Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
禪 之 花
QUYỂN HẠ
Dịch giả: Dương Đình Hỷ
1201. Cha mẹ ở trong đám cỏ dậm.
Có
ông tăng hỏi Thạch Thất:
- Thầy có qua Ngũ Đài Sơn không?
-
Có qua.
-
Vậy thầy có gặp Văn Thù không?
-
Có gặp.
-
Bồ tát Văn Thù có nói với thầy Phật pháp cao diệu gì không?
-
Văn Thù nói “cha mẹ ngươi đều nằm trong mộ, dưới đám
cỏ dậm.”
(Bồ Đề linh quang)
Thiền
không tìm thâm ảo, huyền bí, bình thường là đại đạo.
1202. Một phiến đá trước am.
Tuyết
Phong Nghĩa Tồn đến tham học Đầu Tử Đại Đồng. Đầu
Tử chỉ phiến đá trước am:
-
Quá khứ, hiện tại, vị lai, tam thế chư Phật đều giảng
pháp ở phiến đá này.
-
Có nhiều vị Phật không giảng pháp ở phiến đá này mà
giảng ở chỗ khác.
(Bồ đề linh quang)
Phật
ở khắp mọi nơi, mọi thời, mọi sự vật đều ẩn tàng
Đạo, nếu nói tại chỗ này thì chỉ là ngộ ở một tầng
cảnh giới.
1203. Mang trà lại.
Một
ông tăng hỏi Linh Tham:
-
Một hạt hoàn đơn có thể điểm sắt thành vàng; một câu
chí lý có thể chuyển phàm thành thánh. Đệ tử đến đây
xin thầy điểm.
-
Không điểm
-
Sao không điểm?
-
Sợ ngươi rơi vào tâm phân biệt phàm thánh.
-
Xin thầy chỉ thị.
-
Thị giả! Mang trà ra.
(Bồ đề linh quang)
Đắc
đạo thành Phật là do minh tâm kiến tánh, toàn là nhờ mình
tự ngộ. Đối với người chưa ngộ, không có cách nào điểm,
chỉ có thể mang trà ra tống khách, đợi lần khác đến sẽ
chỉ thị thiền cơ.
1204. Đánh thành một phiến.
Hương
Lâm trụ trì Hương Lâm viện 40 năm, đến năm 80 tuổi thì
viên tịch. Ông từng nói:
-
Ta 40 năm qua đã đánh thành một phiến.
(Bồ đề linh quang)
Đánh
thành một phiến là chỉ đã chân chính trở về khuôn mặt
xưa nay; từ đầu đến cuối trung thành ‘thủ nhất’. Các
vị cao tăng thường thận trọng giữ gìn chánh niệm, chuyên
nhất hộ đạo; thường sống ẩn cư; đoạn tuyệt mọi trần
duyên. ‘Chỉ tại trong núi này, mây dầy không biết ở đâu’.
Người từ tự nhiên tới, lại trở về tự nhiên. Quá trình
tham thiền là quá trình trở về.
1205. Một, Hai, Ba, Bốn, Năm, đủ số.
Có
ông tăng hỏi Bản Tịch:
-
Cổ nhân nói người người đều có; đệ tử sống trong thế
tục có không?
-
Đưa tay ta coi.
Ông
tăng duỗi tay ra, thiền sư chỉ ngón tay đếm:
-
1, 2, 3, 4, 5, đủ số!
(Bồ đề linh quang)
Điều
kiện để thành Phật cũng như ngón tay ai ai cũng đều có
đủ.
1206. Ăn cơm đi.
Một
hôm trong giờ ăn, Đạo U vào nhà ăn bạch chúng cáo thị:
-
Có lời với đại chúng.
Chư
tăng ngẩng đầu lên nghe.
-
Ăn cơm đi!
(Bồ đề linh quang)
Ăn
cơm cũng đang ở trong thiền đạo, người thường không để
ý nên Đạo U bạch chúng chỉ cơ.
1207. Phòng ngủ không người.
Có
ông tăng hỏi Giáp Sơn:
-
Làm sao đạt được cảnh giới Niết Bàn tịch tĩnh?
-
Như trong phòng ngủ rộng lớn không người.
(Bồ đề linh quang)
Niết
Bàn là cảnh giới vô nhân, vô ngã; nếu suy nghĩ làm sao để
vào thì không bao giờ vào được.
1208. Khách chưa về, nhớ cố hương.
Nhân
Dõng thượng đường nói:
-
Từng trận gió thu thổi qua rặng thông, khách chưa về, nhớ
cố hương. Ai là khách chưa về? Chỗ nào là cố hương?
(Bồ đề linh quang)
Bản
tâm là cố hương là chỗ thiền khách trở về.
1209. Văn Thù và Phổ Hiền.
Động
Sơn Thủ Sơ là cao đồ của Vân Môn. Một lần có một ông
tăng hỏi:
-
Lão thiền sư đã tu hành tới trình độ cao thâm; giả như
các bồ tát.
Văn
Thù và Phổ hiền đến thỉnh giáo thì thầy làm sao?
-
Ta coi họ như trâu, lùa vào chuồng!
(Bồ đề linh quang)
Cầu
Phật, bồ tát là vọng niệm, vọng tưởng, phải đối trị
như chăn trâu; coi sóc kỹ lưỡng.
1210. Ngoảnh mặt về Nam nhìn Bắc Đẩu.
Có
ông tăng hỏi Huệ Thanh:
-
Thế nào là tự thân, tự tâm?
-
Ngoảnh mặt về Nam nhìn Bắc Đẩu.
(Bồ đề linh quang)
Tự
thân, tự tâm chỉ có tự nghiệm, tự giác mới triệt ngộ.
Huệ Thanh bảo ông tăng hướng về Nam quay đầu nhìn về Bắc
thể ngộ tự thân, tự tâm.
“Hồi
đầu tức thị: là phản quán tự tánh.
1211. Về phòng sưởi ấm.
Trùng
Hiển thượng đường nói:
-
Giả sử nói đến kinh thiên động địa, trời rải hoa xuống
cũng chẳng bằng về phòng sưởi ấm.
(Bồ đề linh quang)
Ngôn
ngữ văn tự chỉ trói buộc thiền. Nhiều lời càng dễ bị
mê chấp, chẳng bằng về phòng hơ lửa sưởi ấm, điềm
nhiên tự tại lại còn gần thiền cảnh hơn.
1212. Coi chừng chó dữ.
Ở
pháp hội Lâm Tế, 2 ông tăng đến tham kiến, vừa giở mành
lên thiền sư bèn hét lớn:
-
Coi chừng chó dữ!
Hai
ông tăng xoay đầu lại tìm kiếm, thiền sư bèn trở về phương
trượng.
(Bồ đề linh quang)
Tiếng
hét của thiền sư khiến 2 ông tăng quay đầu lại tìm kiếm,
tự ngộ tự tánh.
1213. Sinh tử đến.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Lúc sinh tử đến, làm sao để thoát?
Vân
Môn đưa hai tay ra:
-
Đưa sinh tử cho ta.
(Bồ đề linh quang)
Người
chưa ngộ hay thích nói về sinh tử, đối với thiền giả
chân chính thì không có gì gọi là sinh tử.
1214. Cây nhà nào chẳng đón xuân.
Một
cư sĩ hỏi Cư Nhân:
-
Người tục gia có thể lãnh hội Phật pháp không?
-
Tảng đá nào trăng không chiếu? Cây nhà nào chẳng đón xuân.
(Bồ đề linh quang)
Phật
quang chiếu khắp nơi, Phật tánh ở khắp chỗ.
1215. Phật tánh vốn tự đầy đủ.
Có
ông tăng hỏi Mã Tổ:
-
Phải lý giải thế nào để được đạo?
-
Tự tánh vốn tự đầy đủ, chỉ cần trong thiện ác không
bị dính líu thì đó là người tu. Giữ thiện, bỏ ác, tâm
quán không tịnh, thần nhập vào định. Cứ thế mà làm. Còn
như hướng ra bên ngoài mà tìm thì càng lúc càng xa đạo.
(Bồ đề linh quang)
Thiền
ở trong tâm, đạo ngay dưới chân.
1216.
Thị giả thuyết pháp.
Khi
thiền sư Nhân Dũng thượng đường, thị giả đang thắp hương;
thiền sư chỉ thị thị giả nói:
-
Thị giả đã giảng pháp cho đại chúng rồi!
(Bồ đề linh quang)
Thị
giả thắp hương chính là tự tánh tự dụng. Có thể thể
ngộ tự tánh thì đắc đạo thành Phật, không khác gì hiện
thân thuyết pháp.
1217. Thế nào là Đạo?
Trần
Tôn Túc hỏi một cụ tú tài:
-
Tiền bối nghiên cứu kinh điển gì?
-
Ta chuyên nghiên cứu kinh Dịch.
-
Kinh Dịch nói “bá tánh dùng hàng ngày mà không biết”, cụ
nói coi bá tánh không biết cái gì?
-
Bá tánh không biết đạo vận hành của trời đất.
-
Cái đạo ấy là thế nào?
Lão
tú tài không lời đáp lại.
(Bồ đề linh quang)
Sinh
hoạt bản thân chính là Đạo. Lão tú tài “bất thức Lư
Sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung”.
1218. Đi tới chỗ không biến đổi.
Tào
Sơn là cao đồ của Động Sơn, sau khi đắc pháp rồi bèn
hướng sư phụ từ biệt. Động Sơn hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Con tới chỗ không biến đổi.
-
Nơi không biến đổi lại có đến, đi sao?
-
Đến đến, đi đi chẳng có ảnh hưởng gì đến sự tồn
tại của không biến đổi.
(Bồ đề linh quang)
Trong
tĩnh có động, trong động có tĩnh; lấy bất biến ứng vạn
biến. Thiền cảnh là cảnh giới động tĩnh là một.
1219. Người trong mật thất.
Một
ông tăng hỏi một lão thiền sư:
-
Tình cảnh của người ẩn trong mật thất thế nào?
-
Người ẩn trong mật thất không muốn người ta biết, sợ
khách đến nên không lên tiếng. Tình cảnh của ông ta trừ
ông ta ra thì chẳng ai biết.
(Bồ đề linh quang)
Chúng
ta có phải là người trong mật thất không? Hay trong tâm chúng
ta có người trong mật thất? Nếu là vậy xin đừng lên tiếng.
1220. Cho ta một đồng.
Bố
Đại đứng bên đường, có ông tăng hỏi:
-
Hòa thượng đứng đây làm gì?
-
Đợi một người.
-
Đến rồi! đến rồi!
-
Ngươi không phải là người đó.
-
Phải làm sao mới là người đó?
-
Cho ta một đồng.
(Bồ đề linh quang)
Bố
Đại nói đợi một người là chỉ cơ. Ông tăng tâm hãy còn
mê chấp, phân biệt nên hòa thượng chỉ còn cách xin tiền
để khai thị ông.
1221. Rồng trong nước sống.
Thiền
sư Lương Sơn Duyên Quán là người đời Tống, trú ở núi
Lương Sơn tỉnh Hồ Nam; phó pháp cho Đại Dương Cảnh Huyền.
Ông có làm bài kệ:
梁
山 一 曲 歌
Lương
Sơn nhất khúc ca
格
外 人 難 和
Các
ngoại nhân nan hòa
十
載 訪 知 音
Thập
tải phỏng tri âm
未
嘗 逢 一 個
Vị
thường phùng nhất cá
Lương
Sơn một khúc ca
Người
ngoài khó biết hòa
Tri
âm nếu muốn kiếm
Một
người cũng chẳng ra.
Một
hôm một học tăng thỉnh thị:
-
Tri âm khó gập là một điều đáng tiếc, nhưng gia tặc khó
đề phòng mới là mối lo của con. Xin sư phụ cho một lời.
-
Nhận biết, hiểu thấu, biến hóa, vận dụng nó, cần gì
phải đề phòng?
-
Gia binh, gia tướng dễ xử dụng, nhưng gia tặc làm sao dụng?
-
Mời nó ở vô sinh quốc.
-
Chẳng lẽ chỗ ẩn thân lập mạng cũng không có sao?
-
Rồng không ẩn ở nước chết.
-
Thế nào là rồng ở nước sống?
-
Mây nổi chẳng phà sương.
-
Bỗng gặp mây nổi rồi mưa thì sao?
-
Đừng để ướt cà sa lão tăng.
(Tinh vân thiền thoại)
Vương
Dương Minh là một tay cao thủ trong nhà Thiền. Ông nói:
-
Đề phòng cướp ở trong núi dễ; đề phòng cướp ở trong
tâm khó.
Và:
-
Tâm như quốc vương có thể ra lệnh; tâm như oan gia thật
khó đề phòng.
Khi
chưa đạt được thiền tâm thì vọng tâm thật khó đề phòng.
Câu nói của Duyên Quán rất hay, giống như Gia Cát Lượng
bẩy lần bắt, bẩy lần tha Mạnh Hoạch, mới có thể dứt
tuyệt hậu hoạn.
Tâm
trụ ở đâu mới tốt? Ở chỗ không trụ mà trụ. Tâm không
có an trú tại ngũ uẩn của thân hoặc lục trần ở cảnh
vì đó là nước chết không chứa được rồng. Rồng thật
nổi mây rồi mưa. Không làm ướt áo cà sa của lão tăng,
ý là căn tính lợi lạc không bị nhiễm nước bùn. Mặt trời
có mọc, lặn; mặt trăng có tròn, khuyết. Chúng ta nên từ
trong sinh diệt biết an trú ở chân tâm không sinh diệt.
1222. Chỉ trời, chỉ đất.
Một
ông tăng đến bái phỏng Đạo Khâm, thưa:
-
Đệ tử mới vào thiền viện xin thầy khai thị.
-
Một tay chỉ trời, một tay chỉ đất.
(Bồ đề linh quang)
Thiền
sư dẫn tích Phật đản sinh (xem công án 60, 72, 507) để chỉ
cho ông tăng tự phát hiện tự tánh.
1223. Không thể hiểu.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Thế nào là chỗ tu hành của người xuất gia chân chính?
-
Là chỗ không người hiểu được.
-
Làm sao mọi người không hiểu được?
-
Vậy ngươi hãy cố tìm hiểu cái không hiểu được.
(Bồ đề linh quang)
Mọi
nhận thức đều từ bất nhận thức mà ra. Trở về cái bất
nhận thức (tức Không) chính là cái thiền cảnh “Không”
mà ta muốn tìm.
1224. Một phiến đá trong không.
Có
ông tăng hỏi Thạch Sương:
-
Ý tổ sư từ Tây qua là gì?
-
Giống như một tảng đá từ không bay tới.
Ông
tăng lạy tạ, thiền sư hỏi:
-
Ngươi hiểu ý này không?
-
Con không hiểu.
-
May mà ngươi không hiểu nếu không đã bị tảng đá đập
bể đầu rồi.
(Bồ đề linh quang)
Hễ
có một niệm thì niệm niệm theo nhau không cùng. Đó không
phải là thiền cảnh. Phải nên “ nhấc lên được, cũng
bỏ xuống được” thì sẽ không bị tảng đá trong không
làm tâm mê, ý loạn, vỡ đầu chẩy máu.
1225. Ở bên bờ sông mà chết khát.
Tuyết
Phong Nghĩa Tồn bảo đại chúng:
-
Các ngươi ngày ngày học Phật, tham thiền phải nhớ rằng
có người ngồi ngay bên cạnh mâm cơm mà chết đói, có người
đến bên bờ sông nước chẩy cuồn cuộn mà chết khát. Đây
chẳng phải là chuyện đùa.
(Bồ đề linh quang)
Chúng
ta mọi lúc đều ở trong Đạo, nhưng vẫn có người không
biết điều đó, thậm chí còn đi ngược lại Đạo. Chúng
ta hàng ngày chìm đắm trong sinh hoạt, có người bị sinh hoạt
làm rối loạn thậm chí uổng phí cả một kiếp người không
phải sao?
1226. Dùng nèo chỉ cơ.
Hòa
thượng Bí Ma Nham ở Ngũ Đài Sơn tay thường cầm một cái
nèo, thấy ông tăng nào đến lạy liền dùng nèo móc vào cổ
hỏi:
-
Ma quỷ nào bảo ngươi xuất gia? Ma quỷ nào bảo ngươi hành
cước? Đáp được hay không đều chết dưới cây nèo
này, nói mau! Nói mau!
Học
tăng ít người trả lời được.
(Bồ đề linh quang)
Trực
tâm là Đạo, cứ vươn thẳng cổ ra để thiền sư móc.
1227. Cơ ngữ qua sông.
Lương
Giới cùng Mật sư bá cùng qua sông. Lương Giới hỏi:
-
Qua sông thế nào?
-
Không làm ướt chân.
-
Sư bá già rồi còn nói vậy!
-
Còn ngươi thì nói sao?
-
Chân không bị ướt.
(Bồ đề linh quang)
Nói
điên đảo làm lộ ra “ngã” chủ thể. Thật là chân ngộ
vậy.
1228. Có khác gì khóc.
Ngưỡng
Sơn lúc còn là chú tiểu, tụng kinh tiếng rất vang. Nhũ Nguyên
la:
-
Chú này đọc kinh như khóc.
-
Đúng vậy, còn hòa thượng thì sao?
Nhũ
Nguyên nhìn quanh không hiểu.
-
Nều thầy như vậy thì có gì khác với khóc đâu?
(Bồ đề linh quang)
Bản
tánh tự nhiên, không bó buộc theo một cách nào cả.
1229. Tường Đông đánh tường Tây.
Một
ông tăng hỏi Quy Nhân:
-
Sinh hoạt của Linh Tuyền (pháp hiệu của Quy Nhân) thế nào?
-
Tường Đông đánh tường Tây.
-
Vậy làm sao qua ngày?
-
Nồi không chân, lửa không khói.
-
Sáng tối hai thời làm sao cúng dường?
-
Ông lão quê thổi cơm không có gạo, buổi họp mặt bên bờ
suối không có người đến dự.
(Bồ đề linh quang)
Cách
sinh hoạt của Linh Tuyền là tứ đại giai không.
1230. Đánh vỡ đáy thùng.
Lâm
Tế từng nói:
-
Khi ta chưa khai ngộ, thấy quanh mình đều là sơn đen, giống
như bị cấm cố trong một cái thùng vậy.
(Bồ đề linh quang)
Người
sau nhân đó khi giải thoát được mê vọng hoát nhiên tỉnh
ngộ gọi là phá vỡ đáy thùng. Bàn Khuê cũng có một câu
kệ:
Đáy
thùng cổ vỡ rồi
Cả
một vòng đất trời!
Đáy
thùng vỡ rồi, phía dưới là một vòng tròn, trời đất đều
ở trong đó.
1231. Bao dung.
Có
2 chú tiểu tranh cãi, không ai nhường ai; chỉ còn cách tìm
sư phụ làm trọng tài. Chú thứ nhất trình sư phụ lý do
của mình. Sư phụ nghe rồi bảo:
-
Ngươi đúng!
Chú
ta nghe rồi vui vẻ đi ra.
Chú
thứ hai trình ý kiến của mình, sư phụ nghe rồi bảo:
-
Ngươi cũng rất đúng!
Chú
này rất cao hứng đi ra.
Thị
giả đứng hầu một bên, ngạc nhiên hỏi:
-
Sư phụ bảo chú này đúng, chú kia cũng đúng, vậy thì ai
sai?
Thiền
sư cuời bảo thị giả:
-
Ngươi cũng đúng!
(Hảo tuyết phiến phiến)
Có
thị phi là có đối đãi, không khế hợp với Đạo. Thiền
tâm là bao dung. Kinh Hoa Nghiêm nói nếu trụ ở phân biệt sẽ
làm hỏng mất thanh tịnh, ngu si tà kiến tăng, vĩnh viễn không
thấy được chư Phật. Đối với người mới tu, bao dung là
một loại học tập; còn đối với người khai ngộ, đã thấy
được thực tướng của vạn pháp, biết Phật tánh của mọi
người đều bình đẳng thì sự bao dung là lý đương nhiên.
1232. Phật là thế nào?
Có
một ông tăng hỏi Diên Chiểu:
-
Thế nào là Phật?
-
Thế nào là không Phật?
Ông
tăng thưa:
-
Con không rõ lời huyền diệu, xin thầy trực tiếp chỉ thị.
-
Nhà ở bờ biển Đông, mặt trời lên sẽ được chiếu sáng
trước.
(Bồ đề linh quang)
Phật
ở mọi thời, mọi nơi, phản chiếu tự tâm sẽ thấy.
1233. Nở đã lâu rồi.
Một
ông tăng hỏi thiền sư:
-
Cây nở hoa không?
-
Đã nở lâu rồi.
-
Còn kết quả không?
-
Đêm qua sương xuống làm rụng rồi!
(Bồ đề linh quang)
Nở
hoa, kết quả là bản tánh của cây. Chấp vào kết quả là
còn mê vọng.
1234. Hoa sen nở trên đá.
Có
ông tăng hỏi thiền sư Uẩn:
-
Thế nào là thiền?
-
Hoa sen trên đá, nước suối trong lò lửa.
-
Thế nào là Đạo?
-
Một cọng cỏ trên đỉnh Lăng Già.
-
Thiền và Đạo khác biệt thế nào?
-
Người bùn xuống nước, người gỗ mò tìm.
(Bồ đề linh quang)
Thiền
là ngộ ở trong tâm, ở bên ngoài nhìn không thấy, sờ không
được.
1235. Chuyện cây bách có tặc cơ.
Đức
Sơn Sơ Kỳ, Ẩn Nguyên sang Nhật Bản truyền giáo. Đây là
một sự kiện trọng đại. Kể từ đời Liêm Thương Thiền
từ Trung Quốc truyền sang Nhật Bản, ít có cao tăng đến
Nhật. Chư Tăng Nhật Bản rất kính trọng mời ông trụ trì
Bản Sơn Diệu Tâm Tự. Ẩn Nguyên có lần đến Hoa Viên Diệu
Tâm Tự ở kinh đô hỏi:
-
Khai sơn tổ sư của quý tự có để lại ngữ lục gì không?
-
Không có ngữ lục, nhưng có để lại một câu “Chuyện cây
bách có tặc cơ” (Xem công án 786)
Ẩn
Nguyên kinh ngạc, kính phục thiền học của Quan Sơn hướng
về tháp Quan Sơn mà vái lạy.
(Bồ đề linh quang)
Chữ
tặc trong tặc cơ chỉ người mạnh lấy đi vật của người
khác. Ở đây chỉ thiền giả lấy đi vọng tưởng phiền
não, khiến thiền sinh thấy được khuôn mặt xưa nay.
1236. Mười phương thế giới là tâm ngươi.
Có
ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
-
Tâm con có dạng thức gì?
-
Chính mười phương thế giới là tâm ngươi.
-
Nếu tâm con rộng lớn như thế thì thân thể con ở đâu?
Chẳng lẽ không có chỗ để thân sao?
-
Đó chính là chỗ để thân ngươi.
(Bồ đề linh quang)
Tâm
và thế giới hợp nhất tức là thiền cảnh.
1237. Tùy xứ an nhàn.
Hoa
Nghiêm hỏi Thạch Môn:
-
Cổ nhân nói: “Một người có thể làm tâm an ninh nhàn dật
thì tự nhiên cùng Đạo hợp nhất”. Điều này có phải
là chân lý không và cứ thế mà làm thì có đúng không? Xin
thầy giải thích.
-
Nếu hiểu đạo lý này có thể tùy xứ an ninh, bình hòa giống
như một người ở thành thị nghe được chuyện lạ vẫn
bình tĩnh. Không hiểu đạo lý này tâm cũng có thể an ninh,
bình hòa nhưng giống như một người ở làng quê nghe được
chuyện lạ thì kinh dị đi loan truyền khắp nơi.
Hoa
Nghiêm nghe rồi có chút lãnh hội.
(Bồ đề linh quang)
Tâm
bình thường là Đạo, như người ngồi thuyền gặp sóng gió,
nếu coi tất cả đều không thì dù có gập biến cũng không
sợ hãi.
1238. Vô tâm gõ vô tâm.
Có
một ông quan chỉ cái mõ hỏi Hồng Nhân:
-
Cái này là cái gì?
-
Vật để cảnh tỉnh người buồn ngủ.
-
May tới chốn này!
-
Thật là (người) vô tâm gõ (vật) vô tâm.
(Bồ đề linh quang).
Khoảng
không trong mõ là “vô tâm”. Người vô tâm là không vọng
niệm. Vô tâm gõ vô tâm mới là vào thẳng cửa không.
1239. Trời sáng gà gáy.
Một
ông tăng hỏi Nguyệt Luân:
-
Phải tu hành thế nào để thấy khuôn mặt xưa nay?
-
Không cần phải treo gương đá, hễ trời sáng là gà gáy.
(Bồ đề linh quang)
Thấy
khuôn mặt xưa nay là chỉ minh tâm kiến tánh, treo gương đá
chỉ cầu Phật là hư vọng. Câu của thiền sư có nghĩa là
ngộ rồi thì có thể kiến tánh thành Phật.
1240. Khởi công từ chỗ nào?
Triệu
Châu và thủ tọa cùng đi thăm cầu đá Triệu Châu, Triệu
Châu hỏi:
-
Cầu này ai xây?
-
Lý Dung thiết kế và xây.
-
Xây từ chỗ nào?
Thủ
tọa không lời đối lại, Triệu Châu bảo:
-
Bình thời ngươi nói về cầu đá Triệu Châu rành rẽ lắm,
sao hỏi ngươi chỗ hạ thủ lại không biết?
(Bồ đề linh quang)
Chỗ
nào là chỉ không gian. Trong Phật giáo chỗ nào chính là chỗ
này; tất cả đều bắt đầu từ đây. Khởi điểm của Thiền
ở đây, bây giờ, tự mình. Nếu lìa chúng thì thiền đạo
cũng không tồn tại.
1241. Không chấp tướng.
Thiền
sư Cảnh Sầm người Trường Sa là đệ tử của thiền sư
Nam Tuyền, đàm thiền luận đạo, cơ phong mẫn tiệp; đồng
đạo đều tôn xưng là hổ hòa thượng. Một tết trung thu,
Cảnh Sầm và Ngưỡng Sơn cùng thưởng nguyệt. Ngưỡng
Sơn chỉ trời nói:
-
Cái này mọi người đều có, chỉ vì vô minh nên không sử
dụng được.
Cảnh
Sầm không cho là phải:
-
Nếu mọi người đều có, làm sao không có ai sử dụng được?
May hôm nay cơ duyên hội hợp; vầng trăng sáng này chờ ngươi
sử dụng. hãy thử xem nào!
-
Dùng trăng sáng rất thú vị, mời pháp tọa dùng thử trước.
Cảnh
Sầm không khách khí đạp ngã Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn không
giận còn tán thán “Thật giống hổ”. Vì thế về sau mọi
người đều gọi ông là Sầm Đại Trùng.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Ngưỡng
Sơn nói trăng sáng bị mây che lấp tương tự tâm chúng ta
bị vô minh, phiền não che lấp. Cảnh Sầm thì cho rằng chỉ
cần có thiền thì mây tan trăng lộ. Đạp ngã Ngưỡng Sơn
chỉ dưới ánh trăng thiền còn cần gì ngươi nói nhiều?
Câu tán thán của Ngưỡng Sơn có nghĩa là thiền có thể tĩnh,
có thể động, thiền lực như sư tử, hổ báo.
1242. Chặt giun làm hai.
Đời
mạt Đường, một ông tăng hỏi Diên Khánh:
-
Một con giun bị chặt đôi, hai đầu đều động đậy, không
biết Phật tánh ở đầu nào?
Diên
Khánh không đáp, chỉ dang hai tay ra.
(Bồ đề linh quang)
Diên
Khánh dùng tay để diễn ý hai tay đều động, Phật tánh
ở đâu? Phật tánh ở tâm, không đâu không có (Xem thêm
công án 1954).
1243. Ngày nay, ngày mai.
Có
ông tăng hỏi thiền sư Diễn Giáo:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Ngày nay, ngày mai.
(Bồ đề linh quang)
Ngày
nay, ngày mai đều bình thường. Bình thường là Thiền. Người
không ngộ nói nhiều vô ích, người lãnh hội ngày ngày đều ở trong Đạo.
1244. Trăng khuyết, trăng tròn.
Thạch
Thất và Ngưỡng Sơn cùng thưởng nguyệt. Ngưỡng Sơn hỏi:
-
Khi trăng khuyết thì trăng tròn đi đâu? Khi trăng tròn thì
trăng khuyết đi đâu?
-
Khi trăng tròn thì trăng khuyết ẩn, khi trăng khuyết thì trăng
tròn ẩn.
(Bồ đề linh quang)
Cảnh
trăng là cảnh thiền. Trong tròn có khuyết, trong khuyết có
tròn (Xem thêm công án 346).
1245. Trú xứ của chân Phật.
Có
ông tăng hỏi Quang Dũng:
-
Chân Phật trú ở đâu?
-
Tức thời không hình trạng, cũng không ở chỗ nào khác.
(Bồ đề linh quang)
Chân
Phật ở tự tánh cho nên nói không hình trạng, cũng không
ở chỗ nào khác (vì ở khắp mọi chỗ).
1246. Không phải là Phật thì là ai?
Một
lần, có vài pháp sư đến tham kiến Huệ Hải. Một ông hỏi:
-
Muốn hỏi một vấn đề, thiền sư có chịu trả lời không?
-
Bóng trăng dưới ao sâu, tùy ý nắm bắt.
-
Thế nào là Phật?
-
Đối mặt ao trong chẳng phải Phật thì là ai?
(Bồ đề linh quang)
Ý
thiền sư là trước mặt ta người người đều có tự tâm
là Phật.
1247. Phật cũng là bụi.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Khi con quét sạch bụi trần, phiền não, thấy Phật rồi thì
sao?
-
Lúc đó ngươi thấy Phật cũng là bụi, là phiền não, cũng
phải quét đi.
(Bồ đề linh quang)
Có
thấy là không phải chân không, cho nên chưa thấy chân Phật.
1248. Bảo Phúc.
Có
ông tăng hỏi Bảo Phúc:
-
Thế nào là gia phong của hòa thượng?
-
Mây trên trời xanh, nước trong bình.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Bảo
Phúc dùng lại câu nói của Dược Sơn (Xin xem công án 1021).
1249. Hưng Giáo.
Có
ông tăng hỏi Hưng Giáo:
-
Thế nào là Đạo?
-
Cạo đầu vào chỗ hoang vu.
-
Thế nào là người trong Đạo?
-
Que cứt khô.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Hưng
Giáo dùng lại câu nói của Vân Môn (Xem công án 199).
1250. Phàm và thánh.
Có
ông tăng hỏi Đức Sơn Tuyên Giám:
-
Phàm và thánh khác nhau nhiều ít?
Đức
Sơn bèn hét lớn.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Phàm
là chỉ cảnh giới của người đời, cũng là hiện tượng
giới. Thánh là cảnh giới sau khi ngộ, cũng là bản thể giới.
Đối với người kiến tánh thì phàm và thánh chỉ là một
vì lìa hiện tượng thì không có bản thể. Câu ông tăng hỏi
xuất phát từ tâm phân biệt. Đức Sơn hét lớn để cắt
đứt vọng niệm của ông tăng.
1251. Đại ý Phật pháp.
Một
ông tăng hỏi Cảnh Như:
-
Đại ý Phật pháp là thế nào?
Thiền
sư hét lớn.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Lời
giảng cũng tượng tự công án trên.
1252. Hừ!
Mỗi
khi có thiền sinh nào hỏi về pháp, về thiền, về Đạo,
Toàn Hoát đều hét lên:
-
Hừ!
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Tiếng
hừ trong đời thường có hàm ý cấm đoán, thiền sư ám chỉ
câu của ngươi hỏi phát xuất từ vọng tâm chỉ làm trở
ngại sự kiến tánh.
1253. Vô niệm.
Đại
Châu nói:
-
Vô niệm là ở tất cả mọi nơi đều vô tâm, không mong cầu
đối với mọi cảnh giới không động niệm.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Đối
với Đại Châu vô niệm là không bị ngoại cảnh hạn chế,
không có tình thức quyến luyến, đối với ngoại cảnh hoàn
toàn khách quan, không bị khích động. Cảnh giới này không
thể dùng phương thức lý giải của thế giới nhị nguyên
mà giải thích được.
1254. Nghiệp thức mang mang.
Quy
Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
-
Chúng sinh nhân vì tâm bị ô nhiễm quá nghiêm trọng không
biết tự kỷ Phật tánh, ngươi có biện pháp nào để biết
nghiệp thức của họ ở đâu không?
-
Con đương nhiên có biện pháp.
Chính
lúc đó có một ông tăng đi qua. Ngưỡng Sơn kêu ông ta một
tiếng, ông tăng ngoảnh đầu lại. Ngưỡng Sơn thưa:
-
Thầy coi! Đấy là nghiệp thức mang mang không chỗ nắm
bắt.
(Bồ đề linh quang)
Trong
cõi hồng trần, người người đều là cố nhân. Chỉ cần
thức ngã, biết ngã, quên ngã, không bị ngã trói buộc thì
mới chính thức vượt ra ngoài tam giới.
1255. Rõ mình, ngộ ngay trước mắt.
Tổ
Tâm thượng đường bảo đại chúng:
-
Chỉ rõ mình mà không lãnh ngộ sự trước mắt là người
có mắt không chân. Lãnh ngộ sự trước mắt mà không
rõ mình là người có chân không mắt. Hai loại người này
thường có một vật để trong lòng. Có vật trong lòng thì
trước mắt thường hiện ra tướng bất an, mọi chỗ đều
trở ngại, không thông làm sao an ổn? Chư tổ đã chẳng nói
qua sao “Chấp vào được mất là đi vào tà đạo. Cứ bỏ
xuống hết, thuận theo tự nhiên thì chẳng có hơi thở đến,
đi sai biệt”.
(Bồ đề linh quang)
Mắt
thấy hãy còn là hư, chân đạp là thật. Đối với thiền
giả mắt và chân đều trọng, bước đi trong đạo.
1256. Ca Diếp múa.
Càn
Đạt Bà Vương tấu nhạc, sơn hà đại địa đều vang tiếng
đàn, Ca Diếp liền múa. Vương hỏi Thế Tôn:
-
Ca Diếp là A La hán các lậu đều hết, sao hãy còn dư tập?
Thế
Tôn đáp:
-
Thật không còn dư tập, ngươi đừng báng pháp.
Vương
lại đánh đàn ba lượt, Ca Diếp lại múa ba lần. Vương lại
hỏi:
-
Chẳng phải Ca Diếp múa sao?
-
Thật không múa.
-
Sao Thế Tôn lại vọng ngữ?
-
Không vọng ngữ. Khi ngươi đánh đàn, sơn hà đại địa cỏ
cây đều vang tiếng nhạc, chẳng phải sao?
-
Dạ phải.
-
Ca Diếp cũng vậy! Thật không có múa.
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Diệu
nhạc của Càn Đạt Bà Vương là đại lực của cảnh giới
Bồ tát. Do đó sơn hà đại địa, cỏ cây đều vang tiếng
nhạc và Ca Diếp thì múa. Vương tuy phát tâm thâm viễn nhưng
trí tuệ chưa hoàn toàn thông suốt ngay trí tuệ của mình,
cũng chưa rõ nên không hiểu Ca Diếp vô tâm mà múa. Lúc đó
đáng nhẽ Thế Tôn phải đánh cho ông 30 gậy. Đây là cảnh
giới động tĩnh là một, múa mà không múa.
1257. Dùng tay.
1- Một ông tăng hỏi Hương Nghiêm:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Hương
Nghiêm thu tay vào lòng rồi dang hai tay ra.
2- Một ông tăng hỏi Lạc Kinh Hắc Giản:
-
Thế nào là người trong mật thất?
Lạc
Kinh lấy tay đấm ngực.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Câu
hỏi của hai ông tăng trên đều là hỏi về tự tánh. Hương
Nghiêm và Lạc Kinh đều dùng động tác để trả lời. Động
tác là chỉ bản thân biểu hiện, nhưng đây không phải là
toàn bộ sinh mạng. Nếu chấp vào động tác là lạc vào hiện
tượng giới, không hiểu được tự tánh là gì .
1258. Cơ kêu mổ.
Một
ông tăng hỏi Giang Tây Lư Sơn Song Khê Điền Đạo Giả:
-
Thế nào là cơ kêu mổ?
Sư
lấy tay ra dấu mổ.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Gà
mẹ ấp trứng 21 ngày. Gà con từ trong kêu, gà mẹ mổ, gà
con từ trong vỏ chui ra. Kêu mổ phải đồng thời. ông tăng
hỏi dụng của cơ kêu mổ. Thiền sư dùng tay ra dấu mổ là
chỉ thị, nếu ông tăng chưa siêu việt hiện tượng giới
thì đây là sự trợ giúp rất tốt khiến ông thoát khỏi
mê đắm mà thấy tự tánh (Xem công án 125).
1259. Mèo bắt chuột.
Hối
Đường hỏi Thảo Đường:
-
Trong Đàn kinh có công án gió động, cờ động ngươi giải
thích thế nào?
-
Con một điểm nhập thủ cũng chẳng có, xin thiền sư chỉ
điểm.
-
Ngươi có xem mèo bắt chuột không? Khi rình chuột mắt nó
không chớp, bốn chân quỳ trên đất đợi cơ hội hành động.
Mắt, tai, mũi đều để ý đến chuột, đầu đuôi đều cùng
một hướng. Từ đầu đến cuối chỉ một mục đích. Do
đó, trăm lần vồ trăm lần trúng. Nếu ngươi làm được
như vậy tâm không tưởng gì khác: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý tự nhiên thanh tịnh, tự mình thể hội. Bảo đảm
trăm lần không sai.
Thảo
Đường cứ y thế mà làm, qua một năm cuối cùng đại ngộ.
(Bồ đề linh quang)
Thành
hay bại là do “toàn thần quán chú” và “tâm viên ý mã”.
Nhập thiền cũng không ngoại lệ.
1260. Phật tánh của hòa thượng.
Có
ông tăng hỏi Ứng Thiên:
-
Mọi người đều có Phật tánh, Phật tánh của hòa thượng
ở đâu?
-
Ngươi bảo cái gì là Phật tánh?
-
Vậy hòa thượng là người không có Phật tánh.
-
Chính là thế đó! Ta khoái quá.
(Bồ đề linh quang)
Tất
cả đều không; Phật tánh thường tương tùy.
1261.
Ô, guốc ở đâu?
Một
hôm Thiên Vương đến thăm Nam Ẩn, gập lúc trời mưa không
ngớt. Khi chào hỏi xong, Nam Ẩn hỏi:
-
Ta biết ông để guốc ở ngoài hành lang nhưng ta không biết
ông để cái ô ở bên phải hay bên phải hay bên trái đôi
guốc?
Thiên
Vương không trả lời được, rất mắc cỡ bèn bái Nam Ẩn
làm thầy.
(Nhất vị thiền: quyển Phong)
Sau
sáu năm theo thấy cuối cùng Thiên Vương đã đạt được
yêu cầu của Nam Ẩn niệm niệm đều thiền.
1262. Một cọng cỏ.
Đức
Phật và chúng đệ tử tản bộ ở nơi điền dã, thấy phong
cảnh đẹp đẽ, chỉ một khoảng đất bảo:
-
Chỗ này nên xây chùa.
Thiên
đế thuận tay ngắt một cọng cỏ cắm xuống đất:
-
Bạch Thế Tôn, chùa đã xây xong.
Đức
Phật gật đầu mỉm cười.
(Hảo tuyết phiến phiến)
Một
cọng cỏ là một tòa Phật điện trang nghiêm chẳng trách
Triệu Châu nói lão tăng lấy một cọng cỏ làm gậy kim cương;
lấy gậy kim cương làm một cọng cỏ. Các bậc tu hành nói
3 ngàn uy nghi, 8 vạn tế hạnh đều từ cái ‘một’ này
mà bắt đầu. Phải nên quý một cọng cỏ, một hạt gạo,
một bát cháo. Nên biết nước trong thiên hạ đều từ một
giọt nước Tào Khê mà ra.
1263. Cư sĩ có nhà không?
Thiên
Nhiên đến thăm Bàng Uẩn, thấy một thiếu nữ đang ngồi
nhặt rau ngoài cổng (Đó là Linh Chiếu, con gái Bàng Uẩn).
Thiên Nhiên hỏi:
-
Cư sĩ có nhà không?
Linh
Chiếu bỏ rổ rau xuống, đứng dậy . Thiên Nhiên lại hỏi:
-
Cư sĩ có nhà không?
Linh
Chiếu nhấc rổ rau lên, bỏ đi.
(Thiền cơ)
Câu
hỏi ‘Cư sĩ có nhà không?’ lần thứ nhất hàm ý: ‘cư
sĩ có thể ở nhà, có thể không ở nhà’. Lần thứ hai có
nghĩa là cư sĩ (chỉ tự tánh) không chỗ nào là không ở.
1264.
Từ phương Nam tới.
Viên
Quang hỏi một ông tăng mới tới:
-
Ngươi từ phương Bắc hay phương Nam tới?
-
Từ phương Nam.
-
Không rơi vào ngôn ngữ, nói đi!
-
Con người Phước Kiến.
-
Tham thiền đi!
(Thiền cơ)
Không
rơi vào ngôn ngữ ám chỉ vào thẳng tự tánh.
1265. Đệ tử có bệnh.
Một
ông tăng thưa với Hoàng Thông:
-
Đệ tử có bệnh, thỉnh thầy chữa!
-
Mang bệnh ra đây ta chữa cho.
-
Mời thầy chữa.
-
Trả tiền thuốc đi!
(Thiền cơ)
“Trả
tiền thuốc đi” là ám chỉ ông tăng có phàm bệnh thiền
sư sẽ cho thánh dược, ông tăng có thánh bệnh thiền sư sẽ
cho phàm dược.
1266. Thầy của Chư Phật.
Thúy
Vi ở Chung Nam Sơn hỏi Đơn Hà:
-
Thế nào là thầy của Chư Phật?
-
Thật đáng thương, cầm chổi để làm gì?
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Đơn
Hà mắng Thúy Vi còn muốn người phục dịch cái gì, khiến
Thúy Vi thể ngộ được pháp giới nhất như của tự tánh.
1267. Gánh Vác.
Huyền
Sa và Đại Phổ chuyện trò với nhau. Huyền Sa nói:
-
Chỉ dẫn cho một người hiểu rõ Đạo sinh hoạt thật khó.
-
Đúng vậy, thật là khó!
-
Khó ở chỗ nào?
-
Ỡ chỗ hắn không chịu gánh vác.
(Thiền sinh mạng đích vi tiếu)
Vì
không chịu gánh vác nên không có khả năng tham dự vào sinh
hoạt. Do đó làm sao mà khoái lạc được? Khoái lạc là một
loại sinh hoạt thực tiễn không phải tìm cầu mà được.
1268. Trí Tạng và Lý Cao.
Thượng
thư Lý Cao hỏi một ông tăng:
-
Mã đại sư có lời dạy gì?
-
Đại sư hoặc nói “Tức tâm tức Phật” hoặc nói “Phi
tâm phi Phật”.
-
Chưa quá bên này.
Lý
Cao lại hỏi Trí Tạng . Trí Tạng gọi lớn:
-
Lý Cao !
-
Dạ!
-
Cổ giác động.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Bên
này là chỉ cảnh phàm. Công án có thể có 2 giải thích:
Lý
Cao nhận rằng ông tăng đối với lời dạy của Mã Tổ chỉ
lý giải chứ chưa thể ngộ, cho nên nói ông hãy còn ở trong
cảnh phàm.
Lý
Cao nhận mình chưa liễu giải.
Cổ
giác:cổ là cái trống, giác là tù và, là những dụng cụ
trong quân đội để báo giờ. Trí Tạng dùng cổ giác để
chỉ tác dụng của tự tánh. Vì tự tánh vô hình vô tướng
nên lời nói không thể dùng để tả nhưng có thể dùng để
chỉ đạo cho thiền sinh ngộ nhập tự tánh.
1269. Không rời pháp đường.
Dược
Sơn hỏi Đạo Ngô:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Đi chơi núi tới.
-
Không rời pháp đường, nói mau!
-
Trên núi chim trắng như tuyết, dưới khe cá lội tung tăng.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Câu
hỏi của Dược Sơn là song quan ngữ (một mặt chỉ tự tánh,
một mặt chỉ pháp đường), nếu ngươi không rời pháp đường
làm sao du sơn ngoạn thủy? Đạo Ngô không bị mắc bẫy rơi
vào văn tự và trí giải, dùng cảnh sắc mà trả lời.
1270. Làm sao để thành Phật.
Một
ông tăng hỏi Huệ Trung:
-
Làm sao mới thành Phật?
-
Tâm là Phật.
-
Tâm này có phiền não không?
-
Phiền não tự nhiên không khởi.
-
Vậy là phải cắt đứt phiền não?
-
Nếu cắt đứt phiền não thì là nhị thừa, phải không sinh
phiền não thì mới là đại Niết Bàn.
(Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)
Niết
Bàn là chỉ tâm đạt tới cảnh giới thanh tịnh, tròn đầy
không còn phiền não.
1271. Chánh pháp nhãn tạng.
Lâm
Tế sắp di hóa bảo chúng đệ tử:
-
Ta mất rồi, không được làm mất chánh pháp nhãn tạng của
ta.
Đệ
tử Tam Thánh bước ra thưa:
-
Không dám làm mất đâu.
-
Về sau có người hỏi ngươi, ngươi sẽ trả lời làm sao?
Tam
Thánh lập tức hét to.
-
Không ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị mất bởi con lừa
mù này!
Lâm
Tế nói rồi nhắm mắt an tọa, ly khai nhân thế.
(Nhất vi thiền: quyển Nguyệt)
Chánh
pháp nhãn tạng còn được gọi là thanh tịnh pháp nhãn. Chánh
là trung chánh, không nghiêng về một bên; pháp là cái tâm
thể trung chánh hiển hiện; nhãn là có thể chiếu soi mọi
vật; tạng là tâm chứa mọi thiện pháp. Chúng ta tập quán
dùng mắt thịt mà coi vạn tượng thế gian, rồi dùng thường
thức mà phán đoán. Do nhiều nguyên nhân cá biệt, mỗi người
đều có cái nhìn khác nhau. Nếu dùng chánh pháp nhãn tạng
thì phải có tâm nhãn thanh tịnh, vô nhiễm, lấy tâm vô phân
biệt mà quán sát sự vật. Chúng ta phải đóng con mắt thường,
mở con mắt huệ, đứng trên quan điểm duyên khởi, tánh không
mà quan sát sự vật thì mới xem thấy đước thực tướng
của vạn vật.
1272. Một khúc tiêu thiền.
Giác
A là người Nhật bản đầu tiên đến Trung Quốc học thiền
đã được truyền chánh pháp. Sau đó ông cũng không đi khắp
nơi du sơn ngoạn thủy, chỉ tìm chỗ thâm sơn cùng cốc mà
ngồi tham thiền nhập định. Nếu có người tìm đến học
hỏi ông chỉ lược thuyết vài câu. Sau đó ông lại dời
đi chỗ khác, không để lại tung tích. Sau nhiều năm tham thiền
ở Trung quốc, ông trở về nước. Thiên Hoàng nghe tiếng ông,
mời ông vào Hoàng cung giảng pháp. Ông đứng yên lặng trước
mặt Thiên Hoàng rồi rút ở trong tay áo ra một một ống tiêu.
Ông thổi một điệu tiêu sau đó cung kính vái chào bỏ đi.
(Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Giác
A chỉ thổi một điệu tiêu thôi, không biểu thị gì khác.
Do đó, mọi người không nhận ông đã đem thiền vào Nhật
Bản, nhưng mỗi khi nghe tiếng chim hót ríu rít, tiếng suối
róc rách, tiếng gió thổi qua lá rì rào . . . thì tiếng tiêu
đó như phảng phất bên tai chúng ta.
1273. Trong rừng vắng.
Một
hôm, Đức Phật ngồi thiền trong rừng vắng. Trừ tiếng gió
thổi qua lá ra không có tiếng động nào khác; có khi ngay cả
tiếng gió cũng không có nữa. Tất cả đều im lặng. Đột
nhiên Ngài nghe có tiếng tranh cãi của một đôi nam nữ từ
xa vọng lại. Không lâu thấy một thiếu nữ hoảng hốt chạy
qua, không biết có Đức Phật đang ngồi thiền dưới bóng
cây. Lại một lát sau, một chàng thanh niên chạy tới, trông
thấy Đức Phật bèn hỏi:
-
Ông có thấy một thiếu nữ chạy qua đây không? Cô ta đã
trộm tiền của tôi.
-
Đi tìm người thiếu nữ và đi tìm chính mình, điều nào
quan trọng hơn?
Chàng
thanh niên kinh ngạc, trong sát na đó như người tỉnh mộng.
(Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Đánh
mất chính mình để đi tìm vật dục thật là ngu xuẩn.
1274. Xuống giường đứng.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Triệu
Châu xuống giường đứng yên.
-
Có phải lão sư chỉ như vậy không?
-
Ta còn chưa nói mà.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Triệu
Châu xuống giường đứng là dùng động tác để chỉ thị.
Ông tăng không hiểu nên hỏi lại tự tánh có phải là như
thầy chỉ không? Tự tánh không có phạm vi, giới hạn, chỉ
có mình tự thể nghiệm mà biết thôi, không thể phân biệt.
Câu đáp của Triệu Châu có nghĩa là ta không có gì để chỉ
điểm cả, bác bỏ kiến giải của ông tăng.
1275. Đào đất tìm trời.
Có
ông tăng hỏi Thiện Chiêu:
-
Đại đạo lúc bắt đầu thế nào?
-
Đào đất bùn tìm trời xanh.
-
Như vậy sao được?
-
Hãy nhận thức lý u huyền!
(Bồ đề linh quang)
Tìm
ngược về khởi nguyên của Đạo là chấp mê, giống như
đào đất mà tìm trời xanh.
1276. Xúc mục Bồ đề.
Một
ông tăng hỏi Tuyền Châu:
-
Thế nào là xúc mục Bồ đề?
Sư
lấy gậy đánh đưổi đi.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
“Xúc
mục Bồ đề” là chỉ những gì mắt nhìn, không gì không
là Bồ đề. Trong sinh hoạt hàng ngày không có gì không phải
là do tự tánh biểu lộ; nhưng điều này phải do chính mình
thể ngộ, không thể do người khác bảo cho biết vì những
gì người khác nói hay chỉ đều là lý niệm không phải là
thể nghiệm. Trong công án này Tuyền Châu lấy gậy đuổi
ông tăng đi, nếu ông ngộ thì đó là đáp án của thiền
sư, nếu ông không ngộ thì động tác của thiền sư có ý
nghĩa là hãy bỏ vọng niệm đi.
1277. Huệ Minh nhấc bát.
Viễn
Châu Mông Sơn Huệ Minh, đuổi theo Lư hành giả tới Đại
Dữu Lãnh. Huệ Năng để y bát trên tảng đá, sư nhấc lên
không được bèn thưa:
-
Tôi đến vì pháp, không vì y bát, xin hành giả khai thị.
-
Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là khuôn
mặt xưa nay của Minh thượng tọa?
Sư
nghe rồi ngộ.
(Thiền Thất dữ công án đích áo bí)
Huệ
Minh và Huệ Năng cùng là đệ tử của Hoằng Nhẫn. Một người
thô tục chỉ muốn đạt danh vị, còn một người là bậc
chân tu. Khi Huệ Minh truy sát Huệ Năng, Huệ Năng để y bát
lên trên tảng đá, Huệ Minh đến nhấc lên không được mới
nói “Tôi đến vì pháp không vì y bát. Xin hành giả khai thị.”
Đó là hồi đầu chuyển xứ. Chính sự hồi đầu này là
cơ duyên khai ngộ. Có người ở tình cảnh này không chịu
ngừng bước nên không có cơ hội mà tham ngộ. cũng giống
như tên cướp Ưng Quật Ma La cầm dao bức Phật. Phật bảo
“Ta đã ngừng rồi, sao ngươi còn chưa ngưng?”. Tên cướp
đột nhiên ngộ đến sự khốn quẫn của thân mình, không
hướng ngoại bôn ba mà hướng nội phản chiếu do đó giác
ngộ.
1278. Mã Tổ gửi thư.
Mã
Tổ sai người đem thư cho Quốc Nhất Đạo Khâm. Đạo Khâm
mở thư ra chỉ thấy trong thư vẽ một vòng tròn. Đạo Khâm
chấm vào vòng tròn một điểm, rối gửi trả lại. Trung quốc
sư nghe được chuyện này phê bình:
-
Khâm sư hãy còn bị Mã sư mê hoặc.
(Thiền Thất dữ công án đích áo bí)
Mã
Tổ thích đùa cợt người. Ông vẽ một vòng tròn gửi cho
Đạo Khâm là đạo lý gì? Kỳ thực chẳng có đạo lý gì;
chỉ là bình thường vẽ một cảnh giới tròn đầy cho Quốc
Nhất. Quốc Nhất không ngờ đó là cái bẫy nên bị rơi vào.
Ông Chấm 1 điểm vào vòng tròn là công phu của ông là chiếu
cả bản lai diện mục. Nhưng điểm của ông còn bị vòng
tròn bao vây. Ông chỉ chiếu chứ không thể hoạt. Trung quốc
sư là người sáng mắt lợi khẩu nên bảo Khâm sư bị Mã
sư mê hoặc. Thực ra cái bẫy của Mã sư đã bị Khâm sư
khám phá, nhưng vẫn bị rơi vào. Trung quốc sư cũng vậy cũng
ở trong bẫy nốt. Vòng tròn của Mã sư vẽ thiên vẽ địa,
bất cứ ai cũng ở trong đó cả. nhưng ở trong đó đâu có
sao? Chỉ cần thanh tịnh là được.
1279. Phùng trường tác hý.
Khắc
Cần lên giảng đường nói:
-
Lửa, chẳng chờ mặt trời mọc mới nóng; gió chẳng đợi
trăng lên mới mát, chân hạc dài, chân vịt ngắn, thiên nga
trắng, quạ thì đen, mọi sự đều hiển lộ. Nếu lãnh hội
ở mọi nơi đều làm chủ, gập cơ duyên đều là thiền chỉ,
giống như nghệ sĩ giang hồ có mang theo gậy trúc phùng trường
tác hý. Có hạng người ấy chăng?
(Bồ đề linh quang)
Vạn
vật đều hàm thiền chỉ; mọi sự mọi nơi, mọi thời đều
có thể tham ngộ; chỉ là nghệ sĩ giang hồ phùng trường
tác hý ít thấy thôi.
1280. Gương cổ và thế giới.
Tuyết
Phong bảo đại chúng:
-
Các ngươi biết không, nhận thức và đối tượng khế hợp
nhau; nếu thế giới vuông tròn một thước thì gương cổ
cũng vuông tròn một thước. Nếu thế giới vuông tròn một
trượng thì gương cổ cũng vuông tròn một trượng.
Huyền
Sa Sư Bị chỉ lò lửa hỏi:
-
Cái này lớn chừng nào?
-
Gương cổ cũng lớn cùng cỡ.
(Bồ đề linh quang)
Gương
cổ (chỉ sự nhận thức) phản chiếu thế giới. Vạn sự
vạn vật đều ở trong gương cổ.
1281. Phá chấp.
Bắc
Dã là vị trụ trì ở Vĩnh Bình Tự, lúc trẻ thích vân du
bốn phương. Năm 20 tuổi trên đường hành cước ông gặp
một người hút thuốc, 2 người kết bạn vượt qua đường
núi. Đến một gốc cây 2 người ngồi nghỉ mệt. Người
bạn đồng hành đưa điếu thuốc thuốc cho ông. Vừa mệt,
vừa đói, Bắc Dã nhận lấy và hút vài hơi. Sau đó ông khen
vị thuốc rất ngon. Người kia bèn tặng luôn ống điếu và
một ít thuốc cho ông. Sau khi người bạn đồng hành đi khỏi,
Bắc Dã nghĩ bụng “Hút thuốc thích thật nhưng sẽ làm trở
ngại thiền định, ta phải ngưng ngay để khỏi tích ác thành
tập”. Do đó ông ném bỏ ống điếu và thuốc hút. Ba năm
sau, ông bắt đầu nghiên cứu kinh Dịch. Lúc đó vào mùa đông,
ông rất cần áo ấm, bèn viết thư nhờ người mang đến
lão sư ở cách xa cả trăm dậm. Mùa đông đã qua gần hết
mà áo ấm vẫn chưa nhận được, cũng chẳng có thư tín gì
cả. Bắc Dã bèn bói một quẻ thì biết thư mình chưa đến.
Quả nhiên không lâu nhận được thư của sư phụ, trong thư
không hề đề cập đến chuyện áo ấm. Bắc Dã kinh dị nghĩ
bụng “Nếu Dịch học có tác dụng như thế sẽ hủy hoại
khóa trình thiền học của ta.” Do đó ông lại bỏ sự nghiên
cứu kinh Dịch. Năm 28 tuổi ông lại thích thư pháp và làm
thơ, ngày càng tiến bộ và được lão sư khen ngợi. Ông lại
nghĩ: “Nếu ta không đình chỉ ngay ta sẽ thành một nhà thi
họa, hay một thi sĩ chứ không phải là một thiền sư nữa.”
(Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Bắc
Dã viên tịch năm 1433 thọ 92 tuổi, suốt đời nỗ lực phá
chấp tất cả mọi sự việc.
1282. Thiền gần.
Huyện
lệnh Thành Đô là Phạm Mỗ nghe nói Viên Ngộ Khắc Cần đến
Thành Đô trú ở Chiêu Giác Tự, bèn đến xin thiền sư chỉ
con đường Đạo. Viên Ngộ bảo ông tham câu của Mã Tổ “Không phải là tâm, không phải là Phật, không phải là
vật” là ý nghĩa gì?
Phạm
Mỗ tham cứu rất lâu nhưng chẳng được gì, khóc thưa với
Viên Ngộ:
-
Xin thầy phương tiện chỉ cho con đường nào khiến con hiểu
được Thiền.
-
Ở đây ta có một cách rất giản tiện ngươi chỉ cần nghĩ
nó là cái gì, không là cái gì?
Phạm
Mỗ cuối cùng khai ngộ thưa:
-
Nguyên lai Thiền không ngăn cách chút nào, ở ngay bên cạnh.
(Bồ đề linh quang)
Thiền
nói xa thì xa, nói gần thì gần. người cho là huyễn thì xa
vạn lý, người biết bình thường thì ở ngay tâm.
1283. Chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng.
Một
hôm Thuyền Tử dừng thuyền ở bờ, ngồi chơi. Có một vị
quan nhân hỏi:
-
Việc hàng ngày của hòa thượng là gì?
Thuyền
Tử giơ mái chèo lên hỏi:
-
Hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Dùng mái chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng.
(Bồ đề linh quang)
Chấp
mê khó thấy chân Đạo, ngồi chơi (vô tâm) lại gần thiền
cảnh.
1284. Báo danh khế ngộ.
Lương
Toại đến thăm Ma Cốc. Ma Cốc thấy ông tới giơ cuốc lên
cuốc cỏ. Lương Toại đến chỗ cuốc cỏ. Ma Cốc không thèm
nhìn ông trở về phòng phương trượng, đóng cửa lại. Ngày
hôm sau Lương Toại lại đến. Ma Cốc vẫn đóng cửa. Lương
Toại gõ cửa. Ma Cốc hỏi:
-
Ai?
