Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
禪 之 花
QUYỂN TRUNG
Dịch giả: Dương Đình Hỷ
661. Lấy Đầu Làm Ghế.
Trong
thiền viện do Tiên Nhai trụ trì có một học tăng thường
lợi dụng đêm tối leo tường ra ngoài chơi.
Một
hôm, Tiên Nhai đi tuần trong chùa, phát hiện có một cái ghế
đẩu ở góc tường liền biết ngay có người đã leo tường
ra ngoài chơi. Ông không kinh động ai cả, tiện tay dời ghế
đẩu đi chỗ khác tự mình đứng ở chỗ ghế đó đợi học
tăng trở về. Đêm đã khuya học tăng đi chơi trở về, không
biết ghế đẩu đã bị dời chỗ, cứ đạp lên đầu thiền
sư mà nhẩy xuống. Xuống tới đất mới biết người mình
đạp lên đầu là Tiên Nhai thì kinh sợ, hoang mang không biết
làm sao cho phải, nhưng Tiên Nhai không có ý giận lại còn
an ủi:
-
Trời khuya, sương nhiều ngươi phải cẩn thận kẻo bị lạnh,
mau về phòng mặc thêm áo!
Sau
đó, tự viện không ai biết chuyện này. Tiên Nhai cũng không
đề cập đến, nhưng từ đó ban đêm không còn thấy ghế
đẩu đặt ở góc tường nữa.
(Nhất
Vị Thiền: Quyển Phong)
Ông
tăng đã được thiền sư dùng tâm từ cảm hóa.
662. Hoằng Nhẫn.
Đạo
Tín sau khi được Tăng Xán truyền tâm ấn, một hôm trên đường
đến Hoàng Mai gập một đứa nhỏ khoảng 7 tuổi nói năng
kỳ lạ, bèn hỏi:
-
Ngươi tánh gì? (tiếng trung Hoa tánh là Họ)
-
Tánh thì có mà chẳng phải tánh thường.
-
Là tánh gì?
-
Phật tánh.
-
Ngươi không có tánh sao?
-
Vì tánh vốn không.
Đạo
Tín nói với tả, hữu:
-
Đứa nhỏ này rất phi phàm, sau khi ta diệt độ hai mươi năm,
sẽ đại hưng Phật pháp.
(Tổ
Đường Tập)
Công
án này nói về Phật tánh, siêu việt thời gian và không gian.
Nó có thể biểu thị bằng một vòng tròn Thiền. Vòng tròn
này hở vì không có trong, ngoài. Phật tánh có trong tất cả
chúng ta: kẻ hành quyết, nạn nhân, anh hùng, thục nữ, kẻ
sát nhân…ở tất cả mọi người, không có ngoại lệ.
(Barragato)
663. Gạo Trắng Chưa?
Một
hôm, Hoằng Nhẫn đến nhà giã gạo hỏi Huệ Năng:
-
Gạo trắng chưa?
-
Trắng đã lâu, nhưng còn chưa sàng.
Hoằng
Nhẫn lấy gậy gõ vào cối ba cái rồi bỏ đi.
(Pháp
Bảo Đàn Kinh)
-
Gạo đã trắng chưa: gạo trong câu nói này chỉ tâm Huệ Năng.
Đã loại hết trấu và sạn chưa? Tâm ngươi đã thanh tịnh
chưa?
-
Trắng đã lâu nhưng còn chưa sàng: con đã ngộ rồi, nhưng
còn chờ thầy chứng cho thôi.
Hoằng
Nhẫn gõ vào cối ba cái là tỏ ý chấp nhận.
(Barragato)
664. Tâm Như Hư Không.
Thiền
sư Trí Hoàng, sau khi tham phỏng Ngũ tổ Hoằng Nhẫn tự xưng
đạt được tâm tưởng bặt, duyên lự mất của thiền định
tam muội. Do đó ở trong am tập thiền hơn 20 năm. Đệ tử
của Huệ Năng là Huyền Sách, vân du đến Hà Bắc nghe danh
Trí Hoàng bèn đến thăm, hỏi rằng:
-
Ông ở đây làm gì?
-
Nhập định.
-
Ông nói nhập định là hữu tâm hay vô tâm nhập? Nếu là
vô tâm nhập định thì tất cả loài không tình thức như
cây cỏ, ngói gạch đều được định. Nếu là hữu tâm nhập
định thì tất cả chúng sanh hữu tình, hàm thức đều được
định rồi.
-
Khi tôi nhập định không thấy có hữu tâm, vô tâm.
-
Không thấy hữu tâm, vô tâm thì là thường định làm gì
còn có nhập định, xuất định. Nếu có xuất, nhập thì
chẳng phải là Đại Định.
Dưới
tay tướng giỏi, không có binh hèn. Kiến địa của Huyền
Sách làm cho Trí Hoàng không lời nào đối lại. Một lúc sau
mới hỏi:
-
Ông kế thừa pháp của vị nào?
-
Thầy tôi là Tào Khê Lục tổ.
-
Lục tổ lấy gì làm thiền định?
-
Thầy tôi nói diệu trạm viên tịch, thể dụng như như, năm
uẩn vốn không, sáu trần chẳng có, chẳng ra chẳng vào, chẳng
định chẳng loạn, thiền tánh vô trụ lià "trụ thiền
tịch.” Thiền tánh vô sanh, lìa "sinh Thiền tưởng.” Tâm
như hư không cũng không có số lượng hư không có thể đạt
được.
Trí
Hoàng nghe lời này rồi liền tự đến bái kiến Lục tổ.
Lục tổ hỏi:
-
Ngươi từ đâu tới?
Trí
Hoàng mang chuyện gập Huyền Sách kể lại. Lục tổ nói:
-
Thật đúng như vậy, nếu tâm ngươi như hư không, không chấp
không kiến, ứng dụng vô ngại, tâm không động tịnh, phàm
thánh đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng là một,
chẳng có định và hết định.
Trí
Hoàng nghe rồi đại ngộ, cái tâm sở đắc từ 20 năm tiêu
diệt không còn dấu vết.
(Nhất
Vị Thiền: Quyển Nguyệt)
Chấp
có pháp để đắc, có ngộ để chứng là chưa thật ngộ.
Thiền không rơi vào nhị biên có, không. Cũng không chấp ở
giữa. Nhị biên đã không có thì làm gì có trung gian? Không
thọ một hạt bụi, cũng không xả một pháp, thâu phóng tự
như.
665. Bài Giảng Của Thiền Sư La Sơn.
Mân
Vương xây một tự viện cho thiền sư La Sơn và mời ông ban
cho một thời pháp vào ngày khánh thành. Ông lên giảng đàn,
khoác cà sa vào rồi cởi ra và nói:
-
Xin chào!
Nói
rồi xuống tòa giảng.
Mân
Vương lại gần ông và nói:
-
Bài giảng bữa nay của thầy cũng giống như bài giảng của
Thế Tôn ở núi Linh Thứu.
-
Tôi tưởng ngài không biết gì về giáo lý không ngờ ngài
cũng biết chút ít về thiền.
(Zen
Koans)
Bài
giảng được coi là hay nhất của đức Phật là bài giảng
ở núi Linh Thứu (sự tích niêm hoa vi tiếu). Bài giảng yên
lặng và sự truyền tâm ấn là sự khởi đầu của Thiền.
Mân Vương so sánh bài giảng của La Sơn và của đức Phật.
Nhưng thiền sư biết rằng người đi tìm chân lý sốt sắng
nhất luôn luôn đến với tâm không. Biết chút ít về Thiền
còn tệ hơn là không biết gì cả.
666. Thầy Tôi Không Có Lời Này!
Có
người hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Cây bách trước sân.
Lúc
đó vấn đáp này đã trở thành thoại đầu danh tiếng. Về
sau, Pháp Nhãn hỏi đệ tử trực truyền của Triệu Châu là
Giác Thiết Chủy:
-
Nghe nói Triệu Châu có câu "cây bách trước sân" có phải
không?
-
Thầy tôi không có lời này, xin đừng hủy báng ổng.
-
Ngươi thiệt là sư tử con, lời nói y hệt lão sư tử Triệu
Châu.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Cổ
nhân tán thưởng Giác Thiết Chủy rằng:"Con tốt không sài
tiền cha." Câu nói "Thầy tôi không có lời này" của Giác
Thiết Chủy cũng giống như câu nói của Triệu Châu "Cây bách
trước sân" đều rất sinh động.
667. Hoàng Long Tam Quan.
Hoàng
Long khi thấy người tới bèn duỗi tay ra hỏi:
-
Tay ta sao giống tay Phật?
Nếu
trả lời một câu thiền sư liền duỗi chân ra hỏi:
-
Chân ta sao giống chân lừa?
Sau
đó lại hỏi:
-
Cái nào là sinh duyên của thượng tọa?
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu
thứ nhất là so sánh người với Phật.
Câu
thứ hai là so sánh người với súc vật.
Tổng
hợp lại là Tâm, Phật, chúng sanh không có sai biệt.
Hai
câu đầu đề thị học nhân: chúng sanh đều có Phật tánh,
cho nên không thể coi thường mình và chúng sanh. Sau đó tham
câu thứ ba, coi khuôn mặt xưa nay của mình là cái gì? Đó
là cái trong Đàn Kinh, Lục tổ nói: chẳng nghĩ thiện (Phật),
chẳng nghĩ ác (lừa), lúc đó cái gì là khuôn mặt xưa nay
(sinh duyên).
668. Vạn Dậm Không Tấc Cỏ.
Động
Sơn bảo đại chúng rằng:
-
Đầu Thu, cuối Hạ các huynh đệ hoặc đi Đông hoặc đi Tây,
nên hướng thẳng vào nơi vạn lý không tấc cỏ mà đi.
Lại
nói:
-
Nơi vạn lý không tấc cỏ làm sao đi?
Về
sau có ông tăng đến Lưu Dương, kể lại cho Thạch Sương
nghe. Thạch Sương bảo:
-
Ra cửa liền là cỏ.
Ông
tăng trở về trình lên Động Sơn. Động Sơn nói:
-
Trong nước Đại Đường có được mấy người?
(Bình
Thường Tâm Thị Đạo)
Vạn
dậm không tấc cỏ mọc là chỉ sa mạc hay sao? Dĩ nhiên không
thể căn cứ vào chữ mà giải thích được. Đây là diễn
tả cảnh giới không tịch của tự tánh, rộng lớn vô biên,
siêu việt hình tượng. Lại sợ đại chúng kẹt vào câu nói
nên lại nói "làm sao đi?" là ý ở ngoài lời nói. Câu "Ra
cửa liền là cỏ" của Thạch Sương là nói ngoài "không giới"
là sắc giới, những người chưa ngộ đạo ra cửa liền gập
cỏ.
"Trong
nước Đại Đường có được mấy người" là lời Động
Sơn khen ngợi Thạch Sương đã hiểu ý mình.
669. Ngàn Mắt, Ngàn Tay.
Nhân
một ngày đến Hà Bắc, phủ chủ Vương Thường Thị mời
Lâm Tế thượng đường nói pháp. Ma Cốc bước ra hỏi:
-
Quán Thế Âm ngàn mắt, ngàn tay, mắt nào là chánh?
