúng sanh. Nay có người
mù đến, giơ phất tử lên, hắn không thấy. Có người câm
đến, kêu hắn nói, hắn không nói được. Có người điếc
đến, bảo hắn hắn chẳng nghe. Vậy làm sao mà phổ độ?
Nếu không cứu độ được, vậy Phật pháp chẳng là không
linh nghiệm sao?
Có
ông tăng đem chuyện trên đi hỏi Vân Môn. Vân Môn nói :
-
Ngươi lạy đi.
Ông
tăng lạy rồi đứng đó. Vân Môn giơ gậy như muốn đẩy
ông tăng, ông tăng bèn thối lui.
Vân
Môn nói :
-
Ngươi chẳng mù.
Lại
nói :
-
Ngươi lại đây.
Ông
tăng lại gần.
Vân
Môn nói:
-
Ngươi chẳng điếc!
Lại
hỏi :
-
Ngươi hiểu chưa?
-
Chưa hiểu.
-
Ngươi cũng chẳng câm.
Lúc
đó, ông tăng hốt nhiên đại ngộ.
(Bích
Nham Lục)
Ông
tăng coi mình như người bàng quan, đem trường hợp 3 người
bệnh mà hỏi Vân Môn. Do Vân Môn chỉ điểm mới biết chính
mình là 3 người bệnh đó: có mắt như mù, có tai như điếc,
có miệng mà câm.
(Viên
Thông)
123. Thể dụng của Bát Nhã.
Có
ông tăng hỏi Trí Môn:
-
Thể của Bát Nhã là gì?
-
Trai ngậm trăng sáng.
-
Dụng của Bát Nhã là gì?
-
Con thỏ mang thai.
(Bích
Nham Lục)
Bát
Nhã là Trí Huệ khai ngộ. Trí huệ này khác với trí thức.
Ông tăng lấy Bát Nhã phân ra Thể, Dụng để hỏi, nhưng Trí
Môn trả lời đều cùng một dạng; chỉ thay trai bằng thỏ.
Trai ngậm hạt trai, dưới ánh trăng chiếu xán lạn; thỏ mang
thai cũng mỹ lệ. Ý của Trí Môn là trí huệ khai ngộ như
trăng sáng chiếu khắp vạn vật. Trăng là chỉ Bát Nhã, chiếu
khắp vạn vật là chỉ lòng từ bi của bậc bồ tát muốn
độ tất cả chúng sanh.
(Viên
Thông)
124. Ba cân gai.
Có
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Thế nào là Phật?
-
Ba cân gai.
Ông
tăng không hiểu chạy đi hỏi Trí Môn :
-
Phật tức ba cân gai nghĩa là sao?
Trí
Môn đáp :
-
Trăm hoa nở đẹp như gấm thêu.
Ông
tăng vẫn không hiểu, Trí Môn lại nói:
-
Trúc phương Nam, mộc phương Bắc.
Ông
tăng càng nghe càng không hiểu, quay trở lại Động Sơn và
thuật lại đầu đuôi câu chuyện.
Động
Sơn dậy ông:
-
Nói không tỏ được sự, lời chẳng hợp cơ, chấp lời thì
mất mạng, kẹt cú thì bị mê.
(Bích
Nham Lục)
Ngôn
ngữ chỉ là công cụ để diễn tả chân lý. Nếu chấp vào
ngôn từ thì là đánh mất chân lý vậy.
(Thái
Chí Trung)
125. Cảnh Thanh kêu mổ.
Có
ông tăng hỏi Cảnh Thanh :
-
Học nhân kêu, thỉnh thầy mổ.
-
Còn sống chăng?
-
Nếu chẳng sống sẽ bị người chê cười.
-
Cũng chỉ là gã trong cỏ!
(Bích
Nham Lục)
Trong
Thiền học có câu "Cơ kêu mổ.” Gà con ở trong trứng
muốn ra, dùng mỏ gõ vào vỏ trứng gọi là "kêu.” Gà mẹ
ở bên ngoài giúp gà con mổ vào vỏ trứng gọi là "mổ.”
Nếu gà con chưa trưởng thành, gà mẹ mổ thì gà con sẽ chết.
Nếu gà con mổ nhưng gà mẹ ở bên ngoài không mổ thì gà
con cũng chết. Kêu và mổ phải đồng thời. Quan hệ giữa
thiền sư và đồ đệ cũng giống như gà mẹ và gà con. Thiền
không phải là học vấn mà là kinh nghiệm, thiền sư không
truyền gì cho đệ tử cả. Đệ tử phải tự cảm giác và
linh tánh mà lãnh ngộ. Sư phụ chỉ có thể ám thị, nhưng
nếu đệ tử chưa tới trình độ giác ngộ thì cũng vô dụng.
Vì vậy sư phụ phải tùy theo tốc độ lãnh ngộ của đệ
tử mà chỉ dậy, thời cơ đó gọi là "cơ kêu mổ.”
(Viên
Thông)
126. Củ cải to của Triệu Châu.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Từng nghe hòa thượng thân gập Nam Tuyền phải không?
-
Trấn Châu sản xuất củ cải to!
(Bích
Nham Lục)
Nam
Tuyền và Triệu Châu là 2 vị thiền sư danh tiếng. Nam Tuyền
là sư phụ của Triệu Châu, ông tăng dĩ nhiên là biết điều
đó, nên muốn qua Triệu Châu mà tìm hiểu thiền phong của
Nam Tuyền. Triệu Châu biết thế nên mới trả lời "Trấn
Châu sản xuất củ cải to.” Trấn Châu là chỗ ở của Triệu
Châu, không phải là chỗ ở của Nam Tuyền. Câu đáp của
Triệu Châu có ý nói ta có thiền của ta.
(Viên
Thông)
127. Lông mày Thúy Nham.
Hạ
an cư kết thúc rồi, Thúy Nham nói với đại chúng rằng:
-
Từ đầu hạ đến nay vì huynh đệ nói pháp, lông mày Thúy
Nham còn không?
Bảo
Phúc đáp :
-
Làm cướp lòng rỗng.
Trường
Khánh nói:
-
Sinh vậy.
Vân
Môn nói :
-
Quan!
(Bích
Nham Lục)
Tại
Ấn Độ bắt đầu từ 15 tháng 5 trời mưa tầm tã trong 3
tháng, các ông tăng không thể đi ra ngoài vì sợ đạp trúng
côn trùng vào mùa sinh sôi nẩy nở, nên ở trong chùa mà tu
tập. Theo truyền tụng, hễ ai giảng pháp sai thì lông mày
bị rụng.
Câu
hỏi của Thúy Nham có nghĩa là:"Ta giảng pháp đúng hay sai?"
Cũng có nghĩa là "Các ngươi có hiểu không?".
Câu
đáp của Bảo Phúc có nghĩa là "Nghe lời giảng chân chính
của thiền sư, học nhân chúng tôi rất quý trọng.”
Câu
của Trường Khánh có nghĩa là "Đây là giáo huấn chân thật,
nên lông mày mọc ra!"
Câu
của Vân Môn có nghĩa "Qua cửa rồi thì phải cẩn thận.”
(Viên
Thông)
128. Trước sau ba ba.
Văn
Thù bồ tát hỏi Vô Trước:
-
Vừa rời chỗ nào?
-
Phương Nam!
-
Phật pháp phương Nam thế nào?
-
Thời mạt pháp, tỳ khưu ít giữ giới luật.
-
Tăng chúng nhiều ít?
-
Hoặc 300 hoặc 500.
Vô
Trước hỏi lại Văn Thù:
-
Nơi đây Phật pháp thế nào?
-
Phàm, Thánh cùng ở; rồng rắn lẫn lộn.
-
Tăng chúng nhiều ít?
-
Trước ba ba, sau ba ba!
(Bích
Nham Lục)
Ngũ
Đài Sơn là Đạo tràng của Văn Thù, cuộc đối thoại này
là do Vô Trước khi lên núi gập Văn Thù mà có.
Rồng
sống ở trên trời chỉ Phật, rắn sống ở đất chỉ chúng
sanh.
Trước
chỉ cho đến nay. Sau chỉ vị lai. 3 chỉ số nhiều, 33 chỉ
một con số rất nhiều.
Câu
nói của Văn Thù có nghĩa là nếu chỉ kể chư tăng hộ pháp
không thôi thì Phật pháp không bao lâu sẽ bị suy thoái, cho
nên không nên phân tăng, tục, mọi người đều phải hộ
pháp thì Phật giáo sau này vẫn hưng thạnh.
(Viên
Thông)
129. Tất cả mọi âm thanh đều là Phật thanh.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử :
-
Tất cả âm thanh đều là Phật thanh có phải không?
-
Phải.
-
Hòa thượng đừng để con nghe người đánh rắm.
Đầu
Tử nghe rồi bèn đánh.
Ông
tăng lại hỏi:
-
Lời thô, tiếng tế đều quy về đệ nhất đế có phải
không?
-
Phải.
-
Kêu hòa thượng là con lừa được không?
Đầu
Tử nghe rồi lại đánh.
(Bích
Nham Lục)
Ông
tăng đặt câu hỏi chỉ thấy cái khuyết điểm của cá thể
mà không nhìn thấy cái toàn thể. Đầu Tử đánh ông là để
thức tỉnh ông đừng bị cá thể trói buộc tự ngã.
(Viên Thông)
130. Lục bất thâu.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Pháp thân là thế nào?
-
Lục bất thâu.
(Bích
Nham Lục)
Câu
đáp của Vân Môn có nghĩa là 6 căn chẳng thâu. 6 căn là:
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, là 6 giác quan của con người.
Muốn
thành Phật thì phải từ bỏ "ngã" và "vọng.” 6 căn chính
là ngã và vọng. Mắt thấy sắc thì muốn, tai nghe tiếng du
dương liền động tâm, mũi ngửi thấy mùi thơm liền say,
lưỡi nếm vị ngọt liền thích, thân cọ sát với người
khác phái thì khoái.
Phủ
nhận 6 căn, hay vượt lên 6 căn đều còn bị 6 căn trói buộc.
Câu
đáp của Vân Môn có nghĩa là:"Ngươi tu chưa đủ, cho nên
mới hỏi Phật, hỏi Thiền, đó chỉ là tướng bên ngoài,
nếu muốn khai ngộ thì cứ nhìn dưới chân mình, bước từng
bước thật trên đường Đạo."
(Viên
Thông)
131. Kinh Kim Cương khinh tiện.
Kinh
Kim Cương nói: "Nếu một người bị người khinh là do đời
trước tạo nghiệp nên phải đọa đường ác; đời nay bị
khinh thì tội nghiệp đời trước sẽ tiêu diệt."
(Bích Nham Lục)
Tất
cả mọi sự đều do nhân duyên mà sinh. Nhân là hành vi, duyên
là điều kiện, 2 cái này kết hợp thành quả; vì vậy gọi
là nhân quả sanh khởi, nói tắt là Duyên khởi. Vấn đề
đặt ra là làm sao diệt nghiệp, muốn vậy phải trừ bỏ
dục niệm vì ngu xuẩn. Người giác ngộ, tuy nghiệp tiền
thế vẫn còn, nhưng không để cho nó thành nghiệp chướng,
nghĩa là thọ nghiệp nhưng không khổ.
(Viên
Thông)
132. Cổ Phật và lộ trụ.
Vân
Môn nói với chúng đệ tử:
-
Cổ Phật và cây cột tương giao là cơ thứ mấy?
Đệ
tử không ai đáp được. Vì vậy hòa thượng tự đáp:
-
Đó là núi Nam mây giăng, núi Bắc mưa rơi!
(Bích Nham Lục)
Cổ
Phật: là người giác ngộ; lộ trụ là cây cột ở ngoài
cửa.
Câu
nói của Vân Môn là để phá chấp quý (cổ Phật), tiện (cây
cột) khiến thiền sinh có thể tiến vào tâm cảnh "vô ngã.”
Có
mây thì tất phải mưa, không cần biết núi Bắc hay Nam. Dưới
con mắt người đã khai ngộ mây, mưa là một, tự tha chẳng
hai.
(Viên
Thông)
133. Một chậu nước.
Quy
Sơn đang ngủ, Ngưỡng Sơn vào thỉnh an, Quy Sơn quay mặt vào
vách.
Ngưỡng
Sơn thưa:
-
Thầy sao bận vậy?
-
Ta vừa nằm mộng ngươi thử đoán coi!
Ngưỡng
Sơn bèn bưng một chậu nước rửa mặt lại.
Một
lúc sau Hương Nghiêm cũng vào thỉnh an, Quy Sơn nói:
-
Ta vừa nằm mộng, Ngưỡng Sơn đoán trúng rồi, ngươi thử
đoán coi!
Hương
Nghiêm bèn bưng một tách trà lại.
(Thiền Cơ)
Mộng
là ảo ảnh. Ngưỡng Sơn mang chậu nước rửa mặt lại là
để rửa mộng; Hương Nghiêm bưng trà lại cho Quy Sơn uống
để tỉnh mộng. Cởi bỏ mọi trói buộc thì mới trực nhận
được bản lai diện mục.
134. Một cỗ quan tài.
Một
chú tiểu hỏi Đại Mai:
-
Thế nào là ý của tổ sư từ Tây sang?
-
Không ý.
Tề
An nghe rồi nói :
-
Một cỗ quan tài, hai xác chết.
(Thiền
Cơ)
Câu
nói của Tề An có nghĩa là một câu nói chết làm khốn tử
hai hòa thượng.
135. Từ nơi nào tới?
Tuyết
Phong hỏi Minh Châu:
-
Từ đâu tới?
-
Từ Giang Tây.
-
Thấy Đạt Ma tổ sư ở đâu?
-
Đã nói với hòa thượng rồi mà!
-
Nói gì?
-
Từ đâu tới?
(Thiền
Cơ)
Thấy
Đạt Ma ở đâu: là hỏi đã ngộ chưa? Câu đáp cuối
trả lời đã ngộ rồi.
136. Đứa trẻ Hoài Nam.
Chân
Giác bỗng nhiên hỏi một ông tăng:
-
Có nhớ không?
-
Nhớ!
-
Nói cái gì?
-
Nói cái gì?
-
Đứa trẻ Hoài Nam vào chùa.
(Thiền Cơ)
Đứa
trẻ Hoài Nam chỉ tự tánh. Chân Giác hỏi ông tăng còn nhớ
bản lai diện mục không? Ông tăng trả lời có.
137. Dã Hồ quỷ.
Một
ông tăng đang lạy, Tiên Thiên nói:
-
Dã Hồ quỷ! Thấy gì mà lạy?
Ông
tăng đáp: "Lão nô hói, thấy gì mà hỏi?"
Tiên
Thiên than: "Khổ rồi! Khổ rồi!"
(Thiền Cơ)
Ông
tăng lạy bị Tiên Thiên mắng "Dã Hồ quỷ" ám chỉ tự lạy
mình còn tốt hơn. Ông tăng không chịu kém cắn lại "Lão
nô hói.” Tiên Thiên chỉ còn nước kêu khổ.
138. Đến báo ơn.
Văn
Ích hỏi một ông tăng:
-
Từ đâu đến?
-
Đến báo ơn.
-
Còn an tâm không?
-
An tâm.
-
Uống trà đi!
(Thiền
Cơ)
"Uống
trà đi " ám chỉ tự mình tham chứng, đó là báo ơn.
139. Cửa đóng rồi.
Huyền
Sa và ĐịaTạng nói chuyện trong phòng phương trượng. Đêm
khuya rồi, thị giả bèn đóng cửa phòng phương trượng.
Huyền
Sa nói :
-
Cửa đóng rồi, xem ngươi làm sao mà ra?
Địa
Tạng đáp:
-
Cái gì gọi là cửa?
(Thiền
Cơ)
Ở
bản thể giới không có danh tướng nên không có cửa, không
có trong ngoài, nên không có ra vào.
140. Ba năm.
Dược
Sơn hỏi một ông tăng đang thổi cơm:
-
Ngươi ở đây bao lâu rồi?
-
3 năm.
-
Sao ta không biết ngươi?
(Thiền
Cơ)
Câu
hỏi của Dược Sơn ám chỉ tự tánh của ngươi ở đâu?
141. Bò đực sanh bê.
Trong
buổi tham chiều, không đốt đèn. Dược Sơn nói:
-
Ta có một câu, đợi khi bò đực sanh bê sẽ bảo cho các ngươi!
Có
một ông tăng thưa:
-
Bò đực sanh bê rồi!
Dược
Sơn kêu:
-
Thị giả! Đốt đèn!
(Thiền
Cơ)
Ở
hiện tượng giới chuyện bò đực sanh bê là không thể được;
nhưng ở bản thể giới không có gì là được với không
được.
142. Vòng tròn của Nam Tuyền.
Nam
Tuyền, Quy Tông, Ma Cốc, 3 người định đi tham bái Huệ Trung
quốc sư. Giữa đường Nam Tuyền vẽ 1 vòng tròn trên đất
nói rằng: "Nói được thì đi."
Quy
Tông ngồi ngay vào vòng tròn, Ma Cốc hướng vào vòng tròn
mà lạy như đàn bà.
Nam
Tuyền nói:
-
Thế thì chẳng đi.
Quy
Tông nói:
-
Là tâm hạnh gì vậy?
(Bích Nham Lục)
Nam
Tuyền vẽ 1 vòng tròn là chỉ Huệ Trung, vì Huệ Trung là người
khởi xướng vẽ vòng tròn. Quy Tông ngồi vào trong vòng tròn
chỉ mình và vòng tròn là một. Lạy như đàn bà, vì đàn
bà sợ cúi xuống quá thì tóc bung ra thành ra chỉ gật đầu.
Ma Cốc lạy tỏ ý kính trọng.
(Viên
Thông)
143. Đức Sơn đến Quy Sơn.
Đức
Sơn đến tham Quy Sơn, hành lý trên lưng còn chưa bỏ xuống,
đã vào pháp đường đi từ Đông sang Tây xem xét, lại đi
từ Tây sang Đông ngắm nghía rồi nói: "Không! Không!" rồi
định bỏ đi, nhưng ra đến cửa lại chần chờ và nói:
-
Không được lạo thảo quá!
Bèn
sửa sang lại quần áo nhờ người dẫn vào gập Quy Sơn.
Quy
Sơn ngồi trong đó, thấy Đức Sơn vào định nắm lấy phất
tử. Lúc đó Đức Sơn bèn hét lên một tiếng lớn, phất
tay áo mà đi.
Đến
chiều Quy Sơn hỏi thủ tọa:
-
Người mới đến lúc nãy ở đâu?
Thủ
tọa thưa:
-
Đã đi rồi!
Quy
Sơn nói:
-Gã
này về sau lên đỉnh núi dựng am cỏ, quở Phật mắng tổ!
(Bích Nham Lục)
Đức
Sơn vào pháp đường đi từ Đông sang Tây, rồi lại từ Tây
sang Đông là tỏ ý xem xét thiền phong của Quy Sơn thế nào?
Khi Đức Sơn vào gập Quy Sơn thì Quy Sơn đã có sẵn phất
tử là sẵn sàng nghênh địch. Đức Sơn hét lớn là muốn
chiếm tiên cơ. Quy Sơn vẫn ngồi yên. Đức Sơn phất tay áo
bỏ đi là phủ nhận Quy Sơn. Nghĩ kỹ lại thì cao thấp
đã rõ, Đức Sơn bỏ đi vì trong 36 kế, bỏ chạy là hơn
cả.
(Viên
Thông)
144. Chết chìm suối sâu.
Sư
thượng đường nói:
-
Ta ở nơi tiên sư Hoàng Bá 20 năm, 3 lần hỏi đại ý của
Phật pháp, 3 lần bị ăn gậy, như bị cây ngải phết qua.
Hôm nay còn muốn một trận nữa. Người nào vì ta mà ra tay?
Có
một ông tăng từ chúng bước ra thưa:
-
Con làm được.
Sư
đưa gậy cho ông, ông đưa tay nhận, sư bèn đánh.
Có
ông tăng hỏi:
-
Thạch Thất giã gạo, đạp chân xuống mà quên nhấc chân
lên, vậy ý hướng ở đâu?
Sư
nói :
-
Chết chìm suối sâu?
(Lâm
Tế Lục)
Việc
trên lưỡi kiếm: chỉ cảnh giới nhất tâm bất loạn; dẫn
từ Truyền Đăng Lục: Phần Châu nói "như đi trên băng, như
chạy trên lưỡi kiếm.”
Thạch
Thất: Đường Võ Tông hạ chiếu chỉ diệt Phật giáo, ra
lệnh tăng, ni phải hoàn tục. Đến khi Phật giáo được phục
hồi Thạch Thất không mặc cà sa, chỉ làm người giã gạo
để độ sinh.
Quên
nhấc chân: chỉ cảnh giới vong ngã.
145. Vân Môn có báu vật.
Một
hôm Vân Môn nói với chúng đệ tử rằng:
-
Trong càn khôn, giữa vũ trụ, có một báu vật, dấu ở hình
sơn, đem lồng đèn vào điện Phật, đem cửa chùa lên lồng
đèn.
(Bích
Nham Lục)
Vật
báu chỉ tự tánh, điện Phật u tối chỉ mê vọng; ánh đèn
chỉ trí tuệ. Đem đèn lên điện Phật: dùng trí tuệ mà
phá trừ mê vọng.
Đem
cửa chùa lên lồng đèn là chỉ một việc không thể làm
được, câu nói khiến chúng đệ tử khởi nghi tình, nỗ lực
tham cứu đưa tới ngộ.
(Viên
Thông)
146. Một hạt bụi của Phong Huyệt.
Một
hôm, Phong Huyệt nói với các đệ tử rằng: "Nếu lập một
hạt bụi thì đất nước hưng thạnh, không lập một hạt
bụi thì đất nước bị mất."
(Bích
Nham Lục)
Trong
Thiền giới, tất cả đều là không. Chỉ cần khởi một
niệm là có chấp, là có nghiệp phiền não. Nếu không có
niệm khởi thì không có phiền não, tất cả đều là không.
Vì vậy sinh hoạt trong thế giới hiện tượng chúng ta phải
lấy "vô tâm" mà ứng phó với hoàn cảnh.
(Viên
Thông)
147. Ngoại đạo hỏi Phật.
Có
một người Bà La Môn hỏi Phật:
-
Không hỏi có lời, không hỏi không lời.
Đức
Phật ngồi yên không nói. Bà La Môn tán thán rằng:
-
Đức Thế Tôn đại từ đại bi, vẹt mây mù cho con, khiến
con được vào.
Bà
La Môn đi rồi, A Nan hỏi Phật rằng:
-
Vị ngoại đạo này chứng được cái gì mà nói được vào?
Đức
Phật nói:
-
Như con ngựa hay, chỉ thấy bóng roi đã chạy.
(Bích
Nham Lục)
Khi
đã ngộ rồi thì sống trong thế giới "không.” Không thể
dùng lời để diễn tả được, vì như vậy là chủ quan,
là chọn lọc, do đó bị trói buộc. Nhưng nếu không nói ra
thì làm sao truyền bá Phật pháp. Ý của Bà La Môn là vậy.
Để trả lời đức Phật chỉ ngồi yên lặng, chỉ rằng
chỉ cần thiền định, thoát ly phiền não. Vị Bà La Môn này
đã hành thâm sâu nên mới hiểu ý Phật. Câu đáp của Phật
xác nhận sự xuất sắc của Bà La Môn.
Kinh
tạp A Hàm có ghi 4 loại ngựa:
Thứ
1: thấy bóng roi đã chạy;
2: roi quất vào đuôi đã chạy;
3: roi quất vào mình đã chạy;
4: phải đánh mạnh có khi đến chảy máu mới chịu chạy.
(Viên
Thông)
148. Hạt gạo của Tuyết Phong.
Tuyết
Phong có lần nói với đệ tử :
-
Cả trái đất tóm lại chỉ to bằng một hạt gạo.
Đại
chúng không hiểu, do đó Tuyết Phong lại nói:
-
Thùng sơn chẳng hiểu, đánh trống phổ thỉnh coi!
(Bích
Nham Lục)
Lời
nói của Tuyết Phong có nghĩa là phải bỏ tất cả mọi tạp
niệm để tâm tĩnh lặng trong trẻo, lúc đó không phải tìm
kiếm gì vì cái muốn tìm chính là cái tâm trong sáng đó.
(Viên
Thông)
149. Tên đầu rỗng.
Có
một lần Mục Châu (780-877) hỏi một ông tăng đến tham học
:
-
Ngươi vừa từ đâu lại?
Ông
tăng bèn hét. Mục Châu lại nói :
-
Lão tăng bị ngươi hét một lần.
Ông
tăng lại hét. Mục Châu nói:
-
3 hét, 4 hét rồi làm sao?
Ông
tăng không lời đáp lại. Mục Châu bèn giơ thiền trượng
cầm trong tay đánh và mắng rằng:
-
Tên cướp đầu rỗng này!
(Bích
Nham Lục)
Ông
tăng này chắc là mới tu, thấy các thiền sư hét có khí phách
quá liền bị mê tưởng đó là thiền. Gập dịp liền hét
để tỏ công lực của mình. Rất tiếc ông chọn lầm đối
tượng. Mục Châu bị ông hét coi như muỗi đốt, nhưng mà
con muỗi hung hăng quá thành thử ông phải ra tay đánh. Ông
tăng đó không biết rằng muốn sử dụng được tiếng hét
đó phải tốn biết bao công phu tu tập có khi đến mửa máu.
(Viên
Thông)
Hoàng Bá nói với tăng chúng rằng :
- Tất cả bọn ngươi chỉ là đồ ăn bã rượu, hành cước thế ấy, bao giờ mới xong? Các ngươi có biết trong đại đường quốc không có thiền sư không?
Có một ông tăng bước ra thưa :
- Chỉ biết ở khắp nơi đều có người lãnh chúng vậy là sao?
Hoàng Bá đáp:
- Không nói không thiền mà chỉ không thầy.
(Bích Nham Lục)
Người học thiền nếu cứ chấp vào thầy thì chẳng khác gì nhai lại những gì mà thầy đã nhai, phải có quyết tâm "không Phật, không thầy, chỉ cần chân lý" thì mới có thể ngộ, tự mình thưởng thức chính phẩm chứ không phải nhai bã.
(Viên Thông)
151. Đối nhất thuyết.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Thế nào là một đời thuyết pháp?
-
Đối nhất thuyết.
(Bích
Nham Lục)
Câu
hỏi của ông tăng có nghĩa là cách giảng pháp của đức
Phật như thế nào?
Cứ
như truyền thuyết thì cả đời đức Phật giảng dậy 8 vạn,
4 ngàn pháp môn ghi chép trong 1420 bộ kinh; tuy nói nhiều như
vậy nhưng không ngoài mục tiêu chỉ cho chúng sinh con đường
giải thoát.
Câu
đáp của Vân Môn có nghĩa là đối diện thuyết pháp hay tùy
bệnh mà cho thuốc.
(Viên
Thông)
152. Con rắn mũi rùa.
Tuyết
Phong nói với chúng đệ tử:
-
Nam Sơn có một con rắn mũi rùa, các ngươi phải nhìn cho kỹ.
Trường
Khánh (859-932) nói:
-
Hôm nay trong nhà có người chôn thân, mất mạng.
Có
ông tăng nghe rồi hỏi đồng môn Huyền Sa (835-908) :
-
Ý của Tuyết Phong là sao?
Huyền
Sa nói:
- Chỉ có Lăng huynh (chỉ Trường Khánh) mới trả lời thế
được,
còn ta thì khác.
Ông
tăng lại hỏi:
-
Còn hoà thượng thì thế nào?
Huyền
Sa đáp :
-
Dùng Nam Sơn làm gì?
Vân
Môn ném cây gậy xuống trước mặt Tuyết Phong làm ra vẻ
sợ hãi.
(Bích
Nham Lục)
Tuyết
Phong trú ở Nam Sơn, nơi đó có truyền thuyết có một con
rắn mũi rùa có thể ăn người. Tuyết Phong dùng tích này
ám chỉ phải cố gắng tu hành. Trường Khánh hiểu ý này
nên câu nói của ông có nghĩa là: đệ tử đang cố gắng
tu tập. Một ông tăng nghe đối thoại này chẳng hiểu bèn
đi hỏi Huyền Sa. Câu đáp của Huyền Sa có nghĩa là ngươi
cứ bỏ mặc họ muốn nói gì thì nói. Cử chỉ của Vân Môn
có ý rằng dùng lời vô ích, phải tự mình quán sát mới
được.
(Viên
Thông)
153. Diệu Phong Đỉnh của Bảo Phúc.
Bảo
Phúc và Trường Khánh đi tản bộ trong núi, bỗng giơ tay chỉ
mặt đất nói:
-
Nơi đây chính là Diệu Phong Đỉnh.
Trường
Khánh nói:
-
Phải thì phải, nhưng thật đáng tiếc.
Sau
có ông tăng thuật lại cho Cảnh Thanh nghe.
Cảnh
Thanh nói:
-
Nếu chẳng phải là Trường Khánh, liền thấy đầu lâu đầy
đất.
(Bích
Nham Lục)
Bảo
Phúc nói Diệu Phong Đỉnh là chỉ sự lãnh ngộ; sự lãnh
ngộ không phải tìm ở nơi xa xôi nào. Câu nói của Trường
Khánh có nghĩa là "Đúng vậy! nhưng nếu ngươi định nghĩa
sự lãnh ngộ có phải là đã bị trói buộc rồi không?"
Câu
của Cảnh Thanh có nghĩa là nếu cứ tin vào lời Trường Khánh
thì cứ ở mãi mức độ đó không tiến lên được.
(Viên
Thông)
154. Thân bầy gió vàng.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Khi cây rụng lá thì thế nào?
-
Thân bầy gió vàng.
(Bích
Nham Lục)
Lá
chỉ phiền não, khi lá rụng hết chỉ đã trừ hết phiền
não, là người khai ngộ.
Gió
vàng là gió mùa thu, ở đây ám chỉ đã vào được cảnh
giới vô tâm.
(Viên
Thông)
155. Thuốc, bệnh trị nhau.
Vân
Môn nói với chúng đệ tử rằng:
-
Thuốc, bệnh trị nhau, tất cả đại địa đều là thuốc,
cái nào là chính mình?
(Bích
Nham Lục)
Khi
có bệnh thì dùng thuốc để trị, khi bệnh khỏi rồi thì
không cần dùng thuốc nữa. Lúc đó đối với người vừa
khỏi bệnh, thuốc không còn là thuốc nữa. Do đó ta thấy
thuốc, bệnh cùng tồn tại và cùng hoại diệt. Trong Thiền
học, bệnh chỉ mê; thuốc chỉ ngộ. Vì mê nên mới có ngộ,
nếu như không có mê thì đâu có ngộ.
Cả
đại địa đều là thuốc là chỉ không còn mê, toàn là ngộ,
toàn là không làm gì còn tự ngã.
(Viên
Thông)
156. Thùng cơm của Kim Ngưu.
Hòa
thượng Kim Ngưu mỗi khi đến giờ ăn đều ôm thùng cơm đến
trước tăng đường vừa múa vừa cười lớn ha hả, nói rằng:
-
Con bồ tát, lại ăn cơm!
(Về
sau Tuyết Đậu bình rằng tuy là vậy, nhưng Kim Ngưu chẳng
phải là có lòng tốt gì.)
Một
ông tăng hỏi Trường Khánh:
-
Người xưa nói "Con bồ tát, lại ăn cơm", ý chỉ là gì?
Trường
Khánh đáp:
-
Có gì đâu, giống như tụng kinh trước khi thọ trai vậy.
(Bích
Nham Lục)
Những
người cho hành động của Kim Ngưu có thâm ý ảo diệu là
bị cử động quái lạ của ông trói buộc. Thực ra, ông chỉ
tùy ý hành động, không có mục đích gì đặc biệt.
(Viên
Thông)
157. Nông nô.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Đạt đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, không chọn lựa
thì thế nào?
-
Trên trời, dưới trời, chỉ có ta là hơn cả?
-
Vậy là còn chọn lựa.
-
Tên nông nô này, chọn lựa ở chỗ nào?
(Bích
Nham Lục)
Chọn
lựa là bị trói buộc, chân chính không chọn lựa là chọn
lựa nhưng không bị trói buộc. Đó chính là cảnh giới vô
tâm trong Thiền học
(Viên
Thông)
158. Vân Môn dang hai tay.
Vân
Môn hỏi một ông tăng mới đến:
-
Vừa rời chỗ nào?
-
Tây Thiền ở Tô Châu.
-
Tây Thiền gần đây có lời nói nào?
Ông
tăng dang hai tay ra. Vân Môn thấy vậy bèn tát ông một cái.
-
Thoại đầu của con còn mà.
Lúc
đó Vân Môn lại dang hai tay ra. Ông tăng im. Vân Môn lại tát
ông một cái nữa.
(Bích
Nham Lục)
Ông
tăng dang hai tay ra chỉ Tây Thiền giảng dậy vô tâm không
thể dùng lời mà tỏ ra được. Vân Môn tát ông một cái,
nhận rằng ông có khả năng có thể dậy dỗ được, đồng
thời muốn xem ông phản ứng ra sao. Đáng tiếc trình độ
ông tăng chỉ đến thế, tưởng dùng lời nói để biện bạch.
Vân
Môn lại dang hai tay ra ý nói "Sư phụ ngươi dậy Không
Vô Nhất vật, ta cũng không vô nhất vật, ngươi biện bạch
ra sao?
(Viên
Thông)
159. Tuyết Phong là gì?
Có
hai ông tăng đến Tuyết Phong cầu học. Hòa thượng thấy
hai ông tăng đến gần am, bèn mở cửa chạy ra khỏi am nói:
-
Là cái gì?
Hai
ông tăng cùng đáp:
-
Là cái gì?
Tuyết
Phong cúi đầu trở về am. Sau hai ông tăng đến Nham Đầu
(828-887).
Nham
Đầu hỏi:
-
Từ đâu đến?
-
Từ Lãnh Nam.
-
Có đến Tuyết Phong không?
-
Có.
-
Tuyết Phong có câu gì không?
Hai
ông tăng kể lại.
-
Ta tiếc lúc trước không nói cho hắn câu nói sau cùng, nếu
có thì thiên hạ đâu làm gì được lão Tuyết!
Đến
cuối hạ hai ông tăng lại hỏi Nham Đầu:
-
Thế nào là câu nói sau cùng?
-
Sao không hỏi sớm?
Hai
ông tăng thưa:
-
Chưa dám.
-
Tuyết Phong tuy cùng ta cùng điều sanh nhưng chẳng cùng ta đồng
điều tử, muốn biết câu nói sau cùng chỉ là vậy.
(Bích
Nham Lục)
Tuyết
Phong chạy ra khỏi am hỏi 2 ông tăng là để xem 2 ông tăng
phản ứng ra sao khi không phòng bị. 2 ông tăng lập lại câu
hỏi chẳng khác gì con vẹt.
Câu
nói sau cùng là câu nói trước khi mất. Trong Thiền học đó
là lúc đã nghiên cứu đến tận gốc rễ vấn đề, mà nói
ra. Tuyết Phong và Nham Đầu là bạn học nên nói "cùng điều
sanh", nhưng lại nói chẳng "cùng điều tử" hàm ý sự lãnh
ngộ và biểu hiện khác nhau.
(Viên
Thông)
160. Bánh Hồ.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Thế nào là siêu Phật , vượt tổ?
-
Bánh Hồ.
(Bích
Nham Lục)
Câu
hỏi của ông tăng có nghĩa là có pháp nào trên pháp Phật
không? Câu đáp của Vân Môn có nghĩa là nếu ngươi có thời
giờ nhàn rỗi để hỏi chuyện không thể có thì tốt hơn
là ngươi đi làm bánh hồ, ăn cho no rồi có thể đạp chân
trên đất mà tu hành.
(Viên
Thông)
161. Trẻ sơ sinh.
Có
một ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Trẻ sơ sinh có đủ lục thức chăng?
Triệu
Châu đáp:
-
Đánh cầu trên nước chẩy nhanh.
Về
sau ông tăng đi hỏi Đầu Tử:
-
Đánh cầu trên nước chẩy nhanh là ý gì?
Đầu
Tử đáp:
-
Niệm niệm chẳng dừng.
(Bích Nham Lục)
Trẻ
mới sanh gọi là Tân sanh nhi, cho đến một tuổi gọi là nhũ
nhi, đến 6 tuổi gọi là ấu nhi. Cầu là chỉ tâm, nước
chẩy nhanh chỉ 6 thức, trẻ con tuy đủ lục thức nhưng không
bị 6 thức trói buộc như đối với người lớn. Vì vậy
cổ nhân thường ví tâm trẻ con là tâm Phật. Câu đáp của
Triệu Châu là "không bị 6 thức trói buộc.”
(Viên
Thông)
162. Kiếp hỏa.
Có
ông tăng hỏi Đại Tùy ( - 919):
-
Kiếp hỏa cháy rực. Cả đại thiên thế giới đều bị hủy
hoại, không biết cái này có bị hủy hoại không?
-
Hoại.
-
Vậy theo nó đi?
-
Theo nó đi.
(Bích
Nham Lục)
Ông
tăng nghĩ người tu khi lãnh ngộ hợp với vũ trụ thành một
thể, nhưng khi vũ trụ bị kiếp hỏa hủy diệt thì Phật
pháp ra sao? Có bị hủy diệt không? Ông tăng vì thiếu lòng
tin nên bị nghi vấn này trói buộc. Câu trả lời của Đại
Tùy là để phá chấp này cho ông.
(Viên Thông)
163. Còn Pháp nào chưa nói không?
Nam
Tuyền (748-834) đại ngộ rồi đến bái phỏng Bách Trượng.
Bách
Trượng hỏi:
-
Từ trước chư thánh còn có pháp nào chưa nói không?
-
Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật.
-
Đã nói rồi mà!
-
Đệ chỉ biết vậy, còn sư huynh thì sao?
-
Ta chẳng phải đại thiện tri thức đâu biết đã nói, chưa
nói.
Nam
Tuyền thưa:
-
Đệ không hiểu.
-
Ta đã vì ngươi nói rồi!
(Bích
Nham Lục)
Lúc
trước Mã Tổ nói “tức tâm, tức Phật.” Tâm đã là Phật
rồi, còn đi tìm Phật ở đâu nữa. Nhưng nói vậy có vẻ
tự cao, tự đại nên lại nói "phi tâm, phi Phật, phi vật.”
Câu
Bách Trượng nói "Ta chẳng phải thiện tri thức đâu biết
đã nói, chưa nói" là chấp nhận câu trả lời của Nam Tuyền.
Nam
Tuyền nói "Đệ chẳng hiểu" là cố tình truy vấn.
Câu
đáp của Bách Trượng "Ta đã vì ngươi nói rồi!" là chỉ
ta đã mượn mồm ông mà biện giải rồi còn gì!
(Viên
Thông)
164. Ba chuyển ngữ của Triệu Châu.
Triệu
Châu nói với chúng đệ tử:
-
Phật bùn không độ nước, Phật vàng không độ lò, Phật
gỗ không độ lửa, Phật thật ngồi trong nhà.
(Bích
Nham Lục)
Đừng
tìm kiếm Phật ở bên ngoài, Phật thật chính ở trong tâm
chúng ta.
(Viên
Thông)
165. Hươu trong hươu.
Có
ông tăng hỏi Dược Sơn:
-
Ruộng bằng, cỏ ít, hươu tụ thành bầy, làm sao bắn hươu
trong
hươu?
-
Xem tên!
Ông
tăng bèn ngã ngay xuống đất.
-
Thị giả! Lôi gã chết rồi này ra!
Ông
tăng nhỏm dậy, đi ra.
Dược
Sơn nói:
-
Những kẻ vầy đất, nào có hạn.
(Bích
Nham Lục)
Câu
hỏi của ông tăng có nghĩa là làm sao nhận ra người đệ
tử xuất sắc nhất của Dược Sơn? Khi Dược Sơn nói "Xem
tên", ông tăng bèn ngã xuống đất là nhận rằng mình là
người đó. Để sửa tánh tự cao, tự đại của ông tăng,
Dược Sư mới nói "Lôi gã chết rồi này đi.” Ông tăng nhỏm
dậy bỏ đi, tỏ rằng mình vẫn sống nhăn.
(Viên
Thông)
166. Ngũ Lão Phong.
Ngưỡng
Sơn (807-8833) hỏi ông tăng mới đến:
-
Vừa rời chốn nào?
-
Lư Sơn.
-
Có đi chơi Ngũ lão phong không?
-
Không.
-
Xà lê không biết đi chơi núi.
(Bích
Nham Lục)
Lư
Sơn có Ngũ Lão phong là một ngọn núi có hình giống 5 ông
già. Ngưỡng Sơn dùng Ngũ Lão Phong để chỉ:
5
cảm, 5 dục, 5 cảnh, 5 quan, 5 uẩn
5
cảm : tham, sân, si, trí, mạn, nghi.
5
dục : tài, sắc, thực, danh, miên
5
cảnh : sắc, thanh, hương, vị, xúc.
5
quan : nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân.
5
uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Ngưỡng
Sơn hỏi ông tăng có đi chơi Ngũ Lão phong là muốn xem trình
độ tu tập của ông ở Lư Sơn như thế nào. Ông tăng không
hiểu tưởng là câu hỏi thông thường nên mới đáp là không.
Ngưỡng
Sơn nói "Xà lê không biết đi chơi núi." là chỉ ông tăng
tu tập còn chưa đủ.
(Viên
Thông)
167. Một cành hoa.
Đại
Phu Lục Hoàn trong lúc nói chuyện với Nam Tuyền thưa
rằng:
-
Triệu pháp sư (374-414) có nói ta cùng gốc với trời đất,
cùng thể với vạn vật, thật là kỳ quái!
Nam
Tuyền chỉ hoa trước sân nói:
-
Người nay thấy cành hoa này giống như trong mộng.
(Bích
Nham Lục)
Câu
nói của Nam Tuyền có nghĩa là; nếu lấy tâm "hữu ngã" mà
xem hoa thì còn ở trong thế giới nhị nguyên đối đãi. Nếu
lấy tâm "vô ngã" mà xem hoa thì giữa hoa và người không có
giới hạn, hợp thành một thể của thế giới vô ngã.
168. Vòng tròn của Tư Phúc.
Thượng
thư Trần Tháo, một hôm đến viện Tư Phúc bái phỏng Trí
Viễn. Trí Viễn thấy Trần Tháo đến bèn vẽ một vòng tròn
trong không trung. Trần Tháo nói:
-
Đệ tử đã từng đến đây, sớm đã không chấp không tướng,
còn vẽ vòng làm gì?
Thiền
sư nghe rồi, bền bỏ về phòng, đóng cửa lại.
(Bích
Nham Lục)
Vẽ
vòng tròn là bắt đầu từ Đam Nguyên. Vòng tròn bao hàm trời,
đất, vũ trụ, sum la địa võng, tâm cảnh, ngộ cảnh, Phật.
Tư
Phúc biết Trần Tháo thâm cứu Thiền học, nên vẽ vòng tròn
để xem Trần Tháo giải thích thế nào, tiếc thay sự hiểu
biết của Trần Tháo về vòng tròn hãy còn hạn chế, vì vậy
nếu có vấn đáp cũng chỉ làm phí thời giờ, vì vậy Tư
Phúc mới bỏ về phòng.
(Viên
Thông)
169. Ma Cốc hai lần dộng tích trượng.
Ma
Cốc tay cầm tích trượng đến bái phỏng Chương Kính hòa
thượng. Gập lúc Chương Kính đương ngồi thiền. Ma Cốc
đi vòng quanh thiền sàng 3 vòng, dộng tích trượng xuống,
đứng ngay trước mặt Chương Kính.
Chuơng
Kính nói:
-
Phải! Phải!
Sau
đó Ma Cốc lại đến Nam Tuyền, lại đi quanh thiền sàng 3
vòng, dộng tích trượng đứng trước mặt Nam Tuyền.
Nam
Tuyền nói:
-
Không phải! Không phải!
Ma
Cốc liền hỏi:
-
Chương Kính nói phải, sao hòa thượng lại nói không phải?
Nam
Tuyền nói:
-
Chương Kính phải, còn ngươi không phải, đây là bị sức
gió chuyển, sau bị bại hoại.
(Bích
Nham Lục)
Đi
vòng 3 vòng là tỏ ý kính trọng. Tích trượng tượng trưng
sự khai ngộ. Ma Cốc đã ngộ, đến thăm Chương Kính lấy
hành động để biểu thị tâm cảnh. Hòa thượng nhìn biết
ngay là ông đã ngộ nên nói phải.
Ma
Cốc lại đến thăm sư huynh là Nam Tuyền để tỏ cho biết
mình đã ngộ. Nam Tuyền nói không phải để thử Ma Cốc.
Đối với người đã khai ngộ thì phải và không phải có
khác biệt gì? Ma Cốc còn bị "không phải" làm cho thắc mắc
là chưa hoàn toàn thoát tục. Ma Cốc được Nam Tuyền chỉ
điểm, linh cơ liền chuyển khiến cho ngộ cảnh càng thâm
sâu.
(Viên
Thông)
170. Thiết Ngưu cỏ của Phong Huyệt.
Có
một lần, hòa thượng Phong Huyệt (896-973) được mời đến
Nha Môn, Vĩnh Châu giảng pháp.
Hòa
thượng thượng đường nói:
-
Tâm ấn của tổ sư giống như máy trâu sắt. Dời đi thì
ấn hiện, ở yên thì ấn không hiện, chẳng dời, chẳng yên,
ấn phải hay chẳng ấn phải.
Lúc
ấy có Trưởng lão Lô Pha nói:
-
Tôi có máy trâu sắt, thỉnh thầy đừng ấn.
Phong
Huyệt nói:
-
Ta quen bắt cá kình ở biển lớn, nay lại gập ếch nhỏ nhẩy
trong cát bùn.
Trưởng
lão muốn phản kích nhưng lúc đó không nghĩ ra được câu
trả lời thích hợp. Hòa thượng hét:
-
Trưởng lão sao không nói?
Trưởng
lão mở miệng định nói, Phong Huyệt bèn dùng gậy đánh và
hỏi:
-
Còn nhớ thoại đầu không?
Trưởng
lão định mở miệng, hòa thượng lại đánh.
Lúc
đó Châu mục bèn nói:
-
Phật pháp và vương pháp cùng loại.
Phong
Huyệt hỏi:
-
Ngươi thấy đạo lý gì?
-
Đương đoạn chẳng đoạn, trở lại chuốc loạn.
Phong
Huyệt nghe rồi bèn xuống tòa giảng.
(Bích
Nham Lục)
Tâm
ấn là sư phụ truyền pháp cho đệ tử.
Máy
trâu sắt để ngăn dòng nước chẩy, còn tự nó chẳng có
công dụng gì, giống như Phật pháp chẳng thể tự ngộ mà
chỉ giúp cho thiền sinh ngộ, vì vậy giống như tâm ấn.
Dời
đi thì ấn hiện: không chấp tâm ấn, thì mới có thể lãnh
ngộ.
Ở
yên thì ấn không hiện: ngược lại, lãnh ngộ rồi thì không
bị tâm ấn trói buộc.
Phong
Huyệt muốn phá chấp "tâm ấn" của trưởng lão, nhưng tiếc
thay vị này không có tuệ căn. Câu nói của Châu mục có ý
là mê chính là khởi thủy của ngộ, do đó cứ mặc ông ta
mê, đến khi cơ duyên đã chín mùi thì sẽ lãnh ngộ, đó
chính là biểu minh công năng của tâm ấn. Hòa thượng thấu
rõ thiền cơ của Châu Mục nên cắt đứt vấn đáp mà
xuống tòa giảng.
(Viên
Thông)
171. Đảo nhất thuyết.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Chẳng phải cơ trước mắt, cũng chẳng phải sự trước mắt,
lúc đó thì sao?
-
Đảo nhất thuyết.
(Bích
Nham Lục)
Đảo
nhất thuyết: nói ngược lại.
Nếu
cứ chấp vào thường thức, hoặc vào lời giải của cổ
nhân, thiếu sự suy tư của chính mình thì không thể giải
quyết được vấn đề. Chỉ có một cách duy nhất là phủ
định tất cả, đó là ý nghĩa của "Đảo nhất thuyết.”
(Viên
Thông)
172. Tháp Vô Phùng.
Đường
triều, Túc Tông hoàng đế hỏi Huệ Trung quốc sư (? - 775):
-
Quốc sư trăm năm rồi có cần gì không?
-
Làm cho lão tăng Tháp vô phùng.
Hoàng
đế lại hỏi:
-
Xin thầy cho kiểu tháp.
Quốc
sư im lặng một lúc rồi hỏi:
-
Bệ hạ hiểu không?
-
Trẫm chẳng hiểu.
-
Lão tăng có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên hiểu chuyện này,
xin mời đến hỏi.
Không
lâu quốc sư viên tịch. Túc Tông vời Đam Nguyên đến hỏi
ý của quớc sư là sao.
Đam
Nguyên đáp:
-
Phương Nam sông Tương, phương Bắc hồ, ở trong có vàng đầy
cả nước, thuyền đậu dưới cây không bóng, trên điện
lưu ly không tri thức.
(Bích
Nham Lục)
Vàng
chỉ tự tánh. Cây không bóng: chỉ đã hết mê. Nhân loại
mê nên có phiền não, thống khổ. Dùng thuyền chở chúng sinh
từ bến mê qua bờ giác. Điện lưu ly là chỉ chỗ vua ở,
cả câu ám chỉ vua không có thầy giỏi.
Ý
của Đam Nguyên giải thích câu nói của quốc sư là "Phải
lìa mê để được khai ngộ."
(Viên
Thông)
173. Gậy cau của Liên Hoa Phong.
Trú
ở Thiên Đài Sơn, Liên Hoa Phong Thiệu quốc sư thường giơ
gậy hỏi ông tăng đến hỏi đạo và nói:
-
Cổ nhân đến đây, vì sao không chịu ở?
Không
ai trả lời được.
Về
sau Thiệu quốc sư đề thị câu trả lời cho chúng đệ tử:
-
Vì đường sá không đắc lực.
Sau
đó lại hỏi:
-
Là ý gì?
Thiệu
quốc sư lại tự đáp:
-
Gậy cau lật ngang, chẳng đoái hoài người, đi thẳng vào
ngàn vạn núi.