-
Lương Toại.
Vừa
báo danh xong, Lương Toại hốt nhiên lãnh ngộ, thưa:
-
Hòa thượng đừng lừa con, nếu con không đến bái phỏng
hòa thượng thì đã bị Phật điển, kinh luận lừa dối một
đời rồi.
Ma
Cốc mở cửa tiếp kiến.
Lương
Toại về giảng xá nói với đại chúng:
-
Những gì các ngươi biết ta đều biết, cái ta biết các ngươi
không biết.
(Bồ đề linh quang)
Tự
báo danh, đột nhiên phát hiện tự ngã, nhận thức tự ngã
dẫn đến đốn ngộ.
1285. Con chó có Phật tánh không?
Trong
công án “Con chó có Phật tánh không?” (Xem công án 1020),
Vô Môn có bài kệ:
狗
子 佛 性
Cẩu
tử Phật tánh
全
提 正 命
Toàn
đề chánh mạng
才
涉 有 無
Tài
thiệp hữu vô
喪
身 失 命
Táng
thân thất mạng
Con
chó Phật tánh
Nêu
trọn chánh lệnh
Vừa
nói có không
Vùi
thây mất mạng.
(Hân Mẫn dịch)
-
Chữ vô giống như kiếm sắc chặt đứt hai bên (hữu, vô)
siêu việt chân không diệu hữu xuyên suốt 48 tắc công án
(trong Vô Môn Quan), như là lệnh bài vô tự, như quan tướng
quân (Quan Vân trường) qua 5 ải chém 6 tướng, không qua thì
không ngừng.
(Dương Tân Anh)
-
Con chó, Phật tánh, vô là một. Khi trả lời vô, Triệu Châu
đã vượt lên khỏi thế giới nhị nguyên của khái niệm.
(Yamada)
1286. Đầu sào trăm trượng.
1-
Một ông tăng hỏi thiền sư về công án “Đầu sào trămtrượng’
làm sao bước được bước nữa? (Xem công án 275), thiền sư
kêu:
-
A!
Ông
tăng tức thời khai ngộ.
2-
Một ông tăng được thiền sư cho công án ‘Đầu sào trăm
trượng, làm sao bước bước nữa? Ông tham cứu 3 năm vẫn
chưa ngộ. một hôm cưỡi lừa đi ngang 1 cây cầu độc mộc,
không để ý, người và lừa đều rơi xuống sông. Do đó
mà ông ngộ:
-
A! Nguyên lai đầu sào trăm trượng làm sao bước bước nữa
là vậy!
(Sinh hoạt thiền)
Trèo
được 99 trượng rồi lên đến 100 trượng không phải là
dễ. Lên đến nơi rồi không chịu buông tay mà nắm chắc
lấy đầu sào làm sao bước bước nữa? Phải buông bỏ tất
cả, ngay cả sinh mạng thì mới bước được bước nữa.
Có ông tăng hỏi sư phụ:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
-
Là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Là
cũng ý này: tất cả đều là không, không được chấp bất
cứ một cái gì dù cái chấp đó là mạng sống, là Phật,
là pháp thì mới được hoàn toàn giải thoát.
1287. Lưỡi người sống trong miệng người chết.
Có
ông tăng hỏi Quy Nhân:
-
Không nêu lên câu hỏi mà tự nói, làm sao lý giải?
-
Lưỡi người sống trong miệng người chết.
-
Không biết người nào có thể lãnh hội.
-
Con trâu không sừng.
(Bồ đề linh quang)
Người
nói có miệng nhưng vô tâm, người ngộ hỗn nhiên viên dung.
1288. Nhà ngươi tự có con cháu.
Lúc
Pháp Đăng là trụ trì Lam Viện, Đạo Tề là chủ quản kinh
tạng. Một hôm Đạo tề đứng hầu một bên, Pháp Đăng bảo
ông:
-
Tạng chủ, công án ‘Ý tổ sư từ Tây sang’ ngươi hiểu
sao?
-
Chẳng Đông, chẳng Tây.
-
Còn chưa thấm tới bờ.
-
Con chỉ hiểu vậy, còn hòa thượng thì sao?
-
Nhà ngươi tự có con cháu.
Đạo
Tề ngộ ngay ý chỉ.
(Bồ đề linh quang)
Nhà
ngươi tự có con cháu, nhà mình (tâm) phải nên coi sóc.
1289. Con lừa.
Ích
Châu Tông Mục thượng đường, có một ông tăng giơ tay nói:
-
Hòa thượng là một con lừa.
-
Ta bị ngươi cưỡi.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Tâm
cảnh đã triệt để an nhiên kiên cố như thành lũy thì không
có ngoại lực nào có thể công phá được.
1290. Bốn lời nguyện lớn.
Bạch
Vân Thủ Đoan thượng đường nói:
-
Ông già Thích ca có 4 lời nguyện lớn: “Chúng sinh vô biên
thề nguyện độ, phiền não vô biên thề nguyện đoạn, pháp
môn vô biên thề nguyện học, Phật Đạo vô biên thề nguyện
thành.” Pháp Hoa cũng có 4 lời nguyện lớn: “Đói thì ăn,
mệt thì ngủ, lạnh mặc thêm áo, nóng thích gió mát thổi”.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Người
xuất gia phải giữ giới luật. Sinh hoạt hàng ngày bị câu
thúc như cử chỉ phải nghiêm trang v . v . Đó là giai
đoạn còn đang tu Thấy núi chỉ là núi. Khi đã ngộ rồi
thấy núi lại là núi, sinh hoạt cứ tùy duyên không bị vật
ngoại nhiễu loạn, tự do vô ngại.
1291. Thiền của Lão bà.
Ma
Cốc, Bảo triệt, Nam Tuyền cùng hai ba người nữa đến yết
kiến Kinh Sơn Đạo Khâm. Trên đường gập một bà lão. Ma
Cốc hỏi:
-
Đến Kinh Sơn đi lối nào?
-
Cứ đi thẳng.
-
Phía trước nước sâu có qua được không?
-
Chân chẳng ướt nước.
-
Sao bờ trên lúa tốt, bờ dưới lúa xấu vậy?
-
Đều bị cua ăn hết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Học
Thiền phải chuyên cần tinh tấn đừng sợ này sợ nọ thì
mới có hy vọng thành công. Ở đây bà lão là một tác gia,
bà dùng lối chơi chữ để ngụ ý. Trong tiếng Tầu con cua
là “bàng giãi”. Tiếng đồng âm của bàng là bàng vụ là
bị cảnh nhiễu loạn, của giãi là giãi đãi là lười, sợ
khó mà lui.
1292. Pháp thân thanh tịnh.
(Đàn Kinh)
Vạn
sự, vạn vật đều do tự tánh mà sinh. Nếu nghĩ thiện thì
làm điều thiện; nghĩ ác thì làm điều ác. Nhưng tự tánh
vốn thanh tịnh như mặt trời bị mây đen che đi; bên trên
là sáng, bên dưới là tối. Chỉ cần gió thổi mây tan: mặt
trời lại hiện ra chói lọi. Mặt trời là tự tánh thanh tịnh,
mây đen là vọng niệm, gió là trí huệ.
1293. Hư không không so sánh được.
Có
ông tăng hỏi Cảnh Huyền:
-
Người thông ngộ triệt để thì thế nào?
-
Hư không không so sánh được.
-
Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
-
Trâu trắng phà ra tuyết, gà ác cưỡi ngựa ô.
(Bồ đề linh quang)
Đối
với người triệt ngộ tất cả đều viên dung, trắng, đen
đều thông suốt.
1294. Xem múa rối.
Một
hôm ngũ tổ Pháp Diễn bảo đại chúng:
-
Hôm qua lão tăng vào thành thấy đám múa rối bèn lại xem,
thấy các con múa rối diễn rất sinh động. Quan sát kỹ mới
biết có người ở sau màn giật giây. Lão tăng không nhịn
được cười hỏi:
-
Trưởng sử tánh gì?
Không
ngờ ông ta nói:
-
Lão hòa thượng xem kịch thì cứ việc xem, còn hỏi tánh làm
gì?
Lão
tăng bị câu nói này không lời đáp lại được. Các ngươi
có thể đáp thay cho ta không? Hôm qua ta ở đó bị thua thiệt
hôm nay ở đây bù lại được rồi.
(Bồ đề linh quang)
Người
sau màn chỉ tự tánh. Mọi hành động của con người đều
như con rối, do tự tánh điều khiển. Tự tánh phải thể
nhận, không thể dùng lời mà tả được.
1295. Cuốn chiếu.
Một
hôm Mã Tổ Đạo Nhất thăng đường. Đại chúng tụ lại
để nghe pháp. Bách Trượng cuốn chiếu. Mã Tổ bèn xuống
tòa giảng.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Đại
Đạo lìa ngôn ngữ, văn tự cho nên không cần phải nói.
1296. Ta không phải là ống loa.
Có
một học tăng đến bái phỏng Thiết Chu, yêu cầu Thiết Chu
giảng cho ông nghe Lâm Tế Lục .
-
Ngươi tìm lầm người rồi, muốn nghe Lâm Tế Lục, tốt nhất
là hãy đến Viên Giác Tự kiếm Hồng Xuyên.
-
Không, con đã nghe Hồng Xuyên giảng rồi. Nghe nói thầy là
truyền nhân của Trích Thủy hòa thượng, con muốn nghe thầy
giảng. Thiết Chu chối từ hai ba lần không được đành dẫn
học tăng ra luyện võ trường cùng luyện võ. Hai người luyện
đến đổ mồ hôi hột mới ngưng. Thiết Chu dẫn ông tăng
trở lại pháp đường.
-
Thế nào ta giảng Lâm Tế Lục ra sao?
Ông
tăng ngạc nhiên không thốt ra lời. Thiết Chu nhắc lại câu
hỏi, ông tăng bất đắc dĩ đáp:
-
Lâm Tế Lục của thầy chỉ là một bản kiếm phổ sao?
-
Ta là kiếm khách, do đó ta chỉ đề xướng kiếm đạo. Ta
tuy cùng Trích Thủy học Thiền nhưng ta không phải là ống
loa.
-
Nói vậy thì chư tổ xưa nay truyền pháp truyền tâm đều
là ống loa cả sao?
-
Truyền pháp, truyền tâm là truyền pháp truyền tâm, truyền
loa là truyền loa.
(Tinh Vân thiền thoại)
Không
phải là loa truyền, đó là phong cách đặc biệt của thiền
sư. Nói đi nói lại chỉ là thiền vẹt không phải là truyền
pháp truyền tâm. Phàm học thiền lý phải tự mình tiêu hóa
trước, sau đó mới nói ra lời.
1297. Chân không diệu hữu.
Ngọc
Tuyền theo học lâu ngày với Viên Ngộ Khắc Cần cùng Đại
Huệ Tông cảo là đồng môn; tự nhận mình đã khai ngộ,
không còn nghi hoặc nữa. Do đó bắt đầu giảng dạy Phật
pháp. Các học tăng đổ xô tới tham học rất đông. Đại
Huệ biết ông chưa triệt ngộ sợ ông chỉ lầm cho người
sau, bèn viết thư bảo ông đến gập. ngọc Tuyền do dự được
mất, không vội trả lời ngay. Đại Huệ bèn viết bảng ngoài
cửa bảo cho tứ chúng hay. Ngọc Tuyền bất đắc dĩ
phải đến gập Đại Huệ. Sau khi khảo nghiệm bèn trách:
-
Kiến giải của ông như vậy mà dám xưng là pháp từ
của lão sư Viên ngộ sao?
Ngọc
Tuyền do đó trở về phòng tham cứu. Một hôm đến tham Đại
Huệ, Đại Huệ hỏi:
-
Ta muốn có một người không hiểu thiền làm quốc sư.
-
Đệ có thể làm quốc sư.
Đại
Huệ hét lớn đuổi ra. Sau đó, không lâu Đại Huệ bảo ông:
-
Chỗ ngộ cũa Hương Nghiêm không phải ở nơi hòn đá văng
vào gốc tre, chỗ ngộ của Câu Chi không phải ở đầu ngón
tay .
Ngọc
Tuyền nghe rồi, hốt nhiên thông đạt thiền pháp, lúc đó
mới là triệt ngộ.
Một
hôm, Đại Huệ lên toà giảng nêu lên công án Vân Môn giơ
gậy lên thị chúng. Bỗng giơ gậy lên bảo:
-
Gậy không thuộc hữu, không thuộc vô, không thuộc ảo, không
thuộc không. Dộng gậy xuống một cái, nói tiếp:
-
Phàm phu, nhị thừa, duyên giác, Bồ tát đều hướng về chỗ
đó, tùy theo căn tánh mình mà có thọ dụng, còn đối với
nạp tăng muốn làm, không thể làm. Muốn tọa không thể tọa
tiến lên một bước bị gậy làm lạc đường; lùi lại một
bước bị gậy xuyên qua lỗ mũi. Hãy cùng gậy tương kiến
nếu không sang năm lại có gậy khác làm náo loạn gió xuân,
chính lúc đó phải làm sao?
Nói
rồi xuống tòa bảo Ngọc Tuyền lên tòa giảng khai thị cho
đại chúng.
Ngọc
Tuyền nói:
-
Lời hoà thượng vừa nói giống như cá mắc trong đầm, chim
bệnh trong khóm lau, còn ta không như vậy.
Nói
rồi giơ gậy lên:
-
Gậy có thể Hữu, có thể Vô, có thể Ảo, có thể Không,
phàm phu, nhị thừa, duyên giác, Bồ tát (dộng gậy xuống)
hướng về chỗ đó. Còn như nạp tăng như rồng gặp nước,
như hổ tựa non, muốn đi là đi, muốn ngồi là ngồi, tiến
một bước thì càn khôn chấn động, lùi một bước thì cỏ
rạp gió đi, nên nói không tiến, không lui làm gì?
Rất
lâu lại thêm:
-
Lúc nhàn, cầm kinh đứng dưới gốc tùng, cười hỏi khách
tử đâu tới?
(Nhất vị Thiền: Quyển Nguyệt)
Hai
đoạn pháp trên, Đại Huệ giảng chân không, Ngọc Tuyền giảng diệu hữu. Đại Huệ không thể không lau mắt cho vị
đầu sào trăm trượng Ngọc Tuyền. Chưa ngộ mà nói ngộ,
nếu không phải là ngu si thì là tự cao tự đại. người
sáng mắt chỉ cần hai ba lời là hồ ly đã lòi đuôi cáo.
Ngọc Tuyền do Đại Huệ chỉ thị nhận thức lại chính mình
nên đã giác ngộ.
1298. Gia Cảnh.
Một
ông tăng hỏi Hoằng Thông:
-
Gia cảnh thầy thế nào?
-
Cả người không đáng 5 phân tiền.
-
Thật nghèo quá.
-
Đời xưa đều vậy.
-
Làm sao tiếp dẫn người học?
-
Thấy gia cảnh giầu có còn là nghèo.
(Bồ đề linh quang)
Nghèo
chỉ tánh “Không”.
1299.
Nhàn thần dã quỷ.
Phần
Dương Thiện Chiêu một hôm bảo chư tăng:
-
Hôm qua ta nằm mộng thấy cha mẹ đã qua đời muốn ta cúng
vàng mã và rượu thịt. Ta thấy khó chịu đành phải theo
phong tục mà mua đồ cúng tế.
Cúng
tế xong Phần Dương một mình, một chiếu uống rượu ăn
thịt không coi ai vào đâu. Chư tăng coi không được chỉ trích:
-
Hôm nay chúng tôi mới biết nguyên lai ông chỉ là một hòa
thượng rượu thịt, làm sao có tư cách làm đạo sư chúng
tôi.
Nói
rồi cả bọn thu dọn hành trang bỏ đi. Chỉ còn lại 6, 7
người như Thạch Sương Sở Viên, Đại Ngu Thủ Chi v . v .
là không đi. Bọn họ sau này đều trở thành những đại
thiền sư.
Phần
Dương cảm khái than:
-
Chỉ tốn chút rượu thịt, vàng mã đã đuổi đi bao nhiêu
nhàn thần dã qủy.
(Bồ đề linh quang)
Thiền
không giảng cứu hình thức. Nếu bị cành lá che khuất mà
không thấy cây lớn thì làm sao vào thiền.
1300. Ý chỉ Hoàng Mai.
Có
ông tăng hỏi Lục tổ:
-
Người nào nhận được ý chỉ của Hoàng Mai?
-
Người hiểu Phật pháp.
-
Hòa thượng nhận được không?
-
Ta không được.
-
Vì sao hòa thượng không được?
-
Ta không hiểu Phật pháp.
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Ý
chỉ Hoàng Mai là chỉ sự truyền pháp. Ai cũng biết y bát
đã được Hoàng Nhẫn trao cho Huệ Năng. Ý chỉ Hoàng Mai đương
nhiên là Lục tổ thể hội. Câu hỏi của ông tăng là một
cái bẫy, Lục tổ thuận mồm chỉ thẳng, hiện tiền viên
mãn, không chỗ quái ngại. Chỉ cần hiểu Phật pháp là được
ý chỉ Hoàng Mai. Thiền là hiện thành, hiện tiền, không có
gì là bí mật cả như mọi người đều được hưởng ánh
mặt trời. Câu “Ta không hiểu Phật pháp” thật là cao minh.
Có người hiểu Phật pháp liền bị rơi vào Phật pháp. Thích
Ca Mâu Ni giảng pháp 49 năm nhưng không nói một lời. Lục
tổ lấy Phật pháp đánh răng, xúc miệng, ngày ngày đều
dùng há chẳng hiểu Phật pháp? Không có diệu pháp nào để
được thì mới được A Nậu Đa la Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Muốn được cảnh giới đó thì phải có chỗ khẳng định.
Do đó Lục tổ nói không có diệu pháp nào để được, ta
không hiểu Phật pháp.
1301. Gió nhẹ thổi qua rặng tùng.
Lại gần nghe mới rõ.
(Hàn Sơn Thi)
Đối
với người thường thì người nghe (chủ thể ) và gió nhẹ
(đối tượng) là hai, nhưng đối với thiền giả thì chỉ
là một. Vì vậy ‘lại gần’ là chủ thể sáp lại đối
tượng cho đến khi hòa với nó làm một. Đó là quá trình
vô tâm tự nhiên. Lấy vô tâm mà nghe, tiếng gió chính là
tự kỷ. Đó là tự tha bất nhị vậy. Phương thức ‘lại
gần’ này trong thiền học gọi là ‘sự tùng vấn tùng,
sự cúc thính cúc’.
1302. Chân tâm bất muội.
Mộng
Song quốc sư từng làm thầy của 7 triều Hoàng đế. Thọ
nhiều ân điển của triều đình, cũng được tín đồ và
dân chúng ngưỡng mộ. Trên đường vào kinh đi ngang Diệu
Tâm Tự liền vào bái phỏng Quan Sơn. Quan Sơn nghe tin Mộng
Song tới vội khoác chiếc cà sa rách nát chạy vội ra cửa
nghinh đón. Hai người chuyện trò rất cao hứng. Tự viện
của Quan Sơn rất nghèo không có gì để tiếp đãi quốc sư.
Quan Sơn bất đắc dĩ lấy mấy phân tiền kêu thị giả mua
vài cái bánh nướng cung dưỡng quốc sư. Quốc sư cảm kích
tâm ý của Quan sơn không khách khí ăn hết bánh rồi đi. Bình
thường Mộng Song vào cung đều có nhiều tùy tòng theo hầu.
Một hôm, trong cung có chiếu mời, Mộng Song đi kiệu ngang
qua Diệu Tâm Tự, thấy Quan Sơn đang cầm chổi quét lá, gom
lại một đống để dành để nấu bếp, liền bảo thị giả:
-
Tông môn ta bị Quan Sơn đoạt mất rồi.
Quan
Sơn mỗi khi đến bái phỏng Mộng Song đều tại khe suối
trước cổng chùa rửa chân cẩn thận để khỏi làm lấm
bẩn Thiên Long Tự. Về sau Mộng Song sai các học tăng để
một tảng đá bằng phẳng ở bên bờ suối để cho Quan Sơn
dễ dàng rửa chân. Quan Sơn biết chuyện này than rằng:
-
Quốc sư quả thật là quốc sư, tông phong của ông so với
tảng đá này còn cứng hơn nhiều.
Hiện
tảng đá này còn được giữ ở Đại Long Viện ở Diệu
Tâm Sơn.
(Tinh vân thiền thoại)
Phật
pháp phải cung kính mà cầu, trong sinh hoạt mà tu. Quan Sơn
thi hành triệt để, tự mình quét sân chùa, dùng lá quét để
thổi nấu là tiếc phúc, khi bái phỏng đều rửa chân sạch
sẽ là tôn kính chẳng trách được quốc sư khen ngợi.
1303. Lãnh hội học nhân.
Có
ông tăng hỏi Duyên Đức:
-
Thế nào là tâm của cổ Phật?
-
Nước, chim, cây, rừng.
-
Học nhân chẳng lãnh hội.
-
Vậy, hãy lãnh hội học nhân đi!
(Bồ đề linh quang)
Thiền
sư coi ‘tâm của cổ Phật’ cũng giống như nước, chim cây,
rừng, đều là hư ảo, chỉ có người học tự ngộ mới
thật sự là Thiền đạo
1304. Một giọt cũng không hưởng được.
Trí
Thường và Nam Tuyền cùng hành cước. Một hôm định chia
tay, đun trà rồi Nam Tuyền hỏi:
-
Lúc trước cùng sư huynh thương lượng, ngữ cú đều đã
biết. Về sau nếu có người hỏi ngộ đạo chuyện lớn làm
sao đáp?
-
Khoảng đất này nên cất am.
-
Chuyện cất am sau này sẽ nói, còn chuyện lớn ngộ đạo
phải làm sao?
Trí
Thường đạp đổ siêu trà đứng dậy. Nam Tuyền hỏi:
-
Sư huynh đã uống trà, đệ còn chưa uống mà?
-
Nếu nói vậy, một giọt trà cũng không hưởng được.
(Bồ đề linh quang)
Xét
sự lý đến cùng chỉ là dung tục, càng uống trà lại càng
hồ đồ.
1305. Hãy còn một quyết.
Liễu
Đường Chân Giác là người kinh đô Đại Hòa. 17 tuổi xuất
gia. 23 tuổi tham học Đại nguyên Tông Chân mà đại ngộ.
40 tuổi đi thuyền sang Trung Quốc tham học. Thuyền đi chưa
được bao lâu, khi ra đến biển lớn bỗng nhiên gập sóng
to gió mạnh. Mọi người trên thuyền đều thất kinh rối
loạn, chỉ riêng có Liễu Đường bình tĩnh đoan tọa niệm
danh hiệu Quán Thế Âm. Tiếng niệm Phật của Liễu Đường
làm mọi người bình tĩnh trở lại, nhiều người cùng niệm
với ông; tiếng niệm Phật át cả tiếng sóng gió. Khi thuyền
bình yên cập bến, mọi người trên thuyền đều tôn ông
là Phật sống. Liễu Đường tiếp dẫn học nhân thường
dùng câu ‘Vạn pháp trở về một, một trở về đâu’ làm
cơ dụng (Xem công án 1040). Một hôm một học tăng hỏi
về Động Sơn ngũ vị quyết (Xem công án 505). Liễu Đường
giảng cặn kẽ, rồi hỏi:
-
Hiểu rõ chưa?
-
Con hiểu rồi!
-
Tốt lắm! Nhưng ngoài ngũ vị quyết ra còn một quyết ngươi
có hiểu không?
Ông
tăng không biết làm sao trả lời. Liễu Đường bảo:
-
Quyết này ngươi phải ghi nhớ, khi đến mọi nơi tham học
không thể bảo cho người biết ngươi nghe giảng ngũ vị quyết
ở nơi ta.
(Tinh vân thiền thoại)
Chẳng
nên tùy tiện lấy ống loa là một quyết để chỉ sự sử
sự. Ngạn ngữ cũng có câu ‘thị phi chỉ là do lắm
mồm’. Người ăn mật, ngọt nhạt thế nào chỉ mình
biết, không thể dùng lời diễn hết ý.
1306. Uy đức và chiết phúc.
Thời
Nam Bắc Triều, Tăng Trù trú ở Tung Sơn. Trong chùa tăng chúng
khoảng trăm người hàng này thường dùng nước suối từ
một hốc đá phun ra. Một hôm có một người đàn bà mặc
quần áo rách rưới, hôi hám, tay cầm một cái chổi ngồi
trên tảng đá trên suối nước, nghe tăng chúng tụng kinh.
Mọi người coi bà ta là người phong cùi đồng hô đuổi bà
ta đi. Bà ta thấy vậy rất tức giận dùng chân đạp vào
suối nước. Suối nước lập tức khô cạn, bà ta cũng không
thấy đâu nữa. Lúc đó mọi người đều kinh sợ, biết đã
gây họa rồi, bèn đem sự tình kể cho Tăng Trù nghe. Tăng
Trù mặt lộ tươi cười ra ngoài chùa miệng hô lớn tiếng
ba lần:
-
Ưu bà di! Ưu bà Di! Ưu bà di! (người phụ nữ học Phật tại
gia)
Nguời
đàn bà bèn xuất hiện. Thiền sư bảo bà ta:
-
Chư tăng đang hành đạo, bà nên hộ trì, đừng gây rối.
Người
đàn bà sẽ đạp chân vào suối, suối lại tuôn nước ra.
Lúc đó đại chúng đều cảm kích uy đức thần dị của
thiền sư. Về sau Tề Văn Tuyên Đế mỗi khi làm xong quốc
sự đều dẫn vài vệ sĩ đến gập thiền sư hỏi đạo.
Thiền sư cứ mặc Tuyên Đế đến đến, đi đi không hề
đưa đón một lần. Chúng đệ tử hỏi:
-
Bạch thầy, bệ hạ mỗi lần giáng lâm lễ Phật, đối với
việc hoằng dương Phật pháp đều rất lợi ích. Thầy không
đưa đón sợ người ta dị nghị.
-
Lúc trước Tân Đầu Lư đón vua 7 bước, làm cho vua bị thọ
nạn 7 năm. Ta tuy đức không dám sánh với người khác nhưng
cũng không thể chiết phúc của Hoàng thượng.
(Tinh vân thiền thoại)
Lấy
con mắt phàm mà nhìn thì Tuyên đế là quốc vương, nhưng
ở chân lý thì Tăng Trù là pháp vương đương thời. Quốc
vương và Pháp vương ai đáng quý hơn? Trước Tăng Trù không
lâu Đông Tán Huệ Viễn đề xuất ‘Sa môn chẳng kính Vương
giả’. Ông lý luận ‘cà sa không phải là phẩm phục của
triều đình, y bát chẳng phải là dụng cụ của nhà chùa
sao?’
Tăng
Trù không đưa đón vua cũng là ý đó.
1307. Ý Tổ Sư.
1-
Một ông tăng hỏi Tam Bình:
-
Tam thừa thập nhị phần giáo con không nghe, nhưng thế nào
là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Phất tử lông rùa, trụ trượng sừng thỏ, đại đức chứa
ở đâu?
2-
Một ông tăng hỏi Phục Long:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
-
Sao ngươi không thấy ngứa vậy?
3-
Một ông tăng hỏi Long Vân:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao:
-
Đêm qua mất trâu trong chuồng.
4- Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
Triệu
Châu gõ vào chân thiền sàng.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
1308. Ý Tào Khê.
Có
ông tăng hỏi Mục Châu Trần Tôn Túc:
-
Ý Tào Khê là gì?
-
Lão tăng thích sân, không thích hỷ.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
1309. Đại ý Phật pháp.
1-
Có ông tăng hỏi Thần Đăng:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
-
Ngồi thuyền sắt trên không, sóng bủa quanh đỉnh núi.
2-
Có ông tăng hỏi Linh Vân Chí Cần:
-
Đại ý của Phật pháp là gì?
-
Việc lừa chưa đi, việc ngựa đã tới.
-
Con không hiểu.
-
Ban ngày khó gập tinh linh.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
1310. Đệ nhất nghĩa.
Có
ông tăng hỏi Nam Thiền Khế Phiên:
-
Thế nào là đệ nhất nghĩa?
-
Sao không hỏi đệ nhất nghĩa?
(Thiền ngoại thuyết thiền)
1311. Chư Tổ truyền gì?
1-
Có ông tăng hỏi Sơn Huy:
-
Tổ tổ tương truyền, họ truyền cái gì?
-
Ngươi hỏi ta, ta hỏi ngươi
2-
Có ông tăng hỏi Nam Tuyền:
-
Tổ tổ tương truyền, họ truyền cái gì?
-
Một, hai, ba, bốn, năm.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
1312. Đường đi lên.
Có
ông tăng hỏi Trường Sa:
-
Thỉnh thầy chỉ cho con đường đi lên.
-
Một lỗ kim, 3 thước chỉ.
-
Làm sao hiểu đây?
-
Vải Ích Châu, lụa Dương Châu.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
1313. Vì người.
Một
ông tăng hỏi Kim Luân Khả Quán:
-
Theo tông thừa làm sao để vì người?
-
Hôm nay ta chưa uống trà.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
1314. Chính mình.
Có
ông tăng hỏi Phúc Khê:
-
Thế nào là chính mình?
-
Ngươi hỏi gì?
(Thiền ngoại thuyết thiền)
1315. Căn nguyên của pháp.
Một
ông tăng hỏi Tuyết Nhạc:
-
Thế nào là căn nguyên của Pháp?
-
Tạ ơn chỉ thị.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ
1307 đến 1315: các câu đáp đều không ăn khớp với câu
hỏi. Hỏi một đằng, trả lời một nẻo, mục đích là để
phá trừ tri kiến.
1316. Tham thiền pháp khí.
Pháp
Viễn Viên Giám lúc chưa chứng ngộ cùng Thiên Y Nghĩa Hoài
nghe nói thiền phong của thiền sư Quy Tỉnh rất cao, cùng chúng
bạn tất cả 8 người đến tham phỏng Quy Tĩnh. Lúc đó là
mùa đông, tuyết rơi tơi bời. Quy Tĩnh vừa gập mặt là chửi
rủa đuổi đi. Mọi người không chịu đi. Quy Tĩnh bèn lấy
nước tạt, quần áo mọi người đều bị ướt. 6 người
trong bọn không nhịn được, đều tức giận bỏ đi, chỉ
có Pháp Viễn và nghĩa Hoài là quỳ mãi không đi. Không lâu
Quy Tĩnh lại ra hét lớn:
-
Các ngươi sao còn chưa đi? Chẳng lẽ đợi ta đánh cho vài
gậy?
Pháp
Viễn thành khẩn thưa:
-
Chúng con 2 người từ ngàn dậm lại tham học, há vì một
gáo nước tạt mà đi sao? Cho dù có dùng gậy đánh chúng con
cũng không đi.
Quy
Tĩnh bất đắc dĩ nói:
-
Nếu thật đến tham thiền thì hãy đi quải đơn đi (quải
đơn hay quải đáp là treo áo và túi đựng bát ở góc tăng
phòng; ý là chấp nhận cho tạm trú).
Pháp
Viễn quải đơn rồi từng giữ chức Điển tọa (nấu cơm).
Có một lần chưa bẩm báo đã nấu cháo ngũ vị cung dưỡng
đại chúng. Quy Tĩnh khi biết chuyện này rất tức giận:
-
Lấy đồ của thường trú mà tư cúng đại chúng, ngoài việc
phạt đánh đòn còn phải bồi hoàn phí dụng.
Nói
rồi đánh Pháp Viễn 30 gậy, tịch thu y bát để trừ vào
tổn thất. Sau đó đuổi Pháp Viễn ra khỏi chùa. Pháp Viễn
tuy bị đuổi ra khỏi chùa nhưng không đi, mỗi ngày đều
ngủ ở hành lang. Quy Tĩnh biết chuyện lại bảo:
-
Hành lang cũng là công sở của thường trú, ngươi ngủ ở
đó cũng phải trả tiền.
Nói
rồi sai người tính tiền phòng. Pháp Viễn vẫn không tỏ
vẻ khó chịu, vào phố tụng kinh cho người để kiếm tiền
trả. Sau đó không lâu, Quy Tĩnh bảo đại chúng:
-
Pháp Viễn quả thật là tham thiền pháp khí.
Bèn
sai thị giả mời Pháp Viễn vào pháp đường, trước mặt
đại chúng trao cho pháp y, đặt hiệu là Viên Giám.
(Tinh Vân thiền thoại)
Phù
Sơn Pháp Viễn, chỗ đắc lực một đời là vì pháp nhẫn
nại. Quy Tĩnh không cho ông quải đơn, mắng ông, đánh ông,
lấy nước lạnh tạt ông, thậm chí bắt ông bán áo, mền
để bồi thường, dù ngủ ở hành lang cũng bị tính tiền,
đều không làm ông bỏ tâm nguyện, cho nên không lạ gì sau
đó Quy Tĩnh tán thán ông.
Các
học giả ngày nay gọi là tham học, nếu đãi ngộ ăn ở không
tốt liền tức khắc bỏ đi, nếu không đủ lễ lạc liền
phẫn hận bỏ đi, nếu so với Pháp Viễn thật đáng hổ thẹn.
1317. Hoành Trí Chính Giác.
Hoành
Trí chủ trương Mặc chiếu thiền. Năm 7 tuổi ông có thể
đọc cả ngàn câu kinh, 11 tuổi xuất gia, 14 tuổi thọ cụ
túc giới, 18 tuổi đi tham học các nơi, ông hướng tổ phụ
thưa:
-
Nếu con không phát minh đại sự, nguyện không trở về.
Ông
đến Hà Nam yết kiến Khô Mộc Pháp Thành ở Hương Sơn. Khi
gập mặt Khô Mộc rất coi trọng ông. Một hôm ông nghe các
hòa thượng tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa tới câu “phụ mẫu
sở sinh nhẫn, tất kiến tam thiên giới” bỗng nhiên tỉnh
ngộ, lập tức vào phòng phương trượng trình sở ngộ. Khô
Mộc chỉ hộp hương hỏi ông:
-
Trong đó là vật gì?
-
Là tâm hạnh gì?
-
Ngươi ngộ cái gì?
Hoành
Trí dùng tay vẽ một vòng tròn trình lên rồi lại ném về
sau.
-
Gã nghịch bùn bao giờ mới thôi?
-
Sai.
-
Chớ thấy người mới được!
-
Dạ, dạ.
Hoành
Trí lại đến tham Đơn Hà. Đơn Hà hỏi:
-
Trước không kiếp, tự kỷ là thế nào?
-
Ếch đáy giếng uống trăng, canh ba chẳng dùng mành.
Hoành
Trí yên lặng suy nghĩ, Đơn Hà đánh cho một phất tử:
-
Nói lại không sai.
Hoành
Trí bái tạ. Đơn Hà bảo:
-
Sao không nói một câu:
-
Hôm nay con mất tiền lại tạo tội.
-
Ta không rảnh đánh ngươi, đi ra!
Hoành
Trí từ nhỏ đã thông mẫn hơn người, khi khai ngộ mới 23
tuổi. Ông chủ trương Mặc chiếu thiền, ảnh hưởng rất
cao xa. Trước khi mất ông có để lại một bài kệ:
夢
幻 空 花
Mộng
ảo Không hoa
六
十 七 年
Lục
thập thất niên
百
鳥 煙 沒
Bạch
điểu yên một
秋
水 連 天
Thu
thủy liên thiên
Không
hoa, mộng ảo
Sáu
mươi bẩy rồi
Chim
bay không vết
Nước
thu liền trời.
(Nhất vị thiền: Quyển Nguyệt)
Bài
kệ diễn tả cảnh giới thiền bao la, tịch tĩnh, thống nhất.
1318. Nam phương có cái này không?
Vô
Trước lúc còn trẻ, tại ngũ Đài Sơn cùng luận thiền với
Bồ tát Văn Thù. Văn Thù đưa một tách trà bằng pha lê rất
tinh xảo cho Vô Trước và hỏi:
-
Nam phương có cái này không?
-
Không.
Vậy
sao? Người phương Nam dùng gì để uống trà?
Vô
Trước biết Văn Thù không chỉ hỏi chuyện uống trà nên
không đáp được, trong lòng bất an không có lòng thưởng
trà, bèn từ biệt mà đi. Ra khỏi cửa Vô Trước hỏi đồng
tử:
-
Sư phụ ông nói trước 33 sau 33, vậy là bao nhiêu?
Đồng
tử hô:
-
Hòa thượng!
-
Dạ!
-
Tiếng ông đáp lại là mấy tiếng?
Vô
Trước liền ngộ.
(Bồ đề linh quang)
Một
là ba. Một là trời đất, một là thiền tâm.
1319. Liễu tâm.
Đại
nhân Lưu Thị Ngự đến bái phỏng Ngưỡng Sơn, hỏi:
-
Liễu tâm, trừ bỏ vọng niệm, minh tâm kiến tánh, thầy có
thể chỉ cho con đạo lý này không?
-
Nếu muốn liễu tâm, trừ bỏ vọng niệm, minh tâm kiến tánh
thì phải vô tâm mới được. Lúc đó không có vọng
niệm để trừ, không có tâm để minh, không có tánh để
kiến. Đó mới thực là trừ bỏ vọng niệm, chính thực minh
tâm kiến tánh.
(Bồ đề linh quang)
Tâm
có thể dung nạp vạn sự, vạn vật, cũng là một phiến không
gian yên lặng, trong trẻo.
1320. Hai cách nhìn.
Có
lần Long nha viết một bài kệ:
學
道 如 鑽 火
Học
Đạo như toàn hỏa
逢
煙 未 可 休
Phùng
yên vị khả hưu
直
待 金 星 現
Trực
đãi kim tinh hiện
歸
家 始 到 頭
Quy
gia thủy đáo đầu
Học
đạo như bật lửa
Thấy
khói chưa thể ngưng
Chỉ
đến khi lửa sáng
Tới
nhà thì mới dừng.
Thần Đỉnh đọc được bài kệ trên bèn làm 1 bài kệ, phản bác như sau:
學
道 如 鑽 火
Học
Đạo như toàn hỏa
逢
煙 便 可 休
Phùng
yên tiện khả hưu
莫
待 金 星 現
Mạc
đãi kim tinh hiện
燒
額 又 燒 頭
Thiêu
Ngạch hựu thiêu đầu
Học
đạo như bật lửa
Thấy
khói có thể ngưng
Chớ
đợi khi lửa sáng
Đầu
cổ đã cháy bùng.
(Sinh hoạt thiền)
Bài
kệ của Long Nha ý là người học đạo tham thiền thấy khói
không thể ngưng. Phải tiếp tục cố gắng cho tới khi có
lửa. Lúc đó mới được coi là công phu đã về tới nhà.
Rõ ràng là thiền cảnh này chỉ mới tới cửa chứ chưa vào
được nhà; hãy còn tu, chưa được giải thoát. Do đó
Thần Đỉnh nói phản bác. Bài kệ của ông có ý là: đừng
chấp vào một cái gì, ngay cả thiện pháp nếu không nó sẽ
trở thành ác pháp. Thí dụ thuốc là một thiện pháp đối
với người có bệnh, nhưng đối với người không bệnh nó
sẽ trở thành ác pháp.
1321. Thi kệ luận đạo.
Một
hôm Chứng Ngộ đến thăm Am Nguyên. Buổi tối trong lúc nói
chuyện, Chứng Ngộ đề cập đến bài kệ của Tô Đông Pha
(Xem công án 440) và khen ngợi:
-
Không dễ gì đạt tới cảnh giới này.
Am
Nguyên không đồng ý:
-
Loại thuyết pháp này còn chưa thấy đường, nói gì đạt
tới đích?
-
Nếu không đạt tới cảnh giới đó làm sao viết được 2
câu:
Mầu
sắc núi chính thân thanh tịnh
Tiếng
suối reo chính lưỡi rộng dài.
như
vậy, tin tức ấy từ đâu ra?
-
Chỉ là gã ở ngoài cửa.
-
Xin thầy chỉ điểm.
-
Nên từ chỗ này dụng công tham có thể biết bản mạng ở
đâu.
Chứng
Ngộ cả đêm suy nghĩ, không sao ngủ được,bất tri bất giác
trời đã sáng, bỗng nghe tiếng chuông, hoảng nhiên đại ngộ
bèn làm bài kệ:
東
坡 居 士 太 饒 舌
Đông
Pha cư sĩ thái nhiêu thiệt
聲
色 關 中 欲 透 身
Thanh
Sắc quan trung dục thấu thân
溪
若 是 聲 山 是 色
Khê
nhược thị thanh sơn thị sắc
無
山 無 水 好 愁 人
Vô
sơn vô thủy hảo sầu nhân
Cư
sĩ Đông Pha thật lắm lời
Ở
trong thanh sắc muốn ra chơi
Nếu
suối là thanh, non là sắc
Chẳng
non, chẳng nước khéo buồn người.
Sau
đó trình lên Am Nguyên. Am Nguyên bảo:
-
Nói với ngươi là gã ở ngoài cửa.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền
không thể dùng lời, không thể dùng chữ mà tả được, cũng
không thể nghĩ, chỉ có ngộ rồi mới thể nhận được.
Chứng ngộ sau một đêm thâm tư, tiếng chuông sớm đã mở
ra cánh cửa tâm ông. Cảnh giới của ông và của Tô Đông
Pha bất đồng.
1322. Chó Thu Điền.
Chó
Thu Điền là một loài chó quý của Nhật Bản. Sản địa
là huyện Thu Điền ở miền Đông Bắc nước Nhật. Ngoài
ngoại hình đẹp đẽ còn thông minh, đáng yêu. Bát Công là
một con chó Thu Điền từ nhỏ đã được giao cho một vị
giáo sư ở đại học Đông Kinh nuôi dưỡng. Vị giáo sư này
là một người rất từ ái. Ông thường nói với vợ con:
-
Người có nhân cách, chó cũng có khuyển cách, vì vậy các
người nên tôn trọng khuyển cách của Bát Công.Cho thấy ông
đầy lòng nhân đạo. Ông chăm sóc Bát Công rất cẩn thận.
Ông thường bắt rận cho Bát Công, lại cùng tắm với nó
nữa. Đêm nào trời mưa, ông đều thức dậy đi xem Bát Công
có bị ướt không và lau khô rồi cùng ngủ với nó ở trường
kỷ. Do đó vợ con thường than phiền là giáo sư quý Bát Công
hơn cả vợ con. Để đáp lại khi giáo sư đi làm, Bát Công
đưa ra tận bến xe, tới giờ tan sở Bát Công lại ra tận
bến xe nghênh đón. Một ngày hè năm Đại Chính 14 sau khi đưa
giáo sư ra bến xe, trở về nhà Bát Công trông có vẻ bồn
chồn sủa lên những tiếng thảm thiết. Chính ngày hôm đó
giáo sư đang diễn giảng thì bị tai biến mạch máu não mà
qua đời. Thời gian tụ hội của giáo sư và Bát Công chỉ
hơn một năm; nhưng Bát Công vẫn như trước, ngày ngày đều
ra bến xe đợi giáo sư. Do nhiều duyên cớ, không ai chăm sóc,
Bát Công trở thành chó hoang. Nhưng nó không rời bỏ khu giáo
sư trú ngụ. Ban ngày nó đi quanh quẩn những nơi mà giáo sư
đã dẫn nó đi. Đến chiều nó lại ra bến xe đứng đợi
cho đến khi bến xe đóng cửa mới thôi. Quá 10 năm trời ngày
nào cũng vậy Bát Công đều ra bến xe đợi chủ nhân vĩnh
viễn không trở lại. 10 năm đối với loài chó cũng coi là
già. Năm Chiêu Hòa thứ 10 người ta thấy Bát Công nằm chết
cóng ở trước bến xe. Đến chết nó vẫn đợi chủ nhân
trở về.
(Nhất vị thiền: Quyển Phong)
Tuy
là chó nhưng Bát Công có một trái tim Phật.
1323. Hiểu để làm gì?
Một
học tăng hỏi Cảnh Sầm:
-
Con phải đi hướng nào?
Cảnh
Sầm đọc cho một bài kệ:
不
識 金 剛 體
Bất
thức kim cương thể
卻
喚 作 緣 生
Khước
hoán tác duyên sinh
十
方 真 寂 滅
Thập
phương chân tịch diệt
誰
在 復 誰 桁
Thùy
tại phục thùy hành
Chẳng
biết kim cương thể
Tạo
duyên sinh mà chi
Mười
phương thật tịch diệt
Ai
ở, lại ai đi?
- Đầu
sào trăm trượng làm sao bước bước nữa?
-
Núi Lương Châu, sông Phong Châu.
-
Con không hiểu.
-
Tứ hải, ngũ hồ đều là đất của nhà vua.
-
Thế nào là tâm con?
-
Thập phương thế giới là tâm ngươi.
-
Vậy sao? Thế thì thân con ở đâu?
-
Ở chỗ thân ngươi ở.
-
Thân làm sao ở?
- Nước biển lớn, sâu lại càng sâu.
-
Không hiểu.
-
Cá, rồng ra vào mặc lên xuống.
-
Như lời thầy, thập phương thế giới là một hạt minh châu,
con làm sao hiểu?
-
Hiểu để làm gì?
(Tinh Vân thiền thoại)
Qua
vấn đáp của Cảnh Sầm và học tăng cho thấy thiền sư rất
từ bi khai thị “Đầu sào trăm trượng làm sao bước nữa?”
Núi Lương Châu, sông Phong Châu, cả thiên hạ, có chỗ nào
cấm ngươi bước bước nữa? Nếu như ngươi hiểu được
thì 4 biển, năm hồ chỗ nào mà chẳng ngao du được? Nếu
hiểu được 10 phương thế giới đều ở tâm ngươi thì sao
có thể nói thân không có chỗ ở? Học tăng hỏi làm sao hiểu?
Cảnh sầm hỏi ngược lại Thiền để làm gì? Thiền không
phải ở chỗ hiểu hay không hiểu mà là ngộ. Thế giới
đều thuộc về ngươi, cần gì phải bước thêm bước nữa?
1324. Cho Phật A Di Đà ở tạm.
Thiền
sư Khiêu Thủy là trụ trì Thiền Lâm Tự, nhưng ông thường
vân du bên ngoài, sinh hoạt như một vân thủy tăng. Mọi người
đều gọi ông là Khiếu hóa tử Khiêu Thủy. Có một lần
ông đến kinh thành dựng một gian nhà tranh ở bên cạnh nhà
để xe của một phú ông, bán giép cỏ để mưu sinh. Phía
bên kia đường là một người phu đánh xe ngựa. Một hôm,
người phu xe chạy sang bảo:
-
Hôm qua con đánh xe, đưa một tín đồ đến chùa lễ Phật.
Tri khách sư cho con một bức tranh Phật A Di Đà, con xin tặng
lại thầy để kết duyên.
-
Cám ơn ý tốt của ông.
Khiêu
Thủy rất cao hứng treo bức tranh lên vách và lấy bút đề
một bài tán:
雖
嫌 斗 室 小 如 窩
Tuy
hiềm đẩu thất tiểu như oa
借
住 與 你 阿 彌 陀
Tá
trú dữ nễ A Di Đà
他
日 我 若 到 你 處
Tha
nhật ngã nhược đáo nễ xứ
望
借 蓮 台 作 我 窩
Vọng
tá liên đài tác ngã oa
Tuy
rằng căn phòng con
Cho
Di Đà tạm trú
Ngày
nào tới Tây Phương
Mượn
lại đài sen ngụ.
Nghe
tin Đại Đăng quốc sư sắp mất, ông mang bức tranh đến
cho:
-
Nghe nói thầy sắp vãng sinh Phật quốc, không biết thầy có
nhận biết chủ nhân Tịnh Độ không. Do đó đem tặng tranh
để khi gập mặt khỏi bỡ ngỡ.
-
Ngươi hãy giữ lấy làm kỷ niệm, tịnh độ ở trong tâm
ta, Di Đà ở trong tánh. Ngươi chẳng nghe qua duy tâm Tịnh Độ,
tự tánh Di Đà sao?
Khiêu
Thủy nghe rồi cười vui vẻ:
-
Hãy để Phật Di Đà tạm trú ở phòng ta. Chúng ta hãy kiến
lập Tịnh Độ trong tâm, Di Đà trong tánh.
Đại
Đăng cũng cười mà mất.
(Tinh Vân thiền thoại)
Khiêu
Thủy ẩn mình trong đám ăn mày để tham thiền. Ông treo tranh là cho Phật ở nhờ chứ không cúng dường. Mỗi người phải
có tịnh độ của mình, Di Đà của mình. Như Đại Đăng biểu
thị chỉ tự trú ở tâm tánh, không trú ở sự tướng, cho
nên không nhận tranh tặng. Hai vị thiền sư cùng thở một
lỗ mũi, do đó đều ha hả cả cười.
1325. Thùng phân lớn nhỏ.
Người
hiện tại rất kính ngưỡng Kim Sơn hoạt Phật tức thiền
sư Diệu Thiện, mất năm Dân quốc 22 tại Miến Điện. Hành
tích thần dị, lại từ bi hỉ xả. Mọi nơi đều lưu truyền
những việc khó làm, khó chịu đựng của ông. Bên cạnh Kim
Sơn Tự, có một con hẻm nhỏ, có 2 mẹ con một bà lão sống
bần cùng khốn khổ. Đứa con rất ngỗ nghịch thường mắng
chửi mẹ. Diệu Thiện biết chuyện thường đến an ủi bà
lão, cùng bà nói chuyện nhân quả luân hồi. Nghịch tử rất
ghét thiền sư đến nhà; một hôm khởi ác niệm dấu một
thùng phân ngoài cửa, đợi thiền sư tới bèn đổ lên đầu.
Phẩn và nước tiểu thấm ướt khắp người thiền sư. Ông
không tỏ vẻ giận dữ, đội thùng phân lên đầu ra bờ sông
ở trước cửa chùa mới từ từ đặt thùng phân xuống. Mọi
người chứng kiến đều cười sặc sụa. Diệu Thiện cũng
không ngại bảo:
-
Chuyện này có gì là đáng cười? Thân thể con người cũng
là một thùng phân lớn, trên thùng phân lớn đặt một thùng
phân nhỏ có gì là lạ?
Có
người hỏi:
-
Thầy không cảm thấy khó chịu sao?
-
Không khó chịu chút nào, con trai bà cụ từ bi với ta, cho
ta đề hồ quán đỉnh, ta thấy rất tự tại.
Về
sau đứa nghịch tử bị lòng từ bi của thiền sư làm cảm
động, ăn năn sám hối với thiền sư. Ông khai thị:
-
Ơn dưỡng dục của cha mẹ nặng như núi, sâu như biển, đã
không hiếu dưỡng lại còn đánh chửi thật là bất hiếu,
sao có thể làm người?
Nghịch
tử hối hận, trở thành hiếu thuận với mẹ, làng xóm đều
hay.
(Tinh Vân thiền thoại)
Diệu
Thiện là một nhân vật kỳ lạ trong thiền môn cận đại.
ông khám bệnh nhưng không cho thuốc, cứu người khỏi ách
nạn nhưng không dùng thần dị. Ông đưa cho một chén nước
nói đó là canh Bát Nhã uống vào sẽ khỏi bệnh. Ông tát
cho một bạt tai, tai nạn sẽ qua khỏi. Ông cũng tương tự
như Tế Điên hòa thượng đời Tống. Ông coi thân người
ta là thùng phân lớn, thêm một thùng phân nhỏ thì có gì
là kỳ quái. Kỳ thực thùng phân đối với ông không hôi
hám vì đạo đức từ bi, nhân cách trí tuệ của ông rất
thơm tho.
1326. Khoái hoạt liệt hán.
Tánh
Không người Hán Châu, xuất gia rồi tự hiệu Diệu Phổ Am
Chủ, kết am ở Thanh Long Sơn. Thường ngày trừ lúc tu tập
thiền định ra, thường thổi tiêu làm vui. Năm Kiến Nguyên,
Dư Minh cử binh làm phản, binh biến làm chết nhiều người,
bá tánh trốn chạy. Tánh Không cảm khái:
-
Ta không thể không cứu!
Bèn
vác trượng đến dinh giặc, tên đầu lãnh hét lớn:
-
Ngươi là ai? định đi đâu?
-
Ta là người xuất gia, đến sào huyệt bọn ngươi!
Tên
thủ lãnh nổi giận, hạ lệnh chém đầu. Tánh Không không
sợ hãi bảo tên đầu lãnh:
-
Muốn chém đầu thì cứ chém, việc gì phải nổi giận. Nhưng
ta còn chưa ăn cơm, chẳng nên để ta thành quỷ đói. Cho ta
ăn một bữa cuối được không?
Đầu
lãnh sai người đưa cơm, thịt heo và rau ra. Ông tụng niệm
theo đúng nghi thức ở chùa, rồi ăn. Bọn giặc đứng bên
coi đều cười. Ông lại bảo tên đầu lãnh:
-
Ai viết văn tế cho ta? Nếu không có thì cho ta giấy bút để
ta tự viết.
Bọn
giặc mang giấy bút ra. Ông viết văn tế rồi đọc lên một
lượt, sau đó lại nhắc đũa lên ăn tiếp. Ăn xong ông bảo
đầu lãnh:
-
Kiếp số tao ngộ ly loạn, ta là một khoái hoạt hán, nay chính
là lúc cho ta một nhát đao. Chém! Chém! Chém!
Đầu
lãnh thấy ông anh dũng không những không giết ông mà còn
chắp tay tạ tội, sai người đưa ông về núi. Một giải
Ô Trấn do đó thoát nạn. Đạo tục gần xa đều coi trọng
ông.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền
biểu hiện ở phương diện tuệ giải dễ, nhưng ở phương
diện từ bi thì khó.
1327. Nói hay không đều bị đánh.
Một
hôm Đức sơn nói:
-
Để trả lời câu hỏi Đạo là gì? Nếu có người đáp thế
nào là Đạo ta sẽ đánh hắn 30 gậy, nếu không đáp được
ta cũng đánh hắn 30 gậy.
(Sinh hoạt thiền)
Đáp
được là không đúng, đáp không được cũng là không đúng,
bởi vì chân lý tuyệt đối không thể nói được. Vì
không thể nói được nên chỉ có thể dùng phương thức mâu
thuẫn; tỷ như kinh Kim Cương nói:”Thế giới phi thế giới
mới gọi là thế giới”. Kinh Phật thường dùng thí dụ
con của Thạch nữ để giải thích. Nói con của Thạch nữ
rất anh tuấn, hay con của Thạch nữ không anh tuấn đều sai
vì Thạch nữ là người phụ nữ không thể mang thai. Nói cách
khác Giáp (nói được) và phi Giáp (nói không được) đều
sai, đều đáng đánh 30 gậy. Thiền dùng phương thức mâu
thuẫn này để biểu đạt không tánh.
1328. Đuổi đến thiên đường.
Nhất
Hưu trên đường hành cước, gập trời tối bèn tá túc ở
một nông trại. Đêm khuya bỗng bị tiếng than khóc làm tỉnh
giấc, thì ra chủ nhân nhà hàng xóm bị bệnh qua đời. Nhất
Hưu tự nhủ:
-
Thật bất hạnh, ta phải đi tụng kinh cho ông ta.
Vì
người chết lúc sinh tiền bắt cá, săn chim cho nên lúc bị
bệnh thường bị sát nghiệp làm cho lo lắng chẳng an. Gia
quyến mong Nhất Hưu siêu độ khiến người chết được lên
thiên đường. Nhất Hưu tụng kinh xong viết chữ lên một
mảnh giấy để vào tay người chết, bảo thân nhân:
-
Tốt, người chết nhất định được lên thiên đường, quý
vị đừng lo!
Mọi
người rất cảm động thấy Nhất Hưu quan tâm, nhưng cũng
hiếu kỳ muốn biết Nhất Hưu viết gì trên giấy, bèn mở
ra đọc: Người này phạm tội sát sanh nặng như núi Tu Di,
e rằng sổ trước bạ của Diêm Vương cũng không đủ chỗ
để ghi.”
Vợ
người chết xem rồi hỏi Nhất Hưu vì sao trêu ghẹo mọi
người?
-
Thưa bà, ông nhà tạo sát nghiệp có nặng như núi Tu Di không?
-
Con thừa nhận, nhưng không biết có cách nào siêu độ cho
nhà con?
-
Ta đã tụng kinh để tiêu tội, giải nghiệp cho ông ta rồi,
sở dĩ ta viết thư cho Diêm vương là do lời yêu cầu của
bà. Tội đại ác như vậy đáng đuổi lên thiên đường khiến
cho Diêm vương khỏi nhọc công chép tội. Ông nhà mang thư
này nhất định sẽ lên thiên đường.
(Tinh Vân thiền thoại)
Lời
của Nhất Hưu thật là một lời giáo dục hay cho người đời.
1329. Gương cổ của bầy khỉ.
Một
lần, Tuyết Phong và chúng đệ tử xuất hành trên đường
gập một bầy khỉ. Tuyết Phong nói:
-
Các người đừng coi thường chúng, mỗi con đều mang trên
lưng một gương cổ, đều có linh tính. Các ngươi coi chúng
ăn ngũ cốc của chùa mẫn cán biết bao?
Có
ông tăng hỏi:
-
Những
súc sanh này không có trí tuệ của con người, giả sử có
cũng là súc sanh, sao sư phụ nói chúng có gương cổ (trí tuệ
của Phật)?
-
Nếu nói vậy gương cổ của ngươi đã phủ đầy bụi.
-
Thầy không đáp vào câu hỏi, ngay câu hỏi của con thầy cũng
chẳng rõ.
-
Thật xin lỗi, coi như ta sai có được không?
(Bồ đề linh quang)
Vạn
vật đều có Phật tánh. Phật tánh ở ngã, trí, mê, người
bên cạnh không thể thâm nhập. Ông tăng này gương cổ bị
bụi phủ, chỉ có thể để ông ta tự mình phủi đi mà thôi.
1330. Kéo tai.
Thiền
sư Bố Đại người thời Ngũ Đại, ứng hóa ở huyện Phụng
Hóa tỉnh Chiết Giang. Tự nhận trên khế hợp lý chư Phật,
dưới khế cơ chúng sinh vì vậy xưng là Khế Thử, ngoại
hiệu Trương Thinh Tử. ngày ngày Bố Đại phanh ngực lộ bụng,
nói năng lung tung, vai vác túi vải (bố đại) tay cầm niệm
châu du hóa bốn phương, gập người liền xin. Nhận được
bất cứ vật gì đều thồn vào trong túi vải. người đời
đều gọi là hoà thượng túi vải. Có một lần, vào giờ
thọ trai ở Thiên Đồng Tự, tăng chúng xếp hàng vào phòng
ngồi. Không biết Bố Đại từ đâu đi vào, cười cười
ngồi ngay vào chỗ của phương trượng. Củ soát sư (ông tăng
coi việc kiểm soát) hét lớn bảo ông đi xuống. Bố Đại
mắc kệ. Hành đường sư cũng yêu cầu ông đi xuống, ông
vẫn không động. Thấy phương trượng sắp tới, Củ soát
sư vội chạy tới chỗ Bố Đại nắm tai ông kéo xuống. Nào
ngờ Củ soát sưkéo tai ông lôi ra đến cửa trai phòng, tai
thì dài ra nhưng ông vẫn ngồi yên tại chỗ bất động. Đại
chúng thấy vậy đều trợn mắt nhìn, không thốt được ra
lời. Trụ trì thấy tình cảnh ấy bảo củ soát sư:
-
Cứ để ông ta ngồi ở thượng tọa, ta ngồi sau ông ấy
được rồi!