Lâm
Tế đáp:
-
Quán Thế Âm ngàn mắt, ngàn tay, mắt nào là chánh? Nói mau!
Nói mau!
Ma
Cốc kéo sư xuống ngồi vào chỗ của sư.
Sư
lại gần chào:
-
Ngươi mạnh chăng?
Ma
Cốc định nói , sư kéo Ma Cốc ra, ngồi vào chỗ cũ. Ma Cốc
đi ra, sư cũng hạ đường.
(Lâm
Tế Lục)
Tượng
bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho lòng từ bi, có một
ngàn tay, một ngàn mắt. Một ngàn mắt để nhìn thấy những
người đang cần cứu và một ngàn tay giơ ra để giúp. Một
vài tượng có mười một mặt để có thể nhìn khắp mọi
nơi. Lâm Tế lập lại câu hỏi của Ma Cốc, chỉ thêm vào
mấy chữ :"Nói mau! Nói Mau!"
Lâm
Tế lấy câu hỏi của Ma cốc, do đó Ma Cốc lấy chỗ ngồi
của Lâm Tế (chủ, khách đảo ngược). Sau đó Lâm Tế chiếm
lại chỗ ngồi (chủ khách không khác). Ngàn mắt của Quán
Thế Âm mắt nào cũng là chánh. Chúng ta có 2 mắt, mắt nào
cũng thật, không ai hỏi mắt nào là giả. Một câu hỏi như
vậy thật vô nghĩa.
(Kubose)
670. Lâm Tế Phỏng Vấn Tam Phong.
Lâm
Tế tới Tam Phong, Bình hoà thượng hỏi:
-
Từ đâu tới?
-
Từ Hoàng Bá.
-
Hoàng Bá nói gì? (1)
-
Hôm qua cho trâu vàng vào lò nấu chẩy không còn dấu vết.
-
Gió vàng thổi tiêu ngọc, ai là kẻ tri âm? (2)
-
Qua vạn cửa không ngừng ở thanh không.
-
Câu đối thoại của ngươi thực cao thâm! (3)
-
Rồng sanh phụng hoàng vàng, xung phá sóng nước xanh.
-
Mời uống trà!
Bình
hòa thượng lại hỏi:
-
Gần đây ngươi đi đâu?
-
Long Quang.
-
Long Quang thế nào rồi?
Lâm
Tế không đáp, đi ra.
(Lâm
Tế Lục)
Đoạn
vấn đáp (1):
Hoàng
Bá nói gì?
-
Hoàng Bá dạy ta chân lý tột cùng, nhị nguyên đối đãi biến
mất không còn dấu vết.
Đoạn
vấn đáp (2):
-
Dĩ nhiên giáo lý của Hoàng Bá cao siêu, nhưng ngươi có thực
sự hiểu không?
-
Không những ta hiểu mà còn vượt lên trên nữa kìa!
Đoạn
vấn đáp (3):
-
Ngươi đã rời khỏi tầm tay!
-
Con rồng Hoàng Bá sanh con phượng Lâm Tế, đã đạt tới cảnh
giới cao nhất.
Bình
hòa thượng ngưng tranh luận.
(Akizuki,
dẫn theo Watson)
671. Cây Gậy Lớn Của Cảnh Thanh.
Cảnh
Thanh hỏi một ông tăng mới đến, từ đâu lại. Ông tăng
đáp:
-
Từ ba núi.
-
Lần kết hạ cuối ở đâu?
-
Từ năm non.
-
Ta sẽ cho ngươi 30 gậy.
-
Sao lại đánh con?
-
Vì ngươi hết đi từ thiền viện này lại sang thiền viện
khác.
(Zen
Koans)
Có
lẽ ông tăng này chỉ đơn giản thích đi loanh quanh các thiền
viện. Mặt khác, có thể ông đang đi tìm một vị thầy tốt.
Một vị thầy tốt sẽ biết ngay phẩm chất của đồ đệ.
Kỷ luật thiền rất nghiêm ngặt, bất cứ chấp vào một
cái gì cũng đều bị đánh.
672. Giọt Nước Tào Khê.
Một
ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
-
Thế nào là giọt nước Tào Khê?
-
Là giọt nước Tào Khê!
(Zen
Koans)
Thiền
bắt đầu ở Trung Hoa với Bồ Đề Đạt Ma (năm 520) và đạt
đến sung mãn với Huệ Năng. Vì vậy, câu hỏi có nghĩa là
cốt tủy của thiền là gì? Ông tăng chờ đợi được nghe
những giảng dạy cao siêu, nhưng Pháp Nhãn chỉ lập lại câu
hỏi. Thường thường câu trả lời đã nằm sẵn trong câu
hỏi. Nước là nước dù ở đâu. Thiền ở khắp mọi nơi.
Tất cả mọi sự vật đều là thiền. Dầu ta có bỏ chữ
Thiền đi, Thiền vẫn ở đấy không cần phải dán nhãn Cồ
Đàm, Đạt Ma, chúng ta.
673. - Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đang thuyết pháp gì
vậy?
-
Chíp chíp (tiếng sẻ), meo meo (tiếng mèo) gâu gâu (tiếng chó).
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
trả lời nhấn mạnh ở đây, bây giờ.
674. - Hãy chỉ cho ta cái cây không lay động trong cơn gió mạnh.
Ông
tăng đứng dậy, thân ngả tới ngả lui, hai tay vung trong không
khí, miệng kêu vi vu.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Nếu
ngươi đứng yên , ngươi đã bị động (tâm ngươi động
vì có ý kháng cự lại với gió). Nếu ngươi động theo gió,
ngươi không động (vì tâm ngươi không động).
675. Văn Thù cưỡi sư tử, Phổ Hiền cưỡi voi trắng, còn Thích
Ca cưỡi gì?
-
Con ngồi thiền trên một cái nệm rách, bất động.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Ông
tăng không thèm để ý đến lịch sử và thần thoại, ông
chỉ biết Phật hiện tại (là ông và thiền sư).
676. Đã nghe được tiếng vỗ của một bàn tay, hãy đưa chứng cớ ra coi!
677. Nghe được tiếng vỗ của một bàn tay, khai ngộ thành Phật, xin hỏi làm sao làm Phật?
678. Khi ngươi đã biến thành tro, còn nghe được tiếng vỗ của
một bàn tay không?
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Trong
cả ba công án trên, ông tăng không nói chỉ giơ một bàn tay
ra phía trước.
Trong
công án 676, ông tăng không bị chứng cớ trói buộc, chỉ
ám thị là thế đó.
Trong
công án 677, ông tăng không bị mê, ngộ trói buộc, ám thị
ở đây, bây giờ.
Trong
công án 678, ông tăng không bị sanh, tử trói buộc. Khái niệm
sau khi chết chỉ có khi ta còn sống.
679. Bàn tay này (tức bàn tay cho tiếng vỗ) có bị xuy mao kiếm
chặt đứt không?
-
Không chặt được.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Ông
tăng vừa nói không chặt được vừa giơ một bàn tay
ra. Chặt không được vì chặt không ta lại được không.
680.
Thế nào là sáng tới Tây Thiên, chiều về Đông Độ?
Ông
tăng đi tới đi lui trong phòng và nhắc lại sáng tới Tây
Thiên, chiều về Đông Độ.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Ông
tăng không bị thời gian (sáng, chiều) và không gian (Tây Thiên,
Đông Độ) trói buộc, chỉ phản ứng lại với Đi và Về.
681.
Thế nào là tiếng không tiếng của một bàn tay?
Ông
tăng không nói, đứng dậy lạy rồi lại ngồi xuống.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Trong
nghi thức chào hỏi Nhật Bản, ngoài động tác còn kèm theo
lời chào hỏi. Ở đây ông tăng chỉ dùng động tác không
nói là để diễn tả tiếng không tiếng.
682. Cảnh Giới Giáp Sơn.
Có
ông tăng hỏi Giáp Sơn:
-
Thế nào là cảnh Giáp Sơn?
Giáp
Sơn trả lời bằng một câu kệ:
猿
抱 子 歸 青 嶂 後
Viên
bão tử quy thanh chướng hậu
鳥
啣 花 落 碧 巖 前
Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền
Vượn ẵm con về sau núi biếc
Chim tha hoa rụng trước non xanh.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Thiền
Ngộ)
Ông
tăng hỏi Cảnh giới giác ngộ của Giáp Sơn. Câu đáp của
Giáp Sơn cho biết Vô Tâm là giác ngộ, muốn vậy phải từ
bỏ Tâm phân biệt.
683. Vạn Dặm Không Một Cụm Mây.
(Thiền
Ngộ)
Vạn
dặm không một cụm mây chỉ cảnh giới giác ngộ. Mây chỉ
phiền não. Mặt trời, mặt trăng dụ cho Phật tánh, bị mây
che không nhìn thấy được. Muốn thấy được mặt trời,
mặt trăng chỉ cần gió thổi, mây tan. Gió ở đây là Bát
Chánh Đạo, trong đó Chánh Định là đại biểu.
684. Ngựa Trắng Vào Đám Hoa Lau.
(Thiền
Ngộ)
Hoa
lau mầu trắng, ngựa cũng mầu trắng. Khi ngựa vào khóm lau
ta khó phân biệt đâu là ngựa, đâu là hoa. Câu này cũng như
câu “Tuyết đầy chén bạc”, đều chỉ Thiên Địa vạn
vật khách quan và tự ngã chủ quan đều cùng một thể.
685.
Đè đầu trâu bắt ăn cỏ.
(Thiền Ngộ)
Đây
là chỉ cưỡng bức trâu no phải ăn cỏ. Ý là cơ duyên chưa
chín mùi, dù dụng công thế nào cũng không liễu ngộ được.
686. Thế Tôn Chẳng Nói, Ca Diếp Chẳng Nghe.
(Thiền
Ngộ)
Đây
là dẫn sự tích “niêm hoa vi tiếu.” Sự thực thì Thế
Tôn nói rất nhiều và Ca Diếp chú ý nghe. Nói cách khác, cảnh
giới chân chính giác ngộ không thể dùng lời mà thuyết minh
được; chỉ dùng tâm truyền tâm.
687. Vũ Trụ Không Hai Mặt Trời, Càn Khôn Chỉ Một Người.
(Thiền
Ngộ)
Vũ
chỉ không gian; trụ chỉ thời gian, càn chỉ trời, khôn chỉ
đất. Đây là cảnh giới sau khi lãnh ngộ rồi, câu này cũng
tương tự như câu “duy ngã độc tôn.”
688. Một Tiếng Sấm Động, Gió Mát Khởi.
(Thiền
Ngộ)
Sau
cơn mưa gió sấm chớp, phiền não và vọng tưởng đều bị
rửa sạch, tiến vào ngộ cảnh thanh tịnh.
689. Mộng.
Trạch
Am thiền sư sắp mất, chúng đệ tử xin ngài cho một bài
kệ phó pháp. Thiền sư bèn viết một chữ Mộng rất lớn,
bên cạnh đề hàng chữ nhỏ:
Thị là mộng , phi cũng là mộng
Di Lặc là mộng , Quán Âm cũng là mộng.