(Bích
Nham Lục)
Lấy
ngọn cau đẽo thành thiền trượng, thiền trượng tượng
trưng cho "ngộ cơ.”
Câu
hỏi của Thiệu quốc sư có nghĩa là "người tu hành nỗ lực
tu tập để đạt ngộ, nhưng ngộ rồi vì sao lại lìa bỏ
ngộ cơ?"
Câu
trả lời "Vì tu hành chưa đủ.”
Ngàn
vạn núi chỉ sự biến hóa. Một người chân chính ngộ đạo
không bị tình thức ngoại duyên làm biến đổi.
(Viên
Thông)
174. Vương Thái Truyền nấu trà.
Vương
Thái Truyền vào chùa Chiêu Khánh nấu trà. Lúc đó thượng
tọa Huệ Lãng bưng bình trà đến trước mặt Minh Chiêu hòa
thượng, sơ ý làm bình trà lộn ngược. Thái Truyền trông
thấy hỏi rằng:
-
Dưới lò trà là cái gì?
Huệ
Lãng đáp:
-
Thần bưng lò.
Thái
Truyền lại hỏi:
-
Đã có thần bưng lò, vì sao bình trà lại bị đổ?
-
Sĩ quan ngủ ngày bị mất một buổi.
Thái
Huyền nghe rồi, phất tay áo mà đi.
Minh
Chiêu hòa thượng nói:
-
Thượng tọa Lãng ăn cơm Chiêu Khánh xong đi ra ngoài sông đánh
vào gốc cây khô.
Huệ
Lãng hỏi:
-
Ý hòa thượng là sao?
-
Phi nhân được cơ hội thuận tiện mà vào!
(Bích
Nham Lục)
Câu
hỏi của Thái Truyền "Đã có thần bưng lò, sao bình trà còn
bị đổ?' có nghĩa là Thượng tọa Huệ Lãng có phải nhân
ngộ mà lật ngược bình trà không?
Không
ngờ Huệ Lãng vì vô ý mà làm đổ bình trà, vì vậy câu
trả lời không có thiền tâm. Do đó, Thái Truyền thất vọng
mà bỏ đi.
Trong
câu nói của Minh Chiêu, "phi nhân" là chỉ thần bưng trà, lại
căn cứ trên câu nói trong kinh "nhàn lạc phách thời, thần
dã thừa hư nhi nhập", ý nói Huệ Lãng đã bị thần bưng
lò trói buộc.
(Viên
Thông)
175. Thiên Bình hai lần sai.
Thiên
Bình khi đi hành cước, có đến Tây Viện, thường mắng các
ông tăng:
-
Đừng nói hiểu Phật pháp, muốn tìm người nói thoại cũng
chẳng có.
Một
hôm Tây Viện từ xa thấy ông bèn gọi:
-
Tòng Ỷ!
Thiên
Bình ngẩng đầu lên. Tây Viện nói "Sai.”
Thiên
Bình bước hai ba bước, Tây Viện lại nói "Sai!"
Thiên
Bình đến trước mặt Tây Viện. Tây Viện hỏi:
-
Vừa rồi hai cái sai đó là Tây Viện sai hay hòa thượng sai?
Thiên
Bình đáp:
-
Tòng Ỷ sai.
Nào
ngờ Tây Viện lại nói "Sai!"
Sau
đó Thiên Bình Tòng Ỷ không tìm người vấn đáp nữa và
muốn đi. Tây Viện lưu lại:
-
Hãy lưu lại qua hạ, ta sẽ thương lượng với ông về hai
lần sai này.
Lúc
đó Thiên Bình không ở lại, nghe rồi bèn bỏ đi.
Sau
Thiên Bình làm trụ trì bảo đại chúng rằng:
-
Ta khi trước đi hành cước tham học, bị gió nghiệp thổi
đến chỗ Tây Viện Tư Minh, thiền sư liên tiếp nói hai lần
sai, lại muốn giữ ta lại qua hạ để nói về hai cái sai
này. Lúc đó ta chẳng nhận là mình sai, khi hành cước về
Nam ta đã biết mình sai rồi!
(Bích
Nham Lục)
Thế
giới của thiền là bình đẳng, Thiên Bình thường tìm người
vấn đáp để tìm lỗi của họ. Ông đã ở trong thế giới
không sai biệt mà tìm sai biệt là sai.
Tây
Viện muốn sửa ông nên gọi tên ông, cái tên này chính là
nguyên nhân gây ra sai biệt. Nhưng Thiên Bình không hiểu còn
ngẩng đầu lên để trả lời là cái sai thứ nhất. Sau đó
đáng nhẽ phải nói ra một thiền ngữ để diễn tả thiền
tâm thì Thiên Bình lại chẳng làm gì cả đó là cái sai thứ
hai. Khi Tây Viện nói "Là Tây Viện sai hay thượng tọa sai"
là chỉ cho ông thấy sự sai biệt. Nhưng Thiên Bình vẫn chưa
hiểu nên đáp "là Tòng Ỷ sai" đó là cái sai thứ ba.
(Viên
Thông)
176. Thổi lông trên kiếm.
Một
ông tăng hỏi Ba Lăng:
-
Thế nào là thổi lông trên kiếm?
-
San hô từng cành chống dưới trăng.
(Bích
Nham Lục)
Để
lông trên lưỡi kiếm mà thổi, nếu kiếm sắc lông sẽ bị
đứt.
Kiếm
chỉ trí huệ, lông chỉ phiền não, mê vọng; phải dùng trí
huệ mà cắt bỏ mọi mê vọng.
San
hô chỉ vạn tượng, từng cành thấm nhuần ánh trăng; ý nói
mọi sự việc không nên bị bất cứ một yếu tố nào trói
buộc, trực tiếp thọ nhận sẽ không bị mê vọng.
(Viên
Thông)
177. Mười thân Điều Ngự.
Hoàng
đế Túc Tông hỏi quốc sư Huệ Trung:
-
Thế nào là mười thân điều ngự?
-
Đàn việt đạp lên đầu Tỳ Lô mà đi.
-
Quả nhân không hiểu.
-
Đừng nhận mình là thanh tịnh pháp thân!
(Bích
Nham Lục)
Túc
Tông quy y Phật giáo, rất quan tâm học Thiền, ông lập chí
thành Phật để trị thiên hạ. Câu hỏi của ông là còn chấp
Phật, câu đáp của quốc sư là: còn chấp Phật thì không
thể ngộ được.
(Viên
Thông)
178. Cây quạt tê ngưu của Diêm Quan.
Diêm
Quan (? - 842) một hôm gọi thị giả lại:
-
Mang cây quạt Tê Ngưu ra đây cho ta.
-
Quạt bị rách rồi!
-
Quạt bị rách thì mang Tê Ngưu ra cho ta!
Thị
giả không lời nào đáp lại.
Về
sau Đầu Tử lấy thân phận thị giả đáp:
-
Không phải không mang ra, chỉ sợ đầu sừng không đủ.
(Tuyết
Đậu bình "Ta muốn đầu sừng không đủ")
Thạch
Sương đáp:
-
Nếu trả hòa thượng thì không còn gì!
(Tuyết
Đậu bình: Con Tê Ngư vẫn còn!)
Tư
Phúc vẽ một vòng tròn, trong đó đề chữ ngưu
(Tuyết
Đậu bình:Vừa rồi sao không đem ra?)
Bảo
Phúc đáp:
-
Hòa thượng tuổi cao, mời người khác thì tốt.
(Tuyết
Đậu bình: Nhọc sức mà không công cán gì.)
(Bích Nham Lục)
Diêm
Quan muốn khai thị cho thị giả, nhưng ông tăng này còn bị
quạt và Tê Ngưu trói buộc.
Câu
nói của Đầu Tử có nghĩa là: "Làm sao bảo ta dùng lời mà
diễn tả ngộ cảnh được?
Câu
của Thạch Sương: "Ngộ cảnh phải tự mình lãnh ngộ, không
phải do ai cho mình được."
Tư
Phúc thì bảo "Cái muốn đạt đến chẳng phải ở đây sao?'
Bảo
Phúc lại có ý: "Hắn đã ngộ rồi, đâu cần cơ duyên của
hòa thượng."
(Viên
Thông)
179. Đức Phật giảng Pháp.
Một
hôm, đức Phật đăng tòa, bồ tát Văn Thù gõ chùy 3 lần
nói:
-
Quán pháp đấng pháp vương, pháp đấng pháp vương như thế.
Thế
Tôn nghe rồi, không nói một tiếng, xuống tòa.
(Bích
Nham Lục)
Đây
là để đả phá thường thức thuyết pháp là phải nói ra
lời, đó là một sự trói buộc. Thế Tôn đã thể hiện chân
lý, không cần dùng lời để nói ra. Đi, đứng, nằm, ngồi
đều là thuyết pháp, chỉ cần Thế Tôn tại trường là nói
pháp rồi. Văn Thù không để cho Thế Tôn thuyết pháp là để
chỉ "Thiền không cần lời nói.”
(Viên
Thông)
180. Lăng Nghiêm chẳng thấy.
Kinh
Lăng Nghiêm có một đoạn chép:"Khi ta chẳng thấy, sao chẳng
thấy chổ chẳng thấy của ta. Nếu thấy cái chẳng thấy,
tự nhiên chẳng phải tướng chẳng thấy. Nếu chẳng thấy
chỗ ta chẳng thấy tự nhiên chẳng phải vật, sao nói chẳng
phải ngươi?"
(Bích
Nham Lục)
Đây
là lời đức Phật dậy A Nan. A Nan muốn biết thế nào là
khai ngộ. Khai ngộ là cảnh giới Thế Tôn đã chứng nghiệm.
Nếu ta thấy được cảnh giới đó tức là ta được khai
ngộ. Thế Tôn giảng cho ông "Ta chẳng thấy" là phải
bỏ hết mê vọng. "Sao chẳng thấy chỗ chẳng thấy của ta"
phải lìa bỏ tự ngã, không bị một cái gì trói buộc, tất
cả đều không đó là ngộ.
(Viên
Thông)
181. Khai Sĩ đi tắm.
Cổ
Ấn Độ có 16 người cầu đạo, một lần đi tắm, nhân xối
nước mà ngộ bèn nói:
-
Diệu xúc tuyên minh, thành Phật tử trụ, cũng phải xuyên
7, 8 lần mới thủng!
(Bích
Nham Lục)
“Diệu
xúc tuyên minh, thành Phật tử trụ” có nghĩa là do xúc giác
mà ngộ, được trụ ở đất Phật.
Mới
đầu Bạt Đà Bà La chạm nước mà ngộ sau 15 người kia cũng
ngộ luôn. Do xúc giác mà khai ngộ, ở đây là thủy nhân,
ngoài ra có người thấy hoa mà ngộ là do "sắc nhân", ngửi
mùi mà ngộ là "hương nhân", nếm mà ngộ là "vị nhân", nghe
tiếng mà ngộ là "âm nhân.”
(Viên
Thông)
182. Cây gậy của Ô Cữu.
Có
ông tăng từ Định Châu hòa thượng (718-800) đến Ô Cữu
hòa thượng. Ô Cữu hỏi:
-
Định Châu nói pháp thế nào?
-
Không khác.
-
Nếu không khác thì về bên ấy!
Nói
xong bèn dùng gậy đánh. Ông tăng nói:
-
Đầu gậy có mắt, đừng đánh người bừa bãi.
-
Hôm nay đánh được một người.
Nói
rồi lại đánh ông tăng 3 cái. Ông tăng muốn đi, Ô Cữu nói:
-
Gậy có người ăn.
Ông
tăng nghe rồi quay lại nói:
-
Vì cán gậy trong tay hòa thượng.
-
Nếu ngươi muốn, sư núi giao cho ngươi.
Do
đó ông tăng chạy lại đoạt lấy thiền trượng đánh hòa
thượng ba cái.
Ô
Cữu nói:
-
Gậy! Gậy!
Ông
tăng:
-
Có người ăn!
Ô
Cữu:
-
Đánh bừa gã này!
Ông
tăng nghe rồi lạy hòa thượng.
Ô
Cữu :
-
Hòa thượng lại đi thế ấy!
Ông
tăng cười lớn bỏ đi.
Ô
Cữu:
-
Tiêu được gì! Tiêu được gì!
(Bích
Nham Lục)
Ô
Cữu bảo ông tăng nếu đã không khác thì đi nơi khác làm
gì? Ông tăng trả lời đi quanh quẩn là hy vọng thầy thấy
rõ là để học thiền. Hòa thượng đánh, ông tăng định
đi đều là muốn xem đối phương phản ứng ra sao. Hòa thượng
dùng lời lưu ông lại. Ông tăng bị hấp dẫn mà hồi đáp.
Hai người đều lấy vô tâm mà đối đáp nên nếu tiếp tục
thì dài vô tận không bao giờ ngưng.
(Viên
Thông)
183. Đơn Hà đã ăn cơm chưa.
Hòa
thượng Đơn Hà (739-824) hỏi một ông tăng mới đến:
-
Từ đâu lại?
-
Từ dưới núi.
-
Đã ăn cơm chưa?
-
Ăn rồi.
-
Kẻ cho ngươi ăn chỉ có một mắt?
Ông
tăng kinh ngạc, không lời đối lại.
Về
sau Trường Khánh nghe câu chuyện này bèn hỏi Bảo Phúc:
-
Đem cơm cho người ăn có phần đền ơn, vì sao chỉ có một
mắt?
Bảo
Phúc bảo:
-
Kẻ cho người nhận đều là đồ mù!
Trường
Khánh nói:
-
Cơ đến lại thành mù sao?
Bảo
Phúc đáp:
-
Bảo ta mù sao?
(Bích
Nham Lục)
"Ăn
cơm chưa?" là hỏi đã chịu sự giáo huấn của sư phụ chưa?
"Kẻ
mang cơm cho ngươi ăn chỉ có một mắt?" là hỏi sư phụ ngươi
có phải đã ngộ rồi không? Mắt ở đây không chỉ mắt
thịt mà là tâm nhãn. Ông tăng đương nhiên nhận là sư phụ
mình có tâm nhãn nên yên lặng không đáp.
"Kẻ
cho người nhận đều là đồ mù" chỉ cả 2 đều ngộ.
"Cơ
đến lại thành mù sao?" chỉ cần vô tâm học tập thì có
thể ngộ.
184. Trường Khánh hai loại lời.
Có
một lần Trường Khánh nói:
-
Thà nói A La Hán có 3 độc, chẳng nói Như Lai có 2 loại lời.
Bảo
Phúc hỏi:
-
Thế nào là lời Như Lai?
-
Kẻ điếc làm sao nghe!
-
Đã rõ ông nói 2 đầu.
-
Thế nào là lời Như Lai?
-
Uống trà đi!
(Bích
Nham Lục)
Ba
độc là "tham, sân, si.”
A
La Hán là bậc đã thoát ly tất cả phiền não cho nên không
thể có 3 độc.
Như
Lai có 2 loại lời là chỉ phương tiện và chân thật thuyết
pháp. Do đó Trường Khánh nói: "Phật pháp chỉ có chân thật,
sao nói chân thật và phương tiện thuyết pháp là 2 loại.
"Người
điếc chẳng nghe.” Dù nói Phật pháp thế nào nếu không
tự mình thể ngộ thì cũng chẳng hiểu.
"Nói
2 đầu" là trách Trường Khánh phân 2 loại người có và không
có kinh nghiệm.
Cuối
cùng thế nào là lời chân thật: quy nạp sự chân thật của
Phật. Đó chính là "Uống trà đi!" Chân lý vốn không hạn
định ở đâu, vũ trụ bao la không đâu là không có chân lý,
vấn đề là có tuệ nhãn hay không.
(Viên
Thông)
185. Tay, mắt Đại Bi.
Vân
Nham hỏi sư huynh Đạo Ngô:
-
Đại Bi bồ tát dùng nhiều tay, mắt để làm gì?
-
Như người nửa đêm, thò tay ra sau lưng sờ gối.
-
Đệ hiểu rồi!
-
Ngươi hiểu thế nào?
-
Quanh thân đều là tay, mắt.
-
Nói cho cùng chỉ đúng 8 phần.
-
Còn sư huynh thì sao?
-
Suốt thân là tay mắt.
(Bích
Nham Lục)
Quán
âm thiên thủ, thiên nhãn: có nhiều tay, nhiều mắt, chỉ pháp
lực vô biên có thể cứu giúp chúng sanh.
Vân
Nham căn cứ trên bản thân Quán âm, Đạo Ngô hòa nhập năng
lực của Quán âm và vũ trụ thành một nên cao hơn Vân Nham
một bực.
(Viên
Thông)
186. Cửa kho.
Vân
Môn nói với chúng đệ tử:
-
Mọi người có ánh sáng, khi nhìn không thấy tối ám. Thế
nào là ánh sáng của mọi người?
Đại
chúng không ai đáp được; do đó Vân Môn tự đáp "Cửa kho
" lại nói "Việc tốt chẳng bằng không.”
(Bích
Nham Lục)
"Mọi
người đều có ánh sáng": ai cũng có tự tánh.
"Việc
tốt chẳng bằng không ": biết mình có tự tánh có thể thành
Phật là một việc tốt, nhưng đừng bị ý tưởng này trói
buộc khiến thành tự cao, tự đại.
(Viên
Thông)
187. Tiếng cọp của Đồng Phong.
Một
ông tăng đến am chủ Đồng Phong hỏi:
-
Nơi đây, bỗng nhiên có cọp thời phải làm sao?
Đồng
Phong giả tiếng cọp kêu, ông tăng làm vẻ sợ hãi khiến
am chủ ha hả cười lớn. Ông tăng nói: "Ngươi bậy thật!"
Am
chủ đáp: "Vì ngươi bắt buộc ta.”
Ông
tăng yên lặng bỏ đi.
Về
sau Tuyết Đậu bình vấn đáp này "chỉ là bịt tai trộm chuông.”
(Bích
Nham Lục)
Gập
hổ chỉ có nước chết. Trong Thiền học, ngộ được coi
như chết đi sống lại; vì vậy câu nói của ông tăng có
nghĩa là làm sao để ngộ. Am chủ giả tiếng hổ ý nói "Ngươi
hiện bị chết ở đây!" Do đó ông tăng bèn chết. Nhưng đó
chỉ là giả thử, không phải chết thật. Cái phải chết
là tự ngã. Am chủ cười ý nói "Ngươi hãy còn ngã!" Ông
tăng phản kích "Ngươi bậy thật!" Am chủ trả lời "Vì ngươi
bắt buộc ta" ý nói ngươi hãy về tự soi gương mà xem.
Câu
nói của Tuyết Đậu là dẫn từ sự tích: trong một làng
nọ bỗng có một con cọp xuất hiện, vồ người ăn thịt.
Dân làng họp bàn cách đối phó. Một người đưa ra cách
treo một cái chuông vào cổ cọp, khi nó đến mọi người
nghe tiếng chuông liền biết ngay. Nhưng làm sao treo chuông vào
cổ của cọp mà không bị nó ăn thịt? Người ấy lại nói:
"Chỉ cần bịt tai nó lại.”
Câu
chuyện này ngụ ý nói không sai, nhưng cần đào sâu hơn nữa.
(Viên
Thông)
188. Triệu Châu bối rối.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Đại đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa thôi, có phải
là sào huyệt của thời nhân không?
-
Đã có người hỏi ta, mà 5 năm rồi ta vẫn còn bối rối!"
(Bích
Nham Lục)
Ý
của ông tăng là "Thầy từng dậy đừng chọn lựa, nhưng
khi nói ra thì đã là chọn lựa rồi phải không?" Câu đáp
của Triệu Châu là "Thực ra ta cũng vì việc khó trả
lời này mà mắc cỡ trong lòng…"
Câu
trả lời không phân biện, chỉ tâm cảnh không chọn lựa
của Triệu Châu.
(Viên
Thông)
189. Chỉ là Chí Đạo Vô Nan.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Đại đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa, có nói là có
chọn lựa, hòa thượng vì người thế nào?
-
Sao không dẫn hết lời này?
-
Con chỉ nhớ đến đấy!
-
Đại đạo không khó chỉ hiềm chọn lựa.
(Bích
Nham Lục)
"Sao
không dẫn hết lời này?": nếu chỉ lấy một phần của lời
nói tức là có chọn lựa rồi. Triệu Châu nhắc lại câu
"Đại đạo không khó chỉ hiềm chọn lựa" ý là đừng để
bất cứ một cái gì trói buộc, cứ thuận theo tự nhiên.
(Viên
Thông)
190. Một mũi tên phá ba cổng.
Thiền
khách Lương Toại hỏi Khâm Sơn (thời Mạt Đường):
-
Lúc một mũi tên phá ba cổng thì thế nào?
-
Mang chủ ra coi.
-
Biết lỗi tất sửa.
-
Đợi đến lúc nào?
-
Tên tốt bắn chẳng trúng.
Nói
rồi quay mình đi. Hòa thượng ngăn lại nói:
-
Xà lê lại đây.
Lương
Toại quay đầu lại. Hoà thượng nắm lấy cơ hội nói:
-
Một mũi tên phá ba cổng hãy gác lại, thử bắn tên cho Khâm
Sơn coi.
Lương
Toại không nói. Hòa thượng dùng gậy đánh và nói:
-
Để cho gã này nghi 30 năm.
(Bích
Nham Lục)
"Một
mũi tên phá ba cổng" ý nói: Ta có thể đồng thời giải đáp
ba vấn đề.
"Mang
chủ ra coi": dĩ nhiên ngươi có đột phá, nhưng nói thử một
câu xem sao"Biết lỗi tất sửa": vạn sự đều không, làm
sao ta có thể nói ra được?
Hòa
thượng không tha "Đợi đến lúc nào?": dù vạn sự đều
không ít nhất ngươi cũng nói ra một câu chứ.
Lương
Toại chỉ còn cách bỏ chạy.
Hòa
thượng lại nói "Giả như một mũi tên không phá ba cửa hãy
nói một câu coi."
Lương
Toại không nói. Hòa thượng nói "Vừa rồi ngươi nói hay lắm
mà sao không tiếp tục?" ý nói nếu ngươi có thể nghiệm
chân chính thì bất luận trong tình huống nào cũng có thể
thích ứng tự như.
(Viên
Thông)
191. Đại Quang múa.
I. Công Án.
Có
một ông tăng hỏi Đại Quang:
-
Trường Khánh nói nhân thọ trai mà tán thán là có ý gì?
Đại
Quang nghe rồi liền múa. Ông tăng bèn lạy.
Đại
Quang hỏi:
-
Ngươi hiểu gì mà lạy ta?
Ông
tăng bèn múa.
-
Đồ chồn hoang này!
II.
Phật quả viên ngộ bình.
Thiền
tông Ấn Độ truyền được 28 vị tổ. Thiền tông Trung Hoa
do Đạt Ma đưa tới, truyền đến Lục tổ, đều lấy tâm
ấn tâm.
Các
ngươi có hiểu chỉ thú của công án này không? nếu các ngươi
không hiểu thì các ngươi chỉ là là đồ chồn hoang mà thôi.
Có
kẻ nói đây chỉ là lừa dối người, nếu quả như vậy
thì còn đạo lý gì?
Đại
Quang giỏi tiếp dẫn người, trong lời nói của ông có chỗ
xoay mình mà ra, không hổ là bậc thiện tri thức có tài nhổ
đinh, tháo chốt, giải tỏa những dính mắc của người.
Đại
Quang múa, ông tăng lạy, rồi sau đó cũng múa. Đại Quang nói
"Đồ chồn hoang này" vì ông tăng không thực hiểu chỉ
biết múa, nếu để vậy không biết còn múa đến khi nào
mới ngưng. Câu nói của Đại Quang làm đứt đoạn khiến
ông ta tham "câu sống" chứ không tham "câu chết.”
Tuyết
Đậu rất thích câu mắng "Đồ chồn hoang này.” Các ngươi
thấy câu trên và câu "Đầu Hải trắng, đầu Tạng đen" là
giống hay khác? Ngươi có biết "Chỗ chỗ đều gập va " là
ý gì không?
III. Bài kệ của Tuyết Đậu:
前
箭 猶 輕 後 箭 深
Tiền
tiễn do khinh hậu tiễn thâm
誰
云 黃 葉 是 黃 金
Thùy
vân hoàng diệp thị hoàng kim
曹
溪 波 浪 如 相 似
Tào
khê ba lãng như tương tự
無
限 平 人 被 陸 沈
Vô
hạn bình nhân bị lục trầm.
Mũi tên trước còn nhẹ
Mũi tên sau vào sâu
Ai nói lá vàng là vàng.
Giọt nước Tào Khê nếu giống như vậy
Vô số người bị chết chìm trên cạn.
IV.
Phật quả viên ngộ bình.
câu
1: Đại Quang múa là mũi tên trước, câu đồ chồn hoang này
là mũi tên sau.
câu
2: Ngưỡng Sơn Huệ Tịch khai thị đại chúng "Các ngươi từ
vô lượng kiếp quay lưng lại sáng đưa đầu vào tối, vọng
tưởng căn thâm, khó mà bỗng nhiên trừ khử đi được. Cho
nên chư Phật, tổ sư mới dùng nhiều loại pháp môn mà phá
trừ nghiệp thức thô trọng như dùng lá vàng dỗ con nít khóc,
dùng quả ngọt thế mướp đắng. Chư Phật, tổ sư quyền
nghi phương tiện dậy người lìa khổ được vui như trẻ
con khóc có thể dùng lá vàng mà dỗ vậy; Thế Tôn cả đời
thuyết pháp cũng tương tự. Câu nói của Đại Quang là để
chuyển hóa nghiệp thức của ông tăng, trong đó có quyền,
có thực, có chiếu, có dụng. Nếu ngươi hiểu được thì
như hổ mọc cánh.
câu
3: Nếu như người học Thiền ở 4 phương, 8 hướng đều
múa như vậy thì
câu
4: Nhiều người đi trên đất bằng mà chết chìm, như vậy
thì còn thuốc nào cứu được nữa.
(Bích
Nham Lục)
(Dịch
từ bản Bạch Thoại của Hứa Văn Cung)
192. Hề Trọng làm xe.
Hòa
thượng Nguyệt Am hỏi một ông tăng:
-
Hề Trọng làm một cái xe, bánh có 100 nan; bỏ hai bánh xe và
trục đi thì thành cái gì?
(Vô
Môn Quan)
Hề
Trọng là người làm xe nổi tiếng thời cổ. Lúc trước bánh
xe chỉ có 30 nan, Hề Trọng làm bánh xe có 100 nan.
Xe
(chỉ Phật pháp) chỉ do bánh, trục kết hợp mà thành. Nếu
tháo bỏ bánh, trục đi, xe không còn là xe nữa.
Con
người ta cũng vậy xương thịt (Địa), máu (Thủy), hô hấp
(Phong), thể nhiệt (Hỏa) kết hợp mà thành người, tan ra
thì trở về với 4 đại. Đây là thuyết minh lý "vô ngã.”
193. Phật Đại Thông Trí Thắng.
Một
ông tăng hỏi Hưng Dương Nhượng:
-
Phật Đại Thông Trí Thắng mười kiếp tọa đạo trường,
Phật pháp chẳng hiển hiện, cũng chẳng hoàn thành Phật đạo
là sao?
-
Hỏi đúng lắm!
-
Sao ngồi lâu vậy mà không thành Phật?
-
Vì không thành Phật!
(Vô
Môn Quan)
Hưng
Dương Nhượng là pháp tử của Ba Tiêu. Ba Tiêu là đồ tôn
của Ngưỡng Sơn. Công án này xưng tán thiền phong của tông
Quy Ngưỡng.
Phật
Đại Thông Trí Thắng dẫn từ phẩm Hóa Thành Dụ trong kinh
Pháp Hoa.
Câu
trả lời của Hưng Dương Nhượng có nghĩa là "Vốn là
Phật, thì cần gì thành Phật."
(Thánh
Tham)
194. Thanh Thoát Cô Bần.
Thanh
Thoát hỏi Tào Sơn:
-
Thanh thoát, lẻ loi và nghèo khó, xin thầy cứu giúp.
-
Thoát xà lê!
-
Dạ!
-
Ngươi đã uống 3 chén rượu Thanh Nguyên rồi, còn nói chưa
nhấp môi!
(Vô
Môn Quan)
Tào
Sơn là một trong 5 cao đồ của Động Sơn.
Nghèo
chỉ phiền não, nếu được trợ giúp thì hết nghèo, hết
phiền não.
Lời
nói của Thanh Thoát là diễn tả cảnh giới giác ngộ vô,
hữu, là lời trình cơ.
Câu
đáp của Tào Sơn là đã rõ cơ ý.
(Thánh
Tham)
195. Triệu Châu khám phá Am Chủ.
Triệu
Châu đến thăm một am chủ, hỏi:
-
Có chăng! Có chăng?
Am
chủ giơ nắm tay lên.
Châu
nói: "Nước cạn, chẳng phải chỗ neo thuyền", bèn đi.
Lại
đến một am chủ khác hỏi:
-
Có chăng? Có chăng?
Am
chủ giơ nắm tay lên.
Châu
nói: "Có thể nắm, có thể buông, có thể giết, có thể cứu!" bèn vái mà lui.
(Vô
Môn Quan)
Câu
hỏi của Triệu Châu có nghĩa là có thường tỉnh thức không?
Hai am chủ đều nhận mình luôn tỉnh thức.
Câu
nói của Triệu Châu với am chủ 1: nhận mình thô thiển (nước
cạn) là căn bản của sự tiến bộ trong tọa thiền.
Câu
nói của Triệu Châu với am chủ 2: diễn tả sự tự do hoàn
toàn vì luôn luôn tỉnh thức.
(Sekida)
196. Đức Sơn bưng bát.
Một
hôm Đức Sơn bưng bát xuống thiền đường, Tuyết Phong trông
thấy bèn hỏi:
-
Ông già! Chuông chưa gõ, trống chưa đánh, bưng bát đi đâu
vậy?
Đức
Sơn bèn trở về phương trượng. Tuyết Phong kể lại với
Nham Đầu.
Nham
Đầu nói: "Đức Sơn chưa hiểu câu sau cùng.”
Đức
Sơn nghe được bèn truyền thị giả kêu Nham Đầu lại hỏi:
-
Ngươi chẳng đồng ý với lão tăng sao?
Nham
Đầu bèn trình mật ý, Sơn cho lui.
Hôm
sau, thăng đường có vẻ khác thường.
Nham
Đầu đến trước thiền đường vỗ tay cười lớn mà rằng:
-
Mừng cho ông già đã hiểu được "câu nói sau cùng", về sau
thiên hạ không ai làm phiền ông nữa.
(Vô
Môn Quan)
Tuyết
Phong và Nham Đầu là hai đồ đệ của Đức Sơn Tuyên Giám.
Trong Truyền Đăng Lục có chép một hôm cơm dọn trễ, Đức
Sơn đói bụng bèn bưng bát xuống phòng ăn. Điển tọa Tuyết
Phong trông thấy mới hỏi và sau đó kể lại cho Nham Đầu
nghe. Nham Đầu thấy đây là cơ hội giúp Tuyết Phong khởi
nghi tình nên mới nói Đức Sơn không hiểu "câu nói sau cùng.”
Đức Sơn nghe được không hiểu ý của Nham Đầu là sao, bèn
gọi vào hỏi. Nham Đầu trình ý kiến của mình là để giúp
Tuyết Phong. Đức Sơn thuận. Do đó, cử động của Nham Đầu
ngày hôm sau chỉ là diễn trò. Đáng tiếc, cho đến lúc này
Tuyết Phong vẫn chưa khai ngộ.
(Thánh
Tham)
197. Nghe tiếng chuông mặc áo cà sa.
Vân
Môn nói: "Thế giới rộng rãi bao la, vì sao nghe tiếng chuông
lại mặc áo thất điều?"
(Vô
Môn Quan)
Thế
giới bao la chỉ cảnh giới Tuyệt đối, hoàn toàn tự do,
nghe tiếng chuông lại mặc áo thất điều là bị hạn chế.
Một người giác ngộ mặc dầu sống ở trong thế giới giới
hạn vì những đòi hỏi của cuộc sống hàng ngày. Nhưng nếu
mọi hoạt động đều ở trong định thì vẫn hoàn toàn tự
do.
(Sekida)
198. Ba lần gọi của Quốc Sư Huệ Trung.
Một
hôm, quốc sư Huệ Trung gọi thị giả 3 lần, thị giả đều
dạ.
Quốc
sư Huệ trung bèn nói:
-
Tưởng ta cô phụ ngươi, không ngờ ngươi cô phụ ta!
(Vô Môn Quan)
Quốc
sư Huệ Trung không biết sanh năm nào, mất năm 775, tục truyền
sống hơn 100 tuổi, được Lục tổ Huệ Năng truyền tâm ấn.
Ông sống trên núi hơn 40 năm không đi đâu cả, nhưng danh
tiếng vang vọng đến triều đình. Vua triệu ông về kinh để
học hỏi.
Công
án này có 2 giải thích trái ngược. Chúng tôi ghi lại cả
hai để độc giả tham khảo:
1.
Quốc sư gọi 3 lần thị giả đều dạ, nhưng không nhận
ra cái tánh nghe của mình, nên mới bị trách.
(Thích
Thanh Từ).
2.
Giữa gọi và dạ không có một cái gì cả. Sự nhận thức
thuần túy chỉ thực sự xẩy ra trong trạng thái định.
"Tưởng
ta cô phụ ngươi": sợ rằng những chỉ dậy kém cỏi của
ta đã không làm ngươi tiến bộ.
"Không
ngờ ngươi cô phụ ta": nhưng sự thực là ngươi đã đi ngược
lại lời dậy của ta. Đây là lời chấp nhận của quốc
sư vì trong thiền học người ta hy vọng trò phải tiến vượt
thầy.
(Sekida)
199. Que cứt khô.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Phật là gì?
-
Que cứt khô.
(Vô
môn Quan)
Mọi
thiền sinh đều cố gắng tu tập để đạt giác ngộ và trở
thành Phật. Họ coi Phật như một lý tưởng thanh tịnh, hoàn
hảo, đáng kính nhất, cao cả nhất. Họ cố gắng vượt qua
những ác độc, tội lỗi, chết chóc, nhân loại, tầm thường
để trở thành một vị Phật như thế.
Vân
Môn đã cố gắng phá hủy những khái niệm về Phật này
bằng cách so sánh Phật với que cứt khô, là vật dụng như
giấy vệ sinh ngày nay. Đức Phật không phải là Thượng Đế,
ngài là một người giác ngộ.
(Kubose)
200. Lìa ngôn ngữ.
Một
ông tăng hỏi Phong Huyệt:
-
Nói hay im đều là ly, vi, làm sao thông mà không phạm?
-
Ta vẫn nhớ là ở Giang Nam vào tháng ba, chim chá cô hót trong
muôn hoa.
(Vô
Môn Quan)
Ly
là chủ quan, là tâm hướng nội là im.
Vi
là khách quan, là tâm hướng ngoại là nói.
Nói
hay im, chủ quan hay khách quan đều sai vì ở bản thể giới
làm gì có chủ và khách.
Giang
Nam là nơi nổi tiếng về trồng hoa. Hoa không lời nhưng cho
hương thơm, chim vô tâm mà hót lảnh lót. Đó là cảnh hoa
hương, điểu ngữ của Giang Nam, còn nói gì là thông là phạm
nữa?
(Thánh
Tham)
201. Ba gậy của Động Sơn.
Động
Sơn đến tham học, Vân Môn hỏi:
-
Vừa từ đâu lại?
-
Tra Độ.
-
Kiết hạ ở đâu?
- Chùa Báo Từ ở Hồ Nam.
- Rời chỗ đó lúc nào?
- Ngày 25 tháng 8.
- Tha cho ngươi ba gậy.
Hôm
sau Động Sơn thưa:
-
Đội ơn hòa thượng tha ba gậy, nhưng không biết con sai chỗ
nào?
-
Đồ giá áo túi cơm, Giang Tây, Hồ Nam đi đâu chẳng được!
Động
Sơn do đó đại ngộ.
(Vô
Môn Quan)
Động
Sơn trong công án này không phải là Động Sơn của dòng thiền
Tào Động.
Những
câu hỏi của Vân Môn đều là hỏi ngộ cảnh của Động
Sơn. Động Sơn không hiểu thâm ý nên chỉ trả lời theo nghĩa
thông thường. Do câu nói của Vân Môn, Động Sơn mới hiểu
rằng không cần phải đi đâu xa, chân lý ở ngay trước mắt.
(Thánh
Tham)
202. Một được, một mất.
Tại
Thanh Lương Tự, khi chư tăng tụ họp lại để nghe pháp trước
bữa ngọ trai, Pháp Nhãn không nói, giơ tay chỉ vào bức mành
tre. Hai ông tăng cùng đến cuốn mành lên.
Pháp
Nhãn nói: "Một được, một mất.”
(Vô Môn Quan)
Mỗi
sự việc đều có hai mặt, một tốt, một xấu; một được, một mất. Hai ông tăng cuốn mành là được, vì tỏ
ra hiểu ý thầy, nhưng đồng thời cũng là mất vì ra vẻ
ta đây là điều cấm kỵ trong thiền học.
(Sekida)
203. Đệ tam tọa nói Pháp.
Ngưỡng
Sơn nằm mộng thấy đến trời Đâu Xuất của Phật Di Lặc,
ngồi vào hàng thứ ba. Có một vị tôn giả nói:
-
Hôm nay người ở hàng thứ ba nói pháp.
Sơn
bèn đứng dậy dộng gậy xuống mà rằng:
-
Nghe cho kỹ! Nghe cho kỹ! Giáo pháp của Đại thừa là ly tứ
cú, tuyệt bách phi.
(Vô
Môn Quan)
Ngưỡng
Sơn là học trò của Quy Sơn. Hai thầy trò là sáng tổ của
dòng Quy Ngưỡng.
Đây
chỉ là một giấc mộng, nhưng trời đất lại chẳng phải
là mộng sao?
Ngưỡng
Sơn toàn thân là tâm bồ đề, ngay trong mộng cũng còn nói
pháp.
(Thánh
Tham)
204. Trên đường gập người đạt Đạo.
Ngũ
tổ Pháp Diễn nói:
"Trên
đường gập người đạt đạo, không nói cũng không im, làm
sao cho phải?"
(Vô
Môn Quan)
Đạo
là đạo, nếu đã đạt Đạo thì không chỗ nào không là
Đạo, không cần phải hỏi Đạo.
(Thánh
Tham)
205. Thiếu nữ xuất định.
Ngày
xưa, thuở đức Thế Tôn còn tại thế, bồ tát Văn Thù đến
hội trường của chư Phật. Lúc đó chư Phật đã về quốc
độ của các Ngài, chỉ có một thiếu nữ còn ngồi gần
Phật tọa, tiến nhập cảnh giới tam muội. Văn Thù bèn hỏi
đức Thế Tôn rằng :
-
Tại sao vị nữ nhân này có thể ngồi gần Phật tọa mà
con lại không thể làm được?
Thế
Tôn nói:
-
Ngươi hãy làm nàng xuất định mà hỏi?
Văn
Thù đi quanh nữ nhân ba vòng, búng tay một cái nâng nàng lên
tầng trời Phạm Thiên, lại xử dụng hết thần lực mà không
làm nàng xuất định được.
Thế
Tôn nói :
-
Dù trăm ngàn Văn Thù cũng không khiến nàng xuất định được.
Phía dưới quá 12 ức hà sa quốc độ, có một vị bồ tát
tên là Võng Minh có thể làm cho nàng xuất định.
Ngay
đó Võng Minh bồ tát từ dưới đất vọt lên, đến trước
mặt thiếu nữ búng tay một cái, thiếu nữ liền ra khỏi
định.
(Vô
Môn Quan)
Thiếu
nữ chỉ tâm, Phật tọa chỉ tâm điểm của định. Văn Thù
còn chấp tướng Nam Nữ. Theo ý kiến lúc đó người nữ có
5 chướng thành ra không thành Phật được. Đó là: không kiên
cố, không thanh tịnh, không dõng cảm, không từ bi, không trí
huệ.
Phật
bảo Văn Thù gọi thiếu nữ xuất định mà hỏi là bảo tự
mình phản chiếu. Văn Thù đi quanh thiếu nữ 3 vòng là tỏ
ý thông đạt 3 thế, biến 3 độc thành 3 đức, búng tay ám
chỉ bỏ uế trược, giữ thanh tịnh, nhưng mà muốn giác người
thì trước hết mình phải tự giác đã. 12 ức là chỉ 12
nhân duyên.
Võng
Minh là phần sâu thẳm của tâm. Không ai có thể làm thiếu
nữ xuất khỏi đại định được, trừ phi là chính cô ta.
(Thánh
Tham)
206. Cây gậy của Ba Tiêu.
Ba
Tiêu bảo đại chúng rằng: "Nếu các ngươi có gậy ta sẽ
cho các ngươi gậy, nếu các ngươi không có gậy, ta sẽ đoạt
đi "
(Vô
Môn Quan)
Cây
gậy chỉ sự giác ngộ, nếu các ngươi đã ngộ, ta sẽ giúp
các ngươi bảo nhiệm ngộ cảnh và tu đến toàn giác. Khi
đã được toàn giác (không gậy) thì phải quên sự toàn giác
đó đi (ta sẽ đoạt đi) không để lại vết tích gì.
(Sekida)
207. Người ấy là ai.
Đông
Sơn Pháp Diễn nói: "Thích Ca, Di Lặc còn là nô tài của người
ấy. Xin hỏi người ấy là ai?"
(Vô
Môn Quan)
Người
ấy chỉ tự tánh.
208. Một đường của Càn Phong.
Một
ông tăng hỏi Càn Phong:
-
Chư Phật Bạc Già Phạm mười phương chỉ có một đường.
Niết Bàn, không biết đường đó ở đâu?
Càn
Phong giơ gậy lên vạch một vạch và nói:
-
Tại chỗ này!
Ông
tăng lại hỏi Vân Môn. Vân Môn giơ quạt lên nói:
-
Cây quạt này nhẩy lên tầng trời 33 đập vào mũi Đế Thích,
lại đánh vào cá chép ở biển Đông, trời mưa như đổ nước.
(Vô
Môn Quan)
Càn
Phong thuộc dòng thiền Động Sơn.
Ông
tăng đặt câu hỏi còn chấp vào chữ nghĩa, kinh điển. Cử
chỉ của Càn Phong hàm ý "Đạo ở ngay đây, trước mắt
ngươi, việc gì phải tìm kiếm đâu đâu.”
Câu
nói của Vân Môn chỉ cảnh giới vô ngã.
(Thánh Tham)
209. Đại Lực Sĩ.
Hòa
thượng Tùng Nguyên nói: "Đại lực sĩ vì sao giơ chân lên
không nổi?" lại nói "Mở miệng lại không dùng lưỡi.”
(Vô
Môn Quan)
Đại
lực sĩ chỉ người giác ngộ, chân nhấc không nổi vì Phật
tánh đã bao trùm khắp vũ trụ, còn chỗ nào để giơ chân?
Nhưng đã giác ngộ thì tự tại vô ngại vậy hắn sẽ cử
động như thế nào? Mở miệng không dùng lưỡi vì không dùng
lời để diễn tả chân lý được. Đây là 2 trong 3 chuyển
ngữ của Tùng Nguyên. Câu 2 là câu trả lời của câu 1. Câu
thứ 3 là "Người có minh nhãn vì sao không cắt đứt
được sợi dây đỏ?" Người có minh nhãn là người đã giác
ngộ, không ngại khổ nhọc để cứu giúp những kẻ chưa
giác. Đó là cái chấp cuối cùng (sợi dây đỏ) Tùng Nguyên
đưa ra chuyển ngữ thứ 3 khi sắp mất.
(Thánh
Tham)
210. Đạp đổ tịnh bình.
Hòa
thượng Quy Sơn lúc đầu ở với Bách Trượng, làm Điển
tọa. Bách Trượng định chọn người làm trụ trì núi Đại
Quy bảo ông cùng thủ tọa đối đáp trước đại chúng, ai
trúng cách sẽ được đi. Bách Trượng để tịnh bình trên
đất nói:
-
Không gọi là tịnh bình, các ngươi gọi là gì?
Thủ
tọa bèn nói:
-
Không thể gọi là khúc cây.
Bách
Trượng bèn hỏi Quy Sơn. Quy Sơn đạp đổ tịnh bình mà đi.
Bách Trượng cười nói:
-
Đệ nhất tọa thua mất ngọn núi rồi.
Bèn
sai Quy Sơn đi làm tổ khai sơn.
(Vô
Môn Quan)
Thủ
tọa còn chấp vào bình, nên câu đáp của ông còn dính dáng
vào nó, trong khi Quy Sơn đã vượt lên trên câu hỏi, ở bản
thể giới làm gì có danh tướng nên gọi là bình hay không
bình cũng đều sai.
(Thánh Tham)
211. Cây gậy của Thủ Sơn.
Hòa
thượng Thủ Sơn giơ cây gậy lên và nói với đại chúng
rằng: "Nếu gọi nó là gậy thì xúc phạm, nếu không gọi
nó là gậy thì trái ngược, vậy các ngươi gọi nó là gì?"
(Vô
Môn Quan)
Gọi
là gậy thì sai vì ở bản thể giới không có danh tướng.
Nếu không gọi là gậy thì lại trái với hiện thực. Chúng
ta phải vượt lên lý và sự, sự là lý, lý là sự.
(Thánh
Tham)
212. Long Đàm thổi tắt đèn.
Đức
Sơn đến hỏi đạo Long Đàm cho đến tối. Long Đàm nói:
-
Đêm đã khuya rồi, ngươi về đi.
Đức
Sơn vái chào, vén mành mà ra, thấy trời tối bèn quay lại
nói:
-
Bên ngoài trời tối.
Long
Đàm thắp một cái đèn giấy đưa cho Đức Sơn. Đức Sơn
vừa cầm đèn, Long Đàm bèn thổi tắt, Đức Sơn do đó ngộ,
bèn lạy.
Long
Đàm nói:
-
Ngươi thấy được đạo lý gì?
Đức
Sơn đáp:
-
Con từ nay không còn nghi ngờ những thoại đầu của các hòa
thượng trong thiên hạ.
Đến
ngày hôm sau, Long Đàm thượng đường nói:
-
Ở đây có một gã, răng như rừng gươm, miệng như chậu
máu, đánh một gậy mà chẳng ngoảnh đầu lại, sau này lên
đỉnh núi lập đạo ta.
Đức
Sơn gom sớ sao trước pháp đường, giơ đuốc lên nói rằng:
-
Mọi huyền biện chỉ như một sợi lông trong hư không, mọi
yếu quyết chỉ như một giọt nước đổ xuống vực.
Bèn
đốt hết sớ sao, lạy tạ rồi đi.
(Vô
Môn Quan)
Công
án này so sánh học vấn và trí huệ. Học vấn là loại tri
thức có thể thu thập được do nghe, đọc. Trí Huệ là độc
nhất, sáng tạo, cá nhân, không thể cho ai, cũng không ai có
thể lấy đi được. Đức Sơn là một học giả chuyên nghiên
cứu kinh Kim Cương, và nương dựa vào đó. Khi nhận đèn giấy
từ Long Đàm, ông tưởng sẽ dựa vào đó mà soi đường đi.
Khi Long Đàm thổi tắt đèn, ông không còn gì để nương tựa
vào. Chúng ta phải có ánh sáng nội tâm để không gì thổi
tắt được.
(Kubose)
213. Thiến Nữ Ly Hồn.
Ngũ
tổ Pháp Diễn hỏi một ông tăng: "Thiến nữ lìa hồn, cô
nào là thật?"
(Vô
Môn Quan)
Trong
tập Thái Bình Quảng Ký, Trần Huyền Hữu có chép truyện
Ly hồn ký. Đời Đường, Trương Giật sống ở Hoành Châu,
có một đứa con gái là Thiến Nữ và một đứa cháu trai
là Vương Trụ. Từ nhỏ hai đứa chơi đùa với nhau rất thân.
Trương thường nói đùa khi lớn lên sẽ cho hai đứa làm vợ
chồng. Cả hai đều tưởng thiệt. Về sau, Trương muốn gả
con gái cho người khác. Vương Trụ buồn rầu bèn từ giã
cậu mà đi, nói dối là lên kinh đô. Nửa đêm, đang nằm
trên thuyền bỗng nghe tiếng chân chạy đến, nhìn xem thì
là Thiến Nữ. Mừng tủi lẫn lộn, cả hai cùng nhau đào tẩu.
Hai người chung sống ở đất Thục được 5 năm, sinh được
2 đứa con. Thiến Nữ nhớ nhà, bèn cùng chồng trở lại Hoành
Châu. Trụ về nhà trước để tạ tội. Giật kinh ngạc nói
cho Trụ biết Thiến Nữ từ khi Trụ bỏ đi thì bị bệnh
hôn mê chưa hề dời khỏi khuê phòng. Khi Thiến Nữ từ thuyền
trở về nhà, Thiến Nữ bị bệnh choàng dậy ra đón. Hai người
ôm chầm lấy nhau hòa thành một.
Phật
giáo không chấp nhận có một linh hồn bất biến. Tất cả
đều biến đổi trong tiến trình từ nhân đến quả.
(Thánh
Tham)
214. Văn Thù vào cửa.
Một
hôm, Văn Thù đứng ngoài cửa. Đức Phật gọi:
-
Văn Thù! Văn Thù! Sao không vào.
Văn
Thù thưa:
-
Bạch đức Thế Tôn, con không thấy mình ở ngoài thì tại
sao
phải
vào?
(Zen
Koans)
Câu
hỏi quan trọng trong công án này là "Cửa là gì?" Thường
cửa là nơi qua đó chúng ta ra, vào; nghĩa là có phân ra trong
ngoài. Nhưng ở bản thể giới, không có trong ngoài: chân lý
là phải phổ quát và thường tại. Khi đức Phật bảo Văn
Thù (tượng trưng cho Trí Huệ) vào cửa là để trắc nghiệm
sự hiểu biết của ngài. Văn Thù trả lời ở bản thể giới
không có cửa, và ngài cũng không ở ngoài. Tuy nhiên, nhân
loại vẫn thấy còn có cửa. Đó là cửa không cửa (vô môn
quan), rất khó vào, mặc dầu nó luôn luôn mở. Có bao nhiêu
người thì có chừng nấy cửa không cửa. Mỗi người phải
vào qua cái cửa của mình.