Từ
đó về sau, đến giờ độ trai, Bố Đại không khách khì
đều ngồi ở thượng tọa.
Vào
năm Lương Trinh Minh thứ 3, Bố Đại ngồi kết già trước
điện Nhạc Lâm Tự thị tịch. Ông có để lại một bài
kệ:
彌
勒 眞 彌 勒
Di
Lặc chân Di Lặc
分
身 千 百 億
Phân
thân thiên bách ức
時
時 示 時 人
Thời
thời thị thời nhân
時
人 自 不 識
Thời
nhân tự bất thức
Di
Lặc thực Di Lặc
Phân
thân trăm ngàn ức
Luôn
luôn chỉ người đời
Người
đời chẳng tự thức.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền
sư Bố Đại du hí nhân gian, do bài kệ của ông mọi người
đều nhận ông là Di Lặc. Bố Đại người mập mạp thường
mỉm cười nên người đời cũng gọi ông là Hoan Hỉ Phật.
1331. Sơn đầu hỏa.
Sơn
Đầu Hỏa là một thiền sư cận đại. Ông là một thi sĩ
làm thơ bài cú tự do. Lúc còn nhỏ ông bị ám ảnh bởi bà
mẹ tự sát, lớn lên em ông cũng tự sát, rồi các thi hữu
thân thiết cũng qua đời. Ông cũng uống thuốc độc nhưng
không chết. Không có nhà để trở về ông được phương
trượng Báo Ân Tự thu nạp. Ông tự trách là người vô dụng
xin trụ trì cứu. Trụ trì bảo ông:
-
Chỉ có học tọa thiền mới có thể cứu được, nhưng tọa
thiền cũng vô dụng.
-
Nếu đã vô dụng sao còn tọa thiền?
-
Vì vô dụng nên mới cần tọa thiền.
Ông
hơi tỉnh ngộ, chết không đáng sợ bất tất cầu chết,
sự hoàn tất bèn đi. Ông chưa đi vì sự chưa hoàn tất. Việc
trong đời này của ông là sáng tác Bài cú. Từ đó ông vân
du bốn phương sáng tác vô số những Bài cú mỹ lệ.
Trích một vài bài cú của ông:
-
Trong khoảng sinh tử, tuyết chẳng ngừng rơi.
-
Già nhưng chưa chết nên cắt móng tay.
-
Tiếng ve kêu, có phải là tìm chỗ chết?
-
Côn trùng càng rỉ rả càng đoản mạng.
Bài
cú cuối cùng của ông là:
-
Đi thẳng về chỗ mây tuôn.
(Nhất vị thiền:Quyển Phong)
Nhiều
người không biết những Bài cú đẹp đẽ của ông là do
ông đã thăng hoa những đau khổ của đời ông vậy.
1332.
Đầu đồng, cổ sắt.
Có
ông tăng hỏi Huệ Giác:
-
Phật là thế nào?
-
Vươn đầu đồng, cổ sắt.
-
Là ý gì?
-
Chim giơ mỏ, cá phùng mang.
(Bồ đề linh quang)
Thiền
sư dùng phản ngữ phản kích ông tăng khiến ông lãnh ngộ.
Phật như người thường, ai ai cũng có thể thành Phật.
1333. Bài kệ của Thanh Tùng.
摩
訶 般 若
Ma
ha Bát Nhã
非
取 非 捨
Phi
thủ phi xả
若
人 不 會
Nhược
nhân bất hội
風
寒 雪 下
Phong
hàn tuyết hạ
Ma
ha Bát Nhã
Không
nắm, không lơi
Nếu
người chẳng hiểu,
Gió
lạnh tuyết rơi.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Đại
trí tuệ (ma ha Bát Nhã) không nắm cũng không buông, không phân
biệt. Nếu không hiểu điều này thì trong sinh hoạt sẽ cảm
thấy lạnh lẽo. Nếu cứ lấy tâm bình thường mà coi thế
sự thì sẽ được an nhiên tự tại.
1334. Không có tướng nam nữ.
Có
ông tăng hỏi Hoàng Long:
-
Thế nào là mật thất?
-
Chỗ không mở.
-
Người trong mật thất thì sao?
-
Không có tướng nam nữ.
(Công án thiền cơ)
Mật
thất là chỗ tối tăm, khó mở, Ai ở trong đó? Là người
không có tướng nam nữ. Người ở trong mật thất chỉ tự
tánh, còn mật thất chỉ mê vọng trói buộc tự tánh. Vì
tự tánh vô sắc, vô hình, vô tướng nênlàm gì có phân biệt
nam nữ.
1335. Vô lậu công đức.
Đại
Điên hỏi Thạch Đầu:
-
Cổ nhân nói có, nói không đều là phỉ báng, thỉnh thầy
trừ.
-
Một vật cũng không thì trừ cái gì?
(Công án thiền cơ)
Nói
không là không có, nói có là giả có vì mọi vật đều do
nhân duyên giả hợp mà thành, khi duyên tán thì lại trở về
không. Nói có nói không đều là không cả, không có một vật
nào cả vậy thì trừ cái gì?
1336. Mật truyền.
Có
ông tăng hỏi Huyền Ngộ:
-
Thế là mật truyền tâm?
Thiền
sư im lặng hồi lâu.
-
Con vểnh tai để nghe sao thầy không nói?
-
Đốt đèn lên.
(Công án thiền cơ)
Bản
tánh là không, không có vật gì, lời gì để truyền. Do đó
thiền sư im lặng. Cùng một thể tánh là không thì cần gì
phải truyền? Đã là không thì làm gì có một tâm ấn và
một tâm để ấn? Vì khi có một hình tướng thì đều không
phải là chân. Ông tăng không hiểu thiền cơ. Thiền sư có
giảng cũng vô dụng, vì vậy thiền sư không lý đến ông,
kêu thị giả thắp đèn.
1337. Trời xanh.
Nam
Tuyền đến tham phỏng Hoàn Trung ở Đại Từ sơn (Hàng Châu),
hỏi:
-
Am chủ là thế nào?
-
Trời xanh! trời xanh!
-
Hãy tạm gác trời xanh qua một bên, am chủ là thế nào?
-
Hiểu liền hiểu ngay! Đừng lo!
Nam
Tuyền phất tay áo mà ra.
(Công án thiền cơ)
Câu
hỏi của Nam Tuyền là hỏi về tự tánh. Hoàn Trung đáp trời
xanh là dụ cho hư không. Nam Tuyền không hiểu hỏi lại. Hoàn
Trung đành phải nói hiểu liền hiểu ngay, không hiểu là không
hiểu, chỉ rằng ông đã bảo am chủ, trời xanh đều là không,
không khác. Nam Tuyền lúc đó còn chưa ngộ nên bỏ đi.
1338. Duy ngã độc tôn.
Có
ông tăng hỏi Tòng Ỷ:
-
Phật là thế nào?
-
Không chỉ trời, không chỉ đất.
Tại
sao không chỉ?
-
Duy ngã độc tôn.
(Công án thiền cơ)
Câu
hỏi của ông tăng là hỏi về bản thể giới. Phật là người
đã giác ngộ, giác ngộ cái gì? Giác ngộ rằng mọi pháp
đều do nhân duyên sanh, có khả năng dùng thể tánh không chiếu
mọi cảnh. Tuy đối cảnh mà không khởi mê tình. Không chỉ
trời, không chỉ đất vì Phật ở khắp nơi không thuộc vào
tam giới. ông tăng lại thắc mắc vạn vật vốn đồng một
thể, trời đất cùng một căn tại sao không chỉ? Ngộ vô
vi chư pháp nbình đẳng, biết Phật tánh là chân ngã, siêu
việt thế gian, có thể chiếu mọi cảnh nhưng không bị cảnh
trói buộc. Chúng sanh mê vọng, chấp trước nên bị mê tình
mà trôi lăn trong vòng ba giới.
1339. Hữu tánh vô ngôn.
Có
ông tăng hỏi Trung Độ:
-
Thỉnh hòa thượng lìa thanh sắc mà đáp.
-
Người gỗ thường nói còn hữu tánh không thể nói .
(Công
án thiền cơ)
Tất
cả trần cảnh đều không thể lìa sắc, thanh, hương, vị,
xúc. Do đó ý của ông tăng là hòa thượng đừng tại hiện
tượng giới, hãy lấy bản thể giới mà đáp. Người gỗ
ở đây là chỉ người chưa chứng bản tánh rất thích giảng
giải, những lời ông ta nói chưa đúng nghĩa, chỉ khiến tạo
khẩu nghiệp. Người đã kiến tánh ngộ thể không, không
thích và không thể nói. Đó là tâm cảnh “Một lần chết
lớn” người đó bất cứ làm gì cũng không thấy hứng thú.
Nhưng đó vẫn còn ở trình độ tiểu thừa hãy còn chấp
pháp. Đó là “đao giết người” (dùng đao chặt đứt hiện
nghiệp lưu thức) phải vượt qua để đạt tới “Kiếm cứu
người” là làm tâm sống lại, nghĩa là đối với ngoại
cảnh cũng biểu lộ hỷ nộ . . . như mọi người thường
nhưng vì nội tâm đã giải thoát nên cảnh hiện đó, quên
đó, không ghi nhớ, không phiền não.
1340. Rận từ đâu ra.
Một
hôm, Tô Đông Pha và Trần Thiếu Du cùng ăn cơm. Hai người
đều tài hoa, thường hay tranh luận. Hôm đó đang ăn, bỗng
có một người đi ngang qua. Người ấy vì lâu ngày không tắm
rửa, chí rận bò lổm ngổm. Tô Đông Pha bảo:
-
Người này hôi quá, cáu ghét trên người đều sinh chấy rận
cả.
Trần
Thiếu Du không cho là phải.
-
Chẳng phái chấy rận từ bông sợi sinh ra sao?
Hai
người đều cho mình là đúng, không ai nhường ai, tranh cãi
không thôi. Sau đồng ý là nhờ Phật Ấn phân xử, ai thua
phải đãi tiệc.
Tô
Đông Pha háo thắng chạy tới Phật Ấn nhờ giúp, Trần Thiếu
Du cũng tìm đến Phật Ấn nhờ giúp. Phật Ấn đều đáp
ứng. Hai người yên tri, chờ Phật Ấn bình phẩm. Kết quả
Phật Ấn nói:
-
Con rận, đầu do cáu ghét sinh ra, còn chân do bông sợi sinh
ra.
Thiền
sư đã dàn hòa tuyệt hảo, có thơ rằng:
一
樹 春 風 有 兩 般
Nhất
thụ xuân phong hữu lưỡng bàn
南
枝 向 暖 北 枝 寒
Nam
chi hướng noãn Bắc chi hàn
現
前 一 段 西 來 意
Hiện
tiền nhất đoạn Tây lai ý
一
片 西 飛 一 片 東
Nhất
phiến Tây phi nhất phiến Đông
Một
cây hướng gió có hai cành
Hướng
Nam ấm cúng, hướng Bắc hàn
Trước
mặt một đoạn Tây lai ý
Một
phiến về Tây, một phiến Đông.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Bài
thi này bảo chúng ta cái gì? Đó là vật ngã hợp nhất. Vật
ngã là một thể. Ngoại tướng của sơn hà đại địa là
nội tại của sơn hà đại địa. Đại thiên thế giới là
nội tâm thế giới,. Giữa vật và ngã không có phân
biệt, chẳng hạn như cùng tiếp thụ không khí, ánh nắng,
nước, nhưng các lá đều có sinh cơ riêng, đều vô ngại
cộng tồn trên cây.
1341. Kiếp phù sinh.
Đại
thi hào Bạch Cư Dị rất kính ngưỡng đạo hạnh của Điều
Sào thiền sư. Một lần đến tham phỏng, đọc một bài thơ
hỏi đạo:
特
入 空 門 問 苦 空
Đặc
nhập không môn vấn khổ không
敢
將 禪 事 問 禪 翁
Cảm
tương thiền sự vấn thiền ông
爲
當 夢 是 浮 生 事
Vi
đương mộng thị phù sinh sự
爲
復 浮 生 是 夢 中
Vi
phục phù sinh thị mộng trung
Vào
chốn không môn hỏi khổ, không
Dám
đem thiền sự hỏi thiền ông
Nằm
mộng chính là phù sinh sự
Phù
sinh có phải là mộng không.
Điểu Sào thiền sư cũng đọc một bài thơ đáp lại:
來
時 無 跡 去 無 蹤
Lai
thời vô tích khứ vô tung
去
與 來 時 事 一 同
Khứ
dữ lai thời sự nhất đồng
何
須 更 問 浮 生 事
Hà
tu cánh vấn phù sinh sự
只
此 浮 生 是 夢 中
Chỉ
thử phù sinh thị mộng trung
Lúc
đến không dấu, đi không vết
Đến
và đi chuyện đó vốn đồng
Cần
chi phải hỏi phù sinh sự
Phù
sinh là mộng biết hay không?
Đời
người như ảo như hóa, ngắn ngủi phù du, nhưng nếu thể
ngộ được “vô sinh”, vượt lên đến và đi, đối đãi
hạn chế thì sẽ cảm nhận được trong cõi bao la vô cùng
và thời gian vô tận, sinh mạng là bất sinh bất diệt. Bạch
Cư Dị về sau tìm được chỗ an thân, lập mạng trong Phật
giáo, trở thành tại gia Phật tử, thường đi tham phỏng các
vị cao tăng. Về già ông ăn chay trường, biến nhà thành chùa
đặt tên là Hương Sơn Tự, tự gọi mình là Hương Sơn cư
sĩ, lại say mê niệm Phật.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đọc
thơ Bạch Cư Dị chúng ta còn thấy ông có ý tưởng sẽ làm
tăng trong kiếp lai sinh. Ông có bài thơ tả tâm cảnh:
余
年 近 七 十
Dư
niên cận thất thập
不
復 事 吟 哦
Bất
phục sự ngâm nga
看
經 費 眼 力
Khán
kinh phí nhãn lực
作
福 畏 奔 波
Tác
phúc úy bôn ba
何
以 慰 心 眼
Hà
dĩ úy tâm nhãn
一
句 阿 彌 陀
Nhất
cú A Di Đà
朝
也 阿 彌 陀
Triêu
dã A Di Đà
晚
也 阿 彌 陀
Vãn
dã A Di Đà
縱
饒 忙 似 箭
Túng
nhiên mang tự tiễn
不
離 阿 彌 陀
Bất
ly A Di Đà
達
人 應 笑 我
Đạt
nhân ưng tiến ngã
多
却 阿 彌 陀
Đa
khước A Di Đà
達
也 作 麼 生
Đạt
dã tác ma kinh
不
達 又 如 何
Bất
đạt hựu như hà
普
權 法 界 眾
Phổ
quyền pháp giới chúng
同
念 阿 彌 陀
Đồng
niệm A Di Đà
Ta
nay gần bẩy chục
Chẳng
thích sự ngâm nga
Xem
kinh ngại mỏi mắt
Tạo
phúc sợ bôn ba
Để
vỗ về tâm nhãn
Một
câu A Di Đà
Sáng
cũng A Di Đà
Chiều
cũng A Di Đà
Dù
rằng rất bận rộn
Chẳng
lìa A Di Đà
Đạt
nhân dù cười ta
Chẳng
bỏ A Di Đà
Đạt
rồi thì làm sao?
Không
đạt lại thế nào?
Phổ
quyền khắp pháp giới
Cùng
niệm A Di Đà.
Bạch Cư Dị mới đầu tu Thiền, sau đó tu Tịnh, cuối cùng là Thiền Tịnh song tu. Sinh hoạt của ông thật phong phú.
1342.
Thần xạ.
Thời
chiến quốc có một người bắn tên rất giỏi tên là Kỷ
Xương, ông lập chí làm Thần Xạ giỏi nhất thiên hạ. Khi
ông biết người bắn tên giỏi nhất là Phi Vệ, ông liền
vượt bao sông núi đến bái Phi Vệ làm thầy. Phi Vệ bảo
ông:
-
Trước hết ngươi hãy học không chớp mắt.
Ông
về nhà nằm dưới khung cửi của vợ, nhìn con thoi qua lại
không chớp mắt. Luyện tập 2 năm, ngay cả khi đi ngủ cũng
không nhắm mắt. Thành công rồi Phi Vệ lại bảo ông:
-
Ngươi hãy tập nhìn nhỏ thành to.
Trở
về nhà, ông tìm một côn trùng nhỏ để lên lá cỏ treo ở
thư phòng ngày ngày tập luyện. Ba tháng sau ông nhìn thấy
con côn trùng to bằng con tằm, 3 năm sau ông thấy nó bằng
cái bánh xe. Lúc đó ông lấy một cái kim nhỏ để vào cung
mà bắn. Kim găm trúng ngực con côn trùng mà lá cỏ không hề
rung động. Kỷ Xương vui mừng đến gập sư phụ. Phi Vệ
bảo ông đã học hết áo bí rồi. Ông không những bắn bách
phát bách trúng như sư phụ, mà ngoài trăm bước còn có thể
bắn xuyên lá liễu. Thậm chí khi về nhà, vợ ông nói chuyện
thao thao bất tuyệt. Ông lấy một lông đuôi gà để vào cung
bắn rụng 3 sợi lông mày mà bà vợ không hề hay biết, vẫn
không ngừng nói chuyện. Kỷ Xương rất cao hứng nghĩ rằng
mình đã trở thành cao thủ đệ nhất thiên hạ, nhưng ông
chợt nhớ rằng còn có một người cao minh hơn ông đó là
sư phụ ông: Phi Vệ, nếu không trừ khử sư phụ làm sao ông
có thể xưng là đệ nhất xạ thủ? Một hôm Kỷ Xương đi
tản bộ nơi điền dã, từ xa thấy Phi Vệ đi tới. Không
chậm trễ Kỷ Xương giương cung bắn. Phi Vệ cũng cảnh giác
bắn cùng một lúc, 2 mũi tên chạm nhau trên không cùng rơi
xuống đất. Cuối cùng Phi Vệ hết tên, Kỷ Xương còn một
mũi. Kỷ Xương kêu to:
-
Hãy nhận mạng!
Tiếng
kêu chưa dứt tên đã bay ra, nhưng Phi Vệ đã nhanh tay bẻ
một cành cây đưa ra trước ngực gạt mũi tên của Kỷ xương.
Kỷ Xương đỏ mặt, cúi gầm đầu, không biết làm sao nhìn
mặt sư phụ. Phi Vệ không trách ông còn bảo:
-
Kỹ thuật bắn tên của ta và ngươi không phân hơn kém. Nếu
ngươi muốn tiến thêm bước nữa hãy kiếm sư phụ ta là
Cam Dăng lão nhân, người là xạ thủ vĩ đại nhất. Thuật
xạ tiễn của chúng ta so với người chỉ là trò con nít.
Kỷ
Xương bái biệt sư phụ đi tìm Cam Dăng. Sau nhiều tháng cuối
cùng ông đã gập Cam dăng ở đỉnh Hoắc Sơn. Khi thấy mặt
ông rất thất vọng vì thấy đó là một cụ già tóc bạc
phơ, lưng còng không có vẻ gì là một xạ thủ cả. Để
trổ tài bắn tên của mình, Kỷ Xương giơ cung lên nhắm đàn
nhạn bay qua, 5 con nhạn bị tên xuyên thành một xâu rơi xuống
đất. Cam Dăng bảo ông:
-
Tài nghệ ngươi cũng khá, nhưng chỉ dùng cung tên bắn chim
thì hãy còn là sơ bộ của tiễn pháp, ngươi còn chưa học
qua bắn mà không bắn của Tiễn Đạo.
-
Bắn mà không bắn nghĩa là sao?
Cam
Dăng dẫn ông tới một phiến đá dài nơi đỉnh núi.
-
Ngươi hãy đến đây bắn tên cho ta coi!
Kỷ
Xương bước lên phiến đá, nhìn xuống dưới phiến đá là
một dòng nước chẩy cực mạnh, cảm nhận được phiến
đá rung chuyển dưới chân, sợ đến chân phát run, không bắn
tên được. Lúc đó một con chim nhỏ bay qua. Cam Dăng bảo:
-
Ta cho ngươi thấy thế nào là tiễn đạo chân chính!
Lão
nhân chỉ liếc mắt một cái, con chim liền rơi ngay xuống
đất.
Kỷ
Xương trợn mắt há mồm không nói ra lời, sau đó theo Cam
dăng học tập 9 năm. Năm thứ 10 thì xuống núi, không hề
nhắc đến chuyện bắn tên nữa. Mọi người chờ đợi ông
trổ tài nhưng ông hầu như đã quên cả cung tên rồi. Có
người hỏi ông:
-
Sao không bắn tên nữa?
-
Động đến cực điểm thì bất động, nói đến cùng thì
không lời, bắn tên đến cực điểm thì không bắn.
Sau
khi xuống núi 14 năm Kỷ Xương qua đời. Không ai thấy ông
xử dụng cung tên. Truyền thuyết còn nói rằng có môt
lần có một người bạn đến thăm ông mang theo cung tên để
xuống bàn. Kỷ xương hỏi:
-
Vật để trên bàn là cái gì? Dùng để làm chi?
Người
bạn cười lớn tưởng Kỷ Xương nói diễu, nhưng khi Kỷ
Xương nhắc lại câu hỏi 3 lần thì ông cảm thấy kính phục:
-
Bây giờ ông thật là đệ nhất thần xạ trong thiên hạ.
Chỉ có bậc đại sư như ông mới chân chính quên hết danh
tướng và xử dụng.
(Hương
Thủy Hải)
Đây
là một chuyện chép trong sách Liệt Tử. Chuyện này khiến
chúng ta liên tưởng đến chuyện bắn tên của Mã Tổ và
Tuệ Tạng (Xem công án 391). Đệ nhất xạ thủ trong thiên
hạ nguyên lai là một người có thể bắn xuyên phiền não,
háo thắng, phân biệt của chính mình.
1343. Có đem theo lửa không?
Một
hôm Quy Sơn theo Bách Trượng vào núi lao tác. Bách Trượng
hỏi:
-
Ngươi có mang theo lửa không?
-
Có mang theo.
-
Để ở đâu?
Quy
Sơn nhặt một thanh củi, thổi phù phù 2 lần rồi trao cho
Bách Trượng. Bách Trượng vui vẻ hỏi:
-
Như con mọt đục gỗ, ngẫu nhiên thành chữ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Lửa
ở đây tượng trưng cho tự tánh. Bách trượng muốn Quy Sơn
bới tro tìm lửa là muốn chỉ Quy Sơn phải tự mình giác
ngộ tự tánh (Xem công án 1062). Chuyện này đâu có dễ, do
đó Bách Trượng tự bới tro, bới sâu mới tìm được lửa.
Thậm chí trong khi lao động cũng khuyến khích Quy Sơn đừng
quên tự tánh. Câu nói “Ngươi có mang theo lửa không?” thật
là từ bi, trí tuệ biết bao. Sinh hoạt thiền là như vậy.
1344. Đi tắm.
Một
hôm Bách Trượng đi tản bộ thấy ông tăng chấp sự phòng
tắm đang đun nước, liền thuận miệng bảo:
-
Nước sôi rồi, đừng quên gọi trâu tắm nhé!
Nước
sôi rồi, ông tăng chạy tới phương trượng mời Bách Trượng
đi tắm, chưa kịp mở mồm Bách Trượng đã hỏi:
-
Ngươi đến đây làm gì?
-
Mời trâu đi tắm.
-
Có mang theo giây thừng không?
Ông
tăng không trả lời được.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Từ
cổ các thiền sư không cần làm Phật, chỉ cần khai ngộ,
đó là chỗ vĩ đại của các thiền sư vậy.
1345. Uống trà đi!
Có
hai ông tăng đến tham Triệu Châu. Triệu Châu hỏi:
-
Ngươi đi thuyền đến hay đi bộ đến?
-
Đi thuyền đến.
-
Uống trà đi!
Triệu
Châu lại hỏi ông tăng thứ hai:
-
Ngươi đi thuyền đến hay đi bộ đến?
-
Đi bộ đến.
-
Uống trà đi!
Viện
chủ thấy lạ hỏi:
-
Tại sao đi bộ đến, đi thuyền đến đều mời uống trà?
Triệu
Châu gọi:
-
Viện chủ!
-
Dạ
-
Uống trà đi!
(Trung Hoa thiền phong để diễn biến)
Lục
Tượng Sơn có để lại một câu “Thiên hạ vấn vô sự,
người thường tự rối loạn”.
Vốn
chẳng có chuyện gì, uống trà nóng là tốt rồi. Công án
này là một thoại khác của công án số 1000, chi tiết có
thay đổi đôi chút nhưng ý nghĩa thì đồng.
1346. Cảnh Thanh hôm nay thất lợi.
1-
Một ông tăng đến tham Cảnh Thanh, Cảnh Thanh giơ phất tử
lên. Ông tăng nói:
-
Từ lâu nghe tiếng Cảnh Thanh nên đến bái phỏng nào ngờ
thầy còn thủ đoạn này.
-
Hôm nay ta thất lợi.
2-
Một lần Cảnh Thanh hỏi Hà Ngọc:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Núi Thiên Thai.
-
Ai bảo ngươi đến Thiên Thai?
-
Thực là đầu hổ, đuôi rắn.
-
Hôm nay ta thất lợi.
3-
Một lần Cảnh Thanh im lặng đọc kinh, một ông tăng hỏi:
-
Thầy đọc kinh gì?
-
Ta học cổ nhân trừ trăm cỏ, ngươi biết chơi không?
-
Trò này từ nhỏ con đã chơi qua.
-
Hiện nay thì sao?
Ông
tăng giơ nắm đấm lên, Cảnh Thanh nói:
-
Hôm nay ta thua rồi.
4-
Có ông tăng hỏi Cảnh Thanh:
-
Đầu năm có Phật pháp không?
-
Có.
-
Phật pháp đầu năm là thế nào?
-
Ngày Nguyên đán mọi việc đều mới.
-
Tạ ơn thầy chỉ giáo.
-
Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.
5-
Cảnh Thanh thượng đường ném gậy xuống đất bảo đại
chúng:
-
Chạm hay không chạm đến gậy đều bị ăn 20 gậy.
Một
ông tăng lượm cây gậy đội lên đầu đi ra
-
Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.
6-
Cảnh Thanh thấy ông tăng đọc sách bèn hỏi:
-
Ngươi đọc sách gì?
-
Mời thầy xem.
-
Một điểm chưa phân đã phân 3 rồi.
-
Hôm nay vừa giống như gập vừa giống như chẳng gập người.
-
Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.
(Bồ
đề linh quang)
Lùi
lại một bước, trời cao đất rộng, trong đó ẩn hàm thiền
cơ sắc bén.
1347. Thể của Bát Nhã.
Triệu
Châu hỏi Đại Từ Hoàn Trung:
-
Bát Nhã lấy gì làm thể?
-
Bát Nhã lấy gì làm thể?
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
1348. Sự hướng thượng.
Có
ông tăng hỏi Thúy Nham Lịnh Tham:
-
Phàm có lời nói đều là ô nhiễm, thế nào là sự hướng
thượng?
-
Phàm có lời nói đều là ô nhiễm.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
1349. Phương tiện.
Có
ông tăng hỏi Cảnh Thanh:
-
Thế nào là phương tiện nhanh và dễ thành tựu?
-
Nhanh và dễ thành tựu.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
1350. Đại ý Phật pháp.
Đạo
Ngộ hỏi Thạch Đầu:
-
Thế nào làđại ý Phật pháp?
-
Chẳng được, chẳng biết.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
1351. Một câu vì người.
Có
ông tăng hỏi Ba Tiêu:
-
Thế nào là môt câu vì người của Hòa thượng?
-
Chỉ sự xà lê không dám hỏi.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
1352. Không gì để thấy.
Có
ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
-
Thế nào là không ra cửa, không thấy Phật?
-
Không gì để thấy.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
Từ
1347 đến 1352 ba công án trên các thiền sư nhắc lại câu
hỏi, 3 công án dưới các thiền sư trả lời mà như không
trả lời, tất cả đều ám chỉ lời nói không diễn tả
được chân lý.
1353. Quải Đơn.
Một
ông tăng đến một chùa nọ xin quải đơn. Tri khách tăng hỏi:
-
Ông đến bản tự quải đơn, có gì cúng dường?
Ông
tăng không có tiền, cũng không có một vật gì, chỉ nói:
-
Sư phụ, con chỉ có thân, khẩu, ý cúng dường thấy.
Tri
khách tăng bước tới cho vài bạt tai, ông tăng xoa đầu. Tri
khách tăng bảo:
-
Xoa đầu cái gì? Ngươi chẳng đemthân, khẩu, ý cúng dường
ta sao? Đầu ngươi là của ta, Xoa cái gì?
(Hương
Thủy Hải)
Câu
chuyện trên cho thấy tham học không phải là đơn giản; giác
ngộ càng không đơn giản. Muốn ngộ phải nhẫn nại, buông
bỏ tất cả, kể cả sinh mạng.
1354. Phải biết tiếc phúc.
Sâm
Hằng Thái Lang là một vị thôn trưởng rất thích giúp đỡ
mọi người. vào tuổi trung niên, mắt ông bị bệnh. Mặc
dù đã chữa trị nhiều cách, nhưng cuối cùng cũng bị mù.
Bị mù rồi Sâm Hằng cảm thấy mình trở thành vô dụng,
không có khả năng giúp đỡ dân làng nữa. Lại sợ làm phiền
đến mẹ, vợ và 2 đứa con gái cho nên ông quyết định tự
sát để giải thoát. Một hôm ăn cơm trưa xong, ông quyết
định tự sát ngay hôm đó. Khi ông vịn tay vào bàn để đứng
dậy thì tay chạm vào một hạt cơm vãi trên mặt bàn. Ông
thuận tay đưa hạt cơm vào mồm nhai. Ông bỗng nhớ lại khi
còn nhỏ mẹ ông dậy trước khi ăn phải thành kính cám ơn
rồi mới ăn, phải biết quý trọng từng hạt cơm. Ông tự
hỏi:
-
Tại sao phải quý trọng từng hạt cơm?
Và
ông chợt tỉnh ngộ:
-
Một hạt gạo tuy nhỏ, nhưng có thể sinh ra biết bao hạt
gạo khác; có thể nuôi sống người. Ta nay chỉ bị mù, lại
có ý tự sát để trốn tránh, thật không sánh bằng hạt
gạo.
Nghĩ
thông rồi, ông bỏ ý định tự sát, bôn ba khắp nơi giúp
đỡ mọi người, được dân chúng rất ái mộ.
(Hương
Thủy Hải)
Một
hạt trong bát cơm tuy nhỏ, nhưng cả bát cơm là do một hạt
mà nên. Một hạt đem trồng ngoài ruộng sẽ cho lúa đầy
đồng.
Trong
tùng lâm, từ cổ đã có bài kệ đề tỉnh các ông tăng phải
tôn trọng thọ thực.
Hạt
gạo của thí chủ
To
bằng núi Tu Di
Nếu
không chuyên tu Đạo
Sẽ
đội sừng mang da.
1355. Ngày nào cũng đẹp.
Tông
Đán là truyền nhân đời thứ 3 của Trà Thánh Lợi Hưu. Ông
lập một trà thất và thỉnh lão sư là hòa thượng Thanh Nham
đến đặt tên. Đến ngày khai trương Tông Đán vì có việc
gấp phải đi bèn viết lại vài chữ dặn đồ đệ chuyển
lại cho thầy.
-
Con xin lỗi, vì có chuyện gấp phải đi, xin để ngày mai gập
Thanh
Nham đến không thấy Tông Đán bèn để lại một phong thư
rồi đi. Thư vẻn vẹn có mấy chữ:
-
Tỳ khưu lười, chẳng có ngày mai.
Khi
Tông Đán trở về đọc thư xong vội chạy tới bái phỏng
Thanh Nham tạ tội và viết một câu thơ:
-
Niệm niệm ngày qua ngày, Ngày mai là ngày mai.
Kết
quả là trà thất được đặt tên là Kim Nhật Am
(Nhất
vị thiền:Quyển Phong)
Chúng
ta nên biết rằng ngày hôm nay, giờ khắc này vĩnh viễn không
trở lại. Chúng ta phải biết quý trọng giờ khắc này. Do
đó “Niệm niệm ngày nay qua ngày nay” thì mới có thể thấy
“Ngày nào trời cũng đẹp, dù mưa hay nắng, buồn hay vui,
buông bỏ tất cả mọi tính toán, so đo.” Cát Xuyên Anh Trị
có nói:
-
Trời tạnh thích trời tạnh, trời mưa thích trời mưa. Có
chuyện vui thì vui, không có chuyện vui cũng vui.
Đó
là lời giải thích rất hay cho câu “Ngày nào cũng đẹp”
1356. Chánh tà.
Có
ông tăng hỏi Đại Châu:
-
Làm chánh là sao?
-
Tâm đuổi theo vật là tà, vật từ tâm ra là chánh.
(Thiền
ngộ dữ thực hiện)
Khi
“ngã” bị vật dục bao vây, bị vật cảnh chuyển thì “ngã”
bị động. Nếu một người có thể từ bỏ được phân biệt
thì chân ngã phát huy công năng, vật thành khách thể, ngã
trở thành chủ thể, do đó có thể phát huy Bát Nhã chân quán.
1357. Siêu việt.
Một
hôm Quy Sơn hỏi Vân Nham:
-
Bồ đề lấy gì làm nền?
-
Lấy vô vi làm nền.
Vân
Nham hỏi ngược lại Quy Sơn:
-
Bồ đề lấy gì làm nền?
-
Lấy “không” làm nền, ngươi nghĩ sao?
-
Ngồi thì nghe ngồi, nằm thì nghe nằm. Có một người nằm
không ngồi. Nói mau ! Nói mau!
(Thiền
ngộ dữ thực hiện)
Siêu
việt khiến chúng ta trong mọi hoàn cảnh nhận thức rõ ràng
không bị sắc tướng làm mê hoặc, không làm nô tài cho vật
dục, có năng lực nhận lãnh trách nhiệm.
1358. Lễ như đàn bà.
Một
ông tăng hỏi Đạo Ngô:
-
Thế nào là chỗ sâu thẳm?
Đạo
Ngô bước xuống thiền sàng vái như đàn bà.
-
Ngươi từ xa tới, nhưng đáng tiếc ta không có câu trả lời
cho ngươi.
(Zen
and Zen classic)
Hành
động và câu nói của Đạo Ngô là chỗ sâu thẳm.
1359. Pháp đường đổ.
Dược
Sơn lúc sắp mất kêu lớn:
-
Pháp đường sắp đổ kìa!
Chư
tăng vội chạy lại ôm giữ cột nhà.
Dược
Sơn giơ hai tay lên trời than:
-
Các ngươi chẳng có ai hiểu ý ta!
Nói
rồi mất.
(Zen
and Zen classic)
Ôm
giữ vật đang rơi là điên, sao không đẩy cho nó rơi luôn.
1360. Ý tổ sư.
Một
ông tăng hỏi Thạch Sương:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
Thạch
Sương nghiến răng. Ông tăng không hiểu. Sau khi Thạch Sương
mất, ông tăng hỏi Cửu Phong:
-
Thạch Sương nghiến răng là ý gì?
-
Nếu là ta thì thà là cắt lưỡi còn hơn làm xấu hổ đất
nước.
Ông
tăng lại hỏi Vân Cái. Vân Cái nói:
-
Ta là kẻ thù của Thạch Sương sao?
(Zen
and Zen classic)
Nếu
đã chứng ngộ thì nói hay không đều là diễn tả chân lý.
1361. Giặt quần áo.
Nam
Tuyền đang giặt quần áo, một ông tăng hỏi:
-
Chẳng lẽ thầy còn chuyện tất yếu này?
Nam
Tuyền giơ quần áo lên:
-
Cái này biết làm sao?
(Thiền
cơ)
Quần
áo trỏ sự trói buộc, giặt quần áo là cởi trói.
1362. Thạch Lâu không có tai.
Một
ông tăng hỏi Thạch Lâu:
-
Con chưa biết bản sinh, thỉnh thầy phương tiện chỉ thị.
-
Thạch Lâu không có tai.
-
Con tự biết không đúng.
-
Chẳng lẽ lão tăng sai sao?
-
Thầy sai ở chỗ nào?
-
Sai ở chỗ ngươi không đúng.
(Thiền
cơ)
Bản
sinh chỉ khuôn mặt xưa nay. Thạch Lâu nói không có tai là
ám chỉ ông tăng không nên hỏi; hỏi là dư thừa. Ông tăng
hiểu điều đó nên nhận là mình không đúng. Câu ‘sai ở
chỗ ngươi không đúng’ có nghĩa là đúng và sai đều là
dư thừa.
1363. Không trồng tạp chủng.
Một
ông tăng hỏi Dược Sơn:
-
Chuyện khẩn cấp của sinh mạng là gì?
-
Không trồng tạp chủng.
(Thiền
cơ)
Chuyện
khẩn cấp chỉ khuôn mặt xưa nay, tạp chủng chỉ sự nhiễm
trần.
1364. Bố mẹ đều mất.
Có
một ông tăng đến tham phỏng Tánh Không; thiền sư dang hai
tay ra, ông tăng tiến lên rồi thối lui. Tánh Không hỏi:
-
Cha mẹ đều mất mà mặt không biểu lộ chút cảm xúc nào
sao?
Ông
tăng cười ha hả.
-
Tên ngốc giúp hòa thượng lo tang sự!
Ông
tăng giở nón đi ra. Thiền sư kêu:
-
Trời xanh! Trời xanh!
(Thiền
cơ)
Thiền
sư dang hai tay ra tỏ rằng tất cả đều minh bạch, tới tham
phỏng làm gì?
Ông
tăng bước tới rồi lại bước lui lại là biểu thị đã
vượt lên phàm thánh. Cuối cùng thiền sư khuyên ông tăng
phải nỗ lực tham thiền để đạt tới cảnh giới vô ngại.
1365. Méo mồm.
Một
hôm, trong buổi tham thiền Pháp Chân bỗng nhiên làm miệng
méo như bị trúng gió rồi hỏi:
-
Có ai chữa được mồm ta không?
Đại
chúng tranh nhau đưa thuốc, dân chúng được tin cũng liên tục
đưa thuốc đến tặng nhưng thiền sư đều không nhận. Bẩy
hôm sau, thiền sư tự dùng tay vả vào mồm khiến mồm trở
lại như cũ, bảochúng đệ tử:
-
Mấy hôm nay mồm bị méo, đến giờ cũng không ai đủ sức
chữa cho ta.
(Thiền
cơ)
Mồm
ám chỉ tự tánh, méo mồm là tự tánh bị duyên trần ô nhiễm.
Thuốc của tha nhân làm sao chữa được, chỉ có tự mình.
1366. Đập vỡ gương.
Trường
Sinh hỏi Chí Cần:
-
Thế nào là chân thường?
-
Giống như gương luôn sáng.
-
Còn có cảnh giới nào cao hơn không?
-
Có.
Thế
nào là cảnh giới cao hơn?
-
Đập vỡ gương.
(Thiền
cơ)
Chân
thường, gương sáng là thánh cảnh, đập vỡ gương là trở
về phàm.
1367. Đầu rơi xuống đất.
Một
ông tăng hỏi Lục Thông:
-
Thế nào là một kiếm?
-
Đừng ngăn mũi nhọn.
-
Đầu rơi xuống đất rồi thì phải làm sao?
-
Ta đã nói rồi, đừng ngăn mũi nhọn thì làm sao rơi đầu?
(Thiền
cơ)
Một
kiếm chỉ xuy mao kiếm chặt đứt căn trần nhưng không chặt
tự tánh. Thiền sư bảo đừng ngăn mũi nhọn là bảo ông
tăng tự chặt đứt căn trần. Ông tăng chưa hiểu nên hỏi
“đầu rơi xuống đất phải làm sao?”. Ở đây “đầu”
chỉ phàm cảnh, rơi xuống đất chỉ thánh cảnh. Câu đáp
của thiền sư là đừng trú mãi ở “thánh” cảnh hãy trở
về “phàm “ cảnh.
1368. Cảnh giới Tung Sơn.
Một
ông tăng hỏi Tung Sơn:
-
Cảnh giới Tung Sơn là thế nào? (T)
-
Mặt trời mọc từ phương Đông, mặt trăng lặn về phương
Tây (P)
-
Con không hiểu.
-
Đông, Tây cũng không hiểu sao?
(Thiền
cơ)
1369. Nhẩy ra khỏi tam giới.
Một
ông tăng hỏi Thiên Long:
-
Làm sao nhẩy ra phỏi tam giới? (P)
-
Ngươi nay ở đâu? (TP)
(Thiền
cơ)
1370. Chổi đuôi nai.
Một
ông tăng hỏi Pháp Chân:
-
Phật là gì?(T)
Thiền
sư giơ chổi làm bằng đuôi nai lên hỏi:
-
Hiểu không?
-
Con không hiểu .
-
Chổi đuôi nai!(P)
(Thiền
cơ)
1371. Dụng tâm liền sai.
Một
ông tăng hỏi Thủy Lục:
-
Con dụng tâm chỗ nào?
-
Dụng tâm liền sai.
-
Vậy nếu không khởi một niệm thì sao? (T)
-
Là một gã vô dụng. (P)
(Thiền
cơ)
1372. Giữ mồm ăn cơm.
Một
ông tăng hỏi Minh Chân:
-
Đường đi lên, ngàn thánh chẳng truyền (T); không biết thầy
truyền thế nào “
-
Hãy giữ mồm mà ăn cơm. (P)
(Thiền
cơ)
1373. Mất một đấu gạo.
Một
ông tăng hỏi Huyền Nột:
-
Thế nào là xúc mục Bồ đề? (T)
-
Hòa thượng mất nửa năm lương. (P)
-
Tại sao?
-
Chỉ vì tìm cầu một đấu gạo (T).
(Thiền
cơ)
1374.
Diện bích chín năm.
Một
ông tăng hỏi Tùy Chân:
-
Đạt Ma diện bích chín năm là ý gì? (T)
-
Ngủ không được. (P)
(Thiền
cơ)
1375. Ngàn vạn núi.
Có
ông tăng hỏi Long Tu:
-
Trong ngàn vạn núi, núi nào là Long Tu? (T)
-
Ngàn vạn núi. (P)
-
Thế nào là người trong núi? (T)
-
Đối diện ngàn dặm. (P)
(Thiền
cơ)
1376. Ném một mảnh ngói.
Phổ
Nguyện đi ngang vườn rau thấy một ông tăng đang trồng rau
(P) liền nhặt một mảnh ngói ném qua (T). Ông tăng ngoảnh
đầu nhìn. Thiền sư liền giơ một chân lên (T). Ông tăng
không nói một lời. Thiền sư trở về phòng phương trượng,
ông tăng đi theo hỏi:
-
Thầy ném mảnh ngói có phải là đề tỉnh con không?
-
Ta giơ chân lên là ngụ ý gì?
(Thiền
cơ)
1377. Tám lõm, chín lồi.
Một
ông tăng hỏi Tòng Y:
Thế
nào là Thiên Bình? (T)
-
Tám lõm, chín lồi. (P)
(Thiền
cơ)
1378. Lìa thanh sắc.
Một
ông tăng hỏi Thiệu Tu:
-
Lìa thanh sắc, thỉnh thiền sư chỉ thị (T).
-
Hãy từ trong thanh sắc ra và hỏi lại (P).
(Thiền
cơ)
1379. Ăn rau đạo.
Một
ông tăng hỏi Quế Sâm:
-
Thế nào là thực phẩm chân chính của sa di? (T)
-
Ngươi có thể ăn sao? (P)
-
Muốn ăn rau đạo, thỉnh thầy phương tiện chỉ thị (T).
-
Ngậm chặt mồm lại. (P)
(Thiền
cơ)
1380. Đãng tử về quê.
Một
ông tăng hỏi Văn Ích:
-
Đãng tử về quê thì sao? (T)
-
Ngươi có gì cho hắn? (P)
-
Không có gì cả (T).
-
Sinh hoạt hàng ngày biết làm sao? (P)
(Thiền
cơ)
1381.
Người đá trong vò.
Một
ông tăng hỏi Tông Huệ:
-
Phật là thế nào? (T)
-
Rõ rõ, ràng ràng (P)
Vạn
duyên đều dứt thì sao? (T)
-
Người đá trong vò (T), bán táo (P).
(Thiền
cơ)
1382.
Mất gối.
Một
ông tăng hỏi Xứ Chân:
-
Thế nào là chỗ chuyển thân của thầy? (T)
-
Nửa đêm hôm qua mất cái gối! (P)
(Thiền
cơ)
1383. Ngồi không.
Thạch
Đầu hỏi Dược Sơn đang ngồi thiền:
-
Ngươi ở đây làm gì?
-
Chẳng làm gì cả. (T)
-
Vậy là ngồi không?
-
Nếu nói là ngồi không là có làm.
-
Ngươi nói không làm là không làm cái gì?
-
Ngàn thánh cũng chẳng biết. (P)
(Thiền
cơ)
(Xem
thêm lời giảng ở công án 1500)
1384. Hoa sen trong lửa.
Một
ông tăng hỏi Chân Tịch:
-
Thế nào là rồng kêu (P) trong cây khô (T)? (TP)
-
Hoa sen trong lửa (T).
-
Thế nào là con mắt (P) trong đầu lâu (T)?
-
Trâu bùn vào nước.
(Thiền
cơ)
Trâu
bùn vào nước: ám chỉ phải siêu phàm vượt thánh.
1385. Đốt đèn.
Một
ông tăng hỏi Quảng Pháp:
-
Thế nào là trước khi đốt đèn? (P)
-
Sau khi đốt đèn. (T)
Thế
nào là sau khi đốt đèn? (T)
-
Trước khi đốt đèn (P)
-
Thế nào là ngay khi đốt đèn?
-
Uống trà đi.
(Thiền
cơ)
Đèn
chỉ tự tánh, đốt đèn chỉ sự giác ngộ.
1386. Một ngụm nuốt hết.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn.
-
Thế nào là một ngụm nuốt hết? (T)
-
Ta ở trong bụng ngươi. (P)
-
Sao thầy lại ở trong bụng con?
-
Trả lời câu ta vừa hỏi.
-
Nói làm sao đây?
-
Đi ra!
(Thiền
cơ)
1387. Không biết đau.
Một
ông tăng hỏi Truyền Sở:
-
Thế nào là một câu lúc lâm cơ? (T)
-
Ngươi nói thử coi? (P)
-
Thỉnh thầy nói.
-
Đầu lâu (T) bị xuyên mà chẳng đau (P).
(Thiền
cơ)
1388. Ăn gậy sắt.
Một
ông tăng hỏi Nham Đầu:
-
Thế nào là chủ nhân (T) của ba giới? (P) (T)
-
Ngươi còn biết ăn gậy sắt không? (P)
(Thiền
cơ)
1389. Vòng vàng chưa mở.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử:
-
Một pháp (T) thấm nhuần khắp chúng sanh, thế nào là một
pháp?
-
Trời mưa rồi! (P)
-
Vòng vàng (T) chưa mở thì sao?
-
Mở rồi . (P)
(Thiền
cơ)
1390. Hôm nay phơi lúa mạch tốt.
Một
ông tăng hỏi Viên Trí:
-
Vạn dậm không mây chưa chắc đã là bản lai thiên, thế nào
là bản lai thiên? (T)
-
Hôm nay phơi lúa mạch tốt. (P)
(Thiền
cơ)
1391. Người khô hạc.
Bảo
Phúc hỏi một ông tăng đến tham học:
-
Ngươi tên gì?
-
Con tên Hàm Trạch (đầm đầy nước) (P)
-
Bỗng nhiên gập người tên Khô Hạc (cạn hết) thì phải
là sao? (T)
-
Ai là người Khô Hạc?
-
Là ta.
-
Thầy đừng lừa dối người.
-
Là ngươi lừa dối ta.
(Thiền
cơ)
1392. Mãnh liệt.
Hắc
Thủy hỏi Hoàng Long:
-
Tuyết rơi trên hoa lan thì thế nào? (T)
-
Mãnh liệt. (P)
-
Không mãnh liệt. (T)
-
Mãnh liệt. (P)
-
Không mãnh liệt. (T)
Hoàng
Long bèn quơ gậy đánh, Hắc Thủy ngay đó đốn ngộ.
(Thiền
cơ)
1393. Tuỳ duyên, tùy vận.
Văn
Trục nói:
-
Lão tăng bình sinh chẳng có kiến giải gì, ngày ngày chỉ
vậy mà trú ở đây, tuỳ duyên, tùy vận. Các ngươi vì bản
lai không hai dạng.
Một
ông tăng hỏi:
-
Con và bản lai không là hai sao? (T)
-
Ngàn sai, vạn biệt. (P)
Ông
tăng mở miệng định nói, thiền sư liền bảo:
-
Được rồi! Được rồi! Đừng hỏi nữa, hãy thể nghiệm
ngàn sai, vạn biệt.
(Thiền
cơ)
1394. Trời thu ấm áp.
La
Sơn hỏi một ông tăng đến tham học:
-
Ngươi từ đâu đến?
-
Tứ Xuyên. Xin hỏi chuyện ngày nay phải làm sao? (T)
Thiền
sư vung tay:
-
Uống trà đi. (P)
Ông
tăng không trả lời được, La Sơn bảo:
-
Trời thu ấm áp. Đi ra!
(Thiền
cơ)
1395. Hôm nay gió lớn, trăng lạnh.
Một
ông tăng hỏi Thủ Sơn:
-
Có một người hết tận phóng đãng lúc trước, thầy có
tiếp không? (T)
-
Người đó là ai? (P)
-
Hôm nay gió lớn, trăng lạnh. (T)
-
Trong tăng đường có mấy người ngồi hoặc nằm?(P)
Ông
tăng không trả lời được, thiền sư bảo ông:
-
Thật là lừa chết lão tăng .
(Thiền
cơ)
1396.
Trần dép cỏ.
Trần
Tôn Túc có ngoại hiệu là Trần Dép Cỏ, một hôm đang đứng
ở hành lang, bỗng có một ông tăng chạy tới hỏi:
-
Trần Tôn Túc ở phòng nào bên đó? (T)
Trần
Tôn Túc tháo dép đập vào đầu ông tăng . (P) Ông tăng vội
chạy trốn. Thiền sư gọi:
-
Hòa thượng!
Ông
tăng quay đầu lại, thiền sư giơ tay chỉ:
-
Đi về bên đó!
(Thiền
cơ)
1397. Đập bát.
Triệu
Châu giơ một cái bát lên bảo đại chúng:
-
30 năm sau nếu còn thấy lão tăng thì hãy cung dưỡng, còn
nếu không thấy thì đập bát đi.
Một
ông tăng thưa:
-
30 năm sau con dám nói là thấy lão sư. (T)
Triệu
Châu bèn đập bát. (P)
(Thiền
cơ)
1398. Tháng thứ hai.
Một
ông tăng hỏi Tào Sơn:
-
Ai là người chìm nổi trong bể sanh tử? (P)
-
Tháng thứ hai. (PT)
-
Còn muốn ra khỏi không?
-
Còn muốn ra nhưng không có đường.
-
Khi ra khỏi được ai tiếp đãi?
-
Người mang cùm sắt.
(Thiền
cơ)
Tháng
1 chỉ bản thể giới, tháng 2 chỉ hiện tượng giới. Ở
đây tháng 2 chỉ phàm phu. Ra khỏi phàm là vào thánh. Cùm sắt
chỉ sự ô nhiễm. Không có đường vì chỉ ỷ lại vào người
khác. Nếu thấy rằng mình đang mang cùm sắt (ô nhiễm) thì
có thể do một niệm mà tiến vào thắng cảnh.
1399. Trâu đất rống.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Thế nào là trâu đất ở Tuyết Lãnh rống?
-
Trời đất tối đen.
-
Thế nào là ngựa gỗ Vân Môn hí?
-
Sông núi chạy.
-
Từ chuyện trên thỉnh thầy chỉ thị. (T)
-
Sáng nhìn Đông- Nam, chiều xem Tây- Bắc. (P)
-
Cứ thế mà lãnh hội thì thế nào?
-
Nhà bên Đông đốt đèn, nhà bên tây ngồi trong tối.
(Thiền
cơ)
Trâu
đất, ngựa gỗ chỉ tự tánh.
1400.
Thấy Bát Nhã rồi.
Một
ông tăng hỏi Đức Thiều:
-
Có người thấy Bát Nhã, bị Bát Nhã buộc (T), có người
không thấy Bát Nhã cũng bị Bát Nhã trói (P). Nếu đã thấy
Bát Nhã sao còn bị Bát Nhã trói?
-
Ngươi thấy Bát Nhã gì?
-
Không thấy Bát Nhã sao vẫn bị Bát Nhã trói?
-
Ngươi không thấy Bát Nhã ở đâu?
(Thiền
cơ)
Từ
1368 đến 1400: các công án trên đều có cùng một cơ chế,
thiền sinh hỏi phàm (P), thiền sư đáp thánh (T); thiền sinh
hỏi thánh (T), thiền sư đáp phàm (P). tất cả đều nhằm
mục đích giúp thiền sinh siêu việt phàm thánh. Nếu thiền
sinh đang ở thánh, thiền sư kêu ông trở về phàm để ma
luyện. Vì nếu thiền sinh cứ trú ở thánh thì bị thánh trói
buộc không tiến lên được.
Thiền
môn có 3 cửa mà người học phải vượt qua, sơ lược như
sau:
Tại
phàm Vào thánh Về phàm Đại tự tại
Sơ
quan Trùng quan Lao quan
Hiện
tượng giới Bản thể giới Bản thể hiện Bản thể hiện
tượng giới tượng vô
ngại giới
1 2 3 4
1-
Hiện tượng giới
Hiện
tượng giới nằm ở:
-
thời gian: quá khứ + hiện tại + tương lai .
-
không gian: trước sau, phải trái, trên dưới, Đông, Tây, Nam,
Bắc.
-
con người: 3 duyên
*ngoại
duyên : 6 trần
*nội
duyên : 6 căn
*trung
duyên : 6 thức
Các
yếu tố này thúc đẩy nhau, hỗ tương duyên khởi tạo thành
hiện tượng giới. Hiện tượng giới có các tính chất:
-
hữu hạn
-
sai biệt
-
đối lập
-
dục vọng thúc đẩy ý chí.
Dục
vọng không được thỏa mãn trở thành phiền não, do đó sinh
ra trăm kế, ngàn mưu để truy cầu. Dù được rồi sẽ hóa
chán ngay. Từ sinh đến tử con người ở hiện tượng giới
tự tìm phiền não mà không tự biết. Có phiền não thì hãy
còn là phàm phu.
2- Bản thể giới.
Bản
thể thể giới đứng ngoải: - thời gian
- không gian
- 3 duyên.
Nếu
có thể một niệm siêu thoát liền vào Bản thể giới, kiến
tự tánh. Tự tánh ai cũng có đầy đủ. Tự tánh từ xưa
đến nay không sinh không diệt, không xanh không vàng, không
hình không tướng, không thuộc Hữu Vô, không kể cũ mới,
không dài không ngắn, không to không nhỏ, vượt qua mọi hạn
lượng, danh ngôn, tung tích, đối đãi. Đương thể tức là,
động niệm liền sai. Giống như hư không không có giới hạn,
không thể đo lường. Vì “vốn không một vật” nên nó
có thể sinh ra vạn vật. Không chỗ nào là không có, có thể
lớn, có thể nhỏ, có thể vuông, có thể tròn. Tất cả đều
hiện thành. Lại giống như trăng trong nước. Chỗ nào có
nước đều được phổ chiếu. Lại giống như giọt thủy
ngân khi phân tán ra nhiều giọt, giọt nào cũng tròn. Cho nên
tự tánh ai cũng có không hề thiếu chỉ vì bị hiện tượng
giới che dấu; cũng như một hạt minh châu trong nước bị
gió tạo thành sóng khiến không thấy. Thiền sư phải làm
sao cho học tăng thấy? Đối với cái không thể nói thường
là các thiền sư dùng phương pháp không nói mà nói. Nếu bất
đắc dĩ phải nói thì từ những sinh hoạt thường ngày, mượn
những cảm giác cụ thể của sự vật mà hình dung đến tự
tánh không thể cảm giác, không thể nghĩ bàn. Nếu học tăng
ngay đó tự ngộ tự tánh liền thấy tánh, phá được sơ
quan, vào Bản thể giới.
Tự
tánh có nhiều tên do ứng duyên mà lập:
-
kinh Bồ tát giới gọi là Tâm Địa vì vạn thiện từ đó
mà ra.
-
kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề vì lấy giác làm thể, còn gọi
là Niết Bàn vì đó là chỗ về của chư Thánh.
-
kinh Kim Cương gọi là Như Lai vì không từ đâu đến.
-
kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như vì chân thường bất biến.
-
kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân vì báo, hóa thân nương dựa
vào.
-
luận Khởi Tín gọi là Chân Như vì bất sanh, bất diệt.
-
kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh vì là thể của 3 thân.
-
kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì vì lưu xuất công đức.
-
kinh Thắng Ứng gọi là Như Lai Tạng vì ẩn phục, hàm nhiếp.
-
kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác vì phá tôi, độc chiếu.
Trong
Thiền Tông có lúc gọi là:
-
Diệu tâm vì hư linh, độc chiếu
-
Vô đề bát vì tùy xứ sinh nhai.
-
Xuy Mao Kiếm vì chặt đứt căn trần.
-
Mâu ni châu vì giúp đỡ bần cùng.
-
Chủ nhân ông . . .
3- Bản thể hiện tượng giới.
Tức
là ra thánh về phàm. Hiện tượng giới giống như vỏ trứng,
thiền sinh phải tự mình mổ vỡ là phá được Sơ Quan,
vào bản thể giới. Nhưng thiền sinh phải trở lại phàm để
ma luyện. Nếu cứ trụ ở thánh thì sẽ bị “nước chết
sát hại”. Do đó, thiền sư dùng phương pháp đánh, hét khiến
thiền sinh ‘Tuyệt hậu tái tô” phát đại cơ, đại dụng
“mai già hoàn hồn”. Đó là thiền sinh đã phá được Trùng
Quan.
4- Bản thể hiện tượng vô ngại giới.
Phá
được Trùng Quan rồi hãy còn phàm thánh, ngộ mê, lý sự,
thể dụng, không sắc, vô hữu, tối sáng, tâm cảnh, bồ đề
phiền não, như lai chúng sinh . . . Do “đầu gậy trăm trượng
bước bước nữa”, không ngừng tham chứng cho đến khi không
thấy Phật, không thấy chúng sinh, trong ngoài thông suốt. Vào
sắc giới không bị mắt mê hoặc, vào thanh giới không
bị tai mê hoặc . . . là thiền sinh đã phá được Lao Quan
nhận được tâm ấn.