Phật nói nên quán như thế!
Sau
đó liền mất
(Thiền
Ngộ)
Ý
của Trạch Am là coi sự vật hữu hình và vô hình ở thế
gian là mộng, do đó thoát ly được những nhận thức tương
đối của thế gian và tiến vào cảnh giới giác ngộ.
690. Trúc Rậm Không Ngăn Nước Chẩy
Núi Cao Chẳng Cản Mây Bay.
(Thiền
Ngộ)
Nước,
trúc, núi, mây đều tự nhiên vô tâm; do đó không bị sự
vật gì làm trở ngại. Tâm Kinh có nói: “Cố tâm vô quái
ngại” là chỉ vô tâm thì không bị trở ngại. Chỉ khi nào
tự giác tất cả đều không thì mới đạt được tâm cảnh
“Trúc rậm không ngăn nước chẩy.”
691. Vân Cư.
Vân
Cư đến tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
-
Tên ngươi là gì?
-
Vân Cư.
-
Nói lên trên.
-
Nói lên trên thì chẳng phải là Vân Cư.
-
Lời nói của ngươi cũng giống như câu trả lời của
ta khi đến Vân Nham.
(Zen
Light)
Có
tên là có phân biệt. Chúng ta sống ở trong thế giới nhị
nguyên đối đãi, ở thế giới danh tướng. Chúng ta nên biết
rằng còn có thế giới không danh tướng. Danh tướng chỉ
là tương đối, luôn thay đổi và không thật. Chân lý không
có tên, không chỗ, không vật.
Khi
chúng ta ở trong một phòng sáng chúng ta không cần mở đèn.
692. Chuông Kêu.
Một
lần nghe gió thổi làm chuông kêu, Tăng Già Nan Đề hỏi Già
Da Xá Đa:
-
Chuông kêu hay gió kêu?
-
Chẳng phải chuông hay gió kêu mà là tâm con kêu.
-
Tâm như thế nào?
-
Thẩy đều im lặng.
-
Tốt, ngươi sẽ nối pháp ta!
(Zen
Light)
Công
án này có thể là nguồn gốc của công án gió động hay cờ
động trong Vô Môn Quan (xem Công án số 95). Khi ta nhìn một
sự vật bên ngoài chúng ta đã có sự phân biệt chủ thể
và đối tượng. Có phân biệt là có đối đãi: Chúng ta đang
sống trong thế giới hư vọng.
Samuel
Johnson đạp mạnh ngón chân cái trên một hòn đá và kêu lên
Ối! Làm thế ông đã chứng minh được sự hiện hữu của
ngón chân, hòn đá và sự đau đớn. Lúc đó không phải chỉ
có tiếng ối hay sao? Tiếng ối đó không phải là sự hợp
nhất của ngón chân, hòn đá và sự đau đớn hay sao? Tiếng
ối đó đã chứng minh sự không thể tách rời chủ thể và
đối tượng, tất cả là tiếng ối đó. Ối! là toàn
thể vũ trụ. Ối!
693. Vân Nham.
Vân
Nham tham học với Bách Trượng hai mươi năm, sau lại đến
học với Dược Sơn. Dược Sơn hỏi:
-
Bách Trượng dạy pháp gì?
-
Có lần, thiền sư thượng đường, đại chúng sắp thành
hàng, Bách Trượng cầm gậy sua mọi người đi hết sau đó
lại gọi: “Đại chúng!” Đại chúng xoay đầu lại, Bách
Trượng nói: “Là cái gì.”
Dược
Sơn bảo:
-
Sao ngươi không nói sớm, hôm nay nghe ngươi kể lại, ta được
thấy
Hải huynh.
Ngay
câu nói ấy, Vân Nham tỉnh ngộ.
(Zen
Light)
Mục
đích của thiền là ngộ. Thiền sư dùng đủ mọi cách để
thiền sinh đạt tới đích này. Đôi khi cách thức có vẻ
kỳ lạ nhưng chỉ là muốn thiền sinh vượt qua những lề
thói thông thường. Trong công án này, Bách Trượng không giảng
cho một thời pháp, dùng gậy đuổi đại chúng đi, sau đó
lại hỏi là cái gì? Ông ám chỉ phải buông bỏ tất cả
những thành tựu, học vấn . . . vì tất cả chỉ là
không, ngay cả cái không này cũng phải bỏ thì mới có thể
ngộ, Lúc đó Vân Nham còn chưa tỉnh chỉ sau khi nghe lời nói
của Dược Sơn ông mới thực sự giác ngộ.
694. Bảo Tích.
Bảo
Tích một hôm ra khỏi cửa thấy một đám tang, người hát
thuê rung chuông hát rằng:
Vầng hồng quyết định lặn về Tây
Chưa biết ủy hồn hướng về đâu?
Người
con hiếu ở dưới màn khóc hu hu, sư bỗng nhiên thân tâm vui
mừng, khai ngộ.
(Niêm
Hoa Vi Tiếu)
Chữ
bỗng nhiên này thật sinh động, diễn tả thiền sư trong tình
huống ngẫu nhiên mà ngộ. Trải bao thời gian tìm tòi, cuối
cùng trong lúc vô ý như một tia điện chớp lòe đạt tới
tâm phát sáng, chiếu cả mười phương. Các thiền sư không
thể nào giải thích tại sao tại lúc đó mà không tại lúc
khác, ở trong tình huống đó mà không ở trong tình huống
khác, mà bỗng nhiên khai ngộ, chỉ tự mình thể hội.
695. Đại Đường Đánh Trống Tân La Múa.
(Thiền
Ngộ)
Biểu
thị sự lãnh ngộ.Thiên địa nhất thể, siêu việt không
gian và thời gian. Cũng để chỉ 2 người bạn tuy xa cách nhau
trong không gian nhưng tâm ý tương thông.
696. Suối Sâu Dùng Gáo Cán Dài.
(Thiền
Ngộ)
Dùng
gáo để múc nước suối. Suối cạn dùng gáo cán ngắn, suối
sâu dùng gáo cán dài. Trong Phật giáo có câu: “Ứng cơ thuyết
pháp,” nghĩa là tùy theo căn cơ của người nghe mà thuyết
pháp. Đối với người ngu thì dùng lời lẽ thông thường,
còn người thông minh thì dùng lý lẽ cao siêu của Phật lý
mà giảng. Cũng tỷ như dùng dao mổ trâu mà làm gà hoặc ngược
lại dùng dao giết gà mà mổ trâu thì không thuận lợi.
697. Bên Ngọn Lửa Hồng Không Chủ Khách.
(Thiền
Ngộ)
Ý
là khi ngồi sưởi ấm bên ngọn lửa thì không phân biệt
ai là chủ, ai là khách. Chủ là chủ thể, khách là khách thể,
tuy có sai biệt nhưng vẫn tương đồng, cũng như con người
ai cũng có Phật tánh.
698. Trăng Mọc Trên Biển , Bao Người Lên Lầu.
Nếu
muốn ngắm trăng mọc trên biển thì phải lên lầu cao, ý
nói nếu có một người đức cao vọng trọng xuất hiện,
mọi người đều tôn kính và ngưỡng vọng.
699. Dép Cỏ Rách.
(Thiền
Ngộ)
Dép
cỏ dùng để đi đường cho khỏi đau chân, rách rồi thì
phải vứt bỏ nếu cứ khư khư giữ bên mình thì chỉ làm
trở ngại. Cũng vậy, văn tự, công án dùng để thức tỉnh,
ngộ rồi thì phải bỏ.
700. Mây Bay, Nước Chẩy.
(Thiền
Ngộ)
Mây
tự do bay lượn, gió cuốn tới đâu thì tới, không bị bó
buộc. Nước chẩy không ngừng. Câu này ý nói người tu hành
tự do, tự tại đi khắp nơi tìm thầy hay, bạn giỏi để
học hỏi. Do đó, người ta thường gọi các ông du tăng là
hành vân lưu thủy tăng hay vân thủy tăng.
701. Bài Kệ Phó Pháp Của Ma Noa La Tôn Giả:
心
隨 萬 境 轉
Tâm
tùy vạn cảnh chuyển
轉
處 實 能 幽
Chuyển
xứ thật năng u
隨
流 性 認 得
Tùy
lưu tánh nhận đắc
無
喜 亦 無 憂
Vô
hỷ diệc vô ưu
Tâm theo muôn cảnh chuyển
Chỗ chuyển thật kín sâu
Theo dòng nhận được tánh
Không mừng cũng không lo.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Thiền
Ngộ)
Thông
thường con người bị ngoại giới mê hoặc, có lúc cảm thấy
vui, có lúc cảm thấy buồn, đó đều là do nhân duyên cả.
Nếu như sống trong thế giới vô thường này mà có thể vô
tâm và vô ngã thì sẽ được tự do vô ngại.
702. Trực Tâm là Đạo trường.
Một
hôm Quang Nghiêm đồng tử lìa bỏ nơi náo nhiệt, tìm một
chỗ thanh tịnh để tu hành, ngẫu nhiên gập Duy Ma Cật, bèn
hỏi:
-
Cư sĩ từ đâu lại?
-
Ta từ đạo tràng lại.
-
Đạo trường ở đâu vậy?
-
Trực tâm là đạo trường.
(Thiền
Ngộ)
Người
thường khi đề cập đến tu hành phần lớn đều nghĩ đến
tìm một chỗ thanh tịnh, xa rời nhân quần để tu tập. Nhưng
nếu tâm còn phân biệt, vọng tưởng thì bất cứ đi đến
đâu cũng không thể nào tới được đạo trường. Đạo trường
ở đây không phải là chỉ cơ sở mà là chỉ tâm cảnh.
703. Bõm.
Phật
Đính hòa thượng đến thăm thi sĩ Ba Tiêu. Hòa thượng biết
Ba Tiêu đã khai ngộ, tới nơi bèn hỏi:
-
Gần đây có chuyện gì tốt chăng?
-
Mưa xuống rêu xanh tươi.
-
Khi rêu chưa mọc, Phật pháp thế nào?
Ba
Tiêu trả lời bằng một bài hài cú:
Mặt ao cũ yên lặng
Một con ếch nhẩy vào
Bõm!
(Đồ
Giải Thiền vấn đáp)
Trong
thế giới Thiền - thế giới của tự tánh- không có sự phân
biệt có hay không có giá trị; không quan trọng hay quan trọng.
Bất cứ sự việc gì dù tầm thường hay có vẻ vô ý nghĩa
cũng có thể làm thức dậy sự tỉnh thức đang ngủ. Con ếch
trong tâm Ba Tiêu, khi nhẩy xuống ao đã tạo nên những vòng
tròn lan ra mặt nước, vượt qua ao, qua mặt trăng, mặt trời,
qua những vì sao xa nhất, vượt lên không gian. Và nó cũng
chìm sâu hơn Ba Tiêu, Bồ Đề Đạt Ma, Thích Già Mâu Ni trong
cảnh giới không thời.