215. Không vì gì cả.
3
người kia thấy một người đứng trên đỉnh núi bèn hỏi
nhau:
-
Tại sao người kia đứng trên đỉnh núi?
-
Hãy lại hỏi hắn tại sao?
Người
thứ nhất hỏi:
-
Ông đứng đây để đợi bạn?
-
Không!
Người
thứ nhì hỏi:
-
Ông đứng đây để ngắm cảnh?
-
Không!
Người
thứ ba hỏi:
-
Ông đứng đây để hóng gió?
-
Không!
Cả
ba người cùng hỏi:
-
Cái gì cũng không, vậy tại sao ông đứng đây?
-
Tôi chỉ đứng đây, chẳng vì gì cả!
(Thiền
Thuyết)
Phần
lớn người ta sống trong thế giới nhị nguyên vì vậy mới
có được, mất, ta, cảnh vật. Cảnh đẹp ta vui. cảnh xấu
ta thất vọng.
216. Quạt lửa.
Đời
Tống, Đại Huệ Quả thiền sư tu hành trong núi sâu. Có một
vị tướng hồi hưu có ý muốn theo thiền sư xuất gia.
-
Đợi con trừ bỏ được các tính xấu, sẽ xin theo sư phụ.
-
Được!
Ít
lâu sau, vị tướng trở lại.
-
Sư phụ! Con đã bỏ được tự ngã, nên đến để học thiền.
-
Hãy còn quá sớm, vợ ngươi đang ngủ với trai kìa!
-
Tên đầu trọc, sao dám mở mồm nói láo?
-
Hãy còn quá sớm để lìa nhà, ngươi hãy về tu tập thêm
vài năm nữa rồi hãy nghĩ đến việc xuất gia.
(Thiền
Thuyết)
Lời
nói và hành động là hai biểu hiện của Tâm. Nhưng đối
với nhiều người, thì nói nhiều hơn là làm, hay có khi làm
trái lại lời.
217. Người mù không biết đèn đã tắt.
Một
người mù, lúc từ giã bạn về nhà, bạn ông đưa cho ông
một cái đèn lồng.
-
Tôi không cần đèn lồng, đối với tôi sáng hay tối cũng
vậy thôi!
-
Tôi biết chứ, nhưng nếu anh không mang đèn thì người khác
có thể xô vào anh.
-
Được.
Người
mù mang đèn về, nhưng giữa đường vẫn bị một người
xô phải, ngã lăn trên đất. Người mù hỏi:
-
Ông không thấy đèn sao?
Người
kia trả lời:
-
Đèn của ông đã tắt từ bao giờ rồi!
(Thiền
Thuyết)
Những
người dùng lời của kẻ khác để dậy người thì cũng giống
như người mù trong truyện này, đèn tắt đã lâu rồi mà
không biết.
218. Vì ta ở đây.
Có
một vị hòa thượng tuổi tác đã cao, phơi nấm dưới trời
nắng gắt. Một ông tăng hỏi:
-
Thầy bao nhiêu tuổi?
-
68.
-
Tại sao làm việc cực khổ ở đây vậy?
-
Vì ta ở đây.
-
Đành vậy! Nhưng tội gì phải làm dưới trời nắng gắt
này?
-
Vì trời nắng!
(Thiền
Thuyết)
Trời
đất nuôi dưỡng vạn vật, không bỏ bê ai, cũng không tư
vị ai. Một người gắng công làm việc không ta thán là hợp
với đạo tự nhiên vậy.
219. Sắc tức thị không.
Ích
Trung hòa thượng là một nhà danh họa. Một hôm, có một người
đến thưa:
-
Xin thầy vẽ cho con cái tâm trong câu "Chỉ thẳng tâm người,
thấy tánh thành Phật"
Ích
Trung bèn lấy bút chấm một điểm trên má người ấy. Người
ấy tức giận la lên:
-
Thầy làm gì vậy?
Ích
Trung bèn hoa bút vẽ một bức chân dung người ấy đang giận
dữ, và giơ lên:
-
Đây là tâm!
Người
kia nói:
-
Thấy tánh thành Phật, thầy có thể vẽ cái tánh ấy cho con
coi chút được không?
-
Ngươi hãy mang cái tánh ấy ra đây, ta sẽ vẽ cho ngươi.
(Thiền
Thuyết)
Tự
tánh đầy đủ không thiếu gì cả. Mỗi người phải tự
mình khám phá, chứ không có cách nào khác.
220. Đồ cổ của một vị tướng.
Có
một vị tướng quân, lúc ở nhà mang đồ cổ ra ngắm nghía,
sẩy tay đồ cổ rơi xuống; nhưng may mắn là ông chụp lại
kịp thời. Ông sợ đến toát mồ hôi. Ông nghĩ thầm: "Ta
đã từng lãnh đạo hàng ngàn vạn quân sĩ xông pha nơi trận
mạc, không tiếc gì thân mạng mà chưa bao giờ sợ đến thế!
Tại sao hôm nay chỉ vì một cái chén nhỏ mà trở nên như
thế này?"
Cuối
cùng ông đã hiểu suốt vì chấp thủ nên đưa đến lo sợ
bị mất. Do đó, tiện tay ông quẳng cái chén xuống đất,
vỡ tan.
(Thiền
Thuyết)
Vì
có được và mất nên mới có vui buồn. Nếu có thể vượt
lên được thiện, ác, được, mất; cứ để tùy duyên thì
là phúc vậy.
221. Sóng lớn trong lòng.
Có
một nhà cao thủ đô vật tên là Đại Ba. Không những ông
có sức mạnh mà còn tinh nghề đô vật nữa. Bình thường
trong những cuộc đấu riêng, ông rất lợi hại, ngay cả sư
phụ ông cũng không địch lại được ông. Nhưng những trận
đấu trước công chúng thì ông lại rụt rè, ngay đệ tử
của ông cũng hạ ông dễ dàng. Do đó, ông tìm vào núi sâu,
cầu giáo một vị thiền sư. Vị thiền sư bảo:
-
Tên ngươi là Đại Ba (sóng lớn) vậy hãy tưởng ngươi là
ngọn sóng lớn, cuốn trôi đi tất cả những gì làm trở
ngại trước mặt. Cứ như thế, ngươi sẽ là nhà vô địch
đô vật, không ai có thể hạ ngươi được.
Do
đó, Đại Ba ngồi thiền ở chùa, cố tưởng mình là sóng.
Mới đầu tâm ông không được ổn định, tạp niệm nổi
lên rất nhiều, nhưng không lâu ông càng lúc càng cảm thấy
mình là sóng. Đêm càng khuya sóng càng lúc càng lớn, cuốn
trôi đi bình bông, tượng Phật, rồi tràn ngập cả chùa,
gần sáng thì không còn gì cả, chỉ thấy đại dương bát
ngát.
Đến
sáng thiền sư lay tỉnh ông.
-
Từ nay không gì làm ngươi phiền não nữa, ngươi giống như
sóng lớn tràn ngập tất cả.
-
Cám ơn sư phụ.
Từ
đó trong các cuộc giao đấu, Đại Ba luôn nghĩ mình là sóng.
Ông trở thành nhà đô vật vô địch trong toàn quốc.
(Thiền
Thuyết)
Chỉ
dùng phương pháp trực tiếp đối phó với hoàn cảnh: ta thành
cảnh, cảnh thành ta.
222. Bà già hay khóc.
Có
một bà già có biệt hiệu là "bà già hay khóc.” Trời mưa
bà khóc, trời tạnh bà cũng khóc. Một ông tăng hỏi bà:
-
Bà lão, vì sao bà lại khóc?
Bà
trả lời:
-
Tôi có hai đứa con gái, đứa lớn gả cho người thợ làm
giầy
vải,
đứa nhỏ gả cho người làm dù. Khi trời đẹp tôi nghĩ thương
cho đứa nhỏ, dù của nhà nó không bán được. Khi trời mưa,
tôi nghĩ thương cho đứa lớn. Ai mua giầy vải vào ngày mưa?
Ông
tăng khuyên:
-
Bà lão, khi trời đẹp bà nên mừng cho đứa lớn vì giầy
sẽ bán được; khi trời mưa bà nên mừng cho đứa nhỏ vì
dù sẽ bán được.
-
A! Phải ha!
Từ
đó, bà già hay khóc không còn khóc nữa. Dù mưa hay nắng bà
vẫn cười hì hì.
(Thiền
Thuyết)
"Tức
tâm, tức Phật", bất cứ việc gì thuận lợi hay không là
do cách nhìn của chúng ta.
223. Ông tăng tương tư.
Huệ
Xuân là một ni cô Nhật Bản rất xinh đẹp. Trong một thiền
hội, một ông tăng yêu thầm cô. Ông viết một lá thư tình
hẹn gập gỡ. Ngày hôm sau, khi thiền sư giảng xong, Huệ Xuân
đứng lên, đến trước mặt ông tăng đã viết thư cho cô
và nói: " Nếu quả thật anh yêu tôi tha thiết như thế, hãy
đến ôm lấy tôi nào!"
(Thiền
Thuyết)
Bản
chất con người là xung đột, giằng xé giữa 2 dục vọng
đối nghịch làm tâm mất quân bình. Vì vậy chúng ta phải
tỉnh thức trong mọi quán niệm.
224. Chết rồi đi đâu?
Thiên
hoàng Hậu Dương Thành đến tham học với thiền sư Ngu Đường.
-
Thiền tông dậy tức tâm, tức Phật có đúng không?
-
Nếu lão nạp nói đúng, bệ hạ sẽ tưởng rằng mình hiểu
mà kỳ thực không hiểu, nếu nói không thì trái với sự
kiện nhiều người đã hiểu.
-
Bậc giác ngộ khi chết đi đâu?
-
Lão nạp không biết.
-
Sao lại không biết?
-
Vì lão nạp chưa chết.
(Thiền
Thuyết)
Khi
sống chúng ta nên hưởng thụ những vẻ đẹp và sự kỳ
diệu của đời sống, bất tất phải lo lắng về đời sống
sau khi chết. Ngày hôm nay, hãy sống ngày hôm nay, đừng lo
buồn về ngày mai, vì những ưu phiền ngày mai, ngày mai sẽ
đến.
225. Tu hành như thế nào?
Một
người kia hỏi một thiền sư:
-
Người tu hành là hạng người thế nào?
-
Giống như ta vậy.
-
Đại sư cũng phải tu sao?
-
Tu hành không ngoài mặc áo, ăn cơm.
-
Đó là những việc vụn vặt hằng ngày sao gọi là tu được?
-
Vậy ngươi nghĩ ta làm gì mỗi ngày?
(Thiền
Thuyết)
Tu
hành là từ trong những sự việc hàng ngày như nói chuyện,
rửa mặt, ăn cơm, ta làm với sự tỉnh thức.
226. Giầu và nghèo.
Có
một nông phu đào đất được một tượng La Hán bằng vàng
đáng giá. Thân thích, bạn bè đều mừng cho ông.
-
Tượng ít nhất cũng nặng 100 cân vàng.
-
Ha! Ha! Tiêu cả đời cũng không hết.
Nhưng
ông nông phu vẫn buồn rầu, cả ngày nhăn mày, nhăn mặt.
Bạn
bè hỏi:
-
Ông đã thành phú ông rồi, còn việc gì lo rầu nữa?
-
Tôi cứ nghĩ mãi không biết 17 vị La Hán kia ở đâu?
(Theo
truyền thuyết Trung Hoa thì có 18 vị La Hán)
(Thiền
Thuyết)
Giầu
thật không phải là có nhiều tiền, mà là có biết đủ hay
không.
227. Khô mộc Thiền.
Có
một bà lão dựng một am cỏ, cung dưỡng một ông tăng trong
20 năm trời. Bình thời đều do một cô gái xinh đẹp tuổi
đôi tám phục thị. Một hôm, bà lão muốn thử công phu tu
tập của ông tăng bèn dặn cô gái khi mang cơm đến thì ôm
lấy ông tăng coi ông phản ứng như thế nào? Cô gái làm y
lời dặn và hỏi ông tăng:
-
Thầy cảm thấy thế nào?
-
Giống như cây khô trên núi lạnh, giống như trời Đông băng
giá không chút hơi ấm.
Nghe
cô gái thuật lại, bà lão bèn đuổi ông tăng đi, đốt trụi
am cỏ, nói rằng:
-
Ta đã phí 20 năm cung dưỡng một tên tục tử.
(Thiền
Thuyết)
Tu
sĩ dĩ nhiên là không được gần nữ sắc, nhưng mà tu hành
20 năm mà một điểm từ bi cũng không có thì quả thật là
một tên tục tử.
228. Bế một cô gái qua vũng bùn.
Thản
Sơn hòa thượng và một đạo hữu đi đường gập một cô
gái xinh đẹp đang đứng tần ngần trước vũng lầy không
biết làm sao qua.
-
Để ta giúp cô.
Nói
rồi Thản Sơn bế thốc cô gái qua vũng bùn.
-
Tạ ơn sư phụ.
Hai
người lại tiếp tục đi, quá nửa buổi, người bạn trẻ
hỏi Thản Sơn:
-
Sư huynh, chúng ta là người xuất gia không được gần nữ
sắc, sao sư huynh lại làm vậy?
-
Sư đệ, ta đã đặt cô gái xuống bờ bên kia vũng bùn rồi,
sao sư đệ vẫn còn bế cô ấy theo vậy?"
(Thiền
Thuyết)
Thản
Sơn bế cô gái qua vũng bùn nhưng lòng không dục vọng. Ông
hành động tức khắc và không chấp trước. Người có dục
vọng chính là vị tiểu hòa thượng vậy.
229. Trở lại đời thường.
Một
ông tăng hỏi Hoa Nghiêm:
-
Một bậc giác ngộ trở lại đời thường như thế nào?
-
Gương vỡ không bao giờ lành, hoa rụng chẳng thể trở lại
cành."
(Zen
Koans)
Sống
thiền không có "nếu" và "nhưng.” Sống thiền là sống ở
đây và ngay bây giờ. Nhiều người sống trong thế giới "nếu",
chỉ giả thiết chứ không làm. Nếu việc không thành, nếu
tôi bị đau, nếu tôi chết... Những người "nếu" luôn luôn
tìm một lý do nào đó để tự bào chữa trong thế giới "nhưng.”
Tôi muốn làm nhưng... Tôi muốn gập anh nhưng...
Ông
tăng trong công án này hỏi một bậc giác ngộ trở lại đời
thường thì phản ứng như thế nào? Vì vậy, ông đã vượt
lên kinh nghiệm của ông và tưởng tượng trong thế giới
của "nếu", thay vì ông chịu khó tu tập để giác ngộ lúc
đó ông sẽ hiểu câu trả lời.
Câu
trả lời của Hoa Nghiêm sẽ bị hiểu lầm nếu ta không hiểu
rằng Đức Phật hay bậc giác ngộ nào cũng sống đời sống
thường này với người thường chúng ta. Đối với bậc bồ
tát đời sống thường này là đời sống giác ngộ; thế
giới Ta Bà chính là Niết Bàn, gương vỡ và hoa rụng đều
có vị trí của nó.
230. Tánh Khí.
Một
thiền sinh phàn nàn với Bàn Khuê:
-
Bạch thầy, tánh khí của con thật bất trị, làm sao chữa
được?
-
Thế thì lạ thật, hãy đưa ta coi!
-
Bây giờ con không trình ra được.
-
Vậy khi nào?
-
Nó đến đi bất chợt.
-
Vậy thì nó không phải là bản chất của ngươi, nếu phải,
ngươi có thể đưa ta coi bất cứ lúc nào. Khi ngươi sanh ra
không có nó, nó không phải là ngươi.
(Zen
Koans)
Trong
thiền thường nói: "Cái gì ở ngoài tới không phải là cái
ta thật.” Nếu ta có thể bỏ qua những gì ở bên ngoài thì
ta có thể tự thanh tịnh.
231. Con rùa trong vườn.
Một
ông tăng thấy một con rùa trong vườn của thiền viện bèn
hỏi Đại Tùy:
-
Mọi chúng sinh đều có da bọc thịt xương, tại sao con rùa
này lại lấy xương bọc da và thịt?
Đại
Tùy tháo dép ra, che lên con rùa.
(Zen
Koans)
Ông
tăng còn chấp da, thịt, xương, trong, ngoài. Sự phân biệt
này còn có thể tiến xa đến tâm ở trong hay ngoài thân? Thái
độ này chỉ đưa đến bàn cãi và giảng giải. Đời sống
không phải vậy, nó là hữu cơ và sống động. Đại Tùy
dùng dép che con rùa là để chỉ cho ông tăng thấy sự hiểu
biết của ông chưa vượt qua hiện tượng giới.
232. Bữa cơm chiều của Đăng Sử.
Một
gia đình Phật tử mời Đăng Sử đến dự bữa cơm chiều.
Ông chủ nhà bưng ra một khay cỏ, để trước mặt thiền
sư. Đăng Sử để nắm đấm trên trán, và giơ ngón tay cái
lên giống như sừng bò. Ông chủ nhà bèn bưng khay cơm thường
ra. Về sau, có đạo hữu bảo Đăng Sử hãy giải thích lý
do hành động lạ lùng ấy. Đăng Sử trả lời: "Bồ Tát Quán
Thế Âm.”
(Zen
Koans)
Ngày xưa, sự thử thách giữa các thiền sinh rất là thông dụng. Ông chủ nhà có lẽ muốn thử Đăng Sử nên mang ra một khay cỏ thay vì một khay cơm. Đăng Sử không tức giận, không hỏi han, giảng giải, chỉ bắt chước một con bò. Ông chủ nhà còn làm gì được nữa ngoài việc bưng khay cơm ra? Đăng Sử bị thử thách và ông đã thắng dễ dàng. Về sau một đạo hữu hỏi Đăng Sử về ý nghĩa đích thực của chuyện này. Đăng Sử cũng vẫn không giải thích chỉ trả lời đơn giản "Bồ tát Quán Thế âm" (tượng trưng của lòng từ bi). Câu trả lời này không liên quan trực tiếp gì đến câu hỏi, giống như là kêu lên "Hôm nay trời đẹp quá! Thực tạ ơn trời!"
233. Sư tử con.
Một
hôm, Đức Sơn đang làm vườn, thấy một ông tăng đương
đi đến, bèn đóng cửa lại. Ông tăng gõ cửa, Đức Sơn
hỏi:
-
Ai đó?
Ông
tăng đáp:
-
Sư tử con."
Đức
Sơn mở cửa, ông tăng khom lưng lễ, Đức Sơn bèn cưỡi lên
lưng ông và nói:
-
Súc sanh! Từ đâu tới vậy?
(Zen
koans)
Tài
giỏi của một vị thầy là có khả năng lượng định sức
học của một thiền sinh. Mỗi thiền sinh đều có một trình
độ khác nhau, nên sự giáo huấn của thiền sư cũng phải
tùy theo trường hợp. Đức Sơn nổi tiếng là một vị thầy
bạo tợn. Ông tăng trong truyện này biết thế và đến để
thử Đức Sơn.
Câu
trả lời của ông tăng là một lời thách thức. Cho một con
sư tử con vào nhà là một việc nguy hiểm; nhưng Đức Sơn
vẫn mở cửa. Ông tăng khom lưng lễ, Đức Sơn bèn cưỡi
ngay lên lưng ông. Sự giáo huấn luôn thay đổi tùy theo trường
hợp, thời gian, địa điểm và con người.
234. Sau khi chết gập nhau ở đâu?
Đạo
Ngộ đến thăm Vân Nham đang ốm. Đạo Ngộ hỏi:
-
Ta sẽ gập ngươi ở đâu khi ngươi chết chỉ để lại xác?
Vân
Nham trả lời:
-
Ta sẽ gập ngươi ở chỗ không sanh, không tử.
Đạo
Ngộ phê bình:
-
Ngươi nên nói “không có chỗ không sanh, không tử, và chúng
ta cũng chẳng cần phải gập nhau.”
(Zen
Koans)
Có
nhiều người cùng ăn, cùng ngủ nhưng chẳng gập nhau thực
sự bao giờ. Đạo Ngộ và Vân Nham có thực sự gập nhau không?
Có nhiều người sống như những cái xác chết di động. Sự
gập gỡ thực sự trong đời là sự gập gỡ cuộc sống.
Trừ phi có hiểu biết chân chánh, còn không thì nghe mà không
thủng, nhìn mà không thấy. Nếu Đạo Ngộ và Vân Nham thực
sự giác ngộ thì vấn đáp thông thái trên không cần thiết.
Chỉ cần nắm lấy tay nhau là đã quá đủ rồi. Huyền Lộ
có một bài kệ về công án này như sau:
Cây
mận già nở hoa.
Cành
phía Nam có cả mùa Xuân
Cành
phía Bắc cũng vậy.
235. Kho báu nhà ngươi.
Huệ
Hải đến tham học Mã Tổ.
Mã
Tổ hỏi:
-
Ngươi tìm gì?
-
Giác ngộ!
-
Trong nhà ngươi có kho báu, sao tìm kiếm bên ngoài?
-
Kho báu của con ở đâu?
-
Cái mà ngươi hỏi, chính là kho báu của nhà ngươi.
Huệ
Hải nghe rồi đại ngộ.
(Zen
Koans)
Trong
thế giới vật chất tìm kiếm hạnh phúc và tự do là thường
tình, cũng như tìm kiếm tiền tài, danh vọng: đều là những
thứ ở bên ngoài. Thiền dậy trái lại: phải tìm vào trong.
Kho báu bên trong: Phật tánh luôn luôn mới mẻ, sống động
và vô giới hạn.
236. Câu nói của Thủ Sơn.
Một
lần, một ông tăng hỏi Thủ Sơn:
-
Có câu nói nào không đúng không sai không?
Thủ
Sơn trả lời:
-
Một đám mây trắng.
(Zen
Koans)
Ông tăng muốn Thủ Sơn diễn tả cốt tủy của Phật giáo: cái thế giới vô chấp vượt lên đúng, sai. Một đám mây trắng bay từ chỗ này đến chỗ khác, dọc theo một dặng núi vừa tự nhiên, thanh khiết, vô tội, vượt lên cả đúng sai. Nó đến rồi đi tự như.
237. Một ông tăng bị chối bỏ.
Một
ông tăng lại gần Tuyết Phong và lạy. Tuyết Phong đánh ông
5
gậy. Ông Tăng hỏi:
-
Con lỗi ở đâu?
Tuyết
Phong đánh thêm 5 gậy nữa và hét đuổi đi.
(Zen
Koans)
Giáo huấn của Thiền không dùng sách vở, vượt lên lời nói, lấy tâm truyền tâm. Thiền cũng dùng gậy và hét như công án và vấn đáp. Lâm Tế nổi tiếng về tiếng hét, Đức Sơn nổi tiếng về đánh bằng gậy. Ông tăng lạy Tuyết Phong để chào và tỏ ý kính trọng. Nhưng Tuyết Phong đánh ông 5 gậy. Dĩ nhiên ông tăng ngạc nhiên và hỏi tại sao? Kết quả là ông nhận thêm 5 gậy và thêm một tiếng hét. Nếu chào hỏi đến từ một người giác ngộ thì nó có một ý nghĩa sâu xa. Nhưng ông tăng này cũng như đa số chúng ta chỉ thực hành nghi thức một cách vô nghĩa. Con số lần bị đánh không có ý nghĩa gì. 5 gậy đầu còn nhẹ, 5 gậy sau đã sâu hơn, tiếng hét có ý hãy thức tỉnh mau!
238. Giải quyết vấn đề của một ông tăng.
Sau
buổi thượng đường, một ông tăng lại gập Dược Sơn và
thưa:
-
Con có một vấn đề, thỉnh thầy giải giùm.
-
Được, ta sẽ giải quyết cho ngươi vào buổi giảng chiều.
Khi
mọi người tụ tập ở giảng đường chiều hôm đó, Dược
Sơn nói:
-
Sáng nay ông tăng bảo ta có vấn đề hãy bước ra trước
ngay bây giờ!
Khi
ông tăng bước ra, thiền sư nắm chặt lấy ông và nói:
-
Chư tăng nhìn đây! Ông tăng này có vấn đề.
Nói
rồi đẩy ông tăng sang một bên và đi về phòng.
(Zen
Koans)
Cuộc đời để sống, chân lý thì cụ thể. Thiền phải tức khắc và trực tiếp vì thiền là đời sống. Một vấn đề mà có thể chờ cả một ngày để giải quyết thì khó có thể gọi là vấn đề. Bạn có thể chờ một ngày khi đầu bạn đang bị dìm dưới nước không? Buổi giảng chiều của Dược Sơn quả là một màn kịch.
239. Tâm không phải là Phật.
Nam
Tuyền nói :
-
Tâm không phải là Phật, Trí không phải là Đạo.
(Zen
Koans)
Nam Tuyền là đệ tử của Mã Tổ. Mã Tổ dậy "tức tâm, tức Phật.” Câu trả lời nổi tiếng, phổ biến cho câu hỏi "Phật là gì?" Khái niệm hóa Phật mà không có kinh nghiệm sống là điều tệ hại nhất trong Thiền học. Để phá cái chấp này Nam Tuyền nói: "Tâm không phải là Phật, Trí không phải là Đạo."
240. Tượng Phật Quán Thế Âm.
Có
một lần dân chúng Đại Hàn nhờ một nhà điêu khắc Trung
Hoa tạc một pho tượng Quán Thế Âm bồ tát. Bức tượng
hoàn tất và được mang đến hải cảng để chở về Đại
Hàn. Bỗng nhiên pho tượng trở nên nặng một cách khác thường,
sức người không làm sao mà di chuyển được. Dân Đại Hàn
và Trung Hoa họp nhau thương lượng và quyết định để pho
tượng lại Trung Hoa.
Sau
đó, pho tượng trở lại sức nặng bình thường và được
thờ ở một ngôi chùa ở Minh Châu. Một người đến chiêm
ngưỡng bức tượng và nói: "Trong kinh có nói bồ tát Quán
Thế Âm có huyền năng có thể thị hiện ở bất cứ đâu,
sao pho tượng này lại không chịu đi Đại Hàn?"
(Zen
Koans)
Bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho lòng từ bi, pho tượng này không ở Trung Hoa, Đại Hàn hay Hiệp Chủng Quốc. Nếu tâm từ bi rộng mở thì pho tượng ở bất cứ đâu. Kẻ nào đi tìm Quán Thế Âm ở Trung Hoa nhất định sẽ trở về tay không.
241. Am cỏ của Nam Tuyền.
Một
hôm, khi Nam Tuyền đang sống trong một am cỏ trên núi, một
ông tăng lạ đến thăm gập lúc Nam Tuyền ra đồng làm việc.
Nam Tuyền chào hỏi ông tăng và nói:
-
Xin cứ tự nhiên như ở nhà, nấu nướng tùy thích, đồ ăn
dư xin đem lại chỗ ta làm việc.
Nam
Tuyền làm việc chăm chỉ đến chiều, trở về am trong bụng
đói meo. Ông tăng đã nấu cơm, ăn xong vứt mọi thực phẩm
dự trữ, đập vỡ nồi niêu!
Nam
Tuyền thấy ông bình thản nằm ngủ trong am trống. Khi Nam
Tuyền ngả thân thể mệt nhọc xuống cạnh ông, ông chỗi
dậy và đi mất.
Sau
nhiều năm Nam Tuyền kể chuyện này cho đại chúng nghe và
nói:
-
Thật là một ông tăng tốt! Đến nay ta vẫn còn nhớ.
(Zen
Koans)
Thiền sư sống một đời giản dị, yên tĩnh và tự do. Khi Nam Tuyền sống trong một am cỏ trên núi, một ông tăng lạ đến thử thách ông. Ngay cả đến tự do cũng không còn là tự do nếu ta bị ràng buộc vào nó. Thật dễ dàng thoát khỏi những vụn vặt của đời sống con người. Nhưng nếu không biết nó chúng ta có thể bị chấp vào pháp, niết bàn, nghèo và những dạng thức khác của "những cái thiện.” Ông tăng lạ nấu ăn, ngủ như là am của mình, không kiểu cách, không giả đò. Cả thế giới thuộc về ông. Ông đập vỡ mọi nồi niêu - những dụng cụ của thiền, niết bàn, nghèo khổ - Nam Tuyền thực sự hiểu cái thế giới vô chấp nên không bao giờ quên ông tăng lạ đó.
242. Trước thời Đức Phật.
Một
hôm, Nam Tuyền chậm vào phòng ăn. Hoàng Bá đệ tử của ông
bèn ngồi vào chỗ của thầy. Nam Tuyền nói:
-
Chỗ này dành cho người lớn tuổi nhất trong thiền viện,
còn
ngươi
bao nhiêu tuổi?
-
Tuổi con đi ngược lại thời trước Đức Phật.
-
Vậy ngươi là cháu ta, mau lui xuống.
Hoàng
Bá trả chỗ nhưng vẫn ngồi bên cạnh thầy.
(Zen
Koans)
Công án này cho chúng ta thấy trong thiền viện chư tăng luôn thử thách nhau. Luôn luôn tỉnh thức, họ mài giũa trí huệ cho hoàn mỹ. Nam Tuyền hỏi tuổi của Hoàng Bá không phải là hỏi tuổi thật, nhưng là hỏi trình độ của Hoàng Bá đến đâu. Hoàng Bá trả lời chỉ "thời không thời", là tuyệt đối. Thiền là phải vượt lên mọi đối đãi, độc lập, tự do.
243. Phật đá.
Lục
Hằng bạch với Nam Tuyền:
-
Trong nhà con có một tảng đá để đứng hoặc nằm, con định
tạc thành tượng Phật được không?
-
Được.
Lục
Hằng hỏi gạn:
-
Con làm được thật sao?
-
Không! Ngươi không làm được.
(Zen
Koans)
Tảng đá chính là Lục Hằng. Ông hỏi Nam Tuyền mình có thể thành Phật không? Nam Tuyền lập tức trả lời được. Nhưng Lục Hằng còn nghi ngờ. Vì vậy Nam Tuyền bèn trả lời là không được. Thiền không suy luận nhưng hành động.
244. Làm sao thấy Phật Tánh?
Một
ông tăng hỏi Tuyết Phong:
-
Một vị La Hán thấy Phật tánh như nhìn trăng ban đêm, một
vị bồ tát thấy Phật tánh như mặt trời lúc ban ngày, còn
thiền sư thì sao?
Để
trả lời Tuyết Phong đánh ông 3 gậy. Ông tăng đến hỏi
Nham Đầu cùng câu hỏi. Nham Đầu tát ông 3 cái.
(Zen
Koans)
La
Hán chỉ tự độ, bồ tát tự độ rồi độ tha. Ông tăng
trong công án này chỉ hỏi người khác thay vì tu tập để
tự thấy Phật tánh.
Đương
nhiên là phải đánh cho ông thức tỉnh.
245. Tâm này là Phật.
Đại
Mai hỏi Mã Tổ:
-
Phật là gì?
-
Chính tâm này là Phật.
(Zen
Koans)
Câu trả lời cho câu hỏi đơn giản này có thể là bất cứ cái gì. Quan trọng là không chấp vào lời, nhưng hiểu rõ lời chỉ về đâu. Mọi người đều đã có tiên kiến rằng Phật là hoàn toàn, cao quý, thánh thiện, giác ngộ. Nhưng Phật không phải là một đấng Thượng Đế, tách rời ra khỏi đời thường. Phật tánh thì thanh tịnh nhưng đồng thời hiển hiện ở mọi vật kể cả những vật ô uế, tầm thường.
246. Cây bách trước sân.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Cây bách trước sân.
(Zen
Koans)
Bồ
Đề Đạt Ma mang thiền đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ 6.
Do đó, câu hỏi có nghĩa là "Thiền là gì?" Triệu Châu đã
cho một câu trả lời hay "Cây bách trước sân.”
Thực
ra trong Triệu Châu lục còn một đọan nữa như sau:
-
Xin thầy đừng dùng cảnh mà thuyết minh.
-
Ta không dùng cảnh chỉ người.
-
Ý tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Cây bách trước sân.
Cây
bách là một loại cây phổ thông trồng rất nhiều ở Triệu
Châu (Hà Bắc). Cây to lớn, cho bóng mát vào mùa hạ. Các chùa đều thích trồng loại cây này. Ông tăng cho rằng
đã bị cảnh chuyển, nhưng Triệu Châu đã phủ nhận. Ông
tăng hỏi ý của tổ sư từ Tây sang là gì? Là hỏi cốt tủy
của Phật giáo là gì? Hay đạo là gì? Triệu Châu thấy
cây bách ngay trước mắt nên nói là cây bách; giả sử ông
trông thấy chim bay ngang trời thì ông sẽ nói là chim bay trên
trời. Quả thực là ông đề cập tới cây bách nhưng
ông chỉ dùng nó để chỉ về đạo. Ông tăng liền chấp
vào cây bách nên đã không thể tiến lên được. Đạo ở
cây bách, đạo cũng ở trong mọi vật.
(John
C. H. Wu)
247. Thổ thần báo mộng.
Nam
Tuyền đến một thôn trang, trang chủ ra tiếp đón.
Nam
Tuyền hỏi:
-
Sao biết lão nạp tới?
Trang
chủ đáp:
-
Vì nằm mộng thấy thần thổ địa mách bảo.
Nam
Tuyền nói:
-
Vì ta công phu chưa tới chỗ, nên bị quỷ thần nhìn thấy.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Vô tâm là Đạo, mọi cảnh giới tồn tại đều không phải là tự tánh vì cảnh giới chướng ngại tự tánh. Kinh Kim Cương nói "Nếu lấy sắc nhìn ta, lấy âm thanh cầu ta, đó là dùng tà đạo, không thể thấy Như Lai." Huệ Hải nói "Tánh vô hình tướng, tùy Dụng lập danh.” Do hình tượng mà cầu, cái mà ta thấy là Dụng chứ không phải là Thể.
248. Bàn tay của Nhật Trí Mặc Tiên.
Nhật
Trí Mặc Tiên sống trong một ngôi chùa ở Đơn Ba. Một đệ
tử phàn nàn về tính keo kiệt của vợ anh ta. Nhật Trí Mặc
Tiên đến viếng vợ anh và giơ nắm đấm trước mặt bà.
Người đàn bà ngạc nhiên hỏi:
-
Ý thầy là gì?
-
Nếu tay ta luôn luôn như thế này, ngươi gọi là gì?
-
Tàn tật.
Thiền
sư lại mở bàn tay ra:
-
Giả sử nó luôn luôn như thế này thì sao?
-
Cũng là tàn tật.
-
Nếu ngươi hiểu nhiều như thế, ngươi là một người vợ
tốt.
Nhật
Trí Mặc Tiên nói rồi bỏ đi. Sau cuộc thăm viếng đó, bà
vợ giúp chồng trong việc chi tiêu và dành dụm.
(Zen
Koans)
Người đàn bà đã nhận được gì trong cuộc thăm viếng này? Bà ta đã thấy được sự tàn tật của bà ta. Chúng ta nhanh chóng thấy sự tàn tật của kẻ khác mà thường quên đi sự tàn tật của chính mình.
249. Lăn quả bóng gỗ.
Một
hôm Tuyết Phong bắt đầu bài giảng cho đại chúng bằng cách
lăn một quả bóng gỗ trên bục. Huyền Sa nhặt quả bóng
để lại chỗ cũ.
(Zen
Koans)
Thường thường một hành động giản dị nhất, dễ dàng nhất lại có vẻ phức tạp nhất. Tuyết Phong lăn quả bóng gỗ trên bục, chư tăng nghĩ rằng hành động này phải có một ý nghĩ thâm sâu nào đó. Huyền Sa nhặt lên và để về chỗ cũ, ý nghĩa là gì? Nếu một người đánh rơi một vật gì đó, nhặt lên và để về chỗ cũ, nếu trời mưa đi vào trong nhà. Sự việc tự nhiên như thế. Khi có vấn đề, đừng chấp vào nó hãy quan sát và giải quyết trọn vẹn. Dưa hấu thì tròn, dưa gang thì dài; đó là bản chất của chúng. Ta không thể nói vòng tròn thì tốt hơn hình vuông. Tuyết Phong lăn bóng, Huyền Sa nhặt lên. Hành động đầu không có cuối. Hành động sau có cuối không có đầu. Không hành động nào có ý nghĩa hơn hành động nào.
250. Ba ngày.
Một
hôm Vân Môn dạy đại chúng:
-
Nếu các ngươi không gập một người 3 ngày thì đừng nghĩ
hắn vẫn là người đó, còn các ngươi thì sao?
Không
ai trả lời, do đó thiền sư tự đáp: "Một ngàn."
(Zen
Koans)
Ở đây Vân Môn đề cập đến vấn đề căn bản của Phật giáo. Mọi sự vật luôn thay đổi, không có gì là vĩnh viễn. Đời sống là một tiến trình trở thành. Mọi người đều luôn luôn thay đổi, dù họ nghĩ thế hay không. Mỗi ngày là một ngày mới. Ngay cả cá cũng không bơi trong cùng một dòng nước mỗi ngày. Dĩ nhiên 3 ngày có thể làm thành một người mới. Vân Môn tự trả lời 1000. Dĩ nhiên đây không chỉ con số 1000. Nó chỉ sự thay đổi nhiều lần liên tục, không đếm được. Có nghĩa là chúng ta chào đón mỗi ngày với một thái độ mới. Đừng chấp vào ngày hôm qua. Sống mỗi ngày một đời sống mới trọn vẹn.
251. Giấy trắng của Huyền Sa.
Huyền
Sa sai một ông tăng đưa một bức thư tới vị thầy già là
Tuyết Phong. Tuyết Phong tập họp đại chúng lại và mở lá
thư ra. Trong phong bì chỉ có ba tờ giấy trắng. Tuyết Phong
chìa ra cho chư tăng coi và hỏi:
- Các ngươi có hiểu không?
Vì
không có ai trả lời, thiền sư nói tiếp như đang đọc:
- Khi Xuân tới hoa nở; khi Hạ tới quả chín.
Khi
ông tăng trở về và kể lại mọi việc cho Huyền Sa nghe,
Huyền Sa nói:
-
Ông già đã lẫn rồi!
(Zen
Koans)
Huyền
Sa pháp tử của Tuyết Phong là một người đánh cá mù chữ
khi thế phát. Về sau ông trở thành một vị thiền sư lớn,
đủ lớn để phê bình thiền của thầy mình. Khi Huyền Sa
nghe thuật lại lời nói của Tuyết Phong, ông nói: "Thư của
ta tối giản tới chân tủy của thiền, ông thầy già của
ta đã bắt đầu lẫn rồi!"
252. Ba giới.
Một
ông tăng hỏi Nham Đầu :
-
Khi 3 giới đe dọa, con phải làm gì?
-
Ngồi xuống.
-
Con không hiểu.
-
Hãy nhấc quả núi đem đến đây ta sẽ bảo ngươi.
(Zen
Koans)
Ba
giới là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Ba giới không
tốt, xấu, đúng, sai. Chúng không đe dọa cũng không tư vị.
Ba giới hiện diện, sự vật tới, đi ngoài vòng kiềm tỏa
của ta. Mưa, gió, lạnh, nóng, gập gỡ, chia lìa, lớn lên,
già, chết. Đây là những Thực tại của đời sống và chúng
ta phải đối diện với chúng dù muốn hay không. Hãy để
ba giới đến và đi, hãy công nhận cái "không thể" như nhấc
một ngọn núi lên, và hãy là chính mình.
253. Phật là gì?
Một
ông tăng hỏi Trừng Thực:
-
Phật là gì?
-
Trương Tam, Lý Tứ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đó
là nói ai ai cũng là Phật, không có phân biệt phàm và thánh.
Vương Dương Minh nói: "Đầy đường đều là thánh nhân" là
cũng cùng ý này vậy.
254. Tiến, lui.
Pháp
Vân nói với tăng chúng rằng:
-
Nếu ngươi tiến một bước thì mất Đạo, lui một bước
thì mất Vật, không tiến không lui thì như hòn đá vô
tri.
Một
ông tăng hỏi:
-
Làm sao để không vô tri?
-
Xả bỏ chấp trước, hết sức mà làm.
Lại
hỏi:
-
Làm sao để không mất Đạo cũng không mất Vật?
-
Tiến một bước lại lui một bước.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tiến
là Hữu, lui là Không, nếu chỉ chấp một bên là không đúng.
Có tiến, có lui là lìa cả thiện, ác, vượt lên Thị Phi.
255. Cái này, cái kia.
Minh
Giác nói:
-
Cái này không đúng, cái kia không đúng, cái này, cái kia đều
không đúng.
Thiên
Y đứng bên cạnh định mở miệng nói. Minh Giác dùng gậy
đánh đuổi đi. Về sau Thiên Y gánh nước, đòn gánh bị gẫy,
thùng nước bị đổ. Bỗng nhiên khai ngộ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Lúc
trước, Thiên Y chấp vào khẳng định và phủ định nên không
tìm thấy đường ra. Minh Giác biết vậy bèn chỉ cho ông thấy
tất cả quan niệm của thức tâm đều không đúng. Thiên Y
được lão sư chỉ điểm, gia sức công phu, đến khi đòn
gánh gẫy, thùng nước đổ mới xúc động linh cơ. Đòn gánh
có 2 đầu, thùng nước cũng có 2 cái. Đều là cái này, cái
kia. Đòn gánh gẫy, 2 thùng nước đổ. Cái này, cái kia đều
không tồn tại, trở về thanh tịnh, vượt ra khỏi phạm vi
của khẳng định và phủ định, chính là tự tánh.
256. Không nói.
Tùng
Sơn cùng Bàng cư sĩ uống trà. Bàng cư sĩ nói:
-
Ai cũng có phần vì sao nói không được?
Tùng
Sơn đáp:
-
Vì ai ai cũng có nên nói không được.
Bàng
cư sĩ hỏi:
-
Thầy vì sao nói được?
-
Không thể không nói.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tự
tánh không có đối đãi. Nói mọi người đều có là có đối
đãi. Không nói thì hỗn nhiên một thể, không người không
đối đãi. Vốn không đối đãi, nói ra liền có đối đãi.
Vốn không thị phi, nói ra liền có thị phi. Thiền sư nói
được vì phải độ người không thể không nói. Ngón tay
trỏ mặt trăng, nhưng ngón tay không phải là mặt trăng. Nhưng
không thể không trỏ, vì vậy mới nói "không thể không nói.”
257. Một câu của La Hán.
Khi
La Hán thượng đường có một ông tăng hỏi:
-
Thế nào là một câu của La Hán?
-
Nếu ta nói cho ngươi nghe thì đã thành 2 câu rồi!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu
nói nào cũng có đối đãi, tuyệt đối không có cô lập.
Chẳng hạn 2 tay có 10 ngón. 10 là do 1 tích lũy mà thành. Không
có 1 thì cũng không có 10.
258. To, nhỏ.
Có
người xem bức họa trên tường hỏi Mãn thiền sư rằng:
-
Đã là cây tùng ngàn năm sao lại ở dưới mái nhà?
-
Hạt cải đựng núi Tu Di là sao?
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tâm
tùy hình tượng mà sinh, do đó có tướng to, nhỏ. Tâm không
hình tượng, thì tướng to, nhỏ cũng không.
259. Không tên.
Lục
tổ Huệ Năng có một lần nói với đại chúng rằng:
-
Ở đây, ta có một vật không đầu, không đuôi, không tên,
không lưng, không mặt, các ngươi có nhận biết không?
Thần
Hội thưa:
-
Đó chính là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của
Thần Hội.
-
Ta đã nói nó là Vô danh, ngươi còn nói là bản nguyên và
Phật tánh, về sau ngươi sẽ chỉ là một kẻ tông đồ trí
giải.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tự
tánh nếu rơi vào trí giải, liền biến thành đối tượng
của thức tâm. Đặc điểm của Thiền tông là "chẳng lập
văn tự, ngoài giáo truyền riêng.” Do đó, nếu dùng trí giải
thì không phù hợp với "chẳng lập văn tự.”
Hướng
cư sĩ đã từng nói: "Lấy không tên làm tên, do đó sanh thị
phi; lấy không lý làm lý do đó khởi tranh luận."
260. Không Pháp trao người.
Tuyết
Phong hỏi Đức Sơn:
-
Từ xưa chư thánh dùng pháp nào để dậy người?
-
Tông ta không lời nói, không có pháp nào cho người!
Tuyết
Phong do đó tỉnh ngộ. Về sau, có ông tăng hỏi Tuyết Phong
về truyện này:
-
Sư phụ được gì mà đi?
-
Ta đi tay không, về tay không!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu
nói của Đức Sơn diễn hết tác phong của con nhà Thiền "không
lời nói" vì Thiền không thể nói.
"Không
một pháp cho người" vì tự tánh ai ai cũng có, không người
nào không.
Thiền
sư chỉ có thể bảo người học tham cứu mà chứng ngộ chứ
không thể đem linh giác của mình mà phân chia cho học trò
được. Không trí, không đắc đó mới là thấy được tự
tánh. Do đó Tuyết Phong mới nói: "Ta đi tay không, về tay không."
261. Tâm.
Một
vị sư già viết chữ Tâm lên cửa và vách của căn lều mà
ông cư trú. Pháp Nhãn sửa ông: "Cửa phải viết chữ Môn,
vách phải viết chữ Bích."
Nhưng
Huyền Giác lại bàn rằng: "Cửa là cửa, vách là vách, không
cần phải viết chữ gì cả."
(Zen
Koans)
Trong
Phật giáo Tâm tông chủ trương vạn pháp do tâm tạo. Mọi
sự việc mà chúng ta thấy chỉ là hình bóng của chính tâm
ta. Vị sư già viết chữ Tâm, dán khắp nơi là để tự nhắc
nhở. Nhưng nếu ta chấp vào một cái gì, dù là chân lý đi
nữa thì nó sẽ trở thành một khái niệm, một gánh nặng,
Huyền Giác đã chỉ cho thấy cửa là cửa, vách là vách; nhìn,
hiểu, xử dụng chúng như chính tự thân chúng vậy.
262. Giáo huấn của La Hán.
Một
hôm La Hán tiếp một đệ tử của Bảo Phước, ông hỏi:
-
Thầy ngươi dậy thế nào?
-
Sư phụ con dậy con hãy nhắm mắt đừng nhìn việc xấu, hãy
bịt
tai đừng nghe tiếng xấu, không nghĩ và không khởi vọng niệm.
La
Hán nói:
-
Ta không bảo ngươi nhắm mắt, nhưng ngươi không nhìn, ta không
bảo ngươi bịt tai nhưng ngươi không nghe, ta không bảo ngươi
ngừng nghĩ nhưng ngươi không khởi một niệm nào cả.
(Zen
Koans)
Mục
đích giảng Thiền là giúp thiền sinh tìm thấy ý nghĩa đích
thực của cuộc sống (do đó đời sống sẽ trở nên bình
an, thanh thoát, vui tươi và đầy sáng tạo). Một vị thầy
thật luôn luôn tìm được bài học thích đáng cho học trò
mình.
Ông
tăng trong công án này mới tu hãy còn chấp vào nhìn, nghe,
nghĩ. Vì vậy, ông thầy đầu tiên cho ông bài học căn bản:
đừng chấp vào nhìn, nghe, nghĩ. Sự giảng dậy của La Hán
lại đi sâu hơn: phải mở con mắt Huệ. Thực tại không mầu,
không sắc. Hãy nhìn vạn vật như chính tự thân của chúng
nhưng không bị ràng buộc vào chúng.
263. Bài kệ của Phó Đại Sĩ
Phó
Đại Sĩ có một bài kệ nổi tiếng:
空
手 把 鋤 頭
Không
thủ bả sừ đầu
步
行 騎 水 牛
Bộ
hành kị thủy ngưu
人
從 橋 上 過
Nhân
tòng kiều thượng quá
橋
流 水 不 流
Kiều
lưu thủy bất lưu.
Tay không nắm cán mai
Đi bộ: lưng trâu ngồi
Theo cầu qua bến nước
Cầu trôi nước chẳng trôi.
(Trúc
Thiên dịch)
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu
1: tay không mà lại nắm cán mai, là siêu việt không hữu,
là không hữu bất nhị.
Câu
2: đi bộ mà lại cưỡi trâu, là siêu việt tự tha, là năng
sở bất nhị.
Câu
4: cầu trôi mà nước chẳng trôi là nói ngược là siêu việt
động tĩnh, là động tĩnh bất nhị.
Câu
1 và 2 chỉ không gian, câu 4 chỉ thời gian. Tóm lại cả bài
là siêu việt thời không.
264. Hai bài kệ củaThần Tú và Huệ Năng.
Ngũ
tổ sắp nhập diệt kêu môn hạ mỗi người làm một bài
kệ biểu hiện tâm đắc, ai đạt đạo sẽ được truyền
y bát. Thần Tú viết bài kệ của mình lên vách như sau:
身
是 菩 提 樹
Thân
thị bồ đề thụ
心
如 明 鏡 臺
Tâm
như minh kính đài
時
時 勤 拂 拭
Thời
thời cần phất thức
勿
使 惹 塵 埃
Vật
sử nhạ trần ai
Thân là bồ đề cội
Tâm như gương sáng đài
Giờ giờ siêng phủi quét
Chớ để nhuốm trần ai.
(Trúc
Thiên dịch)
Ngũ
tổ nhận định bài kệ chưa kiến tánh, chỉ mới tới ngoài
cửa Đạo chứ chưa vào được, nhưng người sau cứ thế
mà tu hành thì cũng tốt.
Huệ
Năng nghe người đọc bài kệ của Thần Tú bèn nói:
-
Hay thì hay thật nhưng chưa đạt.
Bèn
nhờ người viết bài kệ của mình bên cạnh:
菩
提 本 無 樹
Bồ
đề bổn vô thụ
明
鏡 亦 非 臺
Minh
kính diệc phi đài
本
來 無 一 物
Bổn
lai vô nhất vật
何
處 惹 塵 埃
Hà
xứ nhạ trần ai
Bồ đề vốn không cội
Gương sáng cũng không đài
Nguyên chẳng có một vật
Sao gọi phủi trần ai?