1401. Giác ngộ.
Động
Sơn hỏi thủ tọa một câu, thủ tọa trả lời nhiều lần
nhưng đều không được chấp nhận. sau cùng đến lần thứ
96. Động Sơn bảo:
-
Sao trước ngươi không nói thế “
Một
ông tăng nọ, được nghe 95 câu trả lời của thủ tọa nhưng
câu cuối cùng lại không nghe được. Mỗi lần gập trong nhà
tắm ông đều năn nỉ thủ tọa nói cho ông nghe câu nói đó
nhưng đều bi từ chối. Ba năm sau, thủ tọa bị ốm nặng.
Ông tăng mang dao đến bảo thủ tọa:
-
Ba năm qua, tôi năn nỉ ông nói, ông đều từ chối. nếu bây
giờ ông vẫn không bảo cho tôi biết, tôi sẽ giết ông.
-
Được rồi! Đợi một chút! Nhưng tôi bảo cho ông biết dù
tôi có nói thì cũng chả có ích lợi gì cho ông.
Ông
tăng lạy thủ tọa đi ra.
(Zen
and Zen classic)
Khi
ông tăng nhận được lời hứa sẽ được thỏa mãn điều
ông muốn thì ông không còn muốn nữa: Ông đã giác ngộ.
Giác ngộ là không còn muốn giác ngộ nữa.
1402. Tháp vô phùng.
Một
ông tăng hỏi Thủ Sơ:
-
Thế nào là tháp vô phùng? (Xem công án )
-
Sư tử đá ở ngã tư đường.
(Zen
and Zen classic)
Thủ
Sơ muốn ông tăng vượt lên phàm, thánh.
1403. Người đánh xe.
Một
ông tăng hỏi Thủ Sơ:
-
Khi xe ngừng mà bò không ngừng thì sao?
-
Sao không dùng người đánh xe?
(Zen
and Zen classic)
Người
đánh xe chỉ tự tánh.
1404. Chấp lời.
Một
ông tăng hỏi Thiệu thiền sư:
-
Môi, họng không động làm sao nói?
-
Đợi ngươi bừa hết Càn Tử Sơn ta sẽ bảo cho ngươi biết.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
Thiền
sư phá cái chấp vào lời nói của ông tăng.
1405. Diệt lục căn.
Một
ông tăng hỏi Quảng Trừng:
-
Làm sao diệt hết lục căn?
-
Vụt kiếm vào không, không làm thương vật.
(Thiềng
ngoại thuyết thiền)
Dùng
kiếm trí tuệ chặt đứt mọi trói buộc.
1406.
Tâm của cổ Phật.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là tâm của cổ Phật?
-
Ba người đàn bà xếp hàng lạy.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
1407. Đại ý Phật pháp.
Một
ông tăng hỏi Phụng thiền sư:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
-
Thíc Ca là quỷ đầu trâu, tổ sư là qủy mặt ngựa.
-
Thế nào là ý Tây sang?
-
Tường Đông đánh tường Tây!
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
1408. Ý tổ sư.
Một
ông tăng hỏi Đạo Ân:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
-
Năm Phổ Thông thứ 8 gập Lương Quái, cho đến nay vẫn chưa
có tuyết.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
Từ
1406 đến 1408: Các câu đáp đều ly kỳ không ngoài mục đích
là cắt đứt sự suy nghĩ của người hỏi.
1409. Thạch Sương.
Thạch
Sương đến thăm Đạo Ngô hỏi:
-
Một trăm năm sau, nếu có người hỏi về tự tánh, con phải
trả lời sao?
-
Đạo Ngô gọi thị giả:
-
Sa di!.
-
Dạ!
-
Đổ thêm nước vào tịnh bình.
Đạo
Ngô quay lại hỏi Thạch Sương:
-
Vừa rồi ông hỏi gì?
Thạch
Sương nhắc lại câu hỏi, Đạo Ngô trở về phương trượng.
Thạch Sương giác ngộ ngay đó.
(Zen
and Zen classic)
Thành,
trụ, hoại, diệt của vạn vật được thấy trong sự đổ
thêm nước vào tịnh bình, trong sự nhắc lại câu hỏi, trong
sự trở về phòng. Những động tác này người thường làm
với sự vô ý thức, còn Đạo Ngô làm với sự tỉnh thức,
chẳng trách Thạch Sương giác ngộ.
1410. Đừng tìm trong kinh.
Một
ông tăng hỏi Thạch Sương:
-
Ý tổ sư từ Tây sang có trong Phật giáo không?
-
Có.
-
Ý đó là sao?
-
Đừng tìm trong kinh.
(Zen
and Zen classic)
Câu
trả lời thật hay và rõ ràng. Chân lý trong kinh, nhưng đừng
đọc kinh để tìm chân lý trong đó.
1411. Bện dép cỏ.
Động
sơn hỏi một ông tăng:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Từ nơi bện dép cỏ.
-
Người tự mình bện hay phải nhờ người?
-
Nhờ người.
Hắn
có dạy ngươi không?
-
Nếu cứ theo lời hắn thì sẽ bện được dép tốt.
(Động
Sơn Lục)
Hắn
chỉ tự tánh.
1412. Huyền Chi Hựu Huyền.
Một
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Thế nào là huyền chi hựu huyền?
-
Lưỡi người chết.
1413. Cỏ bờ bên kia.
Một
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Ở bờ bên kia là cỏ gì?
-
Cỏ không mọc.
(Động
Sơn Lục )
“Cỏ
không mọc” cùng với ý “vạn dậm không tấc cỏ” (Xem
công án 668).
1414. Chết rồi về đâu?
Một
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Khi một ông tăng qua đời, ông về đâu?
-
Sau khi thiêu, chỉ còn lại một cọng rau dút.
(Động
Sơn Lục)
Động
Sơn ám chỉ ‘Chủ nhân ông” trở về không.
1415. Phi lão hủ.
Động
Sơn đến Kinh Triệu tham bái hòa thượng Hưng Bình. Hưng Bình
bảo:
-
Đừng lạy lão hủ.
-
Lạy phi lão hủ.
-
Phi lão hủ không nhận lạy.
-
Phi lão hủ cũng không ngăn chận lạy.
(Động
Sơn Lục)
Phi
lão hủ chỉ tự tánh bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm.
1416. Tâm của cổ Phật.
Động
Sơn hỏi Hưng Bình;
-
Thế nào là tâm của cổ Phật?
-
Là tâm ngươi, không là gì khác.
-
Mặc dầu vậy con còn nghi vấn.
-
Nếu là thế,ngươi hãy đi hỏi người gỗ.
-
Con có một câu không mượn lời chư thánh.
-
Sao ngươi không nói thử coi!
-
Không phải là việc của con.
(Động
Sơn Lục)
Khi
Hưng Bình nói là tâm ngươi, Động Sơn mới đầu nói là con
còn nghi vấn, sau lại nói ‘không phải là việc của con’
là phủ định ngã mà trở thành tâm của cổ Phật.
1417. Bó củi nặng bao nhiêu?
Có
một lần Tuyết Phong mang một bó củi ném xuống trước mặt
Động Sơn. Động Sơn hỏi:
-
Bó củi nặng bao nhiêu?
-
Người cả thiên hạ cũng không giở lên được.
-
Vậy sao nó lại ở đây?
Tuyết
Phong im lặng không nói.
(Động
Sơn Lục)
Bó củi ám chỉ tự tánh.
1418. Cuốc chết giun.
Một
hôm Vân Cư đang làm ruộng vô ý cuốc chết một con giun. Động
Sơn bảo:
-
Ngươi phải cẩn thận.
-
Con giun còn chưa chết.
-
Việc nhị tổ về Nghiệp Thành ngươi nghĩ thế nào?
Vân
Cư không trả lời.
(Động
Sơn Lục)
‘Con
giun còn chưa chết” chỉ túc nghiệp của con giun. Theo truyền
thuyết Huệ Khả trước khi về Nghiệp Thành (tỉnh Hà Nam
ngày nay) có nói là về để trả nợ. Ông về đó bị quan
lại bắt bỏ ngục và sát hại. chuyện này ám chỉ bị hại
là do trả quả tội nghiệp kiếp trước.
1419.
Ung Chính
Ung
Chính được nhiều người công nhận là một vị hoàng đế
đã khai ngộ. Ung Chính lên ngôi rồi đọc cuốn ngữ lục
của Ngọc Lâm, vị thiền sư đã được tổ phụ ông là Thuận
Trị sắc phong là quốc sư, thấy rằng Ngọc Lâm quả đã
triệt ngộ. Ông bèn hạ chiếu vời Triệt hành giả là
truyền nhân của Ngọc Lâm vào cung. Triệt hành giả (về sau
là Thiên Tuệ Triệt Tổ) lúc đó đang ở Cao Mân Tự tham thiền.
Lúc đó ông còn chưa khai ngộ, bị quan sai tìm đến, đưa
về Bắc Kinh.
Ung
Chính gập mặt Triệt hành giả bèn hỏi:
-
Mặt mũi xưa nay khi cha mẹ chưa sinh ra như thế nào?
Triệt
hành giả trì nghi (vì tâm sợ hãi trước mặt hoàng đế)
giơ một nắm đấm lên. Ung Chính không đồng ý, nhưng thấy
Triệt hành giả tham thiền lâu năm muốn thành toàn cho ông
nên bảo:
-
Ngươi hỏi lại trẫm đi!
-
Xin hỏi Hoàng thượng thế nào là mặt mũi xưa nay lúc cha
mẹ chưa sinh ra?
Ung
Chính giơ nắm đấm lên. Triệt hành giả hốt nhiên đại
ngộ.
(Báo
Mỹ Phật Tuệ Tấn số 86)
Một
người đã thấy tánh thì không bị lợi hại uy hiếp, ảnh
hưởng đến kiến địa của mình mà phải do dự. Ung Chính
chỉ cho ông “chính là cái đó”. Triệt hành giả tham thiền
nhiều năm, hoặc giả cho rằng chỉ tiểu dân mới là “cái
đó” đột nhiên phát hiện Hoàng đế “cũng là cái đó”
do vậy đại ngộ. Vậy giơ nắm đấm lên là chỉ kiến tánh
ư? Hoàn toàn không phải vậy. Lịch sử không ghi chép Ung Chính
giác ngộ như thế nào? Nhưng ông quả là một vị đại tông
sư. Khi ông tthấy Triệt hành giả đối tự tánh hãy còn do
dự chưa quyết định tin hay không tin ở sự giơ nắm đấm
lên. Ung Chính giúp ông theo nước đẩy thuyền. Giơ nắm đấm
lên, giống như sấm nổ bên tai khiến nghi tình của Triệt
hành giả bị đánh tan., thấy được tự tánh. Hành giả hàng
ngày tu tâm phải làm sao không bị ngoại cảnh ảnh hưởng.
Nói thì dễ, nhưng làm thì sao đây? Chúng ta phải kiên nhẫn
dùng trí tuệ và từ bi hỷ xả đối diện nghịch cảnh mà
đào luyện tâm.
(Chu
Hữu Đường)
1420. Hai con quạ.
Một
lần Động Sơn đang rửa bát thấy 2 con quạ đang tranh nhau
ăn một con ếch. Một ông tăng cũng trông thấy hỏi:
-
Tại sao lại đến tình trạng này?
-
Chỉ lợi cho xà lê.
(Động
Sơn lục)
Câu
đáp của Động Sơn có nghĩa là ông tăng phải tự phản tỉnh.
1421. Người làm mặt nạ.
Một
hôm, Xá Lợi Phất gập một người bạn cũ trên đường.
Sau khi chào hỏi xong, rất kinh ngạc bảo:
-
Xin lỗi tôi nói thật, khí sắc ông sao xấu thế! Sắc mặt
hung dữ khó coi quá! Ông hãy bảo trọng!
Người
bạn này sau khi nghe lời khuyên của Xá Lợi Phất liền suy
nghĩ tại sao tướng mạo mình lại biến thành hung ác? Suy
đi tính lại cuối cùng đã hiều: thì ra hàng ngày mình
chế tạo các mặt nạ quỷ Dạ Xoa, La Sát, mặt xanh nanh vàng,
không ngừng nghĩ đến những khuôn mặt khó coi không ngờ
tướng mạo mình biến thành Dạ Xoa, La Sát. Thật đúng là
tướng do tâm sanh, đáng sợ thật. Từ nay ta không làm mặt
nạ Dạ Xoa, La Sát nữa mà sẽ điêu khắc các tượng Phật,
Bồ Tát, ông quán tưởng Phật, Bồ Tát từ bi, thân thiết
biết bao. Càng điêu khắc càng hoan hỉ, tướng mạo ông dần
dần thanh thản.
Một
hôm Xá Lợi Phất gập lại ông trên đường, không ngăn được
hỏi:
-
A! Tướng mạo ông làm sao lại biến thành từ bi, thanh thoát
như vậy?
Bạn
ông mỉm cười:
-
Hiện nay, hàng ngày tôi điêu khắc tượng chư Phật và Bồ
Tát đó!
(Báo
Phổ Môn số 238)
Do
đó, ta thấy tâm như một người nghệ sĩ có thể sáng tạo
mọi vật. Tướng mạo chúng ta là do tâm chúng ta vì mọi người có thể chính mình là người sáng tạo. Khi
tâm ta hoan hỉ từ bi tướng mạo ta sẽ thanh thản, khi chúng
ta giận dữ tướng mạo sẽ hung ác. Vậy chúng ta nên tịnh
hoá tâm linh để tâm trở thành thuần tịnh, thiện lương.
(Ma
Già)
1422. Bài kệ của Bố Đại hòa thượng.
我
有 一 布 袋
Ngã
hữu nhất bố đại
虛
空 無 障 礙
Hư
không vô chướng ngại
展
開 遍 十 方
Triển
khai biến thập phương
如
實 觀 自 在
Như
thật quán tự tại
Ta
có một túi vải
Hư
không chẳng quái ngại
Mở
ra khắp mười phương
Như
thật quán tự tại.
(Báo
Mỹ Phật tuệ tấn số 44)
Túi
vải chỉ tâm đã khai ngộ, đối ngoại mười phương không
chướng ngại, đối nội tất cả đều tự tại.
Mười
phương thế giới của chúng sinh đều ở trong tâm ta, tâm
ta và chúng sinh đồng tại, không đối lập.
(Thánh
Nghiêm)
1423. Đại ý Phật pháp.
Có
một lần, một ông tăng hỏi Bố Đại:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
Bố
Đại không nói một lời, bỏ túi vải xuống, khoanh tay đứng.
-
Chỉ là thế thôi hay còn đạo lý cao thâm nào nữa không?
Bố
Đại vẫn không nói một lời, lại khoác túi vải lên lưng
mà đi.
(Cao
tăng truyện)
Bỏ
túi vải xuống là chỉ khám phá thế tình bỏ xuống vạn
duyên (có thể xuất thế)
Khoanh
tay mà đứng: lấy con mắt lãnh đạm mà nhìn thế gian, giải
thoát tự tại.
Lại
khoác túi vải lên lưng: có thể nhấc lên (có thể nhập thế).
Không
nói một lời: ngôn ngữ không thể diễn tả được chân lý.
Hoạt
cảnh trên biểu thị không chấp tướng mới gánh vác được
gia nghiệp của Như Lai, ngay đó đảm trách bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tiến, bát nhã, thiền định (lục độ). Tự
độ rồi độ tha. Không một chuyện gì là không đảm đương,
cũng không chấp một tướng nào. Phàm phu có thể nhấc lên
được (chấp tướng) nhưng không bỏ xuống được. Tiểu
thừa bỏ xuống được (xuất thế) nhưng không nhấc lên được.
Đại thừa bồ tát bỏ xuống được (xuất thế) cũng nhấc
lên được (nhập thế) nhưng không chấp tướng. Bỏ xuống
là không (chân đế) nhấc lên là Hữu (tục đế). Không hữu
viên dung, chân tục bất nhị đó là Trung đạo đệ nhất
nghĩa đế, không lời nào có thể diễn tả được cho nên
Bố Đại không nói.
Câu
đại ý Phật pháp:
Mọi
điều ác không làm: là bỏ xuống.
Mọi
điều thiện đều làm: là nhấc lên.
Ý
tự thanh tịnh: là không chấp tướng.
Đó
là lời dạy của chư Phật.
(Hùng
Uyển )
1424. Trên đường gập mãnh hổ.
Một
ông tăng hỏi Thiệu Hóa:
-
Trên đường gập mãnh hổ, phải làm sao?
-
Ngàn vạn người chẳng gập sao lại nhè nhà ngươi mà gập?
(Công
án thiền cơ)
Câu
hỏi của ông tăng có nghĩa là hành giả khi gập duyên ứng
duyên thì phải làm thế nào?
Ngàn
vạn người là chỉ những người có tu, có chứng, tâm đã
thanh tịnh thì gập hay không gập mãnh hổ cũng không thành
vấn đề. Vì tâm ngươi còn ô nhiễm, còn phân biệt nên mới
bị phiền não.
Mãnh
hổ ở đây chỉ nghịch cảnh.
Tâm
ông tăng chưa thanh tịnh, còn phân biệt nên mới thấy hổ
là mãnh thú và thấy sợ hãi bị ăn thịt. Nếu tâm ông tăng
thanh tịnh thì ông không thấy hổ là mãnh hổ, nếu hổ là
chủ nợ của một kiếp quá khứ thì dù mất sinh mạng cũng
phải trả; còn không thì chẳng hề hấn gì?
Thí
dụ Hỏa Bảo Long rất hung dữ, Đức Phật lấy lòng từ bi
nhập từ bi tam muội đã chiết phục được nó.
1425. Đến tăng đường.
Động
Sơn thượng đường bảo đại chúng:
-
Có một người ở trong đám ngàn vạn người, không xoay lưng
hoặc đối diện với một người nào, các ngươi nói mặt
mũi hắn thế nào?
Vân
Cư bước ra thưa:
-
Hiện giờ con muốn đến tăng đường.
(Động Sơn lục)
Câu
của Động Sơn có nghĩa là phải siêu việt trước, sau.
Vân
Cư nói là muốn đến tăng đường nhưng thực ra là không
đến tăng đường.
Hai
thầy trò đồng ý: tự tánh không lệ thuộc vào không gian.
1426. Hỏi, đáp không đúng cách.
Một
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Thế nào là hỏi, đáp đúng cách?
-
Không từ miệng ra.
-
Nếu có người hỏi, thầy có đáp không?
-
Cho tới giờ chưa có người hỏi ta .
(Động
Sơn lục)
Câu
của Động Sơn có nghĩa là dùng không lời mà hỏi.
1427. Thuyết pháp.
Một
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Từ khi thầy xuất gia, thuyết pháp có bao người tin phục.
-
Không một người tin phục.
-
Tại sao không ai tin phục thầy?
-
Vì mọi người đều có kiến thức của bậc vương giả.
(Động
Sơn lục)
Thuyết
pháp giống như trị bệnh. Trên thế gian này không có một
thứ tiên dược nào có thể trị bách bệnh, có khi bệnh tự
lành.
1428. Vì con mắc bệnh.
Một
hôm khi chư tăng đều ra ngoài phổ thỉnh (lao tác), Động
Sơn đi một vòng kiểm soát thấy một ông tăng còn ở tăng
đường bèn hỏi:
-
Sao ngươi không đi phổ thỉnh?
-
Con mắc bệnh.
-
Khi ngươi mạnh, có đi không?
(Động
Sơn lục)
Phổ
thỉnh
không hạn chế ở việc làm ruộng. Ý của Động Sơn là không
phải khi mạnh khỏe mới tu, vì người tu phải vượt lên
các cảnh giới sinh, lão, bệnh, tử.
1429. Tự tại.
Một
ông tăng hỏi Tuệ Tông:
-
Phía trước là vực thẳm vạn trượng, phía sau là hổ báo,
sài lang, chính lúc đó phải làm sao?
-
Tự tại!
(Công
án thiền cơ)
Câu
hỏi của ông tăng có ý là một người đã tu tập không,
vô tướng, vô nguyện tam muội được chân chính giải thoát
tri kiến là đã khai ngộ. Lúc đó linh tri, linh giác của tâm
hành giả chiêu cảm nhiều nghiệp duyên tới khiến thân không
tự chủ được còn tâm thì hoang loạn bất định. Trong khốn
cảnh đó làm sao mở con đường máu để ra?
Tuệ
Tông bảo ông trong quá trình tu tập khi chủng chủng nghiệp
duyên tới, hành giả đối cảnh loạn tưởng là do tập khí
còn chưa dứt tận. Hành giả phải lấy tâm không mà đối
diện với cảnh. Cảnh thuận không chạy theo nắm giữ, cảnh
nghịch không lẩn trốn. Tâm không khởi một niệm thì sẽ
an nhiên tự tại. Điều kiện tiên quyết để tự tại là
buông bỏ mọi chấp trước (Xem các công án 1, 461).
1430. Phàm trần tục niệm.
Viện
chủ đi thăm Thạch Thất trở về. Vân Nham hỏi:
-
Ngươi đã đến Thạch Thất sao lại trở về tay không?
Viện
chủ không trả lời được. Động Sơn đáp thay:
-
Vì trong đó đã có người ở rồi.
-
Vậy ngươi còn đến Thạch Thất làm gì?
-
Không thể vì chặt đứt phàm trần tục niệm mà không đi.
(Động
Sơn lục)
Chữ
Thạch Thất ở đây là một song quan ngữ (có 2 nghĩa) Một
là chỉ thiền sư Thạch Thất, một là chỉ động đá. Ở
Du Huyện, Đàm Châu (tỉnh Hồ Nam ngày nay) có vô số thạch
động. Những người sống trong các thạch động đều là
các vị tu hành lánh xa trần thế, sống tự do. Ý của Động
Sơn là chấp vào xa lánh trần thế cũng là mất tự do rồi.
1431. Tất cả đều do tâm.
1-
Đại sư Cưu Ma La Thập lúc lên bẩy, đến chùa chơi, thấy
1 quả chuông lớn đặt trên đất, bèn nhấc lên. Khi đặt
chuông xuống thầm nghĩ “Ta mới có 7 tuổi, làm sao lại có
sức mạnh như thế này? Lại thử nhấc chuông lên thì không
sao nhấc lên được nữa.
2-
Cổ thư có chép Lý Quảng đời Hán khi đi đánh trận thấy
trong đám bụi rậm bên đường có một con hổ bèn trương
cung bắn. Mũi tên liền xuyên qua con hổ. Ông xuống ngựa xem
thì ra không phải là con hổ mà là một tảng đá. Ông tự
nhủ:”Ta mạnh như thế sao?” Bèn giơ cung bắn một phát
nữa, nhưng tên không cắm vào đá được, nói gì đến xuyên
qua!
(Tĩnh
Không thuyết cố sự)
Hai
truyện trên chứng minh rằng người ta khi không có vọng niệm
thì bản năng có năng lực vô hạn định. “Nhất thiết duy
tâm tạo” là chỉ đạo lý này.
1432. Đại Trí.
Đại
Trí từ nhỏ đã rất hứng thú với các nghi thức Phật giáo.
Một hôm thưa với bố mẹ:
-
Con muốn xuất gia, độ cha mẹ tới bờ bên kia.
Cha
ông vui vẻ:
-
Con định tu chùa nào?
-
Chùa Đại Từ.
Lúc
đó ông mới bẩy tuổi, tục danh là Vạn Thập. Cha ông dẫn
ông đến gập thiền sư Nghĩa Doãn. Nghĩa Doãn nhận thấy
đứa nhỏ này là một bậc tài trí bèn nói:
-
Hoanh nghinh, hoan nghinh!
Và
lấy một cái bánh bao trên bàn đưa cho, tự mình cũng lấy
một cái vừa ăn, vừa hỏi:
-
Ngươi tên chi?
-
Con tên Vạn Thập.
Trong
tiếng Nhật vạn thập đồng âm bới bánh bao. Do đấy Nghĩa
Doãn cười bảo:
-
Bánh bao ăn bánh bao là sao?
-
Giống như rắn lớn nuốt rắn nhỏ.
-
Ngươi rất thông minh, nếu xuất gia ta sẽ đặt tên là Tiểu
Trí.
Vạn
Thập không trả lời chỉ lắc đầu. Nghĩas Doãn hỏi:
-
Sao ngươi không nói:
-
Tiểu Trí làm trở ngại Bồ Đề, xin thầy ban danh Đại Trí.
Nghĩa
Doãn rất khâm phục Vạn Thập còn nhỏ mà ứng đối được
như vậy bèn xuống tóc cho Vạn Thập, lưu giữ bên mình để
dạy dỗ. Năm năm sau Nghĩa Doãn viên tịch, Đại Trí quyết
định vân du các nơi để tham học. Bẩy năm sau ông vượt
biển tới Trung Hoa, thăm các danh lam thắng cảnh và tìm học
các vị danh tăng. Tài trí ông khiến mọi người ca ngợi.
Đại Trí ở Trung Quốc không tìm được điều ông mong muốn;
ông có viết một bài kệ tặng các ông tăng Nhật Bản tới
Trung Quốc du học:
冷
暖 分 明 只 自 知
Lãnh
noãn phân minh chỉ tự tri
男
兒 豈 可 欺 人 哉
Nam
nhi khởi khả khi nhân tai
以
日 本 眞 金 之 貴
Dĩ
nhật bản chân kim chi quý
博
易 大 唐 鍮 子 歸
Bác
dịch đại đường thâu tử quy
Nóng
lạnh mình tự biết
Nam
nhi há lừa ai
Đem
vàng thật đất nước
Đổi
về thau của người.
Ý tưởng là cái mà mình định tìm kiếm kỳ thực là ở trong
tâm mình.
Ông
trở về nước, đến tham Doanh Sơn, Doanh Sơn hỏi:
-
Khi đứa con trở về bên cha thì sao?
-
Gương cổ chiếu gương cổ, không cần ánh sáng nào khác.
Đại
Trí tu học với Doanh Sơn, sau cùng được khai ngộ.
(Thiền
Tông dật sự)
Đối
thoại của hai thầy trò có nghĩa là khi thầy và trò tương
chiếu thì không phải là thầy chiếu trò hay trò chiếu thầy
mà là ánh sáng giác ngộ của thầy trò hợp thành một thể
phát sáng. Phật giáo do đó mà có truyền thừa.
1433. Người không bệnh.
Động
Sơn bị bệnh, một ông tăng hỏi:
-
Còn có người không bị bệnh không?
-
Có.
-
Người không bị bệnh ấy có đến thăm sư phụ không?
-
Lão tăng có phận thăm hắn.
-
Không biết sư phụ thăm hắn làm sao?
-
Khi thăm không thấy có bệnh.
Động
Sơn hỏi ngược lại:
-
Khi ngươi mất rồi gập ta ở đâu?
Ông
tăng không đáp được, Động Sơn đọc cho bài kệ:
學
者 恒 沙 無 一 悟
Học
giả hằng sa vô nhất ngộ
過
在 尋 他 舌 頭 路
Quá
tại tầm tha thiệt đầu lộ
欲
得 忘 形 泯 蹤 跡
Dục
đắc vong hình mẫn tung tích
努
力 殷 懃 空 裏 步
Nỗ
lực ân cần không lý bộ
Nhiều
trò không một ngộ
Theo
ngoài chẳng tìm trong
Muốn
vong hình sạch vết
Thành
khẩn bước trong không.
(Động
Sơn lục)
Người
không bệnh chỉ tự tánh (xem công án 649)
Ý
nói sắc thân có bệnh có thể thấy, biết. Pháp thân không
bệnh không thể thấy, biết.
(Tinh
Vân)
1434.
Ta có một câu nói.
Dược
Sơn thượng đường bảo đại chúng:
-
Ta có một câu chưa nói cho người!
Đạo
Ngô thưa:
-
Thầy đã tiết lộ rồi.
Về
sau có ông tăng hỏi Dược Sơn:
-
Làm sao nói “một câu”?
Dược
Sơn đáp:
-
Không dùng lời.
Đạo
Ngô nói:
-
Sớm đã nói rồi.
(Thiền
Tông đích lịch sử dữ văn hóa)
“Một
câu” của Dược Sơn chỉ cái biết “không biết” hoặc
“không thể biết” là cứu cánh thật tướng, không phân
biệt, không cách nào hình dung được. Không thể nói nó là
cái này hoặc cái kia; là thiện hoặc ác; là thị hoặc phi.
Nói ra là phủ định nó. Khi Dược Sơn mở mồm nói ra, bất
luận là khẳng định hoặc phủ định “một câu” của
ông đã không tồn tại rồi. Đạo Ngô nhận xét sư phụ đã
mâu thuẫn rồi, nhưng nhân loại không thể tránh được mâu
thuẫn này.
1435. Thể lộ chân thường.
Đại
Đăng (một thiền sư Nhật Bản) một hôm ngồi thiền một
mình ở tăng đường, bỗng nghe tiếng người ở bên kia vách
đọc câu nói của thiền sư Bách Trượng:
-
Linh quang độc chiếu, hồi thoát căn trần, thể lộ chân thường,
không chấp văn tự, tâm tánh bất thành, bản thân thành, lìa
vọng duyên tức như, như Phật vậy. Ông hoát nhiên tỉnh ngộ
bèn hướng sư phụ là Cao Phong trình kiến giải và được
sư phụ chấp nhận.
(Hiện
đại thiền nhập môn)
“Thể”
trong câu “thể lộ chân thường” chỉ thế giới khách quan
tự nhiên toàn thể. Khi tự mình biến thành “không” thì
“thể” biến thành chính mình.
1436. Đã từng gập qua.
Động
Sơn đến tham Nam Nguyên, vào pháp đường Nam Nguyên bảo:
-
Đã từng gập qua.
Động
Sơn bỏ đi, hôm sau lại tới, hỏi:
-
Hôm qua mông ơn hòa thượng từ bi chỉ thị, nhưng không biết
hòa thượng và con gập nhau ở đâu?
-
Tâm tâm không gián đoạn, đều chẩy vào bể tánh.
-
Con cơ hồ lỡ cơ hội tốt này.
(Động
Sơn lục)
Câu
của Nam nguyên có nghĩa là tâm ngươi và chân tâm không khác.
1437. Không bỏ một ai.
Động
Sơn đến từ biệt Nam Nguyên, Nam Nguyên nói:
-
Học nhiều Phật pháp, quảng thí ân trạch.
-
Con không hỏi học nhiều Phật pháp, chỉ hỏi thế nào là
quảng thí ân trạch?
-
Không bỏ một ai.
(Động
Sơn lục)
Ý
của Nam Nguyên là khi có người học đặt câu hỏi phải hết
sức trả lời.
1438. Theo tánh chìm nổi.
Một
ông tăng hỏi Phong Huyệt Diên Chiểu:
-
Khi theo tánh chìm nổi thì thế nào?
-
Dẫn trâu vào chuồng!
(Công
án thiền cơ)
Câu
hỏi của ông tăng có nghĩa là: Khi khai ngộ vì tập khí hãy
còn; nếu tâm tùy duyên ứng duyên, theo cảnh mà chìm nổi
thì phải làm sao?
Diên
Chiểu bảo phải dẫn trâu vào chuồng. Trâu chỉ Thể của
tự tánh. Trâu không chịu vào chuồng, muốn ở ngoài rong chơi
là còn dã tánh (tập khí, vọng tưởng) phải điều phục
nó. Bằng cách nào? Trước dùng giác để nhận biết tập
khí, vọng tưởng, sau dùng quán để loại trừ chúng. Tập
khí và vọng tưởng đã trừ rồi thì trâu sẽ ngoan ngoãn
vào chuồng.
1439. Ý Tây sang.
Vân
Cư hỏi Động Sơn:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Sau này, xà lê có mái tranh che đầu, bỗng có người hỏi
như vậy, thì trả lời sao?
-
Con thực sai rồi!
(Động
Sơn lục)
Ý
của Động Sơn là nếu sau này ngươi không là viện chủ một
tự viện lớn, chỉ là một am chủ ở một làng nhỏ. Ngươi
không hỏi người mà bị người hỏi, ngươi có nghĩ đến
chuyện này không? Bồ Đề Đạt Ma từ Tây phương xa xôi ngàn
dặm đến Trung Thổ chỉ để thuyết giảng chân lý cho người,
nhưng cái chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời mà
diễn tả ra, nên ta nói không được.
1440. Trong cảnh khổ, không khổ.
Đời
Đường có một vị thiền sư sống một mình trên núi. Vì
không có dao kéo để hớt tóc nên đầu tóc bù xù, không có
nhiều nước để tắm rửa, giặt giũ nên người ngợm cáu
ghét, quần áo dơ bẩn. Có người gập mặt hỏi:
-
Thiền sư, thầy việc gì phải tự làm khổ mình vậy?
-
Ngươi thấy ta đầu tóc rối bù, nhưng phiền não ta đã đoạn
tuyệt. Ngươi thấy ta bẩn thỉu, nhưng thân tâm ta đã thanh
tịnh rồi. Ngươi thấy ta quần áo ty tiện, nhưng ta đã sớm
khoác pháp y vô thượng để trang nghiêm sinh mạng rồi.
(Thanh
tịnh lưu ly)
Trong
sinh hoạt tuy thiếu thốn vật chất nhưng người ngộ thiền
không thấy khổ não. Ở nơi khổ không thấy khổ; ở nơi
vui không thấy vui, vì người ngộ đạo đã thấy được tính
chất hư vọng của vui, khổ. Do vậy, dù ở đâu, lúc nào
cũng tiêu dao, tự tại.
1441. Thủy táng.
Đời
Tống, thiền sư Tánh Không rất hâm mộ cách thủy táng của
Thuyền Tử. Ông có làm một đoản khúc để ca ngợi:
船
子 當 年 返 故 鄕
Thuyền
Tử đương niên phản cố hương
沒
踪 跡 處 好 商 量
Một
tung tích xứ hảo thương lượng
真
風 遍 寄 知 音 者
Chân
phong biến ký tri âm giả
鐵
笛 橫 吹 作 教 坊
Thiết
địch hoành xuy tác giáo phường
Theo
làn gió gởi bạn bốn phương
Vi
vu tiếng sáo để làm gương
Chẳng
còn vết tích nào để lại
Thuyền
Tử năm đó về cố hương.
Khi muốn nhập diệt ông bước lên một cái thuyền thúng có đục lỗ ở đáy; ngồi trên thuyền thổi sáo chờ nước tràn vào nhận chìm cả người và thuyền. ông có để lại bài kệ:
坐
脫 立 亡
Tọa
thoát lập vong
不
若 水 葬
Bất
nhược thủy táng
一
省 柴 火
Nhất
tỉnh sài hỏa
二
省 開 壙
Nhị
tỉnh khai khoáng
撤
手 便 行
Triệt
thủ tiện hành
不
妨 快 暢
Bất
phương khoái sướng
誰
是 知 音
Thùy
thị tri âm
船
子 和 尙
Thuyền
Tử hòa thượng
Tọa
thoát lập vong
Gì
bằng thủy táng
Củi
lửa không dùng
Bớt
được khai khoáng (đào huyệt)
Đi
chẳng bận tâm
Không
ngại khoái sướng
Ai
kẻ tri âm?
Thuyền
Tử hòa thượng!
(Thanh
tịnh lưu ly)
1442. Bài kệ của Liên Trì đại sư.
Một
hôm, một ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Thời mạt kiếp cái đó còn không?
-
Hoại.
-
Cái đó bị hoại vậy chúng ta cũng theo nó sao?
-
Theo nó đi.
Theo
Phật giáo, thế giới của chúng ta cũng phải tuân theo định
luật thành, trụ, hoại, không. Tới thời mạt kiếp, thế
giới hoại còn tự tánh thì sao? Ông tăng thắc mắc, Triệu
Châu trả lời rồi cũng không chắc là mình đúng hay không,
trong lòng bất an nên đi tứ xứ để tham cứu vì vậy mới
có câu “Nhất cú tùy tha khứ, thiên sơn tẩu nạp tăng”
(chỉ vì một câu theo nó đi, mà nạp tăng phải đi tham phỏng
khắp nơi). Bích Nham Lục lại gán cho Đại Từ (xem công án
(162).
Đến
triều Minh, Liên Trì đại sư đọc công án này viết bài thi
như sau:
趙
州 八 十 猶 行 腳
Triệu
Châu bát thập do hành cước
祇
爲 心 頭 未 消 然
Chi
vi tâm đầu vị tiêu nhiên
及
至 歸 來 無 一 事
Cập
chí quy lai vô nhất sự
始
知 空 費 草 鞋 錢
Thủy
tri không phí thảo hài tiền
Triệu
Châu tám chục còn vân du
Chỉ
vì một niệm vẫn chưa rõ
Đến
khi trở lại không được gì
Mới
biết phí tiền mua dép cỏ.
(Thanh
tịnh lưu ly)
Bài
thơ diễn tả tình cảnh lúc đó Triệu Châu đã 80 tuổi, trong
lòng còn một vấn đề chưa rõ; không quản ngại đường
xá diệu vợi, cố tìm cho được đáp án. Trải nhiều năm,
trở về không tìm được điều mình muốn tìm, mới biết
bôn ba tìm kiếm bên ngoài chỉ là vô ích. Ý của bài thi này
là gì? Đó là nói về Đạo. Đạo không ở bên ngoài mà tại
tâm chúng ta. Nếu chúng ta, tâm trí mê man cũng như Triệu Châu
tứ xứ tìm cầu chỉ là phí thời gian. Trong thiền học phải
trải qua 3 giai đoạn: khám phá, phóng hạ, tự tại.
1443. Bài kệ của Đàm Châu Long Sơn.
三
間 茅 屋 從 來 往
Tam
gian mao ốc tòng lai vãng
一
道 神 光 萬 境 閑
Nhất
đạo thần quang vạn cảnh nhàn
莫
作 是 非 來 辨 我
Mạc
tác thị phi lai biện ngã
浮
世 穿 鑿 不 相 關
Phù
sinh xuyên tạc bất tương quan
Nhà
tranh lui tới có ba gian
Một
đạo thần quang vạn cảnh nhàn
Chớ
đem thị phi làm rộn mỗ
Phù
sinh xuyên tạc chẳng tương quan.
(Thanh
tịnh lưu ly)
Bài
kệ mô tả người ngộ đạo siêu nhiên vật ngoại. Tuy rằng
sống trong căn nhà tranh nhỏ bé, ăn mặc thô sơ nhưng nếu
biết dùng trí tuệ quán chiếu công danh lợi lộc, thiện ác
thị phi: tất cả đều là giả tạm, hư vọng thì tâm được
an định. Lúc đó nhà tranh biến thành lâu đài, vật thực
tầm thường trở thành cao lương, mỹ vị, vì tâm đã khế
hợp với đạo. Những chuyện tranh danh đoạt lợi chẳng còn
ảnh hưởng gì đối với người tu nữa. Con người sống
trong trần thế có 2 thái độ: một là túng dục, chỉ lo hưởng
thụ, hai là cấm dục coi dục vọng như rắn độc. Cả 2 thái
độ cực đoan này người tu đều không theo mà theo con đường
trung đạo là tiết dục.
1444. Bài kệ của Bàng bà.
Sau
khi chôn cất mọi người trong gia đình (xem công án 279), Bàng
phu nhân có lưu lại một bài kệ. Hành trạng của bà sau này
ra sao thì không ai biết.
坐
臥 立 化 未 爲 奇
Tọa
ngọa lập hóa vị vi kỳ
不
及 龐 婆 撤 手 歸
Bất
cập Bàng bà triệt thủ quy
雙
手 撥 開 無 縫 石
Song
thủ bát khai vô phùng thạch
不
留 踪 跡 與 人 知
Bất
lưu tung tích dữ nhân tri
Ngồi,
đứng, nằm, đi chẳng mấy kỳ!
Đâu
bằng bà Uẩn ruỗi tay đi
Hai
tay dang rộng không chạm đá
Tung
tích tuyệt không để lại gì.
(Thanh
tịnh lưu ly)
1445. Con không có mồm.
Một
ông tăng hỏi Lỗ Tổ:
-
Làm sao nói mà không dùng lời?
-
Mồm ngươi ở đâu?
-
Con không có mồm.
-
Vậy lấy gì ăn cơm?
Ông
tăng không trả lời được, Động Sơn trả lời thay:
-
Hắn no rồi, còn ăn cơm cái gì?
(Động
Sơn lục)
Ông
tăng hỏi ý Lão Tử khi nói “bất ngôn chi giáo”. Lỗ Tổ
hỏi ngược lại “mồm ngươi ở đâu?” là hỏi nói hay
không nói. Câu của Động Sơn có nghĩa là hắn đã thông suốt
Phật pháp rồi, không còn nghi vấn gì nữa. (xem thêm công
án 633)
1446. Đi.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Thế nào là đạo?
-
Đi.
(Nhất
vị thiền: Quyển Nguyệt)
Ý
của Vân Môn là ngươi cứ đi làm mọi việc cho tốt, nhưng
đừng chấp vào phương pháp và kết quả.
(John
C.H. Wu)
1447. Chuyện chưa rõ.
Một
ông tăng hỏi Dược Sơn:
-
Con có chuyện chưa rõ, thỉnh thầy chỉ thị.
Dược
Sơn im lặng một lát rồi bảo:
-
Nay ta bảo cho ngươi một lời không khó, nhưng khi ta nói rồi
ngươi phải thấy ngay, nếu ngươi suy nghĩ thì là lỗi của
ta.
(Thiền
tông lịch sử dữ văn hóa)
“Một
lời” ở đây chỉ kinh nghiệm nội chứng, không dùng lời
mà diễn tả được. Tại sao? Vì ngôn ngữ chỉ là phù hiệu
không phải là bản thân sự vật, chỉ là phương tiện để
truyền thông mà thôi. Các thiền sư chỉ dùng ngôn ngữ để
gợi dậy kinh nghiệm nội tại của người học.
1448. Truyền đăng.
Một
hôm Huệ Khả bạch với tổ Đạt Ma:
-
Con đã bặt hết mọi duyên rồi.
-
Ngươi không đoạn diệt chứ?
-
Không đoạn diệt.
-
Lấy gì làm chứng.
-
Con luôn tỉnh thức, không thể dùng lời mà nói được.
-
Đó là sự truyền tâm của chư Phật, đừng nghi ngờ gì cả.
(Zen
light)
Câu
nói của Huệ Khả “con luôn tỉnh thức” chỉ rằng tâm
ông luôn ở đây và bây giờ: nội tâm luôn thắp sáng. Lúc
đó không có sự phân cách giữa chủ thể và đối tượng.
Không có người truyền pháp và người nhận pháp, không có
lời dạy (đăng) và không có sự giảng dạy (truyền đăng),
chỉ có ánh sáng.
1449. Mười sự khai thị.
Có
học tăng hỏi Tịch Thất:
-
Xin hỏi sư phụ, trong thiền môn phải có những điều kiện
gì để có thể vào thiền đạo?
-
Trong hang sư tử không có thú khác, đường voi đi không dấu
vết hồ ly.
-
Tham thiền và không tham thiền bất đồng như thế nào?
-
Đường sinh tử ngươi tự coi, người sống ở trong người
chết.
-
Học thiền có ích gì?
-
Đừng hiềm nhạt không có vị, ăn no rồi tiêu vạn kiếp
tai nạn.
Học
tăng nghe rồi tham thiền khởi lòng đại tín. Một hôm dẫn
khoảng 10 người quỳ xin Tịch Thất chỉ thị tham thiền pháp
yếu. Thiền sư thấy đại chúng thành tâm bèn khai thị:
-
Người học thiền nên chú ý 10 sự sau:
1-
Nên biết sinh tử là việc lớn, vô thường đến mau, không
thể đánh mất chánh niệm.
2-
Trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi kiềm thúc thân tâm, không
phạm luật nghi.
3-
Không chấp, không kiến, không khoe mình, tinh tiến dũng cảm,
không đọa tà đạo.
4-
Nhiếp 6 căn, chánh niệm, im hay nói lìa xa vọng tưởng.
5-
Nhiệt tâm cầu đạo, linh minh bất muội giáo hóa chư ma.
6-
Bỏ ngủ quên ăn, đứng trên vách cao vạn trượng, thẳng
lưng tiến bước.
7-
Nghiên cứu ý Tây lai, người niệm Phật là ai, cái gì là
bản lai diện mục?
8-
Tham thoại đầu công phu miên mật, không cầu chứng thành.
9-
Tâm an ổn, dù trải vạn kiếp cũng không nhị tâm.
10-
Đại tâm không lùi bước, thấu suốt Bồ Đề, nêu cao Phật
đạo.
10
đại sự trên các ngươi có hiểu không?
Chư
tăng nghe rồi hoan hỉ, không ai không thệ nguyện phụng hành.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Mười
điều khai thị của Tịch Thất hà chỉ dùng cho Thiền tông
sao? Bất cứ pháp môn nào cũng đều nên như thế.
1450. Ba lần bị đánh.
Lâm
Tế họ Hình tên Nghĩa Huyền, người Nam Hoa, Tào Châu, từ
nhỏ thông minh hơn người. Khi xuống tóc, thọ giới cụ túc,
rất ham mộ Thiền tông. Theo học Hoàng Bá 3 năm, công phu cực
thuần khiết.
Thủ
tọa nói:
-
Tuy là hậu sinh, cùng chúng chẳng đồng.
Lại
hỏi:
-
Ngươi ở đây bao lâu rồi?
-
Ba năm rồi!
-
Đã tham vấn chưa?
-
Chưa, cũng chẳng biết hỏi gì?
-
Sao ngươi không hỏi đại ý của Phật pháp là gì?
Lâm
tế bèn đi hỏi, hỏi chưa dứt câu Hoàng Bá đã đánh. Khi
trở lại Thủ tọa hỏi:
-
Tham vấn thế nào?
-
Hỏi chưa dứt lời, hòa thượng đã đánh, đệ tử không
hiểu ý thế nào!
-
Ngươi đi hòi nữa đi!
Lâm
Tế lại đi hỏi, Hoàng Bá lại đánh. Như thế ba lần hỏi,
ba lần bị đánh. Lâm Tế đến thưa với Thủ tọa:
-
Nhờ lòng từ bi của thượng tọa, đệ tử ba lần đi hỏi,
3 lần đều bị đánh, tự hận chướng duyên, không lãnh hội
được ý sâu của hòa thượng, nay đến từ biệt để đi.
-
Trước khi ngươi đi, hãy đến giã từ hòa thượng.
Lâm
Tế vái lạy mà lui. Thủ tọa bèn đến chỗ Hoàng Bá bạch
rằng:
-
Ông sư trẻ đến thỉnh giáo hòa thượng là một vị rất
có căn cơ; khi hắn đến từ biệt xin sư phụ chỉ dạy, sau
này hắn sẽ là một cây lớn, cấp bóng mát cho nhiều người.
Sư
đến từ biệt, Hoàng Bá bảo:
-
Ngươi chẳng cần đi đến nơi nào khác, chỉ cần tới Cao
An chỗ ở của Đại Ngu hắn sẽ giảng cho ngươi.
Sư
đến Đại ngu, Đại Ngu hỏi:
-
Từ đâu đến?
-
Từ Hoàng Bá.
-
Hoàng Bá có câu gì chỉ dạy?
-
Đệ tử 3 lần hỏi đại ý của Phật pháp là gì, cả 3 lần
đều bị đánh, không biết có lỗi gì?
-
Hoàng Bá thật là lão bà tâm thiết, mệt sức vì huấn luyện
ngươi mà ngươi còn đến đây hỏi có lỗi hay không?
Nghe
lời nói đó Lâm tế bỗng nhiên đại ngộ :
-
Nguyên lai, thiền pháp của Hoàng Bá chỉ đơn giản như vậy.
Đại
Ngu nắm lấy sư hỏi:
-
Tên tiểu quỷ đái dầm này, lúc đến còn hỏi có lỗi, không
lỗi, nay lại nói thiền pháp của Hoàng Bá chỉ đơn giản
như vậy! ngươi thấy được đạo lý gì, nói mau! nói mau!
Sư
đấm vào sườn Đại Ngu 3 đấm. Đại Ngu đẩy sư ra:
-
Thầy ngươi là Hoàng Bá, không can dự gì đến ta.
Sư
từ biệt Đại Ngu, trở lại Hoàng Bá. Hoàng Bá thấy sư đến
bèn hỏi:
-
Cái gã này đến đến, đi đi, bao giờ mới xong?
-
Chỉ vì thầy là lão bà tâm thiết.
Chào
hỏi xong bèn đứng hầu một bên. Hoàng Bá hỏi:
-
Ngươi đi đâu?
-
Theo lời khuyên từ bi của thầy, con đến tham Đại Ngu.
-
Đại Ngu nói sao?
Sư
kể lại đầu đuôi, Hoàng Bá bảo:
-
Ta mà gập, thì sẽ cho hắn một trận.
-
Việc gì phải đợi, cho ngay bây giờ.
Sư
đánh Hoàng Bá một chưởng.
-
Gã điên này dám đến đây mà nhổ râu cọp.
Sư
hét lên, Hoàng Bá gọi:
-
Thị giả! dẫn gã điên khùng này vào tham đường, mau!
Về
sau Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
-
Lâm Tế được Đại Ngu dạy hay được Hoàng Bá dạy?
-
Lâm tế không những cưỡi đầu cọp mà còn nắm đuôi cọp
nữa.
(Lâm
Tế lục)
Lúc
học với Hoàng Bá, Lâm tế công phu rất thuần khiết, nghĩa
là giữ giới luật rất nghiêm về thân, khẩu, ý. Do đó tâm
đã không còn vướng mắc vào 18 giới, sẵn sáng để giác
ngộ. Hoàng Bá 3 lần đánh Lâm tế để thúc đẩy sự giác
ngộ đó, nhưng thất bại. Lâm tế đã ở vào trạng thái
chín mùi “gậy trúc trăm trượng chỉ cần thêm một bước
nữa”. Hoàng Bá đánh Lâm Tế ngụ ý: chân lý tuyệt đối
không thể dùng lời mà diễn tả được và cái chân lý đó
ngươi phải hướng vào trong mà tìm chứ không thể tìm ở
phòng phương trượng.
Đánh
mắng vốn là hành vi thô lỗ. Nhưng các vị thiền sư dùng
để truyền đạt, thậm chí còn nói phương thức này là lão
bà tâm thiết. Đánh lại thầy, thầy không những không nổi
giận còn chấp nhận, đó là sự hồi báo ân tình. Theo cái
nhìn thế tục thì đó là “yêu cho roi, cho vọt” của bà
mẹ hiền. Thiền giả đã siêu việt hình tượng nên đó là
sự biểu lộ thiền tâm.
(Tinh
Vân)
1451. Động Sơn tham Bách Nham.
Động
Sơn cùng Mật sư bá (đệ tử Vân Nham) đến tham Bách Nham
(đệ tử Dược Sơn). Bách Nham hỏi:
-
Từ đâu tới?
-
Hồ Nam.
-
Quan sát sứ họ gì?
-
Không biết họ.
-
Tên gì?
-
Không biết tên.
-
Còn tại chức không?
-
Còn.
-
Còn đi tuần tra không?
-
Không.
-
Tại sao không?
Sư
phất tay áo đi ra. Sáng sớm hôm sau Bách Nham thượng đường
kêu 2 người lại:
-
Hôm qua lão tăng đối xà lê ngữ chẳng đầu cơ, cả đêm
không an. Giờ thỉnh xà lê hạ một chuyển ngữ, nếu hợp
ý thì lão tăng xin mời các vị dùng cháo và cùng qua hạ.
-
Thỉnh hòa thượng hỏi.
-
Sao
không tuần tra?
-
Vì quá cao quý.
Bách
Nham bèn mời 2 người dùng cháo và cùng kết hạ.
(Động
Sơn lục)
Quan
sát sứ là 1 viên quan do Trung ương ủy quyền đi tuần tra
các địa phương; ở đây dùng để chỉ sự xuất nhập của
pháp thân.
1452. Duy Ma cật và Phó Đại Sĩ.
Lâm
Tế thượng đường nói:
-
Một người ở trên đỉnh núi không có đường đi; một người
ở ngã mười đường không biết đi về hướng nào? Ai ở
trước? Ai ở sau? Không làm Duy Ma Cật, không làm Phó Đại
Sĩ. Các ngươi đứng đã lâu rồi, hãy bảo trọng.
(Lâm
Tế lục)
Người
trên đỉnh núi chỉ người tu hành, dứt bỏ mọi ràng buộc
với thế gian. Người ở ngã mười đường chỉ bậc Bồ
Tát ở cõi ta bà. Duy Ma Cật còn gọi là Tịnh Danh cư sĩ là
cư sĩ Ấn Độ ưa sống ẩn dật. Phó Đại Sĩ còn gọi là
Thiện Huệ đại sĩ, vốn tên Truyền Ông là cư sĩ Trung Hoa
thời Nam Bắc Triều nổi tiếng về những hoạt động Phật
sự. Câu nói của Lâm Tế là muốn dung hoà 2 cách sống.
(Paul
Demiéville)
1453. Ông tăng do dự.
Một
ông tăng hỏi Lâm Tế:
-
Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Thiền
sư hét lên, ông tăng bèn lạy. Thiền sư bảo:
-
Ông tăng này có thể nói chuyện được đây.
Một
ông tăng khác hỏi:
-
Sư xướng gia khúc tông phong nào?
-
Ta ở nơi Hoàng Bá 3 lần hỏi Phật pháp, 3 lần bị đánh.
Ông
tăng do dự. Sư bèn hét, sau đó vừa đánh vừa nói:
-
Chẳng lẽ đóng đinh vào hư không hay sao?
(Lâm
Tế lục)
Ông
tăng do dự chứng tỏ còn suy nghĩ, không tự tin. Câu trả
lời phải ngay tức khắc. Câu nói của Lâm Tế có nghĩa là
tất cả đều là không, những câu hỏi đều vô ích, nhất
là từ một ông tăng do dự.
(Paul
Demiéville)
1454. Động Thủy chẩy ngược dòng.
Long
Nha hỏi Động Sơn:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
-
Đợi Động Thủy chẩy ngược, ta sẽ nói cho ngươi biết.
(Động
Sơn lục)
Tự
tánh không thể diễn tả bằng lời.
1455. Hợp đạo.
Động
Sơn thượng đường bảo:
-
Đạo vô tâm hợp người, người vô tâm hợp đạo. Muốn
hiểu ý này thì một người già, một người chẳng già.
Về
sau có ông tăng hỏi Tào Sơn:
-
Thế nào là một người già?
-
Chẳng nuôi dưỡng.
-
Thế nào là một người chẳng già?
-
Cây khô.
Ông
tăng lại đem chuyện này hỏi Tiêu Dao. Tiêu Dao đáp:
-
Tam tòng, lục nghi.
(Động
Sơn lục)
Câu
nói của Động Sơn là chỉ sự liên quan giữa người và Đạo.
Không nuôi dưỡng bề ngoài chỉ là một người vô dụng,
nhưng thâm ý là chỉ một người có khả năng hoằng Đạo.
Cây khô là chỉ lúc Đạo không được quảng bá đến mọi
người. Tam tòng là chỉ tam tòng tứ đức của phụ nữ, lục
nghi là 6 nghi thức mà các cung nữ đời Đường phải tuân
theo.
1456. Không khởi một niệm.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Khi không khởi một niệt niệm thì sao?
-
Núi Tu Di.
(Zen
and Zen classic)
Ý
của Vân Môn là khi ta không khởi một niệm thì tâm ta đã
lìa hiện tượng giới vào được bản thể giới. Núi Tu Di
là trung tâm điểm của một tiểu vũ trụ. Trên đỉnh là
trời Đế Thích, phía dưới là 4 Thiên vuơng, chung quanh bao
bọc bởi 8 núi, 8 biển.
1457. Một ngày ăn hết bao nhiêu.
Hoàng
Bá nhân vào phòng bếp hỏi phạn đầu:
-
Ngươi đang làm gì?
-
Đương lựa gạo cho chư tăng.
-
Một ngày ăn hết bao nhiêu?
-
Hai thạch rưỡi (=149Kg)
-
Có nhiều quá không?
-
Sợ còn chẳng đủ.
Hoàng
Bá bèn đánh phạn đầu.
(Lâm
Tế lục)
Tự
tánh vốn tự đầy đủ, không thừa cũng không thiếu.
(Paul
Demiéville)
1458. Bán gạo.
Lâm
Tế hỏi:
-
Viện chủ từ đâu về?
-
Đi bán gạo vàng về.
-
Bán hết không?
-
Bán hết.
Lâm
tế dùng gậy vạch một vạch trước mặt rồi hỏi:
-
Cái này có bán được không?
Viện
chủ hét lên, thiền sư bèn đánh. Không lâu Điển tọa đến.
Thiền sư đem truyện trên ra kể. Điển tọa nói:
-
Viện chủ không rõ ý sư phụ.
-
Ý ngươi thì thế nào?
Điển
tọa vái lạy, thiền sư cũng đánh.
(Lâm
Tế lục)
Trong
tự tánh không có trị giá (quý tiện, nhiều ít (Yanagida)
(Dẫn
theo Paul Demiéville)
1459. Văn Thù sống.
Lâm
Tế thượng đường nói:
-
Có một đám người học, đến Ngũ Đài Sơn để cầu thấy
Văn Thù, sớm đã sai rồi. Ngũ Đài Sơn không có Văn Thù.
Các ngươi muốn gập Văn Thù ư? Rất giản dị, ngay trước
mắt. Nếu các ngươi đầu cuối không khác. Mọi chốn không
ngại. Đó chính là Văn Thù sống vậy.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Người
hướng ngoại mà tìm Văn Thù không biết rằng người đang
tìm Văn Thù chính là Văn Thù.
1460. Thiền và Giáo.
Một
ông tăng hỏi Tuyết Phong:
-
Thế nào là Pháp thân?
-
Ta vẫn biết nghiệp do khẩu sanh (khẩu nghiệp) nhưng tại
sao ngươi lại phải nhai que cứt khô (càn thỉ quyết) vậy?
(Zen
and Zen classics)
Ý
của Tuyết Phong là câu hỏi này chỉ là giả đò, là lý luận,
là hư ảo, không phải là Đạo. Pháp thân có thể phân làm
tổng tướng và biệt tướng, thể và dụng; nhưng những chuyện
này chỉ làm cho người lành mạnh sinh bệnh.
1461. Ngọc thô.
Một
ông tăng hỏi Huyền ngộ:
-
Mang ngọc thô đến tham thầy thì sao?
-
Không phải vật báu nhà mình.
-
Vật báu nhà mình là gì?
-
Không mài dũa không thành vật báu.
(Công
án thiền cơ)
Ngọc
thô là ngọc chưa mài dũa chỉ người tu, khi mài dũa xong thì
trở thành ngọc quý chỉ người ngộ. người tu còn phiền
não là tập khí và nghiệp thức. Trừ bỏ được phiền não
thì tự tánh hiển hiện. Thể tánh của chúng ta không từ
ngoài tới mà tự đầy đủ. Do đó đem một khối ngọc thô
đến để làm gì? Khối ngọc thô đó hiển nhiên là ngoại
tại, đại biểu cho tập khí, không phải là tự tánh bồ
đề. Do đó thiền sư bảo không phải là vật báu nhà mình,
vì vật mang đến mang đi không phải là chân tâm của ngươi.
Chỉ có nội tâm mới là vật báu nhà mình. Nhưng trừ được
phiền não mới là đi được nửa đường, mới thấy thể
không còn chưa về đến nhà. Nếu ngưng trệ ở không thì
vẫn còn bị trầm luân.