(Marian
Mountain)
704. Một bài thơ Xuân.
Một
vị tỳ khưu ni đời đường sau khi đi khắp nơi tham học,
khai ngộ rồi viết bài thơ sau:
盡
日 尋 春 不 見 春
Tận
nhật tầm xuân bất kiến xuân
芒
鞋 踏 破 嶺 頭 雲
Mang
hài đạp phá lãnh đầu vân
歸
來 偶 把 梅 花 嗅
Quy
lai ngẫu bả mai hoa khứu
春
在 枝 頭 已 十 分
Xuân
tại Chi đầu dĩ thập phần
某 尼
Mỗ Ni
Trọn buổi tìm Xuân chẳng thấy Xuân
Giầy cỏ dẫm khắp mây đầu non
Trở về bỗng qua dưới hoa mai
Xuân ở đầu cành đà mười phần.
(Đồ Nam dịch)
(Thanh
Tịnh lưu ly)
Chúng
ta cầu đạo cũng như đi tìm xuân. Cả ngày đi khắp sơn cùng,
thủy tận, mòn cả dép mà cũng chẳng thấy xuân ở đâu.
Đến khi trở về, ngửi thấy mùi thơm của hoa mai trong vườn
mới biết xuân đã tới rồi. Bài thơ này thuyết minh chúng
ta đi tìm chân lý, trí tuệ, tìm hoài mà vẫn không thấy vì
không biết hướng nội.
705. Chị dâu Mã Tổ.
Đời
Đường, thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất chứng đạo rồi trở
về quê cũ. Bà chị dâu ông rất kính trọng ông, coi như bậc
thầy và cầu đạo với ông. Mã Tổ bảo:
-
Tẩu tẩu hãy lấy một quả trứng gà, dùng dây treo giữa
khoảng không, hàng ngày chú ý lắng nghe, chỉ cần nghe thấy
quả trứng phát ra tiếng là ngộ đạo.
Bà
chị dâu tin đó là thực, hàng ngày chú ý lắng nghe không
hề trễ nải. Đã nhiều năm trôi qua rồi mà vẫn không nghe
được âm thanh nào của quả trứng phát ra cả. Dần dần,
sợi dây treo quả trứng bị mục nát; một hôm đứt ra, quả
trứng rớt bạch xuống đất. Bà chị dâu nghe rồi liền ngộ:
nguyên lai vật ngã là một.
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Tiếng
“bạch” đó giúp bà chị dâu Mã Tổ đả phá trong ngoài,
nhân ngã, đạt tới cảnh giới như như.
706. Kim Bích Phong.
Kim
Bích Phong tuy đã ngộ đạo, có thể buông bỏ tất cả tham
ái,
tuy
nhiên ông rất thích cái bát ngọc để ăn cơm.
Trước
khi nhập định, đều cất cái bát ngọc cẩn thận rồi mới
an tâm ngồi thiền.
Một
hôm, Diêm Vương thấy thọ mạng của ông đã dứt, bèn sai
vài tên tiểu quỷ đến bắt. Kim Bích Phong biết trước thời
đã tới, bèn nhập vào cảnh giới thiền định rất sâu.
Các tên tiểu quỷ đợi một hôm, hai hôm rồi đợi mãi mà
vẫn không thấy ông xuất định, không biết làm sao về tâu
với Diêm Vương bèn đi hỏi thổ địa lập kế nào để Kim
Bích Phong xuất định. Thổ Địa nói:
-
Kim Bích Phong rất thích cái bát ngọc, nếu các ngươi
lấy được bát ngọc, nhất định ông ta sẽ xuất định.
Lũ
tiểu quỷ vội đi lấy bát ngọc, dùng hết sức lay động
làm bát kêu keng keng.
Kim
Bích Phong nghe tiếng vội xuất định. Lũ tiểu quỷ vỗ tay
cười:
-
Được rồi! Bây giờ mời ông đi gặp Diêm Vương.
Kim
Bích Phong trong sát na đó đại ngộ, hiểu rằng chỉ vì một
chút tham ái mà hủy diệt thiên cổ tuệ mạng. Ông bèn ném
bát ngọc vỡ tan và lập tức nhập định vào cảnh giới
niết bàn.
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Nếu
còn một chút tham ái dù rất nhỏ cũng không thể vào niết
bàn thanh tịnh được.
707. Linh Quyển.
Linh
Quyển đến tham phỏng Quy Tông hỏi:
-
Phật là gì?
-
Không thể nói cho ngươi biết vì ngươi không tin. Nếu ngươi
tin thì lại gần đây ta bảo cho.
Linh
Quyển bước lại gần, quy Tông ghé tai thì thầm:
-
Chính là ngươi!
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Học
thiền cần có ngộ tánh linh xảo , lại cần phải có tính
khôi hài nữa.
708. Phật là ai?
Có
ông tăng hỏi Bách Trượng:
-
Phật là ai?
Bách
Trượng hỏi ngược lại:
-
Ngươi là ai?
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Câu
trả lời của Bách Trượng rõ ràng chỉ rằng mình là Phật
lại còn đi hỏi ai nữa?
709. Bài kệ của Bố Đại.
Bố
Đại hòa thượng có bài kệ:
手
把 青 苖 插 滿 田
Thủ
bả thanh miêu tráp mãn điền
低
頭 便 見 水 中 天
Đê
đầu tiện kiến thủy trung thiên
六
根 清 淨 方 為 道
Lục
căn thanh tịnh phương vi đạo
退
步 原 來 是 向 前
Thối
bộ nguyên lai thị hướng tiền
Tay cấy mạ non đầy cả đồng
Cúi đầu thấy trời trong vũng nước
Sáu căn thanh tịnh Đạo mới thông
Lùi về sau là tiến tới trước.
(Ngộ
Không dịch)
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Người
thường hay có khuynh hướng nhìn cao chẳng nhìn thấp, cầu
xa chẳng cầu gần. Bài kệ này nói cho chúng ta biết từ gần
có thể thấy xa, thối lui chính là tiến bước.
710. An Lạc.
Có
ông tăng đang ngồi thiền, một vị ngoại đạo đến hỏi:
-
Có phải ông tu để kiếp sau an lạc không?
-
Không, tôi tu để kiếp này an lạc!
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Sự
an lạc ở Niết Bàn không phải chết rồi mới được, mà
là dập tắt mọi phiền não.
711. Duy Khoan.
Có
ông tăng hỏi Duy Khoan:
-
Đạo ở đâu?
-
Chỉ ngay trước mắt.
-
Sao con không thấy?
-
Vì ngươi có “ngã” nên không thấy.
-
Con có “ngã” nên không thấy, còn hòa thượng có thấy không?
-
Có ta có ngươi thao thức nên không thấy.
-
Không con, không hòa thượng lại thấy chăng?
-
Không ta, không ngươi thì ai cầu thấy!
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Khi
ta có thể an trú ở vô nhân ngã, vô đối đãi thì ta và hư
không là một. Tâm, Phật, chúng sinh vốn không sai biệt. Phật,
chúng sinh, vạn vật đều ở trong tâm ta. Ngoài tâm nào có
chúng sinh. Nói là độ chúng sinh nhưng không có một chúng
sinh nào để độ.
712. Tiết Giản.
Tiết
Giản hỏi lục tổ:
-
Hiện ở kinh thành các đại đức tham thiền đều nói nếu
muốn giác ngộ phải tọa thiền, tập định. Xin hỏi đại
sư có cao kiến gì?
-
Đạo do tâm ngộ, há phải tại ngồi sao?
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Đi,
đứng, nằm, ngồi, gánh nước , bửa củi, chau mày, chớp
mắt, nhất cử nhất động đều có thể làm đốn ngộ. Mài
gạch không thể thành gương, tọa thiền chẳng thể thành
Phật. Tham thiền cầu đạo điều quan trọng là giác ngộ
chân tâm, bản tánh.
713. Đốn, tiệm.
Đường
Tuyên Tông hỏi Hoàng Biện:
-
Thế nào là đốn, là tiệm?
-
Đốn là thấy rõ tự tánh, đồng thọ với Phật, nhưng từ
vô thủy tâm đã bị tập nhiễm nên phải dùng tiệm để
trị, thuận theo tánh mà khởi dụng như người ăn cơm chẳng
thể vừa và một miếng mà đã no bụng được.
(Thiền
Ngoại Thuyết Thiền)
Nhà
Phật lấy nghịch làm thuận. Trải qua khổ tu bỗng nhiên linh
cơ nhất động thấy rằng nghịch chính thực là thuận. Nhưng
ở thế tục lực lượng thuận rất mạnh muốn tránh khỏi
bị lôi cuốn vào vòng nguy hiểm thì không một giây phút nào
được buông lơi. Nghĩa là linh cơ nhất động (đốn) vẫn
phải liên tục tu hành (tiệm).
714. Thần Hội và Lục Tổ.
Thần
Hội lúc 13 tuổi từ chùa Ngọc Tuyền ở kinh Nam đến tham
kiến lục tổ. Tổ nói:
-
Thiện trí thức từ xa đến khó nhọc, có mang bản lai theo
không, nếu có thì nhận biết được chủ nhân ông, vậy hãy
nói thử coi?
-
Lấy vô trụ làm gốc, “thấy” là chủ nhân ông.
-
Gã tiểu sa di này sao dám khinh xuất nói vậy?
-
Hòa thượng ngồi thiền thấy hay chẳng thấy?
Lục
tổ hươi gậy đánh cho 3 cái rồi hỏi:
-
Khi ta đánh thì ngươi đau hay không đau?
-
Cũng đau, cũng chẳng đau.
-
Ta cũng thấy, cũng chẳng thấy.
-
Thế nào là cũng thấy, cũng chẳng thấy?
-
Ta thấy là thường thấy những sai lầm của nội tâm ta, nhưng
không thấy phải trái, tốt xấu của người khác. Vì vậy
mới nói cũng thấy, cũng chẳng thấy. Còn người nói cũng
đau, cũng chẳng đau là sao? Nếu ngươi chẳng đau thì
khác chi cỏ cây, sỏi đá? Nếu ngươi đau thì giống kẻ phàm
phu có lòng sân hận. Như ngươi hỏi thấy chẳng thấy là
chấp nhị biên; đau chẳng đau là chấp sinh diệt. Ngươi còn
chưa kiến tánh sao dám dỡn người?
Thần
Hội nghe rồi đảnh lễ sám hối.
(Nhất
Vị Thiền Quyển Nguyệt)
Lời
nói của lục tổ hợp “lý” hợp “cơ” khiến Thần Hội
á khẩu, tự biết mình vô tri do đó lạy tổ 100 lạy và theo
hầu một bên.
715. Trăng soi đáy hồ không lưu dấu
Bóng trúc quét thềm bụi chẳng động.
(Thiền
Ngộ)
Vô
Học Tổ Nguyên (người đời Tống, được Nhật Bản mời
sang truyền dạy Phật pháp, là tổ khai sơn của Viên Giác
tự). Lúc nhỏ nghe một ông tăng ngâm câu này, bèn quyết tâm
xuất gia. Bóng trăng, bóng trúc đều biểu thị tâm đã thoát
ly mọi phiền não, vọng tưởng, đạt tới cảnh giới đại
ngộ.