(Trúc
Thiên dịch)
Ngũ
tổ thấy bài kệ bèn lấy tay áo chùi đi nói:
-
Cũng chưa kiến tánh.
Rồi
thân đến chỗ Huệ Năng làm việc, ám thị Huệ Năng đến
canh ba thì đến phòng phương trượng và giảng kinh Kim Cương
cho Huệ Năng nghe. Đến câu: "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
thì Huệ Năng đại ngộ, than rằng: "Nào ngờ tự tánh vốn
không sinh diệt, dao động, tự thanh tịnh, đầy đủ, có thể
sanh vạn pháp!" Và được Ngũ tổ truyền y bát.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Bài
kệ của Thần Tú rõ ràng là chủ trương tiệm tu. Bài kệ
của Huệ Năng chấp không, có Thể không Dụng. Vì vậy Ngũ
tổ nói chưa kiến tánh, chỉ khi Ngũ tổ giảng kinh Kim Cương
đến câu " ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" thì mới thật
là đại ngộ.
"ưng
vô sở trụ" là không chấp Hữu.
"Nhi
sanh kỳ tâm" là không chấp Không.
Tâm
sanh mà không trụ là Thể Dụng bất nhị, tức tự tánh.
Chúng
tôi xin chép thêm lời giảng của thiền sư Huệ Minh về câu
kinh này để độc giả hiểu rõ hơn.
"Ưng
vô sở trụ" là Thể, "Nhi sanh kỳ tâm" là Dụng. Dụng không
lìa Thể, Thể không lìa Dụng, vì "ưng vô sở trụ" nên không
chấp có, lại "nhi sanh kỳ tâm" nên không rơi vào không. Vì
không trụ vào đâu nên đó chính là cảnh giới thực tướng,
vô tướng. Cổ Đức đã có câu "Một niệm không sanh,
toàn thể hiện." Nếu có sở trụ tức có sở cầu làm sao
thấy được tự tánh? Phật tử chúng ta trước phải y thể
sau đó khởi dụng. Thế nào là y thể? Đó là buông bỏ những
gì sở trụ, sở cầu. Vì bỏ tất cả nên vọng tâm tự diệt.
Khi vọng tâm diệt thì vô trụ chân tâm hiện tiền. Nếu ta
nương vào thực tướng, trụ vào chỗ không trụ thì đó là
y thể khởi dụng. Phật khác chúng sanh ở chỗ giác và không
giác, từ bi và không từ bi. Giác tức là tướng lìa tướng,
không trụ vào đâu nên thành Phật; không giác nên thấy
cảnh sanh tâm là có trụ, nên là chúng sanh. Từ bi là bình
đẳng coi vạn vật là một thể nên là Phật, không từ bi
là tham sân si tạo nhiều tội nghiệp nên là chúng sanh. Vậy
giác là Thể, từ bi là Dụng. Thể, Dụng không hai, đều là
một Tâm. Phật có 3 thân là Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân.
Câu "ưng vô sở trụ" là diễn tả Pháp Thân. Tại sao? Vì
không trụ vào đâu nên vượt lên cả không gian và thời gian,
sung mãn khắp hư không nên đó là Pháp Thân. "Nhi sanh kỳ tâm"
là diễn tả Báo Thân và Hóa Thân. Tại sao? Vì ác tâm thì
sanh ác báo, thiện tâm thì sanh thiện báo. Đó chính là Báo
Thân. Khi một niệm khởi thì biến hóa vô cùng, nghĩ tà thì
là Địa Ngục, nghĩ thiện thì là Niết Bàn. Đó là Hóa
Thân vậy. Hiểu được lý này chúng ta luôn luôn dụng công
tâm như hư không mà không tại Hư Không, độ tận cả nhưng
không trụ vào 1 tướng nào cả. Đó gọi là tùy duyên bất
biến, bất biến tùy duyên. Bất biến là "Vô sở trụ", tùy
duyên là "sanh kỳ tâm.” Nói tóm lại câu kinh này diễn tả
tự tánh, vì vậy Huệ Năng nghe rồi , đại ngộ.
265. Vạn Tượng.
Thượng
tọa Tử Phương đến thăm Văn Ích. Văn Ích hỏi:
-
Thế nào là trong vạn tượng riêng lộ thân?
Tử
Phương giơ phất tử lên. Văn Ích nói:
-
Ngươi hiểu thế sao được?
Tử
Phương nói:
-
Cổ nhân chẳng trừ vạn tượng.
-
Trong vạn tượng riêng lộ thân nói gì là trừ với chẳng
trừ?
Tử
Phương hoát nhiên đại ngộ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tử
Phương giơ phất tử lên là diễn ý độc lộ thân. Trong tâm
Tử Phương có phất tử là có hình tượng vì vậy Văn Ích
chẳng chịu. Tánh Thể vốn không hình tượng, vạn tượng
là do theo Dụng mà lập danh. Vì vậy Văn Ích mới hỏi "Vạn
tượng là gì " Tử Phương hiểu lầm là Văn Ích trừ vạn
tượng, nhưng vạn tượng chính là Pháp Thân không thể trừ
được. Chư pháp đều như, sóng tức là nước làm gì có
phân biệt giữa vạn tượng và Pháp Thân. Đó là bất nhị
pháp môn.
266. Đơn Hà Thiên Nhiên.
Đơn
Hà lúc thiếu thời, dám nói dám làm. Sau khi thọ giới với
Thạch Đầu bèn đến thăm Mã Tổ. Chưa gập mặt đã vào
tăng đường, cưỡi lên đầu tượng thánh tăng mà ngồi.
Đại chúng kinh ngạc, khi Mã Tổ vào tăng đường nói "Con
ta thiên nhiên."
Đơn
Hà lạy tạ nói:
-
Tạ ơn sư phụ đã cho pháp hiệu.
Do
đó có tên là Thiên Nhiên.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Lão
Tử nói: "Đạo pháp tự nhiên" còn Phật gia gọi là "Tự Tánh.”
Lời của Mã Tổ là khen cử động của Đơn Hà hợp với
Đại Tự Nhiên.
267. Tể tướng Bùi Hưu.
Tể
tướng nhà Đường là Bùi Hưu hâm mộ thiền đạo của Hoàng
Bá, mời vào phủ, trú ở Khai Nguyên Tự. Một hôm, Bùi Hưu
viết một chương về những kiến giải của mình trình lên
thiền sư. Thiền sư cầm lấy để ở chỗ ngồi, không đọc
qua. Một lúc, hỏi:
-
Ngươi hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Nếu hiểu được còn khá một chút, còn nếu căn cứ vào
giấy, mực thì không phải là tông ta.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Thiền
sư chỉ bảo chúng ta tự tham, tự ngộ, không được dùng
tri kiến mà suy luận, dùng thức tâm mà tìm đường ra, càng
vào sâu càng mê man.
Có
thể viết ra được, là tri kiến không phải là thiền.
268. Ăn trộm măng.
Triệu
Châu gập một bà già trên đường bèn hỏi bà đi đâu. Bà
già đáp:
-
Đi ăn trộm măng của Triệu Châu.
-
Nếu bỗng nhiên gập Triệu Châu thì phải làm sao?
Bà
già bèn tát cho Triệu Châu một tát.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Ăn
trộm là một hành vi bí mật, cũng để diễn ý "Không thể
nói được" đồng thời cũng là để khảo nghiệm Triệu Châu,
xem Triệu Châu đối đáp ra sao. Triệu Châu cũng là một tác
gia dĩ nhiên không chịu đáp bèn hỏi ngược lại. Bà già
nhanh tay, lẹ mắt bèn đánh cho một tát tai. Triệu Châu vẫn
không nói gì.
269. Cổ đức ở đâu?
Bùi
Hưu vào chùa thấy bức họa một vị cổ đức bèn hỏi chư
tăng:
-
Bức họa còn đây, cổ đức ở đâu?
Chư
tăng không đáp được. Khi Hoàng Bá ra, Bùi Hưu lại hỏi Hoàng
Bá cùng câu hỏi. Hoàng Bá gọi:
-
Bùi Hưu.
-
Dạ.
-
Là thế đó!
Bùi
Hưu hoát nhiên đại ngộ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
"Cổ
đức ở đâu?" là giới hạn tự tánh ở một khoảng không
gian và thời gian nhất định. Bùi Hưu hỏi là cổ đức, Hoàng
Bá chỉ Bùi Hưu là cổ đức, là chỉ đối với thời gian
không kim, cổ; đối với không gian không nhân, ngã. Tự tánh
vượt lên trên thời, không.
270. Tân Như Lai.
Có
một vị cư sĩ tán tụng Triệu Châu:
-
Thiền sư quả là một vị cổ Phật.
-
Ngươi cũng là một vị tân Như Lai.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Công
án này cũng tương tự như công án trên bất tất giải thích,
cũng còn một công án tương tự nữa chúng tôi cũng xin chép
ra luôn. Có một ông tăng hỏi:"Phật là gì?" Triệu Châu đáp:
"Còn ngươi là ai?"
271. Lạy chó.
Một
ông tăng đến tham học Thúy Nham, gập lúc thiền sư đi vắng,
bèn đến thăm chủ sự.
-
Đã tham kiến hòa thượng chưa? chủ sự hỏi.
Ông
tăng trả lời: "Chưa."
Chủ
sự chỉ một con chó nói rằng:
-
Muốn tham kiến hòa thượng, hãy lạy con chó này!
Ông
tăng không lời đáp được.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đương
thời, mắng Phật, mắng tổ rất thịnh hành không ai lấy
thế làm lạ. Ông tăng gập được sư đệ của Thúy Nham đã
học được chân lý Vật Ngã là một.
272. Không biết.
Văn
Ích đến tham học Địa Tạng. Địa Tạng hỏi:
-
Thượng tọa đi đâu?
-
Đi hành cước.
-
Hành cước để làm gì?
-
Không biết.
-
Không biết tối thân thiết.
Văn
Ích hoát nhiên khai ngộ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
"Không
biết" tức không phân biệt , mà không phân biệt chính là
tự tánh. Trong truyện Liêu Trai, khi đi thi khảo Thành Hoàng,
có vị thí sinh đã viết hai câu: "Có tâm làm thiện, tuy thiện
nhưng không thưởng. Vô tâm làm ác, tuy là ác nhưng không tội."
Có thể nói đã hiểu thiền rất sâu vậy.
273. Thần Tán.
Thần
Tán thiền sư thọ nghiệp ở Đại Trung Tự, sau đi hành cước,
gập được Mã Tổ mà khai ngộ. Sau đó sư trở về chùa cũ.
Một hôm thọ nghiệp sư đọc kinh trong phòng, có con ong chúi
đầu vào giấy dán ở cửa sổ để tìm lối ra. Sư bèn nói
bài kệ:
空
門 不 肯 出
Không
môn bất khẳng xuất
投
窗 也 大 癡
Đầu
song dã đại si
百
年 贊 故 紙
Bách
niên toàn cố chỉ
何
日 出 頭 時
Hà
nhật xuất đầu thì
Cửa không chẳng chịu ra
Quá ngu chui cửa sổ
Giấy cũ trăm năm dùi
Ngày nào dùi được phủng.
(Thích
Thanh Từ dịch)
Bổn
sư để kinh xuống hỏi:
-
Ngươi đi hành cước gập được người nào mà ta thấy ngươi
nói những lời lạ thường.
-
Con nhờ ơn Bá Trượng chỉ cho chỗ dứt, nay muốn đáp lại
ơn đức thầy.
Bổn
sư bèn bảo sư đến giờ trai nói pháp cho đại chúng nghe.
Sư lên tòa, đề xướng môn phong Bá Trượng:
-
Linh quang độc chiếu, vượt thoát căn trần, thể lộ chân
thường, chẳng nệ chữ nghĩa, tâm tánh chẳng nhiễm, vốn
tự viên thành, chỉ cần lìa vọng duyên tức là Phật.
Bổn
sư nghe rồi liền ngộ, bèn nói:
-
Không ngờ đến già lại được nghe việc tốt thế này.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tất
cả tri kiến đều là vọng duyên. Nếu lìa được vọng duyên
là trừ được tri kiến.
274. Xem hoa đào nở.
Linh
Vân Chí Cần thiền sư nhân xem hoa đào mà ngộ bèn làm bài
kệ:
三
十 年 來 尋 劍 客
Tam
thập niên lai tầm kiếm khách
幾
回 洛 葉 又 抽 枝
Cơ
hồi lạc diệp hựu trừu chi
自
從 一 見 桃 花 後
Tự
tòng nhất kiến đào hoa hậu
直
至 如 今 更 不 疑
Trực
chí như kim cánh bất nghi.
靈 雲 至 勤
Linh Vân Chí Cần
Ba chục năm qua tìm kiếm khách
Bao hồi lá rụng với cành trơ
Một lần từ thấy đào hoa đó
Cho đến bằng nay hết cả ngờ.
(Tuệ
Sĩ dịch)
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Trước
khi hoa đào nở là tĩnh, hoa nở là động, sau đó lại trở
về tĩnh. Như vậy là trong tĩnh có động, trong động có tĩnh.
Linh Vân Chí Cần xem hoa nở, từ trong động mà nhìn thấy
tĩnh, vượt lên Động Tĩnh đối đãi, do đó mà ngộ.
275. Đầu sào trăm trượng.
Thạch
Sương hỏi:
-
Người đã lên đến đầu gậy dài trăm trượng, làm sao có
thể bước tới nữa?
Trường
Sa Cảnh Sầm làm một bài kệ về công án này:
百
尺 竿 頭 坐 底 人
Bách
xích can đầu tọa để nhân
雖
然 得 入 未 為 真
Tuy
nhiên đắc nhập vị vi chân
百
尺 竿 頭 須 進 步
Bách
xích can đầu tu tiến bộ
十
方 世 界 現 全 身
Thập
phương thế giới hiện toàn thân
Gậy đầu nghìn thước chẳng lung lay
Dù đã lên đây, chưa thật đây
Chót gậy nghìn tầm còn bước nữa
Mười phương thế giới thiệt thân này.
(Tuệ Sĩ dịch)
(Zen
Koans)
Bất
cứ người nào cố gắng cũng có thể leo tới chót sào trăm
trượng, nhưng leo xa hơn thì theo lý không thể nào làm được.
Thiền sinh phải làm sao? Thiền sinh có thể hiểu ngộ là gì,
nhưng biết ngộ là gì không phải là thiền. Thiền là đời
sống, và đời sống thì vượt lên lý luận. Nếu thiền sinh
không để cả đời vào đó, thì sẽ không bao giờ đạt được.
Dùng lửa thử vàng, muốn bắt cọp con thì phải vào hang cọp.
Leo lên chót gậy, là giác ngộ, chưa đủ. Phải đi xa hơn
(mười phương), phải sống giác ngộ. Ta bà là Niết Bàn,
Niết Bàn là Ta Bà.
276. Vân Môn bị què.
Vân
Môn đến Mục Châu Trần Tôn Túc để tham học. Lần thứ
nhất không được vào cửa. Lần thứ hai cũng không được
vào cửa. Lần thứ ba thấy cửa hé mở, Vân Môn đưa chân
vào cửa để mở. Mục Châu đẩy ông ra và đóng nhanh cửa
lại, nhanh đến nỗi chân Vân Môn bị kẹt và gẫy. Do sự
đau đớn ấy Vân Môn hốt nhiên đại ngộ.
(Zen
Koans)
Ngày
xưa gẫy chân thường là bị què suốt đời. Nhưng đối với
Vân Môn tìm kiếm chân lý là việc sống chết, quan trọng
và giá trị hơn đời sống vật lý.
277. Chân Như.
Có
vị tam tạng hỏi Đại Châu thiền sư:
-
Chân như có biến dịch không?
-
Có biến dịch.
-
Thiền sư lầm rồi!
-
Tam tạng có chân như không?
-
Có.
-
Nếu không biến dịch, tam tạng nhất định là phàm tăng.
-
Vậy theo thầy, chân như có biến dịch.
-
Nếu chấp chân như có biến dịch thì là ngoại đạo.
-
Thầy vừa nói có biến dịch, giờ lại nói không biến dịch,
vậy thế nào mới đúng?
-
Nếu đã kiến tánh, như ma ni châu hiện sắc nói biến cũng
được, nói không biến cũng được. Nếu chưa kiến tánh nghe
nói biến dịch liền hiểu biến dịch, nghe nói không biến
dịch liền hiểu không biến dịch.
Thế
mới biết Nam Tông không lường được!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Thể
của chân như vốn không biến dịch, nhưng dụng thì không
lúc nào không biến dịch.
Chân
như bất biến mà tùy duyên nên nói: "Vốn tự đầy đủ,
có thể sanh vạn pháp.”
Chân
như tùy duyên nhưng không biến nên lại nói: "Vốn tự thanh
tịnh, vốn không sanh diệt, vốn không giao động."
Chân
là không giả, như là không biến.
Nhà
thiền trọng tùy duyên nên từ Dụng mà nói sợ người ta
chấp "Không"; có lúc lại từ Thể mà nói sợ người ta chấp
"Hữu.”
278. Tiếng vỗ của một bàn tay.
Mặc
Lôi đại sư nói với chú tiểu Đông Dương: "Ngươi có thể
nghe tiếng vỗ của 2 bàn tay, bây giờ hãy chỉ cho ta tiếng
vỗ của một bàn tay.”
(Zen
Koans).
Mặc
Lôi là vị trụ trì ở Kiến Nhân Tự, Kyoto. Đông Dương là
một chú tiểu mới 12 tuổi. Chú hãy còn quá nhỏ để học
tập công án như các thiền sinh lớn tuổi hơn. Nhưng chú vẫn
kiên trì nài nỉ và cuối cùng Mặc Lôi cho chú công án này.
"Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?"
Đông
Dương suy nghĩ miên man và chú trình cho thầy đủ mọi loại
tiếng: tiếng nước rơi róc rách, tiếng đàn của kỹ nữ,
tiếng gió rì rào, tiếng chim hót, tiếng dế, tiếng cào cào
và còn nhiều nữa. Chú tiếp tục trong nhiều tháng cho đến
khi cạn hết các loại tiếng, không thể nghĩ ra được tiếng
nào nữa. Chú tiểu Đông Dương tiến vào thiền định thực
sự và vượt lên mọi tiếng.
Chú
nói: “Tôi không thể gọi ra được một tiếng nào nữa.
Do đó tôi đạt tới "tiếng không tiếng.”
Tiếng
vỗ của một bàn tay to hơn tiếng vỗ của 2 bàn tay, nó rung
chuyển khắp thế giới.”
279. Gia đình Bàng Uẩn.
Gia
đình Bàng cư sĩ có 4 người: 2 vợ chồng, 1 con trai và một
con gái đều tập thiền. Ông có làm một bài kệ 4 câu:
有
男 不 婚
Hữu
nam bất hôn
有
女 不 嫁
Hữu
nữ bất giá
大
家 團 圓 頭
Đại
gia đoàn viên đầu
共
話 無 生 話
Cộng
thoại vô sinh thoại
Có trai không cưới
Có gái không gả
Cả nhà chung hội họp
Đồng bàn lời vô sanh.
(Thích
Thanh Từ dịch)
Đủ
thấy gia đình sống rất vui vẻ. Một hôm, ông bỗng nói :
難
難 難 十 石 油 蔴
Nan
nan nan thập thạch du ma
樹
上 攤
thụ
thượng than
-
Khó, khó, khó, mười tạ dầu mè trên cây vuốt.
Bà
vợ bèn đáp:
易
易 易 百 草 頭 上
Dị
dị dị bách thảo đầu thượng
西
來 意
Tây
lai ý
-
Dễ, dễ, dễ, trên đầu trăm cỏ, ý tổ sư.
Đứa
con gái là Linh Chiếu liền tiếp:
也
不 易 也 不 難 飢
Dã
bất dị dã bất nan cơ
來
吃 飯 困 來 眠
Lai
ngật phạn khốn lai miên
-
Cũng chẳng dễ, cũng chẳng khó, đói thì ăn, mệt thì ngủ.
Một
gia đình đáng yêu, sống trong bầu không khí thiền duyệt
ai nỡ buông bỏ? Nhưng mà họ không có một ý tham luyến nào,
nói đi là đi, tự do, tự tại. Trước tiên là Bàng cư sĩ
muốn đi, bèn bảo con gái:
-
Ta định nhập diệt vào chính ngọ.
Bèn
sai cô ra coi mặt trời lên tới đâu. Cô con gái quay lại thưa:
-
Đã gần chính ngọ rồi nhưng có nhật thực.
Ông
ra ngoài coi thì không có nhật thực gì cả. Khi trở vào phòng
thì thấy con gái ngồi ở chỗ của mình mà đã đi rồi. Ông
bèn cười nói:
-
Con gái ta thật lanh lợi!
Qua
7 ngày sau, Chân Mục Vu Công đến thăm bệnh, ông nằm gác
đầu trên gối Vu Công mà mất. Bà vợ thấy chồng và con
gái đều đi, bèn chạy ra đồng báo tin cho con trai. Con trai
nghe tin bố và em gái đều đi bèn đứng dựa vào cái bừa
mà hóa. Bà vợ nói:
-
Các ngươi đều vậy!
Rồi
lo việc chôn cất, về sau ra sao thì không rõ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Trong
công án này có nhiều tính cách truyền kỳ. Một vị cư sĩ
có thể chứng đạo đã là khó, lại còn làm cho cả gia đình
đều vượt lên sanh tử, thật không đơn giản. 2 vợ chồng
già thời gian tham ngộ hẳn lâu, nhưng cô con gái đang tuổi
thanh niên mà cũng đạt được cảnh giới ấy. Câu chuyện
này chứng minh 2 điều:
1-
Thiền là đốn chứ không tiệm.
2-
Thiền không phải cứ ngồi mà tham
280. Triệu Châu gập Hàn Sơn Tử.
Triệu
Châu đi lên núi Thiên Đài, trên đường gập Hàn Sơn Tử.
Nhìn thấy vết chân trâu, Hàn Sơn Tử bèn hỏi Triệu Châu:
-
Còn nhận biết trâu không?
-
Không biết.
Hàn
Sơn Tử chỉ vết chân trâu nói:
-
Đây là 500 vị La Hán lên chơi núi!
-
Nếu là La Hán sao lại làm trâu?
Hàn
Sơn Tử kêu:
-
Trời xanh! Trời Xanh!
Triệu
Châu ha hả cười lớn.
Hàn
Sơn Tử hỏi:
-
Ngươi làm gì vậy?
Triệu
Châu đáp:
-
Trời Xanh! Trời Xanh!
Hàn
Sơn Tử nói:
-
Tên oắt con này lại có tác phong người lớn!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông).
Hàn
Sơn Tử coi trâu là La Hán là vượt Phàm, Thánh, để khảo
nghiệm Triệu Châu. Triệu Châu không trả lời mà hỏi ngược
lại.
Trời
xanh là chỉ không, trâu và La Hán đều không có thể tánh,
do đó không có phân biệt phàm thánh.
Hàn
Sơn Tử dùng trời xanh để đáp Triệu Châu, Triệu Châu dùng
trời xanh để đáp lại. Cả hai người đều là tác gia, do
đó Hàn Sơn Tử khen ngợi Triệu Châu.
281. Sanh tử.
Có
ông tăng hỏi Khai Sơn:
-
Làm sao để thoát ly khỏi sự trói buộc của sanh tử?
Khai
Sơn đáp:
-
Ở đây không có sanh tử!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Qua tác phong của thiền sư, chúng ta thấy đối với nhà thiền sanh và tử chẳng có gì khác biệt.
282. Thượng thư Trần Tháo.
Có
một lần thượng thư Trần Tháo cùng thuộc hạ lên lầu.
Nhìn thấy một đám tăng đi ở dưới đường, một người
trong bọn nói:
-
Chắc họ là thiền tăng.
Trần
Tháo đáp:
-
Không phải!
Người
kia hỏi:
-
Sao biết là không phải?
-
Đợi họ đi qua sẽ biết!
Khi
chư tăng tới trước lầu, Trần Tháo gọi lớn:
-
Thượng tọa!
Chư
tăng đều ngẩng đầu lên. Trần Tháo nói:
-
Ta nói có sai đâu!
(Zen
Koans)
Câu chuyện này chứng tỏ phần lớn chúng ta phân biệt và phán đoán do bề ngoài. Ở đây câu chuyện xẩy ra trong một tự viện, không phải ở một công thự, do đó đối đáp đều thuần túy thiền. Trần Tháo không những là một vi quan to mà còn là một cư sĩ nổi tiếng. Bọn người tùy tùng đều là những viên chức thuộc cấp, và cũng mới học thiền. Trần Tháo thường giảng thiền cho họ. Khi một người tùy tùng trông thấy mấy người ở ngoài tự viện liền tự hỏi không biết họ có phải là thiền tăng không. Trần Tháo nói không phải. Đây là một dịp tốt để chỉ cho đám thuộc hạ cái tâm phân biệt của họ. Khi chư tăng đến gần, Trần Tháo gọi và dĩ nhiên là họ ngẩng đầu lên. Trước khi người thuộc hạ có thể nói:"Tôi đã chẳng nói thế sao?" thì Trần Tháo đã nói trước. Ông nhấn mạnh "không phải" đã nói. Cái "không phải" này không chỉ các ông tăng mà thôi mà chỉ tất cả mọi sự vật. Chân lý của sự vật, cốt tủy của con người không thể phán đoán bằng bề ngoài. Một chiếc áo không làm nên một thầy tu. Ta không thể nói con người tốt hơn con ngựa vì con người có thể nói. Cũng không thể nói con ngựa tốt hơn con chó. Mỗi con có một cuộc sống quý báu riêng. Mầu đỏ không tốt hơn mầu xanh, mỗi mầu có một giá trị riêng của nó. Câu nói không phải của Trần Tháo áp dụng cho mọi so sánh, phân biệt.
283. Kiếm vị của Võ Tạng.
Liễu
Sinh Hựu Thọ Lang là con của một kiếm khách trứ danh. Cha
ông từ ông vì ông không học được kiếm thuật. Ông tìm
vào Nhị Hoang Sơn để bái kiến kiếm khách Võ Tạng. Võ Tạng
cũng đồng ý với nhận xét của cha ông.
-
Ngươi muốn học kiếm thuật với ta sao? Nhưng ngươi không
thỏa mãn được những yêu cầu của ta!
-
Nếu con cố gắng học tập, phải bao lâu mới trở thành một
kiếm khách?
-
Cả đời còn lại của ngươi!
-
Con không thể chờ lâu như vậy. Chỉ cần thầy chịu dậy
con, con
nguyện
sẽ đạt tới mục đích. Nếu con làm một tên nô bộc trung
thành với thầy thì tốn bao lâu?
-
10 năm.
-
Cha con tuổi đã cao, không bao lâu con phải trông nom người,
nếu con càng cố gắng hơn nữa thì phải bao lâu?
-
30 năm.
-
Sao vậy! Mới đầu thầy nói 10 năm, giờ lại nói 30 năm.
Con không ngại cực khổ, chỉ muốn nhanh chóng học kiếm nghệ.
-
Nếu vậy thì phải 70 năm., dục tốc bất đạt.
-
Được, con chịu.
Liễu
Sinh Hựu Thọ Lang cuối cùng đã hiểu rằng mình thiếu nhẫn
nại. Ông được dậy rằng không được nói đến kiếm thuật,
cũng không được sờ đến cây kiếm. Thầy ông chỉ sai ông
thổi cơm, rửa bát, làm giường, quét sân, coi sóc vườn hoa,
không hề đề cập đến kiếm thuật. 3 năm trôi qua, ông vẫn
tiếp tục công việc khổ nhọc, mỗi khi nghĩ đến tương
lai ông không khỏi buồn bã, việc học kiếm vẫn chưa được
bắt đầu. Nhưng một hôm, Võ Tạng bước tới rất nhẹ từ
sau lưng ông và dùng kiếm gỗ đâm ông một kiếm. Hôm sau,
lúc ông đang bận thổi cơm, Võ Tạng lại nhân lúc bất ngờ
đâm ông một kiếm. Từ đó về sau, bất luận ngày đêm ông
đều phải đề phòng bị kiếm đâm. Một ngày 24 giờ không
thời khắc nào ông không thưởng thức phẩm vị lưỡi kiếm
của Võ Tạng. Cuối cùng ông trở thành một kiếm khách lừng
danh nhất nước.
(Zen
Koans)
Công án này chứng minh rằng con đường thiền học phải gồm: quyết tâm, kỷ luật, tỉnh thức, tự tín, trung thành và kính trọng thầy. Liễu Sinh Hựu Thọ Lang tiêu biểu cho tánh khí người ngày nay là muốn đạt được kết quả mau chóng. Trong thiền học phương tiện chánh là cứu cánh.
284. Độ rắn.
Thiền
sư Thần Chiếu nhân đốt rừng làm giẫy, thấy một con rắn
bèn lấy gậy đẩy vào trong lửa nói rằng:
-
Cái hình hài này không tự phóng xả, hãy vào trong đây mà
tử, như trong tối mà được đèn.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Nghe lời ông nói thì con rắn đã được ông siêu độ. Chuyện này cũng tương tự như Nam Tuyền chém mèo, nhưng động cơ không hoàn toàn giống nhau. (Xin xem công án số 1073) Nam Tuyền ngoài sự siêu độ cho con mèo còn phá chấp cho chư tăng. Nhưng cả hai người có một điểm tương đồng là đều chứng ngộ cảnh giới siêu việt sanh tử. Do đó, chúng ta đừng từ góc độ sát sanh mà phán đoán 2 sự việc trên, và cũng đừng tùy tiện mà bắt chước họ.
285. Không sợ chết.
Một
vị bác sĩ trẻ tên là Nam Điền nghe nói nếu học thiền
sẽ không sợ chết. Một hôm, ông dấu một con dao găm trong
áo và đến thăm thiền sư Nam Ẩn muốn thử xem thiền sư
có sợ chết hay không.
Khi
Nam Ẩn trông thấy Nam Điền liền nói:
-
A! chào bạn, lâu lắm không gập, bạn mạnh giỏi không?
Nam
Điền ngạc nhiên hỏi:
-
Chúng ta chưa hề gập mặt mà!
-
Đúng rồi! Ta lầm bạn với một y sĩ khác.
Với
sự khởi đầu như vậy, Nam Điền đã mất cơ hội khảo
nghiệm thiền sư. Do đó ông miễn cưỡng xin chỉ dậy về
thiền. Nam Ẩn nói:
-
Bạn là bác sĩ, hãy trị bệnh tốt cho bệnh nhân, đó là
thiền.
Bốn
lần hỏi đạo Nam Ẩn đều cho ông cùng một bài giảng. Nam
Điền phàn nàn rằng ông không tới nữa nếu cứ được giảng
dậy như thế. Vì vậy, Nam Ẩn nói:
-
Ta sẽ cho ông một công án.
Và
thiền sư cho ông công án chữ Vô của Triệu Châu. Nam Điền
tham công án này trong 2 năm nhưng Nam Ẩn vẫn nói chưa được.
Một năm rưỡi nữa trôi qua, tâm Nam Điền trở nên sáng suốt
và chữ "Vô" đã trở thành chân lý.
(Zen
Koans)
Nam Điền tiêu biểu cho những người trẻ bây giờ: tò mò, hoài nghi, thực tế. Ông đến để thử xem thiền sư có sợ chết hay không và kết quả là chính mình lại theo học thiền nhiều năm. Chỉ khi tâm Nam Điền đã trở nên sáng suốt và hiểu "vô" là "vô", ông không còn bận tâm đến sống chết nữa.
286. Chánh Đạo.
Trước
khi Quyền Xuyên mất, thiền sư Nhất Hưu đến thăm ông.
-
Có muốn ta dẫn đạo không?
-
Ta đến đây một mình và sẽ ra đi một mình, ông có thể
giúp gì cho ta?
-
Nếu ông nhận rằng có đến, đi thì đó là vọng tưởng,
để ta chỉ ông con đường không có đến, đi.
Với
lời chỉ đạo rõ ràng của Nhất Hưu, Quyền Xuyên mỉm cười
mà mất.
(Zen
Koans)
Nhất Hưu là một vị thiền sư nổi tiếng Nhật Bản, ông là con vua, và mẹ ông cũng là một thiền sinh. Trong công án này ông chỉ cho chúng ta cuộc sống vĩnh hằng của thiền không có đầu và cuối. Vì là vĩnh hằng nên không có đến, đi. Sống và chết chỉ là biểu hiện của đời sống vĩnh hằng. Đời sống không bao giờ chết. Chúng ta nói rằng chúng ta tới tới từ vĩnh hằng và trở về vĩnh hằng. Vĩnh hằng có nghĩa là ở đây và bây giờ. Vô thủy và vô chung đều ở đây. Mỗi giây phút là biểu hiện của vĩnh hằng. Có nhiều người lo lắng về cái chết! Sao Vậy? Chết cũng tự nhiên như sanh.
287. Cây, cỏ giác ngộ.
Một
hôm, một thiền sinh 50 tuổi hỏi Chân Quán:
-
Thiên Thai tông dậy rằng ngay cả cây, cỏ cũng sẽ giác ngộ.
Sao có thể thế được?
-
Bàn luận về cây cỏ có thể giác ngộ được có ích gì
chứ? Vấn đề là làm sao ngươi giác ngộ?
-
Con chưa bao giờ nghĩ thế.
(Zen
Koans)
Chân Quán sống dưới thời Liêm Thương ở Nhật Bản, ông theo học Thiên Thai tông trong 6 năm, sau đó học thiền 10 năm. Ông sang Trung Hoa và học thiền thêm 13 năm nữa. Khi trở về nước, nhiều người đến tham học với ông, nhưng ông ít tiếp khách và ít khi trả lời những câu hỏi của họ. Người hỏi trong công án này đã phô bầy cái sai lầm lớn của trí thức học và biện luận những gì không liên quan đến mình. Thiền luôn luôn chỉ vào trong. Thật thích thú khi một người giác ngộ, cây cỏ cũng giác ngộ nữa! Sự giác ngộ của cây cỏ thực ra là sự giác ngộ của chính chúng ta về cây cỏ.
288. Đại ý của Phật Pháp.
Một
ông tăng hỏi Huyền Sa:
-
Khi các vị cổ đức dậy pháp không lời bằng cách giơ thiền
trượng lên có phải là họ diễn tả đại ý của Phật pháp?
-
Không.
-
Vậy họ diễn tả cái gì?
Huyền
Sa giơ cây thiền trượng lên. Ông tăng hỏi:
-
Đại ý của Phật pháp là gì?
-
Đợi tới khi ngươi giác ngộ!
(Zen
Koans)
Mặc dầu chúng ta luôn giãi bầy đại ý của Phật pháp nhưng rất khó mà diễn tả nó. Giảng dậy chỉ là chỉ về chân lý, mỗi người phải tự thấy. Tuy nhiên, đa số chúng ta chấp vào khái niệm và tiên kiến thay vì nhìn sự vật như chính bản thân chúng. Ông tăng trong công án này chấp rằng giơ thiền trượng lên có thể diễn tả đại ý của Phật pháp. Huyền Sa muốn phá chấp này cho ông nên nói không.
289. Tụng kinh siêu độ.
Một
ông tăng phái Thiên Thai được mời tụng kinh siêu độ cho
vợ một người nông phu mới chết. Nông phu hỏi:
-
Thầy có nghĩ rằng vợ con được ích lợi gì trong pháp sự
này?
Ông
tăng đáp:
-
Không những bà nhà mà tất cả chúng sinh đều được ích
lợi.
Nông
phu phản đối:
-
Thầy nói tất cả chúng sinh, nhưng vợ con vốn yếu đuối
làm sao tranh được với những người khác. Xin thầy làm ơn
chỉ tụng riêng cho nàng thôi.
Ông
tăng giải thích rằng Phật tử phải coi chúng sinh bình đẳng
và do đó họ phải được hưởng pháp ích như nhau.
-
Giáo lý đó rất hay, nhưng con có một người hàng xóm đối
với con rất thô lỗ và khắc bạc, thầy có thể loại hắn
ra ngoài chúng sinh được không!
(Zen
Koans)
Chúng ta đều cười bác nông phu, nhưng chúng ta có khác gì bác ta đâu? Con người là loại chúng sinh ích kỷ nhất khi hãy còn ngã chấp.
290. Đi, về.
Một
ông tăng hỏi sư phụ:
-
Thầy nghĩ sao về một ông tăng rời tự viện và không bao
giờ trở lại?
-
Là một tên vô ơn.
-
Còn ông tăng rời tự viện và trở lại?
-
Là một người biết ơn.
(Zen
Koans)
Tự
viện là căn nhà tinh thần để tu đạo. Khi một ông tăng
vào tự viện là vì ông thầy nơi đó chứ không phải vì
tự viện. Pháp không sắc mầu vậy làm sao mà thấy và hiểu
được? Đó là nhờ cá tánh của thầy được gọi là
thiện tri thức. Khi một ông tăng ngộ nhờ gập thiện tri
thức. Ông và thầy là một trong pháp, do đó không có đi,
về. Thiền không có lễ tốt nghiệp.
291. Con trâu qua cửa.
Pháp
Diễn nói:
-
Con trâu qua cửa đầu, sừng và 4 chân đều qua, tại sao cái
đuôi lại không qua?
(Zen
Koans)
Con trâu tượng trưng cho nhục thể. Đầu, sừng và bốn chân đều qua là tượng trưng cho Thân, Khẩu, Ý bị ảnh hưởng của năm giác quan, cái đuôi tượng trưng cho Phật tánh không bị ảnh hưởng bởi mê vọng.
292. Lệch đường.
Một
ông tăng nói với Vân Môn:
-
Hào quang của Phật soi rọi cả vũ trụ...
Trước
khi ông dứt câu Vân Môn hỏi:
-
Ngươi đang đọc thơ người nào đó, phải không?
-
Phải.
-
Ngươi đã lệch đường rồi!
Về
sau, một vị thiền sư khác hỏi đệ tử:
-
Gã tăng đó đã đi lệch ở chỗ nào?
(Zen
Koans)
Khi một người nói thực và thành thật người đó chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Nhiều người thường nói "Họ nói" hay "người ta nói" thay vì "tôi nói.” Thiền giống như đời sống luôn luôn tức khắc và trực tiếp. Thiền gạt bỏ vòng vo vì cuộc đời không có thặng dư, không thể phí phạm.
293. Nghe gà gáy.
Trần
Đề Hình vào núi tham học, Pháp Diễn hỏi:
-
Lúc nhỏ Đề Hình có đọc qua thơ Tiểu Diễm không? Tôi nhớ có hai câu:
頻
呼 小 玉 元 無 事
Tần
hô tiểu ngọc nguyên vô sự
只
要 檀 郎 認 得 聲
Chỉ
yêu đàn lang nhận đắc thanh.
"Cô nàng gọi mãi những vô ích
Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi.”
(Tuệ
Sĩ dịch)
Đề
Hình ứng tiếng "Dạ!" Tổ nói: "Phải xét cho kỹ!"
Viên
Ngộ từ ngoài về đứng hầu một bên hỏi:
-
Nghe sư phụ đọc thơ Tiểu Diễm, Đề Hình có hiểu không?
-
Ông ta chỉ nhận được tiếng: "Chỉ thằng tốt mã nghe ra
thôi.”
-
Nếu Đề Hình nhận được tiếng thì ông sai ở chỗ nào?
Tổ
nói:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang? là cây bách trước sân.
Viên
Ngộ có chút tỉnh ngộ, bèn ra ngoài, bỗng nhiên thấy một
con gà bay lên hàng dậu, vỗ cánh gáy, bèn tự nhủ: "Đây
chẳng là tiếng sao?" bèn vào thất làm bài kệ tỏ ngộ cảnh
của mình trình lên tổ:
金
鴨 香 消 錦 繡 幃
Kim
áp hương tiêu cẩm tú vi
笙
歌 叢 裏 醉 扶 歸
Sanh
ca tùng lý túy phù quy
少
年 一 段 風 流 事
Thiếu
niên nhất đoạn phong lưu sự
只
許 佳 人 獨 自 知
Chỉ
hứa giai nhân độc tự tri
昭 覺 克 勤
Chiêu Giác Khắc Cần
Ngỗng vàng màn gấm hết hương rồi
Say giữa đàn ca, đỡ dậy thôi
Một đoạn phong tình qua tuổi trẻ
Đành riêng người đẹp nhận ra ngươi.
(Tuệ
Sĩ dịch)
Pháp
Diễn nói: " Đó là việc lớn của Phật, Tổ bọn căn nhỏ
lực kém không thể làm được. Ta chỉ giúp vui cho ngươi thôi."
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông).
Trong thơ Tiểu Diễm, theo ngữ khí thì mục đích chỉ là cần nhận ra tiếng, nhưng theo bản ý thì nhận tiếng chưa đủ mà là muốn nhận tâm của người phát ra tiếng đó, do nhận tiếng mà vào thẳng nguồn tâm.
294. Quả linh.
Vân
Môn có lần trú ở Linh Thụ Viện. Một sáng kia, có một viên
quan đến thăm và hỏi:
-
Quả linh của thầy bây giờ đã chín chưa?
-
Chúng chưa hề xanh bao giờ.
(Zen
Koans)
Ý của ông quan là Thiền pháp của Vân Môn đã chín mùi chưa? Vân Môn đơn giản đáp " Quả pháp luôn luôn chín mùi và chưa hề xanh bao giờ.” Quả pháp chính là tự tánh, là cốt tủy của thực tại, là cái vượt lên thời và không gian. Nó đã chín từ vô thủy. Kích thước của nó làm còi vũ trụ. Nó cứng như cục sắt và không có hàm răng người nào có thể cắn. Chỉ có hàm răng pháp mới có thể cắn và nếm vị ngọt của quả pháp này.
295. Cột gỗ, lò lửa.
Một
ông tăng hỏi Pháp Chân:
-
Thiền sư trăm năm rồi, pháp truyền cho ai?
-
Cột gỗ, lò lửa.
-
Còn tiếp thụ không?
-
Lò lửa, cột gỗ.
(Thiền
Cơ)
Tự tánh không đâu không có; cột gỗ, lò lửa đều là tự tánh hiện thành.
296. Thương lượng.
Tuyết
Phong hỏi Huệ Toàn:
-
Ngươi được chỗ vào phải làm sao?
-
Cùng thiền sư thương lượng.
-
Thương lượng ở đâu?
-
Ở nơi đến, đi.
-
Ngươi được chỗ vào phải làm sao?
Huệ Toàn không đáp được, thiền sư liền quơ gậy đánh.
(Thiền
Cơ)
Ông tăng đã được chỗ vào còn thương lượng với thiền sư hay nên tự thương lượng?
297. Bài ca chăn trâu.
Nam
Tuyền nói với Hy Vận:
-
Lão tăng hát bài ca chăn trâu, thỉnh hòa thượng cùng hát.
-
Ta tự có thầy.
Hy
Vận đáp rồi từ biệt mà đi. Nam Tuyền tiễn ra đến cửa
đưa lời nhận xét:
-
Hòa thượng thân thể to lớn sao cái nón lại nhỏ vậy?
-
Tuy là vậy, nhưng đại thiên thế giới đều ở trong đó.
(Thiền
Cơ)
Ta tự có thầy là ta tự biết kiến tánh. Nón để đội che mưa, nắng; bên ngoài nhiễm bụi trần, bên trong là tự tánh: đại thiên thế giới đều ở trong tự tánh.
298. Pháp đường tốt.
Một
ông tăng vào pháp đường nhìn Đông, nhìn Tây không thấy
thiền sư bèn nói:
-
Thật là pháp đường tốt, chỉ phải cái là không người.
Đại
An từ cửa sau bước vào hỏi:
-
Làm cái gì?
Lúc
đó, ông tăng không sao đáp được.
(Thiền
Cơ)
Pháp đường chỉ tự tánh.
299. Vách núi vạn trượng.
Tào
Sơn hỏi Đại Diên:
-
Có một người từ vách núi vạn trượng nhẩy xuống, đó
là người nào vậy?
-
Không tồn tại.
-
Cái gì không tồn tại?
-
Cái ném mà chẳng vỡ.
(Thiền
Cơ)
Một người chỉ tự tánh. Không tồn tại là chỉ mắt thịt nhìn không thấy.
300. Cái hồ của Dược Sơn.Dược Sơn hỏi một ông tăng mới đến:
- Người từ đâu lại?
- Từ Nam Hồ lại.
- Hồ có đầy không?
- Chưa.
- Sao mưa nhiều như vậy mà hồ vẫn chưa đầy?
Ông tăng lặng yên không đáp.
(Zen Koans)
Khi một ông tăng tới thiền viện, câu đầu tiên ông bị hỏi thường là từ đâu tới, có nghĩa là ngươi học thiền với ai. Ở đây hồ không chỉ cái cái hồ địa lý mà chỉ tâm ông tăng. Câu trả lời của ông tăng cho thấy ông quá đơn giản (ít hiểu thiền). Dược Sơn dồn ông: Sao mưa nhiều như thế mà hồ vẫn chưa đầy? Hàng ngày chúng ta được thấm nhuần mưa pháp, sao hồ vẫn chưa đầy?
301. Sống một mình trên đỉnh núi.
Một
ông tăng hỏi Vân Cư:
-
Có thể lánh cư trên đỉnh núi không?
-
Sao ngươi lại bỏ tọa thiền ở thung lũng mà trèo lên đỉnh
núi
vậy?
(Zen
Koans)
Công án này thích hợp cho chư tăng cũng như cho người trong xã hội hiện tại. Nếu tôi lánh cư thì sẽ thế nào? Sẽ không có ai làm phiền tôi, mọi sự sẽ êm ả và thanh tịnh. Nhiều người muốn trốn chạy. Vân Cư trả lời rằng vấn đề là ở tâm ngươi bất an. Thiền ở thung lũng tức là thiền ở đỉnh núi. Nhiều người nghĩ rằng thiên đường hay hạnh phúc là ở một nơi nào đó. Nhiều người nghĩ rằng tập thiền là một phương cách có một đời sống khác với cuộc sống hiện tại. Nhưng trở thành tốt không có nghĩa là dẹp bỏ những điều xấu đi, mà là những điều xấu đã trở thành tốt. Khó nhọc và khó khăn làm chúng ta nhận chân được giá trị của cuộc đời. Càng nhiều nước đá thì có nhiều nước; càng nhiều khó khăn thì đời càng đáng sống. Nhưng người ta vẫn còn nghĩ rằng nơi chốn và hoàn cảnh là nguyên nhân của khó khăn. Nếu có tâm và thái độ như thế thì bất cứ đi đâu cũng sẽ gập khó khăn.
302. Sen xanh.
Một
ông tăng hỏi Phổ Nguyện:
-
Phải chăng sen xanh không theo gió lửa mà tiêu tán chăng?
-
Không có gió lửa, chẳng theo cái gì?
(Thiền
Cơ)
Sen xanh chỉ tự tánh, Nhà Phật nói thân thể con người do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) mà thành. Ông tăng hỏi có phải tự tánh không theo thân thể mà tiêu tán chăng? Thiền sư hỏi ngược lại, ám chỉ ông tăng phải vứt bỏ thân thể thì sen xanh tự nhiên dõng hiện.
303. Chúa động.
Khi
đi chơi núi, thấy tảng đá một ông tăng hỏi Động Sơn
:
-
Tảng đá này có chủ nhân không?
-
Có
-
Là ai?
-
Ngươi ở trong tam gia thôn tìm gì?
-
Vậy sao! Thế nào là chúa động?
-
Ngươi gấp làm gì?
(Thiền
Cơ)
Chúa động chỉ tự tánh.
304. Báu trong nang.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là báu trong túi?
-
Vừa miệng
(Thiền
Cơ)
Báu trong túi chỉ tự tánh; tự tánh ai cũng có như người ta ai cũng có một cái mồm.
305. Bửa củi.
Đạo
Khuông hỏi một ông tăng:
-
Ngươi vừa ở đâu lại?
-
Vừa bửa củi xong.
-
Còn có củi chưa bửa không?
-
Có.
-
Củi chưa bửa là gì?
Ông
tăng không đáp được. Thiền sư nói:
-
Nếu ngươi không nói được hãy hỏi ta, ta sẽ đáp cho.
-
Củi chưa bửa là gì?
-
Thật biết lừa giết người!
(Thiền
Cơ)
Củi chưa bửa chỉ tự tánh.
306. Giáo lý tối thượng.
Tuyết
Phong hỏi Đức Sơn:
-
Con có thể chia sẻ giáo lý tối thượng mà chư tổ đã đạt
được không?
Đức
Sơn đánh cho một gậy mà rằng:
-
Ngươi nói cái gì?
Tuyết
Phong không hiểu, ngày hôm sau lại lặp lại câu hỏi. Đức
Sơn nói:
-
Thiền không có lời, cũng không có gì để cho.
Nham
Đầu nghe được chuyện này bèn nói:
-
Đức Sơn có xương sống bằng sắt, nhưng đã làm hỏng thiền
bằng những lời nói mềm.
(Zen
Koans)
Tuyết Phong là pháp tử của Đức Sơn. Đối thoại này xẩy ra khi Tuyết Phong hãy còn là một ông tăng trẻ. Cũng như những người khác ông nghĩ Niết Bàn, giáo lý tối thượng là một cái gì đó; do đó Đức Sơn đánh ông một gậy, nhưng ông vẫn chưa hiểu. Ngày hôm sau, ông hỏi lại. Đức Sơn đáp "Thiền không có lời" , Bồ Đề Đạt Ma " Ta không biết", Huệ Khả "không nắm được.” Thiền là đời sống, nếu dùng khái niệm thì nó chết. Khi Nham Đầu phê bình Đức Sơn làm hỏng thiền với những lời giảng giải, thì chính lời phê bình này cũng đã làm hỏng thiền vì lắm lời. Thiền phải tự thực chứng. Có phải công án này dễ hiểu không? Nếu đúng vậy thì chỉ là trí thức.
307. Cà sa trùm đầu.
Một
ông tăng vào phòng Triệu Châu để tham vấn. Và thấy
Triệu Châu lấy cà sa trùm đầu: ông tăng vội lui ra. Triệu
Châu
gọi
lại:
-
Đừng nói ta không tiếp ngươi.