1462. Biết ca vũ không?
Một
ông tăng hỏi Linh Chiếu:
-
Bọn trẻ vừa ca vừa múa trên đồng cỏ, nay còn không?
Linh
Chiếu bước xuống tòa giảng vừa ca vừa múa, sau đó hỏi:
-
Ngươi hiểu không?
-
Con không hiểu?
-
Ngay cả nhịp chân theo bài hát ngươi cũng không làm được
sao?
(Công
án thiền cơ)
Câu
hỏi của thiền sư là ngươi đã phá được ngã chấp chưa?
Ông tăng không ca, vũ theo thầy vì hoặc là ông ca không hay,
múa không khéo . . . Nói tóm lại là ông sợ bị mất mặt.
Sợ mất mặt là còn ngã chấp. Phá được ngã chấp rồi
thì người, sự, vật ở ngoại cảnh không còn ảnh hưởng
đến tự tâm nữa.
1464. Lạy ông tăng này.
Trường
Khánh thượng đường; đại chúng tụ tập lại để nghe pháp.
Thiền sư lôi một ông tăng ra bảo đại chúng:
-
Đại chúng hãy lạy ông tăng này!
Lại
nói:
-
Ông tăng này có chỗ nào tốt mà bảo đại chúng lạy?
Đại
chúng không ai đáp được.
(Công
án thiền cơ)
Thiền
sư bảo đại chúng lạy ông tăng là hàm 2 ý:
1-
Phá trừ cái tâm cống cao ngã mạn của đại chúng.
2-
Trong tương lai ông tăng và đại chúng đều sẽ thành Phật.
Nhưng
đại chúng không hiểu lý lẽ này. Người thường chỉ chấp
tướng bên ngoài luôn phân biệt ta người, cao thấp, nhưng
đối với người tu giải thoát thì phải lấy tứ vô lượng
tâm (từ, bi, hỉ, xả) mà đối diện chúng sinh.
1465. Nước sạch, bẩn.
Động
Sơn lúc mới hành cước gập một bà lão gánh nước trên
đường, ông xin nước uống. Bà lão bảo:
-
Ta sẽ cho ông nước uống, nhưng trước hết hãy trả lời
câu hỏi của ta: nước có bao nhiêu bụi?
-
Vốn không có bụi.
-
Đi, đi! Đừng làm bẩn nước của ta.
(Động
Sơn lục)
Nước
có bao nhiêu bụi? là bà lão nêu lên vấn đề đương thời quan niệm thân người nữ có ngũ chướng không thể thành
Phật được. Động Sơn trả lời “vốn không có bụi là
ông viện dẫn quan điểm của Huệ Năng trong Pháp bảo đàn
kinh: tự tánh vốn tự trong sạch thì làm gì có bụi. Câu
nói của bà lão là chấp nhận quan điểm này.
1466. Đệ nhất cú.
Một
ông tăng hỏi Linh Chiếu:
-
Thế nào là đệ nhất cú?
-
Đừng lầm danh ngôn.
-
Vậy thầy không có phương tiện sao?
-
Con quạ nuôi sẻ nhỏ.
(Công
án thiền cơ)
Cùng
một câu hỏi, ông tăng Giáp hỏi, thiền sư đáp một cách,
ông tăng Ất hỏi thiền sư lại đáp một cách khác. Đại
khái đó là do trực giác của thiền sư nhận định ông tăng
này học tập tới đâu, có những khuyết điểm gì, tập khí
ra sao v . v . Nói tóm lại là nhận biết Thể tính của ông.
Trong công án này ông tăng thích giảng giải, lấy quan niệm
của mình phát biểu ý kiến. Do đó thiền sư mới khuyên ông
“Đừng lầm danh ngôn”. Người tu, ở hiện tượng giới
phải biết bảo hộ chính mình thì mới phát huy được linh
tri, diệu dụng trả lời bất cứ câu hỏi nào của người.
Trong quá khứ có nhiều tăng ni, đại đức thật tu, thật
chứng dùng lời để diễn tả cảnh giới ấy lưu lại cho
người sau tham chiếu. Nhưng nếu dùng lời lẽ đẹp đẽ nhưng
nội dung không thật, tham nhiều ngày giờ cũng chẳng đạt
được cảnh giới gì thì sao chỉ dạy cho người? Linh Chiếu
đề tỉnh ông tăng, đối với ngươi mà nói thì “Đệ nhất
cú” là đừng lầm danh ngôn, chưa đi hết đường đâu biết
cứu cánh? Đừng cho là thế này, thế kia, đừng lầm danh
cú. Thực tế, thiền sư đã mang tập khí của ông tăng ra
giảng rồi, nhưng ông tăng vẫn chưa vừa lòng, cho rằng
câu đáp của thiền sư quá thô thiển nên mới hỏi thêm “Chẳng
lẽ thầy không có pháp nào hé lộ một chút cho con sao? Sao
lại đem câu “Đừng lầm danh ngôn” ra làm gì? Trong thiền
tông, thiền sư nói một câu nếu học nhân không hiểu, thiền
sư không có cách nào nói tiếp. Chúng ta biết người tu thiền
chứng được không tướng là đi được nửa đường. Lúc
đó hành giả phủ định tất cả mọi tướng đối với người,
sự, vật của ngoại cảnh tâm không tương ứng đạt tới
cảnh giới định. Hành giả trú ở cảnh giới không vọng
tưởng nên chỉ một câu là giảng hết, không dùng tới câu
thứ hai. Câu nói: “Con quạ nuôi sẻ nhỏ” có ý là ngươi
còn chưa có tuệ giác, giống như sẻ nhỏ, thấy quạ đen
lầm là tổ chim, vì vậy để quạ nuôi dưỡng.
Nhưng
nếu cứ trú ở không thì sẽ dẫn tới đoạn diệt, vì vậy
hành giả lại phải quay lại phàm. Lúc đó, hành giả đã
có định lựcnên đối với người, sự, vật của ngoại
cảnh có khởi pháp tương ứng nhưng không bị quái ngại.
Đó mới chính là cảnh giới viên dung không hữu bất nhị
vậy.
1467. Pháp Dung và Tứ tổ.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
-
Ngưu Đầu chưa gập Tứ tổ thì thế nào?
-
Làm thầy người!
-
Sau khi gập thì sao?
-
Không làm thầy người.
(Công
án thiền cơ)
Câu
hỏi của ông tăng là muốn biết tình cảnh trước và sau
khi ngộ; ông mượn tình cảnh của Ngưu Đầu để hỏi. Trong
quá trình tu thiền, giai đoạn đầu tiên là phải ngộ không
là vào thánh cảnh, sau đó lại phải trở lại phàm cảnh
để chứng ngộ không hữu bất nhị thì mới được tự tại
vô ngại. Ngưu Đầu lúc chưa gập Tứ tổ ông đã chứng được
tự tánh không. Cảnh giới này không học từ bên ngoài mà
do tự quán tâm, tự tâm ngộ không. Đối với người, sự,
vật của ngoại cảnh không cảm thấy hứng thú. Có người
đến tham phỏng cũng không đứng dậy chào hỏi, cho nên người
ta đã gọi ông là Dung lười. Lúc đó, tuy ông đã phá được
ngã chấp nhưng ông vẫn nghĩ rằng có một pháp để tu là
tọa thiền, một quả để chứng là Định. Nhưng chân lý
không ở tọa hay ở định mà là trong mọi sinh hoạt hàng
ngày không đời định. Sau khi được Tứ tổ chỉ thị ông
không trú ở không, trở lại phàm để chứng ngộ không hữu
bất nhị. Ông hiểu rằng không có một pháp nào để tu vì
còn một pháp là còn bị trói buộc, không được giải thoát.
Nếu pháp đã không có thì đâu còn thầy nữa?
1468. Bài kệ của Kim Bích Phong.
若
人 欲 拿 金 碧 峯
Nhược
nhân dục nã Kim Bích Phong
除
非 鐵 鍊 鎖 虛 空
Trừ
phi Thiết luyện tỏa hư không
虛
空 若 能 鎖 得 住
Hư
không nhược năng tỏa đắc trụ
再
來 拿 我 金 碧 峯
Tái
lai nả ngã Kim Bích Phong
Nếu
người muốn bắt Kim Bích Phong
Trừ
phi khóa sắt khóa hư không
Hư
không có thể đem khóa lại
Lại
đây, mà bắt Kim Bích Phong.
(Thanh
tịnh lưu ly)
Xem
công án 706.
1469. Viết chữ lên quạt.
Động
Sơn viết chữ Phật lên quạt. Vân Nham trông thấy bèn viết
thêm chữ Bất. Động Sơn bèn sửa lại thành chữ Phi. Tuyết
Phong thấy vậy bèn thu lấy quạt. Hưng Hóa đáp thay cho Động
Sơn:
-
Ta không như ngươi!
(Động
Sơn lục)
Ý
của Vân Nham là không viết, không tưởng tới Phật. Động
Sơn chữa thành chữ Phi ý là không viết không tưởng đến
chữ Bất. Câu của Hưng Hóa có nghĩa là Động Sơn khen ngợi
hành động của Tuyết Phong.
1470. Bó củi.
Một
lần, Tuyết Phong vác một bó củi đến trước mặt Động
Sơn, ném xuống.
Động
Sơn hỏi:
-
Nặng chừng nào?
-
Toàn thế giới không ai nhắc lên được.
-
Vậy sao ngươi lại vác được đến đây?
Tuyết
Phong im lặng không trả lời.
(Động
Sơn lục)
Bó
củi ở đây ám chỉ tự tánh.
1471. Cuồng tâm.
Một
ông tăng hỏi Thụy Châu Đạo Kiền:
-
Người người đều hết lời thỉnh ích, không biết thầy
giúp đỡ cách nào?
-
Ngươi nói coi Đại Nhạc còn cần thêm tấc đất nào nữa
không?
-
Vậy đi khắp bốn biển tham học là vì cái gì?
-
Diễn Nhã điên đầu, tâm tự cuồng.
-
Còn có người không cuồng chăng?
-
Có.
-
Thế nào là người không cuồng?
-
Đường bỗng sáng mà mắt không mở.
(Công
án thiền cơ)
Ông tăng hỏi có người trước và sau khi ngộ đến hỏi, thầy chỉ họ thế nào? Thiền sư chỉ trả lời trường hợp sau khi ngộ, Nếu có trí tuệ Bát nhã rồi, còn cần gì đi hỏi ai nữa? Nội tâm chính là đạo tràng, cần gì phải đi đâu xa? Ông tăng hỏi tiếp: Vậy sao còn đi tham phỏng? Ý là vì tập khí chưa hết, nhận thức chưa tinh nên cần chỉ điểm.
Thiền sư dẫn tích Diễn Nhã Đạt Đa soi gương không thấy lông mi trên mặt cho là ma quỷ trêu ghẹo, phát cuồng. Đầu dụ cho chân tâm, đầu trong gương dụ cho vọng tâm. Nhận vọng tâm làm chân, tự mình điên cuồng. Ông tăng hỏi tiếp làm thế nào để không điên cuồng? Thiền sư bảo ông đừng nhìn cảnh bên ngoài, xoay vào trong mà quán chiếu vọng tâm. Dùng trí tuệ Bát nhã mà phá những vọng tướng khởi lên từ vọng tâm.
1472. Không phải là ngựa tốt.
Một
ông tăng hỏi Linh Chiếu:
-
Dưới gốc cây bồ đề, cứu độ chúng sinh, thế nào là
cây Bồ đề?
-
Giống cây khổ luyện.
-
Vì sao giống cây khổ luyện?
-
Không phải là ngựa tốt đâu cần bóng roi!
(Công
án thiền cơ)
Mỗi
vị Phật thường kết duyên với một loại cây. Phật Thích
ca giác ngộ và thuyết pháp dưới gốc cây Bồ đề; trong
tương lai Phật Di Lặc sẽ thuyết pháp dưới gốc cây Long
Hoa.
Ông
tăng không nhận biết cây Bồ đề nên đưa ra câu hỏi. Trong
thế gian có nhiều người khi gập một chuyện gì không biết,
cảm thấy phiền não muốn giải quyết ngay, không thể bỏ
xuống được. Trái lại có người có thể bỏ xuống được;
chờ cơ duyên đến có thể giải quyết được phiền não
ấy. Trong thực tế cây Bồ đề và cây khổ luyện hình dáng
rất khác nhau. Tại sao thiền sư lại bảo giống nhau? Ý của
thiền sư là ở hiện tượng giới chúng ta vì chấp vào danh
tướng nên thấy cây Bồ đề và cây khổ luyện khác nhau;
nhưng ở bản thể giới chúng đều trở về không nên không
khác. Trong thiền học phân biệt ba loại trí tuệ:
1-
Trí tuệ thế gian: tức trí thông minh.
2-
Trí tuệ xuất thế gian: ngộ được tánh không.
3-
Trí tuệ xuất xuất thế gian: ngộ được không hữu bất
nhị.
Câu
nói của thiền sư có nghĩa là ông tăng còn chưa hiểu (còn ở trong trí tuệ thế gian, chưa ngộ 2 loại trí tuệ
kia) vì nếu là con ngựa tốt chỉ cần giơ roi lên là nó đã
chạy rồi, còn ngựa ngu thì phải đánh đến chẩy máu nó
mới chịu chạy.
1473. Về nhà.
Một
ông tăng hỏi Nguyên An:
-
Con muốn về nhà thì sao?
-
Nhà tan, người mất, ngươi về đâu?
-
Vậy là không về?
-
Mặt trời lên tuyết trước sân tan, bụi trong phòng ai quét?
(Công
án thiền cơ)
Tiểu
thừa quán pháp thấy pháp là do nhân duyên hòa hợp nên biết
pháp là không, không có tự thể. Vì vậy phủ nhận tất cả
mọi pháp. Đây là ngộ không mới đi được nửa đường.
Đại thừa quán nhân duyên hòa hợp là không nên không phủ
nhận sự tồn tại của pháp nhưng không bị pháp chuyển.
Ông tăng nêu lên câu hỏi khi đã ngộ không nhưng những tập
khí vi tế (về nhà) vẫn còn thì phải làm sao? Tuyết ngoài
sân và bụi trong phòng là chỉ tập khí. Dùng trí tuệ (mặt
trời) để trừ tập khí (tuyết ngoài sân). Nhưng ai quét bụi
trong phòng? Chẳng tự mình làm còn nhờ cậy ai?
1474. Duy Ma Cật.
Một
ông tăng hỏi Thiệu Hóa:
-
Duy Ma Cật có phải là Kim Lật như lai không?
-
Phải.
-
Vậy sao lại ngồi dưới nghe Thích ca thuyết pháp?
-
Ông ấy không tranh ta người.
(Công
án thiền cơ)
Duy
Ma Cật là Phật bất động ở Diệu Hỷ thế giới, thị hiện
ở cõi ta bà để giúp Phật Thích ca cứu độ quảng đại
chúng sinh. Kim Lật như lai chỉ cho người học không trụ ở
vô vi, hữu vi mặc nhiên nhập pháp môn bất nhị. Ông tăng
hỏi thập phương thế giới vốn không có một pháp để thuyết,
cư sĩ Duy Ma cật có pháp thân sao lại ngồi nghe pháp? Thiền
sư đáp ngã chấp chưa phá thì mới có phân cao thấp. Nếu
biết bản tánh là một, chúng sinh vốn đồng một thể, làm
gì còn phân biệt ta (Duy Ma Cật) người (Thích ca)?
1475. Thiền sư lạy đệ tử.
Một
hành giả hỏi Cảnh Thông:
-
Đại ý của Phật pháp là gì?
Cảnh
Thông bèn lạy hành giả; Hành giả hỏi:
-
Thiền sư vì sao lại lạy tục nhân?
-
Ngươi không biết đạo tôn trọng đệ tử.
(Công
án thiền cơ)
Hành
giả hỏi thế nào là Phật pháp, Phật pháp dùng làm gì? Phật
pháp bao gồm thiện pháp thế gian, xuất thế gian, xuất xuất
thế gian. Phật pháp chân chính là giúp người đời ngộ pháp.
Nếu đã ngộ rồi còn học Phật pháp làm gì? Người ngộ
rồi vẫn phải học Phật pháp vì lợi ích chúng sinh. Chúng
sinh có bệnh gì, biết dùng pháp nào để trị (có 8 vạn 4
ngàn pháp môn). Kinh nói “Phật thuyết nhất thiết pháp duy
trị nhất thiết tâm”. Nếu chúng ta đã vô tâm thì đâu
cần pháp nào nữa, nhưng đối với người đang tu để trừ
tâm bệnh cần phải có món thuốc để trị.
Thiền
sư lạy hành giả là để phá ngã chấp cho ông, khiến ông
có thễ ngộ được bình đẳng tính trí. Ai cũng có Phật
tánh, đệ tử cũng có khả năng thành Phật, đừng chấp ngã
mà sinh cống cao ngã mạn.
1476. Đổ tể cung dưỡng.
Một
hôm có một đồ tể đến thỉnh Huyền Tố đến nhà để
cung dưỡng. Thiền sư vui vẻ đi. Đại chúng đều kinh ngạc.
Thiền sư bảo:
-
Phật tánh bình đẳng, hiền ngu không khác, nếu có thể độ
được, ta liền độ.
(Công
án thiền cơ)
Phật
và chúng sinh vốn không sai biệt, đều cùng một thể. Phật
là người đã giác, chúng sinh là người còn mê. Chúng sinh
vì vô minh mà tạo nghiệp; nghiệp lực che lấp tự tánh của
chúng sinh. Đồ tể là người tạo sát nghiệp, là một ác
nghiệp rất nặng. Muốn độ ông phải là một người có
năng lực tương đương. Thiền sư là người này vì ông có
đại nguyện từ bi độ tất cả mọi người có thể độ,
không phân biệt nghiệp nặng hay nhẹ. Đồ tể muốn mời
thiền sư về nhà để cung dưỡng là có một thiện niệm,
từ đó sẽ khởi thiện tâm. Thiện niệm này không phải bỗng
nhiên mà có mà là do túc nghiệp; trong quá khứ đồ tể đã
gieo một nhân tốt. Đây là 1 cơ hội tốt để hướng về
đạo.
1477. Giơ lên, hạ xuống.
1-
Đức Phật giơ tay lên hỏi A Nan:
-
Tay ta thế nào?
-
Thế Tôn giơ tay lên.
Đức
Phật hạ tay xuống, hỏi:
-
Hiện tại thì sao?
-
Thế Tôn hạ tay xuống.
-
Ngươi thật điên đảo.
2-
Một ông tăng hỏi Linh Vân:
-
Phật chưa xuất thế thì thế nào?
Thiền
sư giơ phất tử lên.
-
Phật xuất thề rồi thì sao?
Thiền
sư giơ phất tử lên.
Ông
tăng không hiểu về thuật lại cho Tuyết Phong. Tuyết Phong
nói:
-
Ngươi hỏi lại đi, ta bảo cho.
-
Phật chưa xuất thế thì thế nào?
Tuyết
Phong giơ phất tử lên.
-
Phật xuất thế rồi thì sao?
Tuyết
Phong hạ phất tử xuống.
Ông
tăng lạy tạ, Tuyết Phong bèn đánh.
(Công
án thiền cơ)
Rõ
ràng chưa xuất thế và xuất thế rồi là hai sự kiện khác
nhau sao Linh Vân lại cùng giơ phất tử lên? Linh Vân dạy ông
tăng đừng khởi tâm phân biệt. Ông tăng không hiểu đi hỏi
Tuyết Phong. Tuyết Phong giơ lên, hạ xuống hợp với ý của
ông tăng nên lạy để tạ ơn. Tuyết Phong thấy ông quá chấp
vào cảnh nên đánh cho ông tỉnh.
1478. Không giơ phất tử.
Một
ông tăng hỏi Tuyết Phong:
-
Giơ trùy hay phất tử lên đều không phải là tông thừa,
hòa thượng phải làm sao?
Tuyết
Phong giơ phất tử lên.
Ông
tăng cúi đầu đi ra.
(Công
án thiền cơ)
Câu
hỏi của ông tăng có nghĩa là giơ trùy hay phất tử lên không
phải là tâm pháp của Thiền tông. Nếu bỏ phất tử đi,
thiền sư lấy gì dạy người? Giơ phất tử lên là chỉ thiền
cơ. Ông tăng không hiểu khởi tâm phân biệt vì hãy còn pháp
chấp. Để phá cái chấp này cho ông, thiền sư lại giơ phất
tử lên. Ông tăng hiểu cơ ý nên cúi đầu đi ra.
1479. Không tu.
Lúc
trước, có một ông tú tài, đọc vài quyển ngữ lục của
chư tổ, cho rằng mình đã đại ngộ, đến tham Quy Tông nói
mình đã đạt cảnh giới vô tu, vô đắc, vô chứng rồi.
Tông chỉ mỉm cười. Khi tú tài cáo từ, Tông đưa ra đến
cửa bảo:
-
Áo bông của các hạ sao lại có chỗ rách ở lưng vậy?
Tú
tài hoang mang hỏi:
-
Ở đâu! ở đâu vậy?
-
Đúng là một người không tu, không đắc, không chứng vậy!
Tú
tài đỏ mặt, đi mất.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Có
người nói “Thiền là ngộ, không phải là tu. Thiền là đốn,
không phải là tiệm. Thiền gọi là thiền chỉ đến Lục
tổ là ngưng, từ đó về sau chỉ là giáo không phải là thiền.”
Vì giáo là tiệm tu, từng bước từng bước tiến lên có
tu, có đắc, có chứng; mà thiền là ngộ rồi liền nghỉ,
ở đâu, lúc nào chỉ tùy duyên phóng khoáng, nhậm vận tiêu
dao. Câu nói này nghe qua rất cao diệu, nhưng trong thực tế,
sợ rằng không phải. Vì có tông và giáo nên mới có phân
biệt đốn, tiệm, ngộ, tu. Nghiên cứu giáo lý, thấy được
bản tánh gọi là giáo, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành
Phật gọi là tông. Cả hai đều cùng đạt mục đích không
khác, cho nên cổ nhân có nói “giáo là thiền có tiếng, thiền
là giáo không tiếng”. Nếu nói ngộ rồi liền nghỉ thì
sao Lục tổ ngộ rồi còn phải ẩn tu hàng mười mấy năm
trời?
1480. Tu Bồ Đề giảng Bát Nhã.
Tu
Bồ Đề ngồi thiền trong động vắng, trời Đế Thích rải
hoa cúng dường. Tu Bồ Đề hỏi:
-
Ai rải hoa?
-
Tôi là trời Đế Thích kính trọng tôn giả giảng Bát Nhã
hay nên rải hoa cúng dường.
-
Tôi còn chưa nói pháp.
-
Tôn giả không nói, tôi không nghe đó là chân Bát Nhã.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Câu
truyện trên cho thấy không nói, không nghe mới là chân chính
nói, nghe.
1481. Không trú ở không.
Vân
Tế đến tham Nam Tuyền, hỏi:
-
Người không biết Ma Ni châu, nhưng Như Lai Tạng thâu được,
thế nào là Như Lai Tạng?
-
Cùng đến, đi với ngươi.
-
Không đến, đi thì sao?
-
Cũng vậy.
-
Thế nào là châu?
Nam
Tuyền gọi:
-
Vân Tế!
-
Dạ!
-
Đi, ngươi không hiểu lời ta.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Câu
nói của Nam Tuyền “Cùng đến, đi với ngươi” là chỉ
vọng niệm đến đi, không ngừng. Vân Tế hỏi nếu trụ ở
không, không động thì sao? Nam Tuyền bảo cũng sai. Khi Nam Tuyền
gọi, Vân Tế dạ, nhưng không hiểu người dạ là ai. Do đó,
Nam Tuyền mắng, đuổi đi. Chỉ trú ở không mà không biết
bản lai diện mục thì chỉ là châu, mà không phải là bảo
châu. Muốn được châu thiệt thọ dụng phải biết bản lai
diện mục, sau đó bảo nhiệm chu đáo trừ tận tập khí.
Thường trú trong không chỉ luyện thành đất, gỗ, kim thạch,
là nước chết trong hồ, là bệnh chứ không phải là Đạo.
1482. Trăng tròn, trăng khuyết.
Một
ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
-
Khi trăng chưa tròn thì thế nào?
-
Nuốt 2, 3 cái.
-
Tròn rồi thì sao?
-
Nhổ ra 7, 8 cái.
(Công
án thiền cơ)
Trăng
chỉ tự tánh. Ông tăng hỏi khi tự tánh không thanh tịnh,
vọng thức hãy còn thì tình trạng thế nào? Thiền sư đáp
nuốt 2, 3 cái. 2+3=5 là chỉ 5 căn. 5 căn không thanh tịnh hòa
hợp với 5 trần và 5 thức khởi pháp tương ứng do đó phát
sinh vô lượng phiền não, cần phải loại trừ. Tại sao thiền
sư không đề cập đến thức thứ 6? 5 thức trên không thanh
tịnh là bởi vì thức thứ 6 còn phân biệt. Nếu thức thứ
6 thanh tịnh thì 5 thức trên sẽ không tạo nghiệp nữa. Nhổ
ra 7, 8 cái. 7, 8 chỉ thức thứ 7 và thức thứ 8. Khi thức
thứ 7 thanh tịnh sẽ biến thành bình đẳng tính trí, phá
được ngã chấp. Khi những chủng tử chưa chín của thức
thứ 8 bị loại trừ hết thì thức thứ 8 sẽ biến thành
đại viên cảnh trí, hành giả chứng được 3 thân, 4 trí,
thành tựu Phật đạo (xem thêm công án 346)
1483. Áo mẹ sanh.
Trời
lạnh, ở Thiên Đồng Tự Mật Vân Ngộ thiền sư sai thị
giả tặng áo bông cho các lão túc để tránh lạnh. Một lão
túc bảo thị giả:
-
Ta tự có áo mẹ sanh, không cần áo bông.
Thị
giả về thưa lại với Mật Vân Ngộ. Ngộ bảo:
-
Ông tăng này dường như có chỗ ngộ, chỉ sợ không thật,
hãy thử coi.
Bèn
sai thị giả đến hỏi:
-
Trước khi mẹ sanh, mặc áo gì?
Ông
tăng không trả lời được. Ngộ khuyên nên tham câu nói trên.
Ba năm sau ông tăng viên tịch, vẫn chưa đáp được. Khi trà
tỳ, xá lợi vô số. Đại chúng kinh ngạc tán thán. Ngộ nói:
-
Cả chục đấu xá lợi chẳng bằng một chuyển ngữ, các
ngươi thử đáp coi!
Đại
chúng không đáp được.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Công
án này cho thấy một câu tương tự không phải là chân ngộ,
hỏa thiêu có xá lợi không phải là chứng đạo, cần phải
tự thức bản tâm, tự thấy bản tánh.
1484. Phật là thế nào?
1-
Một ông tăng hỏi Quy Tông:
-
Phật là thế nào?
-
Chính là ngươi.
2-
Một ông tăng hỏi Huệ hải:
-
Phật là thế nào?
-
Người nói chuyện trước mặt, không là Phật thì là ai?
3-
Tụ đại phu hỏi Tố Ngọc:
-
Phật là thế nào?
Tố
Ngọc lên tiếng gọi:
-
Đại phu!
-
Dạ!
-
Chính là thế đó, không là gì khác.
Tụ
đại sư có chỗ tỉnh. Dược Sơn nghe được chuyện này bảo:
-
Tụ đại phu bị chôn ở núi Tố Ngọc.
Đại
phu nghe câu của Dược Sơn rất nghi hoặc bèn đến tham Dược
Sơn. Dược Sơn bảo:
-
Có nghi cứ hỏi .
-
Phật là thế nào?
Dược
Sơn lên tiếng gọi:
-
Đại phu!
-
Da!
-
Là cái gì?
Đại
phu liền đại ngộ.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Dược
Sơn phủ nhận Tố Ngọc là để trắc nghiệm xem Tụ đại
phu có để gót chân trên đất không? nếu là chân ngộ thì
dù Phật xuất thế cũng không nghe, không thấy. Còn nếu không
ngộ thì sẽ theo người mà chuyển gót. Thủ pháp của Tố
Ngọc và Dược Sơn là một. Khi các thiền sư lên tiếng gọi,
Tụ đại phu đều dạ, liền hiểu ngay người lên tiếng là
Phật không là ai khác. Dược sơn lại thêm là cái gì? là
xác nhận sự đáp ứng đó là Phật (tham khảo thêm các công
án 253, 337, 708, 732, 736, 881, 918).
1485. Méo mồm.
Có
một vị cổ đức trúng gió, mồm bị méo. Thị giả cười
bảo:
-
Hòa thượng cả ngày mắng Phật, mắng tổ, hôm nay bị quả
báo rồi.
-
Ngươi theo ta hàng 10 năm rồi mà xem ta như vậy sao? Nên biết
tất cả nghiệp chướng trên thân tổ sư như hoa trong không,
như trăng trong nước. Tuy trả quả mà như không trả quả,
muốn trả thì trả, muống không trả thì không trả.Ngươi
thấy mồm ta méo hay không méo?
Vừa
nói vừa lấy tay vả vào mồm, mồm trở lại bình thường
như cũ. Lại bảo:
-
Ngươi chấp tướng chúng sinh, ở trong không tạo nghiệp chướng
tưởng, ở không trả quả tạo trả quả tưởng. Đó là nghiệp
chướng.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Do
trên, ta có thể biết tất cả nghiệp chướng là do tâm. Tâm
nếu là không thì không có gì gọi là chướng, không có gì
gọi là trả quả, không trả quả. Có trả quả là do không
trả quả.
1486. Thần thông.
Ma
Cốc và bạn đồng học sau khi ngộ Đạo rồi, cả bọn 5
người cùng đi hành cước tham phỏng. Trời nắng gắt 5 người
khát nước bèn vào một quán trà bên đường, gọi 5 ly trà.
Bà lão bán trà thấy 5 vị hòa thượng bèn hỏi:
-
Các vị đi đâu?
-
Đi tham thiện tri thức.
Bà
già bưng trà ra rồi bảo:
-
Trà ở đây chỉ người có thần thông mới uống được,
người không thần thông không uống được.
5
vị thiền sư tuy đã đại ngộ nhưng thần thông chưa phát,
nhìn nhau không dám nâng ly lên uống.
Bà
già thấy vậy cười ha hả:
-
5 con chim ngốc này hãy coi bà bà trình thần thông uống trà!
Nói
rồi nâng ly lên uống cạn một hơi.
5
người hoảng nhiên đại ngộ, cùng thưa:
-
Hôm nay mới là ngày chúng tôi chân chính ngộ đạo; chúng
tôi ở trong thần thông mà không biết thần thông, còn tìm
bên ngoài. Hôm nay nếu không gập bà bà thì đã sai lầm một
kiếp.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Tầm
thường nhật dụng chính là thần thông diệu dụng.
1487. Khai, thị, ngộ, nhập.
Thời
mạt Thanh, Phát Tổ thuộc dòng Lâm Tế, đạo phong truyền
xa. Các người có tên tuổi như Nguyệt Hà, Sở Tuyền đều
mộ danh đến theo sư tham cứu. Một hôm sư thượng đường
bảo chúng:
-
Đây là nơi truyển Phật trường, đào luyện long tượng,
không bảo các ngươi đến để ăn, ngủ, chợp mắt. Hôm nay
ta muốn khảo sát các ngươi xem ai là bậc hào kiệt, anh tài.
Yếu chỉ của kinh Pháp Hoa là khai thị ngộ nhập Phật tri
kiến. Ý chỉ huyền ảo, lịch đại tổ sư đều tuyên dương
như hoa như gấm. Mọi người đọc xong không ai là không tán
thán. Nhưng đó là của các vị tổ sư, không phải là của
các ngươi. Căn cứ vào những lời, những chữ trên để ngộ
thì thật vô ích. Hôm nay ta muốn chính các ngươi từ trong
lòng nói ra xem ai có chân tri kiến.
Nói
rồi rút một thẻ điểm danh ra:
-
Sở Tuyền! ngươi nói trước: “Khai” làm sao khai?
Tuyền
không đáp được.
-
Ngươi ở đây nhiều ngày làm cái gì? Tham thiền như thế
chỉ là trò con nít, uổng phí thời gian, bao giờ mới xuất
đầu lộ diện? Quỳ xuống! Tham!
Sư
sai Duy Na đốt hương, đánh bảng bảo đại chúng tham. Quẻ
hương cháy hết. Duy Na đánh bảng khai tĩnh. Sư hỏi Sở
Tuyền:
-
Làm sao khai?
Tuyền
vẫn không đáp được. Sư thở dài:
-
Tham thiền như vậy, chừng nào mới được!
Lại
ra lệnh quỳ tham tiếp.
Que
hương thứ hai cháy hết, Tuyền vẫn không đáp được, sư
vẫn không cho nghỉ, trách rằng:
-
Hôm nay không đáp được, sẽ bảo ngươi quỳ ở đây tới
chết.
Lại
ra lệnh tiếp tục quỳ tham.
Đáng
thương cho Sở Tuyền, tâm như lửa đốt, quỳ đến tê chân,
mồ hôi rỏ giọt nhìn que hương thứ 3 đã cháy hết. Duy Na
đánh bảng khai tĩnh. Sở Tuyền hốt nhiên tỉnh ngộ lớn
tiếng thưa:
-
Có rồi! Có rồi! Khai được rồi!
-
Làm sao khai?
-
“Khai” ra bản hữu.
-
Thị?
-
“Thị” ra bản vô
-
Ngộ cái gì?
-
Ngộ vô hữu vô.
-
Là người gì?
-
Vào ra vô ngại.
Sư
nghe rồi khen ngợi:
-
Tốt, rất sảng khoái. Nếu không buộc các ngươi dụng công
thì bao giờ mới xong. Hôm nay không uổng công ngươi quỳ 3
que hương.
Tổ
rất cao hứng, lại gọi:
-
Nguyệt Hà, ngươi nói làm sao khai, thị, ngộ, nhập?
Hà
không suy nghĩ, đáp ngay:
-
Con xin mượn 4 câu của Sở huynh để trả lời.
-
Mượn thế nào?
-
“Khai” ra bản hữu là lý pháp giới, “thị” ra bản vô
là sự pháp giới, “ngộ” vô hữu vô là lý sự vô ngại
pháp giới, “Nhập” xuất vô ngại là sự sự vô ngại pháp
giới.
Sư
khen ngợi:
-
Tốt lắm! So với Sở Tuyền còn hơn. Nơi đây không uổng
là tuyển Phật đường. Hôm nay tuyển được 2 vị tôn Phật.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Đây
chính là:
Chẳng
phải một phen sương lạnh buốt
Hoa
mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Người
xưa không ngại khó, ngại khổ cho nên mới có thành tựu.
1488. Nghiệp chướng.
Một
ông tăng hỏi một vị cổ đức:
-
Nghiệp chướng là thế nào?
-
Vốn không.
-
Vốn không là thế nào?
-
Nghiệp chướng .
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Không
ở đây không phải là ngoan không hoặc đoạn diệt không mà
là tất cả sự việc. Tâm vốn thông linh vô ngại chỉ vì
mê cảnh chấp tướng mà thành chướng, chấp tướng mà tạo
nghiệp. Trải nhiều kiếp nghiệp tích thành tập khí. Nếu
biết tướng vốn không thì chướng cũng không, nghiệp cũng
không, nghiệp chướng cũng không nốt.
1489. Tụng kinh.
Chi
hòa thượng nghe nói có ông tăng hàng ngày tụng 100 bộ kinh
Kim Cương bèn sai thị giả vời đến, hỏi:
-
Nghe nói mỗi ngày ông tụng 100 bộ kinh Kim Cương có phải
không?
-
Dạ phải!
-
Ông có tham ý kinh không?
-
Dạ không .
-
Ông nên tụng mỗi ngày một bộ, tham cứu Phật ý; nếu ngộ
được một câu thì như nếm một giọt nước biển, mà biết
được vị của trăm sông.
Ông
tăng nghe lời. Một hôm tụng đến câu “nên biết như thế,
thấy như thế, tín giải như thế, chẳng sinh pháp tướng
“ liền có chỗ ngộ.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Nhiều
người học Phật, thấy Phật nói tụng kinh công đức không
thể nghĩ bàn, nghĩ rằng càng tụng nhiều công đức càng
lớn. Công đức này tích tụ có thể dẫn đến khai ngộ.
Không biết rằng tụng mà không hiểu ý thì khác gì con vẹt
học nói tiếng người, làm sao mà khai tâm kiến tánh? Tụng
nhiều chỉ là gieo thiện nhân, chờ quả phúc mà thôi.
1490. Chư Phật không dối.
Hoàng
Bá sau khi xuất gia rồi, nhận rằng phải buông bỏ mọi ân
tình, đạt đến vô vi thì mới là chân chính báo ân. Do đó
trong 30 năm tu học không hề về thăm nhà một lần. Nhưng
trong thâm tâm ông rất nhớ thương mẹ già. Năm ông 50 tuổi
trên đường đi tham phỏng, bất tri bất giác hướng về cố
hương. Mẹ ông rất tưởng nhớ con đã xuất gia, nhưng chẳng
có tin tức gì, thương nhớ khóc lóc khiến mắt bị mù luôn.
Để tưởng niệm con bà lập một quán trà bên đường, chiêu
đãi các vân thủy tăng, mời họ về nhà, rửa chân cho họ
để tỏ lòng kính lễ. Ngoài ra còn một nguyên nhân nữa là
chân trái của Hoàng Bá có một nốt ruồi lớn. Mắt bà đã
bị mù nên hy vọng trong khi rửa chân, vạn nhất có thể nhận
ra con chăng. Hôm đó Hoàng Bá tiếp thọ mẫu thân chiêu đãi.
Một mặt để mẹ rửa chân, một mặt thuật sự tích Phật
xuất gia, hy vọng mẹ sẽ khởi tín tâm. Hoàng Bá chỉ đưa
chân phải cho mẹ rửa. Hoàng Bá 2 lần về nhà. Tuy thấy khó
lìa bỏ nhưng ông cố nén đau thương lên đường hành cước.
Hàng xóm không nhịn được mách cho bà mẹ biết người kể
truyện Phật xuất gia chính là đứa con mà bà ngày đêm mong
nhớ. Bà như phát cuồng nói:
-
Chả trách tiếng nói giống tiếng con ta.
Nói
rồi đuổi theo đến bờ sông, không may lúc đó Hoàng Bá đã
lên thuyền và thuyền đã rời bến. Bà mẹ lỡ bước rơi
xuống sông bất hạnh bị chết đuối.
Hoàng
Bá đứng ở bờ bên kia thấy mẹ lỡ bước bị chết
đuối không nén được bi thương, khóc rằng:
Một
con xuất gia, 9 tộc lên trời, nếu không được vậy chư Phật
đã nói dối.
Bèn
quay trở lại, làm lễ hỏa táng cho mẹ. Khi hỏa táng dân
làng đều thấy hình ảnh của bà mẹ bay lên không.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Hoàng
Bá Hy Vận người Phúc Kiến, xuất gia ở Giang Tây thọ pháp
với Bách trượng Hoài Hải, nhưng giác ngộ và được ấn
chứng ở nơi Nam Tuyền. Hoàng Bá không phải là không hiếu
thuận. Gọi là hiếu có 3 bậc:
1-
Tiểu hiếu: phụng dưỡng cha mẹ.
2-
Trung hiếu: quang tông, diệu tổ
3-
Đại hiếu: độ cho cha mẹ siêu thăng.
Hoàng
Bá độ cho mẹ siêu thăng là đại hiếu vậy.
1491. Thấy sắc là thấy tâm.
Một
ông tăng hỏi Huệ Chân:
-
Thấy sắc là thấy tâm, chư pháp vô hình làm sao thấy?
-
Một nhà có chuyện, trăm nhà bận rộn.
-
Con không hiểu, xin thầy chỉ thị.
-
3 ngày sau coi lại.
(Công
án thiền cơ)
Công
án này nêu lên 2 vấn đề:
1-
Kiến sắc tức kiến tâm, nhưng tâm vô hình làm sao thấy?
2-
Khi có phiền não làm sao giải quyết?
Khi
ngoại cảnh có nhân duyên tới, ta khởi tâm tương ứng thì
A lại da thức sẽ phản ánh cảnh bên ngoài (thí dụ một
ngọn núi). A lại da thức có công năng y tha khởi tánh (do
cảnh bên ngoài mà khởi tự tánh) ở trường hợp này là
kiến tánh, nếu ở ngoại cảnh là âm thanh thì tự tánh sẽ
là văn tánh. Nhờ kiến tánh mà ta nhận biết hình ảnh trong
A lại da thức là ngọn núi. Tiếp đó thức thứ 7 sẽ trắc
lượng nó to, nhỏ. Thức thứ 6 sẽ phân biệt nó với các
ngọn núi khác. Do đó mà sinh tâm. Bởi vậy mới nói kiến
sắc là kiến tâm.
Thiền
sư nói một nhà có sự là chỉ căn trần thức hòa hợp; trăm
nhà bận rộn là chỉ 18 xứ khởi tác dụng sẽ sinh ra chư
pháp.
Vấn
đề thứ hai nếu ta giải quyết ngay thì sẽ khó tránh được
sai lầm. Thiền sư bảo để 3 ngày sau sẽ coi lại. Phiền
não phát sinh là do một nhân ở trong quá khứ, ta không thể
thay đổi được. Nhưng nó cần có trợ duyên thì mới sinh
ra quả phiền não được. Nhưng ta biết duyên có thể thay
đổi bởi thời gian, không gian. Nên 3 ngày sau trở lại thì
duyên đã biến đổi có thể không tạo ra quả nữa, hoặc
có tạo thì cũng là một quả mới không phải là quả cũ.
1492.
Tham gần đừng tham xa.
Lúc
trước, có một ông tăng tham thoại đầu “Mặt mũi lúc cha
mẹ chưa sanh là thế nào?” Tham đã nhiều năm mà vẫn chưa
khai ngộ. Về sau gập một vị đại đức bèn xin vị này
từ bi chỉ thị phương tiện. Đại đức hỏi :
-
Ông Tham thoại đầu nào?
-
Tôi tham thoại đầu “Mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh là thế
nào?”
-
Ông tham quá xa, hãy tham gần hơn.
-
Làm sao tham gần?
-
Không cần biết mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh, hãy tham khi
một niệm chưa sanh thì sao?
Ông
tăng ngay đó đại ngộ.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Chúng
ta thường coi Đạo là xa vời, ngộ đạo khó khăn. Đạo không
ở đâu xa, ngay trước mắt. Khi ngôn ngữ chưa hình thành,
một niệm còn chưa sanh chính tại lúc đó hồi quang “là
cái gì?” nếu mãnh tỉnh, thì đó là ngộ đạo.
1493. Kiếm sắc.
Một
ông tăng hỏi Toàn Hoát:
-
Kiếm sắc trảm thiên hạ, ai là người bị chém?
-
Ám (tối tăm)
Ông
tăng lại hỏi nhiều câu nữa. Thiền sư bảo:
-
Tên độn căn này! Đi ra!
(Công
án thiền cơ)
Ý
của ông tăng là bát nhã chặt đứt những gì? Thiền sư trả
lời ám, là chỉ những trần cấu trong tâm. Khi tâm đã trừ
hết mọi tập khí rồi thì tự tánh sẽ hiển hiện. Thể
của tự tánh là không, nó tự tại, vô ngại, đầy đủ công
đức vô lậu, không tham, sân, si, mạn, nghi. Chúng ta phải
làm sao để được minh tâm kiến tánh? Khi chùng ta không khởi
một niệm (không nghĩ thiện, không nghĩ ác) còn có một cái
giác tri, cái giác tri đó chính là tự tánh. Chúng ta nhận
biết được cái giác tri đó thì gọi là kiến tánh.
1494. Đạo thường.
Nghiêm
Dương tôn giả trên đường gập một ông tăng, giơ gậy chống
lên hỏi:
-
Là cái gì?
-
Không biết.
-
Một cây gậy chống cũng không biết?
Nghiêm
Dương hạ gậy xuống, chọc đất một hồi, lại hỏi:
-
Còn biết không?
-
Không biết.
-
Một lỗ đất cũng không biết.
Lại
vác gậy lên vai, hỏi:
-
Hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Cầm ngang gậy cau đi vào nơi ngàn vạn núi.
(Thiền
tông trí tuệ dữ phong tư)
Nếu
đã không biết thường thì làm sao biết vật thường (gậy
chống), sự thường (lỗ đất), thường hành (gánh). Nhưng
một khi đã biết, thì tất cả đều quay về thường đạo.
1495. Mạt hậu cú.
Một
hôm, một ông tăng đến thỉnh Ích Ngũ Tổ Diễn:
-
Thế nào là mạt hậu cú? (câu nói sau cùng)
-
Sư huynh ngươi hiểu “mạt hậu cú”, ngươi đi tìm hắn
mà hỏi.
Ông
tăng y lời đến gập sư huynh gập lúc sư huynh đi núi về
đang rửa chân, bèn hỏi:
-
Thế nào là “mạt hậu cú?”
Sư
huynh vốc nước rửa chân, rửa mặt, hỏi:
-
Mạt hậu cú cái gì?
Ông
tăng trở lại vừa khóc, vừa mách tổ.
-
Ta nói ngươi biết hắn biết mạt hậu cú!
Ông
tăng ngay đó đại ngộ.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Ông
tăng này không phải là một người thường. Ông là một bậc
anh tài dám vuốt râu cọp, cùng đại tông sư pháp chiến.
Từ công án trên chúng ta có thể rút ra mấy điểm sau:
1-
Ngộ đạo không khó, chỉ cần coi tất cả cảnh vật như
hoa trong không, như trăng trong nước, không thể nắm bắt.
Tâm không, không ô nhiễm, không thủ, không xả.
2-
Khi công phu tâm có thể thâu, có thể phóng. Trong sinh hoạt
hàng ngày linh hoạt vận dụng, luôn phản tỉnh, phản chiếu.
3-
Thấy Đạo rồi thì bảo nhiệm chu đáo, bảo nhiệm mà không
trụ vào đâu phải như Quy Tông nói “như mắt có một hạt
bụi, không hoa rơi loạn” (hạt bụi dụ cho bảo nhiệm) Còn
chấp vào bảo nhiệm thì vẫn chưa được giải thoát.
1496. Vật ngã bất nhị.
Cư
sĩ Phùng Tế Xuyên thấy ở trên tường am Minh Nguyệt có họa
một cái đầu lâu, bèn đề một bài kệ ở bên cạnh:
屍
在 這 裏
Thi
tại giá lý
其
人 在 何
Kỳ
nhân tại hà
乃
知 一 靈
Nãi
tri nhất linh
不
居 皮 袋
Bất
cư bì đại.
Nơi
đây thây chết
Còn
người đâu ta
Tánh
linh nếu biết
Chẳng
mặc áo da.
Thiền sư Đại Huệ tới am, trông thấy, không đồng ý bèn viết thêm một bài kệ nữa:
即
此 形 骸
Tức
thử hình hài
卽
是 其 人
Tức
thị kỳ nhân
一
靈 皮 袋
Nhất
linh bì đại
皮
袋 一 靈
Bì
đại nhất linh.
Chính
đây hài cốt
Chính
đây người ta
Áo
da linh tánh
Linh
tánh áo da.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Bài
kệ 1: chỉ ngộ thường lý sắc thân không phải là chân ngã,
tánh linh mới là chân ngã, thường trụ bất diệt, có thể
lìa khỏi nhục thể, tự do đến đi, không bị nhục thể
trói buộc cho nên mới nói “nếu biết tánh linh, chẳng mặc
áo da”. Còn chưa ngộ vật ngã bất nhị, tánh tướng một
thể.
Bài
kệ 2: Người chân ngộ biết một là tất cả, tất cả là
một. Không phân biệt tự tha, vật ngã.
1497. Rồng kêu trong cây khô.
Một
ông tăng hỏi Hương nghiêm:
-
Thế nào là Đạo?
-
Rồng kêu trong cây khô.
Thế
nào là người trong Đạo?
-
Con mắt trong đầu lâu.
Ông
tăng không hiểu đi hỏi Thạch Sương:
-
Rồng kêu trong cây khô là sao?
-
Do còn vui.
-
Con mắt trong đầu lâu là sao?
-
Do còn thức.
Ông
tăng vẫn chưa hiểu đi hỏi Tào Sơn:
-
Rồng kêu trong cây khô là sao?
-
Huyết mạch chẳng đoạn.
-
Con mắt trong đầu lâu là sao?
-
Trời bất tận.
-
Người nào nghe được?
-
Tận đại địa chưa có ai là không nghe.
-
Không biết rồng kêu là ở điển tích nào?
Không
biết ở điển tích nào, nhưng người nghe thẩy đều mất
mạng.
Lại
đọc cho một bài kệ:
枯
木 龍 吟 真 見 道
Khô
mộc long ngâm chân kiến đạo
髑
髏 識 盡 眼 初 明
Độc
lâu thức tận nhãn sơ minh
喜
識 盡 時 消 息 盡
Hỷ
thức tận thời tiêu Tức tận
當
人 那 辨 濁 中 清
Đương
nhân na biện trọc trung thanh
Rồng
kêu là kiến Đạo
Con
mắt là sơ minh
Hỷ,
thức, tiêu tức, tận
Chẳng
phân trọc trong thanh.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Rồng
kêu trong cây khô và con mắt trong đầu lâu là chỉ chân không
diệu hữu. Đại đạo không lời nhưng không có gì là không
nói được; không biết nhưng không gì là không biết. Khi thức
biến thành trí thì không còn phân biệt trọc và thanh nữa.
1498. Tình và vô tình.
Hoàng
Sơn Cốc hỏi Hối Đường:
-
Hữu tình và vô tình cùng viên chủng trí, câu nói này có
thật không?
-
Câu nói này là thật nhưng từ miệng ông ra thì không thật.
-
Tại sao vậy?
Hối
Đường không trả lời, lấy một cái đũa đánh con chó đang
nằm dưới gầm bàn. Con chó kêu oẳng một tiếng rồi chạy
đi. Hối Đường lại lấy đũađánh xuống bàn một cái rồi
nói:
-
Chó là loài hữu tình, đánh một cái liền chạy. Bàn là vật
vô tình mặc cho đánh vẫn ở lại. Tình và vô tình sao thành
một thể?
Hoàng
Sơn Cốc không biết làm sao trả lời. Hối Đường lại bảo:
-
Núi có thần núi, sông có thần sông, cây có thần cây, hoa
có thần hoa. Sơn hà đại địa diệu dụng vô tận. Tạp trúc
xanh xanh là bát nhã. Hoa vàng xum xuê là diệu đế. Do đó tình
và vô tình cùng viên cảnh trí.
Nghe
Hối Đường nói, Hoàng Sơn Cốc đầy bụng nghi ngờ vì thấy
thiền sư trước sau mâu thuẫn. Hối Đường kết luận:
-
Nếu có suy nghĩ thì không phải là thiền đạo, làm sao hiểu
vạn vật là chính mình?
Hoàng
Sơn Cốc cuối cùng khế ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Sinh
công thuyết pháp đá cũng gật đầu. Đó là hữu tình thuyết
pháp cho vô tình nghe. Ở cõi Tịnh độ, chim chóc, hoa lá cây
rừng đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Đó là vô tình
thuyết pháp cho hữu tình nghe. Nhìn nước chẩy, hoa rụng,
khiến chúng ta cảm thấy vô thường. Do đó, chúng ta không
nên cảm thấy cô độc, phân biệt tình và vô tình. Chúng
ta phải điều hợp vì tất cả đều là tự tánh lưu lộ.
Hoa hương, điểu ngữ tất cả đều không dấu diếm gì. Tâm
nhãn còn chưa mở sao?
1499. Tu gì?
Một
ông tăng đến tham Tề An. Tề An hỏi:
-
Tọa chủ tu gì?
-
Kinh Hoa Nghiêm.
-
Kinh chỉ mấy loại pháp giới?
-
Nói rộng thì vô tận pháp giới, nói tóm thì chỉ có 4 loại.
Tề
An giơ phất tử lên:
-
Đây thuộc loại pháp giới nào?
Ông
tăng trầm ngâm suy nghĩ.
-
Tư mà biết, lự mà giải chỉ là đồ quỷ. Dưới ánh mặt
trời, đèn hết chiếu sáng.
(Thiền
ngộ dữ thực hiện)
Ngộ
là chuyện của riêng mình, tự mình tâm địa phát sáng, không
phải do trí giải, nghe người khác nói chẳng ích lợi gì.
1500. Ngồi không.
Một
hôm Dược Sơn đang ngồi tĩnh tọa, lão sư là Thạch Đầu
trông thấy bèn hỏi:
-
Ngươi đang làm gì?
-
Không làm gì cả.
-
Vậy là ngươi ngồi không?
-
Nếu ngồi không thì là đã làm.
-
Ngươi nói không làm là không làm cái gì?
-
Dù thánh nhân tới cũng trả lời không được.
Thạch
Đầu rất tán thưởng.
(Thiền
ngộ dữ thực hiện)
Xem
đối thoại trên, chúng ta thấy trong sinh hoạt hàng ngày không
thể chấp vào danh trạng, vì nó sẽ rơi vào phân biệt, dẫn
tới đau khổ. Phân biệt là công cụ tốt để xử lý sinh
hoạt hàng ngày; nhưng đó chỉ là xử lý sự vật, không thể
xử lý sinh hoạt tánh linh. Vì có phân biệt nên luôn luôn
có đối lập, tự tha, vật ngã. Cảnh chẳng bao giờ ngưng,
ta luôn luôn ham muốn và phải tranh đấu để đạt được
những dục vọng ấy. Đó là căn nguyên của bất an và thống
khổ.
1501. Sơn hà đại địa từ đâu ra?
Một
ông tăng hỏi Vân Cư:
-
Sơn hà đại địa từ đâu sinh ra?
-
Từ vọng tưởng sinh ra.
-
Vậy có thể từ vọng tưởng sinh ra một đính vàng không?
Vân
Cư không thể trả lời được, muốn bỏ đi nhưng ông tăng
không chịu muốn thiền sư giải đáp vấn đề này. Hai người
tranh luận không thôi.
Đương
thời Vân Môn Khuông Chân nghe được chuyện này bình luận:
-
Chỉ là dây leo.
(Thiền
thị thập ma)
Theo
đạo lý mà nói câu trả lời của Vân Cư không sai vì sắc
tức là không, không tức là sắc. Sơn hà đại địa là do
nhân loại điên đảo vọng tưởng mà ra. Nhưng như ông tăng
hỏi nếu cứ vọng tưởng có thể sinh ra một đính vàng thì
trên thế giới này vàng không còn giá trị gì nữa. Câu bình
luận của Khuông Chân có nghĩa là muốn biết sơn hà đại
địa có phải là do vọng tưởng sinh ra không thì phải tự
mình thể nghiệm và chứng thực, chứ không phải dùng lời
tranh luận, chỉ là lọai dây leo. Tương tự hai người đứng
bên cạnh một cái bàn, trên có đặt một chén nước. Một
người nói chén nước này nóng, người kia nói chén nước
lạnh. Hai người tranh luận không thôi, ai cũng nói mình đúng,
người kia sai. Làm sao giải quyết? Thực tế rất giản dị,
chỉ cần uống một ngụm nước là biết ngay nước nóng hay
lạnh.
1502. Là Cái gì?
Phật
tổ đang ngồi, bỗng thấy có 2 người khiêng một cái đầu
heo đi ngang qua, bèn chỉ cái đầu heo hỏi mọi người chung
quanh:
-
Cái này là cái gì?
Mọi
người đều cười ồ cả lên, lại có người còn nói:
-
Chẳng phải Phật là bậc có đầy đủ trí huệ sao, chẳng
lẽ ngay cả cái đầu heo cũng không biết?
Nhưng
Phật vẫn trịnh trọng nói:
-
Cũng nên hỏi qua.
Trong
lịch sử một ngàn năm cũng chỉ là một chớp mắt. Mã Tổ
sau khi được Hòai Nhượng chỉ dẫn, khai ngộ và trở thành
một vị đại tôn sư, trụ trì ở Khai Nguyên Tự, Giang Tây.
Đương thời người bốn phương tụ lại để nghe vị thiền
sư ở phương Nam thuyết pháp có gì xảo diệu không? Nhưng
mọi người lấy làm ngạc nhiên cả 3 năm trời Mã Tổ rất
ít khi giảng kinh thuyết pháp; nhưng mỗi khi thị giả mang
cơm chay tới, Mã Tổ đều giơ cái bánh nướng lên hỏi đại
chúng:
-
Là cái gì?
Đại
chúng đều cảm thấy lạ. Bánh nướng ai chẳng biết, sao
mỗi ngày Mã Tổ đều hỏi? Chẳng lẽ có hàm ý gì? Chẳng
lẽ giơ cái bánh nướng lên là thuyết pháp? Mà thuyết pháp
gì? Mọi người đều nghĩ không ra .
(Thiền
thị thập ma)
Từ
câu hỏi “Là cái gì?” giúp chúng ta phản quán tất cả
mọi hiện tượng mà tìm ra căn nguyên, do tướng vào thể,
do văn vào nghĩa, lãnh hội chân nghĩa của Phật pháp.
1503.
Trà vẫn vậy, nhưng người đã khác.
Có
một hàn sĩ lên kinh ứng thí. Trong khi chờ đợi, ra ngoại
ô du ngoạn để tiêu khiển. Mải xem phong cảnh, chiều xuống
lúc nào không hay. Vừa mệt vừa khát nhìn phía trước ông
thấy một ngôi chùa nhỏ, bèn vào xin tá túc qua đêm. Hàn
huyên xong, vị trụ trì bưng ra mời khách một chén trà xanh.
Vị hàn sĩ uống một hơi cạn chén trà, cảm thấy vị trà
như cam lộ, trên thế gian này không có thức uống nào bằng.
Về sau vị hàn sĩ thi đậu, được bổ làm quan to. Tuy ông
đã thưởng thức rất nhiều danh trà, nhưng không có loại
trà nào bằng vị trà nơi chùa cũ. Một hôm, không nhịn được,
ông dẫn vài tùy tùng quay trở lại chốn xưa. Sau khi cảm
tạ vị trụ trì, ông nâng chén trà lên uống. Ông phát giác
vị trà đã biến đổi, không còn thơm ngọt như cũ. Ông lấy
làm lạ bèn hỏi trụ trì. Vị trụ trì bảo ông:
-
Trà vẫn vậy, nhưng người đã khác.
(Thiền
thị thập ma)
Tuy
cùng uống một loại trà, nhưng tâm cảnh đã khác. Lần thứ
nhất là một vị hàn sĩ, vừa mệt vừa khát đương nhiên
chén trà xanh phổ thông cũng trở thành cam lồ. Lần thứ hai,
đã là một vị quan to, ăn toàn cao lương, uống toàn danh trà,
cho nên trà xanh phổ thông sẽ thành vô vị. Trên thế gian
này nhiều sự tình cũng đều như vậy: xấu, tốt; đúng,
sai; đẹp, xấu trong mọi tình huống đều chỉ vì tâm cảnh
bất đồng tạo thành phân biệt. Chỉ cần bảo trì được
một loại tâm bình hòa thì thế giới trước mắt chúng ta
sẽ dần dần hiển hiện bộ mặt chân thật.