Muốn
bụi trúc chẳng động thì tâm phải trừ mê hoặc và vọng
tưởng. Thực ra nhất tâm vốn chẳng động. Ánh trăng chiếu
xuống bụi trúc tạo ra bóng trên thềm. Khi gió thổi, bụi
trúc lung lay, bóng trúc trên thềm cũng chuyển động qua lại
như quét thềm. Ánh trăng tuy soi suốt tới đáy hồ nhưng bóng
trăng không để lại một dấu vết nào trong nước. Cả hai
câu trên đều nhấn mạnh đến chẳng động. Chúng ta đều
bị 8 vạn bốn ngàn phiền não quấy nhiễu, vì vậy chúng
ta phải làm chủ lấy mình. Mê hoặc và vọng tưởng chỉ
là hình bóng là ảo tưởng chẳng có thực thể.
716. Để gió thành gió.
Thiền
sư Bảo Triệt ở núi Ma Cốc dùng quạt quạt gió. Lúc đó
có một ông tăng qua đó bèn hỏi:
-
Tánh gió thường trú, chẳng chỗ nào là không có, vì sao thầy
phải dùng quạt?
-
Ngươi tuy biết đạo lý tánh gió thường trú, nhưng chưa biết
chẳng chỗ nào là không có.
-
Vậy sao, thế nào là chẳng chỗ nào là không có?
Đại
sư chỉ phe phẩy quạt, ông tăng bỗng ngộ, vội lạy tạ.
(Thiền
Lý Dữ Nhân Sinh)
Do
áp lực không khí sai biệt mà gió được tạo thành, vì vậy
chỉ cần có không khí là lúc nào cũng có thể có gió. Nhưng
có gió ở một nơi nào cũng cần có điều kiện sai biệt
về áp xuất (duyên khởi). Bảo Triệt phẩy quạt là chỉ
cho ông tăng phải để ý đến cái điều kiện đó.
717. Vàng ròng không đổi sắc.
(Thiền
Ngộ)
Muốn
thử vàng, cho vào lò lửa nó lại càng sáng. Một người đã
tu đạt đến một trình độ nào đó thì sẽ không dễ dàng
bị biến tiết.
718. Sư tử lông vàng biến thành chó.
(Thiền
Ngộ)
Sư
tử là vua trong loài thú chỉ Phật, chó là loài thú nuôi trong
nhà chỉ chúng sinh. Phật vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng
sinh nên hạ sanh ở cõi người.
719. Trong điện Hàm Nguyên hỏi đường đến Trường An.
(Thiền
Ngộ)
Điện
Hàm Nguyên là tên một cung điện ở thành Trường An, đời
Đường. Tâm mình là Phật, đã không hướng vào trong lại
còn hướng ra ngoài mà tìm kiếm.
720. Hoa rụng, nước chẩy bát ngát.
(Thiền
Ngộ)
Hoa
và nước đều vô tâm, bát ngát chỉ sự rộng lớn vô cùng.
Khi làm một việc gì ta đem hết tâm sức mà làm, không loạn
tưởng, không khởi tạp niệm, trạng thái ấy gọi là tam
muội hay vô tâm.
721. Xuân đến, trăm hoa nở vì ai?
(Thiền
Ngộ)
Hoa
nở không phải để cho ngưởi nào thưởng thức, cũng không
phải vì hoa, mà là theo luật tự nhiên. Nếu con người có
thể bỏ được những mưu mô tính toán, cứ thuận theo tự
nhiên mà sống thì sẽ đạt được cảnh giới vô tâm.
722. Quang minh tịnh chiếu biến hà sa.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
- Quang Minh tịch chiếu biến hà sa.
Ông
tăng chưa dứt lời Vân Môn hỏi lại:
-
Có phải đó là câu của tú tài Trương Chuyết chăng?
(Đó
chính là một câu trong bài kệ của Trương Chuyết học thiền
với Thạch Sương giác ngộ, làm ra).
Ông
Tăng đáp:
-
Dạ! Đúng vậy!
-
Ngươi nói sai rồi!
Về
sau Từ Tâm hòa thượng (1043- 1114) đem câu nói này ra
hỏi :
-
Ông tăng ấy sai ở chỗ nào?
(Vô Môn Quan)
Câu
thơ ấy chẳng phải là của Trương Chuyết sao? Nếu đúng
thì khi ông tăng đáp “Dạ, Đúng vậy” Sao lại nói là ông
ta sai? Nếu lúc đó ông đáp “Không phải! Đó là câu
của con thì có đúng không? Nếu ông tăng quả thực đạt
được cảnh giới giác ngộ, những gì ông ta nói ra đều
coi là của ông vì xuất phát từ tâm ra. Khi đối diện với
chân lý thì đâu còn kể câu nói là của mình hay của người
nữa.
723. Một cọng cỏ.
(Long
Mãn)
Triệu
Châu thiền sư lên pháp đường nói:
-
Tỷ như minh châu trong bàn tay, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến
Hán hiện. Lão tăng lấy một cọng cỏ làm gậy kim cương
sáu trượng, lấy gậy kim cương sáu trượng làm một cọng
cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật.
Có
ông tăng hỏi:
-
Phật là phiền não của nhà nào?
-
Là phiền não của tất cả mọi người.
-
Làm sao tránh phiền não?
-
Cần gì phải tránh!
(Thiền
Cơ)
Minh
châu chỉ tự tánh, vốn không một vật do đó không đi tìm
ở bên ngoài, cũng chẳng lưu hình bên trong; tùy thời, tùy
chỗ dung nhiếp vạn tượng, phản chiếu vạn vật; phàm thánh
biến thành một phiến. Cọng cỏ, phiền não là phàm, gậy
kim cương, Phật là thánh. Lấy phàm làm thánh, lấy thánh làm
phàm, phàm thánh vô ngại. Ông tăng hỏi làm sao tránh được
phiền não là còn phàm thánh sai biệt.
724. Thổi vào tai.
Một
hôm, Duy Kiện ngồi thiền ở pháp đường. Mã Tổ trông thấy
bèn lại bên thổi vào tai hai lượt. Duy Kiện mở mắt ra thấy
Mã Tổ lại nhắm mắt lại nhập định. Mã Tổ về phương
trượng sai thị giả mang một tách trà đến đưa cho Duy Kiện.
Duy Kiện không thăm hỏi, trở về tăng đường.
(Thiền
Cơ)
Đây
là Mã Tổ phá chấp ngồi thiền cho Duy Kiện.
725. Con chó ghẻ.
Thanh
Lương Sơn tương truyền là đạo trường của Văn Thù bồ
tát. Ngài thường thị hiện ở nơi này cưỡi trên sư tử
lông vàng. Có một ông tăng lập chí đến chiêm bái. Từ xa
xôi ngàn dậm, trải qua bao cay đắng khốn khổ cuối cùng
đã tới Ngũ Đài Sơn. Ở dưới chân núi ông gặp một con
chó ghẻ, quanh quẩn đi cùng với ông ba ngày đêm. Mới đầu
ông tăng không để ý, sau đó cảm thấy bị phiền nhiễu
bèn đá cho một đá đuổi đi. Ông cứ đi lên lên, xuống
xuống suốt ba ngày mà chẳng thấy bóng dáng Văn Thù đâu
cả. Thất vọng, ông xuống núi gặp một vị cao tăng và kể
lể tâm sự. Vị cao tăng đề tỉnh ông:
-
Ngươi đã gặp Văn Thù rồi, ngài chính là con chó ghẻ đó!
(Nhất
Vị Thiền, quyển Hoa)
Câu
chuyện này cảnh tỉnh chúng ta, một con chó ghẻ cũng có thể
là Văn Thù bồ tát; vậy đối với vạn sự vạn vật chúng
ta lại không nên có tâm cung kính hay sao?
726. Tổ Bát Nhã Đa La (tổ thứ 27 của Ấn Độ).
Quốc
vương Đông Ấn Độ thiết trai cung dưỡng tổ Đa La. Quốc
vương hỏi:
-
Thầy vì sao không tụng kinh?
-
Bần đạo thở vào không ở trong ấm giới, thở ra chẳng
tiếp chúng duyên, tùy thời tụng thứ kinh này, trăm ngàn vạn
ức quyển.
(Thiền
Lý Dữ Nhân Sinh)
Ấm
giới là chỉ ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 12
xứ, 18 giới. Câu này ý nói: nếu vì thọ trai mà phải tụng
kinh thì chẳng phải là bị trói buộc ư? Cứ theo tâm không
bị tập quán ô nhiễm mà hành động thì đó là tụng kinh
vậy.
727. Tượng bẩy tấc.
Có
ông tăng người Tứ Xuyên tên là Phương Biện đến bái phỏng
Huệ Năng. Ông nói:
-
Con giỏi nắn tượng.
-
Ông làm thử coi.
Ông
tăng không hiểu, bèn nắn một tượng Huệ Năng cao 7 tấc
rất tinh xảo. Huệ Năng xem rồi bảo:
-
Ông chỉ hiểu cái tánh nắn hình mà chẳng hiểu cái tánh
Phật.
(Thiền
Cơ)
Nắn
hình chỉ hiện tượng giới, tánh Phật chỉ bản thể giới.
728. Nói khẽ chứ.
Pháp
Hội hỏi Mã Tổ:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Nói khẽ chứ! Đi ra đằng trước.
Pháp
Hội bước ra trước, Mã Tổ tát cho ông một bạt tai và nói:
-
Chẳng cùng lục căn thương lượng; ngày mai hãy đến!
Cách
một ngày Pháp Hội lại đến:
-
Thỉnh thiền sư chỉ thị.
-
Tạm thời hãy đi ra, đợi lão thượng đường sẽ chỉ thị
cho ngươi.
Pháp
Hội gật đầu:
-
Đa tạ đại chúng chỉ thị.
Nói
rồi, đi nhiễu quanh pháp đường một vòng, theo lối sau mà
ra.
(Thiền
Cơ)
Mã
Tổ bảo”Nói khẽ chứ”, “Đi ra đằng trước”, tát cho
một bạt tai đều là ám chỉ ông tăng còn có tâm tìm kiếm,
vọng cầu.
729. Xem nước.
Bảo
Triệt và Mã Tổ cùng đi đường, Bảo Triệt hỏi:
-
Đại Niết Bàn là gì?
-
Gấp.
-
Gấp cái gì?
-
Xem nước.
(Thiền
Cơ)
Đại
Niết Bàn chỉ tự tánh. Mã Tổ bảo ông tăng xem nước là
ám chỉ ông phải tự quan sát, tự thể nghiệm.
730. Đập vỡ nồi.
Cam
Chí đặt một chén cháo trên bàn nói:
-
Thỉnh thiền sư niệm kinh.
Nam
Tuyền quay lại chư tăng, bảo:
-
Cam Chí để một chén cháo trên bàn thỉnh đại chúng niệm
kinh A Di Đà.
Cam
Chí nghe rồi lạy mà lui ra.
Nam
Tuyền vào bếp đập vỡ nồi.
(Thiền
Cơ)
Cháo
có niêm tính, tượng trưng sự bị trói buộc. Nam Tuyền đập
vỡ nồi ám chỉ phá bỏ sự trói buộc.