(Zen
Koans)
Khi một thiền sinh vào phòng thầy để nhận sự hướng dẫn gọi là độc tham. Đối với thiền sinh đây quả là một sự đụng độ gay cấn và thường được đón chờ với hy vọng, sợ hãi hay tuyệt vọng. Trong công án này, ông tăng ngạc nhiên thấy thầy mình trùm đầu. Thầy bị lạnh? hay đang ngủ? Chấp vào sự mong đợi của mình, ông tăng thối lui. Nhưng Triệu Châu không ngủ. Mặc dầu một ngọn núi bị che bởi mây, nhưng ngọn núi vẫn ở đấy dù bị che hay không.
308. Cử động Thiền.
Một
nhân viên thư viện thấy một ông tăng ngồi thiền trong thư
viện rất lâu. Cuối cùng, người ấy hỏi ông tăng:
-
Sao thầy không đọc kinh?
-
Ta không biết đọc.
-
Sao thầy không hỏi người nào biết?
Ông
tăng đứng dậy, chắp hai tay vào ngực theo tư thế thiền,
cúi thấp mình xuống và lễ phép hỏi:
-
Thế này là gì?
Nhân
viên thư viện không trả lời được.
(Zen
Koans)
Nhân viên thư viện chấp vào ý tưởng và thường lệ: Kinh để đọc và thư viện là nơi để đọc, không phải để thiền. Nhưng đời sống không đơn giản như thế. Đức Phật để 6 năm để tìm giác ngộ. Triệu Châu để 6 năm để tìm ý nghĩa của chữ "Vô.” Lời thật không thể hỏi. Ông tăng làm một cử động thiền và hỏi "Thế này là gì?.” Nhân viên thư viện không trả lời được vì ông ta không hiểu Phật pháp không nhất thiết ở trong kinh điển.
309. Không thể nghĩ bàn.
Có
ông tăng hỏi Duy Khoan:
-
Con chó nhỏ có Phật Tánh không?
-
Có
-
Thầy có không?
-
Ta không có.
-
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tại sao riêng thầy
lại không có?
-
Ta không phải là tất cả chúng sanh.
-
Nếu không phải là chúng sanh thì là Phật sao?
-
Ta không phải là Phật.
-
Vậy thực ra là gì?
-
Cũng không phải là vật gì.
-
Có thể thấy, có thể nghĩ bàn không?
-
Không thể nghĩ bàn.
(Thiền
Cơ)
Phật tánh là cảnh giới tuyệt đối, không thể cảm giác, nắm bắt, nghĩ bàn; không là chúng sinh, không là Phật, không là vật.
310. Mời vào.
Cam
Chí thấy Tuyết Phong tới vội đóng cửa lại và nói:
-
Mời vào!
Tuyết
Phong đứng ngoài dậu tre giơ tay phất cà sa một cái, Cam Chí
lập tức mở cửa, vái lạy.
(Thiền
Cơ)
Cam Chí đóng cửa là có tâm phân biệt trong, ngoài. Tuyết Phong phất tay áo là chỉ đã vào trong. Cam Chí hiểu được điều này nên vội mở cửa vái lạy.
311. Lưỡi rơi xuống đất.
Một
ông tăng hỏi Nghiêu Sơn :
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Tiết trọng Đông trời rất lạnh.
-
Thế nào là chỗ thăm thẳm của thiền sư?
-
Đợi lưỡi ngươi rơi xuống đất ta sẽ bảo cho biết.
(Thiền
Cơ)
Đừng đi hỏi người ngoài, ý tổ sư, chỗ thăm thẳm đều chỉ tự tánh, phải tự mình thể hội.
312. Kim tre, dây gai.
Một
ông tăng hỏi Pháp Thường:
-
Thế nào là đại ý của Phật pháp?
-
Kim tre, dây gai.
(Thiền
Cơ)
Phật pháp ở đâu cũng có, tất cả đều hiện thành.
313. Nước không gân cốt.
Bàng
cư sĩ hỏi Đạo Nhất:
-
Nước không gân cốt sao mang được thuyền lớn?
-
Nơi đây không có nước, cũng không có thuyền nói gì đến
gân cốt?
(Thiền Cơ)
Nước chỉ bản thể giới, thuyền chỉ hiện tượng. Câu nói của Đạo Nhất không chấp cả bản thể lẫn hiện tượng.
314. Chẳng nghĩ.
Dược
Sơn nhắm mắt ngồi thiền, một ông tăng hỏi:
-
Thầy nghĩ gì vậy?
-
Nghĩ cái không thể nghĩ.
-
Làm sao nghĩ được cái không thể nghĩ?
-
Chẳng nghĩ.
(Thiền
Cơ)
Có nghĩ là có phân biệt vì vậy Dược Sơn mới nói chẳng nghĩ để đả phá cái chấp này cho ông tăng.
315. Vạn dậm không mây.
Một
ông tăng hỏi Thọ Chiểu:
-
Khi vạn dậm không mây thì làm sao?
-
Trời xanh cũng phải ăn gậy.
-
Sao lại trách trời?
-
Vì khi chúng ta cần mưa thì trời lại không mưa, và khi chúng
ta cần trời đẹp thì trời lại xấu.
(Zen
Koans)
Ông tăng chấp vào trạng thái tâm mà ông đạt được, có lẽ trong sáng như bầu trời không mây. Nhưng thiền sư đánh vào bất cứ gì cần phải đánh để thức tỉnh chân lý: tăng, sư, Phật, trời, vũ trụ. Nếu chấp vào trời đẹp, trời xấu liền tạo ra vấn đề.
316. Thiên Long trốn nơi nao?
Một
hôm Quan Sơn ở Diệu Tâm Tự đến Thiên Long Tự bái phỏng
Mộng Song quốc sư, hỏi rằng:
-
Kim Sí điểu vương đang ở trên trời, không biết Thiên Long
trốn nơi nao?
-
Ái chà! đáng sợ, đáng sợ!
Mộng
Song kêu lên rồi chúi đầu vào áo cà sa và đi ra sau bình
phong. Quan Sơn lạy tạ rồi lui.Tăng Phó khen rằng:
-
Hai sư có lễ tiết thực khác người vậy.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Theo kinh điển Kim Sí là loài chim ăn thịt rồng. Nhưng lấy cà sa che đầu thì Kim Sí không ăn được.
317. Tay không về quê.
Đạo
Nguyên (1200-1253) một vị thiền sư Nhật Bản du học Trung
Quốc khi về mang theo một câu pháp ngữ:
-
Sư núi này kinh lịch Nghiệp lâm không nhiều, ngẫu nhiên ở
Thiên Đồng Sơn gập được Như Tĩnh thiền sư (1163-1228) chỉ
điểm đạo lý "mắt ngang, mũi dọc" không còn bị người
đời lừa dối nữa, do đó tay không về quê; không có một
chút Phật pháp gì. Chỉ ngày ngày xem mặt trời mọc ở phương
Đông; đêm đêm xem trăng lặn ở phương Tây; canh năm nghe
gà gáy sáng, 3 năm lại có một năm nhuận.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Do Thiên Đồng chỉ dạy Đạo Nguyên đã thấy được "như" , do đó không bị người đời lừa dối nữa.
318. Đốn cây.
Tuyết
Phong cùng đồ đệ vào rừng đốn cây, ông nói với đồ
đệ:
-
Đừng ngưng rìu cho tới khi chặt tới tâm điểm.
-
Con đã chặt.
-
Chư tổ truyền pháp cho đệ tử bằng cách ấn tâm, còn ngươi
thì sao?
Ông
tăng ném cái rìu xuống đất và nói:
-
Truyền!
Tuyết
Phong vớ lấy gậy và đánh ông.
(Zen
Koans)
Thiền sinh học thiền không phải chỉ ở lúc ngồi thiền hay nghe giảng pháp mà ở cả trong khi làm công việc hàng ngày. Khi Tuyết Phong nói 'tới tâm điểm' không những chỉ tâm cây mà còn ám chỉ tâm người. Thiền sư chưa nói dứt lời, đồ đệ đã cắt ngang 'con đã chặt'. Tuyết Phong đổi đề tài và hỏi đồ đệ đã được truyền tâm ấn chưa? Ông tăng cần lời cảnh giới của Tuyết Phong vì ông hãy còn chấp vào 'truyền'. Nếu ông có thể ném được khái niệm truyền tâm như đã ném cái rìu thì hay biết bao! Cây có thể dùng rìu để chặt, nhưng tâm phải chặt bằng tâm, vì vậy ông tăng mới bị đánh.
319. Nhìn dưới chân.
Một
đêm nọ, Pháp Diễn cùng đồ đệ vào chùa; đèn cầm trong
tay bỗng bị gió thổi tắt. Pháp Diễn bảo các đồ đệ
mỗi người nói một chuyển ngữ. Phật Quả Viên Ngộ nói:
-
Nhìn dưới chân!
Câu
nói này được Pháp Diễn tán thưởng.
(Thiền
Đích Trí Tuệ Tinh Hoa)
Chuyển ngữ là lời nói biểu hiện ngộ tâm. Ý Pháp Diễn là "Đi trong đêm tối phải nhờ đèn, nay đèn tắt, các ngươi nói phải làm sao đi, nói mau!" "Nhìn dưới chân" là một câu nói bình thường, nhưng khi đèn tắt thì có chuyện gì quan trọng hơn là nhìn dưới chân? Quan sát kỹ rồi mới bước thì khỏi ngã. Thiền học chỉ ta phải tự quán sát đừng để đi ra ngoài Phật đạo, dù hoàn cảnh tối tăm cũng không làm tắt ngọn đèn tự tâm.
320. Cây và dây leo.
Có
ông tăng hỏi Quy Sơn:
-
Nghe nói thầy thường dạy học trò tham cứu câu nói " hữu
cú, vô cú như cây và dây leo" có phải không?
-
Phải.
-
Con có thể hỏi thêm không?
-
Đương nhiên, ngươi cứ việc hỏi.
-
Khi cây ngã, dây leo khô thì "cú" đi về đâu?
Lúc
dó Quy Sơn đang dùng bay trát tường bèn ném bay xuống đất,
cười ha hả mà đi về phòng.
(Sinh
Hoạt Thiền)
"Hữu cú, vô cú" là chỉ lưỡng biên. "Hữu" sở dĩ có là vì có "Vô"; "Vô" sở dĩ có là vì có "Hữu.” Có những cây phải có dây leo bám vào thì mới sống được; cây và dây leo cộng sinh. Nếu đã đạt tới cảnh giới 'không' tuyệt đối thì lưỡng biên phải gạt bỏ. Đó là cảnh giới "Nhất thiết giai không" của kinh Kim Cương vậy.
321. Ta kêu viện chủ.
Một
hôm Quy Sơn sai thị giả đi kêu viện chủ đến. Khi viện
chủ đến, Quy Sơn nói:
-
Ta kêu viện chủ, ngươi lại làm gì?
Viện
chủ không trả lời được.
Quy
Sơn lại sai thị giả đi kêu đệ nhất tọa đến. Khi đệ
nhất tọa đến, Quy Sơn nói:
-
Ta kêu đệ nhất tọa, ngươi lại làm gì?
Đệ
nhất tọa cũng không trả lời được.
(Thiền
Cơ)
Quy Sơn phá cái chấp danh tướng cho Viện chủ và Đệ nhất tọa. Có người giảng Viện chủ và Đệ nhất tọa chỉ làm công việc của mình một cách máy móc, không tỉnh thức trong công việc vì vậy đã không thể hỏi ngược lại Quy Sơn "Thầy không biết con là Viện chủ sao?"
322. Lồng đèn lớn.
Ngưỡng
Sơn hỏi Quy Sơn:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Lồng đèn lớn.
-
Chỉ cái đó thôi sao?
-
Cái đó là cái gì?
-
Lồng đèn lớn.
-
Quả nhiên ngươi chưa biết.
(Thiền
Cơ)
Ngưỡng Sơn hỏi tự tánh, Quy Sơn tùy tiện đáp "lồng đèn lớn.” Ngưỡng Sơn liền bị chấp vào lồng đèn nên bị Quy Sơn mắng.
323. Tốt ở chỗ nào?
Một
hôm trời mưa, một ông tăng nói:
-
Mưa tốt.
Ngưỡng
Sơn hỏi:
-
Tốt chỗ nào?
Ông
tăng không đáp được.
Ngưỡng
Sơn nói:
-
Ta biết.
-
Tốt chỗ nào?
Ngưỡng
Sơn chỉ mưa.
(Thiền
Cơ)
Ông tăng nói mưa tốt là chỉ cảm giác. Ngưỡng Sơn chỉ mưa là ám chỉ tốt ở bản thân của mưa (tự tánh).
324.
Tiếc thay một chén trà.
Đầu
Tử đang uống trà nói:
-
Sâm la vạn tượng đều ở trong chén trà này.
Trì
Châu hòa thượng lật ngược chén trà:
-
Sâm la vạn tượng ở đâu?
Đầu
Tử than:
-
Tiếc thay một chén trà!
(Thiền
Cơ)
Chén trà chỉ tự tánh.
325. Hồ Hán đều ẩn.
Tuyết
Phong thượng đường nói rằng:
-
Các ngươi nên hiểu chuyện này: như đài gương sáng Hồ đến
hiện Hồ, Hán đến hiện Hán.
Huyền
Sa hỏi:
-
Bỗng nhiên gương vỡ thì sao?
-
Hồ, Hán đều ẩn!
(Thiền
Cơ)
Gương chỉ tự tánh, Hồ, Hán chỉ ngoại trần, ngoại cảnh.
326. Trương Chuyết.
Trương
Chuyết đến tham phỏng Thạch Sương, Thạch Sương hỏi tên,
Trương Chuyết đáp:
-
Trương Chuyết.
-
Tìm cái khéo còn chẳng được, cái vụng từ đâu lại?
Trương
Chuyết có chỗ tỉnh ngộ bèn làm bài kệ:
光
明 寂 照 徧 河 沙
Quang
minh tịch chiếu biến hà sa
凡
聖 含 靈 共 我 家
Phàm
thánh hàm linh cộng ngã gia
一
念 不 生 全 體 現
Nhất
niệm bất sinh toàn thể hiện
六
根 纔 動 被 雲 遮
Lục
căn tài động bị vân già.
斷
除 煩 惱 重 増 病
Đoạn
trừ phiền não trọng tăng bệnh
趣
向 眞 如 總 是 邪
Thú
hướng chân như tổng thị tà
隨
順 眾 緣 無 罣 礙
Tùy
thuận chúng duyên vô quái ngại
涅
槃 生 死 等 空 花
Niết
bàn sinh tử đẳng không hoa.
Quang minh lặng chiếu khắp hà sa
Phàm thánh hàm linh vốn chung nhà
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện.
Sáu căn vừa động bị che lòa.
Phá trừ phiền não càng thêm bệnh.
Tìm đến chân như âu cũng là
Tùy thuận các duyên không chướng ngại
Niết Bàn sanh tử thẩy không hoa.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu
trả lời của Thạch Sương là lối chơi chữ. Chuyết có nghĩa
là vụng về. Thạch Sương nhân tên của Trương Chuyết mà
giảng tự tánh phải vượt lên đối đãi (khéo, vụng). Đọc
bài kệ chúng ta có thể biết thế nào là tự tánh và làm
thế nào để ngộ. Nếu ta cứ để tùy duyên không chấp không,
hữu có thể đạt tới một niệm chẳng sanh, thì tự tánh
tự nhiên hiển lộ. Nếu một niệm trụ cảnh thì là do thức
tâm điều khiển rơi vào thế đế. Thiền vốn siêu việt.
Các vị thiền sư để tiếp dẫn người học có lúc dùng
khẳng định, có lúc dùng phủ định, có lúc dùng cả khẳng
định và phủ định hoặc đều không dùng là vì sợ người
học chấp không, chấp có. Như kinh Đại Niết Bàn đề cập
đến 20 loại không như: thắng nghĩa không, vô vi không, vô
tánh tự tánh không... đều là siêu việt phủ định; Dư không
là siêu việt khẳng định; không không là siêu việt khẳng
định và phủ định.
Tinh
thần của nhà Thiền là như vậy, giống như một đám mây
trong không, thiên biến vạn hóa, không thể nắm bắt được.
327. Đại nhân duyên.
Có
ông tăng hỏi Tiếu Nham Đức Bảo thiền sư:
-
Nghe nói chư Phật xuất hiện vì một đại nhân duyên, xin
hỏi đại sư nhân duyên đó là gì?
-
Mặc áo, ăn cơm, đại tiện, tiểu tiện.
Ông
tăng không chịu, chẳng lạy mà ra. Thiền sư kêu lại đọc
cho bài kệ:
諸
佛 出 於 世
Chư
Phật xuất ư thế
唯
爲 大 因 緣
Duy
vi đại nhân duyên
屙
屎 並 放 尿
A
thỉ tịnh phóng niệu
飢
餐 困 打 眠
Cơ
xan khốn đả miên
目
前 緊 急 事
Mục
tiền khẩn cấp sự
人
只 欲 上 天
Nhân
chỉ dục thượng thiên
談
玄 共 說 妙
Đàm
huyền cộng thuyết diệu
遭
罪 復 輸 錢
Tao
tội phục thâu tiền
Chư Phật xuống trần thế
Chỉ vì đại nhân duyên
Đại tiện và tiểu tiện
Đói ăn, mệt ngủ liền.
Là chuyện gấp trước mắt
Người chỉ muốn lên trời
Nói huyền và nói diệu
Làm tội lại thâu lời.
Ông
tăng mắc cỡ, lạy tạ rồi lui.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông).
Mục đích của Thiền là được tâm bình thường. Mặc áo, ăn cơm, đại tiện, tiểu tiện, ngủ nghê đều là những sinh hoạt cơ bản của chúng sanh, cứ tùy duyên mà làm đừng cưỡng cầu thì được tâm bình thường, khế hợp với Đạo.
328. Thiền sàng.
Hòa
An Thông thiền sư nói với Ngưỡng Sơn:
-
Mang thiền sàng lại đây!
Ngưỡng
Sơn mang thiền sàng lại.
-
Mang về chỗ cũ.
Ngưỡng
Sơn lại mang về chỗ cũ.
-
Thiền sàng bên đó là vật gì?
-
Không vật.
-
Ngưỡng Sơn.
-
Dạ!
-
Đi ra!
(Thiền
Cơ)
Bên này, bên kia đều là biên kiến phải bỏ. Khi Ngưỡng Sơn dạ là rơi vào giữa, nhưng ở giữa cũng phải bỏ nên thiền sư bảo " Đi ra.”
329. Trăng như vành cung.
Buổi
tham tối xong, đại chúng sửa soạn giải tán. Khả Quán nói:
-
Đại chúng!
Đại
chúng quay đầu lại.
-
Ngắm trăng!
Đại
chúng ngắm trăng.
-
Trăng giống vành cung; ít mưa, nhiều gió.
Đại
chúng không đáp được.
(Thiền
Cơ)
Khả Quán ám thị đại chúng tham ngắm trăng trên trời, đánh mất ngọc quý trong tay.
330. Xem tên.
Thạch
Củng thường lắp tên, trương cung tiếp đãi các ông tăng.
Một hôm có Nghĩa Trung tới:
-
Xem tên!
Nghĩa
Trung liền cởi áo bầy ngực ra.
-
30 năm ta lắp tên, trương cung, chỉ bắn trúng được một
nửa người.
(Thiền
Cơ)
Mũi tên chỉ tự tánh.
331. Nửa đêm bàn chuyện.
Tây
Mục bỗng nhiên gọi:
-
Thị giả!
-
Dạ!
-
Đợi đến nửa đêm sẽ bàn chuyện với ngươi!
(Thiền
Cơ)
Câu
nói của Tây Mục ám chỉ hiện tại ngươi tự bàn chuyện.
332. Bát sứ Định Châu.
Có
một ni cô đem đến một cái bát sứ. Như Mẫn nâng bát lên
hỏi:
-
Cái bát này làm ở đâu?
-
Đây là bát sứ Định Châu.
Như
Mẫn liền đập bát vỡ tan.
(Thiền
Cơ)
Bát sứ Định Châu là thuộc lãnh vực trí thức, muốn đạt được bản lai diện mục (tự tánh) thì phải đập vỡ đi.
333. Chỗ trú của Triệu Châu.
Triệu
Châu đến thăm Vân Cư, Vân Cư hỏi:
-
Lão đại hán, sao không tìm chỗ trụ trì lúc tuổi già rồi?
-
Có thể ở đâu được?
-
Trên núi có một chùa cổ.
-
Tốt nhất ngươi tự mình ở!
Vân
Cư không trả lời. Sau đó Triệu Châu lại đến thăm Ngạc
Châu, Ngạc Châu cũng hỏi:
-
Lão đại hán, sao không tìm chỗ trụ trì?
-
Có thể ở đâu được?
-
Lão đại hán, ngay chỗ cư trú cũng không biết sao?
-
Ta từng cưỡi ngựa 30 năm, nay bị ngã từ lưng lừa.
(Zen
Koans)
Triệu
Châu bắt đầu đi tham học vào tuổi 61 (sau khi Nam Tuyền mất)
Đến năm 80 ông trụ trì ở Quán Âm Viện, Triệu Châu. Ông
thọ 120 tuổi và nổi tiếng trong các cuộc tranh luận với
các thiền sư khi đi thăm viếng các thiền viện. Ông để
lại nhiều công án hơn bất cứ một vị thiền sư nào. Khi
Vân Cư đề nghị ông ngưng thăm viếng và trụ trì ở một
chỗ nhất định; ông đã biết chỗ ở của mình rồi và
không lúc nào rời nó. Vì vậy câu trả lời "Có thể ở đâu
được" là một câu nói móc. Còn như Vân Cư đề nghị Triệu
Châu ở ngôi chùa cổ, Triệu Châu bảo ông hãy tự mình ở
vì đối với Triệu Châu thiền không có nghỉ hưu; thiền
sư tự do làm gì mình muốn làm. Khi Triệu Châu viếng thăm
Ngạc Châu cũng bị hỏi cùng câu hỏi và cũng đưa ra cùng
câu trả lời. Nhưng Ngạc Châu lại coi câu trả lời ở bề
mặt nên nói:
-
Thật xấu hổ cho ngươi, ở tuổi ngươi ngươi phải biết
chỗ trụ trì của mình ngay dưới chân chứ.
Để
trả lời, Triệu Châu nói ông thường quen đối phó với ngựa
chứ không với lừa. Lâm Tế nổi tiếng với tiếng hét, Đức
Sơn với cây gậy và Triệu Châu với lời nói đúng lúc.
334 Biển khổ sóng lớn.
Một
ông tăng hỏi Đại Diên:
-
Biển
khổ sóng lớn, dùng thứ gì để kết bè?
-
Dùng trúc.
-
Như vậy là có thể qua biển sao?
-
Người mù theo người mù đi trước; người câm theo người
câm đi trước.
(Thiền
Cơ)
Dùng trúc kết bè là phụ thuộc vào ngoại vật, cũng như người mù, câm phải theo người đi trước, sao bằng tự độ?
335 Người trong làng.
Có
ông tăng hỏi Linh Thụy:
-
Phật là gì?
-
Ngươi là người trong làng.
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
10 vạn 8 ngàn dậm.
(Thiền
Cơ)
Người trong làng là chỉ Phật trong người. Còn hỏi ý tổ sư từ Tây sang là còn mong cầu thì hãy còn xa làng đến 10 vạn 8 ngàn dậm vậy!
336 Cái nón.
Viên
Trí cầm nón định đi ra, Vân Nham hỏi:
-
Để làm gì?
-
Có chỗ dùng.
-
Gió, mưa đến phải làm sao đây?
-
Đội lên.
-
Nó còn bị đội sao?
(Thiền
Cơ)
Nó chỉ tự tánh; gió, mưa chỉ ngoại duyên, ngoại trần.
337. Phật ở trong nhà.
Dương
Phủ từ biệt cha mẹ đến Tứ Xuyên bái phỏng Vô Tế bồ
tát. Trên đường đi, gập một vị hòa thượng già, vị này
hỏi:
-
Ngươi đi đâu?
Dương
Phủ nói ý định đi học với bồ tát Vô Tế. Vị hòa thượng
già nói:
-
Tìm bồ tát chẳng thà tìm Phật còn hơn.
-
Phật ở đâu mà tìm?
-
Ngươi cứ về nhà thấy người nào khoác chăn, đi dép ngược
ra đón ngươi thì người đó chính là Phật.
Dương
Phủ y lời về nhà. Lúc đó đã nửa đêm, mẹ ông nghe tiếng
con mình gọi cửa, mừng rỡ không kịp mặc áo, khoác vội
cái chăn, xỏ lộn dép chạy vội ra mở cửa. Dương Phủ nhìn
thấy, lập tức đại ngộ. Từ đó về sau chuyên tâm phụng
dưỡng bố mẹ, lại còn viết sách chú thích hiếu kinh.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Nhà Phật coi luân lý rất trọng, không dạy người ta điều gì ngoài luân lý. Bất cứ người nào nếu không được cha mẹ cho phép đều không được xuất gia.
338 Khẩu đầu Thiền.
Có
ông tăng ở trong điện Phật, ngồi xoay lưng lại tượng Phật.
Một ông tăng khác nói:
-
Người tu chẳng xoay lưng lại Phật.
Ông
tăng kia đáp:
-
Phật thân ở khắp Pháp giới, ngồi vào hướng nào đây?
Lại
có một ông tăng ngủ ở trong điện Phật. Một ông tăng khác
nói:
-
Sao lại ngủ ở trước mặt Phật?
Ông
kia đáp:
-
Ngươi chỉ cho ta chỗ nào ngủ mà không có Phật.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đây chỉ là Thiền ngoài miệng, chưa thực vượt lên hình tượng.
339 Cái ghế.
Quế
Sâm đến tham Huyền Sa, Huyền Sa hỏi:
-
Ba giới duy tâm, ngươi hiểu thế nào?
Quế
Sâm chỉ cái ghế hỏi ngược lại:
-
Hòa thượng gọi cái này là gì?
-
Cái ghế.
-
Hòa thượng không hiểu ba giới duy tâm.
Huyền
Sa nói:
-
Ta gọi nó là gỗ, ngươi gọi nó là gì?
-
Quế Sâm cũng gọi nó là gỗ.
Huyền
Sa thừa nhận là đúng.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Cái ghế là do gỗ làm thành. Gọi là ghế là do hình tượng của nó. Gọi là gỗ là không bị hình tượng trói buộc.
340 Thiện Tĩnh.
Thiện
Tĩnh khi ở với Phổ Dược trông nom việc làm vườn. Có ông
tăng từ biệt Phổ Dược, Phổ Dược hỏi:
-
Bốn mặt đều là núi, xà lê đi đâu?
Ông
tăng không đáp được, kể cho Thiện Tĩnh nghe, Thiện Tĩnh
đáp hộ ông:
-
Tre rậm không ngăn nước chẩy, núi cao chẳng cản mây bay.
Ông
tăng bạch lại với Phổ Dược. Phổ Dược nói:
-
Đây tất không phải là lời ngươi nói!
Ông
tăng thưa đó là lời của Thiên Tĩnh dạy ông nói.
Phổ
Dược thượng đường bảo đại chúng rằng:
-
Các ngươi đừng coi thường viên đầu, ngày sau ông sẽ làm
thầy của 500 người.
Về
sau quả nhiên như lời.
(Minh
Tâm Kiến Tán Thoại Thiền Tông)
Bốn mặt là núi là chỉ những chướng ngại, nghịch duyên; ông tăng vì chấp tướng núi nên không đáp được. Nếu được cái tâm lớn không ngoài, nhỏ không trong, không quái ngại thì chỗ nào mà không qua được.
341 Ăn trái cây.
Huyền
Sa và Vi Giám Quân cùng ăn trái cây. Vi Giám Quân hỏi:
-
Thế nào là dùng hàng ngày mà không biết?
Huyền
Sa đưa trái cây cho Vi Giám Quân:
-
Ăn đi!
Vi
Giám Quân ăn xong lại nhắc lại câu hỏi, Huyền Sa nói:
-
Đó là dùng hàng ngày mà không biết.
(Thiền
Cơ)
Ở đây, trái cây chỉ tự tánh.
342 Đánh trống vì ba quân.
Minh
Giáo thượng đường, giơ phất trần trong tay lên, nói:
-
Cái này tiếp trung, hạ nhân.
Có
ông tăng hỏi:
-
Thượng thượng nhân đến làm sao tiếp?
-
Đánh trống vì ba quân!
(Thiền
Cơ)
Đánh trống vì ba quân có nghĩa thượng thượng nhân tự tiếp.
343 Hột đào ngàn năm.
Tàng
Dụng lên pháp đường hỏi:
-
Người ngu nói vàng là đất, còn người trí thì nói sao?
Có
ông tăng bước ra vái lạy rồi lui lại đứng yên.
-
Là ý gì vậy?
-
Thỉnh thầy minh giám.
-
Hột đào ngàn năm.
(Thiền
Cơ)
Vàng chỉ tự tánh, người ngu dùng mắt thịt nên không thấy, câu hột đào ngàn năm chỉ ông tăng đã siêu phàm, nhập thánh.
344 Ngưỡng Sơn vẽ một vạch.
Quy
Sơn bảo Ngưỡng Sơn:
-
Ta và ngươi cả ngày nói chuyện Thiền mà có được gì?
Ngưỡng
Sơn dùng ngón tay vẽ một vạch trong không, Quy Sơn nói:
-
Rất may là ngươi thương lượng với ta, kẻ khác có lẽ đã
bị ngươi lừa dối rồi.
(Zen
Koans)
Đây
là Quy Sơn khảo nghiệm Ngưỡng Sơn. Nếu Ngưỡng Sơn đáp
không được gì thì cả hai thầy trò đã bị phí thời giờ.
Nếu đáp có được gì thì lại rơi vào sự chấp trước.
Ngưỡng Sơn đã tránh được cái bẫy đó bằng cách vẽ một
vạch trong không. Đó là thực tại, nhưng không có dấu vết
gì. Mọi sự việc trong thế giới này đến rồi đi, xuất
hiện và biến mất. Nhưng đối với những thiền sinh
chưa có kinh nghiệm thì có thể lầm ngón tay
và
mặt trăng.
345 Vô Nghiệp.
Quốc
sư Vô Nghiệp nói:
-
Nếu một người còn thích Thánh, ghét phàm, thì dù sự chấp
này nhỏ như một sợi chỉ, nó cũng đủ mạnh để kéo hắn
vào nẻo súc sanh.
(Zen Koans)
Quốc sư là thầy của Hoàng Đế, Vô Nghiệp là tên mà Hoàng Đế ban tặng ông. Vô Nghiệp là không còn nghiệp nữa. Ông phải thật sự là một người tự do, vì nghiệp là cái trói buộc chúng ta. Chỉ có một cách thoát khỏi nghiệp là trở thành một với nó. Lời cảnh cáo của Vô Nghiệp là: Nếu chúng ta có một ý niệm dù rất nhỏ về chấp trước khôn, ngu, tốt xấu, đúng sai, sanh tử, vô minh giác ngộ, chúng ta sẽ bị kéo xuống nẻo súc sanh. Thế giới súc sanh do tham sân si ngự trị, trái với Phật giới. Nếu chúng ta hoan hỷ ý tưởng đó chúng ta đã đi lệch ra khỏi Phật đạo. Dù chấp vào Thiền cũng sẽ đưa ta tới nẻo súc sanh. Phải phá chấp bằng cách đi tới tận gốc rễ của nó.
346 Ngắm trăng.
Một
tối Thiện Đạo và Ngưỡng Sơn cùng ngắm trăng. Ngưỡng
Sơn hỏi:
-
Trăng khi khuyết thì tướng đầy đi đâu, khi đầy thì tướng
khuyết đi đâu?
Thiện
Đạo đáp:
-
Khi khuyết, tướng đầy ẩn; khi đầy tướng khuyết ở.
Về
sau Vân Nham đáp:
-
Khi khuyết tướng đầy ở; khi đầy tướng khuyết không.
Đạo
Ngô đáp:
-
Khi khuyết cũng không khuyết; khi đầy cũng không đầy.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu đáp của Thiện Đạo chỉ là tri kiến: khi khuyết chỉ thấy tướng khuyết, khi đầy thì tướng khuyết ở trong đó. Lời của Vân Nham cũng là tri kiến vì khi khuyết không thấy tướng đầy, nhưng tướng đầy không mất. Khi đầy thì tướng khuyết chưa hình thành. Tuy hai người giải thích khác nhau nhưng đều chấp hình tượng, chỉ có lời của Đạo Ngô mới thực là vượt lên hình tượng vì tướng đầy, khuyết do tương đãi mà có. Khi khuyết trong tâm không có tướng đầy tương đãi làm sao biết là khuyết? Khi đầy trong tâm không có tướng khuyết tương đãi làm sao biết là tướng đầy? Khuyết, đầy đều không có tự tánh. Lìa tướng đãi thì khuyết không có tướng khuyết, đầy không có tướng đầy. Nếu ngộ được lý này thì mới vượt ra ngoài hình tượng vậy.
347 Rắn nuốt ếch.
Một
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Thấy rắn nuốt ếch, nên cứu hay không?
-
Cứu thì nhắm mắt lại, không cứu thì mở mắt ra.
(Thiền
Cơ)
Rắn nuốt ếch là những sự việc trong hiện tượng giới. Nhắm mắt lại là vào bản thể giới; ở đó rắn và ếch chẳng có gì sai biệt thì đâu cần cứu.
348 Xác ve.
Một
ông tăng theo Cảm Ôn đi chơi núi, thấy ở trên cây có một
cái xác ve bèn hỏi:
-
Xác ở đây, còn ve đã bay đi đâu rồi?
Cảm
Ôn nhặt xác ve lên để gần tai ông tăng, đưa qua đưa lại,
miệng giả tiếng ve kêu. Ông tăng tức thời khai ngộ.
(Thiền
Cơ)
Xác ve chỉ thân người, ve chỉ tự tánh. Cử động của Cảm Ôn là chỉ tự tánh không đi đâu cả.
349 Xuẩn động.
Huệ
Lãng hỏi Thạch Đầu:
-
Phật là gì?
-
Ngươi không có Phật tánh.
-
Loài xuẩn động thì sao?
-
Loài xuẩn động có Phật tánh.
-
Vậy, tại sao con lại không có?
-
Vì ngươi không chịu gánh vác.
(Thiền
Cơ)
Trong nhà có báu vật không tin, không chịu gánh vác, chỉ lo tìm kiếm bên ngoài. Vì có tâm hướng ngoại nên càng ngày càng rời xa tự tánh.
350 Ngậm miệng nói.
Đại
Điên hỏi Thạch Đầu:
-
Cổ nhân nói có, nói không, thỉnh thầy giải trừ.
-
Một vật cũng không, giải trừ cái gì?
Rồi
sau đó, Thạch Đầu hỏi ngược lại:
-
Ngươi ngậm miệng nói thử coi.
-
Làm gì có chuyện ấy!
-
Nếu là vậy, ngươi đã vào cửa Đạo.
(Thiền
Cơ)
“Có” chỉ phàm, “không” chỉ thánh; một vật cũng không của Thạch Đầu và làm gì có chuyện đó của Đại Điên là chỉ phàm, thánh đều không chấp. Do đó, Thạch Đầu xác nhận Đại Điên đã vào cửa Đạo.
351 Không thể trộm mặt trăng.
Một
buổi chiều, một tên trộm bò vào căn lều trên núi của
Lương
Khoan, nhưng chẳng có gì để trộm. Lương Khoan trở về và
bắt gập.
-
Ngươi từ xa đến, chẳng thể về tay không. Hãy lấy quần
áo ta, coi như đồ tặng.
Tên
trộm ngơ ngác, mang quần áo đi. Lương Khoan mình trần ngồi
ngắm trăng và nói:
-
Thật là một gã đáng thương, ước gì ta có thể cho gã mặt
trăng đẹp này.
(Zen
Koans)
Lương Khoan rất nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông là một thiền sư thi sĩ, sống đơn giản, tốt bụng, không màng đến của cải vật chất và thế sự. Ông cũng rất thích trẻ con. Đối với Lương Khoan không có trộm, không có xấu xa, giận dữ. Theo truyền tụng, một mụt măng mọc dưới sàn lều của ông, ông đục một lỗ hổng để cây có thể mọc lên và khi cây tre trạm nóc lều ông lại đục một lỗ nữa.
352 Người cho phải cám ơn.
Thành
Chuyết khi trụ trì ở chùa Viên Giác, có một vị phú thương
quyên 500 lạng vàng để xây một khu tự viện. Vị phú thương
này mang vàng trao tận tay cho thiền sư. Thành Chuyết nói:
-
Được rồi! Ta nhận.
Vị
phú thương bất mãn, ông ám thị:
-
Trong túi này là 500 lạng vàng.
-
Thí chủ đã nói ta biết rồi!
-
Mặc dù con giầu có, nhưng 500 lạng vàng cũng là một số
tiền lớn!
-
Thí chủ muốn ta cám ơn sao?
-
Thầy nghĩ không đáng sao?
-
Tại sao ta phải cám ơn? Thí chủ mới chính là người phải
cám ơn.
(Zen
Koans)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong lục độ. Bố thí không mong chờ báo đáp hay cám ơn. Ngày nay sự tặng cúng thường là sự bị bắt buộc hoặc vì cảm tình thương hại ít khi vì hoan hỷ. Những sự tặng cúng ấy mong chờ sự cám ơn. Thực ra, sự cám ơn của người cho cao quý hơn sự cám ơn của người nhận. Thương và có thể thương thì giầu có hơn là được thương. Đức Phật bảo chư tăng khất thực hàng ngày là dạy chư tăng sự khiêm tốn và dạy mọi người hạnh bố thí.
353 Tam Tạng của Động Sơn.
Động
Sơn nói:
-
Tam tạng giáo điển có thể diễn tả bằng một chữ!
Một
vị thiền sư khác diễn ý của Động Sơn bằng một bài kệ:
Mỗi nét đều rõ ràng, dù khó đọc.
Thầy Cồ Đàm đã thử viết nhiều lần.
Sao không giao cho lão Vương?
Không chừng lão ta làm được.
(Zen
Koans)
Tam tạng là kinh, luật, luận. Động Sơn nói tất cả giáo lý có thể diễn tả trong một chữ. Nhưng chân lý đơn giản và cụ thể luôn thay đổi theo điều kiện và thời gian đặc biệt. Cái không thay đổi là khái niệm, tĩnh và không có sức sống. Do đó, chữ viết dù nghệ thuật đến đâu, ngay cả do một nghệ nhân tài giỏi như Vương lão, chân lý cũng không thể viết, đọc hay nói được chỉ có thể thể hội bằng cách sống.
354 Đệ nhất nghĩa đế.
Người
ta nhờ Hồng Châu đại sư viết bốn chữ Đệ Nhất Nghĩa
Đế để khắc vào tấm bảng treo trên cổng của Hoàng Bá
Tự. Đệ tử của Hồng Châu sửa soạn một số lượng giấy,
mực. Hồng Châu viết rất cẩn thận. Người đệ tử thường
ít khi phê bình, nói:
-
Không đẹp!
Hồng
Châu viết lại.
-
Cái này thì sao?
-
Dở.
Hồng
Châu viết lại nữa.
-
Lại còn tệ hơn trước!
Hồng
Châu viết đi viết lại đến 84 lần mà không lần nào được
đệ tử chấp nhận. Sau đó, người đệ tử có việc phải
ra ngoài một lát. Hồng Châu nghĩ đây là cơ hội thoát được
cặp mắt sắc bén của đệ tử bèn nhanh tay viết lẹ bốn
chữ;"Đệ Nhất Nghĩa Đế.” Khi người đệ tử trở lại,
trông thấy bèn kêu lên:
-
A! Thật là tuyệt phẩm!
(Zen
Koans)
Cái đẹp phải tự nhiên. Vô ngã là tinh túy của nghệ thuật tự nhiên.
355 Niết Bàn Diệu Tâm
Đây
là câu nói của đức Phật khi truyền pháp cho Ca Diếp:
-
Ta có chánh pháp nhãn tạng, thực tướng vô tướng, niết
bàn diệu tâm, ngoài giáo truyền riêng, nay giao phó cho ông.
(Thiền
Đích Trí Tuệ Tinh Hoa)
Niết
Bàn là trạng thái của tâm khi đã diệt trừ hết phiền não,
trở thành thanh tịnh. Trạng thái đó là sự khai ngộ, vì
không dùng lời nói để tả ra được nên gọi là diệu tâm.
Niết Bàn diệu tâm không phải là Niết Bàn và Diệu Tâm mà
là Tâm Niết Bàn là Diệu Tâm, cũng là Thiền tâm. Đức Phật
giao phó tâm này cho Ca Diếp. Ngài không bí mật trao truyền
cho Ca Diếp cái gì, cái tâm khai ngộ này có sẵn trong tâm
Ca Diếp, do tâm Ca Diếp bạo phát mà giác tỉnh, thành nội
tâm ấn chứng. Thiền sư Đạo Nguyên đã hình dung Niết Bàn
diệu tâm bằng 2 câu sau:
Cố hương, hoa bốn mùa
Xuân đi, hoa vẫn thơm.
Bốn
mùa là chỉ thời gian; cố hương là chỉ căn nguyên của tâm
không vì làm thiện, làm ác mà bị nhiễm thiện, ác. Cái diệu
tâm này không vì hoàn cảnh biến đổi. Vì vậy mới nói "Xuân
đi hoa vẫn thơm.”
356 Trong không có châu.
Một
ông tăng hỏi Phổ Nguyện:
-
Trong không có châu làm sao lấy được?
-
Đốn tre làm thang, bắc lên mà lấy.
-
Làm sao bắc thang vào không?
-
Vậy sao? Ngươi tính làm sao lấy?
(Thiền
Cơ)
Châu chỉ tự tánh.
357 Sâm la vạn tượng.
Một
ông tăng hỏi Văn Ích:
-
Thế nào là tháng thứ hai?
-
Sâm la vạn tượng.
-
Thế nào là tháng thứ nhất?
-
Vạn tượng sâm la.
(Thiền
Cơ)
Tháng
1 chỉ bản thể, tháng 2 chỉ hiện tượng.
358 Đừng hiểu sai ý.
Một
ông tăng hỏi Sơn Hồng:
-
Đạo là gì?
-
Vốn không một vật.
Ông
tăng lạy, thiền sư nói:
-
Đừng hiểu sai ý.
(Thiền
Cơ)
Ông tăng hỏi tự tánh, thiền sư dùng câu kệ của Lục tổ để trả lời, ông tăng lạy tạ. Thiền sư nói 'Đừng hiểu sai ý" ám chỉ ông tăng đừng chấp Pháp.
359 Tu Di và hạt cải.
Một
ông tăng hỏi Thiệu Tu:
-
Tu Di đựng hạt cải, hạt cải đựng Tu Di, Tu Di là gì?
-
Xuyên phá tâm ngươi.
-
Hạt cải là gì?
-
Nhắm mắt ngươi lại.
-
Thế nào là đựng?
-
Mang Tu Di và hạt cải ra đây.
(Thiền
Cơ)
Tu Di chỉ cái lớn, hạt cải chỉ cái nhỏ. Các câu trả lời của thiền sư "Xuyên phá tâm ngươi" và "Nhắm mắt ngươi lại" ám chỉ ông tăng đừng lấy những thường thức, nghĩa lý ở hiện tượng giới mà phân tích, phán đoán thì sẽ hiểu được hạt cải đựng Tu Di vì ở bản thể giới không có phân biệt to, nhỏ.
360 Người ở trong.
Một
ông tăng hỏi Đại Điên:
-
Người ở trong đến tương kiến thì thế nào?
-
Đã không phải là ở trong rồi.
-
Vậy sao? Ở trong là gì?
-
Đừng hỏi vậy!
(Thiền
Cơ)
Người ở trong chỉ tự tánh. Câu hỏi của ông tăng cho thấy ông chưa kiến tánh vì có tới tức có đi, tương kiến là còn chủ khách. "Đừng hỏi vậy " vì đó là dư thừa, chẳng bằng tự hỏi.
361 Chân Như Bát Nhã.
Lý
Cao hỏi Sùng Tín:
-
Thế nào là Chân Như Bát Nhã?
-
Ta không có chân như bát nhã.
-
May mắn gập được thầy!
-
Hãy còn là lời nói bên ngoài.
(Thiền
Cơ)
Chân Như Bát Nhã chỉ tự tánh. Câu đáp "Ta không có chân như bát nhã" ám chỉ ngươi đừng hỏi ta, hãy tự hỏi mình. Lý Cao hiểu nên nói "May gập được thầy.” Câu nói của Sùng Tín "Hãy còn là lời nói bên ngoài." là chỉ lấy tâm ấn tâm tức thời mặc khế, nói ra một lời cũng là dư.
362 Từ đâu tới?
Tuyết
Phong hỏi Minh Chân:
-
Từ đâu tới?
-
Từ Giang Tây.
-
Thấy Đạt Ma tổ sư ở đâu?
-
Đã nói với thầy rồi mà.
-
Nói cái gì?
-
Từ đâu tới.!
(Thiền
Cơ)
Thấy
Đạt Ma tổ sư chỉ kiến tánh; câu đáp cuối của Minh Chân
nhắc lại câu hỏi đầu tiên của Tuyết Phong ngụ ý mình
đã kiến tánh.
363 Sư tử ngu.
Ma
Cốc gọi Lương Trục:
-
Lương Trục.
-
Dạ!
Ba
lần gọi, ba lần dạ. Ma Cốc bèn nói:
-
Cái con sư tử ngu này!
Lương
Trục lập tức lãnh ngộ.
(Thiền
Cơ)
Thiền sư ba lần gọi tên ông tăng là ba lần gọi tự tánh.
364 Một triệu vật.
Ngưỡng
Sơn hỏi Quy Sơn:
-
Khi có cả triệu vật tới thì phải làm sao?
-
Xanh thì chưa vàng, dài thì không ngắn; mỗi vật đều có
số mạng, tại sao ta phải xía vào?
Ngưỡng
Sơn bèn lạy tạ.
(Zen
Koans)
Câu hỏi của Ngưỡng Sơn rất thực tế và thích hợp. Chúng ta sống trong một xã hội phức tạp, có cả triệu sự vật cần chúng ta để ý đến. Làm sao chúng ta có thể thanh tịnh trong một sinh môi như thế? Quy Sơn cho một câu trả lời rất hay và cũng thực tế: hãy đối diện sự vật lần lượt từng việc một. Người ta thường lo lắng nhiều chuyện, nhưng Quy Sơn bảo hãy giải quyết từng việc, nhìn sự vật rõ ràng như tự thân của nó.
365 Đã mắc bệnh lại trúng độc.
Một
ông tăng thưa với Sư Kiền:
-
Đệ tử đã mắc bệnh, lại trúng độc thỉnh thầy trị
cho.
-
Lấy kim châm vào đỉnh đầu rồi đổ đề hồ vào.
-
Vậy sao, tạ ơn thầy trị bệnh!
Sư
Kiền bèn quơ gậy đánh.
(Thiền
Cơ)
Mắc bệnh, trúng độc là chỉ hiện tượng. Lấy kim châm vào đỉnh đầu ám chỉ cởi bỏ những trói buộc của hiện tượng giới. Ở bản thể giới không có gì gọi là mắc bệnh và trúng độc.
366 Một nhà giáo dục.
Bàn
Khuê đang giảng thuyết trong một buổi thiền hội, bỗng nhiên
một ông tăng bị bắt quả tang đang ăn cắp tiền.
-
Lại bắt được ngươi ăn cắp tiền rồi!
-
Xin tha cho hắn!
-
Không được, hắn đã phạm tội nhiều lần rồi, lần này
không thể tha thứ được nữa.
-
Nếu thầy không khai trừ hắn, thì chúng con sẽ cùng bỏ thiền
hội.
-
Các ngươi đều là sư huynh sáng suốt biết phân biệt phải,
trái; còn hắn ngay phải, trái cũng không rõ. Nếu ta không
răn dạy hắn thì ai sẽ dạy hắn đây? Ta muốn giữ hắn
lại đây, dù tất cả các ngươi đều bỏ đi.
Nghe
lời nói này, ông tăng ăn cắp bèn quỳ xuống đất, mặt
đầm đìa nước mắt, từ đó đã ngộ ra thiện, ác.
(Thiền
thuyết)
Một đàn dê có 100 con, một con đi lạc. Người chăn chẳng lập tức bỏ 99 con ở nơi đồng cỏ mà đi tìm con dê bị lạc hay sao? Phải giúp cho người cần được giúp trước.
367 Một đêm giác ngộ.
Vĩnh
Gia đến gập Lục tổ, đi nhiễu quanh thiền sàng 3 vòng, chống
trượng mà đứng. Lục tổ bảo:
-
Phàm sa môn có 3 ngàn uy nghi 8 vạn tế hạnh, đại đức ở
đâu tới sao ngã mạn vậy?
-
Sanh tử là việc lớn, vô thường đến chóng.
-
Sao không nắm lấy vô sanh, dứt được không chóng?
-
Thể vốn không sanh, nên không chóng.
-
Như vậy! như vậy!
Vĩnh
Gia lúc đó mới dùng đủ oai nghi mà lạy rồi xin cáo từ.
Tổ hỏi:
-
Sao về chóng vậy?
-
Vốn không động, làm sao có chóng?
-
Ai biết không động?
-
Nhân giả tự sanh phân biệt.
-
Ngươi đã được cái ý vô sanh.
-
Vô sanh lại có ý sao?
-
Không ý thì lấy gì phân biệt?
-
Phân biệt cũng không phải là ý.
-
Lành thay! Hãy lưu lại một đêm.
Người
sau gọi đêm lưu lại của Vĩnh Gia là một đêm giác ngộ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu của Vĩnh Gia ý nói việc sanh tử quan trọng mà vô thường thì không biết đến lúc nào, nên không có thời gian để ý đến lễ nghi nhỏ nhặt. Lục tổ bảo hãy nắm lấy cái vô sanh thì còn gì sanh tử. Vĩnh Gia đáp thể vốn vô sanh nên không có mau chóng. Sanh tử là vấn đề có, không; thuộc về không gian và thời gian. Không sanh tử thì không còn mau, chậm, siêu việt không thời gian. Khi Lục tổ hỏi: "Ai biết không động?" Vĩnh Gia đáp: "Nhân giả tự sanh phân biệt.” Lục tổ muốn trắc nghiệm lại Vĩnh Gia, không ngờ Vĩnh Gia dùng câu nói tương tự câu "Nhân giả tâm động" của mình để trả lời. (Xem công án 95) Thực là xảo diệu vô cùng.