1504. Tọa thiền.
-
Đạo do tâm ngộ há ở ngồi sao?
(Thiền
thị thập ma)
Đối
với nhiều người tu thiền là tĩnh tọa. do đó tham thiền
trong khi tĩnh tọa gọi là tọa thiền. Quan niệm này có đúng
không? Trong công án 1011, Hoài Nhượng hỏi Mã Tổ:
-
Khi xe không đi, ngươi đánh xe hay đánh bò?
Câu
trả lời rất giản dị, ai cũng biết là phải đánh bò. Ở
đây bò chỉ tâm, cái xe là chỉ tọa thiền. Nếu muốn ngộ
sự bí ảo của thiền phải bắt đầu từ chỗ sâu thẳm
của tự tâm tức là con bò, chứ không phải là từ cái xe.
Trong xã hội ngày nay nhiều người chỉ chú trọng đến hình
thức mà không để ý gì đến nội dung. Thậm chí có người
coi nhập định quán hơi thở là tham thiền. Nếu tâm không
ngộ không thông hiểu ý nghĩa ảo diệu của thiền, dù nhập
định chỉ tức lâu bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là khô mộc
thiền, không có lợi ích gì. Tỷ dụ như trong công án trên,
xe không đi đánh xe bao lâu cũng vô ích.
1505. Không cách.
Tuyết
Phong 3 lần đến Đầu Tử, 9 lần đến Động Sơn, đắc pháp
nơi Đức Sơn, sau thành đạo ở Ngao Sơn trấn, đệ tử có
1.500 người. Thiền tông có 5 tông thì 2 tông Vân Môn và Pháp
Nhãn là tử tôn của Tuyết Phong. Một hôm ông hỏi một ông
tăng:
-
Từ đâu đến?
-
Vừa rời Chiết Trung.
-
Đi thuyền hay đi bộ đến?
-
Cả 2 đều không dùng.
-
Sao tới được đây?
-
Có gì ngăn cách?
Tuyết
Phong giơ gậy đánh, ông tăng bỏ chạy; mười năm sau trở
lại; Tuyết Phong lại hỏi:
-
Từ đâu đến?
-
Hồ Nam.
-
Từ Hồ Nam đến đây bao xa?
-
Không cách.
Tuyết
Phong giơ gậy lên hỏi:
-
Có cách cái này không?
-
Nếu cách tức là không đến đây được.
Tuyết
Phong cũng đánh, ông tăng bỏ chạy. Ông tăng này sau đó ngồi
ở đạo trường mắng chửi Tuyết Phong. Một ông tăng đồng
tham hỏi ông:
-
Tuyết Phong có câu gì mà ông mắng chửi vậy?
Ông
tăng bèn thuật lại câu chuyện trên. Bạn đồng tu bèn chỉ
cho ông chổ sai lầm. ông tăng đó về sau thường bi thống,
rơi lệ hướng về đạo trường của Tuyết Phong sám hối.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Tông
chỉ của thiền là một pháp chẳng lập. Học nhân bất tri
bất giác rơi vào khái niệm là có gián cách là có phân biệt
cho nên mới nói là còn mang một sợi tơ là chưa được giải
thoát. Ông tăng trong công án trên vẫn còn chấp vào không
cách mà không tự biết.
1506. Phật tánh.
Khi
Triệu Châu đã ngoài trăm tuổi, một hôm Triệu Vương và
Yến Vương đến tham phỏng. Triệu Châu ngồi yên không đứng
dậy. Yến Vương hỏi:
-
Nhân Vương đáng tôn quý hay Pháp Vương đáng tôn quý?
-
Ở Nhân Vương thì Nhân Vương tôn, ở Pháp Vương thì Pháp
Vương tôn.
Hai
vương thán phục, bái Triệu Châu làm thầy.
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Yến
Vương muốn đánh Triệu Vương để cướp địa bàn, nhưng
có người biết coi thiên tượng bảo Yến Vương:
-
Triệu Châu có thánh nhân cư trú, nếu đánh sẽ thua.
Yến
Vương nghe lời bèn hòa với Triệu Vương, lại hỏi Triệu
Vương:
-
Ở Triệu Châu có vị thánh nhân nào chăng?
-
Cách đây 120 dậm ở Quán Âm Viện có vị lão thiền sư có
minh nhãn.
Hai
người cùng đến xem thử.
Câu
đáp của Triệu Châu biểu thị chân như Phật tánh, vô tướng
pháp thân ở Nhân Vương tối tôn quý, ở Pháp Vương cũng
tối tôn quý.
1507. Đánh thành một phiến.
Hương
Lâm Trừng Viễn thiền sư khi được 80 tuổi bảo viên tri
phủ sở tại:
-
Lão tăng sẽ đi hành cước.
Một
viên quan đứng cạnh nói:
-
Vị lão tăng này điên rồi! 80 tuổi mà đi hành cước, đi
đâu chứ?
Mọi
người đều nghi hoặc; khi trở về chùa thiền sư bảo đại
chúng:
-
Lão tăng 40 năm mới đánh thành một phiến.
Nói
rồi viên tịch.
(Thìền
thị thập ma)
Câu
chuyện trên cho thấy tham thiền công phu cao thâm như Hương
Lâm Trừng Viễn mà cũng phải mất 40 năm trời mới đánh
thành một phiến cho thấy tu hành không phải là dễ. Do đó,
ngộ rồi là phải bảo nhiệm tức là đánh thành một phiến.
1508.
Không gián đoạn.
Đồng
An hỏi Động Sơn:
-
Chư vị thánh nhân có pháp gì để an thân lập mạng?
-
Giữ tâm niệm không gián đoạn.
-
Còn có pháp nào cao hơn không?
-
Có.
-
Là công phu gì?
-
Tâm niệm không theo gián đoạn.
(Thiền
thị thập ma)
Đối
với một số người tâm niệm không gián đoạn và tâm niệm
không theo gián đoạn là đồng nghĩa. Nhưng nếu nghĩ kỹ lại
thì không gián đoạn bao hàm ý phải tu hành, còn không theo
gián đoạn là mặc nhiên đạt được cảnh giới không gián
đoạn.
1509. Uống trà đi.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là Đạo?
-
Uống trà đi!
(Thiền
thị thập ma)
Lịch
sử ghi lại chuyện này là Triệu Châu trà, về sau biến thành
trà thiền nhất vị; còn ảnh hưởng trực tiếp đến trà
đạo của Nhật Bản. Như chúng ta thấy uống trà là một
chuyện bình thường, phổ thông chẳng lẽ trong đó có hàm
chứa thiền lý thâm ảo gì chăng? Từ xưa đến nay có biết
bao người uống trà, nhưng ngộ đạo thì có mấy người?
Ý của Triệu Châu là dùng tâm bình thường mà uống trà thì
đó là Đạo. Nhưng thế nào là tâm bình thường? Có phải
là tâm thái chúng ta trong sinh hoạt thường ngày không? Không
phải. Tâm bình thường là tâm không tìm kiếm huyền ảo,
kỳ đặc, nhưng ở trong đơn giản, phác thực của sự sinh
hoạt hàng ngày thể nhận được chân tướng của tâm.
Mã
Tổ Đạo Nhất đã giảng rất rõ:
-
Tâm bình thường là tâm không tạo tác, không thị phi, không
thủ xả, không đoạn thường, không phàm, không thánh.
Như
vậy tâm bình thường không có ở điên đảo, phiền não,
vọng tưởng, si mê, cũng không có ở thiền định tu tâm thần
kỳ mà ở tại sinh hoạt bình thường.
1510.
Thư mẹ.
Thiền
sư Huệ Tâm, lúc 15 tuổi còn là một tiểu sa di, vì thông
minh lanh lợi, được Hoàng đế triều kiến và ban nhiều tặng
phẩm. Ông gửi tặng phẩm vua ban về quê tặng lại mẹ để
tỏ lòng hiếu kính. Mẹ ông gửi cho ông một lá thư, trong
viết: “Con gửi cho mẹ những phẩm vật Hoàng Đế ban cho
con. Mẹ đương nhiên rất vui, nhưng khi mẹ cho con xuất gia
làm tăng là mong con trở thành một thiền nhân có tu, có chứng
chứ không phải mong con sống trong trường danh lợi. Nếu con
chỉ ham hư vinh thì đã trái với nguyện vọng của mẹ. Mẹ
hy vọng khi con nhận được thư này hãy ghi nhớ trong lòng
thế nào là chân tham, thật học.” Sa di Huệ Tâm nhận được
thư mẹ, lập chí làm một vị hoằng pháp độ chúng học
theo kinh Hoa nghiêm.”nguyện vì chúng sinh lìa khổ, chẳng màng
sự an lạc của chính mình”, không truy cầu danh lợi nữa.
Huệ
Tâm được mẫu thân làm cho cảm động, nhờ người nhắn
mẹ năm tới sẽ xin phép sư phụ về quê thăm viếng. Không
lâu, mẹ ông lại gửi cho ông một lá thư nữa: “Mẹ cho
con xuất gia, nhập đạo; con đã thuộc về Phật môn, thuộc
về chúng sinh, con không thuộc về riêng mẹ nữa. Từ nay trở
đi con phải là Phật tử, hiếu kính sư trưởng, thân cận
tam bảo, không chỉ nghĩ đến mẹ. Năm tới về thăm mẹ,
con phải nhớ như vậy.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Huệ
Tâm được mẹ dạy dỗ hai lần, tinh cần học đạo, phát
tâm lập nguyện sau trở thành một vị tăng bảo chân chính.
1511. Lão bán dầu.
Một
hôm Triệu Châu đến Đầu Tử Sơn ở Thư Châu thăm Đầu
Tử. Hai người gập nhau trên đường. Triệu Châu hỏi:
-
Ông có phải là Đầu Tử sơn chủ?
-
Muối, trà, dầu, tùy ý mua.
Triệu
Châu không ngó tới, đi về chùa, Đầu Tử tay cầm một bình
dầu theo sau. Triệu Châu trách:
-
Nghe danh Đại Đồng đã lâu, gập mặt chỉ là một gã bán
dầu.
-
Ông chỉ thấy gã bán dầu, không thấy Đầu Tử. Nghe danh
Triệu Châu đã lâu nguyên lai chỉ là một tục nhân.
-
Ta là gã tục nhân sao? và thế nào là Đầu Tử?
Đầu
Tử giơ bình dầu lên:
-
Dầu, dầu.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đầu
Tử trước khi mất có nói:
-
Nếu tháp của ta có mầu hồng, ta sẽ trở lại.
Một
trăm năm sau, khi các tín đồ tu sửa tháp thấy xá lợi có
mầu hồng mã não, gập lúc Nghĩa Thanh đến quải đơn. Mọi
người đều nói thiền sư Đại đồng đã trở lại. nghĩa
Thanh có làm một bài tụng:
白
雲 鎖 不 住
Bạch
vân tỏa bất trú
青
峯 以 何 收
Thanh phong dĩ hà thâu
月
色 籠 寒 塔
Nguyệt
sắc lung hàn tháp
松
聲 半 夜 秋
Tùng
thanh bán dạ thu.
Mây
trắng chẳng thể khóa
Núi
xanh lấy gì thu
Ánh
trăng rải tháp lạnh
Thông
reo giữa đêm thu.
Thế
nào là Đầu Tử? Dầu, củi, gạo, muối trong sinh hoạt hàng
ngày là pháp mạch trôi chẩy của Đầu Tử.
1512. Mặc kệ nó.
Nơi
một chùa kia, có một đứa nhỏ con nhà nghèo khổ, được
vị trụ trì từ bi thâu nhận, cho làm việc trong vườn rau.
Nhiều năm trôi qua, đứa nhỏ lớn lên và trở thành viên
đầu (ông tăng coi việc trồng rau). Một hôm ông bảo một
vị sư huynh:
-
Đệ thấy các sư huynh mỗi ngày đều tham thiền nhập định;
đệ cũng muốn tập không biết có được không, xin sư huynh
trình với sư phụ.
Vị
sư huynh này trình lại cho sư phụ hay.
Vị
trụ trì thấy khó quá vì ông tăng không biết chữ, chẳng
đọc qua một quyển kinh nào, lại còn phải bận rộn chăm
sóc vườn rau đâu có lúc nào rảnh để ngồi thiền tĩnh
tu, bèn thuận miệng bảo:
-
Mặc kệ nó.
Nào
ngờ vị viên đầu nghe được câu này rất phấn khởi. Mỗi
ngày khi làm việc đều niệm thầm câu này chẳng kể trời
mưa, trời nắng, khi ăn, khi ngủ. Về sau ông cảm thấy dù
không niệm tâm tánh cũng tự nhiên yên tĩnh. Mỗi khi gặp
phiền não hay vọng tưởng ông lại niệm “Mặc kệ nó “.
Vài năm sau, một hôm ông đang tưới rau, bình tưới bỗng
vỡ làm ướt cả người. ông bỗng nhiên ha hả cười lớn
vì ông cảm thấy thân tâm thanh tịnh như hư không, các tâm
niệm điên đảo vọng tưởng biến mất không còn tung tích.
(Thiền
thị thập ma)
Chỉ
cần mặc kệ vọng tưởng, mặc kệ phân biệt, tự tánh quang
minh tự nhiên hiển lộ.
1513. Cầu độc mộc.
Thần
Sơn bảo Động Sơn:
-
Dù đến nơi đâu, nếu có bạn tốt thì không bị lạc. Thỉnh
sư cho một lời.
-
Sư huynh có thái độ ấy sao thành công được?
Câu
Động Sơn khải thị khiến Thần Sơn tỉnh ngộ, từ đó lời
nói khác thường. Khi 2 người gập cây cầu độc mộc; Động
Sơn qua rồi, nhấc mộc kiều lên gọi:
-
Qua mau! Qua mau!
-
Giới xà lê!
Động
Sơn bèn hạ mộc kiều xuống.
(Động
Sơn lục)
Bạn
tốt ở đây chỉ thiện trí thức, dù bạn tốt cách nào cũng
không được nhờ cậy mà phải trông vào chính mình. Động
Sơn nhấc mộc kiều lên là hỏi không có mộc kiều làm sao
qua?
1514. Tâm bất biến.
Một
hôm trời rất nóng, có một văn sĩ đến chùa thăm một vị
thiền sư. Vào đến phòng thiền sư cảm thấy nóng bức đến
toát mồ hôi, bèn hỏi:
-
Thiền sư, sao phòng nóng quá vậy?
-
Tâm tĩnh tự nhiên mát.
(Thiền
thi thập ma)
Trong
đời sống: sinh, lão, bệnh, tử, biệt ly, địa vị thăng
trầm, của cải trồi sụt và chủng chủng phiền não đều
là do tâm có sai biệt. nếu ta nắm lấy then chốt của vấn
đề là cảnh chuyển mà tâm không chuyển thì tất cả mọi
phiền não đều bị tiêu diệt.
1515. Cao Phong.
Một
hôm Tổ Khâm hỏi Cao Phong:
-
Ban ngày ngươi có làm chủ được không?
-
Làm được.
-
Trong mộng có làm chủ được không?
-
Làm được.
-
Không mộng, không tưởng, không thấy, không nghe, chủ ở đâu?
Cao
Phong không trả lời được bèn đến Lâm An tu hành. Một hôm
bạn đồng tu làm gối đầu rơi xuống đất phát ra tiếng.
Cao Phong hoát nhiên đại ngộ bèn làm một bài kệ, trong đó
có 2 câu:
Nguyên
lai chỉ là người lúc trước
Nếu
không đổi lúc trước làm sao trở về.
(Thiền
thị thập ma)
Làm
chủ là giữ được tâm bình thường. Khi không nghe, không
thấy là không khởi một niệm làm sao bảo nhiệm tâm bình
thường? Sách thiền không ghi chép cao Phong ngộ gì. Nhưng từ
tâm bình thường chúng ta có thể suy đoán ông đã ngộ “Mộng
tỉnh là một, ngủ và định là một” nên đã thấy được
bản lai diện mục.
1516.
Phật Di Lặc.
Động
Sơn kể cho vân Cư chuyện Nam Tuyền hỏi ông tăng nghiên cứu
kinh Di Lặc Hạ Sanh..
-
Di Lặc bao giờ hạ sanh.
-
Trên trời không có Di Lặc, dưới đất cũng không có Di Lặc.
Vân
Cư theo đó hỏi:
-
Nếu trên trời không Di Lặc, dưới đất không Di Lặc, không
biết ai đặt tên Di Lặc?
Động
Sơn bị hỏi khiến thiền sàng rúng động, bảo:
-
Ưng xà lê, khi ta ở nơi Vân Nham từng hỏi lão sư; khiến
hỏa lò chấn động. Hôm nay bị ngươi hỏi cả mình toát
mồ hôi.
(Động
Sơn lục)
Di
Lặc ở đây chỉ tâm.
1517. Pha tương.
Động
Sơn hỏi Vân Cư:
-
Ngươi làm gì đó?
Pha
tương.
-
Dùng bao nhiêu muối?
-
Liên tục cho vào từng chút.
-
Vị thế nào?
-
Được lắm.
(Động
Sơn lục)
Ý
của Vân Cư là tu hành thì phải chuyên cần tinh tấn.
1518. Nhập định.
Khâm
sơn, Nham Đầu, Tuyết Phong cùng ngồi thiền. Động Sơn bưng
trà ra. Khâm Sơn nhắm mắt lại. Động Sơn hỏi:
-
Ngươi đi đâu?
-
Nhập định.
-
Định vốn không cửa, từ chỗ nào vào?
(Động
Sơn lục)
Định
chân chính không ra, không vào, không tĩnh, không loạn.
1519.
Sự kỳ lạ.
Một
hôm A Nan bạch Phật:
-
Hôm nay vào thành con thấy một sự kỳ lạ.
-
Sự kỳ lạ gì?
-
Khi vào thành con thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa,khi
ra thành thì thấy vô thường.
-
Hôm qua ta vào thành cũng thấy một sự kỳ lạ.
-
Là sự kỳ lạ gì?
-
Ta thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa, khi ra thành cũng
thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa.
(Chỉ
nguyệt lục)
Phật
giáo cho rằng tất cả mọi sự vật trên thế gian đều không
cố định, đều ở trong tiến trình: thành, trụ, hoại, không.
1520.
Bài kệ phó pháp của Ca Diếp.
Sau
khi kết tập kinh điển xong, Tôn giả Ca Diếp cảm thấy mình
già yếu, định đến núi Kê Túc sơn nhập định để đợi
Phật Di Lặc. Tôn giả vời ngài A Nan lại bảo:
-
Tôi không còn trụ thế lâu nữa, nay đem chánh pháp giao
cho ông, ông phải giữ gìn cho khéo. Hãy nghe bài kệ của tôi:
法
法 本 來 法
Pháp
pháp bản lai pháp
無
法 無 非 法
Vô
pháp vô phi pháp
何
於 一 法 中
Hà
ư nhất pháp trung
有
法 有 不 法
Hữu
pháp hữu bất pháp.
Bản
lai pháp mỗi pháp
Không
pháp khôngphi pháp
Trong
một pháp mà sao
Có
pháp có không pháp.
(Chỉ
nguyệt lục)
Câu
1: Học pháp phải học bản lai pháp.
Câu
2: Không có pháp cũng không có gì không là pháp
Câu
3: Hà tất trong một pháp
Câu
4: Phân ra cái này là pháp, cái kia là phi pháp.
1521. Đốt Bích Nham Lục.
Đại
Huệ Tông Cảo người chủ xướng tham thoại đầu là một
vị thiền sư trứ danh đời Tống. Từ nhỏ ông đã tỏ ra
thông minh mẫn tiệp. 13 tuổi học ở trường làng, một hôm
cùng bạn đùa nghịch ném nghiên mực qua cửa sổ, chẳng may
trúng vào mũ thầy, chỉ còn cách bồi thường và về nhà
tự học. Thủa thiếu thời ông nói: “Đọc sách thế gian
chẳng bằng đọc sách xuất thế gian”. Bèn xin xuất gia ở
Huệ Vân Viện. Năm 17 tuổi xuống tóc, rất thích đọc các
bộ ngữ lục của Thiền tông. Ông thường nghi ngờ tại sao
thiền từ một người truyền pháp là tổ Đạt Ma, tại sao
lại phân thành 5 tông”. Năm 19 tuổi vân du tham phỏng chư
thiền đức, sau gập Viên Ngộ Khắc Cần. Viên Ngộ bảo ông
tham câu “Núi Đông đi trên nước.”Ông trình 49 đáp
án đều không được Viên Ngộ chấp nhận. Một hôm Viên
Ngộ thượng đường bảo đại chúng:
-
Nếu có người hỏi ta về công án “Núi Đông đi trên nước”
thì ta sẽ đáp “Gió thơm từ phương Nam tới, điện các
đều mát mẻ.
Đại
Huệ nghe câu nói trên có chỗ sở ngộ, bèn trình lên Viên
Ngộ. Viên Ngộ bảo:
-
Ông đạt được cảnh giới này không phải là dễ, nhưng
tiếc là còn chết đi nhưng chưa sống lại. Đó là đại bệnh.
-
Con được thế này cũng là khoái hoạt, không mong muốn được
gì nữa.
Viên
Ngộ bảo ông trú ở Mộc đường sinh hoạt cùng với các
vị cư sĩ. Ngày ngày cùng mọi người nói chuyện gia thường
và đều vào phòng sư phụ độc tham không dười 3, bốn lần.
Mỗi lần Viên Ngộ đều đưa câu hỏi hữu cú vô cú ra. Đại
Huệ vừa mở miệng, Viên Ngộ đều bảo không phải. Như
vậy được nửa năm, tâm đại Huệ không còn vọng niệm.
Một hôm ăn cơm, giơ đũa lên mà không và. Viên Ngộ cười
bảo :
-
Gã này đã được Hoàng dương một thiền.
-
Đạo lý này giống như con chó đứng trước chảo mỡ nóng.,
muốn liếm không được, bỏ đi cũng không được.
-
Thí dụ của ông rất hay
Đại
Huệ vẫn chưa triệt ngộ. lại nửa năm nữa trôi qua, một
hôm ông lại hỏi Viên Ngộ:
-
Nghe nói lúc trước Hòa thượng có hỏi Ngũ Tổ Pháp Diễn
về hữu cú, vô cú. Không biết Ngũ Tổ trả lời ra so?
Viên
ngộ chỉ cười không trả lời.
-
Hòa thượng thường trả lời mọi người, sao nay không
nói?
-
Ta hỏi “hữu cú,vô cú như dây leo cây ý là thế nào?”
Ngũ Tổ đáp “Theo nhau vậy”.
-
Con hiểu rồi!
Viên
Ngộ bèn đặt nhiều câu hỏi để khảo nghiệm, Đại Huệ
đều trả lời trôi chảy, không ngần ngại.
-
Ông đã biết ta không lừa dối ông.
Không
lâu, phân tọa mời Đại Huệ thuyết pháp.
Về
sau khi Viên Ngộ đã viên tịch, Đại Huệ một hôm đem bản
khắc để in Bích Nham Lục của sư phụ ra hỏa thiêu. Đây
là 1 việc làm chấn động thiền giới. Đối với người
thường thì đây là một hành động phản nghịch, khi sư diệt
tổ.
(Nhất
vị thiền:Quyển Nguyệt)
Đại
Huệ có nỗi khổ tâm khi phải đem đốt bản khắc Bích Nham
Lục của sư phụ. Mặc dầu thiền chủ trương bất lập văn
tự, nhưng lúc đó những người học thiền chỉ chúi đầu
vào đọc những sách thiền như Bích Nham Lục, cố tìm những
bí ẩn, những lý giải trong các câu nói của các thiền sư,
hoặc nghiên cứu những động tác, hành động của các thiền
sư coi đó như một loại văn tự, mà chẳng chú trọng đến
sự thực sự tu hành. Đại Huệ đốt bản khắc là để phá
cái chấp tệ hại đó.
(200
năm sau người ta thu thập những tài liệu còn sót lại để
tái tạo bộ Bích Nham lục mà chúng ta được đọc ngày nay.)
1522. Không tướng nhân, ngã.
Pháp
Hội Linh Thứu có 500 tỳ khưu có đầy đủ 5 thần thông,
nhưng chưa đắc pháp nhẫn. Vì có túc mạng thông nên họ
đều thấy trong quá khứ mình đã giết cha, hại mẹ, cùng
phạm những trọng tội khác; nội tâm hoài nghi mình không
thể chứng được pháp thậm thâm. Do đó, Văn Thù, theo thần
lực của Phật, tay cầm kiếm sắc bức Thế Tôn. Thế Tôn
nói:
-
Ngưng! Ngưng! Không được phản nghịch, không được hại
ta. Nếu ta bị hại là do thiện mà bị hại. Văn Thù! Xưa
nay vốn không ngã nhân. Nếu nội tâm thấy có ngã nhân thì
ta tất bị hại.
Do
hoạt cảnh trên, 500 tỳ khưu ngộ bản tâm như mộng, như
ảo, trong mộng ảo không có tướng nhân, ngã, không có phụ
mẫu. 500 vị đồng thanh tán thán Văn Thù:
-
Văn Thù đại sĩ thâm đạt đến tận nguồn gốc, tự tay
cầm kiếm sắc bức Phật. Kiếm, Phật một tướng không hai,
không tướng, không sinh làm sao có giết?
(Thiền
thất dữ công án đích áo bí)
Do
sự chỉ điểm của Văn Thù, 500 vị tỳ khưu hiểu rằng không
có tướng nhân, ngã thì làm gi có người làm hại, người
bị hại và vật làm hại; do đó chứng được vô sinh pháp
nhẫn.
1523. Khâm Sơn.
Khâm
Sơn đến tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
-
Từ đâu đến?
-
Từ Đại Từ đến.
-
Còn thấy Đại Từ không?
-
Thấy.
-
Thấy trước “sắc” hay sau “sắc”?
-
Thấy phi trước sau.
Động
Sơn im lặng. Về sau Khâm Sơn bảo mọi người:
-
Ta lìa sư phụ quá sớm, không hiểu hết ý người.
(Động
Sơn lục)
“Sắc”
ở đây dẫn từ kinh Kim Cương:
“Nếu
lấy sắc cầu ta,
Lấy
âm thanh cầu ta,
Đó
là hành tà đạo,
Không
thể thấy Như Lai”.
Khâm
Sơn trả lời đúng nên Động Sơn im lặng chấp nhận.
1524. Hoa Nghiêm Hưu Tĩnh
Hoa
Nghiêm Hưu Tĩnh đến bái phỏng Động Sơn, hỏi:
-
Con không có lý lộ, bị vọng niệm lừa dối.
-
Ngươi nghĩ có đường ấy sao?
-
Con thừa nhận chưa khai ngộ.
-
Ngươi vọng tưởng ở đâu?
-
Đó là điều con muốn hỏi.
-
Vậy ngươi hãy hướng nơi vạn dậm không tấc cỏ mà đi.
-
Con nên đến đó sao?
-
Bất luận đi đâu, ngươi đều nên đi.
(Động
Sơn lục)
Hoa
Nghiêm hỏi Động Sơn làm sao trừ vọng niệm, Động Sơn bảo
ông hãy trụ ở tự tánh (vạn dậm không tấc cỏ, xem công
án 668).
1525. Tứ ân, tam hữu.
Động
Sơn thượng đường bảo đại chúng:
-
Trong các ngươi có ai không đáp ứng tứ ân, tam hữu không?
Đại
chúng không ai trả lời.
-
Nếu không theo tôn chỉ này thì không thể giải thoát khỏi
thống khổ của sanh tử. Bất luận đi đâu, mọi thời khắc
tâm đều không xúc vật, thường không gián đoạn, sẽ được
tương ứng. Phải nỗ lực, đừng nhàn nhã qua ngày.
(Động
Sơn lục)
Tứ
ân là “ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân chúng
sanh; tam hữu là tam giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
Trên báo tứ ân, dưới cứu 3 giới là lý tưởng của con
nhà Phật.
1526. Ngựa Ích Châu ăn cỏ, bò Mục Châu no.
(Thanh
tịnh lưu ly)
Theo
thường lý, câu nói này vô lý vì Ích Châu và Mục Châu là
2 địa phương khác nhau sao có thể dung hợp làm một?Do vì
chúng ta đối với sự tướng có quan niệm đối đãi, cá
biệt không thể dung hợp hóa, chỉnh thể hóa mà quán chiếu
toàn thể. Do đó mà trước mắt chúng ta l2 chủng chủng chướng
ngại. Nhưng đối với người giác ngộ có thể đem thời,
không mâu thuẫn chướng ngại điều hòa lại những sai biệt
ta người, vật ngã thì thấy thế giới là viên dung, thống
nhất.
1527. Không vọng tâm.
Vương
cư sĩ là một người giữ gìn giới luật rất nghiêm khắc,
lời nói, hành động đều rất thận trọng; ai nấy đều
kính ngưỡng. Nhưng về sau có một bạn đồng tu phát hiện
có khi chiều xuống là cư sĩ đi đến chỗ yên hoa, liễu ngõ.
Chẳng lẽ Vương cư sĩ cũng không thoát khỏi nữ sắc? Mọi
người bàn tán sau lưng cư sĩ. Có một người háo sự, lén
đi theo cư sĩ để coi hư thực ra sao. Quanh co qua nhiều ngõ
hẻm cuối cùng đến một căn nhà Thuý Hoa Viên, nhiều cô
nương xinh đẹp thấy Vương cư sĩ đều thỏ thẻ tiếng oanh
ân cần chào hỏi, dẫn cư sĩ lên lầu. Bạn đồng tu cũng
len lén theo sau, tới nơi ông thấy một cảnh tượng làm kính
sợ. nguyên lai bầy cô nương huyên náo cười cợt lúc nãy
người người đều ngồi ngay ngắn trước Phật đường trang
nghiêm im lặng nghe Vương cư sĩ nói pháp.
(Thanh
tịnh lưu ly)
Vương
cư sĩ ở trong bùn mà không nhơ, trong lửa đỏ mà trồng sen
thanh tịnh, biến dục não thành mát mẻ; trong vọng cảnh mà
định lực không dao động. Thật là một vị thiền giả tùy
duyên phóng khoáng, nhậm vận tiêu dao.
1528. Vô dư Niết Bàn.
Tôn
giả Phạm Chí chứng đắc thần thông, có thể biết túc mạng
của mọi người; chẳng hạn chỉ xương cốt của một người
nào đó cho ông, ông có thể nói cho biết ngay người đó là
ai, chết vào năm, tháng nào. Một hôm, Phật chỉ một bộ
xương bảo ông xác nhận. Phạm Chí ngưng thần coi xét rất
lâu trên trời, dưới đất, 10 phương 3 thế mà không biết
là ai, cũng không biết trú ở đâu. Phật khai thị cho ông:
-
Đây là một người đã chứng ngộ Niết Bàn, tinh thần ông
đã đến chỗ vô thủy, vô chung, vô nội, vô ngoại, quang
minh thế giới; có thể vô sinh, vô tử; khế cơ, khế lý quảng
biến 10 phương, quán thông pháp giới. Do đó ông không có
cách nào từ hài cốt của ông ta mà nhận ra vì ông ta chính
là Đông phương Thế giới, Phổ Hương Sơn, Nam Ưu Đà Diên
tỳ khưu.
(Thanh
tịnh lưu ly)
Câu
chuyện trên cho thấy các vị A La Hán chứng đắc Vô Dư Niết
Bàn không thể từ nhục thân sinh diệt mà nhận ra được,
vì họ đã nghiệp tận, báo tức không còn bị phàm thân quái
ngại nữa.
1529. Xá Lợi Phất.
Xá
Lợi Phất khi mới ngộ đạo gập Mục Kiền Liên ở trên
đưởng. Mục Kiền Liên hỏi:
-
Xá Lợi Phấy! có phải ông đã tìm được con đường thoát
vòng sinh tử không? Sao tướng mạo ông trang nghiêm như một
bông sen vậy?
-
Không sai.
Về
sau Xá Lợi Phất về quê nhà nhập diệt. Đệ tử ông là
Quân Đầu đem hài cốt đến gập Phật khóc lóc thảm thiết.
Phật khai thị ông:
-
Quân Đầu, sư phụ ngươi nhập Diệt, công đức vô lậu giới
định và trí huệ thâm sâu của ông ấy có bị tiêu diệt
không?
-
Dạ không!
-
Nếu tất cả thống khổ đều diệt, tất cả công đức thanh
tịnh đều không mất, vậy ngươi còn khóc làm gì?
Quân
Đầu nghĩ lại bèn ngưng khóc.
(Thanh
tịnh lưu ly.)
Sinh
mạng của chúng ta ở thế gian này không quan trọng; quan trọng
là ở công đức giới định huệ và bồ đề thiện căn.
Hữu dư sinh mạng có tận nhưng vô dư huệ mạng thì thường
còn.
1530. Bài thi của Mã Tổ Đạo Nhất.
爲
道 莫 還 鄉
Vi
đạo mạc hoàn hương
還
鄉 道 不 成
Hoàn
hương đạo bất thành
溪
邊 老 婆 子
Khê
biên lão bà tử
喚
我 舊 時 名
Hoán
ngã cựu thời danh
Mải
Đạo quên quê cũ
Về
quê Đạo chẳng thành
Bên
suối một bà cụ
Gọi
tên lúc tuổi xanh.
(Thanh
tịnh lưu ly)
Mã
Tổ ngộ đạo rồi, trở về cố hương, thân bằng cố lý
đều lại thăm. Có một bà cụ sau khi gặp mặt nói:
-
Thì ra là thằng nhỏ nhà họ Mã đã trở về.
Bà
cụ là hàng xóm, đã thấy Mã Tổ từ nhỏ cho đến khi trưởng
thành. Tuy bây giờ đã là một vị thiền sư nhưng dưới mắt
bà cụ thì vẫn chỉ là đứa nhỏ nhà họ Mã. Thiền sư nhân
đó cảm khái viết bài thi trên. Bài thi khải thị chúng ta
không nên chìm đắm trong quá khứ êm đềm, đừng hạn chế
tâm thức trong không gian nhỏ hẹp như ếch ngồi đáy giếng,
phải mở rộng tầm con mắt. Đại trượng phu chí ở bốn
phương, bốn bể đều là huynh đệ tu hành, không chỉ hạn
chế ở quê hương.
1531. Bài kệ của Thần Chiếu Bản Như.
處
處 逢 歸 路
Xứ
xứ phùng quy lộ
頭
頭 達 故 鄉
Đầu
đầu đạt cố hương
本
來 現 成 事
Bản
lai hiện thành sự
何
必 待 思 量
Hà
tất đãi tư lương.
神
照 本 如
Thần
Chiếu Bản Như
Đường
về khắp mọi chốn
Nơi
nơi đều cố hương
Xưa
giờ tự hiển hiện
Cần
gì đợi tư lương.
(Thiền
môn khai ngộ thi)
Tự
tánh ở khắp mọi nơi, mọi sự việc đều là tự tánh hiển
lộ, không cần phải suy tư để tìm ra nó.
1532.
Tâm bất sinh.
Có
một người bị bệnh cùi muốn xuất gia, xin Bàn Khuê xuống
tóc. Thiền sư đồng ý và tự mình cử hành nghi thức thế
độ. Lúc đó, viên quan lại được Lãnh chúa sai đến phụ
giúp Bàn Khuê tỏ ý bất mãn sao một vị cao tăng tôn quý
lại tiếp xúc với một người bệnh không tinh khiết như
vậy. Bàn Khuê bảo ông:
-
Ta thấy tâm ông còn bẩn hơn người này!
(Thiền
dữ nhân sinh)
Có
sự phân biết sạch bẩn, giầu nghèo, sang hèn, v . v . là còn
ở trong thế giới hiện tượng của nhị nguyên đối đãi.
Nếu có thể trở về cái tâm lúc chưa phân biệt, thì đó
là cái tâm chưa bị ô nhiễm. Cái tâm ấy, Bàn Khuê gọi là
tâm bất sinh.
1533. Người thợ lò rèn.
Có
một người thợ lò rèn vì nuôi dưỡng gia đình, phải gắng
sức làm việc mỗi ngày, cảm thấy rất khổ sở. Một hôm
có một vị cao tăng đến hóa duyên, ông thuận mồm hỏi vị
cao tăng này con đường thoát khổ. Vị cao tăng chỉ cho ông
pháp môn niệm Phật: hễ mỗi lần dùng búa nện xuống thanh
sắt lại niệm một tiếng Phật, mỗi động tác kéo bễ lại
niệm một tiếng Phật. Từ đó người thợ rèn cảm thấy
sinh hoạt rất có ý nghĩa, ngày ngày làm việc rất vui vẻ.
Vài năm sau tâm ông đã đạt tới tịnh độ pháp giới. Một
hôm ông đọc bài kệ:
叮
叮 噹 噹
Đinh
đinh đang đang
百
煉 成 鋼
Bách
luyện thành cương
太
平 將 至
Thái
bình tương chí
我
往 西 方
Ngã
vãng Tây phương
Đinh
đinh! Đang đang!
Luyện
mãi thành gang
Bình
an sẽ đến
Ta
về tây phương.
Nói
xong liền mất.
(Thiền
ngữ không nhân tâm)
Sự
chứng ngộ không phải do suy nghĩ, hoặc dưỡng tĩnh mà là
ở trong thực hiện sinh hoạt mà không bị sinh hoạt kháng
chế. Đó là tĩnh tâm, là chân không diệu hữu nhập vô sinh
pháp nhẫn vậy.
1534. Nguy hiểm.
Đời
Đường, một hôm thi sĩ Bạch Cư Dị đến bái phỏng Điểu
sào thiền sư, thấy thiền sư trú ở trên cây, bèn nói:
-
Chỗ ở của thiền sư rất nguy hiểm.
-
Nếu so sánh thì chỗ ở của thái thú còn nguy hiểm hơn.
-
Chỗ ở của đệ tử có gì nguy hiểm?
-
Tự mình không ngừng khởi tâm động niệm, nơi nơi bị cảnh
chuyển, giống như củi để gần lửa, khiến cho mình lo lắng
không tự tại, lại không nguy hiểm sao?
(Thiền
ngữ không nhân tâm)
Tự
tại là chân chính tỉnh giác, chân chính tự do, chân chính
từ trong hư ảo mà giải thoát.
1535. Cây bách thành Phật.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
-
Cây bách trước sân.
Nhiều
ông tăng hỏi câu hỏi này nhiều lần, Triệu Châu đều lập
lại câu trả lời. Một hôm, một ông tăng hỏi:
-
Cây bách có Phật tánh không?
-
Có.
-
Vậy cây bách lúc nào thành Phật?
-
Đợi hư không rơi xuống đất, sẽ thành Phật.
-
Hư không lúc nào rơi xuống đất?
-
Lúc cây bách thành Phật.
(Thiền
ngữ không nhân tâm)
Câu
đáp của Triệu Châu “Đợi hư khôngrơi xuống đất sẽ
thành Phật” là khẳng định cây bách cũng là khẳng định
tự kỷ. Vấn đề này không cần truy vấn thêm vì chỉ tạo
tranh luận không khế hợp với Đạo. Dưới con mắt thiền
giả một cái cây, một cọng cỏ đều khẳng định sự tồn
tại của nó. Thái độ trọng tự nhiên của người xưa thực
người ngày nay khó theo kịp. Thiền giả coi chủng chủng hiện
tượng của khí thế giới là một loại thần tánh tự mình
khẳng định. Tuy chúng là một vật vô tình, nhưng có thể
thuyết pháp cho hữu tình nghe; tương đối hỗ tương khẳng
định sự tồn tại của nhau. Do đó biểu hiện ra tinh thần
đại từ, đại bi không còn khởi tâm phân biệt vô tình và
hữu tình.
1536. Giáo pháp.
Một
ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
-
Thế nào là giáo pháp chân chính?
-
Giáo là tâm.
-
Tâm con còn phiền muộn làm sao liễu ngộ để giải thoát?
-
Gió cuốn mây phiền, thái hư vắng lặng.
-
Làm sao triệt ngộ thanh tịnh?
-
Một vầng hạo khiết chiếu sáng vạn dậm.
(Thiền
ngữ không nhân tâm)
Hãy
bỏ xuống tất cả lợi hại, được mất, thân thế, địa
vị v . v . thì tâm sẽ được an nhiên tự tại.
1537. Mê.
Triều
Đường, thiền sư Vô Nghiệp nói:
迷
者 不 了
Mê
giả bất liễu
即
爲 境 惑
Tức
vi cảnh hoặc
一
爲 境 惑
Nhất
vi cảnh hoặc
流
轉 不 窮
Lưu
chuyển bất cùng.
Bị
cảnh mê hoặc
Người
mê không xong
Một
khi mê hoặc
Trôi
hoài chẳng ngưng.
(Thiền
ngộ không nhân tâm)
Một
khi đã bị mê thì càng mời gọi nhiều phiền não tới, không
bao giờ được yên. Để đối trị chúng ta nên dùng lòng
từ bi làm cơ sở tu hành, trên báo tứ ân, dưới độ tam
đồ.
1538. Bài thi của Hà Sơn Thủ Thần.
終
日 看 天 不 舉 頭
Chung
nhật khán thiên bất cử đầu
桃
花 爛 漫 始 抬 蛑
Đào
hoa lạn mạn thủy đài mâu
饒
君 更 有 遮 天 網
Nhiêu
quân cánh hữu già thiên võng
秀
得 牢 關 即 便 休
Tú
đắc lao quan tức tiện hưu.
Cả
ngày nhìn trời, đầu chẳng ngửng
Thấy
đào tươi thắm,ngó coi chơi
Dù
có che trời bằng thiên võng
Rõ
được lao quan rồi mới thôi.
(Thiền
môn khai ngộ thi)
Lao
quan là cửa thứ 3 mà người tu phải vượt qua.
1539. Sơn thần thọ giới.
Đời
Đường Tung Nhạc nguyên Khuê là một vị cao tăng, sau kết
am cỏ ở phía nam Tung Nhạc. Một hôm có một vị Sơn thần
đến xin thọ giới. Thiền sư bảo:
-
Ngươi cầu giới, tức đã được giới.
-
Nhưng con vẫn muốn thiền sư chính thức truyền giới, thâu
con làm đệ tử.
-
Được, khi ta truyền ngũ giới cho ngươi, giới nào ngươi
giữ được thì nói giữ được.Giới nào không giữ được
thì nói không giữ được.
Ngươi
có giới dâm được không?
-
Con đã có vợ, phải làm sao?
-
Không phải ý này, mà là không tà dâm.
-
Giữ được.
-
Ngươi có thể giữ được giới không trộm cắp không?
-
Con là Sơn thần tài vật không thiếu, cần chi phải trộm
cắp?
-
Không phải ý này, mà là nếu ngươi tốt gập người xấu
ngươi cũng có thể tha thứ; nếu ngươi không tốt gập người
tốt ngươi cũng có thể làm hại.
-
Giữ được.
-
Ngươi có thể giữ giới không giết không?
-
Con nắm quyền bính xử phạt không thể không giết sao?
-
Không phải ý này, mà là không có đức hiếu sinh.
-
Giữ được.
-
Ngươi có giữ được giới không uống rượu không?
-
Giữ được.
Lễ
truyền thọ ngũ giới đã hoàn tất.
(Thiền
giới không nhân tâm)
Qua
công án trên chúng ta thấy giới là để bồi dưỡng Tĩnh.
Có thể Tĩnh thì không giả, là vô tâm. Tâm vô tâm là chân
tâm. Lúc đó sẽ có óc sáng tạo, tự do, giải thoát.
1540. Một ông tăng lanh lợi.
Đời
Đường, Nam Tuyền trú ở am cỏ. Một hôm có một ông tăng
đến tham phỏng. Nam Tuyền bảo:
-
Ta phải lên núi làm việc, đến bữa ngươi cứ tự nhiên
thổi cơm ăn và mang cho ta một phần.
Đến
bữa ông tăng thổi cơm ăn, rồi lên giường nằm ngủ một
giấc. Nam Tuyền không thấy ông tăng mang cơm tới bèn trở
về am. Thấy ông tăng đang ngủ ngáy khò khò; Nam Tuyền cười
cười leo lên giường ngả mình bên cạnh ông tăng. Được
một lúc, ông tăng tỉnh giấc. nam Tuyền bảo:
-
Lúc trước ta có gặp một ông tăng lanh lợi, hoạt bát, cho
đến nay chưa gặp lại.
Nói
rồi giơ phất tử vẩy vẩy trước mặt ông tăng:
-
Ông tăng lanh lợi ấy có giống cái này không?
-
Không giống.
-
Sao biết? Ngươi gập hắn ở đâu?
-
Nếu thầy muốn biết con gặp hắn ở đâu thì hãy bỏ phất
tử xuống.
-
Ta chứng thực ngươi có cặp mắt trí tuệ.
(Thiền
ngữ không tâm nhân)
Câu
chuyện trên cho chúng ta thấy nếu chúng ta không tự tại thì
liền mất tự do. Ông tăng trên là một người lanh lợi, không
sợ hãi, tự do tự tại nên mới tự nhiên thỉnh thiền sư
bỏ phất tử xuống.
(Đây
là một thoại khác của công án 241)
1541. Địa ngục.
Để
trả lời câu hỏi của một ông tăng về địa ngục. Triệu
Châu bảo:
-
Ta không vào, thì ai vào mà cứu ngươi?
(Thiền
thú 60)
(Xem
công án 71) Triệu Châu là một vị thiền sư rất khôi hài,
lưu lại không biết bao nhiêu là chuyện thú vị. Phật có
10 danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu hiện một đức tính. Nếu
là hiện đại, Phật cũng nên có thêm một danh hiệu nữa
là khôi hài đại sư thì mới khế hợp với người hiện
đại tự do, tự tại. Dưới con mắt nhà thiền, vạn pháp
đều do tâm tạo. Những gì tâm tạo đều là ảo tướng.
Người bình thường chấp ảo là thật nên mới cho là có
thiên đường, địa ngục thật, vì vậy mới có vấn đề
đặt ra câu hỏi:
-
Thiền sư là bậc cao tăng sao vào địa ngục được?
Nhưng
trong tâm thiền sư ngay khái niệm về địa ngục còn không
có thì làm gì có vấn đề vào hay không vào? người chấp
có địa ngục sẽ tự sáng tạo ra những cảnh thân bị dìm
dưới nước sâu, bị lửa đốt. Vì vậy, Triệu Châu mới
khôi hài:
-
Ta không vào thì ai vào cứu ngươi?
1542. Tỷ thí.
Triệu
Châu sau khi tranh luận với Văn Viễn, thừa nhận:
-
Được! Ta thua rồi, mang bánh trái ra đây .
(Thiền
thú 60)
Văn
Viễn là thị giả của Triệu Châu. Triệu Châu rất thích
đùa cợt với ông. Có một lần Triệu Châu đi nhà cầu, thấy
Văn Viễn đi ngang bèn gọi:
-
Văn Viễn!
-
Dạ.
Văn
Viễn định chạy lại, Triệu Châu bảo:
-
Không thể thuyết pháp cho ngươi ở nhà cầu.
Khiến
Văn Viễn cười suýt bể bụng.
Trong
công án này (xem công án 1074) khi Triệu Châu nói:
-
Ta là con lừa!
Và
Văn Viễn nói:
-
Con là con nhặng!
Hai
người không phải chỉ nói khơi khơi mà thực sự họ đã
chứng ngộ vật ngã là một, chủ khách đồng thời dung hợp
vô ngã không tính. Cuối cùng, Triệu Châu phục Văn Viễn đã
khéo nghĩ “Con ở trong đó độ hạ” bèn nhận là mình thua.
Thực ra thắng hay thua có gì phân biệt? Cổ nhân nói thắng
cũng vui, thua cũng thích. Vì vậy người thua được ăn bánh.
Người thường coi phân là bẩn, là thối; nhưng đối với
con nhặng không có những quan niệm về sạch bẩn, thơm thối
thì đó là kho lương thực, là nơi tiêu dao khoái lạc.
1543. Ngươi rất khỏe.
Mã
Tổ bảo ông tăng đến tham Thạch Đầu:
-
Ngươi rất khỏe có thể vác một đống củi từ Nam Nhạc
về Đây.
(Thiền
thú 60)
(Xem
công án 888) Ông tăng trên đường đi, tâm không bỏđống
củi xuống được nên Mã Tổ mới cười ông là rất khỏe.
Trong công án trên khi Thạch đầu bảo:
-
Mã đại sư có giống đống củi này không?
Là
ám chỉ pháp thân bình đẳng, tạo cơ hội cho ông tăng bầy
tỏ kiến địa của mình. Rất tiếc ông tăng tâm như đống
củi đã hạnh phụ tâm ý của Thạch Đầu.
1544. Giết trâu.
Buổi
tiểu tham đêm Trừ tịch, Bắc Thiền bảo đại chúng:
-
Năm cùng, tháng tận chẳng có gì cho các ngươi lão tăng thổi
cơm nấu canh, thịt một con trâu trắng; đốt củi sưởi ấm;
đại chúng cùng ăn, cùng hát dân ca.
Nói
rồi xuống tòa giảng, đi về phòng phương trượng.
Tới
khuya, Duy Na vào phòng phương trượng thưa:
Lính
huyện đến bắt hòa thượng. –Tại sao?
-
Hòa thượng giết trâu mà không nộp thuế.
Thiền
sư ném mũ xuống đất, nhẩy xuống thiền sàng, ôm chặt Duy
Na la lớn:
-
Có trộm, có trộm.
Duy
Na nhặt mũ đội lại lên đầu thiền sư:
Trời
lạnh, trả lại hòa thượng.
Thiền
sư ha hả cười lớn. Duy Na đi ra.
(Thiền
thú 60)
Thiền
giả giống như con nít chơi trò diễn kịch. Bắc Thiền có
lòng từ bi muốn mọi người cùng ăn thịt trâu trắng. Đáng
tiếc thịt trâu trắng chỉ có thể tự ăn. Phật tánh phải
tự kiến, tự ngộ. Sư phụ có lòng đem ngộ kiến tặng đồ
đệ cũng không thể làm được. Vì trâu trắng chỉ có
thể tự giết, tự nấu, tự ăn nên Duy Na chạy đến phòng
phương trượng vấn tội nói lính huyện đến bắt vì tự
giết trâu mà không nộp thuế. Hai người náo loạn một lúc
rồi sao? độc giả hãy tự thể hội?
1545.
Ăn xong, uống trà.
Có
người hỏi Thể Ẩn:
-
12 giờ một ngày làm sao tu?
-
Mặc áo, ăn cơm.
-
Còn việc nào khác không?
-
Có.
-
Là việc gì?
-
Ăn xong, xin một chén trà.
(Thiền
thú 60)
Tu
hành là mặc áo, ăn cơm; lại nữa đừng quên ăn xong uống
một chén trà. Đó là “Tâm bình thường là Đạo” của
thiền tông Trung Hoa. Đây là giai đoạn đã ngộ. nếu ngay
từ đầu đã nói mặc áo, ăn cơm là đạo thì là dối người.
người ngộ đạo thưởng trăng, ngắm hoa, du sơn ngoạn thủy
. . . đều là đạo. Đối với người chưa ngộ
thì tụng kinh, lễ Phật, tọa thiền, trì giới . . . mới là Đạo. 2 hạng người trên như trâu và ngựa chẳng
hợp.
Có
một người tiều phu mang một ít dưa lên núi kiếm củi. Ông
mang dưa ra ăn. Cắn một miếng thấy không ngọt bèn vứt ngay
xuống đất. Lại thử quả thứ hai, thứ 3 . . .
đều không vừa ý, vứt cả xuống đất. ông than:
-
Chẳng có quả nào ăn được!
Ông
bắt đầu đốn củi. một lúc sau mồ hôi ra ướt cả lưng,
khát không thể nhịn được, lại không có nước uống đành
nhặt một quả dưa đã vứt xuống đất lên ăn tạm .
-
Cũng không đến nỗi!
Chiều
tới, khi tiều phu xuống núi, những quả dưa vứt trên đất
đã chui hết vào bụng.
Tu
hành cũng vậy từ “Không có quả nào ăn được” tiến
hóa đến “quả này cũng không đến nỗi” . . . “đại
khái cũng được “ . . .
1546. Phật pháp.
Thị
giả Hội Thông một hôm muốn từ biệt ra đi. Điểu Sào thiền
sư hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Hội Thông này vì pháp xuất gia, chẳng được hòa thượng
từ huấn, nay đi khắp nơi để học hỏi Phật pháp.
-
Nếu là Phật pháp thì ở đây ta cũng có chút ít.
-
Phật pháp của hòa thượng là gì?
Thiền
sư rút một sợi tơ từ trong áo ra thổi phù. Hội Thông tức
khắc lãnh ngộ huyền chỉ.
(Thiền
thú 60)
Công
án này là một thoại khác của công án 89 . Phật pháp
được coi là chân lý tối cao, là tâm pháp giải thoát. Điểu
Sào thiền sư chưa hề đối mặt Hội Thông nói qua. Hội Thông
là một người có đạo tâm, vì Điểu Sào thiền sư không
bảo cho ông nên ông chỉ còn cách đi nơi khác tìm minh sư.
Không ngờ khi Hội Thông đã tuyệt vọng lại nghe Điểu sào
thiền sư nói: “Nơi đây ta cũng có chút Phật pháp” khiến
ông lại hy vọng lại còn háo kỳ: tại sao thiền sư lại
bảo có một chút Phật pháp? Do vậy Hội Thông để hết tinh
thần quán chú. Ai ngờ Điểu Sào thiền sư không nói gì chỉ
rút một sợi tơ từ trong áo giơ lên thổi phù một cái.
Tiếng thổi tuy nhỏ nhưng đối với Hội Thông thì như tiếng
sấm đập vào tâm ông: nguyên lai, Phật pháp không xa, ở ngay
cạnh mình, nơi nơi đều có. Cổ nhân nói: “Đại đạo ở
ngay trước mắt”. Điểu Sào thiền sư từ trước vốn không
nói Phật pháp nhưng trong sinh hoạt mỗi cảnh, mỗi vật, mỗi
lời, mỗi hành động không gì không là chỉ bầy Phật pháp.
1547. Đừng kêu loạn.
Vân
Môn đến tham phỏng Sơ Sơn Nhân. Nhân hỏi:
-
Ở chỗ đắc lực, hãy nói một câu.
-
Nói to lên.
Nhân
lớn tiếng hỏi lại:
-
Hôm nay đã ăn cháo chưa?
-
Ăn rồi.
-
Đã ăn rồi còn kêu loạn lên làm gì?
(Thiền
thú 60)
Vân
Môn Văn Yển là sáng tổ của dòng thiền vân Môn, là một
thiền sư có khẩu tài. Trong công án này Sơ Sơn muốn Vân
Môn nói ra ngộ kiến của mình. Nếu Vân Môn mở cái hộp
nói của mình ra thì nói 3 ngày đêm cũng chưa hết ý. Nhưng
ông dùng một phương pháp cao minh hơn không đáp mà đáp. Hỏi
ngộ kiến của người khác thì cũng giống như lớn tiếng
kêu loạn. Để trả lời Sơ Sơn có nhiều cách:
1.-
Trả lời thẳng vào câu hỏi như: các pháp đều không.
2.-
Dùng thể ngữ trả lời: như giơ một ngón tay lên, hay vẽ
một vòng tròn.
3.-
Dùng 1 câu vô ý thức để diễn tả, không thể dùng lời
nói như 3 cân gai, cây bách trước sân . . .
1548. Sư tử gỗ cắn người.
Vân
Môn đút tay vào miệng sư tử gỗ, kêu lên:
-
Cắn chết ta! Cứu mạng!
(Thiền
thú 60)
Công
án này tình tiết rất ngắn nhưng đầy kịch tính. Con sư
tử bằng gỗ này là toàn thể vũ trụ cụ thể hiển hiện,
là tam thế, thập phương chư Phật, là vô tận trí tuệ, vô
tận chân lý. Con sư tử gỗ của Vân Môn dũng mãnh vô tỷ
cắn chết người thiên hạ; cũng như Vân Môn bị nó cắn
một miếng, một đời dùng hoài không hết, trước khi chết
còn không nhịn được cười: “Cắn tốt lắm!”
1549. Mời uống trà.
Để
trả lời ông tăng mới đến, ông tăng đã đến và Viện
chủ Triệu Châu đều bảo:
-
Mời uống trà.
(Thiền
thú 60)
Xem
chi tiết công án 1000. Trà có công dụng làm tỉnh người.
uống trà là một chuyện bình thường, nhưng từ miệng Triệu
Châu nói ra nó có một hàm ý: uống trà là trở về thân cận
và không xa lìa bản lai diện mục; đó mới là chân chính
làm tỉnh người. Đương nhiên các học tăng khi gặp Triệu
Châu vị tất đã hiểu ý này. Cũng chẳng sao vì Triệu Châu
đợi xem phản ứng của họ để biết trình độ của họ.
Trong công án này, 2 ông tăng trên là 2 ông phàm tăng không
nghi và cũng không khởi nghi tình, theo lời thiền sư giăm giắp
đi uống trà. Đó là những người thật thà thiền sư không
nỡ đùa tiếp. Đến viện chủ thì đặc biệt hơn, ông hé
thấy mật ý của Triệu Châu liền khởi nghi tình nên mới
đặt câu hỏi. Triệu Châu thấy ông có tư cách để đùa
bèn lên tiếng gọi:
-
Viện chủ!
-
Dạ!
Viện
chủ ứng tiếng dạ, rõ ràng là chỉ cho viện chủ Phật tánh
ở nơi này, cái ông hỏi chính là cái này. Về sau Triệu Châu
lại nói :
-
Mời uống trà.
Đó
là thiền sư khôi hài,tin chắc 2 người sẽ nhìn nhau mà cười
lớn. Thực ra, Triệu Châu mời các ông tăng uống trà là tỏ
lòng khiêm nhượng, thân thiết; vì chỉ cần nhìn ánh mắt,
cử chỉ, khí độ, không cần đến lời nói, thiền sư đã
có thể biết công phu thâm, thiển của họ rồi.
1550. Văn Thù cưỡi sư tử.
Có
ông tăng đến tham Tỳ khưu ni Liễu Nhiên. Liễu Nhiên hỏi:
-
Sao ngươi mặc áo rách vậy?
-
Tuy vậy, nhưng là sư tử con.
-
Là sư tử con sao bị Văn Thù cưỡi?
Ông
tăng không trả lời được.
(Thiền
thú 60)
Đây
là một cuộc pháp chiến dùng cơ phong chuyển ngữ. Đương
trường thiền sư tìm một lối ra; Đối phương dùng câu nói
ấy mà chuyển ra ý nghĩa từ thủ trở thành công, trong công
có thủ. Mục đích là hỗ tương ấn chứng kiến địa, đo
lường hư thực. Một vị thiền sư giỏi không những có kiến
địa tồt mà còn phải có năng lực, do được huấn luyện
về cơ phong chuyển ngữ có thể lên võ đài. Cơ phong chuyển
ngữ có khi thấy là vô nghĩa, phản nghĩa, có khi là tỷ dụ,
hư hư thực thực, linh hoạt vô cùng. Trọng yếu là người
nói và người đáp không chấp vào văn tự. Trong công án này,
Liễu Nhiên dùng một câu hỏi, nhường đối phương đáp.