731. Đức Sơn mắng Phật, mắng Tổ.
Đức
Sơn nói:
-
Nơi đây không có Phật, không có pháp, Đạt Ma là lão Hồ
hôi hám, thập địa bồ tát là gã gánh phẩn, đẳng diệu
nhị giác là phàm phu phá giới. Bồ Đề, Niết Bàn là cọc
buộc lừa, mười hai phần giáo là sách quỷ, là giấy lau
mụn mủ, tứ quả, tam hiền, sơ tâm, thập địa chỉ là quỷ
giữ mồ, tự cứu chẳng xong.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Ông
càng chửi càng ác độc, triệt để. Nhưng nếu ta đảo ngược
lại: lão Hồ hôi hám là Đạt Ma, gã gánh phẩn là bồ tát
thập địa. . . thì câu nói mắng Phật, mắng tổ đã
trở thành tán thán phàm phu. Cũng như các câu: Diêm Đề cũng
có Phật tánh, con chó cũng có Phật tánh. Phàm thánh đối
đãi, mắng chửi hay khen ngợi, vướng vào một mặt nào cũng
là chướng ngại. Lục tổ lấy 36 cách phản diện mà đáp,
hỏi thánh lấy phàm đối, hỏi phàm lấy thánh đối, dùng
phản diện mà thông qua phàm thánh, không bị chấp trước,
vượt lên phàm thánh. Đối với thế và xuất thế pháp đều
quán như vậy.
732. Phật là thế nào?
Trường
Khánh Đại An đến tham phỏng Bách Trượng, thi lễ rồi liền
hỏi:
-
Con muốn biết Phật, Phật là thế nào?
-
Giống như cưỡi trâu mà tìm trâu.
(Thiền
Ngoại Thuyết Thiền)
Tự
tánh thanh tịnh, không tìm ở bên ngoài.
733. Thiền là gì?
Có
ông tăng hỏi Nga Hồ Đại Nghĩa:
-
Thiền là gì?
-
Thiền sư lấy tay chỉ vào khoảng không.
(Thiền
Ngoại Thuyết Thiền)
Học
thiền phải như “không”, tức là không chấp gì cả.
734. Thiền là gì? (II)
Có
ông tăng hỏi Mục Châu Trần Tôn Túc:
-
Thiền là gì?
-
Đổ dầu vào lửa.
(Thiền
Ngoại Thuyết Thiền)
Học
thiền cần phải có nghị lực lớn để chống lại cảnh
gây rối.
735. Kẻ cướp không cướp của người nghèo.
Kỳ
Lâm thiền sư thường cầm kiếm gỗ tự xưng là trừ ma, mắng
chửi Văn Thù, Phổ Hiền đều là loài ma quỷ. Khi có ông
tăng nào đến tham phỏng thiền sư liền nói:
-
Ma đến rồi, ma đến rồi!!
Thiền
sư giơ kiếm gỗ múa loạn một hồi rồi trở về phòng phương
trượng. Cứ thế liên tiếp 12 năm, bỗng nhiên buông kiếm
không hò hét nữa. Có ông tăng hỏi:
-
12 năm trước vì sao trừ ma?
-
Kẻ cướp không cướp của người nghèo.
-
12 năm sau vì sao không trừ ma nữa?
-
Kẻ cướp không cướp của người nghèo.
(Thiền
Cơ)
Kỳ
Lâm hò hét và dùng kiếm gỗ để phá chấp về ngẫu
tượng cho chư tăng. Câu trả lời của thiền sư ám chỉ người
nghèo thì thủ phận (tự tánh) còn người giầu thì hay đuổi
theo vật chất bên ngoài đồng thời cũng chỉ ông tăng phải
tự kiến tánh.
736. Phật là thế nào?
Có
ông tăng hỏi Thủ Sơn:
-
Phật là thế nào?
-
Cô dâu mới cưỡi lừa, bà mẹ chồng dẫn đi.
(Thiền
Lý Dữ Nhân Sinh)
Phật
là bản chất của mọi sự việc được kiến lập nên bởi
duyên khởi, không, vô ngã, chưa ô nhiễm. Tuy mỗi sự kiện
tự độc lập, nhưng phải hỗ tương duy trì thì mới tồn
tại được.
Trong
câu nói của Thủ Sơn: cô dâu là vai chính, bà mẹ chồng chỉ
là vai phụ. Bà mẹ chồng tuy dắt lừa cho con dâu nhưng trong
lòng cảm thấy cao hứng, còn cô dâu trong lòng cũng cảm kích.
Qua một đoạn thời gian, đã quen với nếp sống nhà chồng,
cô dâu mới sẽ hầu hạ mẹ chồng, lúc đó mẹ chồng sẽ
lại là vai chính, cô dâu lại trở thành vai phụ. Thiền ngữ
có câu:”Chủ khách lịch nhiên”, ý là chủ và khách hỗ
tương duy trì thì mới có thể tồn tại được.
737. Thân tâm thoát lạc, thoát lạc thân tâm.
(Thiền
Ngộ)
Thoát
lạc có nghĩa là giải thoát. Thân tâm thoát lạc: không còn
một chấp trước nào; thân tâm thanh tịnh, tự do vô ngại,
đạt tới cảnh giới đại ngộ (tự giác hạnh). Tiến lên
bước nữa: thoát lạc thân tâm (giác tha hạnh). Đã đạt
tới cảnh giới giác ngộ tối cao rồi tất phải cứu độ
cho chúng sinh thoát khỏi phiền não.
738. Cá bơi nước đục, chim bay lông rụng.
(Thiền
Ngộ)
Cá
lội qua nước trong, nước trở thành đục. Chim bay trên trời
làm lông bị rụng. Cá và chim đều không cố ý nhưng vẫn
lưu dấu. Dù ta cố dấu những tình cảm (vui, buồn, nổi giận,
sợ hãi) vẫn lộ ra ở lời nói hay hành động. Khi vấn đáp
với đồ đệ dù đồ đệ ngụy trang thế nào sự phụ cũng
phân biệt được sự giác ngộ của đồ đệ là thật hay
giả. Câu nói trên có 2 cách giải thích:
1.
Cá lội làm nước đục, chim bay làm rớt lông: chưa thực
ngộ.
2.
Do nước đục tìm thấy cá, do lông rụng tìm thấy chim.
739. Sông đều chẩy về biển, trăng lặn chẳng lìa trời.
(Thiền
Ngộ)
Dù
sông chẩy theo phương hướng nào, cuối cùng cũng ra biển.
Trăng mọc đằng Đông, lặn đằng Tây nhưng cũng không lìa
bầu trời. Thế gian tuy có phân biệt nam nữ, già trẻ, hiền
ngu, giầu nghèo, nhưng tất cả đều có Phật tánh. Thế giới
tương đối sai biệt đồng thời cũng là thế giới tuyệt
đối vô sai biệt. Sông chẩy về biển, trăng lặn về trời,
người trở về tự tánh.
740. Sáng tối song song.
(Thiền
Ngộ)
Sáng
chỉ buổi sáng, lúc đó có thể phân biệt được hình dạng
mọi vật, chỉ hiện tượng giới sai biệt.
Tối
chỉ ban đêm, lúc đó không thể phân biệt được hình dạng
các vật, chỉ bản thể giới tuyệt đối.
Song
song là chỉ quan hệ hỗ tương, trong sáng có tối, trong tối
có sáng, bình đẳng và sai biệt, hiện tượng và bản thể,
sắc và không.
741. Ngồi Đạo trường trăng, nước; tu không hoa vạn hạnh.
(Thiền
Ngộ)
Đạo
trường là chỗ đức Phật giác ngộ, tức dưới gốc cây
bồ đề, nói chung là chỉ chỗ tu hành.
Tu
không hoa vạn hạnh: cắt đứt tất cả phiền não, vọng tưởng,
đạt được vô tâm. Câu này ý nói người ta phải tu sao cho
giống như nước hoặc trăng, đạt được tự do vô ngại
của cảnh giới vô tâm, triệt ngộ tất cả đều là không
thì mới thoát ly được tâm chấp trước.
742. Ngàn sông cùng một bóng trăng, Xuân đến khắp mọi nhà.
(Thiền
Ngộ)
Dù
là nước sông, nước giếng, ao, hồ, khe, lạch tất cả đều
được trăng soi bóng. Cũng vậy, xuân đến khắp mọi nhà
không kể giầu nghèo. Do đó, chúng ta thấy rằng đại tự
nhiên rất công bằng, vô tư. Lòng từ bi của nhà Phật đối
với chúng sinh cũng vậy: người thiện hay người ác đều
có Phật tánh, vì hành vi thiện hay ác đều cùng do một tâm
mà ra.
743. Vô Tận Tạng.
Một
ông tăng hỏi Hành Xung:
-
Vô tận tạng là thế nào?
Hành
Xung yên lặng không đáp, ông tăng ngây người ra. Hành Xung
bảo:
-
Lại gần đây!
Ông
tăng lại gần.
-
Đi ra!
(Thiền
Cơ)
Ông
tăng hỏi “Vô Tận tạng là thế nào?” là hỏi về tự
tánh; Hành Xung không đáp là ám chỉ hỏi là dư thừa.
744. Lồng đèn là tâm.
Một
ông tăng hỏi Truyền Ân:
-
Kiến sắc là kiến tâm, lồng đèn là sắc, cái nào là tâm?
-
Ngươi không hiểu ý người xưa.
-
Ý người xưa là gì?
-
Lồng đèn là tâm.
(Thiền
Cơ)
Câu
hỏi của ông tăng còn chấp 2 bên, câu đáp của thiền sư
là chỉ sắc tức là Tâm.
745. Đập nước cá sợ.
Có
ông tăng hỏi Chí Ân :
-
Thế nào là thổi lông trên kiếm?
-
Ta tiến, ngươi lùi.
-
Như vậy là đệ tử mất mạng sao?
-
Không đập nước, cá tự sợ.
(Thiền
Cơ)
Nước
chỉ hiện tượng giới, cá chỉ bản thể giới. Câu nói của
thiền sư ám chỉ ông tăng phải tự tu, tự chứng.
746. Cả ngày ăn cơm.
Bách
Trượng nói:
-
Có một người rất lâu không ăn nhưng không nói đói, có
một người cả ngày ăn cơm nhưng không nói no.
Đại
chúng không ai đáp được.
(Thiền
Cơ)
Một
người chỉ tự tánh.
747. Tiếng trống báo giờ ăn.
Đại
chúng đang cuốc đất, bỗng nghe tiếng trống báo giờ ăn.
Một ông tăng vác cuốc lên vai, cười khanh khách trở về
tăng đường. Bách Trượng bảo:
-
Tốt lắm, đó chính là Quán Âm vào cửa.
Thiền
sư về phòng phương trượng cho người gọi ông tăng đó đến,
hỏi:
-
Vừa rồi ngươi thấy đạo lý gì?
-
Vừa rồi con chỉ nghe thấy tiếng trống báo giờ ăn, cho nên
về tăng phòng ăn.
Bách
Trượng ha hả cười lớn.