368 Thiền Định và phiền não.
Trần
Tú Ngọc hỏi Vạn Tùng:
-
Tại sao Di Lặc bồ tát không tu thiền định, không đoạn
phiền não?
-
Chân tâm vốn tĩnh vì vậy không tu thiền định, vọng tưởng
vốn không nên không đoạn phiền não.
Hỏi
Đại Nhuận, Đại Nhuận trả lời:
-
Thiền tâm đã không, chẳng tu mà tu; cắt đứt hết phiền
não, chẳng tu mà đoạn.
Hỏi
Hải thiền sư, thiền sư đáp:
-
Vốn vô thiền định, phiền não!
Trần
Tú Ngọc vui mừng:
-
Nghe thật sướng tai!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Có thiền, có phiền não đều là chấp tướng. Tu và đoạn đều là chấp tướng. Tất cả đều không thì mới khiển được tướng.
369 Nói một vật tức không trúng.
Khi
Nam Nhạc đến tham học Huệ Năng, Huệ Năng hỏi:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Từ Tung Sơn tới.
-
Vật gì tới?
Nam
Nhạc không đáp được ngay lúc đó. Ở lại tu học với Lục
tổ một thời gian dài mới ngộ và trình Lục tổ câu đáp:
-
Nói một vật là không trúng.
-
Có thể tu chứng không?
-
Tu chứng tức phi vô, nhiễm trược tức không được.
-
Chỉ có sự chẳng nhiễm trược ấy là chỗ hộ niệm của
chư Phật vậy. Ngươi đã như thế, ta cũng như thế.
(Phật
Dữ Thiền)
Nếu chấp có tu, có chứng thì không đạt được vô. Nhiễm trược tức là tu chứng, khi đạt được cái ấy, được mà không được thì đó chính là bản lai diện mục. Nếu chúng ta ngoài bị cảnh mê, trong bị 'không' mê, ngay lúc đó lìa được biên kiến khiến trong ngoài đều không bị hạn chế thì đó là khai ngộ vậy.
370 Buông dao đồ tể.
昨
日 夜 叉 心
Tạc
nhật dạ xoa tâm
今
朝 菩 薩 面
Kim
triêu bồ tát diện
菩
薩 與 夜 叉
Bồ
tát dữ dạ xoa
不
隔 一 條 線
Bất
cách nhất điều tuyến.
Hôm qua tâm dạ xoa
Sáng nay mặt bồ tát.
Bồ tát và dạ xoa
Chẳng có gì sai khác.
Đây
là bài kệ của Văn Thù Tư Nghiệp thiền sư làm lúc xuất
gia. Ông là người đời Tống, lúc chưa xuất gia làm nghề
đồ tể. Một hôm, lúc đang làm thịt heo, bỗng nhiên sinh
lòng bi mẫn, liền bỏ sát nghiệp.
(Hương
Thủy Hải)
Đứng trên quan điểm Phật giáo, đồ tể là ác nghiệp, xa lìa chánh đạo. Nhưng Tư Nghiệp thiền sư ở trong ác nghiệp mà khởi tâm đại bi, thậm chí khai ngộ, thì đối với ông ác nghiệp đã có công năng giáo dục ông. Như vậy chúng ta thấy rằng nghiệp có thiện ác, nhưng Phật tánh thì không thiện, ác. Phật pháp là thuốc, vì chúng sanh bị bệnh nên có. Chúng sanh bị bệnh nên mới cần thuốc trị, nếu vốn không bệnh thì đâu cần thuốc chữa.
371 Bôi cứt lên đầu.
Vân
Môn nói với đại chúng rằng:
-
Giả như ta có thể nói một câu mà khiến cho các ngươi được
ngộ, thì cũng tỉ như bôi cứt lên đầu các ngươi thôi!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Ngôn ngữ là từ thức tâm bất tịnh mà ra, dĩ nhiên là ô uế, không thể dùng để chỉ tự tánh thanh tịnh, vô nhiễm được. Tuy nhiên dùng ngôn ngữ đề thị học nhân khiến học nhân tham cứu mà ngộ. Nhưng ngộ là tâm, không phải là ngôn ngữ. Lấy ngón tay trỏ mặt trăng, nếu chỉ thấy ngón tay thì không thấy mặt trăng. Đạo không thể nói, có thể nói thì không là Đạo; nhưng vì truyền Đạo không thể không nói.
372 Thiên hạ sẽ cười ta.
Có
ông tăng hỏi Hi Thiên:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Hi
Thiên vớ lấy gậy đánh và nói:
-
Nếu ta không đánh ngươi, về sau thiên hạ sẽ cười ta.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Công án trên cho thấy Thiền sư đánh người là việc bất đắc dĩ; đồng thời cho thấy việc không mở miệng được coi trọng thế nào!
373 Quan tiền.
Có
ông tăng hỏi Linh Tuân:
-
Thế nào là Đại Thừa?
-
Dây gai.
-
Thế nào là Tiểu Thừa?
-
Quan tiền.
(Thiền
Cơ)
Phật pháp vốn không có phân biệt đại thừa, tiểu thừa. Chỉ vì trình độ tu tập sâu, cạn mà ra. Thời cổ, tiền được đúc bằng đồng, có lỗ ở giữa bỏ 1000 đồng xâu lại bằng một sợi gai gọi là một quan. Vì vậy nói sợi dây gai hay một xâu tiền cũng chẳng có phân biệt gì.
374 Thủ sảo, tâm sảo.
Có
một người đem tặng Văn Ích một bức họa, Văn Ích hỏi:
-
Tay khéo hay tâm khéo?
-
Tâm khéo.
-
Cái nào là tâm ngươi?
Người
ấy không trả lời được.
(Thiền
Cơ)
Tâm khéo chỉ Thức tâm, câu "Cái nào là tâm ngươi" là chỉ ngoài thức tâm còn có tự tánh.
375 Một cái là bóng.
Đêm
tới, chúng tăng tụ tập lại tham thiền. Thị giả mang một
cái đèn tới, bóng hắt lên tường. Một ông tăng hỏi:
-
Nếu có hai cái tương tự thì phải làm sao?
Đạo
Ưng nói:
-
Một cái là bóng.
(Thiền
Cơ)
Đèn chỉ bản thể, ánh sáng chỉ hiện tượng; bóng chỉ ảo ảnh. Câu nói của Đạo Ưng ám chỉ ông tăng dùng mắt thịt chỉ thấy hiện tượng và ảo ảnh.
376 Đại Châu.
Có
một ông tăng hỏi Đại Châu:
-
Thầy dùng pháp nào để độ người?
-
Bần tăng chẳng có pháp nào độ người.
Và
hỏi ngược lại:
-
Đại đức nói pháp nào độ người?
-
Giảng kinh Kim Cương.
-
Kinh này ai nói?
-
Thầy giỡn sao chớ, kinh này chẳng phải Phật nói sao?
-
Nếu nói là Như Lai nói là Báng Phật, nếu nói kinh không phải
do Phật nói thì là báng Kinh, đại đức nói thử coi!
Ông
tăng không trả lời được, một lúc sau lại hỏi:
-
Làm sao được Đại Niết Bàn?
-
Tạo sanh tử Nghiệp, bỏ cấu giữ tịnh, có được, có chứng,
không thoát đối trị môn là sanh tử nghiệp.
-
Nói được giải thoát là sao?
-
Vốn không trói buộc, đâu cần cởi, trực dụng, trực hạnh
là pháp tối cao.
-
Hòa thượng thật hiếm có.
Ông
tăng lễ tạ rồi đi.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đối thoại trên như trong kinh Tịnh Danh có nói "Trực tâm thị đạo trường.” Tất cả mọi tác vi đều là sanh tử nghiệp. Tạo sanh tử được Đại Niét Bàn, ý nói phiền não tức Bồ Đề, trực dụng, trực hạnh là có tác vi hay không tác vi đều một dạng.
377 Siêu việt không thời gian.
Sa
môn Huệ Thường ở La Phù Sơn vào núi hái trà thấy một
ngôi chùa đề chữ vàng La Hán Thánh Tự, bèn vào trú ba ngày
rồi trở về, cùng lúc đó ở nhân gian đã 5 năm rồi!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đối
với thời gian, một niệm nhiếp tam thế. Chúng ta đang sống
trong hiện tại, tức là quá khứ đã có sanh, và tương lai
sẽ có tử; không một thời khắc nào không gồm tam thế.
Đối
với không gian thì một hơi thở ra, vào đều liên hệ đến
dẫn lực và phản lực của quảng đại điện từ trường,
không thể phân ly ra được, như vậy là đều cùng một thể.
378 Ta cũng tội.
Nam
Viện hỏi một ông tăng đến tham học:
-
Ngươi vừa từ đâu tới?
-
Hán Thượng.
-
Ngươi tội! Ta cũng tội!
(Thiền
Cơ)
Ông tăng không tự tìm, đi tìm thiền sư là tội; thiền sư cũng tội vì liên đới chịu trách nhiệm.
379 Đại sanh, đại tử.
來
也 如 是
Lai
dã như thị
去
也 如 是
Khứ
dã như thị
來
去 一 如
Lai
khứ nhất như
清
風 萬 里
Thanh
phong vạn lý.
妙
峯
Diệu Phong
Đến cũng như vầy
Đi cũng như vầy,
Đến, đi là một
Vạn dậm gió mát.
(Hương
Thủy Hải)
Đây là một bài kệ của Thiền sư Diệu Phong. Đến chỉ sanh, đi chỉ tử. Trong Phật học sanh tử được gọi là dây sanh tử, bánh xe sanh tử, dòng sanh tử, bể sanh tử vì chúng sanh luân chuyển trong sanh tử giống như bị buộc dây, như bánh xe bị quay không thể ngưng lại được, như chìm nổi trong bể khổ, không thể đến bờ. Phật pháp là phương pháp giải thoát cảnh khổ đó, như người đang ngụp lặn trong bể khổ mà được vớt lên thuyền đưa vào bờ. Đối với người tu Thiền, việc sanh tử phải là vấn đề đầu tiên phải đối diện. Con người ta, sống thì giống như ngọn gió mát thổi qua đại địa, chết thì giống như núi xanh bị tuyết trắng phủ ngọn. Trong Thiền học, không phải là ngưng hơi thở mới gọi là tử. Đại tử là chỉ luân hồi, có sanh có tử. Trong quá khứ đã nhiều lần tử, và trong tương lai cũng sẽ có nhiều lần tử nữa. Không phải đầu thai rồi mới là sanh. Khi hiểu được có sanh thì có tử, vô sanh thì vô tử thì đó là Đại sanh.
380 Đốt lửa sưởi ấm.
Một
ông tăng hỏi Thủy Nguyệt:
-
Đơn Hà đốt Phật gỗ là ý gì?
-
Lạnh thì đốt lửa sưởi.
-
Có tội không?
-
Nóng lại đến khe suối bên rừng trúc mà ngồi.
(Thiền
Cơ)
Đốt Phật gỗ để phá trừ ngẫu tượng, chân Phật (tự tánh) tự nhiên trình hiện. Đó là cảnh giới đại tự tại: đói thì ăn, mệt thì ngủ, lạnh thì đốt lửa sưởi, nóng thì tìm chỗ mát, là người bình thường vô sự.
381 Vào lửa không cháy.
Một
ông tăng hỏi Tòng Triển:
-
Thế nào là vào lửa không cháy, vào nước không chìm?
-
Nếu là nước, lửa liền bị chìm, bị cháy.
(Thiền
Cơ)
Con người sống trong hiện tượng giới, vào lửa liền bị lửa thiêu chết, vào nước liền bị nước nhận chìm. Nhưng ở bản thể giới không nước, không lửa nên không bị chết chìm, chết thiêu.
382 Không phải giống tốt.
Một
ông tăng hỏi Trí Phu:
-
Tuyết Phong ném thiền trượng xuống đất là ý gì?
Trí
Phu bèn ném gậy đang cầm trong tay xuống Đất.
-
Là ý gì?
-
Không phải giống tốt, đi đi!
(Thiền
Cơ)
Trí Phu ném gậy xuống đất là bảo ông tăng phải bỏ những trói buộc đi. Ông tăng không hiểu, còn mở miệng hỏi, do đó bị thiền sư mắng.
383 Que cời lửa.
Một
ông tăng hỏi Thuận Đức:
-
Thế nào là đồng tướng?
Thuận
Đức ném que cời lửa vào lò.
-
Thế nào là dị tướng?
Thuận
Đức bỏ que cời lửa sang một bên.
(Thiền
Cơ)
Ông tăng thắc mắc về Đồng và Dị, thiền sư dùng động tác để chỉ cho ông. Khi ném que cời lửa vào lò thì nó bị cháy nên không phân biệt được nó với lửa. Đó là tướng Đồng. Khi để que cời lửa sang một bên: có thể phân biệt được nó với lửa. Đó là Dị tướng. Người kiến tánh có thể ở trong tướng lìa tướng, không bị tướng bó buộc, mê hoặc.
384 Hàng rào vườn hoa.
Một
ông tăng hỏi Lục Thủy:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Ngươi có thấy hàng rào vườn hoa trước nhà không?
(Thiền
Cơ)
Ý
tổ sư từ Tây sang, không đâu không có, hàng rào vườn hoa
lại chẳng phải là ý tổ sư lưu lộ hay sao?
385 Nương tựa vào ai?
Huệ
Năng sắp viên tịch, Hy Thiên hỏi:
-
Sư phụ đi rồi, con biết nương tựa vào ai?
-
Ngươi hãy tự mình nghĩ coi!
(Thiền
Cơ)
Phật tánh ai cũng có, việc gì phải nương tựa ai?
386 Nghe tiếng sấm.
Đời
Tống, có một vị quan to tên là Triệu Biến là đồ đệ
của Tưởng Sơn Pháp Tuyền thiền sư. Một đêm, đương ngồi
tại công đường, bỗng nhiên nghe tiếng sấm nổ, hoát nhiên
khai ngộ, bèn viết một bài kệ:
默
然 公 堂 虛 隱 几
Mặc
nhiên công đường hư ẩn kỷ
心
源 不 動 湛 如 水
Tâm
nguyên bất động trạm như thủy
一
聲 霹 靂 頂 門 開
Nhất
thanh phích lịch đỉnh môn khai
喚
起 從 前 自 家 底
Hoán
khởi tòng tiền tự gia để.
趙 抃
Triệu Biến
Ngồi lặng nơi công đường
Tâm tịnh trong như nước
Sét nổ đầu mở toang
Gọi dậy tự tánh trước.
(Ngộ
Không dịch)
(Hương
Thủy Hải)
Bài
kệ này cho chúng ta biết tình trạng khai ngộ như thế nào.
Khi
tâm đã chín mùi, chỉ cần một xúc tác là ngộ. Các thiền
sư dậy tham công án, đánh, hét đều là công phu. Chỉ cần
tập trung tại công phu này, lâu ngày chỉ nghe một tiếng sấm,
ngửi mùi hoa, vấp té mà đột nhiên, hoảng nhiên, hoát nhiên
khai ngộ. Kỳ thực, cái sự đột nhiên này không đột nhiên
chút nào. Để chuẩn bị cho ngộ, người học Thiền đã phải
trải qua biết bao gian khổ.
387 Vân Cư Đạo Ưng.
Đạo
Ưng ở chỗ Thúy Vi đến tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
-
Thúy Vi có câu nào chăng?
-
Thúy Vi cúng dường La Hán, con hỏi cúng dường La Hán, La Hán
có đến không? Thúy Vi đáp "Mỗi ngày ngươi ăn gì?"
-
Thực có lời đó sao?
-
Có.
-
Chẳng uổng đến thăm tác gia.
Sau
Đạo Ưng kết am ở Tam Phong, cả tuần không xuống thọ trai.
Động Sơn hỏi:
-
Ngươi gần đây sao không xuống thọ trai?
-
Mỗi ngày đều có thiên thần mang đồ ăn tới.
-
Ngươi còn kiến giải như vậy sao? Chiều nay hãy tới đây.
Buổi
chiều, Đạo Ưng tới. Động Sơn gọi:
-
Ưng am chủ!
-
Dạ!
-
Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái gì?
Đạo
Ưng trở về am, tịch nhiên an tọa, thiên thần tìm không thấy,
ba ngày dứt tuyệt.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Thúy Vi cúng dường La Hán chỉ là có ý kính trọng chứ không phải là chấp hình tượng. Giả như có một vị La Hán cần ăn uống, thì có khác gì Đạo Ưng đâu? Đạo Ưng lúc đó chưa hiểu, lại còn chấp có thiên thần, sau không nghĩ thiện, ác tất cả những cái chấp về hình tượng đều quy về không. Tâm không, cảnh không do đó thiên thần tuyệt tích.
388 Tha tâm thông.
Đời
Đường Túc Tông, có ông tăng người Thiên Trúc tên Đại
Nhĩ Tam Tạng đến kinh đô, tự nhận mình đã đắc tha tâm
thông. Vua sai Huệ Trung khảo nghiệm; quốc sư hỏi:
-
Ngươi được tha tâm thông chăng?
-
Chẳng dám.
-
Ngươi nói coi, bây giờ lão tăng đang ở đâu?
-
Nhân giả là quốc sư sao lại đến Tây Xuyên xem đua thuyền?
-
Bây giờ lão tăng đang ở đâu?
-
Ở trên cầu Thiên Tân xem khỉ.
-
Bây giờ lão tăng đang ở đâu?
Đại
Nhĩ Tam Tạng im, không nói được; quốc sư bèn nạt:
-
Hồ tinh! tha tâm thông ở đâu?
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tâm nghĩ tới đâu, cảnh liền hiện; đó là tác dụng của thức thứ tám. Tha tâm thông cũng tựa như máy chụp ảnh, có cảnh thì chụp được. Tâm không, cảnh không thì tha tâm thông cũng vô dụng.
389 Mới vào cửa Thiền.
Một
ông tăng hỏi Trần Tôn Túc:
-
Con mới vào cửa Thiền, xin thầy chỉ thị!
-
Ngươi không biết hỏi.
-
Vậy sao, ý thầy là thế nào?
-
Tha cho ngươi 30 gậy, hãy tự mang đi.
(Thiền
Cơ)
Ông tăng xin chỉ thị là có tâm hướng ngoại, thiền sư bảo hãy tự mang đi ám chỉ đừng hỏi người hãy tự hỏi mình.
390 Nơi đây chẳng có cơm thiu.
Huệ
Nhiên đến tham kiến Đức Sơn, khi gập mặt bèn trải bồ
đoàn sửa soạn lễ. Đức Sơn nói:
-
Đừng trải bồ đoàn nữa, nơi đây chẳng có cơm thiu.
-
Giả sử có, cũng không có chỗ để ăn.
Đức
Sơn hươi gậy đánh, Huệ Nhiên nắm lấy gậy đẩy Đức
Sơn về phía thiền sàng. Đức Sơn cười lớn, Huệ Nhiên
khóc mà ra.
(Thiền
Cơ)
Ý của Đức Sơn là nếu ngươi cứ tìm kiếm bên ngoài thì chỉ được cơm thiu mà thôi.
391 Mã Tổ và Tuệ Tạng.
Một
hôm Mã Tổ ở ngoài am, có một người hỏi:
-
Thầy có thấy một con nai chạy qua đây không?
-
Ngươi là ai?
-
Con là thợ săn.
-
Ngươi biết bắn tên không?
-
Đương nhiên là biết.
-
Một tên bắn được mấy con?
-
Một tên, một con.
-
Như vậy ngươi không biết bắn tên.
-
Vậy sao, thầy biết bắn tên không?
-
Biết.
-
Một tên bắn được mấy con?
-
Một tên bắn được cả bầy.
-
Chúng đều có sanh mạng, sao nhẫn tâm bắn cả bầy?
-
Ngươi đã biết vậy sao không tự bắn mình?
-
Con cũng định tự bắn, nhưng không biết chỗ hạ thủ.
-
Vô số kiếp phiền não của ngươi nay đã tuyệt.
Người
thợ săn bèn vứt cung, bẻ tên, theo Mã Tổ xuất gia, sau trở
thành thiền sư Tuệ Tạng.
(Hương
Thủy Hải)
Thiền sư không phải là người không biết phải trái, mà là người ở trong phải trái có khả năng siêu việt và bao dung phải trái.
392 Hòn đá toát mồ hôi.
Một
ông tăng hỏi Thạch Sương:
-
Thế nào là bản phận sự?
-
Hòn đá còn toát mồ hôi sao?
(Thiền
Cơ)
Bản phận sự chỉ tự tánh. Ở hiện tượng giới, hòn đá dĩ nhiên là không thể toát mồ hôi được. Thiền sư hỏi ngược lại "Hòn đá còn toát mồ hôi sao?" là ám chỉ ông tăng lại còn phải hỏi sao?
393 Một con chim anh vũ giỏi.
Một
ông tăng hỏi Hồ Khê:
-
Thầy là người ở đâu?
-
Người huyện Lũng Tây.
-
Nghe nói huyện Lũng Tây có chim Anh Vũ có phải không?
-
Phải!
-
Thầy có không?
Hồ
Khê giả tiếng chim kêu.
-
Một con chim Anh Vũ giỏi!
(Thiền
Cơ)
Chim Anh Vũ chỉ tự tánh. Ở huyện Lũng Tây có chim Anh Vũ, ở đây cũng có chim Anh Vũ; nơi nơi đều có chim Anh Vũ. Thiền sư có, ông tăng có, mọi người đều có. Anh Vũ không đâu không có.
394 Mai xanh trong giỏ.
Chân
Ứng mang giỏ vào phòng phương trượng. Quốc sư hỏi:
-
Trong giỏ có gì?
-
Mai xanh.
-
Dùng làm gì?
-
Cúng dường quốc sư.
-
Còn xanh mà cúng dường nỗi gì?
-
Để tỏ lòng phụng hiếu.
-
Phật chẳng thọ cúng dường.
-
Con chỉ vậy, còn quốc sư thì sao?
-
Ta không cúng dường.
-
Vì sao?
-
Ta không có quả.
(Thiền
Cơ)
Quốc sư nói: "Ta không cúng dường" ám chỉ Chân Ứng đừng cúng dường Phật, quốc sư mà nên tự cúng dường.
395 Thuyền Tử được cá.
Dược
Sơn Duy Nghiêm có ba đại đệ tử là Vân Nham Đàm Thành, Thiên
Hoàng Đạo Ngô (2 thiền sư nổi tiếng) và Thuyền Tử Đức
Thành (ít người biết đến).
Giáp
Sơn Thiện Hội là một người đại căn, 9 tuổi xuất gia
ở núi Long Nha; tuổi còn rất trẻ đã tinh thông tam học,
đã thượng đường giảng kinh rồi. Một hôm, Giáp Sơn Thiện
Hội giảng kinh, gập lúc Thiên Hoàng Đạo Ngô hành cước
tới, bèn ngồi dưới đài nghe giảng. Có một ông tăng hỏi
Giáp Sơn:
-
Thế nào là pháp thân?
-
Pháp thân vô tướng.
-
Thế nào là pháp nhãn?
-
Pháp
nhãn không tỳ vết.
Nói
rồi lại thêm:
-
Trước mắt vô pháp, ý tại trước mắt; không là trước
mắt; pháp chẳng thể do tai mắt mà được.
Đạo
Ngô biết ông còn chưa ngộ đạo, bèn cười. Giáp Sơn thấy
có người cười, bèn hỏi:
-
Sao lại cười?
-
Ngươi là hạng nhất đẳng nhân tài, nhưng đáng tiếc là
không
có
thầy, hãy đến huyện Hoa Đình tham học Thuyền Tử.
-
Làm sao gập được?
-
Vị thầy này trên không đội ngói, dưới chẳng cắm dùi,
ngươi cứ đi thì sẽ biết.
Giáp
Sơn nghe rồi, không giảng kinh nữa, lập tức thay áo đi huyện
Hoa Đình. Giáp Sơn đứng trên bờ sông đợi thuyền, Thuyền
Tử chèo thuyền tới trước mặt. Lên thuyền rồi, Thuyền
Tử hỏi:
-
Tọa chủ trú ở chùa nào?
-
Tự là không trú, trú tức không tự (ở đây ông chơi chữ,
chữ Tự trước là chùa, chữ Tự sau là giống)
-
Chẳng giống, giống cái gì?
-
Trước mặt không tương tự.
-
Ở đâu học được?
-
Mắt, tai chẳng tới được.
Nghe
Giáp Sơn nói, Thuyền Tử cũng giống như Đạo Ngô cả cười
đọc bài Kệ:
Một câu hợp đầu thoại, vạn kiếp buộc cọc lừa.
Buông muôn ngàn thước tơ, ý ở đầm thẳm;
Lìa lưỡi câu ba tấc, nói mau! nói mau!
Giáp
Sơn vừa định mở miệng, Thuyền Tử dùng sào đẩy ông xuống
nước. Giáp Sơn định leo lên thuyền, Thuyền Tử lại nói:
-
Nói mau! nói mau!
Và
dùng sào dìm ông xuống nước. Giáp Sơn ngay lúc đó đại
ngộ, bèn ở trong nước gật đầu ba cái bái sư. Thuyền Tử
cảm khái nói:
-
Câu hết cả sông mới bắt được con cá vàng!
Rồi
lại đọc thêm:
Sợi dây đầu sào, mặc ngươi giỡn
Chẳng phạm sóng xanh, ý mình riêng.
Giáp
Sơn cuối cùng leo được lên thuyền. Thuyền Tử bảo:
-
Ngươi hôm nay đã ngộ đạo rồi, từ giờ trở đi nên vào
núi sâu mà ở, tìm một người hoặc nửa người mà truyền
thụ, đừng để đạo pháp đứt đoạn.
Giáp
Sơn vâng lời, cáo biệt. Thuyền Tử, vừa đi vừa ngoái lại
nhìn. Thuyền Tử hét lớn:
-
Sao không đi mau đi!
Giáp
Sơn đi được vài bước lại quay đầu lại, thấy thuyền
bị lật ngược trên sông, còn Thuyền Tử thì không thấy
đâu nữa.
Thuyền
Tử, Vân Nghiêm, Đạo Ngô là sư huynh đệ. Khi khai ngộ rồi,
từ biệt hai sư huynh nói rằng:
-
Các sư huynh sau này sẽ mỗi người cát cứ một phương, nhất
định sẽ hoằng dương pháp môn của sư phụ. Còn đệ chỉ
ưa nơi thảo dã, sơn thủy. Sau này nếu các sư huynh gập người
nào lợi căn thì bảo họ đến, đệ sẽ đem hết sở học
truyền cấp cho để có thể báo đáp ơn sư phụ!
Nói
rồi bèn vào Tú Sơn, chèo thuyền tùy duyên độ nhật, chờ
cơ duyên đến.
Trong
Thiền sử, câu chuyện Thuyền Tử dạy Giáp Sơn được gọi
là "Thuyền Tử được cá.”
(Hương
Thủy Hải)
Trong Thiền, việc Thiền sư giúp cho đồ đệ khai ngộ gọi là cơ kêu mổ (xem công án số 125) Việc kêu mổ phải tự nhiên, không thể cưỡng cầu được. Cưỡng cầu sẽ sanh họa, như câu chuyện trên nếu cưỡng cầu sẽ bị cây sào làm cho chết chìm.
396 Bố thí.
Một
hôm, A NAN đến khất thực ở một xóm nghèo, một vị thí
chủ nói:
-
Con bần cùng lắm, không bố thí được.
-
Bố thí giúp thí chủ giầu có.
-
Con bần cùng đến 3 bữa ăn còn có khi không đủ, sao bố
thí được?
-
Vậy thí chủ hãy đem bần cùng ra bố thí!
(Thiền,
Sinh Mạng Đích Vi Tiếu)
Làm sao có thể đem bần cùng ra bố thí? Đó là nói nếu ta thực hành bố thí Ba-la-mật, cái tâm bần cùng của ta sẽ theo bố thí mà tiêu tán.
397 Bát Nhã.
Triệu
Châu hỏi Hoàn Trung:
-
Bát Nhã lấy gì làm thể?
Hoàn
Trung đáp:
-
Bát Nhã lấy gì làm thể?
Triệu
Châu cười lớn mà ra. Cách nhật, Hoàn Trung thấy Triệu Châu
đang quét đất bèn lập lại:
-
Bát Nhã lấy gì làm thể?
Triệu
Châu bỏ chổi xuống, vỗ tay cười lớn.
Hoàn
Trung bèn về phòng phương trượng.
(Thiền
Cơ)
Hoàn Trung lập lại câu hỏi là ám chỉ Triệu Châu hãy tự hỏi mình.
398 Ai tội?
La
Hán đang ngắm trăng, bỗng nói:
-
Mây động, có mưa, chạy mau!
Một
ông tăng cãi:
-
Không phải mây động, là gió động!
-
Mây không động, gió cũng không động.
-
Thầy chả vừa nói mây động sao?
-
Ai tội?
(Thiền
Cơ)
Trăng chỉ thể; mây, mưa, gió chỉ hiện tượng.
399 Khoai nước động.
Hưng
Pháp nhìn thấy lá khoai nước rung động bèn nói:
-
Ta sợ lắm!
Tuyết
Phong nói:
-
Ở trong nhà ngươi mà sợ nỗi gì?
(Thiền
Cơ)
Hưng Pháp thấy lá khoai nước động nói sợ là ý nói sợ bị ngoại cảnh chi phối, là còn quan niệm phàm thánh đối lập. Tuyết Phong phá cái chấp này cho ông nên bảo đừng sợ.
400 Hai loại công án.
Bắc
Thiền hỏi một ông tăng:
-
Ngươi từ đâu lại?
-
Hoàng Châu.
-
Ở thiền viện nào?
-
Tư Phúc.
-
Tư Phúc có pháp gì?
-
Hai loại công án.
-
Sao lại ở trong tay Bắc Thiền?
-
Nếu ở trong tay liền bị thu lại.
Bắc
Thiền liền giơ gậy đánh.
(Thiền
Cơ)
Câu đáp của ông tăng:"Nếu ở trong tay liền bị thu lại" là chấp vào lời nên bị mê, vì vậy nên bị đánh.
401 Lục Tổ lâm chung.
Lục
tổ lúc sắp mất, đồ chúng khóc lóc sầu thảm; tổ bảo:
-
Ta đã biết chỗ sẽ tới, các ngươi bất tất phải bi ai.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Nhà Thiền coi chân ngã mới là chủ thể. Chân ngã không bị xác thân hạn chế. Nhưng thường tình người ta coi chết là vĩnh viễn xa cách trần thế nên không ngăn được buồn khổ. Lục tổ coi sống , chết là một. Cái chết chẳng qua như người du khách đổi khách sạn mà thôi.
402 Tắm truồng mà ngộ.
Thiệu
quốc sư lúc còn ở trong chúng hỏi Long Nha:
-
Khi trời chẳng che, đất chẳng chở thì sao?
-
Hợp đạo.
Thiệu
hỏi 17 lần, Nha nói:
-
Nếu ta bảo ngươi, sau này ngươi sẽ chửi ta.
Sau,
Thiệu trú ở Thiên Đài Thông Huyền Phong. Nhân một lần tắm,
hốt nhiên giác ngộ. Bèn đốt hương, hướng về phía Long
Nha lạy nói rằng:
-
Lúc đó nếu thầy nói cho biết, ngày hôm nay nhất định con
sẽ mắng thầy!
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Chuyện này và chuyện khai ngộ của Hương Nghiêm (công án số 1043) giống nhau, nhưng ngộ duyên thì khác. Khi tắm, thân thể trần truồng không một tấc vải đó chính là cảnh tượng trời không che, đất không chở, do đó Thiệu quốc sư xúc cơ mà ngộ.
403 Lã Động Tân.
Theo
truyền thuyết dân gian, Lã Động Tân là một vị tiên trong
bát tiên được kể rõ ràng và đầy đủ trong truyện Bát
Tiên quá hải. Ông rất ái mộ Hà Tiên Cô nhưng không được
đáp ứng. Ông cũng từng đi thi 3 lần nhưng không đậu. Làm
thơ hay, uống rượu giỏi; một lần tại một tửu điếm
ở Trường An gập được Chung Ly Quyền và được truyền
thọ tiên thuật. Học thành bèn vân du khắp nơi. Một hôm
đến Lư Sơn viết trên vách lầu chuông một bài thơ:
一
日 清 閒 自 在 仙
Nhất
nhật thanh nhàn tự tại tiên
六
神 和 合 報 平 安
Lục
thần hòa hợp báo bình an
丹
田 有 寶 休 尋 道
Đan
điền hữu bảo hưu tầm đạo
對
境 無 心 莫 問 禪
Đối
cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Một ngày nhàn nhã, tiên tự tại.
Sáu thần hòa hợp báo bình an.
Đơn điền có báu đâu cần đạo;
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi Thiền.
Sau
đó ít lâu, nhân đi qua Hoàng Long Sơn thấy trên đỉnh núi
có đám mây tím, biết trong núi có dị nhân, liền vào tham
phỏng; gập lúc Huệ Nam thiền sư đang giảng pháp. Huệ Nam
biết Lã Động Tân đến, muốn độ ông bèn nói:
-
Hôm nay trong các người ngồi nghe, có kẻ đến trộm pháp
là ai?
Lã
Động Tân bước ra hỏi:
-
Trong một hạt giẻ chứa cả thế giới, nửa chõ nấu cả
sơn hà, thỉnh thầy nói là ý gì?
-
Ông là quỷ giữ thây.
-
Chẳng biết trong túi ta có thuốc trường sanh bất tử sao?
-
Dù ông có sống đến tám vạn kiếp thì cuối cùng cũng rơi
vào không.
Lã
Động Tân tức giận rút kiếm ném vào Huệ Nam. Kiếm bay đến
nửa đường bỗng rơi xuống. Lã Động Tân bèn vái lạy xin
chỉ giáo. Huệ Nam bảo:
-
Ta không hỏi nửa chõ nấu sơn hà, chỉ hỏi ông tại sao một
hạt giẻ lại chứa cả thế giới?
Lã
Động Tân tức thời đại ngộ, làm bài kệ sau:
棄
卻 瓢 囔 戚 碎 琴
Khí
khước biều nang thích toái cầm
如
今 不 戀 汞 中 金
Như
kim bất luyến hống trung kim
自
從 一 見 黃 龍 後
Tự
tòng nhất kiến hoàng long hậu
始
覺 從 前 錯 用 心
Thủy
giác tòng tiền thác dụng tâm.
Bẻ gãy chiếc bầu, đập nát đàn
Hiện nay chẳng thích nước trữ vàng
Sau khi gập được Hoàng Long đấy
Mới biết từ xưa quấy dụng tâm.
(Thích
Thanh Từ dịch)
Lã Động Tân sinh vào khoảng 860 Tây lịch. Huệ Nam sinh vào khoảng 1002 Tây lịch. Khi hai người gập nhau Lã Động Tân đã gần 200 tuổi lại tự thị mình đã tu tiên đạo lại bị tiểu hòa thượng to tiếng trách mắng đương nhiên không phục. Về sau lại cam tâm thọ giáo, đủ biết uy đức của Hoàng Long thế nào. Ông là người sáng lập Hoàng Long Tông, một trong bẩy tông thiền, đã có một thời cực thịnh. (Hương Thủy Hải)
Lã Động Tân mới đầu tu thuật trường sanh. Do Đó Hoàng Long mới mắng là quỷ giữ thây. Ông lấy làm tự hào về pháp trường sanh này, nhưng Hoàng Long cảnh cáo ông , trường sanh kết quả cũng là không vong. Lúc đó ông hãy còn chấp mà chưa ngộ, đến khi phi kiếm không được mới thực là bị khuất phục, cái tâm chấp trước bị dao động mới chịu lưu tâm tham cứu. Đến khi Hoàng Long hỏi lại một câu, liền đại ngộ.
Trương Tố Dương cũng đã từng nói: người đời căn tính chậm lụt chấp có thân thể, ghét chết thích sống khó mà liễu ngộ. Hoàng lão thương cho lòng tham đó mới cấp cho phép tu sanh Cho thấy tu sanh chỉ là một thủ đoạn không phải là cứu cánh. Về sau có người nhận rằng Lã, Dương hai người chủ trương tánh mạng song tu thật là sai lầm. Nhà Phật bác bỏ tướng ngay có một niệm đầu cũng bác bỏ. Giả như chấp tướng tu sanh hoặc tu mạng thì như đổ dầu vào lửa, tâm đó không thể nhập định được làm sao thấy được tự tánh. (Nhóm Bồ Đề Học Xã)
404 Môi khuấy trà.
Lịch
Thôn đang nấu trà, một ông tăng hỏi:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là gì?
Lịch
Thôn giơ môi trà lên.
-
Là cái đó sao?
Lịch
Thôn bèn ném môi trà vào lò lửa.
(Thiền
Cơ)
Ý tổ sư không đâu không có. Môi trà chẳng phải là ý tổ sư lưu lộ sao? Ông tăng hiểu lầm ý tổ sư là môi trà. Lịch Thôn ném môi trà vào lò lửa ám chỉ ông tăng phải bỏ hết mọi trói buộc.
405 Đơn Hà và Huệ Trung.
Đơn
Hà đến thăm Huệ Trung, gập lúc Huệ Trung đang ngủ trưa.
Đơn Hà hỏi thị giả:
-
Thầy ngươi có nhà không?
-
Có nhà nhưng không tiếp khách!
-
Sâu xa vậy!
-
Dù Phật đến cũng không tiếp.
-
Ngươi là đồ đệ giỏi, thầy ngươi phải lấy làm hãnh
diện vì ngươi.
Đơn
Hà bỏ đi. Khi Huệ Trung thức giấc, thị giả thuật lại.
Huệ Trung đánh thị giả và đuổi ra.
(Zen
Koans)
Huệ Trung là quốc sư (thầy của vua) và rất nổi tiếng, Đơn Hà cũng là một vị đại thiền sư. Thị giả đón tiếp Đơn Hà với cung cách Thiền mới đạt được. Đơn Hà nhận ra ngay sự bắt chước, nhưng ông dùng lời khen như quạt than trên lò cho nóng. Khi thị giả kể lại cho thầy nghe, Huệ Trung bèn dập tắt ngọn lửa này cho ông và đuổi ra. Về sau Đơn Hà nghe được chuyện này khen rằng Huệ Trung xứng đáng được gọi là quốc sư. Huệ Trung và Đơn Hà rất hiểu nhau.
406 Ở trong điện ấy.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là Phật?
-
Ở trong điện ấy!
-
Đó không phải là Phật đất sao?
-
Phải.
-
Thế nào là Phật?
-
Ở trong điện ấy!
(Thiền
Cơ)
Phật tánh không chỗ nào không có. Phật đất lại chẳng phải là Phật tánh lưu lộ sao?
407 Niệm kinh.
Có
một ông tăng đang niệm kinh trong phòng. Đạo Ưng ở ngoài
cửa hỏi:
-
Niệm kinh gì vậy?
-
Kinh Duy Ma.
-
Ta không hỏi kinh Duy Ma, mà hỏi người niệm kinh niệm kinh
gì?
(Thiền
Cơ)
Câu nói ám chỉ ông tăng tự mình niệm bản lai diện mục kinh.
408 Đi hỏi lá vàng.
Một
ông tăng hỏi Toàn Phó:
-
Thiền sư bao nhiêu tuổi?
-
Năm ngoái đã thấy tết Trùng Cửu ( mồng 9, tháng 9), nay lại
thấy trời thu lá vàng rồi.
-
Vậy là niên kỷ đã cao rồi?
-
Đi mà hỏi lá vàng.
(Thiền
Cơ)
Ông tăng hỏi tuổi là còn ở trong hiện tượng giới, còn chấp thời gian. Câu đáp của thiền sư là để phá cái chấp này cho ông.
409 Trâu tốt.
Động
Sơn đang xem ruộng lúa, có một ông tăng dẫn trâu đi qua.
Động Sơn bảo:
-
Phải coi kỹ con trâu này, đừng để nó ăn lúa ruộng.
-
Nếu là trâu tốt thì không ăn lúa ruộng.
(Thiền
Cơ)
Trâu tốt chỉ tự tánh.
410 Trong hang núi nghe được tiếng.
Một
ông tăng hỏi Toàn Phó:
-
Thiền sư viên tịch rồi đi đâu?
-
Nước chẩy không bao giờ gián đoạn, bọt nước theo gió
mà trôi.
-
Còn tiếp nhận cúng tế không?
-
Tiếp nhận.
-
Cúng tế thế nào?
-
Ngư phủ hát, đập mái chèo xuống nước, ở trong hang núi
vẫn nghe được tiếng.
(Thiền
Cơ)
Tự tánh trước khi viên tịch không tăng thêm, sau khi viên tịch không giảm đi, không đâu không có: ở trong nước chẩy, ở trong bọt nước, ở trong tiếng ca của ngư phủ, và ở trong tiếng mái chèo đập nước.
411 Quả nhiên nhìn không thấy.
Một
ông tăng hỏi Diệu Tế:
-
Ngàn thánh thường đi đường này, đường này là đường
gì?
-
Quả nhiên nhìn không thấy.
(Thiền
Cơ)
Đường này là đường thánh không thể nghĩ, bàn, nghe, thấy.
412 Là ý gì?
Một
ông tăng hỏi Thủ An:
-
Tổ sư từ Tây sang Trung Thổ là ý gì?
-
Là ý gì?
-
Bản lai thân là gì?
-
Là thân gì?
-
Lẳng lặng không tựa vào đâu, thì thế nào?
-
Thế nào là lẳng lặng?
(Thiền
Cơ)
Ông tăng hỏi tự tánh, thiền sư không trả lời trực tiếp, ám chỉ ông tăng hỏi dư thừa, chẳng thà tự hỏi.
413 Giang Tây chẳng lập tông sư.
Một
viên quan lại hỏi Thiệu Tông:
-
Nghe nói Giang Tây chẳng lập tông sư có phải không?
-
Gập duyên liền lập.
-
Gập duyên thì lập cái gì?
-
Giang Tây chẳng lập tông sư.
(Thiền
Cơ)
Giang Tây chỉ Thiền hệ của Nam Nhạc Hoài Nhượng. Khi ông quan hỏi, thiền sư trước hết phủ định phản diện làm cho ông ta nghi hoặc, sau đó khẳng định chính diện. Dùng cách thức này khiến cho ông quan có một ấn tượng sâu xa, cả đời chẳng quên.
414 Không tiếng vang.
Một
ông tăng hỏi Đạo Kiền:
-
Chưa thỉnh chuông thì thế nào?
-
Không tiếng vang.
-
Thỉnh chuông rồi thì thế nào?
-
Không tiếng vang.
(Thiền
Cơ)
Chuông
chỉ tự tánh.
415 Siêu việt hình tượng.
Tông
Bảo nói rằng:
-
Những gì bút vẽ thì là tranh, không phải là bút; những gì
mắt thấy thì là vật không phải là mắt; những gì tâm biết
thì là cảnh không phải là tâm.
(Minh
Tâm kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tất cả mọi hình tượng đều là khách trần, nhưng nếu tâm không bị nhiễm tức là tâm vô trụ, thì đạt được cảnh giới siêu việt hình tượng.
416 Vạn tùng không dậy.
Một
ông tăng hỏi Vạn Tùng Hạnh Tú:
-
Nếu một người không lìa sanh tử, cũng không đạt niết
bàn, thầy có dạy hắn không?
-
Ta không dạy.
-
Tại sao?
-
Lão nạp biết phân phải quấy.
Câu
chuyện này được lan truyền đến các thiền viện khác và
một hôm Thiên Đồng nói:
-
Vạn Tùng có thể phân phải quấy, nhưng hắn không thể lấy
bò của nông phu đi hoặc lấy đồ ăn của kẻ đói. Nếu
ông tăng đó hỏi ta thì trước khi dứt lời ta đã đánh ông
rồi. Vì sao? Bởi vì ngay từ đầu ta đã chẳng kể phải,
quấy. (Zen Koans)
Công án này chỉ cho chúng ta biết các phương pháp giảng dạy Thiền khác nhau. Ông tăng hỏi một câu khó có thể trả lời. Làm thế nào có một người vừa không bị mê hoặc vừa không giác ngộ? Vạn Tùng dùng phương pháp nhẹ nhàng và từ tốn, để ý đến thời gian và hoàn cảnh. Ông giống như một thầy thuốc định bệnh và cho đơn thuốc trị đúng bệnh. Còn phương pháp của Thiên Đồng thì mạnh bạo, giống như trị kích ngất. Ông lấy bò của người cầy, lấy đồ ăn của người đói. Ông không kể đến giá trị tương đối phải, quấy, đúng sai nhưng tấn công từ quan điểm tuyệt đối. Phương cách của ông rõ ràng và bi tráng và mọi người coi đó như anh dũng. Phương pháp của Vạn Tùng thì không nóng bỏng như vậy, nhưng là một phương pháp giảng dạy chắc chắn. Cả hai phương pháp đều cần có đồ đệ khá và sự khôn ngoan sâu sắc và cao thượng của thiền sư.
417 Một giấc hoàng lương.
Có
một ông tăng trẻ đến Cổ Sơn gập một ông tăng bị bệnh,
mọi người đều xa lánh. Ông tăng trẻ hết lòng săn sóc
ông tăng bệnh. Được ít lâu ông tăng bị bệnh hồi phục
sức khỏe bèn ra đi. Ông tăng trẻ sau đó lại đi Ngũ Đài
Sơn, trên đường về thấy một ngôi chùa, ông tăng bị bệnh
đứng ngoài cửa nghênh tiếp, nói:
-
Ta đợi ngươi đã lâu rồi!
Bèn
dẫn vào chùa rót nước cho uống. Ông tăng trẻ nói:
-
Bụng đói rồi!
-
Xin đợi một lát, sẽ có cơm ăn.
Nói
rồi ông tăng bệnh dắt trâu ra đồng cầy, gieo hạt, nhổ
mạ, cấy mạ, làm cỏ, gặt lúa, xay thóc, giã gạo, nấu cơm.
Khoảnh khắc bưng cơm nóng ra. Ăn xong ông tăng trẻ từ biệt
để đi. Ông tăng bệnh giữ ở lại một đêm. Hôm sau xuống
núi. ông tăng trẻ thấy cảnh vật vẫn như cũ nhưng những
người quen biết thì không còn ai cả. Thời gian đã trải
qua mấy triều đại rồi.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đối với người ngộ đạo thì vạn năm có thể coi như một niệm.
418 Tang lễ.
Triệu
Châu tham dự tang lễ của một vị hòa thượng cảm khái nói
rằng:
-
Rất nhiều người chết đi đưa một người sống.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Chân ngã không cần thân xác, có thân xác chỉ là ngụy trang mà thôi; cũng như diễn kịch phải mang mặt nạ. Mất bản lai diện mục mới là chết thật. Chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi đều nhận biết được bản lai diện mục. Lời nói của Triệu Châu đâu có gì kỳ, chỉ vì chúng sanh chưa chứng được cảnh này nghe nói liền cho là lạ.
419 Lâm chung.
Động
Sơn sắp mất, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, gõ chuông,
hướng đại chúng từ biệt, ngồi ngay ngắn mà tắt thở.
Đại chúng thương cảm than khóc không thôi. Động Sơn đột
nhiên mở mắt ra nói rằng:
-
Người xuất gia phải giữ tâm không nhiễm mới là tu hành
chân chính. Sanh tử là chuyện thường tình của con người,
buồn thảm có ích gì?
Lại
sai chủ sự biện ngu si trai. Tăng chúng biết soạn trai xong
là phải ly biệt, nên cứ chậm chậm mà làm, kéo dài đến
7 ngày mới xong. Động Sơn cùng đại chúng thọ trai, sau đó
nói:
-
Hãy im lặng một chút, đừng phiền ta; làm tăng đồ khi người
khác sắp mất chớ nên náo động.
Nói
rồi về phòng phương trượng, ngồi ngay ngắn mà chết.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Động Sơn coi chết như về nhà; tác phong tự tại, chỉ người chứng ngộ mới làm được. Những lời nói cuối cùng của ông đáng cho chúng ta chú ý. Một người tu hành khi lìa bỏ thân xác không bị cảm tình chi phối thật không dễ dàng. Đương lúc thần thức ly khai thân xác bên cạnh có tiếng than khóc, người chết dễ bị cảm tình xúc động không thể phi thăng, liền đọa vào vòng sanh tử. Vì vậy, nhà Phật chủ trương lúc lâm tử những người chung quanh nên niệm danh hiệu Phật, không được khóc lóc, cũng không di chuyển thi thể vì cảm giác đau đớn vẫn chưa hoàn toàn mất. Đợi ba ngày sau thì hỏa thiêu.
420 Nhặng xanh đẻ trứng.
Thiền
sư Long Sơn hỏi ông tăng đến tham phỏng:
-
Ngươi từ đâu đến?
-
Từ Lão Túc.
-
Lão Túc có lời gì?
-
Muốn nói thì ngàn vạn lời, không nói thì một tiếng cũng
không.
-
Nói vậy thì cũng như nhặng xanh đẻ trứng?
(Thiền
Cơ)
Nhặng Xanh chỉ tự tánh. Mỗi lần nhặng xanh đẻ là sanh ra nhiều trứng.
421 Động Sơn và Vân Nham.
Một
hôm, Động Sơn hỏi Vân Nham:
-
Lão sư, người có thể cấp mắt cho con không?
-
Mắt ngươi đâu?
-
Con không có mắt.
-
Nếu có mắt thì sao?
-
Sự thực thì cái con muốn không phải là mắt.
Vân
Nham hét lên một tiếng lớn đuổi Động Sơn ra; Động Sơn
không hoảng sợ, bình tĩnh thành khẩn nói:
-
Lão sư, đi ra thì cũng được nhưng con không có mắt, không
thấy rõ đường.
-
Ta đã chẳng cho ngươi mắt rồi sao, sao nói nhìn không thấy?
Động
Sơn nghe lời chỉ dẫn, bỗng nhiên đại ngộ.