Ông tăng trả lời rất hay. Sư tử tượng trưng cho trí tuệ
quang minh vô lượng của Phất tánh không bị bề ngoài rách
rưới ảnh hưởng. Liễu Nhiên đưa ra chuyển ngữ công kích
bản lai Phật tánh dũng mãnh sao bị người cưỡi? ông tăng
không đáp được. Chúng ta hãy thử đáp thay cho ông:
1.-
Không phải đâu! là sư tử cưỡi Văn Thù.
Đó
là đảo ngược chủ khách phá ngữ pháp của Liễu nguyên
và hiển lộ Phật tánh.
Hoặc
có thể chuyển ngữ pháp của Liễu Nhiên:
-
Sư tử lớn cưỡi sư tử con thì có gì là lạ!
Đó
là đem Văn Thù chuyển thành Phật tánh.
Hoặc:
-
Sư tử của bà chạy đi đâu rồi?
Đó
là chuyển ngữ thủ thành công.
Đây
là do chúng ta suy nghĩ về sau. Còn đương trường câu trả
lời phải như lửa xẹt, không có thì giờ suy nghĩ thì bại
là cái chắc.
1551. Làm sao thành Phật?
Một
ông tăng hỏi huệ Trung:
-
Làm sao để thành Phật?
-
Bỏ cả Phật và chúng sanh xuống thì lập tức giải thoát.
-
Bỏ cả xuống thì làm sao tương ứng với Phật?
-
Không có thành kiến thiện, ác tự nhiên có thể thấy Phật
tánh.
-
Thấy Phật tánh rồi làm sao chứng được Phật thân?
-
Ngươi phải vào cảnh vực Tỳ Lô Giá Na.
-
Làm sao tới được thanh tịnh Pháp thân?
-
Không cầu thành Phật.
-
Cứ như thầy nói thì Phật là gì?
-
Tâm là Phật.
-
Tâm có phiền não, làm sao thành Phật?
-
Để phiền não tự nhiên đi.
-
Cứ như thầy nói, chẳng là đoạn diệt thì là vô ký không
sao?
-
Nếu dùng đoạn diệt trừ phiền não thì là nhị thừa,
để phiền não không sanh mới là đại Niết Bàn.
(Thiền
ngộ không nhân tâm)
Qua
đoạn đối thoại trên chúng ta thấy không là bỏ xuống thành
kiến, chấp trước, tham dục, chỉ trích của người khác
về mình, oán hận, bất mãn khiến tâm linh chân chính phát
xuất tự do, trí huệ. Đó là giác, là thiền, là con đường
thành Phật.
1552. Tránh nóng.
Tào
Sơn bảo ông tăng đứng cạnh:
-
Người ngộ đạo dù trời nóng đến đâu cũng không bị ảnh
hưởng.
-
Dạ phải.
-
Nay nếu trời rất nóng, ngươi đi đâu để tránh?
-
Vào trong vạc nước sôi trong lò để tránh.
-
Như vậy làm sao tránh?
-
Chúng khổ không thể tới đó.
Tào
Sơn im lặng không nói nữa.
(Thiền
thú 60)
Trong
công án này nóng chỉ thống khổ, phiền não của người đời.
Thống khổ và phiền não không thể tránh được. Phải vào
thẳng trung tâm của nó để thấy rõ nó là sản phẩm do tâm
tạo. Vạn pháp do tâm tạo, hiểu được đạo lý này thì
nóng trở thành mát chỉ trong một niệm. người thể ngộ
được điều này thì chúng khổ không thể tới được. Tào
Sơn im lặng vì ông tăng nói đúng, không có chỗ nào sơ hở
để đả kích. Tuy vậy, đây là kiến giải do ông tự chứng
nghiệm hay chỉ là nói mồm; phải chờ quan sát rồi mới biết.
1553. Đơn Hà đốt tượng.
Ở
Huệ Lâm Tự, trời lạnh, Đơn Hà đem tượng Phật bằng gỗ
ra đốt. đại chúng vặn hỏi, ông nói:
-
Ta đốt để tìm xá lợi.
Tượng
gỗ làm gì có xá lợi?
-
Vậy, sao còn trách ta.
(Thiền
thú 60)
Người
thường lễ Phật để sám hối hay cầu xin. Nhà thiền không
chú trọng đến việc lễ Phật mà nỗ lực tìm Phật tánh
ở nội tâm. Vậy thiền giả không lễ Phật sao? Không phải
vậy, đối với người đã thấy Phật tánh, nơi nơi đều
thấy Phật, lễ tượng Phật nào có trở ngại gì. Nếu có
lễ thì cũng là lễ với tâm không chấp, không cầu. Chỉ
Đơn Hà mới có gan đem tượng Phật ra đốt. Chúng ta không
thể bắt chước Đơn Hà nếu không cũng như chó con thấy
sư tử nhẩy cũng nhẩy nếu không chôn thây mất mạng thì
cũng trầy da tróc vẩy. Cũng đừng học theo Nam Tuyền chém
mèo, hễ gập mèo đâu là giết đó. (Xem thêm công án 50)
1554. Dưới núi có hổ.
-
Dưới núi Đại Hùng có một con hổ, các ngươi phải cẩn
thận, lão tăng hôm nay đã bị nó cắn một miếng đấy.
(Thiền
thú 60)
Xem
chi tiết công án 1012. Con hổ ở đây chỉ phiền não, vọng
niệm, thành kiến. Con hổ ăn thịt người; phiền não, vọng
niệm, thành kiến cũng có thể giết người. Hoàng Bá giả
tiếng hổ gầm là nói con là hổ, là phiền não. Bách Trượng
giả bộ giơ búa lên chém là bảo sao không chặt đứt phiền
não đi? Hoàng Bá biết thầy thử mình bèn thoi lại một quả,
ý nói sư phụ làm vậy sao được vì phiền não cũng là tự
tánh hiển lộ. Bách trượng nhận được cú đấm rất vui
và khen ngợi Hoàng Bá.
1555. Lâm Tế ngủ.
Lâm
Tế đang ngủ ở Tăng đường, Hoàng Bá vào trông thấy, lấy
gậy gõ vào giường. Lâm Tế mở mắt ra thấy Hoàng Bá liền
nhắm mắt lại ngủ. Hoàng Bá lại lấy gậy gõ vào giường
một cái rồi sang phòng bên, thấy thủ tọa đang ngồi thiền,
bèn nói:
-
Ở gian trước gã tiểu tử đang ngồi thiền, còn ngươi ngồi
đây vọng tưởng cái gì?
-
Ông già này làm gì vậy?
Hoàng
Bá lấy gậy gõ vào giường một cái rồi ra.
(Thiền
thú 60)
Lâm
Tế ngủ thì Hoàng Bá lại nói là đang thiền, thủ tọa thiền
thì Hoàng Bá lại nói là đang vọng tưởng; thế có phải
là điên đảo không? Câu trả lời là không. Thường thì người
ta cho ngủ là trạng thái vô tri, vô giác, có thể tạo mộng.
Còn thiền là tâm từ phù trầm tới tỉnh thức nhất tâm,
nhất cảnh cho tới định vô tâm, vô niệm.
Lâm
Tế là người đã đại ngộ, tỉnh và mộng là một. Tỉnh
thì dĩ nhiên là tốt, nhưng hôn trầm cũng không sao. Người
đại ngộ không thích tỉnh cũng không ghét hôn trầm; dù tỉnh
hay mộng người đó đều có một loại thần chí thanh tỉnh
gọi là Đạo Cộng Định xuyên suốt tỉnh mộng, khiến lúc
nào cũng làm chủ được mình. Do đó khi Lâm Tế bị Hoàng
Bá gọi tỉnh, lại nhắm mắt ngủ lại. Còn Thủ tọa ở
đây có lẽ là Mục Châu Trần Tôn Túc, một cao đồ của
Hoàng Bá. Hoàng Bá nói Lâm Tế đang tọa thiền sao ngươi lại
ngồi đây vọng tưởng? là lừa dối Trần Tôn Túc. Cứ cho
là Trần Tôn Túc ngồi thiền để trừ vọng tưởng đi. Vọng
tưởng, niệm đầu cũng là Phật tánh phù trầm du hý, không
có gì là không tốt. Câu nói của Hoàng bá là một ngữ bệnh,
do đó Trần Tôn Túc nói thẳng:
-
Ông già này nói bậy gì đó?
Hoàng
Bá không chiếm được tiện nghi chỉ còn cách gõ vào giường
tỏ ý chấp nhận rồi ra.
Xem
lại công án 552, lời bình của 2 tác giả khác hẳn nhau.
1556. Viên Chân bảo Châu.
Thế
Tôn giơ một viên bảo châu cho 5 vị thiên vương xem và hỏi
có mầu gì? Năm vị thiên vương mỗi người nói một mầu
khác nhau. Sau đó Thế Tôn cất viên bảo châu đi, xoè bàn
tay không ra hỏi mầu gì? 5 vị thiên vương thưa:
-
Trong tay Thế Tôn không có châu thì sao nói có mầu gì được?
-
Sao các ngươi mê muội thế! Khi ta giơ viên bảo châu ra thì
các ngươi nói xanh, vàng, đen, đỏ, trắng. Khi ta giơ viên
chân bảo châu ra thì các ngươi lại không biết.
5
vị thiên vương hoảng nhiên đại ngộ.
(Thiền
thú 60)
Nhìn
viên bảo châu, mỗi thiên vương nói ra một mầu là tỷ dụ
cho mọi người đều có cái nhìn khác nhau đối với một
sự vật, chỉ thấy một cách hạn hẹp, cho đó là chân lý.
Nói theo Thiền môn thì là mỗi người ở chỗ thể nghiệm
của mình chỉ thấy một phần của Đạo, nhưng nghĩ là mình
thấy được toàn phần, là cứu cánh rồi, còn những người
khác là không đúng. Do đó mà sinh ra nhiều Tông, Phái. Khi
Thế Tôn giơ bàn tay không ra nói là viên Chân bảo châu là
chỉ Phật tánh ai ai cũng có, nó vô hình, vô tướng, gán cho
nó một danh từ là chấp tướng, càng lìa xa nó.
Xem
thêm công án 1017.
1557. Không thiếu gì.
Thanh
Nguyên Hành Tư hỏi Hy Thiên:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Tào Khê.
-
Đem gì tới?
-
Không đến Tào Khê cũng chẳng thiếu gì.
-
Vậy đến Tào Khê làm gì?
-
Nếu không đến thì làm sao biết không thiếu gì?
Hy
Thiên hỏi lại Hành Tư:
-
Tào Khê đại sư có nhận biết hòa thượng không?
-
Nay ngươi có nhận biết ta không?
-
Làm sao dùng nhận thức mà biết hòa thượng được?
-
Trong đám vô số sừng, chỉ cần một con kỳ lân là đủ.
(Thiền
thú 60)
Khi
Lục tổ sắp viên tịch, Hy thiên mới 13 tuổi. Hy Thiên hỏi
tổ:
-
Hòa thượng qua đời rồi con biết nương tựa vào ai?
-
Tầm tư.
Kết
quả là sau khi Lục tổ mất, Hy Thiên thường tìm nơi vắng
vẻ tọa thiền suy tư. Về sau có người hỏi:
-
Ngươi ngốc tọa ở đây để làm gì?
-
Khi Hòa thượng lâm chung có bảo tôi tầm tư.
-
ngươi hiểu lầm rồi, tổ bảo ngươi đi tìm sư huynh Hành
Tư đó!
Do
đó Hy Thiên mới đến tìm Hành Tư.
Khi
Hành Tư hỏi:
-
Mang gì đến?
Hy
Thiên hiểu là hỏi về tự tánh nên đáp:
-
Chưa đến Tào Khê cũng chẳng thiếu gì?
Biểu
thị tự tánh vốn tự đầy đủ, vốn chưa mất bao giờ,
không cần mang tới vì nó ở khắp càn khôn, vũ trụ.
-
Nếu đã vậy, sao còn phải tới Tào Khê?
-
Nếu không đến thì làm sao biết không thiếu gì?
Tuy
tự tánh vốn tự đầy đủ nhưng người phàm tục bị vọng
tưởng chấp trước che mất nên cần có minh sư chỉ cho biết
sự tồn tại của nó.
Xem
thêm công án 1060.
1558. Ngón tay thần kỳ.
Có
ông tăng hướng ngũ Phong Thường Quán từ biệt. Thường Quán
hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Ngũ Đài Sơn.
Thường
Quán giơ một ngón tay lên bảo:
-
Nếu ngươi gập văn Thù thì tới đầu ngón tay này gặp ta.
Ông
tăng không biết đáp làm sao.
Lại
một ông tăng khác đến từ biệt. Thường Quán bảo:
-
Ngươi đến đạo tràng khác đừng hủy báng lão tăng, nói
lão tăng ở đây.
-
Con không nói Hòa thượng ở đây.
-
Ngươi nói ta ở đâu?
Ông
tăng giơ một ngón tay lên.
-
Ngươi trả lời như vậy là sớm đã hủy báng lão tăng rồi.
(Thiền
thú 60)
Thường
Quán giơ một ngón tay lên là chỉ Phật tánh. Phật tánh ở
khắp mọi nơi kể cả đầu ngón tay của Thường Quán. Do
đó bất kể ông tăng thấy văn Thù ở đâu cũng không lìa
đầu ngón tay này. Ông tăng có thể trả lời:
-
Văn Thù ở trên đầu ngón tay này nhìn con mỉm cười.
Thấy
Văn Thù là kiến Phật tánh. Nếu ông tăng giác ngộ thì đầu
ngón tay có ngũ Đài Sơn, có Văn Thù giơ ngón tay lên . . .
Ông
tăng thứ nhì có truyện trước làm gương, biết ngón tay diệu
dụng vô cùng, vì vậy khi Thường Quán hỏi:
-
Ngươi nói ta ở đâu?
Bèn
giơ ngón tay lên.
Đáng
tiếc, ngón tay Thường Quán giơ lên là đúng, nhưng ông tăng
giơ lên lại là họa hổ thành khuyển. Thiền thể ngộ phải
từ tâm ra chứ không phải bắt chước từ bên ngoài. Ông
tăng thứ hai mặc dầu rất mẫn tiệp nhưng cũng không thoát
khỏi tội danh hủy báng. Thế nào là hủy báng? Đó là trên
sự thật lại để thêm hư giả, chấp vào khái niệm làm
ô nhiễm bản lai diện mục. Đó là hủy báng, Hủy báng lớn
nhất của con người là chấp ngã. Từ chấp ngã mà trôi lăn
vào hố cát lún rất khó tự thoát ra được.
1559. Hạt châu huyền huyền.
Có
ông tăng hỏi Phổ Thông Phổ Minh:
-
Phật tánh là thế nào?
-
Không cần hỏi, ngươi không có Phật tánh.
-
Mọi sinh vật, ngay cả côn trùng cũng có, sao con lại không
có?
-
Vì ngươi chỉ tìm bên ngoài.
-
Hạt châu huyền huyền là sao?
-
Hạt châu huyền huyền của ngươi đã mất rồi.
(Thiền
thú 60)
Hạt
châu huyền huyền là chỉ Phật tánh. Khi một người chấp
trước tưởng từ danh cú tìm ra tung tích của Phật tánh thì
không thể thấy được. Vì vậy Phổ Minh bảo ông tăng đừng
hỏi, nhưng ông tăng không nghe cứ hỏi tiếp. Vì vậy, Phổ
Minh mới bảo thẳng ông:
-
Hạt châu huyền huyền của ngươi đã mất rồi.
Ông
tăng nhận rằng xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, đó
là kiến thức đọc từ kinh điển mà ra chứ không phải tự
chứng ngộ. ngay Phật tánh của mình còn chưa chứng ngộ mà
nói xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh chẳng là hoang
đường sao?
1560. Trâu tốt không cần người chăn.
Động
Sơn tuần thị ngoài đồng gặp thượng tọa Lương đang dắt
trâu. Động Sơn bảo:
-
Phải để ý con trâu này, đừng để nó ăn lúa ruộng.
-
Nếu là trâu tốt thì không ăn vụng lúa.
(Thiền
thú 60)
Các
thiền sư Trung Quốc phần lớn tham gia lao động, thậm chí tự mình cầy cấy. người hiện tại, nhiều người bị bệnh
tật như mắt hoa, đầu váng, mệt mỏi, mất ngủ, lo lắng,
v . v . Nếu có thể cải biến sinh hoạt tham gia tác vụ chắc
chắn không còn những bệnh trên. Chăn trâu là công việc bình
thường của nhà nông, nhưng dưới con mắt của nhà Thiền
thì đâu đâu cũng là thiền.
-
Coi chừng trâu đừng để nó ăn vụng lúa.
Là
chỉ phải coi sóc tâm, đừng để tâm viên ý mã, tác quái.
Câu trả lời của thượng tọa Lương rất khí phách, rất
có chất lượng. Một người đã thấy Phật tánh, đã thưởng
qua thiền vị thì sẽ không bao giờ quên được. giả sử
ngẫu nhĩ mê chạy theo vật, nhưng một khi phát hiện liền
hồi quang phản chiếu cùng Phật tánh đánh thành một phiến.
Công phu càng sâu thì ngay niệm đầu ăn cỏ còn không sinh
thì hà tất phải lo.
1561. Tùy chứng cho thuốc.
Văn
Thù bảo Thiện Tài Đồng Tử:
-
Hái bất cứ cái gì là thuốc đưa ra đây.
Thiện
Tài Đồng Tữ hái một nhánh cỏ đưa ra, Văn Thù giơ lên
bảo đại chúng:
-
Cái này có thể giết người, cũng có thể cứu người.
(Thiền
thú 60)
Thuốc
dùng để trị bệnh, bệnh nào phải dùng thuốc nấy. Đối
với bệnh nhân thì thuốc có tác dụng chữa bệnh, nhưng khi
đã lành rồi nếu còn dùng nữa thì thuốc sẽ trở thành
chất độc. Trong đời thường danh tiếng, tiền tài, quyền
lực có thể cứu người nhưng cũng có thể giết người.
Phật pháp cũng vậy nếu khéo xử dụng thì có thể giúp chúng
sanh lìa khổ, được vui; nếu không biết xử dụng thì Phật
dược sẽ trở thành Phật độc
Xem
thêm công án 112.
1562. Quốc sư bao nhiêu tuổi?
Quốc
sư Huệ Trung họ Vệ, người Chi Giang, Kinh Châu, đắc pháp
nơi ngũ Tổ Hoàng Mai. Tùy Dạng Đế, Đường Cao Tông đều
hạ chiếu vời sư, nhưng sư không tới. Đến thời Võ hậu
dùng sư lễ thỉnh, sư mới về kinh. Một hôm, Võ hậu thưa:
-
Thiền sư bao nhiêu tuổi?
-
Không nhớ.
-
Tại sao lại không nhớ?
-
Cái thân sanh tử tuần hoàn này chẳng biết khởi từ đâu,
tận lúc nào, nhớ làm gì? Huống chi tâm này trôi hoài liên
tục không gián cách, thấy vọng tưởng khởi diệt như bọt
nước có đó rồi mất đó. Từ thức ban đầu đến động
diệt tướng đều như vậy, biết năm tháng nào mà nhớ.
(Thiền
tông đích lịch sử dữ văn hóa)
Võ
hậu nghe rồi, cúi đầu tin nhận.
1563. Con tên Huệ Nhiên.
Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch hỏi Tam Thánh Huệ Nhiên:
-
Ngươi tên chi?
-
Huệ Tịch.
-
Huệ Tịch là tên lão nạp.
-
Vậy sao, con tên Huệ Nhiên.
Ngưỡng
Sơn ha hả cười lớn.
(Thiền
thú 60)
Đối
với thiền giả đã chứng ngộ, tâm không còn vấn đề nào
tồn tại. Chú ý, khai ngộ không phải là kiếm được tất
cả mọi đáp án, mà là tất cả mọi vấn đề đều biến
mất không còn hình bóng.
-
Ngươi tên chi?
Xin
lỗi, đây không phải là vấn đề, nhưng thầy đã hỏi con
tùy tiện mà đáp:
-
Con tên Huệ Tịch.
Cái
gì? ngươi nói Huệ Tịch là tên ngươi, vậy ngươi bảo ta
đã đoạt tên ngươi sao? Nếu vậy ta không lấy nữa, nhường
tên này cho ngươi.
-
Vậy sao, con tên Huệ Nhiên.
Đã
vậy, con tên Huệ Nhiên, nhiều người cũng gọi con vậy. Dù
thầy có gọi con là chó con, mèo con, rùa đen, heo mập con cũng
không phản đối. Thực ra, thầy gọi con là gì đối với
con vô quan, ngay chính con cũng còn chưa tìm thấy con, còn ngại
gì thầy đặt tên.
Xem
thêm công án 51.
1564. Trộm quả.
Có
ông tăng mới đến tham học, vừa lễ xong Trần Tôn Túc hét
lên:
-
Xà lê, sao ngươi lại ăn trộm quả của thường trú.
-
Con vừa tới, sao hòa thượng lại bảo con ăn trộm quả?
-
Lại còn nói, tang vật rành rành.
(Thiền
thú 60)
Rõ
ràng là ông tăng không ăn trộm quả, nhưng Trần Tôn Túc gán
một chuyện không có lên mình ông tăng là có thâm ý. Người
thế gian coi mọi sự việc hư ảo: danh lợi, khoái lạc, thống
khổ, v . v. là có thật. Xin hỏi tự biết mình không ăn trộm
vì sao phải phân biện?
Thứ
nhất là ông chấp ngã. Ngã bị ngộ nhận phải giải thích.
Thứ
hai: ông thấy bị ngộ nhận là không tốt, không vui, ngã không
thích cảm giác này.
Thứ
ba: ông cho sự chỉ trích của trần Tôn Túc là thật nếu
ông không giải thích thì bị mang danh ăn trộm.
Chỉ
một câu nói, Trần Tôn Túc đã làm ông tăng lộ nguyên hình.
Đợi ông nói xong, Trần Tôn Túc bảo: Tang vật rành rành,
ý nói ngươi chưa giác ngộ, không đánh mà khai. Chắc ông
tăng sau lần tham học này sẽ khắc cốt ghi tâm cảnh giác
tự ngã. Sẽ có một ngày ông thấy rõ, lúc đó ông sẽ lớn
tiếng:
-
Đúng rồi, con là trộm, trộm quả để ăn.
Xem
thêm công án 636.
1565. Bí mật nơi ngươi.
Minh
thượng tọa sau khi được Lục tổ khai thị, mồ hôi ra cùng
mình, khóc lạy thưa rằng:
-
Ngoài thiền môn tâm pháp này còn mật ý gì nữa không?
-
Hôm nay ta nói cho ông thì chẳng phải là mật, ông tự phản
chiếu tự tâm thì mật ở nơi ông.
(Thiền
thú 60)
Đạo
Minh lúc khai ngộ, toàn thân xuất mồ hôi. Đó là một sự
kiện đáng lưu ý. Thân và tâm có quan hệ mật thiết, một
thể lưỡng diện. Tâm khai ngộ là một sự kiện kinh thiên
động địa, thân không thể không phản ứng. Nếu một người
nói mình đã khai ngộ mà thân không có chút phản ứng thì
đó chỉ là ý thức lướt qua, chưa hẳn là hoàn toàn khai
ngộ, cần tinh tiến thêm. Như lời Lục tổ nói hãy tự phản
quán tự tâm, tất cả ảo bí đều ở trong đó.
1566. Đường Thạch Đầu trơn.
Đặng
Ẩn Phong đến tham Thạch Đầu 2 lần. Đến nơi, hỏi tông
chỉ của Thạch Đầu là gì? Lần thứ nhất Thạch đầu ngẩng
đầu nhìn trời than:
-
Trời xanh!
Lần
thứ hai, Thạch Đầu hứ 2 tiếng.
Ẩn
Phong không đáp được về trình Mã Tổ, Mã Tổ bảo:
-
Ta đã chẳng bảo ngươi đường Thạch đầu trơn lắm sao?
(Thiền
thú 60)
Trời
xanh dụ cho hư không, chỉ tự tánh. Có một khoảng thời gian
thiền gia ưa dùng từ giả tá này. Thạch Đầu dùng từ này
lần đầu rất hoàn mỹ, nhưng nếu dùng lại lần thứ hai
thì sẽ là chấp tướng. Do đó lần thứ hai Thạch Đầu không
dùng mà chỉ hứ hai tiếng. Tiếng hứ vô nghĩa nhưng đồng
âm với Hư nên cũng chỉ tự tánh.
Ẩn
Phong sau hai lần thất bại này, trở về cố gắng tu tập,
sau trở thành một vị thiền sư nổi tiếng.
Xem
thêm công án 1019.
1567. Cây bách trước sân.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?
-
Cây bách trước sân
(Thiền
phong để diễn biến)
Tại
sao hỏi “ý Tây sang” mà lại đáp “cây bách trướic sân”?
Câu đáp là toàn bộ pháp, cưa không được, cắn không đứt,
có thể giải thích cho rõ không? Có thể. Cổ nhân không chịu
giải thích vì cái đó đã hiện thành. Nếu hiểu đem Phật
pháp nhân cách hóa thì không cần phải giải thích, đã không
nghi thì sẽ không tái nghi. Có một chuyện cũ có thể giải
thích công án cây bách trước sân. Đời Tống, có một lần
một vị quan Đề Hình đến hỏi Phật pháp với ngũ tổ Diễn.
Ngũ tổ Diễn hỏi:
-
Đề Hình có đọc qua hai câu thơ Tiểu Diễm không?
-
Là hai câu nào?
-
Là hai câu này:
Cô
nàng gọi mãi những vô ích
Chỉ
thằng tốt mã nghe ra thôi.
Xem
công án 293.
Thơ
Tiểu diễm là một bài thơ tình, kể chuyện có một vị tiểu
thư dắt một con a hoàn đi xem hội. Tiểu thư liếc thấy người
yêu ở gần đó, bèn lớn tiếng gọi:
-
Tiểu Ngọc! Tiểu Ngọc!
-
Tiểu thư, có chuyện gì?
Tiểu
thư không đáp. Có chuyện gì vậy? Chả có chuyện gì cả,
chỉ là tiểu thư hy vọng tình lang nghe được tiếng và biết
nàng đang ở đó. Chỉ là vậy thôi. Nếu còn chưa rõ thì
xin kể thêm một chuyện nữa. Có một vị thiền sư mỗi lần
giảng pháp xong, sắp bước xuống tòa giảng đều hỏi:
-
Mọi người hiểu không?
Mọi
người đều không trả lời, chỉ rằng không hiểu. Thiền
sư gõ xuống bàn “cạch’ một tiếng. Tiếng “cạch’ đó
và “cây bách trước sân” hoàn toàn giống nhau, chỉ là
một loại âm thanh mà thôi.
Xem
thêm công án 246.
1568. Cưỡi lừa không chịu xuống.
Xưa
có một ông tăng cưỡi lừa, hỏi chư tăng đi đâu? Chư tăng
đáp:
-
Tới đạo trường.
-
Chỗ nào chẳng là đạo trường!
Chư
tăng xúm lại đánh và mắng:
-
Gã này chẳng có đạo lý gì cả, tới đạo trường mà còn
cưỡi lừa.
(Thiền
thú 60)
Chư
tăng đánh ông tăng đó vì ông nói chỗ nào cũng là đạo
trường còn đi đâu chứ. Nói vậy thì ngươi đang ở đạo
trường mà còn cưỡi lừa là không lễ phép gì cả, đáng
đánh. Cao thâm hơn thì là ông tăng cưỡi lừa biết cách cưỡi
và cũng biết cách xuống; dùng đôi chân của mình mà đi.
Đã biết chỗ nào cũng là đạo trường thì nơi chư tăng
đến cũng là đạo trường; lời chẳng khế hợp với pháp.
Cưỡi lừa không chịu xuống hình dung một người đối với
một sự việc tốt nhưng vì chấp trước đã biến tốt thành
xấu. Tỷ dụ như muốn thành tựu, bất kể là học nghiệp
hay sự nghiệp, tự mình cố gắng đạt tới thành công, nhưng
thành công rồi lại tự cao, tự đại. Đó là cưỡi lừa
mà không chịu xuống. Đối với người tu đó là tình trạng
tương đương ngộ cảnh không chịu ra khỏi. Vào được mà
ra không được để phát huy đại cơ, đại dụng, không thể
tiến lên cao hơn, đối với chúng sanh vô ích.
1569. Hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang.
Bàng
Uẩn hỏi Mã Tổ:
-
Ai là người không cùng vạn pháp là bạn?
-
Đợi ngươi hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang ta sẽ
bảo.
(Thiền
thú 60)
Câu
trả lời của Mã Tổ có nghĩa là tự tánh không thể dùng
lời mà nói được. Nhưng nói thẳng ra như thế thì không
thú vị, không làm chấn động người nghe; phải nói như Mã
Tổ mới có sức mạnh lôi cuốn. Xét kỹ thì một hớp cạn
nước tây Giang không phải là không thể làm được vì Phật
pháp có giảng hạt cải đựng núi Tu Di, đả phá sự chấp
trước không gian có to, nhỏ của con người. Lục tổ cũng
có nói ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ, có thề sinh
ra vạn pháp. Tự tánh khi nhỏ thì không có gì ở trong, khi
lớn thì không có gì ở ngoài nó. Sơn hà đại địa đều
ở trong tự tánh. Do đó hớp một ngụm cạn hết nước tây
Giang thì cũng chẳng có gì là lạ. Câu nói của Mã Tổ xét
về phương diện phủ định thì tự tánh không thể dùng lời
để diễn tả được, xét về phương diện khẳng định thì
tự tánh là chân lý tuyệt đối không có lớn nhỏ sai biệt.
Nhưng điều trọng yếu ở đây là câu nói của Mã Tổ như ngón tay chỉ cho Bàng Uẩn thấy mặt trăng. Câu nói hợp
thời, hợp chỗ khiến Bàng Uẩn khai ngộ. Nếu đem câu nói
này dùng như một khẩu quyết khai ngộ đưa cho người khác
ở chỗ khác, lúc khác thì chưa chắc đã làm cho họ giác
ngộ. Thời tiết, nhân duyên là xử dụng đúng lúc, đúng
sự, đúng lời, là kỹ năng cơ bản của thiền sư.
Xem
thêm công án 988.
1570. Vừa rồi là khóc, bây giờ lại cười.
Bách
Trượng bị Mã Tổ bóp mũi trở về liêu phòng buông tiếng
khóc lớn. bạn đồng môn hỏi có phải nhớ nhà hay bị ai
mắng chửi gì không mà lại khóc. Bách Trượng bảo:
-
Ta bị sư phụ bóp mũi đau quá.
-
Giữa hai thầy trò có chuyện gì vậy?
-
Ngươi đi mà hỏi sư phụ.
Ông
tăng đi hỏi Mã Tổ, Mã Tổ bảo:
-
Hắn biết mà, đi hỏi hắn sao lại hỏi ta?
Ông
tăng trở lại kể cho Bách trượng. Bách Trượng cười ha
hả. Ông tăng không hiểu hỏi:
-
Vừa mới khóc, sao giờ lại cười?
-
Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười!
(Thiền
thú 60)
Người
vừa mới ngộ, khóc lớn là hiện tượng bình thường. Các
nghi hoặc tích lũy áp chế giờ tiêu tan như sương buổi sớm.
Lại có người sau khi ngộ lại cười như điên. Phương pháp
tốt nhất là sau đó ngủ một giấc, tỉnh dậy nếu thấy
ngộ kiến không còn thì đó là giả ngộ, qua rồi thì
thôi, không vì quá vui mà phát cuồng là tốt rồi; Chỉ cần
còn núi xanh thì không sợ thiếu củi đốt. Nếu ngộ kiến
còn thì đó là chân chánh khai ngộ. Đồng môn hỏi sao vừa
mới khóc giờ lại cười? Bách trượng nói:
-
Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười!
Đó
là câu hỏi vì câu hỏi., là câu trả lời tốt nhất. Nếu
ông tăng cảnh tỉnh thì ngay đó có thể khai ngộ. Thiền
sư không phải là không có hỷ, nộ, ai, cụ mà là tình cảm
đơn thuần, đến thì đến, đi thì đi do đó khóc rồi liền
cười, không như người thường khóc rồi phải một thời
gian sầu thảm không thể lập tức cười ngay được.
Tiến
thêm một bước nữa, đau thì khóc, vui thì cười, tất cả
đều tự nhiên không bị tập tục, lễ tiết, kinh nghiệm
làm ô nhiễm chỉ là bình thường tâm là Đạo, đơn giản
như vậy thôi.
Xem
thêm công án 615.
1571. Không phải, không phải, đều không phải.
Có
ông tăng tham Đại Huệ Tông cảo, vừa bước vào phòng Đại
Huệ bèn thét:
-
Không phải! Đi ra!
Ông
tăng nghe lời đi ra, Đại Huệ nói thêm:
-
Thật là tên tiểu tử không có khí lượng, vì một câu nói
đã bị người đuổi ra, là nô tài cho ngôn ngữ.
Ông
tăng thứ nhì bước vô phòng:
-
Không phải! Đi ra!
Ông
tăng này rút kinh nghiệm từ ông tăng trước, không đi ra mà
tiến lại gần Đại Huệ.
-
Đã nói với ngươi không phải rồi, còn đến gần ta cầu
gì?
Bèn
giơ gậy lên đánh đuổi ra.
Ông
tăng thứ ba biết chuyện hai ông tăng trên vừa bước vào
phòng đã chủ động nói ngay:
-
Hai ông tăng vừa rồi không rõ ý sư phụ.
Đại
Huệ đổi chiêu thức mới, cúi đầu hư một tiếng. Ô ng
tăng không biết nói sao. Đại Huệ lại giơ gậy vừa đánh
vừa bảo:
-
Ngươi còn nói ngươi rõ ý ta.
(Thiền
thú 60)
Người
ta hướng ông cầu đạo ông mắng đuổi ra, đánh đuổi ra,
ông có từ bi không? Chính những hành động này biểu thị
thủ đoạn cao minh, từ bi của tông cảo. Thiền không phải
là nhét cho đầy não một số giáo tài cho thiền sinh là có
thể cho họ tốt nghiệp. Thiền sư yêu cầu thiền sinh phải
có tâm nhẫn nại. Chờ tới khi thiền sinh đã chuẩn bị đầy
đủ rồi thiền sư mới châm ngòi dẫn hỏa. Một điều nữa
là phải đợi đúng thời cơ, nếu ra tay sớm quá sẽ không
có công hiệu. Trong công án trên chúng ta có thể thấy thủ
đoạn linh hoạt của Đại Huệ Tông cảo. Khi thời cơ của
thiền sinh chưa tới thì không cần phải nói nhiều. Điều
cần yếu là gieo cho họ một chủng tử nghi tình, làm lay động
nhận thức cương ngạnh của họ, đợi tới đúng lúc sẽ
ra tay hành động.
1572. Vịt trời bay đi rồi.
Bách
Trượng là thị giả của Mã Tổ, một hôm cùng tản bộ với
Mã Tổ, thấy một bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ hỏi:
-
Là con gì?
-
Vịt trời.
-
Bay đi đâu?
-
Bay đi rồi.
Mã
Tổ bỗng nhiên bóp mũi Bách Trượng. Bách Trượng bị đau
kêu lên một tiếng.
-
Ngươi còn nói bay qua rồi!
Bách
Trượng lập tức khai ngộ.
(Thiền
thú 60)
Đối
với thiền sư mà nói không đâu không là thiền, trong bất
cứ hoàn cảnh nào, trước một cảnh vật nào thiền sư cũng
có thể chỉ thị thiền tâm cho đệ tử. Tương tự như tiểu
thuyết kiếm hiệp, một đại kiếm sư không cần có kiếm
trong tay, chỉ với một cọng cỏ cũng có thể lấy đầu kẻ
địch giữa chốn thiên binh vạn mã. Mã Tổ há lại không
biết vịt trời sao? Bách Trượng thiếu cảnh giác. Mã Tổ
đã rút thiền kiếm ra rồi mà ông còn đáp là vịt trời,
ngay thiền cơ cũng không biết. Nếu là pháp chiến Bách Trượng
đã bị kiếm xuyên tâm rồi. Mã Tổ cầm sát nhân kiếm chính
là muốn giết đi những chấp trước của đệ tử, khiến
ông khai ngộ. Nhát kiếm của Mã Tổ như hư như thật; nếu
như đối phương phản ứng lại thiền cơ. Mã Tổ sẽ cười
lớn, chấp nhận ông có cơ cảnh thấy chiêu chiết chiêu.
Mã Tổ lại đưa ra chiêu mới.
-
Bay đi đâu?
-
Bay đi rồi!
Đối
với hiện tượng giới câu đáp của bách trượng là đúng.
Nhưng câu hỏi của Mã Tổ hàm 2 ý: một là hỏi về hiện
tượng, một là hỏi về bản thể. Vịt trời tượng trưng
cho Phật tánh. Phật tánh lại bay tới bay đi ư?
Không,
Phật tánh là như như bất động, nhưng vì người thường
chấp vào hiện tượng nên đánh mất bản tánh. Câu hỏi của
Mã Tổ có ý là Phật tánh đi đâu? nếu Bách Trượng đáp:
-
Con ở đây.
Thì
cũng đúng được 60%, nhưng còn chấp vào Văn tự. Nhưng nếu
Bách Trượng lợi hại hơn, im lặng không nói chỉ nhìn Mã
Tổ thì đạt được 70%. Nếu Bách Trượng lợi hại hơn nữa
giơ tay đánh mã Tổ một đấm thì đó là tiên hạ thủ vi
cường đạt được 80%, là kiến địa, là có khí phách. Đáng
tiếc, lúc đó Bách Trượng còn chưa khai ngộ. Mã Tổ đột
nhiên biến chiêu, bóp mũi Bách Trượng. Bị đau Bách Trượng
tức khắc cảm thụ sự tồn tại của chính mình. Lúc đó
Mã Tổ nói:
-
Ngươi còn nói vịt trời bay đi rồi!
Ý
nói Phật tánh chính ở đây, do đó ngươi mới cảm thấy
đau.
Xem
thêm công án 1041.
1573. Thiền sư vô tình vô nghĩa.
Giản
thiền sư lúc chưa khai ngộ. Có một lần ở bờ sông, trông
sang bờ bên kia thấy Đức Sơn Tuyên Giám. Giản thiền sư
chắp hai tay lại hướng Đức Sơn chào:
-
Thiền sư mạnh giỏi!
Đức
Sơn đang cầm một cái quạt trong tay, bèn giơ quạt lên vẫy
vẫy. Giản thiền sư hốt nhiên khai ngộ, bèn xoay mình đi,
cũng không ngoảnh đầu lại nhìn Đức Sơn một cái.
(Thiền
thú 60)
Chuyện
khai ngộ này thật thần kỳ khôn lường, giống như võ hiệp
tiểu thuyết kể những võ công kỳ lạ. Cách một con sông,
Đức Sơn chỉ giơ quạt vẫy vẫy khiến Giản thiền sư khai
ngộ là sao? Thích Ca giơ cành hoa lên, Ca Diếp mỉm cười’
Mã Tổ bốn chữ tức tâm, tức Phật làm Đại Mai khai ngộ.
Đó chẳng phải cũng thần kỳ sao? Nếu chúng ta giơ cành hoa
lên, vẫy vẫy quạt, nói tức tâm, tức Phật để khai thị
mọi người, nếu không bị mọi người gọi là điên thì
cũng là may lắm rồi còn nói chi đến việc giúp mọi người
khai ngộ. Câu nói tức tâm, tức Phật là một câu nói có
công hiệu trác việt khi mọi người chưa biết đến nó, nó
có một sức sống mới mẻ, mạnh mẽ, lại thêm sự quan sát
giỏi của Mã Tổ về căn khí và thời tiết nhân duyên của
đệ tử khiến nó trở thành phương tiện thù thắng. Nhưng
khi nó trở thành tri thức phổ biến thì nó đã mất đi sô
lực đặc biệt của nó. Các thiền sư cao minh không có một
khẩu quyết bất biến, mà có thể từ những bình phàm hoặc
những câu nói thông thường chuyển thành có ý nghĩa đặc
biệt đối với đối tượng. nếu chấp có một khẩu quyết
vạn năng có thể trị bất cứ bệnh gì, bất cứ Trương
tam, Lý Tứ nào cũng giơ một ngón tay thiền lên thì chỉ là
một thiền sư mù. Đức Sơn Tuyên Giám giỏi quan sát đệ
tử, do đó chỉ vẫy quạt đã làm Giản thiền sư khai ngộ.
Hành động này chỉ hữu dụng lúc đó, chỗ đó, người đó.
Nếu tái sử dụng sẽ không có hiệu quả. Trong công án này
Giản thiền sư khai ngộ rồi, xoay mình mà đi, không thèm ngó
lại. Đối với người thường mà nói thật là vô tình, vô
nghĩa, ngay một tiếng cám ơn cũng không có. Sai! Giữa thiền
sư với nhau, những nghi thức thế tục có cũng tốt, không
có cũng không sao. Hai người không có tri tâm, có đa lễ cũng
chẳng ích lợi gì. Giản thiền sư xoay mình mà đi là chân
chính báo đáp ơn khai ngộ của Đức Sơn vậy.
1574.
Đều là hý luận.
Có
vị ngoại đạo lại tham vấn Thế Tôn:
-
Mọi sự tình đều là vĩnh hằng có phải không?
Thế
Tôn im lặng.
-
Vậy, mọi sự tình đều không vĩnh hằng có phải không?
Thế
Tôn vẫn im lặng.
-
Thế Tôn, ngài là bậc giác ngộ, chuyện gì ngài cũng biết,
sao ngài không trả lời con?
-
Vấn đề của ông toàn là hý luận, bảo tôi làm sao trả
lời.
(Thiền
thú 60)
Người
đời không biết những lo lắng đều xuất phát từ vọng
tưởng. Thường và vô thường là vấn đề hình nhi thượng.
Đức Phật nhận rằng chỉ lo suy tư về hình nhi thượng thì
đối với phiền não, thống khổ chẳng có ích lợi gì, hơn
nữa đắm mình vào hình nhi thượng cũng là phiền não, thống
khổ. Các pháp vốn không thường và vô thường; các pháp
chỉ theo bản lai diện mục triển hiện trung thực. Nhưng con
người khi nhận thức các pháp thường dùng thường và vô
thường, lời nói, khái niệm gán vào, khiến nhân loại chỉ
nhận thức lời nói, khái niệm đã tự cách biệt với bản
lai diện mục.
Thế
Tôn đối với loại vấn đề này im lặng không nói; kỳ thực
ngài chỉ rất rõ ràng: hãy rời bỏ ngôn ngữ, khái niệm,
trở về lúc nhân loại chưa có ngôn ngữ, khái nghiệm thì
sẽ rõ không cần hỏi ta những hý luận trong không mà có.
Đáng tiếc vị ngoại đạo không hiểu ý không lời của Thế
Tôn, lại còn gắng hỏi:
-
Vì sao ngài không trả lời con?
-
Vì câu ông hỏi chỉ là hý luận.
Con
người sống trong hý luận, từ nhỏ đã học nói “ngã”
là hý luận thứ nhất. Từ đó trên tất cả mọi sự vật
đều an lập ngôn ngữ, như thêm nước vào cho cá nhưng cá
không biết, như không biết tên loài hoa X nhưng bạn vẫn ngửi
được mùi thơm của nó, không phải sao?
1575.
Cách tiếp khách của Triệu Châu.
Một
hôm Chân Định Súy Vương đến thăm, Triệu Châu ngồi yên
trên thiền sàng hỏi:
Đại
Vương hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Lão nạp tử nhỏ ăn chay, nay không còn khí lực xuống thiền
sàng.
Vương
càng kính trọng. Hôm sau Vương sai một vị tướng quân đến
truyền lời hỏi thăm. Triệu Châu xuống thiền sàng tiếp.
Thị
giả hỏi:
-
Hôm qua, Hòa thượng thấy Đại vương đến, không xuống thiền
sàng, hôm nay tướng quân đến, tại sao lại xuống thiền
sàng?
-
Ngươi không biết đâu!Đệ nhất đẳng nhân đến,ta ở thiền
sàng tiếp. Trung đẳng nhân đến, ta xuống thiền sàng tiếp.
Mạt đẳng nhân đến, ta ra tận ngoài tam quan tiếp.
(Thiền
thú 60)
Chân
Định Súy Vương là huynh đệ của Hoàng đế, là một nhân
vật cao quý, là mục tiêu cho nhiều người nịnh hót. Nhưng
Triệu Châu vẫn lạnh lùng ngồi trên thiền sàng hỏi Vương
có hiểu tại sao mình không xuống thiền sàng không? Chư pháp
bất động, không đến không đi, không đi không đến, không
trên không dưới. Đó là giáo huấn không lời của Triệu
Châu. Đáng tiếc ý nghĩa quá cao, do đó Súy Vương không hiểu,
do đó Triệu Châu phải hạ thấp xuống một tầng để Súy
Vương hiểu. Đối với một người có địa vị cao như Súy
Vương quen được mọi người kính trọng; Triệu Châu vì lòng
từ bi đối đãi ngược lại mong chấn động được đối
phương. Súy Vương đến cầu giáo, nên Triệu Châu chỉ Đạo.
Tướng quân đến để truyền lời, nên Triệu Châu lấy lễ
mà tiếp. Cuối cùng, Triệu Châu nói người hạ đẳng đến
thì ra tận ngoài tam quan tiếp, chỉ là khôi hài.
Xem
tiếp công án 481.
1576. Một sợi cũng không.
Tĩnh
Cư Ni Huyền Cơ tham Tuyết Phong. Phong hỏi:
-
Từ đâu tới?
-
Đại Nhật Sơn.
-
Mặt trời đã mọc chưa?
-
Nếu mọc đã tan tuyết núi.
-
Cô tên chi?
-
Huyền Cơ.
-
Một ngày dệt được bao nhiêu?
-
Một sợi cũng không.
Huyền
Cơ lạy rồi ra, đi được ba bước Tuyết Phong bảo:
-
Cà sa của cô lê đất kìa?
Huyền
Cơ quay đầu lại nhìn, Tuyết Phong nói:
-
Tốt lắm! Một sợi cũng không.
(Thiền
thú 60)
Tuyết
Phong trong công án này không phải là Tuyết Phong Nghĩa Tồn,
lai lịch của ông còn chưa rõ, Huyền Cơ theo truyền thuyết
là nữ đệ tử của Vĩnh Gia Huyền Giác. Tuyết Phong nhân
Huyền Cơ ở núi Đại Nhật đến nên dùng lối chơi chữ
mà hỏi:
-
Mặt trời đã mọc chưa?
hàm
ý đã thấy Phật tánh chưa?
Tĩnh
cư ni đáp:
-
Nếu mọc sẽ làm tan tuyết núi.
Câu
đáp rất mẫn tiệp. Cô cũng dùng lối chơi chữ mà đáp lại
vì tuyết núi là tên của Tuyết Phong, nên cô đã chiếm được
thượng phong mặc dù hơi kiêu ngạo. Tuyết Phong lại dùng
tên cô Huyền Cơ (máy dệt) để hỏi:
-
Một ngày dệt được bao nhiêu?
là
hỏi công phu của cô thế nào?
-
Một sợi cũng không.
Là
câu trả lời tuyệt diệu, một mũi tên hạ hai điêu, chứng
tỏ cô rất có khẩu tài.
Nhưng
khi Tuyết Phong bảo áo cô lê đất thì cô ngoảnh lại xem,
tỏ rằng tâm cô hãy còn quái ngại không phải một sợi cũng
không như lời cô nói.
Xem
thêm công án 1069.
1577. Ta là con lừa.
Tây
Mục thượng đường. Một cư sĩ giơ tay nói:
-
Hòa thượng là con lừa!
-
Lão tăng bị ngươi cưỡi.
Cư
sĩ im lặng bỏ đi. Ba hôm sau trở lại thưa:
-
Ba hôm trước con làm giặc.
Tây
Mục
giơ gậy đuổi đi.
(Thiền
thú 60)
Ta
là con lừa, rồi sao? Nói ta là Hoàng đế, là vĩ nhân có ích
lợi gì? Nói ta là tên ti tiện, tội đồ thiên cổ thì có
tổn hại gì? Từ bản chất mà nói chư Phật vì chúng sanh
cùng một Phật tánh. Từ đức Phật đến con kiến nhỏ cũng
bình đẳng. Thiền sư không tham cầu được người khen ngợi.
Gọi ta là con lừa, ta thuận nước đẩy thuyền, để ngươi
cưỡi, có sao đâu? Con lừa là chỉ vô tâm, vô vi, nhậm vận,
tự nhiên; cưỡi lừa là hữu tâm, hữu vi, tạo tác, nhân
tạo. Tây Mục dùng gậy đuổi cư sĩ đi là bảo ông hãy giữ
mồm, trở về tâm mà phản quán tự tánh.
1578. Gương cổ của Tuyết Phong.
Tuyết
Phong nói:
-
Mọi người đều có gương cổ, con khỉ cũng có gương cổ.
Tam
Thánh hỏi:
-
Lịch kiếp tự tánh vốn vô sanh, sao hòa thượng lại gọi
là gương cổ?
-
Vì bị bẩn.
-
Hòa thượng thoại đầu cũng chẳng biết.
-
Tội lỗi! Lão tăng trụ trì bận rộn.
(Thiền
thú 60)
Phật
tánh không thể dùng lời nói được, thiền sư vì độ người
không thể không nói. Không phải là Tuyết Phong không biết
thoại đầu mà là từ bi độ chúng sanh. Sự thực Phật tánh
không bẩn, sạch để miêu thuật quan niệm siêu việt. Nhưng
ở hiện tượng giới Phật tánh của chúng sanh quả thật
nhơ bẩn, cần phải lau chùi, như bài kệ của Thần Tú rất
ích lợi cho người mới tu. Khi Tuyết Phong bảo:
-
Mọi người đều có gương cổ, con khỉ cũng có gương cổ.
chẳng
phải là bảo chúng sanh đều bình đẳng sao?
1579. Chúng sanh vốn là Phật.
Bạch
Ẩn nói:
-
Chúng sanh vốn là Phật như nước và băng; lìa nước không
băng, ngoài chúng sanh không có Phật. Không biết thân cận
chúng sanh, tìm chi vô thường ở xa.
(Danh
tăng trí tuệ ngữ lục)
Nếu
tâm khởi một niệm từ bi, phải chú ý bồi dưỡng nó chẳng
hạn như thích tụng kinh, lễ Phật v . v . đó là tác dụng
của Phật Tâm. Phật chính ở trong tâm ta.
1580. Học Phật là học chính mình.
Đạo
Nguyên nói:
-
Học Phật là học chính mình, học chính mình là quên chính
mình, quên chính mình là chứng vạn pháp vậy.
(Danh
tăng trí tuệ ngữ lục)
Con
người đều có mê hoặc, khi phán đoán thị phi phải làm
sao cùng nội tâm phối hợp. Chỉ cần nương Phật tâm chỉ
dẫn là ra khỏi đường mê.
1581.
Thiền định.
Nga
Sơn nói:
-
Phật pháp tuy nhiều nhưng không ngoài Giới, Định, Huệ. Người
tu giới thiếu định và huệ. Người tu huệ thiếu định
và giới. Người tu thiền định đủ cả giới, định, huệ.
(Danh
tăng trí huệ ngự lục)
Thế
Tôn từ trong thiền định mà lãnh ngộ chân lý, trừ bỏ được
mọi tạp niệm. Cho nên tọa thiền là chánh truyền của Thế
Tôn, có năng lực phổ độ chúng sanh.
1582.
Kho báu nhà mình.
Đại
Châu Huệ Hải mới đến Giang Tây tham Mã Tổ. Tổ hỏi:
-
Từ đâu tới?
-
Từ Việt Châu Đại Vân Tự tới.
-
Đến có chuyện gì?
-
Đến cầu Phật pháp.
-
Ở nhà có kho báu không muốn, lang thang ở ngoài không chịu
về nhà, thật là kỳ quái! Nơi đây một vật ta cũng không
có, cầu Phật pháp cái gì?
Đại
Châu lạy hỏi:
-
Cái gì là kho báu của Huệ Hải?
-
Nay ngươi hỏi ta là kho báu nhà ngươi, tất cả đều đầy
đủ, không thiếu gì, xử dụng tự tại, việc gì hướng
ngoại tìm kiếm?
Huệ
Hải nghe xong, liền minh bạch Phật tánh, hướng Mã Tổ lễ
tạ.
(Thiền
thú 60)
Kho
báu nhà mình tức là Phật tánh; cái mà Đại Châu muốn tìm
chỉ là biết rõ điều này. Một khi thân tự thấy rồi, về
sau không còn nghi hoặc nữa. Đó là kiến tánh. Đại Châu
khi mới gập Mã Tổ không lạy, biểu thị chưa chấp nhận
Mã Tổ cho đến khi Mã Tổ nói về kho báu nhà mình; Đại
Châu biết là Mã Tổ đã nói đến trọng điểm, liền quỳ
ngay xuống, lạy xin chỉ giáo. Cái lạy này không phải ai cũng
tùy tiện nhận được. Tiếp được phải có bảo cụ để
truyền. Con người giống như một phú ông có tiền của dấu
ở một nơi nào đó mà không biết, trong tay không có một
xu. Khi khai ngộ là thấy được của dấu, biết mình là phú
ông.
1583. Núi Tu Di.
Một
hôm, một ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Khi không nghĩ, có sai lầm không?
-
Núi Tu Di.
-
Đã nói không nghĩ, thầy còn thêm núi Tu Di vào làm gì?
-
Bỏ cả xuống!
-
Đã không nghĩ, làm sao bỏ xuống?
-
Vậy hãy nhấc lên và mang đi!
(Thế
giới nhất hoa)
Con
chó sủa gâu gâu, con gà gáy tẻ tè te, con mèo gừ meo meo.
Mọi con vật đều hiểu đúng tiếng của chúng. Tiếng nói
đúng của ngươi là gì?
Mở
miệng ra là đã sai rồi; ngậm miệng lại cũng sai nữa. Ngươi
có thể làm được gì? nếu ngươi giữ im lặng Vân Môn
sẽ đánh ngươi 30 gậy. ngươi nói gì? nếu bỏ cả xuống,
thì tất cả đều thuộc về ngươi.
1584. Vô ngại.
Một
hôm, một ni cô đến tham thiền sư Sùng Sơn, hỏi:
-
Thế nào là pháp?
-
Vô ngại.
-
Vô ngại nghĩa là sao?
-
Tại sao ngươi mặc quần áo?
Ni
cô cởi truồng đi ra.
(Thế
giới nhất hoa)
Cái
cây hiểu công việc của cây; dòng nước hiểu công việc
của nước. Công việc của thiền sư, của ni cô là gì? nếu
chấp vào lời ngươi sẽ vào địa ngục nhanh như tên, nếu
tiêu hóa lời ngươi sẽ giết hết chư Phật, Bồ tát. Ngươi
chọn cách nào? Bỏ cả xuống, ra tiệm và uống trà đá.
1585. Ngươi cần chi?
Phật
dạy tất cả các pháp để độ tất cả tâm, khi không giữ
tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp?
(Thế
giới nhất hoa)
Tâm
sanh, pháp diệt. Khi pháp hiện thì yêu thích chán ghét, đến
đi, sống chết đều xuất hiện. Khi tâm diệt thì tất cả
đều diệt, lời nói chữ viết cũng đều diệt. Mở miệng
ra là một sự sai lầm lớn. ngươi có thể làm gì? Bỏ cả
xuống! Đừng cắn câu. Khi đói chỉ ăn, khi khát chỉ uống.
1586. Thế giới nhất hoa.
Đây
là một tuyển tập gồm 365 công án của thiền sư Sùng Sơn
người Đại hàn. Trong tập này có nhiều công án chúng tôi
đã dịch, chúng tôi không lập lại, chỉ dịch phần bình
luận:
1-
Ngày nào cũng tốt. (Xem công án 982)
Thời
gian qua như một mũi tên. Nghĩ thì hôm qua, hôm nay hiển hiện,
không nghĩ thì mọi ngày đều biến mất. Hôm nay trời tốt
hay xấu? Nhìn lên bầu trời mãi mãi xanh.
2-
Phật mặt trời, Phật mặt trăng. (Xem công án 986)
Đầu
hướng trời, hai mặt (mặt trời, mặt trăng) hướng đất.
Xuân đến muôn hoa nở. Đông sang tuyết rơi nhiều. Trẻ con
thích lửa ấm.
3-
Vòng tròn của Tư Phúc (Xem công án 168)
Trái
đất xoay quanh trục của nó và xoay quanh mặt trời. Xuân,
hạ, thu, đông cũng xoay vần; ngươi được gì? Bỏ xuống!
Chỉ nhìn, nghe, làm.
4-
Lông mày Thúy Nham (Xem công án 127)
Gương
sáng không có thích hay không thích. Đỏ đến đỏ hiện, trắng
đến trắng hiện. Đừng dùng mồm, hãy dùng gương.
5-
Không chỉ một đường (Xem công án 984)
Khuôn
mặt xưa nay của Triệu Châu hiển hiện rõ ràng nhưng không
có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Cái nào là Triệu Châu thật?
Nếu muốn hiểu Triệu Châu thật hãy đi hỏi cây tùng.
6-
Chẳng nhầm nhân quả (Xem công án 1071)
Ai
có thể điều khiển được người có 3 đầu, 7 chân? Nếu
ngươi có một cái mồm, ngươi không điều khiển được hắn.
Nếu ngươi có thể tìm thấy một cái sừng thỏ thì họa
may.
7-
Con chó không có Phật tánh (Xem công án 1020)
Im
thì tốt hơn là thiêng. Khi mở mồm, ngươi đã làm một sự
sai lầm lớn, nhưng dùng sự sai lầm này để độ chúng sanh
thì đó là thiền.
8-
Một ngón tay thiền (Xem công án 1078)
Ai
có thể điều khiển con rắn có chân mang vớ? Nếu ngươi
không có ngón tay, ngươi có thể điều khiển nó.
9-
Rợ Hồ không râu (Xem công án 115)
Ba
năm sau khi mất, Đạt Ma trở về Tây phương đem theo cây gậy
và một chiếc dép. Ông không chết bao giờ. Bây giờ ông ở
đâu? Coi chừng bước chân.
10-
Niêm hoa vi tiếu (Xem công án 1183)
Hoa
mỉm cười, mặt Phật đỏ.
11-
Triệu Châu rửa bát (Xem công án 1073)
Điểm
tâm vào buổi sáng, ăn trưa vào buổi trưa, ăn cơm chiều vào
buổi chiều. Sau bữa cơm, ngươi có biết công việc của mình
không? Vậy hãy làm đi.
12-
Hề Trọng làm xe (Xem công án 192)
Trên
vòm trời rộng mây hiện và biến. Mọi sự đều đã rõ ràng.
13-
Phật Đại Thông Trí Thắng (Xem công án 193)
Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Mọi chúng sanh đều có Phật tánh. Do đó
mọi vật đều đã là Phật. Nếu một người muốn trở thành
Phật thì đã sai lầm lớn rồi. hãy cẩn thận.
14-
Thanh thoát cô bần (Xem công án 154)
Con
chó đã ăn tâm thanh thoát, chạy vòng vòng Đông rồi Tây.