(Thiền
Cơ)
Quán
Âm vào cửa là do phàm nhập thánh, ông tăng đã thể nghiệm
được cảnh giới này, được Bách Trượng mặc nhiên công
nhận.
748. Một quả hồng.
Một
hôm, Quy Sơn dẫn Ngưỡng Sơn đi chơi núi. Một con chim bay
ngang làm rớt một quả hồng trước mặt 2 người. Quy Sơn
nhặt lên đưa cho Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn dùng nước
rửa sạch rồi trao lại Quy Sơn. Quy Sơn hỏi:
-
Ngươi lấy được từ đâu vậy?
-
Đó là do đạo đức của hòa thượng làm cảm động.
-
Ngươi cũng không thể tay không.
Nói
rồi bẻ quả hồng làm 2, chia cho Ngưỡng Sơn một nửa.
(Thiền
Cơ)
Quả
hồng chỉ tự tánh, dùng nước rửa là trừ bỏ những ô
nhiễm của ngoại duyên.
749. Đập vỡ gương.
Ngưỡng
Sơn lên pháp đường giơ một cái gương Quy Sơn vừa cho, hỏi
đại chúng:
-
Hãy nói coi: là gương Quy Sơn hay là gương Ngưỡng Sơn, nếu
có ai đáp trúng thì gương sẽ không bị đập.
Đại
chúng không ai đáp được, Ngưỡng Sơn bèn đập gương vỡ
tan.
(Thiền
Cơ)
Gương
chỉ tự tánh, làm gì có sai biệt giữa tự tánh của Quy Sơn
và Ngưỡng Sơn, do đó gương phải bị đập vỡ.
750. Đỉnh núi không có người.
Động
Sơn hỏi ông tăng đến tham phỏng:
-
Ngươi từ đâu đến?
-
Đi chơi núi xong, tới.
-
Có lên đỉnh núi không?
-
Có.
-
Đỉnh núi có người không?
-
Không có người.
-
Vậy
là ngươi không lên tới đỉnh.
-
Nếu không lên tới đỉnh làm sao biết không có người?
-
Ngươi vì sao không ở lại đó?
-
Con không ở vì Tây Thiên có người không chịu.
(Thiền
Cơ)
Câu
đáp của ông tăng ám chỉ ông đã vượt qua sự phân biệt
phàm thánh.
751. Khổ nhất .
Động
Sơn hỏi một ông tăng:
-
Ở thế gian này chuyện gì là khổ nhất?
-
Địa ngục.
-
Không đúng.
-
Ý thầy là thế nào?
-
Dưới cái áo này không rõ việc lớn là khổ nhất.
(Thiền
Cơ)
Dưới
áo: chỉ chúng sinh; việc lớn: chỉ tự tánh.
Địa
ngục tuy khổ, nhưng biển khổ của chúng sinh lại còn khổ
hơn.
752. Đắp chăn bông.
Một
ông tăng nằm ngủ, Đạo Ngộ đến đắp chăn bông cho ông.
Ông tăng hỏi:
-
Thầy làm gì đó?
-
Đắp chăn bông.
-
Nằm tốt hay ngồi tốt?
-
Không ở hai chỗ ấy.
-
Vậy sao lại đắp chăn bông?
-
Đừng nói bậy!
(Thiền
Cơ)
Ông
tăng còn chấp tướng nằm, ngồi. Đạo Ngô bảo “Không ở
hai chỗ ấy” và “đừng nói bậy” là ám chỉ ông tăng
phải cởi bỏ sự trói buộc của danh tướng.
753. Đừng bước sai.
Tăng
Mật cùng Động Sơn qua suối. Động Sơn bảo:
-
Đừng bước sai!
-
Nếu sai thì không qua được.
-
Nếu không sai thì sao?
-
Cùng thầy qua suối.
(Thiền
Cơ)
Không
sai chỉ tự tánh, qua suối chỉ sự vượt qua bể khổ.
754. Rồng bị rắn cắn.
Vân
Cư khi ở Long Môn, một hôm có ông tăng bị rắn cắn chân.
Phật
Nhãn hỏi Vân Cư:
-
Đã là Long Môn sao chân lại bị rắn cắn?
-
Quả nhiên hiện đại nhân tướng.
Về
sau Viên Ngộ nghe được chuyện này phê bình:
-
Long Môn có ông tăng này thì Đông Sơn pháp môn chưa bị mất.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Phật
Nhãn ám chỉ “Nếu đã là Long Môn” (người đã giác ngộ)
sao lại bị nhân quả trói buộc (bị rắn cắn chân).
Vân Cư không bị mắc bẫy nên nói “Quả nhiên hiện đại
nhân tướng” là người giác ngộ không phải là được miễn
trừ thống khổ, thoát khỏi trật tự tự nhiên.
755. Hành giả thanh tịnh.
Văn
Thù sở thuyết Bát Nhã kinh nói:
-
Hành giả thanh tịnh chẳng vào Niết Bàn, phá giới tỳ kheo
chẳng đọa địa ngục.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Tiểu
thừa Phật giáo phân biệt có Niết Bàn tự tại và cõi Ta
Bà chướng ngại; còn Đại thừa Phật giáo, nhất là Thiền
tông thì coi sinh tử và Niết Bàn không hai. Do đó phàm thánh,
chân tục, nhiễm tịnh đều bị xóa bỏ. Chúng ta không phải
lìa bỏ, khi loại trừ sự sai biệt và giá trị thì thế giới
trở thành thanh tịnh bản nhiên, gọi là Niết Bàn hay địa
ngục thì cũng là Phật giới, trong đó con gà, con chó, chim
chóc, nghệ nhân, kẻ trộm, nhà buôn, mùa đông mùa
xuân,
tất cả đều hoàn chỉnh viên mãn, tự túc.
756. Lần này gã đã hiểu.
Giáp
Sơn mới đầu trú ở Kinh Khẩu tự, nhân có ông tăng hỏi:
-
Thế nào là pháp thân?
Giáp
Sơn đáp:
-
Pháp thân vô tướng.
-
Thế nào là pháp nhãn?
-
Pháp nhãn không tỳ vết .
Đạo
Ngộ ngồi dưới bật cười, Sơn thỉnh ý, rồi đi tham học
Thuyền
Tử. Và giác ngộ trở về. Đạo Ngô sai một ông tăng đến
hỏi:
-
Thế nào là pháp thân?
-
Pháp thân vô tướng.
-
Thế nào là pháp nhãn?
-
Pháp nhãn không tỳ vết.
Ông
tăng trở về thuật lại cho Đạo Ngộ. Đạo Ngộ nói:
-
Lần này gã đã hiểu rồi.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Cùng
một câu nói nhưng trước khi ngộ và sau khi ngộ có sức nặng
khác nhau. Thế giới “vô tướng” và “không tỳ vết”
là thế giới “pháp nhĩ như nhiên”.
757. Chính tà.
Triệu
Châu có bài kệ:
正
人 說 邪 法
Chính
nhân thuyết tà pháp
邪
法 亦 隨 正
Tà
pháp diệc tùy chính
邪
人 說 正 法
Tà
nhân thuyết chính pháp
正
法 亦 隨 邪
Chính
pháp diệc tùy tà
Người ngay nói pháp tà
Tà pháp liền thành chánh
Người tà nói pháp chánh
Chánh pháp liền thành tà.
(Hương
Thủy Hải)
Người
đã giác ngộ có thể phá tà hiển chánh; tà pháp mà ông xử
dụng chỉ là một thủ đoạn để dẫn tà về chánh.
758. Tuyết phủ ngàn núi.
Có
ông tăng hỏi Tào Sơn:
-
Tuyết phủ ngàn núi, tại sao cô phong lại không trắng?
-
Ngươi nên biết khác lạ trong khác lạ.
-
Khác lạ trong khác lạ là gì?
-
Cô phong có mầu khác với các núi khác.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Con
người phải tuân theo luật tự nhiên (tuyết phủ ngàn núi);
tại sao người giác ngộ lại khác (cô phong lại không trắng).
Tào Sơn thừa nhận có sự sai biệt ấy (Cô phong có mầu khác
với các núi khác).
759. Tỳ Bà Thi Phật.
Tỳ
Bà Thi Phật sớm đã lưu tâm, nhưng cho đến nay vẫn chưa
“đắc diệu”.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
“Đắc
diệu” là chỉ nhận thức được sự vật như chính nó (pháp
nhĩ như nhiên). Còn cách hiểu khác nữa là lời nói của Tỳ
Bà Thi Phật có nghĩa là dù dụng công tu hành thế nào, dù
dùng bao thời gian cũng khó mà đạt tới cảnh giới tuyệt
đối viên mãn, ám chỉ Đạo có nhiều mặt hoặc nhiều giai
đoạn.
760. Nam Tuyền Di Hóa.
Tam
Thánh sai Tú thủ tọa đến hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
-
Nam Tuyền mất rồi, đi về đâu?
-
Thạch Đầu khi còn là sa di có đến tham lục tổ.
-
Không hỏi thời còn là sa di, chỉ hỏi Nam Tuyền mất rồi
đi đâu?
-
Đi mà hỏi Nam Tuyền.
-
Hòa thượng tuy có hàn tùng ngàn trượng, nhưng chẳng có mụt
măng đá nào.
Trường
Sa im lặng.
-
Tạ ơn câu đáp của hòa thượng.
Thiền
sư vẫn im lặng. Tú thủ tọa về thuật lại cho Tam Thánh
nghe. Tam Thánh bảo:
-
Nếu quả như vậy, Trường Sa còn hơn Lâm Tế đến 7 bước.
Đợi ngày mai ta sẽ tới coi.
Hôm
sau tới , hỏi:
-
Nghe hòa thượng hôm qua đáp câu hỏi về Nam Tuyền di
hóa
thật là vô tiền khoáng hậu, cổ kim hiếm có.
Trường
Sa vẫn im lặng.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
hỏi của Tam Thánh là một cái bẫy huyền học; câu đáp của
Trường Sa dẫn một sự kiện có thật trong quá khứ nhưng
chẳng liên quan gì đến câu hỏi cũng như Tú thủ tọa đề
cập đến một sự kiện có thật trong quá khứ nhưng
chẳng có quan hệ gì đến tình huống hiện tại. Tú thủ
tọa không hiểu câu trả lời của Trường sa nên truy vấn
về vấn đề Nam Tuyền di hóa, do đó Trường Sa chỉ cho ông
chỗ mà ông phải đến mà hỏi. Câu nói của Tú thủ tọa
đề cập đến Hàn tùng và măng đá không được rõ ràng.
Có thể ông ám chỉ Thiền của Trường Sa không thể lay chuyển
nhưng vẫn chưa đủ vi diệu hoặc thiền của Trường Sa đã
hoàn toàn nhưng chưa đủ rõ ràng. Đối với lời nói của
Tú thủ tọa và Tam Thánh, Trường sa chỉ im lặng. Cái im lặng
này là lối trả lời khôn ngoan cho cái bẫy huyền học “sau
khi mất”.
761. Thọ Tháp của Sơ Sơn.
Ông
tăng chủ sự xây thọ tháp cho Sơ Sơn xong bạch với thiền
sư; Sơ Sơn hỏi:
-
Ngươi định trả thợ bao nhiêu tiền?