(Thiền,
Sinh Mạng Đích Vi Tiếu)
Nhà Thiền nhận rằng tâm tự do là pháp nhãn không bị thành kiến, dục vọng che lấp. Thiền không những dạy buông bỏ tham lam, thành kiến, biên kiến, ngã tướng mà ngay đến cả những tri thức đã học được cũng phải bỏ.
422 Tôn trọng.
Đời
Tống, Tô Đông Pha có một lần đến Kim Sơn Tự ngồi thiền
cùng Phật Ấn. Tô Đông Pha cảm thấy thân tâm thông suốt
bèn hỏi Phật Ấn rằng:
-
Thiền sư! người thấy đệ tử ngồi thiền thế nào?
-
Rất trang nghiêm, giống như Phật.
Tô
Đông Pha rất cao hứng, Phật Ấn lại hỏi Tô Đông Pha:
-
Học sĩ! ngươi thấy ta ngồi thiền như thế nào?
Tô
Đông Pha không bỏ lỡ cơ hội trào lộng, liền đáp:
-
Giống một bãi cứt trâu!
Phật
Ấn nghe rồi cũng không coi đó là lời ngang ngược. Tô Đông
Pha cho rằng lần đàm thoại này mình đã chiếm được thượng
phong, gập bạn bè đều mang ra khoe. Chuyện này đến tai Tô
Tiểu Muội (em gái Tô Đông Pha, rất thông minh, thi từ đều
giỏi), Tô tiểu Muội bèn bảo Tô Đông Pha:
-
Ca ca sai rồi! Trong tâm Thiền sư có Phật nên người thấy
anh như Phật, còn anh trong tâm có cứt nên thấy thiền sư
như cứt.
(Thiền,
Sinh Mạng Đích Vi Tiếu)
Đối đãi với người, mỗi lời nói, cử chỉ đều từ tâm mà ra. Trong Tâm không có ý bình đẳng, tôn trọng thì khi lời nói phát ra dễ làm tổn thương đến tình hữu nghị, chỉ có thiền giả đã đạt Đạo mới có đức khoan dung, tha thứ.
423 Tham lam.
Có
một ông tăng đã học với Vô Đức mấy năm, tự coi là đủ
rồi,
muốn
đi chỗ khác tham học; xin phép thiền sư cho đi. Vô Đức hỏi:
-
Ngươi tự cho là học đủ rồi, ngươi có biết thế nào là
đủ không? Được rồi! trước khi đi hãy xếp một chậu
đá đem lại đây!
Ông
tăng y lời xếp một chậu đá bưng lại. Vô Đức hỏi:
-
Chậu đá này đã đầy chưa?
-
Đầy rồi!
Vô
Đức bèn bỏ mấy nắm cát vào chậu, không có một hạt nào
rơi ra ngoài và hỏi tiếp:
-
Đầy chưa?
-
Đầy rồi!
Vô
Đức lại lấy một chén nước đổ lên, không một giọt
nào tràn ra ngoài và hỏi tiếp:
-
Đầy chưa?
Lúc
đó, ông tăng hoảng nhiên khai ngộ.
(Thiền,
Sinh Mạng Đích Vi Tiếu)
Nhà Thiền coi tham lam là một ác tập, phải trừ bỏ. Người tham lam chỉ hướng ngoại tìm cầu; chỉ muốn nhiều, làm việc cũng như học tập không có bề sâu. Tham lam cũng là một loại chấp trước phải bỏ, vì nó khiến lục căn khi tiếp xúc với lục trần sẽ sinh ra vô tận phiền não đau khổ.
424 Quét đất.
Tào
Sơn hỏi một ông tăng:
-
Ngươi đang làm gì đấy?
-
Quét đất.
-
Quét đằng trước hay đằng sau điện Phật.
-
Trước sau đồng thời quét.
-
Hãy giúp ta kéo giầy lại đây!
(Thiền
Cơ)
Quét đất là chỉ trần ai. Câu đáp của ông tăng "trước, sau đồng thời quét" là chỉ đã siêu phàm nhập thánh. Câu nói của Tào Sơn là bảo thánh cũng phải bỏ.
425 Đồ chồn hoang.
Ma
Cốc đến tham kiến Huệ Trung, nhiễu quanh thiền sàng ba vòng,
sau đó đứng trước mặt thiền sư dộng thiền trượng xuống.
Thiền sư nói:
-
Nếu đã như vậy, đến gập ta làm gì?
Ma
Cốc lại dộng thiền trượng; thiền sư hét:
-
Đồ chồn hoang này! Ra mau!
(Thiền
Cơ)
Cử động của Ma Cốc ám chỉ tự tham, tự chứng. Lần dộng thiền trượng thứ nhì là rơi vào thánh cảnh.
426 Nắng vào cửa giấy.
Một
lão hòa thượng thấy nắng chiếu vào cửa giấy bèn hỏi
Duy Chính:
-
Cửa giấy làm sáng nắng hay nắng làm sáng cửa giấy?
-
Trong phòng có khách, trưởng lão hãy về coi.
(Thiền
Cơ)
Nắng làm sáng giấy hay giấy làm sáng nắng là còn sai biệt; Duy Chính đề tỉnh hòa thượng hãy còn phân chủ, khách.
427 Vì một người.
Vân
Nham hỏi Bách Trượng:
-
Thiền sư cả ngày bận rộn vì ai vậy?
-
Vì một người.
-
Sao không bảo hắn tự làm?
-
Hắn không có công cụ.
(Thiền
Cơ)
Một người chỉ tự tánh.
428 Đạo lý ảo diệu.
Một
ông tăng hỏi Trí Thường:
-
Thế nào là đạo lý ảo diệu?
-
Không có người nào có thể lãnh hội.
-
Có phương hướng không?
-
Có phương hướng liền sai.
-
Vậy sao? Không có phương hướng thì lại là cái gì?
-
Là ai đang hỏi đạo lý ảo diệu?
Cách
một lúc lại nói:
-
Đi, đi, nơi đây không phải là chỗ dụng tâm của ngươi!
(Thiền
Cơ)
Đạo lý ảo diệu chỉ tự tánh; nếu còn có nghi vấn về phương hướng thì sai.
429 Con hổ.
Trí
Kiên, Quy Tông theo Nam Tuyền đi vân du. Một hôm trên đường
gập một con hổ đi ngang qua. Nam Tuyền hỏi:
-
Vừa gập hổ, thấy giống cái gì?
Quy
Tông đáp:
-
Giống con mèo nhỏ.
Trí
Kiên đáp:
-
Giống con chó nhỏ.
Và
hỏi ngược lại Nam Tuyền, Nam Tuyền đáp:
-
Ta thấy là một con vật lớn.
(Thiền
Cơ)
Đáp mèo, chó là còn sai biệt, câu đáp của Nam Tuyền "là một con vật lớn" thì không còn phân biệt hổ, chó, mèo.
430 Na Tra thái tử.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử:
-
Na Tra thái tử lóc xương trả bố, lóc thịt trả mẹ, bản
lai thân của Na tra là gì?
Đầu
Tử bỏ tích trượng đang nắm trong tay ra.
(Thiền
Cơ)
Bản lai thân chỉ tự tánh. Cử chỉ của Đầu Tử là bảo ông tăng muốn thấy tự tánh thì phải buông bỏ tất cả mọi chấp trước.
431 Tên bán dưa ở Qua Châu.
Nham
Đầu dẫn La Sơn đi tìm đất lập tháp. Đi được một quãng
La Sơn gọi:
-
Thiền Sư!
-
Cái gì?
-
Lô đất này đẹp không?
-
À! gã bán dưa ở Qua Châu.
(Thiền
Cơ)
Câu nói của Nham Đầu có ý là gã bán dưa ở Qua Châu dĩ nhiên là khoe khoang dưa ngon; ám chỉ lập tháp chỗ nào mà chả được, cứ gì phải chấp chỗ này, chỗ kia.
432 Nhắm mắt thè lưỡi.
Một
ông tăng hỏi Hồng Tiến:
-
Thế nào là mặt mũi xưa nay?
Hồng
Tiến nhắm mắt thè lưỡi, rồi mở mắt thè lưỡi. Ông tăng
lại hỏi:
-
Mặt mũi xưa nay lại có nhiều dạng như vậy sao?
-
Vừa rồi ngươi nhìn thấy gì?
(Thiền
Cơ)
Mặt mũi xưa nay chỉ tự tánh. Thiền sư nhắm mắt, mở mắt thè lưỡi ám chỉ đó không phải là mặt mũi xưa nay. Ông tăng không hiểu nên thiền sư lại nói: "Vừa rồi ngươi nhìn thấy gì?" là chỉ vừa rồi ngươi nhìn thấy chỉ là mặt thịt (hiện tượng giới) còn mặt thật (bản thể giới) ở đâu?
433 Ba vị bồ tát.
Có
ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
-
Thế nào là Văn Thù?
-
Tường vách, gạch ngói.
-
Thế nào là Quán Âm?
-
Âm thanh, ngôn ngữ.
-
Thế nào là Phổ Hiền?
-
Tâm chúng sanh.
-
Thế nào là Phật?
-
Là sắc thân chúng sanh.
-
Hà sa chư Phật đều cùng một thể, vì sao có nhiều tên?
-
Từ nhãn, nhĩ, tâm về nguồn lần lượt gọi là Văn Thù,
Quán Âm, Phổ Hiền. Văn Thù là diệu quán sát trí, Quán Âm
là đại từ, Phổ Hiền là vô vi diệu hạnh của Phật.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Ba vị bồ tát là Dụng của Phật; Phật là Thể của ba bồ tát. Dụng có hà sa giả danh, Thể có tổng danh là Bạc Già Phạm.
434 Oanh hót.
Có
một ông tăng đọc kinh Pháp Hoa, gập câu: " Chư pháp bản
tịch diệt" bèn khởi nghi tình, ngày đêm không ngừng tham
cứư. Bỗng nhiên nghe tiếng chim oanh hót hoảng nhiên đại
ngộ bèn viết một bài kệ:
諸
法 從 本 來
Chư
pháp tòng bản lai
皆
自 寂 滅 相
Giai
tự tịch diệt tướng
春
至 百 花 開
Xuân
chí bách hoa khai
黄
鶯 啼 柳 下
Hoàng
oanh đề liễu hạ
Các pháp từ xưa nay
Tướng vốn tự tịch diệt
Xuân đến trăm hoa cười
Dưới liễu Oanh ríu rít.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đây là cảnh giới động tĩnh là một. Từ các động tướng: hoa nở, oanh hót mà ngộ được tịch diệt tướng. Đại tự nhiên tuy là phức tạp nhưng vẫn theo một trật tự nhất định, tỷ như trăm hoa nở, oanh hót đều ở mùa Xuân, sao không xẩy ra ở mùa Đông? Đủ thấy hoa nở, oanh hót đều theo một thứ tự bất biến. Đó là mặt tĩnh. Hoa nở rồi tàn, oanh hót rồi có lúc cũng phải ngưng. Đó là mặt động. Cùng một sự vật nếu ta nhìn dưới góc độ bất động nó là tĩnh, nếu ngược lại nó là động. Động và tĩnh khó mà phân được. Dùng thường thức mà phân tích chúng ta thấy có sự phân biệt giữa Động và Tĩnh. Nhưng những người đã ngộ thì không thấy có động tướng nữa.
435 Nghe tiếng ếch.
Cư
sĩ Trương Cửu Thành, có một lần tham cứu một công án,
bỗng nhiên nghe tiếng ếch kêu, lập tức đại ngộ, bèn viết
hai câu kệ:
春
天 月 夜 一 聲 蛙
Xuân
thiên nguyệt dạ nhất thanh oa
撞 破 乾 坤 共 一 家
Tràng
phá càn khôn cộng nhất gia
Đêm xuân trăng sáng, một tiếng ếch kêu
Khua vang vũ trụ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Ngộ duyên của công án này cũng tương tự như của công án trước, cũng từ trong tĩnh nghe thanh âm mà ngộ. Một người nghe tiếng oanh hót, một người nghe tiếng ếch kêu đều ở cùng trong một cảnh sắc đẹp đẽ, lúc đó cảm giác thấy vật ngã, động tĩnh chẳng phân, tất cả hòa thành một thể.
436 Giảng Kinh Niết Bàn.
Thượng
tọa Thái Nguyên Phu về ở Duy Dương. Trần thượng thư lưu
lại nhà để cung dưỡng. Một hôm ông nói với thượng thư
rằng:
-
Ngày mai ta sẽ giảng kinh Đại Niết Bàn để báo đáp thượng
thư.
Hôm
sau thăng tòa. Rất lâu, cầm thước vẩy một cái, nói:
-
Ta được nghe như vầy
ngưng
lại, rồi gọi:
-
Thượng thư!
-
Dạ
-
Nhất thời Phật tại.
Nói
rồi thoát khứ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Nhân giảng kinh Niết Bàn mà nhập Niết Bàn; có thể nói là hiện thân thuyết pháp, hơn cả nói ngàn vạn lời.
437 Một cây bách.
Quy
Sơn và Ngưỡng Sơn cùng đi trên đường. Quy Sơn chỉ một
cây Bách, hỏi:
-
Trước mặt là gì?
-
Chỉ là cây Bách.
Quy
Sơn lại chỉ lão nông phu phía sau cây Bách nói:
-
Đằng sau lão nông có 500 chúng.
Rồi
lại hỏi:
-
Họ từ đâu về?
-
Từ ruộng về.
-
Có gặt lúa không?
-
Có gặt.
-
Lúa xanh, lúa vàng hay không xanh không vàng?
(Thiền
Cơ)
Cây Bách chỉ chướng ngại, 500 chúng chỉ tự tánh. Quy Sơn ám chỉ phải phá bỏ mọi tầng lớp chướng ngại mới có thể kiến tánh.
438 Nửa mảnh trăng.
Một
tối Chân Giác chỉ trăng lưỡi liềm trên không hỏi một
ông tăng:
-
Nửa mảnh trăng kia đâu?
-
Đừng vọng tưởng.
-
Mất nửa mảnh rồi!
(Thiền
Cơ)
Nửa
mảnh kia chỉ tự tánh.
439 Sọt tre.
-
Trời mưa nhà dột rồi kìa! Mau mang vật gì lại hứng!
Có
chú tiểu nghe sư phụ hô hoán vội mang một cái sọt tre lại.
Một ông tăng nghĩ sọt tre không thể đựng nước bèn chạy
đi tìm một cái chậu mang lại. Sư phụ bèn khen chú tiểu
cơ phong linh mẫn. (Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Bất cứ một pháp lý giải thoát nào đều dùng vô tâm. Nếu lấy trí phán đoán rồi sau đó mới hành động thì không phải là thiền. Cái gọi là Thiền, trước hết là ngồi Thiền khiến tự kỷ biến thành Hư Vô (chân không vô tướng), nghĩa là từ sai biệt biến thành bình đẳng. Sau đó thể nghiệm được tự tha bất nhị.
440 Bài Kệ Của Tô Đông Pha.
Thi
sĩ Tô Đông Pha (1030-1101) đi Lư Sơn chơi, tham kiến Thường
Tổng hòa thượng ở Long Hưng Tự. Hai người bàn luận về
Vô Tình thuyết pháp suốt đêm. Đến gần sáng Tô Đông Pha
hoát nhiên khế ngộ bèn làm một bài kệ:
溪
聲 盡 是 廣 長 舌
Khê
thanh tận thị quảng trường thiệt
山
色 無 非 清 淨 身
Sơn
sắc vô phi thanh tịnh thân
夜
來 八 萬 四 千 偈
Dạ
lai bát vạn tứ thiên hạt
他
日 如 何 舉 似 人
Tha
nhật như hà cử tự nhân
Mầu sắc núi chính thân thanh tịnh
Tiếng suối reo, tướng lưỡi rộng dài
Đêm tham tám vạn bốn ngàn kệ
Ngày sau sao chỉ được cho người?
(Ngộ
Không dịch)
Về
sau Tuyết Đường (1062-1120) đọc bài kệ này cho rằng những
chữ tận thị, vô phi, dạ lai tha nhật đều là dư thừa nên
bỏ. Bài kệ trở thành:
Khê thanh quảng trường thiệt
Sơn sắc thanh tịnh thân
Bát vạn tứ thiên hạt
Như hà cử tự nhân.
Sắc núi thân thanh tịnh
Suối reo lưỡi rộng dài
Tám vạn bốn ngàn kệ
Làm sao chỉ cho người.
Bạch Ẩn (1685-1768) lại nói tướng lưỡi rộng dài, thanh tịnh thân cũng phải bỏ, chỉ cần tiếng suối reo và mầu sắc núi là đủ. Hòa Sơn lại còn tiến thêm một chút nữa, tiếng suối reo, mầu sắc núi cũng không cần, chỉ cần một tiếng hừ. (Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Dù luận bàn thế nào mọi người đều đồng ý với Tô Đông Pha "ngày sau làm sao bảo cho người.”
441 Thân, tâm là một.
Có
một lần Đại Huệ ngắm một bức tranh vẽ hài cốt dưới
có đề hàng chữ:
-
Thây tại chỗ này, còn người ở đâu?
Mới
hay, linh hồn chẳng ở túi da, bèn nói rằng:
-
Đây đâu phải là Phật pháp mà là kiến giải của ngoại
đạo!
Lập
tức cầm bút lên viết:
Cốt đâu, người đó.
Linh hồn túi da, túi da linh hồn.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Thân thể và linh hồn không thể phân ra. Nếu tu hành đạt được giai đoạn tịch diệt thì giải thoát được sâm la vạn tượng, chư pháp phiền não. Mọi pháp đều tịch diệt. Tánh (bản thể) và tướng (hiện tượng) đều không có gì phân biệt. Nếu đã biết vậy, còn nói thân diệt, nhưng linh hồn không diệt chả là trái lại với chân lý sao? Chúng ta nên biết sanh tử và niết bàn là một, ngoài sanh tử chẳng có niết bàn.
442 Đạt Ma về nước.
Tổ
sư Đạt Ma thị tịch được ba năm. Tống Vân đi sứ Tây
Vực trở về ngang qua ngọn Thông Lãnh thấy Đạt Ma tay cầm
một chiếc dép. Tống Vân hỏi người đi đâu, tổ đáp đi
về Tây Thiên. Tống Vân về nước đem chuyện này tâu lên
vua. Ngụy đế sai quật mộ của Đạt Ma, chỉ thấy còn một
chiếc dép ngoài ra không có gì cả.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đạt Ma còn sống hay đã chết, không ai có thể khẳng định được. Loại thần thông du hý này cũng giống như tổ Ca Diếp nhập định tại Kê Túc Sơn đều không thể nghĩ bàn.
443 Thiện tri thức.
Sơ
thiền sư nói rằng:
-
Bậc thiện tri thức là người đuổi trâu của nông phu, cướp
cơm của kẻ đói.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Người nông phu coi trâu và người đói coi cơm như tánh mạng, đều là cái chấp lớn. Câu nói của Sơ thiền sư có ý nếu muốn đoạn tập phải có tinh thần dũng cảm như tráng sĩ có thể tự chặt tay. Từ chính mình nhận ra nơi hạ thủ, có thể bỏ được cái khó bỏ đó mới là chân chánh đoạn tập.
444 Hàn Sơn và Xả Đắc.
Xả
Đắc do Phong Can lượm từ núi về nuôi nên gọi là Xả Đắc.
Một hôm, một ông tăng hỏi Xả Đắc tánh (họ) gì? Xả Đắc
bỏ chổi đang quét xuống, khoanh tay mà đứng. Hàn Sơn nói:
-
Trời xanh! Trời xanh!
Xả
Đắc hỏi:
-
Ngươi làm gì?
-
Ngươi không thấy nhà bên Đông có người chết, nhà bên Tây
có người khóc sao?
Hai
người nhẩy múa, khóc cười mà đi. Về sau thứ sử Lư Khâu
đến kiếm hai người, hai người bèn vào hang đá ẩn. Cửa
hang bỗng nhiên khép lại, từ đó hai người sống chết thế
nào thì không ai biết.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Xả Đắc không nói chỉ rằng tự tánh không thể nói được. Hàn Sơn nói trời xanh là chỉ không tánh. Nếu đã không thể tánh, thì không có sanh tử. Chúng sanh không hiểu lý này nên vì người chết mà khóc.
445 Tọa Thiền.
Lục
tổ nói:
-
Ngộ đạo là do Tâm há tại ngồi sao? Kinh nói nếu thấy Như
Lai hoặc ngồi hoặc nằm là vào đường tà. Tại sao vậy?
Vì Như Lai không từ đâu lại, cũng không đi về đâu, chẳng
sanh, chẳng diệt. Đó là Như Lai thanh tịnh thiền. Chư pháp
không tịch đó là Như Lai thanh tịnh tọa. Cứu cánh khai
ngộ không có biểu tướng, huống hồ là ngồi?
(Hương
Thủy Hải)
Lục tổ cho chúng ta loại kiến giải vượt lên biểu tướng. Đối với tất cả các pháp thiện, ác không khởi tâm niệm đó là Tọa, nội kiến tự tánh không động gọi là Thiền.
446 Đức Sơn và thị giả.
Một
hôm, thị giả của Đức Sơn hỏi thầy:
-
Chư tổ và chư tiên đức đã mất, họ ra sao rồi?
-
Ta không biết họ ở đâu!
-
Con tưởng nhận được câu trả lời như ngựa phi, ngờ đâu
chỉ như rùa bò!
Đức
Sơn im lặng như chịu thua. Hôm sau, lúc tắm xong Đức Sơn
vào phòng ngồi, thị giả dâng trà. Đức Sơn vỗ vai thị
giả và hỏi:
-
Công án ngươi hỏi hôm qua sao rồi?
-
Hôm nay thiền phong của thầy đã khá hơn.
Đức
Sơn vẫn giữ im lặng như chịu thua.
(Zen
Koans)
Thái độ của Đức Sơn tự nhiên giống như tấm mành lay động trước gió. Thị giả là một ông tăng thông minh nhưng sự thử thách của ông đã không gập chống đối. "Ta không biết họ ở đâu.” Thị giả bất mãn và thốt ra lời oán trách thầy. Nhưng Đức Sơn không làm một cố gắng nào để chống trả. Hôm sau, thái độ của Đức Sơn mới mẻ hơn; tuy nhiên tâm thị giả vẫn vậy. Vì vậy Đức Sơn thân thiện hỏi ông "Công án ngươi hỏi hôm qua thế nào rồi?” Lần này thị giả khen ngợi thầy, nhưng Đức Sơn vẫn giữ thái độ im lặng đối với lời khen cũng như lời chỉ trích. Một bức rèm đong đưa về phía trước rồi về phía sau trong gió. Tự nhiên là phong cách của người đạt Đạo.
447 Ba Tư ăn hồ tiêu.
Một
ông tăng hỏi Phúc Khê:
-
Các duyên bên ngoài phân tán rồi trở về không, còn không
thì trở về đâu?
-
Hòa thượng!
-
Dạ!
-
Không ở đâu?
-
Thỉnh thiền sư nói.
-
Ba Tư ăn hồ tiêu.
(Thiền
Cơ)
"Ba Tư ăn hồ tiêu" ám chỉ không thể nói ra được, nhưng nếu muốn nói thì cứ tùy tiện mà nói cũng được.
448 Cưỡi trâu tìm trâu.
Đại
An hỏi Bách Trượng:
-
Đệ tử muốn nhận biết Phật, cái gì là Phật?
-
Giống như cưỡi trâu tìm trâu.
-
Nhận biết rồi thì sao?
-
Giống như cưỡi trâu về nhà.
-
Làm sao giữ được ngộ cảnh?
-
Giống như trẻ trăn trâu, nắm lấy dây buộc không cho trâu
ăn lúa ruộng người.
(Thiền
Cơ)
Trâu chỉ tự tánh.
449 Xoè tay.
Ngưỡng
Sơn hỏi Thiện Đạo:
-
Phật và Đạo cách nhau bao xa?
-
Đạo giống như xoè tay ra, Phật giống như nắm tay lại.
-
Làm sao tin được?
Thiện
Đạo vung tay 2 , 3 lượt và nói:
-
Không có chuyện này!
(Thiền
Cơ)
Phật, Đạo đều chỉ tự tánh, tên khác nhưng ý đồng. Ngưỡng Sơn còn chấp danh tướng nên Thiện Đạo phá chấp này cho ông nên bảo Phật và Đạo giống nhau như nắm tay và xoè tay, nhưng ông lại chấp vào nắm và xoè nên Thiện Đạo lại vung tay và nói không có chuyện này.
450 Ngã xuống.
Một
tăng hỏi Tào Sơn:
-
Không có người nào ngã xuống đất mà không bò dậy, thế
nào là ngã xuống?
-
Chỉ cần ngươi chịu.
-
Thế nào là bò dậy?
-
Bò dậy rồi!
(
Thiền Cơ)
Ngã xuống và bò dậy là sự sai biệt trong hiện tượng giới. Các câu "chỉ cần ngươi chịu" và "bò dậy rồi" đều ám chỉ ông tăng đừng chấp vào đối đãi sai biệt.
451 Vỗ kiếm giết người.
Một
ông tăng hỏi Tào Sơn:
-
Trong nước người vỗ kiếm là ai?
-
Tào Sơn.
-
Định giết ai?
-
Ai cũng giết.
-
Bỗng gập cha mẹ phải làm sao?
-
Còn chọn lựa gì nữa?
-
Còn mình thì sao?
-
Ai làm gì được ta?
-
Vì sao không giết?
-
Không có chỗ hạ thủ.
(Thiền
Cơ)
Kiếm chỉ tự tánh, chém đứt mọi căn trần. Đối với người đã thấy tánh rồi thì như tường đồng, vách sắt không có chỗ hạ thủ.
452 Tâm của cổ Phật.
Có
ông tăng hỏi Nam Dương Trung quốc sư:
-
Thế nào là tâm của cổ Phật?
-
Tường vách, ngói gạch.
-
Tường vách, ngói gạnh chẳng phải là vật vô tình sao?
-
Phải.
-
Có nói pháp không?
-
Thường nói, chẳng nghỉ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đây là từ phương tiện thuyết pháp mà thể nhận vật, ngã là một. Pháp không thể nói, nói được là pháp sanh diệt, không phải tự tánh. Không nói, không nghe mới là tự tánh, tịch diệt.
453 Điều sâu xa nhất.
Đạo
Ngộ đang ngồi Thiền trên thiền sàng, một ông tăng đến
hỏi:
-
Điều sâu xa nhất của giáo pháp là gì?
Đạo
Ngộ bước xuống thiền sàng nói với ông:
-
Ngươi từ nơi xa xôi đến đây, nhưng rất tiếc ta không có
gì cho ngươi cả.
(Zen
Koans)
Câu hỏi của ông tăng hãy còn chấp vào nông, sâu. Pháp giới không thể đo bằng nông, sâu. Nó vượt lên nông, sâu, đúng sai, tốt xấu.
454 Vân Cư.
Thiền
sư Vân Cư có nhiều đồ đệ, một đồ đệ người Tân La
(Đại Hàn) thưa:
-
Con có đạt được một cái gì đó, nhưng không thể nào diễn
tả ra được, tại sao vậy?
-
Đâu có gì khó.
-
Xin thầy chỉ cho con.
Thiền
sư kêu:
-
Tân La! Tân La!
Và
kết thúc cuộc đối thoại. Về sau một vị thiền sư khác
phê bình:
Vân
Cư không hiểu ông tăng một chút nào cả. Dầu họ sống trong
cùng một thiền viện, nhưng cách nhau cả một đại dương.
(Zen
Koans)
Vân
Cư là một vị thiền sư lớn, sáng tổ của dòng thiền Tào
Động, có hơn 1500 đồ chúng. Ông tăng trong câu chuyện này
muốn sư phụ diễn tả ngộ cảnh của mình ra lời
nói cũng giống như một thanh niên đang yêu nói với người
yêu rằng:
-
Anh yêu em, anh có một cảm giác kỳ diệu nhưng không thể
nào diễn tả ra được.
Và
người thiếu nữ trả lời:
-
Tại sao không , có gì khó đâu anh.
Chàng
thanh niên năn nỉ:
-
Thế thì em hãy diễn tả giùm anh đi.
Thiếu
nữ kêu lên:
-
Ồ! Anh Cưng!
Và
vòng tay ôm lấy chàng vào lòng.
Giác
ngộ và tình yêu chỉ có thể biết do kinh nghiệm. Lời phê
bình của vị thiền sư kia là không đúng.
455 Thời gian của Quy Sơn.
Quy
Sơn nói với đồ đệ rằng:
-
Mỗi năm, mùa Đông lập lại những ngày lạnh. Năm ngoái cũng
lạnh như năm nay, và sang năm cũng lạnh như thế này. Các
ngươi hãy cho ta biết những ngày nào của năm được lập
lại?
Ngưỡng
Sơn bước ra lạy rồi đứng im. Quy Sơn nói:
-
Ta biết ngươi không trả lời được câu hỏi của ta, và
quay ra hỏi Hương Nghiêm:
-
Còn ngươi thì sao?
-
Con có thể trả lời được câu hỏi của sư phụ.
Nhưng
trước khi ông nói thêm thì Quy Sơn đã cắt ngang:
-
Ta rất mừng Ngưỡng Sơn không trả lời được câu hỏi của
ta.
(Zen
Koans)
Thời gian trôi qua như nước chẩy trong sông. Mùa Đông, mùa Hạ đến rồi đi, năm này qua năm khác, không cần giải thích. Chúng ở trên quyền hạn của con người. Ngưỡng Sơn, Hương Nghiêm đều không thể trả lời được. Nhưng Hương Nghiêm nói rằng mình trả lời được. Quy Sơn cắt ngang không cho ông nói vì không trả lời hay hơn là một câu trả lời khái niệm. Chân lý vượt lên trên khái niệm và giải thích.
456 Vượt lên ngoài vật.
Một
tối, Mã Tổ cùng ba đồ đệ ưu tú là Tây Đường, Bách
Trượng, Nam Tuyền thưởng trăng. Mã Tổ hỏi :
-
Chính lúc này nên làm gì?
Tây
Đường đáp:
-
Chính là lúc cúng dường.
Bách
Trượng đáp:
-
Chính là lúc tu hành.
Chỉ
có Nam Tuyền không đáp, phất tay áo mà đi. Mã Tổ nói:
-
Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Nam Tuyền vượt ra
ngoài vật.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Từ xưa đến nay hiếm người có thể vượt ra ngoài vật, thoát khỏi danh, lợi; ngay tu chứng cũng chẳng màng.
457 Bài kệ cuối cùng của Pháp Tiến.
Một
hôm, Pháp Tiến tiên đoán mình sẽ mất sau bẩy ngày. Đến
ngày thứ bẩy ông triệu tập môn đồ lại và nói:
-
Theo tục lệ, phải viết một bài kệ từ giã, nhưng ta không
phải là một thi sĩ, cũng không phải là một nhà thư họa,
một người trong các ngươi hãy viết hộ ta.
Nói
rồi ông liền đọc:
Ta từ nơi xán lạn
Và lại trở về nơi xán lạn
Thế là gì?
Ông
tăng đang chép thưa:
-
Còn thiếu một câu nữa!
Pháp
Tiến bèn hét lên một tiếng và mất.
(Zen
Koans)
Pháp
Tiến học thiền ở Trung Hoa nhiều năm. Sau khi trở về Nhật
Bản ông giảng dạy ở vùng Đông Bắc. Trước sự kiện xẩy
ra trong công án này ông thường kể câu chuyện ông nghe được
ở Trung Hoa cho đệ tử nghe. Một năm, vào ngày 25, tháng chạp,
một vị thiền sư già nói với đệ tử:
-
Năm tới ta sẽ không ở cùng với các ngươi nữa, vậy các
ngươi hãy cư sử tốt với ta trong năm nay.
Đồ
chúng cho là lời nói đùa, nhưng họ vẫn đối đãi ân cần
với thầy. Vào chiều ngày đầu năm mới, thiền sư nói với
chúng đệ tử:
-
Ta sẽ ra đi vào ngày mai, khi trời ngưng tuyết.
Đồ
chúng cười và nghĩ rằng thầy mình đã lẫn. Nhưng vào nửa
đêm thì trời bắt đầu đổ tuyết và sáng hôm sau họ không
thấy thiền sư đâu. Sau cùng tìm thấy thiền sư ở thiền
đường và đã qua đời. Pháp Tiến kể lại chuyện này và
bàn rằng các thiền sư có thể (mặc dầu không cần thiết)
tiên đoán cái chết của mình, như ông đã làm trong công án
này.
Lời
nói cuối cùng của Pháp Tiến diễn tả khái niệm về Tương
Lai của nhà Phật. Ông từ nơi xán lạn tới và lại trở
về nơi xán lạn. Đời sống là vĩnh hằng. Chúng ta đến
từ đời sống vĩnh hằng và sẽ trở lại đời sống vĩnh
hằng. Chúng ta đương sống đời sống vĩnh hằng nhưng vì
vô minh nên chúng ta không biết.
458 Khoái hoạt! Khoái hoạt!
Câu
nói đầu môi của Đàm Chiếu là:
-
Khoái hoạt! Khoái hoạt!
Khi
sắp mất lại kêu lên:
-
Khổ rồi! Khổ rồi! Diêm Vương đến bắt ta!
Một
ông tăng hỏi:
-
Thiền sư lúc bị Tiết Độ Sứ ném xuống nước mà thần
sắc vẫn không đổi, sao bây giờ lại trở thành thế này?
Thiền
sư giơ chiếc gối lên hỏi lại:
-
Lúc đó đúng hay bây giờ đúng?
Ông
tăng không đáp được.
(Thiền
Cơ)
"Khoái
hoạt! Khoái hoạt!" chỉ tự tánh. "Khổ rồi! Khổ rồi! Diêm
Vương đến bắt ta" chỉ thân thể. Thiền sư là người đại
tự
tại,
phàm thánh không làm trở ngại được.
459 Lùn và cao.
Tòng
Triển hỏi một ông tăng:
-
Ngươi làm công đức gì mà thân thể cao lớn vậy?
-
Thiền sư lùn nhiều, ít?
Tòng
Triển khom người xuống làm dáng lùn, ông tăng nói:
-
Thầy chẳng nên mắng người.
-
Chẳng phải ngươi mắng ta sao?
(Thiền
Cơ)
Cao và lùn là thuộc sự sai biệt ở hiện tượng giới. Thiền sư làm dáng lùn, ám chỉ ông tăng nhận đó là lùn sao? để đả phá cái chấp sai biệt của ông.
460 Ngưỡng Sơn ngồi Thiền.
Một
hôm Ngưỡng Sơn đang ngồi thiền, một ông tăng lại đứng
bên cạnh. Ngưỡng Sơn bèn vẽ một vòng tròn trên đất và
viết chữ thủy (nước) ở dưới. Sau đó nhìn ông tăng dò
hỏi, ông tăng không thể trả lời được.
(Zen
Koans)
Kỷ
luật của thiền giống như luyện võ. Thầy và trò phải tập
luyện với nhau. Ông tăng đến đứng cạnh Ngưỡng Sơn là
có ý thử thách thầy. Ngưỡng Sơn hiểu ý vẽ ngay một vòng
tròn và viết chữ thủy ở dưới, nhìn ông ta như muốn nói:
-
Được rồi, ngươi hiểu không?
Đáng
thương cho ông tăng. Đây có phải là bảo ông mang một thùng
nước lại không? Nếu ông muốn giải đáp chuyện này bằng
lý luận, ông không bao giờ hiểu ý Ngưỡng Sơn. Dĩ nhiên
ông không thể thốt ra lời. Ông tới để thử thách Ngưỡng
Sơn, nhưng kết quả lại ngược lại. Ngưỡng Sơn viết chữ
Thủy, dù có viết bao nhiêu chữ Thủy đi nữa thì cũng không
thể nào làm cho hết khát. Còn vòng tròn là để chỉ thực
tại toàn hảo. Nhưng đối với ông tăng thì cũng giống như
một bức vẽ bánh mì, không bao giờ có thể làm no lòng ông
được. Một người không thể nào hiểu được chân lý của
cuộc sống, dù được giải thích cặn kẽ, trừ phi người
ấy đã sẵn sàng tiếp nhận. Đối với ông tăng này có lẽ
tốt hơn là cho ông ta một bạt tai hay một tiếng hét hơn
là cho ông một công án biểu tượng.
461 Đức Phật và Phạm Chí.
Phạm
Chí hai tay dâng hoa hiến Phật. Phật nói:
-
Bỏ xuống đi!
Phạm
Chí buông tay trái xuống.
-
Bỏ xuống đi!
Phạm
Chí lại buông tay phải xuống.
-
Bỏ xuống đi!
-
Bạch đức Thế Tôn, con đã bỏ hoa xuống hết rồi còn gì
để bỏ xuống nữa?
-
Ta nói bỏ xuống là bảo ngươi ngoài bỏ sáu trần, trong bỏ
sáu căn, giữa bỏ sáu thức.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tâm có Chân Tâm và Tập Tâm. Chân Tâm là tự tánh là thể của chúng sanh. Tập Tâm là do kinh nghiệm sanh hoạt tập nhiễm. Tập tâm chấp tướng, chạy đuổi theo vật, là chướng ngại lớn của sự tu hành. Quán tâm là trực chỉ chân tâm, trị tâm là trừ bỏ tập nhiễm. Ở đây, đức Phật bảo phải bỏ tập nhiễm.
462 Quy Sơn và Ngưỡng Sơn.
Cuối
kỳ hạ, Ngưỡng Sơn đến gập thầy. Quy Sơn hỏi:
-
Cả kỳ hạ, ta không thấy ngươi, ngươi làm gì?
-
Con làm ruộng và gặt được một thùng kê.
-
Vậy, ngươi đã không uổng phí mùa kết hạ.
-
Còn sư phụ thì sao?
-
Mỗi ngày ta ăn một bữa vào chính ngọ và ngủ vài giờ sau
nửa đêm.
-
Vậy thầy đã không uổng phí mùa kết hạ.
Ngưỡng
Sơn nói rồi thè lưỡi ra, Quy Sơn nhận xét:
-
Ngươi nên tự trọng.
(Zen
Koans)
Mỗi thiền viện có 3 tháng hè gọi là mùa kết hạ. Chư tăng tọa thiền và làm việc, đó là sống thiền. Cuối kỳ hạ thiền sinh sẽ đến gập thầy. Cuộc gập này là một trắc nghiệm sự hiểu biết của thiền sinh. Khi Ngưỡng Sơn đến gập thầy, ông rất tự hào về sự làm việc khó nhọc của mình. Ông cũng muốn biết thầy mình có làm việc không. Nhưng ông quá tự tin đến nỗi trở thành vô lễ. Ở đây chúng ta thấy Quy Sơn là một vị thầy hiền từ, ông không giận mà còn khuyên Ngưỡng Sơn nên tự trọng.
463 Tiếp kiến Thiền sinh.
Một
hôm nói chuyện với chư tăng, Tam Thánh đưa ra nhận xét:
-
Khi một thiền sinh tới, ta ra tiếp kiến không vì giúp hắn.
Khi
Hưng Hóa nghe được lời này bèn phê bình:
-
Khi một thiền sinh tới, ta thường không ra ngoài tiếp kiến,
nhưng nếu đã ra ta nhất định sẽ giúp hắn.
(Zen
Koans)
Tam Thánh và Hưng Hóa đều là đệ tử của Lâm Tế trong công án này, họ ở hai vị trí đối lập nhưng cùng một ý nghĩa. Tam Thánh nhận mình tiếp thiền sinh không có tiên kiến là sẽ dạy, còn Hưng Hóa thì nói để thiền sinh đến ông và ông sẽ dạy. Mỗi người đều có cách dạy độc đáo.
464 Gõ vào thành ghế.
Một
hôm, trong thiền viện Nam Tuyền, Viên Đầu và Phạn Đầu
đang ăn cơm, bỗng nghe tiếng chim hót. Viên Đầu lấy tay gõ
vào thành ghế, con chim lại hót nữa. Viên Đầu lại gõ lần
thứ hai, nhưng chim không hót nữa. Viên Đầu quay qua Phạn
Đầu và hỏi:
-
Ngươi hiểu không?
-
Không, ta không hiểu.
Viên
Đầu lại lấy tay gõ vào thành ghế lần thứ ba.
(Zen
Koans)
Một
con chim hót, Viên Đầu gõ vào thành ghế như hưởng ứng.
Con
chim lại hót, Viên Đầu lại gõ nhưng chim đã bay đi. Chim
hót tự nhiên và không ở lâu một chỗ. Viên Đầu biết điều
này và hỏi Phạn Đầu "Ngươi hiểu không?" Phạn Đầu không
hiểu, do đó Viên Đầu lại gõ lần thứ ba. Viên Đầu nghe
thấy pháp ở khắp nơi: ở tiếng chim hót, tiếng gió, tiếng
côn trùng, trong nắng, trong hoa, ngay cả trong câu trả lời
mộc mạc "Không, ta không hiểu" của Phạn Đầu. Lần gõ thứ
ba trong sáng, tự nhiên như hoa Huệ trong buổi sáng, dưới
ánh nắng mặt trời.
465 Nằm đọc Kinh.
Một
hôm Bàng cư sĩ nằm trên giường tụng kinh, một ông tăng
trông thấy nói rằng:
-
Cư sĩ, khi tụng kinh phải uy nghi đoan chính!
Bàng
cư sĩ nghe rồi nhấc một chân lên. Ông tăng thấy vậy bỏ
đi không nói một lời.
(Trung
Quốc Thiền)
Theo thường thức, khi tụng kinh nên ngồi ngay ngắn. Bàng cư sĩ nằm trên giường mà tụng kinh cho thấy ông không bị bất cứ cảnh giới nào trói buộc. Nếu chúng ta cứ tùy tiện bắt chước ông thì chẳng khác gì đất xa trời, có thể đọa vào địa ngục.
466 Trúc đến mắt hay mắt đến trúc.
Văn
Ích chỉ cây trúc hỏi một ông tăng:
-
Có thấy không?
-
Có thấy.
-
Trúc đến mắt hay mắt đến trúc?
-
Chẳng giống nhau sao?
(Thiền
Cơ)
Trúc đến mắt: Vật vào ngã, Mắt đến trúc: vật bị ngã hóa. Câu nói ám chỉ vật và ngã đều phải quên.
467 Đại Vương đến rồi!
Một
hôm Triệu Châu đang ngồi thiền ở Ẩn liêu, thị giả vào
báo:
-
Đại vương đến rồi!
Đại
vương ở đây là chỉ Triệu Vương Vương Dung (873-921) đương
thời là phủ chủ của thành Triệu Châu, trên danh nghĩa là
Bắc Phiên Trấn của triều Đường, tự xưng vương. Thực
ra, đây là một quốc gia bán độc lập. Dĩ nhiên đối với
một vị có quyền lực như vậy đến thăm, thị giả lập
tức báo cáo. Triệu Châu liền đáp lễ:
-
Đại Vương vạn phúc!
Thị
giả thưa:
-
Chỉ mới tới cửa chính điện!
-
Lại còn có một vị đại vương nữa tới sao?
Hoàng
Long Huệ Nam nghe được chuyện này bèn làm một bài kệ:
侍
者 只 知 報 客
Thị
giả chỉ tri báo khách
不
知 身 在 帝 鄉
Bất
tri thân tại đế hương
趙
州 入 草 求 人
Triệu
Châu nhập thảo cầu nhân
不
覺 渾 身 泥 水
Bất
giác hồn thân nê thủy
Thị giả chỉ báo tên khách
Chẳng
dè thân tại Đế hương
Triệu
Châu cứu người trong cỏ
Đâu ngờ thân bị lấm bùn.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Triệu Châu muốn thị giả biết đến đại vương ở trong thân mình, nhưng thị giả không hiểu.
468 Ba câu của Lâm Tế.
Có
ông tăng hỏi Lâm Tế:
-
Thế nào là chân Phật, chân Pháp, chân Đạo, xin thầy giảng
cho.
-
Phật là tâm thanh tịnh, Pháp là tâm quang minh, Đạo là tịnh
quang ở mọi nơi đều vô ngại. Ba là một, một là ba, đều
không, không thật, tỷ như đạo nhân chân chánh, niệm niệm
chẳng đoạn. Đạt Ma tổ sư từ Tây sang, chỉ để tìm một
người không bị mê hoặc. Sau Nhị tổ gập được, chỉ một
câu là xong, mới biết lúc trước đã dụng công sai. Ngày
nay sư núi này chỗ thấy so với Phật không khác. Nếu hiểu
được câu thứ nhất thì có thể làm thầy của Phật, nếu
hiểu được câu thứ hai thì làm thầy của trời, người.
Nếu hiểu được câu thứ ba thì tự cứu chẳng xong.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu
một chỉ tâm thanh tịnh, Tâm là Phật. Nếu đã thanh tịnh
tức chứng Phật quả, là chứng ngộ.
Câu
hai chỉ tâm quang minh là giai đoạn lý ngộ, nên có thể làm
thầy trời, người.
Câu
thứ ba chỉ vô ngại tịnh quang tức là đối với Phật pháp
có thể tín thọ phụng hành, nhưng vẫn chưa triệt ngộ Phật
lý. Giai đoạn này có thể tiến, có thể lui, cho nên tự cứu
chẳng xong.
469 Ngọa Luân.
Có
ông tăng dẫn bài kệ của Ngọa Luân cho Lục tổ nghe:
臥
輪 有 伎 倆
Ngọa
luân hữu kỹ lưỡng
能
斷 百 思 量
Năng
đoạn bách tư lương
對
境 心 不 起
Đối
cảnh tâm bất khởi
菩
提 日 日 長
Bồ
đề nhật nhật trường
臥 輪
Ngọa Luân
Ngọa Luân thực giỏi giắn
Tư tưởng thẩy dứt lặng
Đối cảnh tâm chẳng sanh
Bồ Đề ngày lớn mạnh.
(Trúc
Thiên dịch)
Lục
tổ nghe rồi nói rằng:
-
Bài kệ này chưa rõ tâm địa, nếu theo đó mà tu thì càng
bị trói buộc.
Do
đó, tổ nói bài kệ:
惠
能 沒 伎 倆
Huệ
Năng một kỹ lưỡng
不
斷 百 思 量
Bất
đoạn bách tư lương
對
境 心 數 起
Đối
cảnh tâm số khởi
菩
提 作 麼 長
Bồ
đề tác ma trường
惠 能
Huệ Năng
Huệ Năng chẳng giỏi giắn
Tư tưởng chẳng dứt lặng
Đối cảnh tâm cứ sanh
Bồ Đề nào lớn mạnh.
(Trúc
Thiên dịch)
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Tâm là chủ thể của Động, Tĩnh. Con người là động vật không thể không hành động, không tư tưởng. Tam tổ nói trong Tín Tâm Minh "Chỉ động quy chỉ, chỉ cánh di động.” Có niệm đầu "chỉ" tức là động tướng rồi, chỉ cần tâm chẳng sanh thì tuy động mà chỉ.
470 Lục Tổ giảng cho Tiết Giản.
Võ
Tắc Thiên sai nội thị là Tiết Giản đi mời Lục tổ vô
kinh. Lục tổ nại cớ bị bệnh mà từ chối. Tiết Giản
xin tổ chỉ thị tâm yếu. Tổ nói:
-
Chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng đến, chẳng đi, chẳng
ở giữa, chẳng ở trong ngoài, chẳng sanh, chẳng diệt, tánh
tướng như như, thường trụ chẳng dời gọi là Đạo.
Giản
thưa:
-
Thầy nói chẳng sanh, chẳng diệt thì có khác gì ngoại đạo
đâu?
-
Ngoại đạo nói chẳng sanh, chẳng diệt là đem diệt ngưng
sanh, lấy sanh biểu lộ cái diệt, diệt còn chẳng diệt, sanh
nói vô sanh. Ta nói chẳng sanh, chẳng diệt là vốn chẳng sanh,
nay cũng chẳng diệt cho nên chẳng giống với ngoại đạo.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đoạn, thường, đến, đi chỉ thời gian. Trong, ngoài sanh diệt chỉ không gian. Thời gian và không gian đều có đối đãi. Thiền là tuyệt đối đãi cho nên nói thường trụ chẳng dời. Chúng sanh sinh hoạt trong thời không sinh lý và tâm lý đều bị thời, không khống chế. Nếu một niệm chẳng sanh thì thời, không đều lặng.
471 Một mũi tên.
Đại
Giác lúc sắp mất nói với đại chúng:
-
Ta có một mũi tên, giao cho ai đây?
Một
ông tăng bước ra:
-
Xin thầy giao cho con.
-
Ngươi gọi mũi tên đó là gì?
Ông
tăng hét lên, thiền sư hươi gậy đánh, rồi về phòng phương
trượng, gọi ông tăng đó vào hỏi:
-
Vừa rồi ngươi có hiểu không?
-
Không hiểu. Thiền sư lại hươi gậy đánh vài cái nữa, nói:
-
Về sau gập người sáng mắt hãy hỏi cho rõ.
Nói
xong rồi mất.
(Thiền
Cơ)
Một mũi tên chỉ tự tánh, người sáng mắt chỉ người đã kiến tánh.
472 Đừng phụ lão tăng.
Trần
Tôn Túc bảo đại chúng:
-
Các ngươi chưa có chỗ vào, khi đã có chỗ vào đừng phụ
lão tăng.
Một
ông tăng bước ra thưa:
-
Sau này, con chẳng giám phụ thiền sư.
-
Ngươi sớm đã phụ lão tăng rồi!
(Thiền
Cơ)
Ông tăng tưởng từ nơi thiền sư mà được chỗ vào là đã phụ thiền sư rồi, vì chỉ có tự mình tìm được chỗ vào mới là không phụ thiền sư.
473 Không đi hỏi người.
Một
ông tăng hỏi Huệ Đức:
-
Thiền phong của thiền sư là gì?
-
Khi gập bản lai sự liền diện bích (ngồi xoay mặt vào tường
mà thiền).
-
Bản lai sự là gì?
-
Cũng chẳng đi hỏi người!
(Thiền
Cơ)
Gia
phong và bản lai sự chỉ tự tánh, diện bích và không đi
hỏi người ám chỉ ông tăng phải tự tham, tự ngộ.
474 Trước 33 sau 33.
Một
ông tăng hỏi Trinh Thúy:
-
Cổ nhân nói trước 33 sau 33 là ý gì?
-
Ngươi tên chi?
-
Thưa tên mỗ.