15-
Triệu Châu khám phá am chủ (Xem công án 195)
Hai
am chủ giết Triệu Châu và nhét thân ông vào hũ rượu.
16-
Đức Sơn bưng bát (Xem công án 196)
Ba
con chó nối đuôi chạy vòng đuổi nhau, đánh hơi tìm thức
ăn.
17-
Nghe tiếng chuông mặc áo thất điều (Xem công án 197)
Tâm
ngươi và thế giới này, cái nào lớn hơn? Mở mồm ngươi
không tìm thấy hướng, ngậm mồm mất luôn hướng. Nghe tiếng
chuông hãy đến pháp đường.
18-
Ba lần gọi của Quốc sư (Xem công án 198)
Nội
thương cháu, cháu chịu nội chỉ vì muốn ăn kẹo.
19-
Ba cân gai (Xem công án 124)
Lầm
lớn! Lầm lớn! Động Sơn không hiểu 3 cân gai, nhưng 3 cân
gai hiểu mắt Động Sơn.
20-
Tâm bình thường là Đạo (Xem công án 1085)
Không
ăn 3 ngày ngươi chỉ muốn thực phẩm. Đi trong sa mạc ngươi
chỉ muốn nước. Đứa bé khóc vòi mẹ. Mọi việc đều rõ
ràng: trên trời nhiều sao, trên núi nhiều cây.
21-
Đại lực sĩ (Xem công án 209)
Người
ăn quá nhiều, phải tập luyện. Nếu ngươi khát, tìm một
cái giếng, nếu mệt hãy đi ngủ.
22-
Que cứt khô (xem công án 199)
Vân
Môn thối mồm, ngươi làm sao cho hết mùi? dẫn ông ta vào
phòng tắm và súc miệng cho ông.
23-
Hạ cây phướn xuống (Xem công án 104)
Trời
không mây nhưng sét đánh cột cờ. Ca Diếp và A Nan đều thất
nghiệp.
24-
Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác (Xem công án 1024)
Lục
tổ có 2 mắt, Huệ Minh có 2 tai. Mỗi người có một mồm.
Họ cùng thấy, nghe nhưng lời thì khác. Một người đi về
Bắc, một người đi về Nam.
25-
Lìa ngôn ngữ (Xem công án 200)
Mở
mồm ngươi không có lưỡi, mở mắt ngươi không có con ngươi.
Làm sao giải quyết? Ngươi phải đi Giang Nam và hỏi chim Chá
Cô.
26-
Đệ tam tọa nói pháp (Xem công án 203)
Thế
giới này và cuộc sống con người như một giấc mộng. Hai
người nói về giấc mộng. Khi nào họ tỉnh? 3 giờ sáng,
ở ngoài nhà gà gáy tẻ tẻ te.
27-
Một được, một mất (xem công án 202)
Hành
động của 2 ông tăng rất rõ. Lời Pháp Nhãn là một sai lầm
lớn. Ngươi làm sao sửa lại? Ngươi có biết tuổi của Pháp
Nhãn không? Đi mà hỏi cây tùng trước chùa.
28-
Long Đàm thổi tắt đèn.
Thiên
nhiên đã dạy chúng ta nhiều việc, tại sao ngươi cần các
bộ kinh? Nếu ngươi đạt khuôn mặt xưa nay, ngươi sẽ ném
hết kinh Phật vào lửa; rồi thế giới của ngươi sẽ vẹn
toàn.
29-
Tâm động. (Xem công án 85)
2
ông tăng không có vấn đề gì cả. Lục tổ đã phạm một
sai lầm lớn vì một lần tổ nói “Vốn không một vật”.
Vậy tâm ở đâu? Gió và cờ có thể điều khiển 2 ông tăng
nhưng tâm điều khiển Lục tổ.
30-
Tâm là Phật (Xem công án 245)
Không
Mã Tổ, không Đại Mai, không Phật, không tâm, rồi sao? Ngươi
có thấy trời, cây? Ngươi đã hiểu rồi. Bỏ cả xuống.
31-
Triệu Châu khám phá lão bà. (Xem công án 111)
Triệu
Châu có mắt, tai, mũi, lưỡi và thân nhưng ông không có xương.
Làm sao ông từ Ngũ Đài Sơn xuống lại trở về Ngũ Đài
Sơn? Lão bà không có mắt, không mồm, không tay làm sao bà
chỉ đường đến Ngũ Đài Sơn? Thật là buồn cười ghê
ha! ha! ha!
32-
Ngoại đạo hỏi Phật (Xem công án 147)
Cây,
nước, đất, trời không lời nhưng chúng dạy chúng ta trọn
vẹn. Nếu ngươi không hiểu chánh đạo, chánh mạng, sự thật
ngươi phải hỏi mặt trời, mặt trăng.
33-
Trí không phải là đạo (Xem công án 239)
Con
chó, con mèo, con gà hiểu công việc của chúng. Con người
không hiểu công việc của con người. Bây giờ người đương
làm gì? Hãy làm đi.
34-
Thiến Nữ ly hồn (Xem công án 213)
Tham,
sân, si, dục, vui, buồn, cái nào là chân tâm? Nếu ngươi không
có tâm chúng đi đâu? Một cái hiện, 2 cái hiện, vạn vật
xuất hiện. Một cái diệt, tất cả diệt.
35-
Trên đường gập người đạt đạo (Xem công án 204)
Cây
hiểu thời tiết, núi hiển mùa. Mọi vật hiển tình trạng
và hành động của chúng. Chỉ có con người là ngu muội.
Xuân tới cỏ xanh, Đông sang tuyết trắng.
36-
Cây bách trước sân (Xem công án 246)
Huấn
luyện là một việc khó cho Đạt Ma. Ông khai nhãn cho nhiều
người nhưng ông thì mất mạng. Sau khi ông mất 3 năm, ông
tìm lại được thân và ông đi về Tây. Giờ ông ở đâu?
Trời xanh lơ, tùng xanh lam.
37-
Con trâu qua cửa (Xem công án 291)
Đuôi
trâu giết hết chư Phật, chư tổ và tất cả chúng sanh. Đuôi
trâu ở đâu? Ngươi có thấy nó không? Ngươi có nắm được
nó không? Nó đã qua rồi.
38-
Đá đổ tịnh bình (Xem công án 210)
Quy
Sơn không tốt cũng không xấu, quá man dại ông phải giữ
cho tâm trong sáng. Bộ tay ông đi nghỉ hè hay sao?
39-
Tâm đệ tử chẳng an (Xem công án 1008)
Đạt
Ma quá ngu. Tại sao ông ngồi bích quán 9 năm? ông có tâm hay
không? nếu ông vô tâm ông đã mất mạng rồi. Nhị tổ đạt
được cái gì? Nếu ngươi hiểu chuyện này thì đi uống trà
đi.
40-
Thiếu nữ xuất định (Xem công án 205)
Đầu
không thể cầm bút, mắt không thể nghe thấy, mồm không thể
nhìn trời. Đàn ông không thể sanh con. Tay có công việc của
tay, chân có công việc của chân. Hãy hiểu đúng công việc
của ngươi. Khi gà gáy sáng thân chỗi dậy.
41-
Cây gậy của ba Tiêu (Xem công án 206)
Mọi
súc vật hiểu rõ chánh đạo và hành động đúng. Chỉ có
con người là còn ngu si. Thỏ thích ăn cà- rốt, chuột thích
ăn phô- mai.
42-
Cây gậy của Thủ Sơn (Xem công án 211)
Vốn
không có danh và tướng. Khi tâm sanh, danh và tướng sanh. Nếu
ngưới chấp vào danh và tướng, ngươi không thể ra khỏi
địa ngục. Khéo dụng danh tướng ngươi sẽ thành Phật.
43-
Người ấy là ai? (Xem công án 207)
Nếu
ngươi không làm gì cả, cả thế giới thuộc về ngươi. Nếu
ngươi làm một gì đó thì ngươi đã mất mạng rồi. Nếu
muốn gập Thích ca hãy vào nhà bếp, nếu muốn gập Di Lặc
hãy vào buồng tắm.
44-
Chẳng có thánh gì cả (Xem công án 1025)
Lương
Võ Đế hiểu Bồ Đề Đạt Ma, Bồ Đề Đạt Ma không hiểu
Lương Võ Đế. Câu trả lời “không biết” của Bồ Đề
Đạt Ma nuốt trọn vũ trụ. Làm sao ngươi thoát ra? Mở mắt
và lắng tai:Đạt Ma ngồi thiền ở Thiếu lâm 9 năm.
45-
Tuyết đầy chén bạc (Xem công án 117)
Cái
ngươi nhìn và cái ngươi nghe là bạn thật của ngươi.
46-
Cảnh Thanh kêu mổ (Xem công án 125)
Vỗ
tay 3 lẩn tuyệt! tuyệt! tuyệt! Gà con nói chào ông, ông khỏe
không?
47-
Bách Trượng ngồi một mình (Xem công án 119)
Cẩn
thận! đừng chấp vào lời, một hành động tốt hơn vạn
lời.
48-
Thân bầy gió vàng (Xem công án 154)
Nếu
ngươi hiểu thời tiết bên ngoài, ngươi biết sẽ phải mặc
gì, mặt trời thì xa còn gió thì mạnh.
49-
Củ cải to của triệu Châu (xem công án 126)
Triệu
Châu mạnh hơn trời. Nam Tuyền trở thành củ cải. Củ cải
lớn hơn Triệu châu và rơi đè lên người ông. Triệu Châu
kêu lên: Cứu tôi! Cứu tôi!
50-
Định thượng tọa (Xem công án 595)
Cái
gì không phải là Phật pháp? nếu ngươi tìm thấy ngươi đã
là Phật. Nếu ngươi tìm thấy Phật pháp, ngươi trở thành
ngu si. Lâm tế rất ngu, một hành động là đủ, đâu cần
đến 3. Định thượng tọa hiểu mình có 2 mắt và 1 mồm.
51-
Trước sau 33 (Xem công án 128)
Văn
Thù ngu si, Vô Trước khôn khéo. Chỉ là trò đùa về ngôn
ngữ. Ai được, ai thua? ngươi có thấy khuôn mặt xưa nay của
Văn Thù không? Ngươi có thấy cái mũi xưa nay của Vô trước
không? là cùng hay là khác? Chư Phật và chư Tổ không thể
nhá được câu trước 33, sau 33 của Văn Thù.
52-
Một cành hoa (Xem công án 167)
Mở
mồm, lầm lớn. ngậm mồm cả vũ trụ và ngươi không bao
giờ xa cách. Thức dậy! Thức dậy! ngươi nhìn thấy gì, nghe
thấy gì bây giờ? Đi hỏi chó, mèo; chúng sẽ chỉ cho ngươi.
53-
Đợi trời sáng hãy đi (Xem công án 54)
Đến
tay không, đi tay không. Có một vật rõ ràng không lệ thuộc
vào sanh tử. Ai sống? Ai chết? Sống và chết như mây nổi.
nếu ngươi bỏ được đám mây trong tâm ngươi thì khuôn mặt
xưa nay xuất hiện rõ ràng trước mặt ngươi. Đêm có tối,
ngày có rạng.
54-
Nơi mát mẻ (Xem công án 981)
Lời
của Động Sơn rất mạnh. Ông hiểu tình hình và hành động.
Nóng và lạnh ở bên trong hay bên ngoài. Nếu ngươi tìm thấy
câu trả lời đúng, ngươi đạt được khuôn mặt xưa nay
của Động Sơn.
55-
Ta có thể đánh trống (Xem công án 40)
Bỏ
xuống tất cả những lời nói và suy tư. Nếu ngươi kiểm
soát, sự kiểm soát này sẽ giết ngươi. Ngươi có nghe tiếng
trống của Đầu Tử không? Nặng bao nhiêu cân? Nếu ngươi
biết ngươi đã là thầy của Phật.
56-
Cầu đá Triệu Châu (Xem công án 74)
Phi
cơ bay trên trời phải có mục tiêu, xe lái trên đường phải
có chỗ đến. Chó, mèo chạy nhẩy tốt hơn là phi cơ và xe
hơi.
57-
Cây gậy hóa rồng (Xem công án 78)
Lời
Vân Môn là một sai lầm lớn. Lưỡi câu của ông mắc trong
chính mồm ông. Ai gỡ cái lưỡi câu này? Chỉ có ai trả lời
được 3 câu hỏi mới gỡ được. (3 câu hỏi của Sùng Sơn:
1-
Làm sao ngươi biến cây gậy thành rồng?
2-
Con rồng này làm sao nuốt mọi vật?
3-
Nếu nó nuốt tất cả, làm sao ngươi thấy vạn vật?
58-
Vòng tròn của Nam Tuyền (Xem công án 142)
Nam
Tuyền trở thành điên như núi Tu Di. Ông muốn bắt một con
cá to, nhưng không làm được. Quy Tông và Ma Cốc hiểu tâm
ông nhưng ông không hiểu tâm họ. Họ đi đâu? Đông, Tây,
Nam, Bắc?
59-
Thùng cơm của Kim Ngưu (Xem công án 156)
Nếu
ngươi rảnh, đi coi chớp bóng, nếu ngươi mệt đi khiêu vũ.
Nếu ngươi không có gì để làm, lễ Phật rồi Phật sẽ
mỉm cười với ngươi.
60-
Bánh Hồ (Xem công án 160)
Vân
Môn nói bánh Hồ nhưng sao chỉ có bánh? Nếu ngươi có kẹo,
mì, coca hãy đưa cho Vân Môn rồi ông ta sẽ ấn chứng cho
ngươi.
61-
Mọi âm thanh đều là Phật thanh (Xem công án 129)
Vốn
không có ngôn ngữ, văn tự. Đã sai lầm rồi, ai mà sửa lại
được? Nếu ngươi muốn hiểu hãy đi hỏi 1 đóa hoa hay 1
cái cây. Chúng sẽ cho ngươi câu trả lời đúng.
62-
Trẻ sơ sinh (Xem công án 161)
Khi
trẻ khóc, mẹ cho bú. Triệu Châu thích bóng, nhưng quả bóng
đã giết ông. Bỏ cả xuống, nhìn rõ, nghe rõ. Liễu lục,
hoa hồng.
63-
Tiếng cọp của Đồng Phong (Xem công án 187)
Chó
đuổi theo xương; cọp nhai người. Vô tâm tất cả thuộc
về ngươi, hữu tâm ngươi mất tất cả. nếu ngươi bị lạnh,
dùng thuốc cảm. Nếu ngươi bị sốt dùng thuốc giải nhiệt.
64-
Cửa kho (Xem công án 186)
Lục
tổ nói vốn không một vật. Vân Môn nói mọi người tự
có ánh sáng. Hai câu nói này là đồng hay dị? Mọi người
đều có 2 mắt, một mồm.
65-
Thể dụng của Bát Nhã (Xem công án 123)
Chân
lý không có ngôn ngữ, văn tự. Pháp thật không có danh tướng.
bát Nhã từ đâu ra? Dụng của nó là gì? Chỉ làm. Khi mệt
thỉ ngủ, khi đói thì ăn.
66-
Ba chuyển ngữ của Triệu Châu (Xem công án 164)
Lục
tổ nói: “Vốn không một vật”, kinh nói chúng sanh đều
có Phật tánh. Ai làm ra Phật? Ai đúng? Nếu ngươi có Phật
tánh Phật sẽ giết ngươi. Nếu ngươi không có Phật tánh,
Phật cũng sẽ giết ngươi. Ngươi phải làm sao? Uống trà
đi!
1587. Núi này không có đường vào.
Động
Sơn Lương Giới khi đi hành cước, lạc đường, ngẫu nhiên
tới chỗ ẩn cư của Long Sơn hòa thượng. Động Sơn vái
chào. Long Sơn hỏi:
-
Núi này không có đường, ngươi làm sao vào?
-
Chuyện không có đường tạm gác lại, hòa thượng làm sao
vào?
-
Ta không biết mây nước.
-
Hòa thượng ở núi này bao lâu?
-
Không biết.
-
Vì sao không biết?
-
Ta không vì trời, người mà đến.
(Thiền
thú 60)
Núi
này chỉ Phật tánh. Phật tánh không có phương pháp nào để
vào, vì vậy gọi là cửa không cửa. Thiên hạ không có một
kỹ xảo nào bảo đảm học nhân nhất định thấy Phật tánh,
chỉ nương vào tu hành vị tất sẽ chứng ngộ. càng nỗ lực
tu hành cầu khai ngộ thì khai ngộ lại càng xa. Động Sơn
hỏi hòa thượng làm sao vào? Long Sơn đáp ngay đi ta còn không
biết thì làm gì còn vấn đề vào hay không vào. Hòa thượng
hay núi ở đây trước là hỏi Phật tánh và vô minh cái nào
có trước. Long Sơn đáp không biết là phủ quyết vấn đề
trong không sinh hữu. Thời gian là quan niệm của người phàm
chúng ta. Đối với Phật tánh, thời gian không tồn tại. Cũ,
mới, thường tồn, biến đổi . . . đều là những khái niệm
tương đối. Lấy khái niệm tương đối để mô tả tuyệt
đối là chuyện hoang đường.
Bộ
tranh chăn trâu.
Từ
thế kỷ 12, xuất hiện 2 bộ tranh chăn trâu: 1 của Phổ Minh
thiền sư, 1 của Quách Am sư viễn. Bộ tranh và các bài tụng
sau đây là của Quách Am sư viễn.
1588.
Tìm trâu.
茫
茫 撥 草 去 追 尋
Mang
mang bạt thảo khứ truy tầm
水 闊 山 遥 路 更 深
Thủy
khoát sơn diêu lộ cánh thâm
力
盡 神 疲 無 所 覓
Lực
tận thần bì vô sở mịch
但
聞 楓 樹 晚 蟬 吟
Đản
văn phong thụ vãn thiền ngâm
Vạch
cỏ mênh mang mong tìm lối
Non
xa, sông rộng, đường thêm sâu
Rặng
phong ve chiều kêu rộn rã
Sức
cùng, lực tận, thấy gì đâu?
Tranh vẽ người chăn đứng ở nơi hoang dã, tay cầm sợi dây thừng, xem bộ bồn chồn, do dự không biết đi về hướng nào để tìm trâu, là tài sản mà ông rất tự hào, đã chạy mất. Người chăn là người tu, cảm thấy mình đánh mất bản tánh chân thật, bất biến do đó có khát vọng tìm về, chỉ có thế tâm mới an định. Đó là giai đoạn người tu không biết đi theo đường nào. Có người tin tưởng mình tìm được. Có người nửa tin, nửa ngờ cho nên tìm được một lúc lại ngừng, ngừng một lúc lại tìm.
1589.
Thấy dấu.
水
邊 林 下 跡 偏 多
Thủy
biên lâm hạ tích thiên đa
芳
草 離 披 見 也 麼
Phương
thảo ly phi kiến dã ma?
縱
是 深 山 更 深 處
Túng
thị thâm sơn cánh thâm xứ
遼
天 鼻 孔 怎 藏 他
Liêu
thiên tỵ khổng chẩm tàng tha
Mé
nước, bờ rừng nhiều vết dẫm
Cỏ
thơm tan tác thấy không nào?
Trong
khoảng non cao và vực thẳm
Mũi
hếch lên trời, dấu được sao?
Tranh
vẽ người chăn tìm thấy vết chân, nhưng chưa thấy trâu.
Có vết chân đi về phía Đông, có vết chân đi về phía Tây,
có vết chân đi được một quãng thì biến mất, có vết
chân đi về Đông rồi lại vòng qua Tây. Nhìn những dấu chân
này người chăn biết được trâu quanh quẩn đâu đây, nhưng
đi đâu để tìm thì là cả một vấn đề.
Đây
là giai đoạn người tu tìm được thầy, hoặc đọc được
một bộ kinh Phật đề cập đến việc tu hành. Ông tin tưởng
Đức Phật và chư Tổ đã từng thể nghiệm Phật tánh và
lưu lại những lời giáo huấn, và ông biết họ cũng như
ông chỉ là một người thường, do đó ông nghĩ ông cũng
có thể làm được. Nhưng ông vẫn chưa biết làm cách nào,
và cách nào là tốt nhất.
1590.
Thấy trâu
黃
鶯 枝 上 一 聲 聲
Hoàng
oanh chi thượng nhất thanh thanh
日
暖 風 和 岸 柳 青
Nhật
noãn phong hòa ngạn liễu thanh
只
此 更 無 回 避 處
Chỉ
thử cánh vô hồi tỵ xứ
森
森 頭 角 畫 難 成
Sâm
sâm đầu giác họa nan thành
Trên
cành Hoàng oanh hót lảnh lót
Nắng
ấm, gió hòa,bờ liễu xanh.
Chỉ
là không còn nơi trốn nữa
Rừng
rậm, đầu sừng khó vẽ thành.
Tranh
vẽ người chăn sau một khoảng thời gian tìm kiếm, đã thấy
sau một thân cây lớn, cái đuôi trâu thò ra. Ông cao hứng
lắm mặc dù lúc đó ông vẫn chưa nắm được trâu. Sự thực
thì ông cũng chưa nhìn rõ mặt trâu.
Đây
là giai đoạn người tu thấy được bản tánh.
1591. Được trâu.
竭
盡 精 神 獲 得 渠
Kiệt
tận tinh thần hoạch đắc cừ
心
強 力 壯 卒 難 除
Tâm
cường lực tráng tốt nan trừ
有
時 纔 到 高 原 上
Hữu
thời tài đáo cao nguyên thượng
又
入 煙 雲 深 處 居
Hựu
nhập yên vân thâm xứ cư
Đem
hết tinh thần mới bắt được
Tâm
cường lực tráng khó trừ ghê
Cao
nguyên có lúc vừa lên tới
Lại
tìm vào chỗ khói mây về.
Tranh
vẽ người chăn đã dùng dây thừng xỏ mũi trâu. Hiện tại
trâu đã ở trong tay người chăn. Nhưng trâu hãy còn dã tánh
muốn sút thừng để chạy ra ven đường ăn cỏ, do đó người
chăn phải dùng roi để điều phục nó.
Đây
là giai đoạn người tu đã tự chứng ngộ toàn thể tự tánh,
nhưng phiền não, tập khí hãy còn trong tâm. Khi hành giả gập
một chuyện kích thích phiền não sẽ nổi dậy. Hành giả
phải nỗ lực tu hành, giữ giới cho nghiêm (roi, dây thừng).
1592. Chăn trâu.
鞭
索 時 時 不 離 身
Tiên
sách thời thời bất ly thân
恐
伊 縱 步 入 埃 塵
Khủng
y túng bộ nhập ai trần
相
將 牧 底 純 和 也
Tương
tương mục đắc thuần hoà dã
鞭
鎖 無 拘 自 逐 人
Tiên
tỏa vô câu tự trục nhân
Roi
thừng mỗi lúc chẳng lìa thân
Chỉ
sợ chân kia lấm bụi trần
Cùng
nhau chăn được thuần hòa vậy
Không
roi mà cũng theo chủ nhân.
Tranh
vẽ người chăn, một tay nhẹ nắm dây thừng, một tay cầm
roi, có lúc đi trước, có lúc đi bên cạnh trâu. Một lúc
nào đó trâu có thể muốn ngừng lại bên đường để gậm
cỏ non, nên người chăn phải cảnh giác. Trâu đã ngoan ngoãn
nghe lời nên người chăn không phải đánh đập mạnh bạo
nữa. Nhìn bề ngoài người chăn và trâu không tốn nhiều
sức lực.
Đây
là giai đoạn người tu bồi dưỡng định lực. Nếu vào sâu
được định cảnh thì có thể bứng hết gốc rễ của phiền
não và tập khí.
1593. Cưỡi trâu về nhà.
騎
牛 拖 邐 欲 還 家
Kỵ
ngưu đà lê dục hoàn gia
羌
笛 聲 聲 送 晚 霞
Khương
địch thanh thanh tống vãn hà
一
拍 一 歌 無 限 意
Nhất
phách nhất ca vô hạn ý
知
音 何 必 鼓 唇 牙
Tri
âm hà tất cổ thần nha.
Cưỡi
trâu chầm chậm trở về nhà
Khương
địch vi vu tiễn chiều tà
Bao
ý hàm trong ca và phách
Tri
âm hà tất hé môi ra.
Tranh
vẽ người chăn tự tại cưỡi trên lưng trâu, tuy thừng còn
sỏ mũi, và roi thì người chăn gài trên lưng, nhưng vốn không
xử dụng vì trâu đã hoàn toàn thuần thục, đã biết tự
đi về nhà.
Đây
là giai đoạn, 6 thức của người tu đã thanh tịnh, mọi phiền
não đã hết. Khi tiếp xúc với ngoại cảnh, không bị ngoại
cảnh làm phát khởi phiền não. Lúc đó thân, tâm, và thế
giới hỗn nhiên hòa thành một thể, là thế giới của Phật.
1594. Quên trâu còn người.
騎
牛 已 得 到 家 山
Kỵ
ngưu dĩ đắc đáo gia sơn
牛
也 空 兮 人 也 閒
Ngưu
dã không hề nhân dã nhàn
紅
日 三 竿 猶 作 夢
Hồng
nhật tam can do tác mộng
鞭
繩 空 頓 草 堂 閒
Tiên
thằng không độn thảo đường gian.
Cưỡi
trâu đã về tới núi nhà
Trâu
đã không rồi, người cũng nhàn
Nắng
đã ba sào, còn dệt mộng
Roi,
thừng vứt ở xó nhà gianh.
Tranh
chỉ vẽ người chăn, trâu thì đang ngủ, nhưng ngủ ở đâu
thì không biết. Bức này và bức thứ nhất giống nhau ở
chỗ chỉ vẽ người chăn, không vẽ trâu; nhưng khác ở chỗ
ở đây người chăn ngồi ở nhà, không lo nghĩ gì cả.
Đây
là giai đoạn người tu đã hết phiền não, không phải tìm
cách đối phó với phiền não và mong cầu khai ngộ.
1595. Người trâu đều quên.
鞭
索 人 牛 盡 屬 空
Tiên
sách nhân ngưu tận thuộc không
碧
天 遼 闊 信 難 通
Bích
thiên liêu quách tín nan thông
紅
爐 燄 上 爭 容 雪
Hồng
lô diệm thượng tranh dung tuyết
到
此 方 能 合 祖 宗
Đáo
thử phương năng hợp tổ tông
Roi,
thừng, người, trâu tất cả không
Trời
xanh xa rộng khó tin thông
Ngọn
lửa lò hồng tan hết tuyết
Tới
đây mới thật hợp tổ tông.
Tranh
vẽ một vòng tròn, người chăn và trâu đều không thấy tung
tích. Ngoài vòng tròn trống không ra, không có một vật nào
cả.
Người
chăn chỉ người tu, trâu chỉ tâm, ở đây người và tự
tánh hợp nhất; do đó người chăn và trâu đều biến mất.
1596. Trở lại nguồn cội.
返
本 還 源 已 費 功
Phản
bản hoàn nguyên dĩ phí công
爭
如 直 下 若 盲 聾
Tranh
như trục hạ nhược manh lung
庵
中 不 見 庵 前 物
Am
trung bất kiến am tiền vật
水
自 茫 茫 花 自 紅
Thủy
tự mang mang hoa tự hồng.
Trở
về nguồn cội đã phí công
Mắt
mù, tai điếc nghe như không
Trong
am chẳng thấy vật phía trước
Hoa
hồng, nước vẫn chẩy mênh mông.
Tranh vẽ núi xanh, nước biếc, tạp trúc, mai vàng. Đó là từ định cảnh phản chiếu sinh hoạt hiện thật. Bất kể gập cảnh gì đều y khuôn mặt xưa nay mà coi sự vật, không khởi phiền não.
1597. Thõng tay vào chợ.
露
胸 跣 足 入 廛 來
Lộ
hung tiển túc nhập triền lai
抹
土 塗 灰 滿 腮
Mạt
thổ đồ hôi tiếu mãn tai
不
用 神 仙 真 祕 訣
Bất
dụng thần tiên chân bí quyết
直
教 枯 木 放 花 開
Trực
giao khô mộc phóng hoa khai.
Rũ
bụi than nhơ cười rạng rỡ
Ngực
trần, chân đất vào chợ đông
Từ
cây khô chết hoa bỗng nở
Bí
quyết thần tiên cũng chẳng dùng.
Tranh
vẽ 1 vị hòa thượng tiêu sái,1 tay cầm túi vải,1 tay giơ
ra, bố thí cho một người ăn mày nghèo khổ.
Tranh
biểu thị người khai ngộ với lòng từ bi xử dụng những
phương tiện thiện xảo cứu độ chúng sanh.
(Ngưu
đích ấn tích)
1598. Ông tăng vô sự.
Đời
Minh, có một ông tăng không thuộc vào một chùa nào, không
ở một nơi nào nhất định, vân du tứ xứ. Một hôm ông
đi ngang một ngôi chùa thấy tượng của 4 vị Thiên vương
rất trang nghiêm, ông nghĩ bụng “Đây thật là chỗ tốt
để nghỉ ngơi!” Ông bèn nằm ngay xuống chân tượng mà
ngủ. Một ông quan đi qua trông thấy, nổi giận:
-
Hòa thượng là ai? Dám lười biếng nằm đây mà ngủ?
-
Lão nạp là một ông tăng không có việc làm.
-
Cái gì? ngồi thiền, tụng kinh, lễ Phật làm pháp sự là
việc làm của chư tăng sao thầy dám nói là không có việc
làm?
-
Những chuyện đó đối với ta vô can, ta đâu cần phải làm
những chuyện này!
(Ngưu
đích ấn tích)
Nghe
lời nói này ông quan từ phẫn nộ trở thành lúng túng. Sau
đó, ông ý thức được rằng ông tăng này không phải là
một ông tăng thường mà là một người tu hành chân chánh,
một ông tăng không có việc làm.
1599. Thiện ác như mây nổi.
Một
ông tăng hỏi Phá Táo Đọa:
-
Thế nào là người thiện?
-
Thân mặc áo giáp, tay cầm giáo dài đi giết người.
-
Thế nào là người ác?
-
Tu thiền, nhập định.
-
Trình độ con kém cỏi, xin thầy chỉ thẳng.
-
Ngươi hỏi ta thế nào là ác, ta bảo ác không từ thiện đến,
ngươi hỏi ta thế nào là thiện ta bảo ngươi thiện không
từ ác đến.
Ngưng
lại hồi lâu, lại hỏi:
-
Ngươi hiểu không?
-
Hiểu.
-
Ác nhân không có thiện niệm, thiện nhân không có ác niệm;
cho nên nói thiện, ác như mây nổi, không có chỗ sinh diệt.
Ông
tăng ngay đó đại ngộ.
(Thiền
thú 60)
Thiền
sư thích hỏi Đông đáp Tây, hỏi Tây đáp Đông, mục đích
là đảo ngược tư duy khiến người nghe xa lìa sự phân tích
của lý trí, trực tiếp thấy suốt chân tướng của sự vật.
Tư duy, lý trí là công cụ hoàn hảo để chia chẻ chân lý
thành những mảnh vụn, khiến người ta dùng những khái niệm
trừu tượng này mà kiến tạo nên một thế giới ảo tướng.
Con người khó chấp nhận sự thực này: chính dùng lý trí
để giải quyết những vấn nạn là nguyên tố khiến con người
không khai ngộ được. Trong quan niệm thông thường giết người
là ác, tu thiền là thiện. Thiền sư nói ngược lại là cảnh
giác có phân biệt thì không thể khai ngộ được, càng phân
biệt thì chấp trước càng sâu nặng.
1600. Giơ nắm đấm lên.
Khâm
sơn giơ nắm đấm lên bảo đại chúng:
-
Nếu nắm đấm mở ra thì bàn tay có các ngón tay dài, ngắn
sai biệt, nay là nắm đấm thì không có dài ngắn. các ngươi
nói Khâm sơn có thương lượng hay không thương lượng.
Một
ông tăng lại gần Khâm sơn giơ nắm đấm lên. Khâm sơn nói:
-
Như vậy, ngươi chỉ là một gã câm.
(Công
án thiền cơ)
Khâm
Sơn giơ nắm đấm chỉ không tướng của bản thể giới,
nhiếp thọ chư căn, quy nhập thể tánh không. Khi thiền sư
nói “Khi nắm đấm xòe ra thành bàn tay, thì các ngón tay dài
ngắn khác nhau, vậy Khâm Sơn thương lượng hay không thương
lượng?
Bàn
tay có nhiều ngón tay dài ngắn khác nhau là chỉ hiện tượng
giới vì có sai biệt dài ngắn (mở rộng ra : đẹp xấu, tươi
khô, thành bại . . .) Nay tâm tánh vào không, bản tánh nhất
như không có dài ngắn.
Như
vậy là Khâm Sơn chỉ cho đại chúng Thể (nắm đấm) và dụng
(bàn tay) là một. Khi ông tăng lại gần Khâm Sơn giơ nắm
đấm lên là ông trụ ở không. Khâm sơn bảo ông: ngươi chỉ
là một gã câm là hàm 2 ý:
1-
Ông tăng thấy Khâm Sơn giơ nắm đấm lên cũng bắt chước
giơ nắm đấm lên là thấy cảnh sanh tâm nên bị mắng.
2-
Nếu quả thật ông tăng ngộ được không, chứng được thánh
cảnh, thì cũng không được trụ tâm ở đó, vì đó chưa
phải là cứu cánh, phải quay lại hiện tượng giới để
chứng ngộ không hữu bất nhị.
1601. Pháp thân có thọ khổ không?
Một
lần Trường Khánh thượng đường, một ông tăng hỏi:
-
Pháp thân còn thọ khổ không?
-
Địa ngục há là thiên đường sao?
-
Như vậy là có thọ khổ?
-
Có tội gì chứ?
(Công
án thiền có)
Khổ,
lạc thuộc về ngũ uẩn. Pháp thân là không tướng, thanh tịnh
làm sao có giác tri khổ mà thọ khổ? Ông tăng vì chưa khai
ngộ pháp thân, không biết pháp thân là thế nào, có thể
và không có thể làm gì. Nếu ông đã biết thể dụng của
pháp thân thì mới có khả năng luận thuyết về hành tướng
và công năng của pháp thân. Thiền sư không trực tiếp trả
lời, nhưng những lạc thú ở thiên đường lại có liên quan
đến đau khổ ở địa ngục sao? Trong quá trình tu thiền,
nhị thiền lìa khổ lạc, tam thiền sinh định lạc, tứ thiền
chứng nhất tánh cảnh không lạc, khổ. Đối với pháp thân
thì địa ngục và thiên đường không sai biệt, không khổ,
không vui. Ông tăng nói như vậy là có thọ khổ: rõ ràng ông
là thuộc hàng sơ cơ, lại không chịu chăm chỉ tọa thiền
để từ thành tựu sắc thân mà tiến đến những vấn đề
hình nhi thượng. Lời của thiền sư có nghĩa là pháp thân
có tội lỗi gì mà phải thọ khổ? Dù chúng sanh có thọ khổ,
thọ lạc, pháp thân vẫn khách quan quan sát, nó vốn không
thọ một bụi trần, nói gì đến khổ, lạc. Người bị nghiệp
lực lôi cuốn. Pháp thân không sai lầm, không thấy khổ.
1602. Bài kệ của Ngũ tổ Pháp Diễn.
山
前 一 片 閒 田 地
Sơn
tiền nhất phiến nhàn điền địa
叉
手 叮 嚀 問 祖 翁
Thoa
thủ đinh ninh vấn tổ ông
幾
度 賣 來 還 自 買
Cơ
độ mai lai hoàn tự mãi
為
憐 松 竹 引 清 風
Vị
lân tùng trúc dẫn thanh phong
Trước
núi, một mảnh ruộng bỏ không
Khoanh
tay tha thiết hỏi Tổ ông
Mấy
lần bán đi rồi mua lại?
Vì
thuơng gió mát luồn rặng thông?
(Tổ
đình kiềm chùy)
Pháp
Diễn đến tham học Bạch Vân, bị Bạch Vân nạt, do đó mà
ngộ, bèn làm bài kệ trên.
1603. Niệm Phật.
Có
người nói:
Như
con nít suốt ngày gọi mẹ: mẹ ơi! Mẹ à! Bà mẹ không thấy
phiền sao? Cũng vậy cả ngày niệm A Di Đà Phật! A Di Đà
Phật! A Di Đà Phật lại chẳng phiền sao?
(Phật
pháp tu chứng tâm yếu)
Người
nói câu này tưởng như rất thông minh, rất hiểu đạo lý,
kỳ thực đây không phải là thông minh thật, còn là vọng
tưởng. Thứ nhất ông không biết rằng Phật và phàm phu bất
đồng, Phật là vô tâm tương ứng làm gì có phiền não? Thứ
nhì ông không biết rõ niệm Phật. Niệm Phật không phải
là kêu réo A Di Đà Phật mà là dùng Phật hiệu để tẩy
tâm, cach diện miên mật chuyển di vọng niệm khiến tâm không
tĩnh. Tâm là thổ, thổ là tâm. Tâm tĩnh tức Phật thổ tĩnh.
Càng lâu càng thâm, tất được cực lạc tĩnh thổ, tự thấy
A Di Đà Phật. Người nói câu này không hiểu đạo lý cứ
như các lão ông, lão bà một lòng niệm Phật tốt hơn.
1604. Nguyệt Thượng Nữ.
Tôn
giả Xá Lợi Phất vào thành, từ xa thấy Nguyệt Thượng Nữ
ra thành. Xá Lợi Phất nghĩ thầm không biết vị đại tỷ
này có thấy Phật không? đã đắc nhẫn hay chưa? Ta hãy đi
hỏi xem, bèn lại gần hỏi:
-
Đại tỷ đi đâu?
-
Như Xá Lợi Phất vậy .
-
Ta vừa muốn vào thành, đại tỷ vừa ra thành, làm sao nói
giống nhau?
-
Các đệ tử của Phật trú ở đâu?
-
Ở đại Niết Bàn.
-
Các đệ tử của Phật đều trụ ở Đại Niết Bàn, ta và
Xá Lợi Phất cùng đi trú ở đó.
(Chỉ
Nguyệt lục)
Nguyệt
Thượng Nữ là con gái của cư sĩ Duy Ma Cật, theo Phật học
pháp. Nhẫn: thọ hại mà không oán hận, có thể nhận biết
chân như.
1605. Ngũ Thông.
Tiên
Ngũ Thông hỏi Phật:
-
Con có ngũ thông, Phật có lục thông, một thông ấy là gì?
Phật
hỏi:
-
Ngũ Thông!
-
Dạ!
-
Đó là nhất thông ngươi vừa hỏi ta.
(Chỉ
nguyệt lục)
Lục
thông là sáu thần thông mà Phật, Bồ tát do tu thiền định
mà có. Đó là thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ
thông, tha tâm thông, túc mạng thông. Đó là ngũ thông, thêm
một thông nữa là lậu tận thông thì thành lục thông.
1606. Đỉnh núi không mây.
Từ
Minh thấy Khả Chân tới bèn hét:
-
Bản sắc của người tu là biết thời tiết nhân duyên, hạ
chưa xong ngươi có việc gì gấp mà tới đây?
Khả
Chân khóc thưa:
-
Thiệu sư huynh đối với con rất tốt cho con biết con chưa
thật ngộ do đó trở về xin sư phụ chỉ điểm.
Từ
Minh không rườm rà hỏi luôn:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
-
Đỉnh núi không mây vờn, lòng sóng bóng trăng rơi.
Từ
Minh trợn mắt, uy võ vạn phần thét mắng:
-
Đầu ngươi đã bạc trắng cả rồi, răng cũng rụng gần
hết, còn kiến giải như vậy, ngươi làm sao thoát vòng sinh
tử?
Khả
Chân khẩn khoản cầu Từ Minh chỉ thị .
-
Được! Ngươi hỏi ta đi!
-
Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Từ
Minh hét to:
-
Đỉnh núi không mây vờn, lòng sóng bóng trăng rơi!
Khả
Chân không ngờ Từ Minh nhắc lại câu nói của mình, thâm
tâm chấn động, khai ngộ ngay lúc đó.
(Thiền
thú 60)
Văn
chương của Khả Chân rất hay, câu đáp của ông rất thi vị.
Nhưng dưới mắt Từ Minh thì đó chỉ là trí giải chưa phải
là chứng ngộ thật nên mắng ông một trận làm cho ông bị
giao động tín niệm; khiến ông bỏ tất cả xuống, giống
như một tờ giấy trắng. Việc mắng chửi này không phải
là Từ Minh thiếu tu dưỡng, dễ nổi giận mà là thủ đoạn
để bức bách khai ngộ. Từ Minh dùng phương pháp hét lớn
để tăng thêm hiệu lực. Do đó Khả Chân mới thật chân
chánh thâm kiến Từ Minh. Để cho đệ tự mình thâm cứ ngộ
kiến đến trình độ nghiêm ngặt một giọt nước cũng không
lọt, sau đó thiền sư mới khẳng định lại khiến đồ đệ
trở thành long tượng của Thiền môn.
1607. Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.
(Xem
chi tiết ở công án 1035)
Các
nhà tâm lý học ngày nay nhận rằng đối với một sự việc
nếu ấn tượng đầu tiên là xấu sau đó sự việc chuyển
thành tốt, thì ấn tượng sau cùng lại càng tốt hơn. Sự
khai ngộ của Huyền Tắc cũng vậy. Mới đầu, sự khẳng
định ngộ kiến chưa được mạnh mẽ, bị phủ định rồi
lại được tái khẳng định thì thiên quân vạn mã cũng không
làm lay động được. Văn Ích thật ra chẳng làm gì cả, chỉ
nhắc lại câu nói của Huyền Tắc. Phương thức này gọi
là “ gọi về mà không về” khiến đối phương từ phàm
phu trở thành người khai ngộ. Đây là một kỷ sảo trong
phương pháp giáo dục khiến người học khó quên.
(Thiền
thú 60)
1608. Giáp Sơn và Phật Nhật.
Giáp
Sơn hỏi Phật Nhật:
-
Lúc chưa tới Vân Cư, ngươi ở đâu?
-
Thiên Thai Quốc Thanh.
-
Thiên Thai có sóng xanh vỗ ầm ầm, ngươi từ xa lại,ý tứ
thế nào?
-
Sống lâu trong hang hốc chẳng treo tùng la.
-
Là xuân ý, thu ý?
Phật
Nhật im lặng hồi lâu không đáp, Giáp Sơn phê bình:
-
Ngươi chỉ là gã chèo thuyền không phải là khách đi chơi
hồ.
(Thiền
thất dữ công án đích áo bí)
Câu
ngươi từ đâu tới bất tất phải hỏi, tuy nhiên đó là
Giáp Sơn giăng bẫy ra cho Phật Nhật đâm đầu vào. Phật
Nhật cũng là tác gia nên đáp ở Thiên Thai Quốc Thanh. Hai
người đều giả vờ nên Giáp Sơn lại hỏi Thiên Thai có
sóng xanh vỗ ầm ầm, ý ngươi thế nào? Rõ ràng là không
có gì để nói, nói nhiều có ích gì? Thiên Thai là chỗ tốt
đẹp, Phật tánh tự dõng xuất hà tất tới đây làm gì?
Nơi đây chim không đẻ trứng, cỏ chẳng mọc. Không biết
ngươi tới đây tâm ý thế nào?
Lúc
đó Phật Nhật nói một câu thừa thãi:
-
Sống lâu trong hang hốc, chẳng theo tùng la.
Lúc
đó đáng nhẽ Giáp Sơn đánh cho Phật Nhật 30 gậy và đuổi
ra là xong chuyện nhưng Giáp Sơn từ bi nên bảo:
-
Là xuân ý hay thu ý?
Đó
là có xuân, hạ, thu, đông biết bao dây leo. Phật Nhật không
trả lời được vì không hiểu Giáp Sơn tùy duyên mà ứng
cho nên im lặng. Cái im lặng này tuy là chiếu nhưng vô tác
dụng; tuy ở trong hang hốc nhưng không biết diệu dụng của
tùng la. Do đó Giáp Sơn từ bi phê bình: Ngươi chỉ là gã
chèo thuyền chưa thể tiến vào bể tánh.
1609. Vốn đã giải thoát.
(Xem
công án 773)
Con
người sống trong tưởng tượng của mình. Tưởng tượng
có phiền não, có Phật pháp để tu, có giải thoát để cầu.
Đó chỉ là tạo tác, là vô minh, là chấp trước. Ngưng tưởng
tượng, xem rõ chân tướng thanh tịnh, vốn hoàn mỹ không
thiếu sót gì; không cần phải tạo tác thêm gì nữa. Chúng
sanh khác Phật ở chỗ Phật cái gì cũng không có, còn chúng
sanh thì có quá nhiều. Chúng sanh có nhiều vọng tưởng, nhiều
dục vọng, nhiều quy phạm, nhiều tri thức, rất nhiều, rất
nhiều. Khi Tăng Xán hỏi: “Ai trói ngươi?” Đạo Tín đáp:
“Không ai trói”. Câu hỏi và câu đáp đều cao minh. Đoạn
đối đáp trên có thể viết lại như sau:
-
Xin thầy chỉ cho con pháp môn giải thoát.
-
Ai trói ngươi khiến cho ngươi không được giải thoát?
-
Chính là “ngã” (con)
-
Cái “ngã” trói ngươi nay ở đâu?
-
Con tìm không thấy cái “ngã” đó.
-
Nếu không tìm thấy cái “ngã” đó thì còn bị nó trói
sao?
-
Không tìm thấy nên không bị cái “ngã” đó trói.
-
Vậy ngươi đã được cởi trói rồi!
Đạo
Tín ngay đó giác ngộ.
(Thiền
thú 60)
1610. Vô Vị Chân Nhân.
(Xem
công án 1030)
Vô
Vị Chân Nhân là để mô tả tự tánh. Đừng quên, những
gì mô tả chỉ là ngón tay trò mặt trăng. Tự tánh cũng chỉ
là một từ miễn cưỡng mà dùng thôi. Vô Vị Chân Nhân là
ngã chân chính, không có một vị trí nào, không thể xác định
được nó ở một chỗ nào trong không gian, cũng không thể
tu hành từng bước, từng bước mà lại gần nó. Cũng không
thể dùng giác quan mà cảm nhận sự tồn tại của nó, cũng
như dùng ngôn ngữ mà mô tả nó. Do đó, Lâm Tế dùng hình
thức tỷ dụ nói Vô Vị Chân Nhân ở trên thân chúng sanh
thường ra ra vào vào. Ông tăng hỏi Vô Vị Chân Nhân có dạng
thức nào? Lâm Tế chỉ có cách giúp ông tăng tự thể nghiệm,
chứ không thể dùng lời mà cho đáp án. Khi Lâm Tế túm lấy
ông tăng buộc ông nói, không phải là ông mong đợi ông tăng
trả lời mà là bức bách ông tăng khiến cho ông ta thấy không
thể dùng lời nào để diễn tả mà thấy cái không thể thấy
Vô Vị Chân Nhân. Bất hạnh là ông tăng mở miệng định
nói thì Vô Vị Chân Nhân đã mất tiêu. Khi Lâm Tế nói Vô
Vị Chân Nhân có phải là que cứt khô không là hàm ý nếu
coi Vô Vị Chân Nhân là tâm ngẫu tượng, tâm linh hồn, tâm
triết học huyền diệu thì chẳng thà vứt Vô Vị Chân Nhân
vào thùng phẩn khiến khỏi làm hôi thối thế gian.
(Thiền
thú 60)
1611. Tâm và Pháp đều quên.
Một
ông tăng hỏi Hoằng Thông:
-
Tâm và pháp đều quên thì thế nào?
-
Con ểnh ương ba chân vác coi trên lưng.
(Công
án Thiền cơ)
Tâm
có thể giác tri đã diệt, pháp nương vào nhân duyên mà sanh
cũng không sanh cảm tri. Đó là tâm và pháp đều quên; lúc
đó tâm giác tri có thể tri và cũng có thể ly; có thể chiếu
nhưng không trú ở cảnh, gọi là bất giác, là chân như vô
vi. Đó là cảnh giới Bồ tát tùy thuận giác tánh, đã chứng
được chân như không thể, đối với các pháp đều tự tại
vô ngại. Hành giả chứng được không tam muội: thấy tất
cả mọi cảnh đều không có thật. Câu trả lời của thiền
sư chỉ hành giả ngộ chân không có thể chứng được chân
thật giải thoát tri kiến, có thể thoát ra mọi nghiệp duyên
cho nên đối với mọi pháp đều có thể hóa giải dễ dàng.
Vì tâm không chiếu nên không có cảnh chiếu, do đó tự tại
vô ngại. Hành giả đạt tâm pháp đều quên là thần thông
lực của hành giả. Hành giả không coi tâm lực, năng lực
nào là có, tâm có thể chiếu diệt nên không có cảnh chiếu.
Tâm và pháp đều quên: tự tánh không khởi vọng tánh tương
ứng, các ngoại duyên không tạo thành cảnh.
1612. Thấy tánh thành Phật.
Kế
Tông là một ông tăng ở Hoa Nghiệm Viện hỏi Vân Cư Trí
thiền sư:
-
Thấy tánh thành Phật là nghĩa gì?
-
Tánh thanh tịnh vốn trong trẻo, không lay động, không thuộc
sạch bẩn, dài ngắn, thủ xả, thể tự thảnh thơi. Thấy
rõ như thế là thấy tánh. Tánh tức là Phật, Phật tức là
tánh, nên nói thấy tánh thành Phật.
-
Tánh đã thanh tịnh, không thuộc hữu, vô, vì sao có thấy?
-
Thấy cái không thấy.
-
Nếu không có vật để thấy làm sao còn có thấy?
-
Chỗ thấy cũng không .
-
Như vậy khi thấy thì ai thấy?
-
Không có người thấy.
-
Cứu cánh lý này thế nào?
-
Ngươi biết không? Tất cả những gì gọi là có là do vọng
tưởng mà có, cũng là nói bản tánh có thể y tha khởi tự
tánh. Cái tự tánh đó, do đó có thể biến hiện, sản sanh
cảnh biến hiện. Nếu người theo cái thấy mà sanh tình thì
đọa vào vòng sanh tử. Người đã rõ, cả ngày trong trần
cảnh, không khởi vọng tưởng đó là thấy tánh.
(Công
án thiền cơ)
Qua
đoạn đối thoại trên chúng ta thấy thiền sư đã chỉ cho
ông tăng 3 điều:
1-
Không có người thấy: chân tâm hiện lượng phản ánh ngoại
trần mà sinh khởi tự tánh, pháp tướng. Pháp tướng này
có thể không khởi vọng tâm chấp thủ, cảnh về cảnh, tâm
về tâm, cho nên nói là không có người thấy.
2-
Không có vật thấy: tánh vốn thanh tịnh, không có hình tướng,
vậy làm gì có một vật gì để thấy.
3-
Không có cái thấy: phàm phu thấy cảnh tâm khởi vọng niệm
ưa, ghét. Người giác ngộ thấy cảnh biết đó là giả, tâm
không khởi vọng niệm nên thấy mà như không thấy.
Nói
cách khác: vốn không tự tánh làm gì có tánh để thấy, vốn
tự tự nhiên làm gì có Phật để thành? Khi chưa thấy tánh
muốn kiếm một tánh để thấy, thấy tánh rồi thì thấy
không có một vật nào để thấy, tất cả đều là không,
làm gì có Phật để thành.
1613. Cùng Đại Thiên.
Có
ông tăng hỏi Thiệu Tu:
-
Kiếp hỏa động nhiên đại thiên đều hoại, không biết
cái đó có hoại không?
-
Không hoại.
-
Tại sao không hoại?
-
Cùng đại thiên.
(Công
án thiền cơ)
Ông
tăng hỏi khi thế giới tới giai đoạn hoại diệt, từ tứ
thiền thiên trở xuống đều hoại, lúc đó thể tánh của
chúng ta có hoại không? Vấn đề này rất thú vị mặc dù
còn lâu mới xẩy ra, nhưng rất nhiều người tu vẫn lo trời
xụp, đều muốn biết rõ ràng là thể tánh có bị hoại hay
không? Thế gian là do 4 đại: đất, nước, gió, lửa hợp
thành. Khi hoại thì hỏa, thủy, phong sinh tai biến, cuối cùng
địa đại bị bại hoại.
Theo
Trường A Hàm Kinh thì khi thế giới hoại, ở giai đoạn kiếp
hỏa, lửa của thế gian làm sao thiêu hủy toàn thế giới?
Đương nhiên không phải, lúc đó sẽ xuất hiện 7 mặt
trời nhiệt lượng phát sinh tiêu diệt tất cả vật chất
ở thế gian. Hành giả chứng được pháp thân có thể đi
khắp thập phương thế giới, đương nhiên không bị kiếp
hỏa của ta bà thế giới ảnh hưởng. Thể tánh vốn không
tự tánh, đại thiên thế giới diệt, thể tánh trở về hư
không giới. Đại thiên thế giới diệt rồi, lại có đại
thiên thế giới tái sinh. Thể tánh cùng đại thiên thế giới
đồng tại.
1614. Cứu cánh không cảnh.
Nam
Tuyền bảo một ông tăng:
-
Đêm tới, gió mạnh.
-
Đêm tới, gió mạnh.
-
Thổi gẫy một cành tùng trước cửa.
-
Thổi gẫy một cành tùng trước cửa.
Nam
Tuyền lại gọi một ông tăng khác bảo:
-
Đêm tới, gió mạnh.
-
Là gió gì?
-
Thổi gẫy một cành tùng.
-
Là cành tùng nào?
Nam
Tuyền kết luận:
-
Một được, một mất.
(Công
án thiền cơ)
Ông
tăng thứ nhất luôn cảnh giác, nghe câu nói của thiền sư
không động tâm, gập cảnh ứng cảnh nhưng không chấp cảnh,
thuận miệng nhắc lại câu nói của thiền sư. Thể tánh của
hành giả vốn tự không tịch, hán đến hán hiện, hồ đến
hồ hiện, đêm tới gió lạnh, đêm tới gió mạnh hiện, thiền
sư lại nói “Thổi gẫy một cành tùng trước cửa” là
dụ ông tăng khởi vọng tưởng cành bị gẫy là cành to hay
nhỏ, có làm ai bị thương không v . v .
Nhưng
ông tăng không mắc bẫy chỉ nhắc lại câu nói của thiền
sư, ông đã lấy cứu cánh không thể ứng vạn chủng duyên.
Ông
tăng thứ hai, nghe thiền sư nói liền chấp vào cảnh, tâm
sinh vọng tưởng phân biệt. Câu của thiền sư có nghĩa là
ông tăng thứ nhất đã qua được cửa khảo nghiệm còn ông
tăng thứ hai thì không.
1615. Phất tánh chân thật.
Ấn
Tông hỏi Lục tổ:
-
Thế nào là Phật pháp bất nhị?
-
Pháp sư giảng kinh Nát Bàn đã rõ Phật tánh, đó là Phật
tánh bất nhị. Như cao quý Đức Vương bồ tát bạch Phật:
-
Phạm 4 trọng tội, 5 nghịch tội, cho tới Diêm Đề có đoạn
thiện căn, Phật tánh không?
Phật
đáp:
-
Thiện căn có 2: một là thường, hai là vô thường; Phật
tánh phi thường, phi vô thường cho nên không đoạn, gọi là
bất nhị. Phật tánh phi thiện, phi bất thiện nên gọi là
bất nhị. Uẩn và giới phàm phu thấy là hai, trí giả liễu
đạt thì thấy không hai. Tánh bất nhị là Phật tánh. Ấn
Tông nghe rồi chấp tay hoan hỷ.
(Công
án thiền cơ)
Ấn
Tông là một vị cao tăng đời Đường, người tỉnh Giang
Tô, tuy có gặp ngũ tổ Hoằng Nhẫn nhưng cũng không có thành
tựu gì. Sau giảng kinh Nát Bàn ở Pháp Tánh Tự ở Quảng
Châu, gặp được Lục tổ. Phật pháp bao gồm tất cả các
pháp của thế gian (tà pháp, chánh pháp), các pháp thiền định
thế gian, xuất thế gian, xuất xuất xuất thế gian, đều
là Phật pháp. Tổng quát tất cả các pháp đều gọi là Phật
pháp vậy, pháp nào mới chính là pháp bất nhị? Theo như lời
giảng của Lục tổ thì Phật tánh chính là bất nhị pháp
môn. Không có đối đãi, thường vô thường, vui khổ, ngã
vô ngã, không bất không, hữu tướng vô tướng v . v .
Ấn
Tông nghe lời giảng tâm khai, ý giải sinh lòng hoan hỷ, chắp
tay cung kính.
1616. Từ bi.
Văn
Thù đến thăm Duy Ma cật, hỏi:
-
Tại sao cư sĩ bệnh?
-
Vì chúng sanh bệnh nên tôi bệnh .
(Points
of departure)
Đọc
kinh Duy Ma Cật chúng ta biết đi thăm Duy Ma Cật không phải
là một chuyện dễ dàng cho Văn Thù. Duy Ma Cật rất nghiêm
khắc nên 12 người khác đã từ chối đi thăm ông. Đây không
phải chỉ là vấn đề của Văn Thù mà là của cả chúng
ta. Khi chúng ta từ chối không làm một việc mà chúng ta không
thích, chúng ta sẽ không tiến bộ. Thật dễ dàng cho chúng
ta khi chúng ta đi thăm một người không quá phức tạp hay
một người mà khi gặp khiến chúng ta thoải mái. Nhưng chuyện
này không giúp chúng ta tiến bộ. Vì vậy Văn Thù vâng lời
Phật đi thăm Duy Ma Cật. Câu trả lời của Duy Ma Cật có
ý nghĩa gì? Nhiều người nghĩ tôi khỏe mạnh, không bị cảm
cúm. Dạ dày tôi rất tốt, không gì làm phiền tôi. Tôi không
bệnh chút nào cả. Nhưng dưới cái nhìn của Phật Giáo thì
có 2 loại bệnh: Một là vật lý và tâm thần, hai là tham,
sân, si; ngộ nhận cái ngã cũng là bệnh. Do đó chúng ta đều
bệnh. Duy Ma Cật biết Văn Thù cần phải hiểu cái bệnh này
và rồi hiểu sự tử bi.
1617. Thầy của chư Phật.
Một
ông tăng hỏi Vân Cư:
-
Ai là thầy của chư Phật?
Vân
Cư hét lên và thêm:
-
Tên xà nô này!
Ông
tăng lạy.
-
Ngươi hiểu sao?
Ông
tăng hét lên và thêm:
-
Lão viện chủ!
-
Cơ bản ta chẳng hiểu.
Ông
tăng quay một vòng rồi ra. Vân Cư kêu lên:
-
Gã ăn mày cứ bám sát bàn ăn.
(Zen
and Zen classics)
Thầy
của chư phật là Phật tánh của chư Phật, chúng ta chỉ hiểu
sự kiện này khi Phật tánh của chúng ta bảo cho chúng ta biết.
1618. Tìm ta.
Giáp
Sơn bảo một ông tăng:
-
Hãy tìm ta trên đầu trăm cỏ, hãy nhận biết hoàng tử ở
chốn chợ đông.
(Zen
and Zen classics)
Đầu
trăm cỏ chỉ hiện tượng thiên nhiên. Khi chúng ta thấy mặt
trời mọc, lá rơi, cá bơi chúng ta sẽ hiểu lời Giáp Sơn