-
Uống trà đi!
(Thiền
Cơ)
Ông tăng bị văn tự kinh điển chuyển, thiền sư đề tỉnh ông bằng cách hỏi tên và bảo đi uống trà.
475 Uống trà đi.
Một
ông tăng hỏi Tuyết Phong:
-
Cổ nhân nói trên đường gập người thông đạt, không được
im lặng, không biết làm sao đối phó?
-
Uống trà đi!
(Thiền
Cơ)
Người thông đạt: chỉ người đã kiến tánh, ông tăng còn có tâm tìm kiếm bên ngoài, Tuyết Phong bảo ông uống trà đi là để cắt đứt đường suy nghĩ của ông.
476 Bất động Đạo tràng.
Nham
Tuấn đến tham phỏng Đầu Tử. Đầu Tử hỏi:
-
Tối qua ngươi ngủ ở đâu?
-
Ở Bất Động Đạo Tràng.
-
Nếu đã nói bất động sao còn đến đây?
-
Đến đây chả lẽ lại là động sao?
-
A! nguyên lai ngủ ở nơi chẳng chấp.
(Thiền
Cơ)
Bất Động đạo trường và nơi chẳng chấp đều chỉ tự tánh.
477 Người xuất gia.
Một
hôm, Dũng Tuyền ăn cơm không mặc cà sa. Một ông tăng hỏi:
-
Thế này chẳng là biến thành người tục hay sao?
-
Chả lẽ bây giờ lại là người xuất gia?
(Thiền
Cơ)
Ông tăng còn chấp mặc hay không mặc cà sa, người xuất gia và người tục. Câu nói của thiền sư là để phá cái chấp sai biệt ở hiện tượng giới này cho ông.
478 Xem Kinh Hoa Nghiêm.
Tĩnh
Huệ hỏi Đạo Tiềm:
-
Ngoài tham thỉnh ra, ngươi còn xem kinh gì?
-
Xem Kinh Hoa Nghiêm.
-
Tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại, 6 tướng trên nắm lấy
cái nào?
-
Ở thập địa phẩm nói "Các pháp đều gồm 6 tướng.”
- "Không" còn có 6 tướng không?
Đạo
Tiềm không đáp được, Tĩnh Huệ bảo:
-
Ngươi hãy hỏi ta
-
"Không" còn có 6 tướng không?
-
"Không.”
Đạo
Tiềm đại ngộ, Tĩnh Huệ hỏi:
-
Ngươi hiểu thế nào?
-
"Không.”
Tĩnh
Huệ ưng chịu.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
6 tướng là Dụng không phải là Thể. Chân như một pháp chẳng lập huống hồ là 6, cho nên Tĩnh Huệ đáp “không.” Đạo Tiềm lấy "không" mà ngộ. Không thấy một pháp tức là Như Lai, cho nên gọi là Quán Tự Tại. Thấy cái vô sở kiến, thì bất kỳ hình tượng nào cũng không thể trói buộc được.
479 Thanh Nguyên Duy Tín.
Thanh
Nguyên nói:
Lão
tăng 30 năm trước lúc chưa tham thiền thấy núi là núi, thấy
sông là sông. Về sau thân cận bậc thiện tri thức, có được
chỗ vào, thấy núi chẳng phải núi, thấy sông chẳng phải
sông. Nay vào chốn yên vui tịch tĩnh lại như lúc trước, thấy núi chỉ là núi, thấy sông chỉ là sông. (Hương Thủy
Hải)
Câu
"thấy núi là núi, thấy sông là sông" và câu "thấy núi chỉ
là núi, thấy sông chỉ là sông" có điều nào bất đồng
chăng? Chỗ bất đồng là ở cái Ngã.
Trong
giai đoạn 1, vì lấy cái ngã lý giải mà quan sát. Tập quán
khiến chúng ta đứng trên quan điểm chủ quan mà quan sát thế
giới khách quan, Ngã là trọng tâm của thế giới, cái ngã
tập quán từ cái ngã lập trường mà ra. Lấy vị trí, tư
tưởng, lòng yêu ghét của ngã mà nhìn ngắm thế giới. Ngã
tuy nhiên "thấy núi là núi, thấy sông là sông" kỳ thực thì
chỉ thấy thế, không khế nhập vào núi, sông. Giữa ngã và
núi sông còn ly cách.
Giai
đoạn 2 , Thanh Nguyên nói "có được chỗ vào" là đã ngộ
được chân lý thiền, là thể nghiệm được vạn vật đều
không, phá được ngã chấp, biết được ngã hoặc núi sông
chỉ là do duyên khởi mà tồn tại. Lúc đó, phủ định tất
cả những chủ quan lúc trước. Do đó nói "thấy núi chẳng
phải núi, thấy sông chẳng phải sông.”
Giai
đoạn 3. "Không" không phải là một khách thể thuần
nhiên không tiến vào một trạng thái viên mãn do đó núi sông,
vạn vật theo bản lai diện mục hiển hiện trước mắt ta.
Núi sông tự thân là 1 loại thực tại. Nó không phải là
phản ảnh của ngã, nó cũng không phải là hình ảnh của
không. Nó chỉ là núi thật, sông thật. Ngã không ở trong,
không ở ngoài vì ngã là cái bản nhiên đó. Chúng ta có thể
nói ba giai đoạn của Thanh Nguyên là quán sát, thể nghiệm,
viên mãn. Đó là 3 giai đoạn của quá trình thiền ngộ.
480 Thượng thượng căn khí.
Một
ông tăng hỏi Nam Viện:
-
Người thượng thượng căn khí đến, thầy có tiếp không?
-
Tiếp.
-
Vậy sao, thỉnh thầy tiếp.
-
Trước hết, lấy bình đẳng giao tiếp.
(Thiền
Cơ)
Nhà Phật phân 3 hạng người: thượng, trung, hạ căn khí. Người thượng thượng căn khí, ngộ tánh cao, dễ dàng thấy tánh. Người hạ hạ căn khí ngộ tánh thấp thấy tánh khó. Khó,và dễ là do trình độ không đồng. Tự tánh mọi người đều bình đẳng. Ông tăng mời thiền sư tiếp là còn chấp khó, dễ. Câu trả lời của thiền sư ám chỉ chi bằng tự tánh tự tiếp.
481 Đệ nhất đẳng nhân đến.
Một
hôm, Chân Định Suý Vương đến thiền viện. Triệu Châu ngồi
yên trên thiền sàng không động, hỏi rằng:
-
Đại Vương hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Lão tăng từ nhỏ ăn chay đến nay, không có sức xuống thiền
sàng.
Suý
Vương nghe rồi càng trọng, cách ngày lại sai một vị tướng
quân đến thăm. Triệu Châu liền xuống thiền sàng tiếp đón.
Khi vị tướng quân đi rồi, thị giả thấy kỳ quái bèn hỏi:
-
Hôm qua Suý Vương đến, thầy không xuống sàng, hôm nay tướng
quân đến vì sao lại xuống sàng?
-
Điều này ngươi không biết. Người đệ nhất đẳng đến
ta tiếp ở thiền sàng, người trung đẳng đến ta xuống sàng
tiếp, người mạt đẳng đến ta ra tận ngoài cổng tam quan
đón.
(Thiền
Cơ)
Thiền sư tuỳ theo căn khí, trình độ, trạng huống đối chứng mà cho thuốc.
482 Một hạt hoàn đơn.
Một
ông tăng hỏi Chân Giác:
-
Một hạt hoàn đơn điểm sắt thành vàng, một lời chí lý
điểm phàm thành thánh, thỉnh thiền sư điểm.
-
Ngươi có biết Tế Vân thiền sư điểm vàng thành sắt không?
(Thiền
Cơ)
Ông tăng còn hướng ngoại tìm hoàn đơn và lời chí lý. Thiền sư bảo ông hoàn đơn phải tự cầu, lời chí lý phải tự chứng.
483 Mạt vàng vào mắt.
Một
ông tăng hỏi Chân Giác:
-
Mạt vàng tuy quý, nhưng rơi vào mắt không thấm được, phải
làm sao?
-
Thấm không được còn thấm sao?
(Thiền
Cơ)
Mạt vàng tuy quý nhưng cũng nhưng cũng như hạt cát, rơi vào mắt chỉ khiến sinh bệnh, phải làm sao loại nó ra. Ở đây thiền sư bảo ông tăng pháp quý như mạt vàng, nhưng cũng phải bỏ, không thể chấp được.
484 A!
Một
ông tăng hỏi Khế Như:
-
Sanh tử đến, làm sao để tránh?
-
Lệnh phù đến thì phải làm theo.
-
Vậy là bị sanh tử bắt đi sao?
-
A!
(Thiền
Cơ)
Sanh tử thuộc về hiện tượng giới, ông tăng còn muốn tránh sanh tử là còn có phàm thánh đối lập. Thiền sư có thể trong sanh lìa sanh, trong tử lìa tử, phàm thánh vô ngại. Lời đáp của thiền sư 'Lệnh phù đến thì phải làm theo" khiến ông tăng hiểu lầm là thiền sư bị sanh tử bắt đi. Do đó, thiền sư kêu "A" ám chỉ giữa hai người không hợp cơ.
485 Dưới cầu Ma Giang.
Một
ông tăng hỏi Đại Dung:
-
Phật là gì?
-
Dưới cầu Ma Giang, ngươi có hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Trước chùa Thánh Thọ.
(Thiền
Cơ)
Phật không đâu không có. Dưới cầu Ma Giang, trước chùa Thánh Thọ đều là Phật tánh hiện thành.
486 Hang chuột.
Tăng
Chính vào phòng phương trượng hỏi Thuấn Phong:
-
Phòng phương trượng vì sao tối đen như thế này?
-
Vì là hang chuột.
-
Thả mèo vào.
-
Ngươi thả thử coi!
(Thiền
Cơ)
Hang chuột chỉ tự tánh, mèo chỉ trần duyên. Thả mèo vào hang chuột, hang chuột vẫn là hang chuột.
487 Tướng mạo đường đường.
Hoàng
Bá sau khi xuất gia, đến Thiên Đài Sơn học tập, sau lên
Trường An. Một hôm đi khất thực trên đường đi qua một
nhà nọ, bỗng thấy một bà lão chạy ra mắng:
-
Đồ hòa thượng tham tâm!
-
Tôi chưa hề lấy một vật gì của bà, sao lại bảo là tôi
tham tâm?
-
Cầu người ta thí xả không phải là tham tâm sao?
Hoàng
Bá nghe lời nói có lý bèn cười. Bà lão thấy ông cười
bèn đổi thái độ, mời vào nhà và cúng dường thức ăn.
Nhân bà lão hỏi chuyện, Hoàng Bá bèn đem chuyện tu hành của
mình kể hết cho bà nghe, bà lão bèn cho ý kiến. Hoàng Bá
thấy ích lợi vô cùng bèn xin bà thâu làm đồ đệ. Nhưng
bà lão bảo bà là người nữ sợ không tiện, nếu muốn tìm
minh sư hãy đến kiếm Bách Trượng. Hoàng Bá nghe lời bèn
đến gập Bá Trượng. Bá Trượng hỏi:
-
Người tướng mạo đường đường từ đâu tới?
-
Người tướng mạo đường đường từ Lãnh Nam tới.
-
Người tướng mạo đường đường tới làm gì?
-
Người tướng mạo đường đường tới không vì việc khác.
(Thiền
Tông Dật Sự)
Trước mặt thiền sư Bách Trượng mà xưng mình là tướng mạo đường đường, Hoàng Bá thật là một người thuần phác, thú vị.' Không vì việc khác" là nói tới nơi chỉ muốn thành Phật, không vì chuyện gì khác cả.
488 Gập trà thì uống, gập bữa thì ăn.
Khai
Sơn Tổng Trì Tự Vinh hòa thượng (1268-1325) nghe sư phụ là
Triệt Thông hòa thượng (1232-1309) giảng công án bình thường
tâm là Đạo (xem công án số 1085) hoát nhiên đại ngộ. Bèn
lớn tiếng reo hò:
-
Con ngộ rồi.
Triệt
Thông hỏi:
-
Ngộ thế nào?
-
Côn Lôn tối đen đi trong đêm.
-
Chưa được, hãy nói lại.
-
Gập trà thì uống, gập bữa thì ăn.
Triệt
Thông gật đầu, mỉm cười nói:
-
Sau này ngươi nhất định dương cao tông phong.
Nói
rồi bèn cấp ấn khả.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Côn Lôn tối đen đi trong đêm là nói ném một quả cầu sơn đen trong đêm tối là chỉ Chân Không Vô Tướng, bình đẳng (tất cả mọi sai biệt đều bị loại bỏ trở thành vô tâm, vô ngã cảnh giới). Nếu đã ngộ được tâm bình thường là Đạo thì gập trà uống trà, gập bữa thì ăn nhưng nếu thiếu "Côn Lôn tối đen đi trong đêm" (chỉ thiền định tam muội) thì không thể đạt tới cảnh giới chân chính của thiền giả.
489 Đạo nhân.
Hoàng
Bá nói:
-
Biết trăm loại chẳng bằng cầu điều chót hết. Đạo nhân
là vô sự nhân, chẳng cần phải quanh co, cũng không có đạo
lý gì có thể nói.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Vô sự là chỉ tâm vô sự. Sự đến thì ứng, sự đi không giữ. Tất cả đều mặc tự nhiên, không tính toán, không bắt buộc. Đó là điều tất yếu của nhà Thiền. Sư cũng có nói tu lục độ vạn hạnh là có Phật thứ tự. Nhưng tâm ngộ thì thấy không có diệu pháp nào để được. Đó là chân Phật. Phật và chúng sanh đều là một tâm không khác. Hướng ngoại cầu Phật, chấp tướng tu hành đều là ác pháp, không phải là đạo Bồ Đề. Cúng dường mười phương Phật chẳng bằng cúng dường 1 đạo nhân vô tâm.
490 Siêu việt hình tượng.
Phó
đại sĩ nói:
-
Có một vật có trước thiên địa, vô hình vốn tịch liêu,
có thể làm chủ vạn vật, chẳng đuổi theo bốn thời mà
tàn.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Nó có trước thiên địa, lại còn tồn tại sau bốn thời: là sung mãn thời gian, làm chủ vạn vật là sung mãn không gian, nhưng lại tịch liêu vô hình vì vậy không thể tìm nó trong thời không. Gọi nó là tự tánh. Tâm Kinh nói nó "vô trí diệc vô đắc.” Vô trí là siêu việt tri kiến, vô đắc là siêu việt hình tượng (vì những gì có được đều có hình tượng).
491 Cái búa của Nham Đầu.
Một
hôm Đức Sơn bảo Nham Đầu:
-
Ta có 2 thiền sinh ở đây đã lâu, ngươi hãy đi xem họ thế
nào?
Nham
Đầu vác búa đến lều 2 ông tăng đang ngồi thiền. Nham Đầu
giơ búa lên nói:
-
Nếu các ngươi nói một lời ta sẽ chặt đầu, nếu không
nói gì ta cũng chặt đầu.
Hai
ông tăng vẫn tiếp tục ngồi thiền như không có chuyện gì.
Nham Đầu vứt búa xuống và nói:
-
Các ngươi thực là những thiền sinh chân chánh.
Ông
quay về Đức Sơn và thuật lại câu chuyện. Đức Sơn nói:
-
Ta biết ý ngươi nhưng ý họ thì sao?
-
Động Sơn có thể chấp nhận họ nhưng Đức Sơn thì không.
(Zen
Koans)
Nham Đầu là đệ tử của Đức Sơn và chuyện Nham Đầu khám phá 2 ông tăng là một trắc nghiệm cho chính ông. Khi Đức Sơn hỏi, câu trả lời của Nham Đầu có vẻ châm biếm. Động Sơn (một thiền sư hiền từ, hòa nhã) có thể chấp nhận, nhưng Đức Sơn (nổi tiếng là thô bạo vì dùng gậy đánh) sẽ không chịu. Nếu đánh mà có thể giác ngộ thì những con ngựa kéo xe đều là Phật cả. Nham Đầu thử thách lại sư phụ. Ông chủ có khi bị chó cắn lại. Rõ ràng là có 2 trường phái sai biệt trong thiền học.
492 Bảo Thọ xoay lưng.
Một
hôm, Triệu Châu đến thăm Bảo Thọ. Bảo Thọ thấy Triệu
Châu đến bèn xoay lưng lại. Triệu Châu trải tọa cụ và
sửa soạn lạy Bảo Thọ. Bảo Thọ đứng dậy về phòng.
Triệu Châu nhặt tọa cụ và bỏ đi.
(Zen
Koans)
Đây là một công án không lời rất thử thách. Thấy Triệu Châu đến, Bảo Thọ bỏ đi không một lời giải thích. Triệu Châu rất tự nhiên, trải tọa cụ mà các ông tăng thường mang theo mình, sửa soạn lễ như thông lệ. Nhưng Bảo Thọ nhỏm dậy và bỏ về phòng. Triệu Châu đáng nhẽ phải thắc mắc 'phải có một ý nghĩa sâu xa nào đó cho việc này", lại chỉ thu dọn tọa cụ và bỏ đi. Triệu Châu tự nhiên như một trận gió thổi qua cành thông, hay như bóng theo vật, vang theo tiếng. Đến và đi, là một tác động bình yên. Triệu Châu giống như một người đi câu cá, gập mưa, khoác áo tơi, trở về nhà không buông cần câu. Một ngày như vậy đó.
493 Bách Linh và Bàng Uẩn.
Một
hôm, Bách Linh gập Bàng cư sĩ ở trên đường bèn hỏi:
-
Câu đắc lực của Nam Nhạc có chỉ cho ai không?
-
Có.
-
Ai được?
Bàng
cư sĩ chỉ vào mình:
-
Bàng công.
-
Thực là diệu đức không sinh, khen ngợi chẳng kịp.
-
Câu đắc lực của Nam Nhạc ai biết được?
Bách
Linh không trả lời, đội nón lên đầu đi thẳng.
-
Hãy bước cẩn thận!
Bàng
cư sĩ gọi với theo, nhưng Bách Linh vẫn tiếp tục đi không
ngoảnh cổ lại.
(Zen
Koans)
Bách Linh và Bàng Uẩn luôn thử thách nhau về Thiền. Trong công án này họ luận về sự hiểu biết tánh không của Nam Nhạc. Câu đắc lực của Nam Nhạc chỉ mọi sự việc luôn thay đổi, không có gì là vĩnh viễn. Khi ta xác nhận một sự việc gì thì trong thực tại nó đã thay đổi rồi không còn là như vậy nữa. Chân lý ngày hôm qua không phải là chân lý bây giờ. Trong đối thoại Bách Linh hỏi Bàng Uẩn có ai thực chứng những gì Nam Nhạc nói không? Bàng Uẩn đáp có, chính ông đã tự chứng. Rồi Bách Linh chọc quê Bàng Uẩn bằng cách khen ngợi. Cuối cùng Bàng Uẩn hỏi sự hiểu biết của Bách Linh. Bách Linh bầy tỏ bằng cách bước đi không nói lời gì. Nhưng thực ra 2 người trên, ai thực sự hiểu Thiền?
494 Thần thông.
Thạch
Đầu hỏi Bàng cư sĩ:
-
Gần đây, thường ngày ông làm gì?
Bàng
cư sĩ trả lời bằng một bài kệ:
日
用 事 無 別
Nhật
dụng sự vô biệt
惟
吾 自 偶 偕
Duy
ngô tự ngẫu giai
頭
頭 非 取 捨
Đầu
đầu phi thủ xả
處
處 勿 張 乖
Xứ
xứ vật trương quai
朱
紫 誰 為 號
Chu
tử thùy vi hiệu
丘
山 絕 點 埃
Khâu
sơn tuyệt điểm ai
神
通 並 妙 用
Thần
thông tịnh diệu dụng
運
水 與 搬 柴
Vận
thủy dữ ban sài.
龐 居 士
Bàng cư sĩ
Nhật dụng không gì khác
Mình ta, ta hòa chung
Việc việc không nắm bỏ
Nơi nơi chẳng trệ ngưng
Đỏ tía ai còn bảo
Đồi núi bặt bụi hồng
Xách nước là diệu dụng
Bửa củi ấy thần thông.
(Trúc
Thiên dịch)
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Dưới con mắt của Bàng cư sĩ xách nước, bửa củi đều là thần thông nghĩa là thần thông cũng đồng dạng với bình phàm. Tam tổ Tăng Xán cũng nói trong Tín Tâm Minh 'Lục trần bất ác, hoàn đồng chính giác.” Duy có sáu trần, nhưng nếu không khởi ác niệm thì đó tức là Bồ Đề.
495 Chẳng lìa ly tấc.
Diệu
Không hỏi một ông tăng mới đến:
-
Gần đây ngươi lìa địa phương nào mà tới?
-
Chẳng lìa ly tấc.
-
Chẳng dễ gì tới.
-
Chẳng dễ gì tới!
Thiền
sư bèn tát cho ông một cái.
(Thiền
Cơ)
Chẳng lìa ly tấc là chẳng lìa tự tánh.
496 Lão Bảo Ứng không có nhà.
Bảo
Ứng hỏi một ông tăng mới đến:
-
Ngươi vừa từ đâu lại?
-
Tang Châu.
-
Đến làm gì?
-
Đến bái phỏng thiền sư.
-
Gập lúc lão Bảo Ứng không có nhà.
Ông
tăng bèn hét, thiền sư nói:
-
Đã nói cho ngươi biết không có nhà, còn hét làm gì?
Ông
tăng lại hét, thiền sư hươi gậy đánh. Ông tăng bèn lạy
tạ. Bảo Ứng bảo ông:
-
Gậy này đáng nhẽ là ngươi đánh ta, ta lại đánh ngươi
năm, ba gậy, mong chuyện này lưu hành.
(Thiền
Cơ)
Ông tăng lại bái phỏng thiền sư,chỉ thấy thân xác của thiền sư chứ không thấy lão Bảo Ứng (tự tánh). Câu hỏi của Bảo Ứng là chỉ ông tăng phải tự mình kiến tánh.
497 Đàm Tạng.
Đàm
Tạng nuôi một con chó khôn. Một hôm đi kinh hành, con chó
cắn áo sư, sư liền về phòng. Nó nằm phục bên ngoài cửa
mà sủa, dạng mạo dữ tợn. Quả thực bếp phía Đông có
một con mãng xà dài mấy trượng, há mồm phì ra khí độc.
Thị giả thỉnh sư tạm lánh. Thiền sư bảo:
-
Chết có thể trốn được sao? Nó lấy độc mà đến, ta lấy
lòng từ mà nhận. Độc không có thực tánh, ngăn lại thì
nó càng mạnh hơn. Lòng từ cẩu thả, vô duyên thì sẽ oan
một mạng.
Nói
xong, con mãng xà cúi đầu bò đi, không thấy nữa.
Lại
một chiều khác, có một bọn cướp đến, con chó lại cắn
áo sư. Sư nói với bọn cướp rằng:
-
Am cỏ có gì các ngươi muốn thì cứ việc lấy đi, ta không
hề tiếc.
Bọn
cướp nghe nói cảm động, bỏ đi.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Chết đã không thể trốn được thì sanh có gì phải tiếc. Đạo lý này biết thì dễ nhưng làm thì lại rất khó. Đàm Tạng ở trong sanh tử, đắc thất mà không bị động nên biến hoàn cảnh hiểm ác thành an bình.
498 Sơn hà đại địa.
Phật
Nhãn hòa thượng nói rằng:
-
Thanh tịnh bản nhiên sao nói bỗng nhiên sinh sơn hà đại địa?
Nếu đã sinh sơn hà đại địa làm sao trở lại thanh tịnh
bản nhiên? Nếu đã trở lại thanh tịnh bản nhiên làm sao
thấy sơn hà đại địa?
Sau
đó lại hỏi:
-
Thế là thế nào?
Rất
lâu sau đó lại thêm:
水
自 竹 邊 流 出 冷
Thủy
tự trúc biên lưu xuất lãnh
風
從 花 裏 過 來 香
Phong
tòng hoa lý quá lai hương
Nước chẩy bên khóm trúc, lạnh
Gió từ khóm hoa tới, thơm.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Nước vốn không lạnh, lạnh là do trúc. Gió vốn không thơm, thơm là do hoa. Cũng như tự tánh vốn không sai biệt, do thọ sáu trần mà bị ô nhiễm biến thành trần tướng. Nhưng trong trần tướng có sanh có diệt cũng có tự tánh không sanh diệt. Nước và lạnh, gió và thơm có thể hợp thành một không sai biệt. Nhưng ở tự tánh cầu sai biệt thì không thể được. Công án này thuyết minh vấn đề tập nhiễm vậy.
499 Phổ Chiếu.
Phần
Dương Phổ Chiếu thiền sư và Long Đức phủ doãn Lý Hầu
là
bạn cũ. Lý mời sư đến trụ trì ở Thừa Thiên. Sứ giả
đến mời ba lần mà sư không chịu đi. Sứ giả bị phạt,
đến thưa với sư:
-
Nếu thầy không tới con sẽ bị tội chết!
-
Ta bị bệnh chẳng muốn rời núi, nếu phải đi thì hoặc
đi trước hoặc đi sau hà tất phải cùng đi.
-
Thầy đã hứa rồi, thì trước sau tùy thầy lựa chọn.
Sư
bảo đại chúng:
-
Ta đi đây, ai theo được?
Một
ông tăng bước ra thưa:
-
Con theo được.
-
Một ngày ngươi đi được mấy dặm?
-
50 dặm.
-
Ngươi theo ta không được.
Một
ông tăng khác bước ra thưa:
-
Con theo được.
-
Một ngày ngươi đi được mấy dặm?
-
70 dặm.
-
Ngươi cũng không theo ta được.
Thị
giả bước ra thưa:
-
Con theo được, thầy tới đâu con tới đó!
-
Ngươi theo lão tăng được.
Quay
lại sứ giả, sư nói:
-
Ta đi trước nhé!
Nói
xong liền mất, thị giả đứng bên cũng mất theo.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Sư là vị cao tăng một thời, có thể ra đi một cách ung dung. Ngay cả thị giả cũng có thành tựu như vậy. Thực là dưới tay tướng mạnh, không có binh yếu.
500 Lại Toản.Hòa thượng Lại Toản ẩn cư trong một hang đá ở Hành Sơn. Đường Túc Tông rất ngưỡng mộ, đặc biệt phái sứ giả đến vời vào Hoàng Cung. Sứ giả đến trước hang kêu to:
- Thánh chỉ đến!
Lúc đó Lại Toản đang mải sao thuốc, không lên tiếng. Sứ giả không thấy động tịnh gì cả liền sai tiểu lại vào xem. Tiểu lại thấy hòa thượng nước mắt, nước mũi chẩy dòng dòng, mặt mũi nhem nhuốc đang sao thuốc bèn nói:
- Hòa thượng! Ngài hãy chùi mũi rồi nghênh tiếp thánh chỉ.
- Ta không rỗi hơi chùi mũi vì tục nhân.
Nói rồi lại tiếp tục sao thuốc.
(Hương Thủy Hải)
Câu chuyện này cho chúng ta thấy thiền sư thật tự tại, khí phách.
501 Tự tánh.
Hoàng
Bá nói rằng:
-
Cái tánh linh giác này từ vô thủy mà đến, thọ cùng hư
không. Chưa hề sanh, chưa hề diệt, chưa hề có, chưa hề
không, chưa hề bẩn, chưa hề sạch, chưa hề náo, chưa hề
tĩnh, chưa hề trẻ, chưa hề già. Không ở nơi nào, không
trong, không ngoài, không số lượng, không hình tướng, không
sắc, không âm.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Cái linh giác này không thể dùng cảm quan mà tiếp xúc nhưng cái mà cảm quan tiếp xúc lại không lìa linh giác. Nghĩa là tự tánh không phải là hình tượng, nhưng lại không lìa hình tượng.
502 Không thể nói.
Thiền
sư Hoa Lâm trú ở một tòa miếu lớn nhưng không có đồ đệ.
Một hôm tể tướng Bùi Hưu đến bái phỏng, thấy miếu lớn
mà không có người giữ, ngạc nhiên hỏi Hoa Lâm:
-
Thầy không có đồ đệ sao?
-
Có chứ.
-
Họ ở đâu vậy, sao không thấy?
-
Ta có hai đồ đệ, một tên Đại Không, một tên Tiểu Không.
-
Thầy có thể kêu họ cho đệ tử gập mặt không?
-
Chỉ sợ không tiện.
Nhưng
Bùi Hưu cứ năn nỉ mãi, Hoa Lâm đành chấp nhận, bèn gọi
lớn:
-
Đại Không, Tiểu Không, mau ra tiếp khách!
Hai
con hổ từ trong chạy ra. Bùi Hưu tuy là quan lớn nhưng mật
nhỏ tỏ vẻ kinh sợ. Hoa Lâm bảo hai con hổ:
-
Đồ đệ ngoan! Vị khách này chưa đủ khả năng đối diện
các ngươi, mau vào đi!
Hai
con hổ vẫy đuôi, gầm lên một tiếng rồi chạy vào sau miếu.
Lúc đó, Bùi Hưu rất ngạc nhiên và hết lời tán thán, thưa
với Hoa Lâm rằng:
-
Sư Phụ, thầy tu theo pháp môn nào mà có thể cảm động được
hai con hổ này?
Hoa
Lâm nhắm mắt yên lặng, một lúc sau mở mắt ra hỏi Bùi
Hưu:
-
Ngươi hiểu không?
-
Thầy còn chưa nói, làm sao con hiểu được?
-
A! ta đã nói rồi, lại còn nói nhiều nữa, chỉ vì ngươi
không hiểu mà thôi!
-
Thầy thực chưa nói mà, xin thầy rủ lòng từ bi nói cho vài
câu.
-
A! ngươi thực là hạng độn căn, ta giảng cao siêu ngươi
không hiểu nổi; thôi được! ta cứ phương tiện mà nói thôi.
Hàng ngày, sau bữa ăn ta vào rừng tản bộ cho tiêu cơm. Cứ
đi được bẩy bước ta lại giơ gậy lên niệm: Nam Mô Quán
Thế Âm Bồ Tát, lại bước bẩy bước ta lại giơ gậy lên
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, hàng ngày ta đều niệm như vậy
nên đã cảm động được hai con hổ này.
Bùi
Hưu nghe rồi khen rằng:
-
Thực hay quá! Thực hay quá!
(Sinh
Hoạt Thiền)
Nhiều người đã từng niệm Phật, nhưng cũng chả thấy có cảm ứng gì, cho thấy niệm không phải là chìa khóa của vấn đề. Ở đây chính là lúc thiền sư nhắm mắt, không nói mới chính là thực tu, mới chính là Thiền. Nhưng như vậy là thế nào? Đó là cái không thể nói. Ngôn ngữ là dùng để miêu tả thế gian, nó có giới hạn, không thể miêu tả những trạng thái siêu việt thế gian, cho nên mới nói "Không thể nói.” Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn đã từng nói " Ta đã thuyết pháp 49 năm rồi, nhưng ta chưa hề nói qua một chữ, một câu nào."
503 Vàng thật không sợ lửa.
Vân
Cư (1582-1659) trụ trì Tùng Đảo Đoan Nghiêm Tự; mỗi đêm
vào khoảng 12 giờ đến một hang núi ở Biện Thiên Đảo
để ngồi thiền. Trong làng có một thanh niên biết chuyện
này, tìm cách dọa cho ông sợ. Anh ta trèo lên ngồi trên cành
của một cây to mà Vân Cư phải đi qua. Khi ông đi qua, anh
ta thò tay ấn xuống đầu ông. Ông không tỏ vẻ sợ hãi,
đứng yên tại chỗ. Khi anh ta rút tay lại, ông từ từ mà
đi. Anh ta rất kính phục đảm lượng của ông. Ngày hôm sau,
coi như không có chuyện gì xẩy ra, anh ta hỏi:
-
Nghe nói hôm qua Thiên Cẩu xuất hiện (một loại yêu quái
mặt đỏ, mũi dài trong truyền thuyết Nhật Bản). Không biết
Hòa thượng có bị nó ấn đầu không?
-
Đó chỉ là bọn trẻ trong thôn làm đó thôi!
-
Sao thầy biết?
-
Lại còn hỏi, tay ấn đầu ấm áp sao là tay quỷ được?
Thanh
niên mắc cỡ, bèn hướng Hòa thượng xin lỗi.
(Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Vàng thật không sợ lửa luyện mà càng phát sáng tươi đẹp, tương tự một thiền giả có minh nhãn, dù có gập tai nạn nào cũng không biến đổi.
504 Thông Tuệ.
Thông
Tuệ lúc còn là sa di, sư phụ sai đi rửa chậu. Ngẫu nhiên
có một người bán cá đi qua, một con cá nhẩy vọt vào chậu,
bị quậy chết. Về sau làm trụ trì, một hôm nói với đại
chúng rằng:
-
Hai mươi năm trước một đoạn công án, hôm nay phải gánh
rồi!
Đại
chúng gạn hỏi duyên cớ, thiền sư chỉ nói:
-
Đợi đến trưa sẽ biết.
Nói
rồi ngồi kiết già đợi.
Lúc
đó Trương Tuấn thống binh tới Quan Trung, một binh sĩ cầm
cung tên đến pháp đường trợn mắt nhìn thiền sư định
bắn. Thiền sư cười nói:
-
Lão tăng đợi ngươi đã lâu lắm rồi!
-
Chưa hề gập mặt, nay mới gập, tâm không ngăn được chỉ
muốn giết là tại sao?
Thiền
sư kể lại câu chuyện cũ, binh sĩ bèn đọc bài kệ:
寃
寃 相 報 何 時 了
Oan
oan tương báo hà thời liễu
刦
刦 相 纏 豈 偶 然
Kiếp
kiếp tương triền khởi ngẫu nhiên
不
若 與 師 俱 解 釋
Bất
nhược dữ sư câu giải thích
如
今 立 地 往 西 天
Như
kim lập địa vãng tây thiên
Oan oan tương báo bao giờ dứt?
Kiếp kiếp ràng buộc chẳng ngẫu nhiên.
Chi bằng cùng với sư giải thích
Ngày nay lập tức tới Tây thiên.
Nói
rồi đứng mà hóa. Thiền sư lấy bút viết bài kệ:
三
十 三 年 飄 蕩
Tam
thập tam niên phiêu đãng
做
了 機 番 模 樣
Tố
liễu cơ phiên mô dạng
誰
知 今 日 相 逢
Thùy
tri kim nhật tương phùng
卻
是 在 前 變 障
Khước
thị tại tiền biến chướng
Ba mươi ba năm loay hoay
Đã mấy phen làm mẫu mực
Đâu biết gập lại ngày nay
Là do nghiệp làm lúc trước.
Viết
xong bèn hóa.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thaoại Thiền Tông)
Từ
công án trên chúng ta rút ra được mấy điều:
1-
Oan oan tương báo, nhân quả tuần hoàn, định nghiệp không
trốn được.
2-
Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật là có thật.
3-
Người ngộ đạo không bị sanh tử trói buộc.
505 Bài tụng Ngũ Vị Quân Thần của Động Sơn.
1/
Chánh Trung Thiên:
三
更 初 夜 月 明 前
Tam
canh sơ dạ nguyệt minh tiền
莫
怪 相 逢 不 相 識
Mạc
quái tương phùng bất tương thức
隱
隱 猶 懷 舊 日 嫌
Ẩn
ẩn do hoài cựu nhật hiềm.
Đêm tối, canh ba trăng rọi hiên
Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết
Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.
2/
Thiên Trung Chánh:
失
曉 老 婆 逢 古 鏡
Thất
hiểu lão bà phùng cổ kính
分
明 覿 面 別 無 眞
Phân
minh địch diện biệt vô chân
休
更 迷 頭 猶 認 影
Hưu
cánh mê đầu do nhận ảnh.
Mất sáng lão bà tìm cổ kính
Rõ ràng đối diện đâu riêng chơn
Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.
3/
Chánh Trung Lai:
無
中 有 路 隔 塵 埃
Vô
trung hữu lộ cách trần ai
但
能 不 觸 當 今 諱
Đãn
năng bất xúc đương kim húy
也
勝 前 朝 斷 舌 才
Dã
thắng tiền triều đoạn thiệt tài.
Đường cái trong không cách trần ai
Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kỵ
Đã thắng tiền triều cắt lưỡi tài.
4/
Thiên Trung Chí:
兩
刄 交 鋒 不 須 避
Lưỡng
nhẫn giao phong bất tu tị
好
手 猶 如 火 裏 蓮
Hảo
thủ do như hỏa lý liên
宛
然 自 有 衝 天 志
Uyển
nhiên tự hữu xung thiên chí
Hai kiếm đua nhau cần gì tránh
Tay khéo vẫn như lò lửa sen
Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí.
5/
Kiêm Trung Đáo:
不
落 有 無 誰 敢 和
bất
lạc hữu vô thùy cảm hoà
人
人 盡 欲 出 常 流
Nhân
nhân tận dục xuất thường lưu
折
合 還 歸 炭 裏 坐
Chiết
hiệp hoàn quy thán lý tọa
Chẳng rơi không có ai dám hòa
Người người trọn muốn vượt dòng thường
Tan hiệp trở về ngồi trong tro.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
1-
Chánh Trung Thiên:
Đây
là Thể Khởi Dụng, là cảnh tượng tưởng ngộ nhưng chưa
ngộ, chưa tự tin, còn dư tập chưa chặt đứt.
2-
Thiên Trung Chánh:
Đây
là Dụng quay về Thể, là cảnh tượng sơ ngộ, tất cả đều
tự hiện thành, ngộ là ngộ, không cần phải nghi, thâm nhập
thức
tâm.
3-
Chánh Trung Lai:
Đây
là có Thể không Dụng, đi vào chân không, phủ định tất
cả trần cảnh, ngộ cảnh này không thể nói ra được bằng
lời, chỉ có thể dùng tâm mà chứng.
4-
Thiên Trung Chí:
Đây
là Thể và Dụng cùng tới, là cảnh ngộ đoạn trừ tất
cả phiền não, hiểu rằng Thể Dụng là một, có cảm giác
siêu nhiên ngoài vật.
5-
Kiêm Trung Đáo:
Đây
là Thể Dụng đều tịch, là cảnh tượng Hữu và Vô đều
không chấp.
506 Đạt Ma giảng tâm.
Có
hành giả hỏi tổ Đạt Ma:
-
Nếu không lập văn tự, lấy gì làm tâm?
-
Ngươi hỏi ta, đó là tâm ngươi; ta trả lời ngươi tức là
tâm ta. Nếu ta không tâm thì lấy gì trả lời ngươi? Nếu
ngươi không tâm thì lấy gì hỏi ta? Hỏi ta tức là tâm ngươi,
từ vô thủy đến nay bất cứ lúc nào, chỗ nào đều là
bản tâm của ngươi, bản Phật của ngươi. Tâm là Phật.
Ngoài tâm này không có Phật nào khác. Phật là tiếng Tây
Trúc, nơi đây (Trung Hoa) gọi là giác tánh. Giác là linh giác
ứng cơ tiếp vật; dương mày chớp mắt, động tay, động
chân đều là tánh của linh giác. Tánh tức tâm, tâm tức Phật,
Phật tức Đạo, Đạo tức Thiền. Thiền không thể dùng phàm
thánh đo lường được. Thấy bản tánh là Thiền. Nếu không
thấy bản tánh thì không phải là Thiền vậy. (Minh Tâm Kiến
Tánh Thoại Thiền Tông)
Từ
lời nói trên của tổ sư, chúng ta thấy rằng Tâm, Phật,
Đạo, Thiền tuy bốn mà một. Mục đích duy nhất của Thiền
là thấy bản tánh. Động, nói, nhìn, nghe, ngửi, nếm, giác,
biết đều là tự tánh khởi dụng. Nhưng phàm phu bị thức
tâm chi phối cho nên không thấy tự tánh. Tiểu thừa thì rơi
vào không tịch, đặt chân tâm vào chỗ vô dụng. Nếu có
thể sanh tâm nhưng không trụ, có thể, có dụng, không rơi
vào không, hữu thì đó mới là Tâm Linh Giác vô nhiễm. Ngộ
Tánh Luận nói:
-
Phàm phu sanh tâm gọi là Hữu, Tiểu Thừa diệt tâm gọi là
Vô. Phật và Bồ Tát chưa hề sanh tâm hay diệt tâm, nên gọi
là phi hữu, phi vô tâm, là trung đạo vậy.
507 Duy Ngã ĐộcTôn.
Vân
Môn có một lần kể lại:
Thế
Tôn lúc sanh ra một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, đi bẩy
bước nói rằng:
"
Trên trời, dưới trời chỉ có ta là hơn cả." Lúc đó, nếu
ta thấy vậy liền dùng gậy đánh chết, vứt cho chó ăn thì
thiên hạ được thái bình.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Thiền tông để phá trừ tướng Phàm Thánh, mắng Phật, mắng Tổ, coi thường như ăn cơm hàng bữa. Người nói lời độc địa nhất là Vân Môn. Câu nói của Thế Tôn là chỉ Pháp Thân, tuyệt đối đãi, ngoài ngã này không có một vật nào khác, còn gọi là Đại Ngã. Nếu không hiểu nghĩa này và cho đó là tiểu ngã Tất Đạt Đa (nếu ngài có tư tưởng độc tôn này) thì ngài đã có phàm thánh phân biệt. Chỉ những thiền sư đã chứng ngộ mới hiểu được, nếu như chỉ là Thiền ngoài miệng, do thức tâm mà phát ra lời mắng chửi, thì đó là pháp sanh diệt, còn rơi vào vòng nhân quả. Thiền tông có tinh thần siêu Phật, vượt Tổ, do đó không lập Phật Điện chỉ có Pháp Đường, mọi chỗ đều biểu thị tác phong bình đẳng khiến mọi người không có lòng tự ty, không mất đi tín niệm "Tức Tâm Tức Phật"; cũng không có lòng cống cao ngã mạn khinh thị người sơ học, mạt học không thể tinh tiến. Cả hai đều là chướng ngại. Có người cho mắng Phật, mắng Tổ là ung bướu của Phật Giáo. Đó là lấy thế pháp luận xuất thế pháp. Chúng ta có thể nói những người này là không có đầu óc. Nếu một người đã đọc qua kinh sách Phật quyết không có những lời vọng ngữ này.
508 Đồng tử rót trà.
Có
một vị hòa thượng dẫn một đồng tử đến thăm Thuận
Đức, thưa rằng:
-
Đồng tử này thường hay hỏi Phật pháp, thỉnh thiền sư
khảo nghiệm.
Thiền
sư bèn bảo đồng tử rót trà. Đồng tử mang trà lại, thiền
sư uống xong đưa chén trà cho đồng tử. Đồng tử bước
lên đón. Thiền sư rụt tay lại hỏi:
-
Còn nói được không?
-
Xin thầy cứ hỏi!
Hòa
thượng không nhịn được, xen vào hỏi:
-
Thiền sư, không biết kiến giải của đồng tử thế nào?
-
Chẳng qua chỉ là một ông tăng giữ giới.
(Thiền
Cơ)
Đối với Thiền tông điều quan trọng nhất là kiến tánh. Đối với các tông giáo khác của Phật giáo thì điều quan trọng nhất là giữ giới luật. Kiến tánh và giữ giới chẳng có liên quan gì đến nhau. Khi Thiền sư hỏi "Còn nói được không?" Đồng tử trả lời "Xin thầy cứ hỏi.” Kỳ thực, bản lai diện mục lại còn cần người khác hỏi mình sao? Do đó, kết quả cuộc khảo nghiệm là "Chỉ là một ông tăng giữ giới.”
509 Quy Tông.
Giang
Châu Quy Tông Khả Tuyên thiền sư sau khi ngộ đạo, trú ở
Quy Tông, gập lúc Quách Công Phủ nhận chức quan thú ở Nam
Xương. Hai người qua lại rất thân. Thiền sư bị quận thú
sở tại áp bức, viết thư cho Quách Công Phủ:
-
Đời này ta còn có duyên với ông sáu năm, nay bị quận thú
áp bức, sẽ thác sinh vào nhà ông nếu ông thấy không có
gì trở ngại.
Công
Phủ vui vẻ gật đầu. Đêm đó phu nhân nằm mơ thấy thiền
sư vào màn, thất thanh kêu lên:
- Đây không phải là chỗ hòa thượng vào được!
Công
Phủ lay tỉnh và gạn hỏi. Phu Nhân kể lại giấc mộng. Công
Phủ cười lấy thư cho xem. Phu nhân sau đó quả nhiên mang
thai, khi sanh đặt tên là Tuyên Lão. Lớn lên nhớ rõ chuyện
cũ. Sáu năm sau không bệnh mà mất.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Chuyện đầu thai có được nghe, nhưng đính ước trước khi đầu thai, sau khi sanh ra lại nhớ rõ truyện trước thì thật là hiếm, chỉ trừ những bậc đạt đạo mới có thể tự do như vậy.
510 Đạo chính ở công việc bình thường hàng ngày.
Đạo
Khiêm khi chưa khai ngộ, tu học với Đại Huệ ở núi Kinh
Sơn thuộc tỉnh Chiết Giang. Có một lần, Đại Huệ sai Đạo
Khiêm mang một phong thư đến Trường Sa ở Hồ Nam. Lúc đó,
giao thông bất tiện, từ Chiết Giang đến Hồ Nam đường
xá xa xôi chỉ nhờ vào đôi chân, gian khổ thấy rõ. Đạo
Khiêm rầu rĩ nhưng không giám trái lệnh, chỉ than thở:
-
Ta tham thiền đã 20 năm rồi mà chưa ngộ, nay lại phải bôn
ba trên đường, coi bộ việc tu hành đành bỏ.
Một
đạo hữu là Tông Nguyên nghe được bèn an ủi:
- Đạo huynh đừng sợ, cứ đi đi, ta sẽ đi cùng với huynh
cho có bạn.
Đạo
Khiêm bất đắc dĩ phải lên đường. Đi được vài ngày
không nhịn được, khóc với Tông Nguyên rằng:
-
Ta một đời tham thiền, chưa thấy được gì, giờ lại phải
bôn ba, làm sao ngộ đạo?
Tông
Nguyên bèn nói:
-
Ta đề nghị đạo huynh từ bây giờ bỏ hết những kiến
thức đọc trong sách vở, những gì nghe được từ những
vị thiền sư Viên Ngộ, Đại Huệ, cả những kinh nghiệm
ngồi thiền trong 20 năm qua đều bỏ hết đi. Trên đường
đi, có chuyện gì ta đều làm cho.
Đạo
Khiêm rất vui mừng không ngờ lại có chuyện may như thế
vội đáp:
-
Tốt quá! Mọi chuyện phiền huynh giúp giùm.
Tông
Nguyên lại nói:
-
Chỉ có 5 chuyện ta không thể giúp cho đạo huynh được, mà
huynh phải tự làm đó là: mặc áo, ăn cơm, đi tiêu, đi tiểu,
đi đường.
Đạo
Khiêm nghe nói giản dị như vậy, bất giác khoa chân, múa tay
nói:
-
Chuyện lúc trước: sở học, sở tu ta không quản nữa, bây
giờ chỉ như vậy tới Trường Sa.
-
Tốt lắm! bây giờ sư huynh có thể tự mình đến Trường
Sa, ta phải trở lại Kinh Sơn.
Nửa
năm sau, Đạo Khiêm từ Trường Sa trở về Kinh Sơn, Đại
Huệ trông thấy, hoan hỉ nói rằng:
-
Mừng cho ngươi, chuyến này đã thay đổi cả con người.
(Nhất
Vị Thiền: Quyển Nguyệt)
Tông Nguyên dụng tâm đối bệnh cho thuốc thực là cao minh. Kỳ thực Đạo Khiêm tham thiền 20 năm mà chưa ngộ vì không bỏ được Tri Thức. Một khi bỏ được, từ những sinh hoạt bình thường hàng ngày mà thể ngộ. Dần dần, cơ duyên chín mùi chỉ cần một người chỉ cho thì ba cửa đều không, tự mình xúc duyên mà ngộ, đó không phải là chuyện khó khăn. Việc sinh hoạt phải tự mình, ngộ đạo cũng không thể do người. Điều trọng yếu là dùng tâm bình thường mà sinh hoạt, không tu mà tu.
511 Nam Tuyền bác bỏ tu sĩ và cư sĩ.
Một
ông tăng trẻ đến gập Nam Tuyền nhưng không vái chào theo
thường lệ. Nam Tuyền phê bình:
-
Ngươi quá cư sĩ!
Ông
tăng bèn chắp hai tay lại vái chào, Nam Tuyền bảo:
-
Ngươi quá tu sĩ!
Ông
tăng không biết sau đó phải làm sao. Một thiền sư khác khi
nghe được chuyện này bèn nói:
-
Nếu ta là ông tăng đó, ta sẽ buông thõng hai tay và lui ra.
(Zen
Koans)
Những người trẻ thường hay phá phách, những thiền sinh trẻ ngày xưa cũng không ngoại lệ. Ông tăng trẻ trên thử thách thầy không theo sự chào hỏi thường lệ. Ông ta nghĩ rằng ông ta có thể tự do làm bất cứ việc gì không bị trói buộc bởi luật lệ. Nhưng sự tự do khác với tự do đối với một sự gì. Con người từ khởi thủy đã tự do, chỉ vì chấp nên bị trói buộc. Nếu một người không chấp vào một cái gì cả thì không bị trói buộc. Lúc đó luật tắc không bao giờ làm phiền ông. Đến và đi, vái chào hay thối lui không có gì khác biệt đối với người tự do.
512 Giảng pháp.
Thiền
sư Nghĩa Trung lên giảng đàn. Một cư sĩ bước ra rồi đi
từ Đông sang Tây. Một ông tăng cũng bước ra và đi từ Tây
sang Đông.
Nghĩa
Trung bảo:
-
Cư sĩ hiểu thiền, còn ông tăng thì không.
Cư
sĩ bước lại gần thiền sư và nói:
-
Con cám ơn Thầy đã chấp nhận.
Trước
khi dứt lời, ông đã bị thiền sư đánh một gậy.
Ông
tăng lại gần và thưa:
-
Xin Thầy chỉ dạy.
Ông
cũng bị thiền sư đánh một gậy.
Nghĩa
Trung hỏi:
-
Ai kết luận công án này?