-
Toàn do thầy định đoạt.
-
Cho ba đồng, hai đồng hay một đồng hơn? Nếu ngươi không
trả lời được ta tự xây tháp.
Chủ
sự tăng kinh ngạc. Có ông tăng đem chuyện trên kể lại cho
La Sơn đang trú ở Đại Dữu Lãnh (ở giáp giới 2 tỉnh Quảng
Đông và Giang Tây) nghe. La Sơn hỏi:
-
Có người nào trả lời được không?
-
Chưa có ai trả lời được.
-
Hãy về bảo Sơ Sơn: Nếu thầy cho 3 đồng thì kiếp này thầy
không có tháp; nếu thầy cho 2 đồng thì thầy và thợ đều
giơ một tay ra, nếu thầy cho một đồng thì thầy và thợ
đều rụng lông mày và râu.
Ông
tăng về kể cho Sơ Sơn nghe. Sơ Sơn hướng về Đại Dữu
Lãnh lạy và nói:
-
Tưởng rằng không người, ai ngờ có cổ Phật ở Đại Dữu
Lãnh
phóng
quang đến tận đây. Tuy nhiên đó là hoa sen nở vào tháng
chạp.
La
Sơn nghe được câu nói này , bèn bảo:
-
Khi ta nói thế, lông rùa sớm đã mọc dài vài thước.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
hỏi của Sơ Sơn “Ngươi định trả thợ bao nhiêu tiền?”
là lượng định để trả công thợ, ông tăng không chú trọng
đến việc xây cất chỉ tỏ vẻ kính trọng lão sư. Sơ Sơn
làm ông tăng điên đầu với câu hỏi: 3, 2, 1 đồng. Câu nói
của La Sơn chỉ rằng ông đã hiểu ý Sơ Sơn. Trong việc giao
tiếp hàng ngày, chúng ta phải đối diện với sự phân biệt
và lượng giá, điều đó không có nghĩa là chúng ta phải
suy tư, phân tích vượt lên trên tình trạng thực sự xẩy
ra. Phải trả bao nhiêu tiền thì trả bấy nhiêu, không cần
dụng tâm.
Sơ
Sơn rất thưởng thức câu đáp của La Sơn, do đó rất khen
ngợi. Nhưng câu “Đó là hoa sen nở vào tháng chạp” (quá
thời), ám chỉ câu đáp hay tuy nhiên nên có câu đáp đúng
lúc và tất cả câu chuyện trên nên xếp vào quá khứ. La
Sơn nghe được câu nói tỷ dụ “hoa sen nở vào tháng chạp”
nên đáp lại bằng câu “Lông rùa sớm đã dài vài thước”
chỉ rằng chuyện đã lỗi thời mà lại còn dư thừa nữa.
762. Vào rừng không lay cỏ
Vào nước chẳng tạo sóng.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Nếu
tiến được vào tam muội, đạt được cảnh giới tuyệt
đối thì có thể siêu việt được thế giới hiện tượng.
763. Mười phương không ảnh tượng
Ba giới tuyệt hành tung.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Khi
tâm đã triệt ngộ thì không còn hình ảnh, không lưu lại
một dấu vết nào.
764. Hổ đá nuốt dê gỗ.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Người
đạt ngộ vượt lên sự suy nghĩ và phân biệt của thế gian.
765. Hoa đàm dễ thấy.
Tri thức khó gập.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Gập
được thiện tri thức thì phải cố gắng học hỏi. Đó là
cơ hội hiếm có, còn khó hơn cả xem hoa ưu đàm mà 3 ngàn
năm mới nở một lần.
766. Sắc Xuân không cao thấp
Cành hoa có ngắn dài.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Trong
bình đẳng có sự sai biệt.
767. Trong bầu, ngày tháng dài.
(Thiền
Ngộ)
Đây
là chỉ ngộ cảnh siêu việt cả thời không; dẫn từ một
tích của Đạo giáo. Phí Trường Phòng khi ở Nhữ Nam, ở
trên một căn gác ở chợ thấy một ông lão bán thuốc khi
chợ tan, nhẩy vào quả bầu treo ở đầu gậy. Phí làm quen
và được ông lão mời vào bầu, thấy trong đó đền đài
tráng lệ, được ông lão tiếp đón nồng hậu. Khi trở về
thì thời gian đã quá mấy năm rồi.
768. Hoa tàn cây không bóng.
(Thiền
Ngộ)
Mùa
thu tới, hoa lá đều tàn rụng. Cây xanh biến thành cây khô
không còn hoa lá, cũng không cho bóng râm nữa. Trong Thiền học
hoa, lá thường dùng để chỉ phiền não, vọng tưởng. Câu
này chỉ sự giác ngộ thực sự.
769. Cá nhẩy ba bậc biến thành rồng.
(Thiền
Ngộ)
Vua
Thuấn sai Cổn trị lụt, Cổn thất bại bị giết. Con của
Cổn là Vũ nối tiếp công việc của cha và thành công. Ở
Long Môn Sơn, miền thượng lưu của Hoàng Hà nước chẩy siết,
Vũ ngăn sông thành 3 đoạn để điều khiển sức nước. Vào
tháng ba mùa Hoa Đào, cá tụ tập ở Long Môn Sơn rất nhiều.
Theo truyền thuyết con nào vượt được 3 cấp sẽ hóa thành
rồng hô phong hoán vũ mà bay lên trời. Câu này ý nói tự
nỗ lực tu hành sẽ đạt được giác ngộ.
770. Một hạt bụi vào mắt, không hoa rơi loạn
(Thiền
Ngộ)
Hạt
bụi chỉ phiền não; không hoa chỉ vọng tưởng (ngước mắt
nhìn lâu lên trên không hoặc lấy tay ấn vào mắt ta thấy
những đốm sáng gọi là không hoa). Nếu tâm còn tạp niệm
hoặc một chấp trước nào dù rất nhỏ cũng làm cho vọng
tưởng nổi dậy.
771. Chánh Pháp mật phó.
Phong
Huyệt khi làm viên đầu ở thiền viện Nam Viện, một hôm
đang làm ruộng, Nam Viện tới nơi hỏi:
-
Ngươi từ phương Nam lại, phương Nam dùng gậy làm sao thương
lượng?
-
Thương lượng tốt.
Rồi
Phong Huyệt hỏi ngược lại:
-
Nơi đây thì sao?
Nam
Viện nắm chặt gậy bảo:
-
Dưới gậy không sinh nhẫn, gập cơ hội chẳng nhường thầy.
Lại
bảo thêm:
-
Ngươi đã thâm giải Phật pháp, đó không phải là ngẫu nhiên
mà là ngươi đã ngộ. Ngươi có nghe chuyện Lâm Tế lúc lâm
chung không?
-
Có nghe.
-
Đại sư nói:”Không ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị
con lừa
này
mà tiêu diệt.” Bình thường đại sư là một con sư tử
hung ác sao lúc lâm chung lại khuất tất như vậy?
-
Chánh pháp mật phó.
-
Vậy tại sao Tam Thánh lại yên lặng?
-
Vì ông ta đã có thể kế thừa mật phó.
(Phật
Dữ Thiền)
Chánh
pháp nhãn tạng là thanh tịnh pháp nhãn, thiền gia dùng để
ấn tâm.
772. Giá gạo ở Lô Lăng.
Có
ông tăng hỏi Thanh Nguyên Hành Tư:
-
Thế nào là đại ý của Phật pháp?
-
Ở Lô Lăng, giá gạo là bao nhiêu?
(Thiền
Tông Dật Sự)
Lô
Lăng là nơi sản xuất gạo nổi tiếng, cũng có thể là ông
tăng từ Lô Lăng tới. Câu trả lời của Hành Tư dường như
chỉ là câu chuyện trong sinh hoạt hàng ngày. Ông không thích
nói những lý lẽ cao thâm, cũng không ưa tranh cãi ồn ào.
Nếu Phật pháp ly khai khỏi sinh hoạt thường ngày thì không
còn ý nghĩa nữa.
773. Thạch Đầu Hy Thiên.
Có
một lần, Hoài Nhượng sai một ông tăng đến hỏi Hy Thiên:
-
Khi nói thoát ly phiền não, vậy thế nào là trói buộc?
-
Ai trói buộc ngươi?
-
Thế giới Phật thanh tịnh là gì?
-
Ai làm ngươi ô nhiễm?
-
Ngộ là thế nào?
-
Ai làm ngươi mê hoặc?
(Thiền
Tông Dật Sự)
Ai
trói buộc mình, ai làm mình ô nhiễm, ai làm mình mê hoặc?
Kỳ thực tất cả đều do tâm mình.
774. Đầu bếp.
Quy
Sơn đang gõ mõ, hỏa đầu phu đặt que cời bếp xuống, vỗ
tay cười lớn. Quy Sơn lấy làm lạ tự hỏi sao trong đại
chúng lại có người như vậy, bèn kêu hỏa đầu phu lại
hỏi:
-
Ngươi có ý gì vậy?
-
Con không ăn cháo, bụng đói, thấy vui như vậy.
Quy
Sơn chỉ im lặng gật đầu.
(Thiền
Cơ)
Tương
tự công án 767, hỏa đầu phu nghe tiếng mõ đã tiến vào
thánh cảnh.
775. Ý Tổ Sư.
Một
ông tăng hỏi Già Trí:
-
Ý tổ sư từ Tây qua là gì?
-
Đợi ngươi từ bên ấy qua, ta sẽ bảo.
(Thiền
Cơ)
Thiền
sư ám chỉ ông tăng tự thể nghiệm tự tánh.
776. Nhất Tự Thiền.
Có
ông tăng hỏi Hiển Giáo:
-
Thế nào là cắt đứt một đường (nhất lộ)?
-
Cắt.
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
-
Khổ.
-
Thế nào là tự kỷ của con?
-
Mất.
(Thiền
Cơ)
Trong
Nhất Tự Thiền, thiền sư chỉ trả lời bằng một chữ,
có tác dụng như một tiếng hét, cắt đứt nghi vấn, suy luận
của người hỏi. Nếu cứ theo thường lý mà phân tích thì
là chấp mê vậy.
777. Giống cây khổ luyện.
Có
ông tăng hỏi Chân Giác:
-
Dưới gốc bồ đề, cứu độ chúng sanh, thế nào là cây
bồ đề?
-
Giống như cây khổ luyện.
-
Tại sao lại giống cây khổ luyện?
-
Không phải ngựa tốt thì tất là phải dùng roi.
(Thiền
Cơ)
Nếu
là ngựa hay, thì không phải dùng roi ngựa cũng tự chạy,
ám chỉ ông tăng phải tự tham, tự chứng.
778. Mời vào lồng đèn.
Ngưỡng
Sơn hỏi Linh Thông:
-
Ngươi tên gì?
-
Linh Thông.
-
Mời vào lồng đèn.
-
Đã vào rồi.
(Thiền
Cơ)
Lồng
đèn chỉ tự tánh.
779. Tên bán muối rong.
Triệu
Châu hỏi một ông tăng mới đến:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Từ phương Nam tới.
-
Còn biết Triệu Châu quan không?
-
Còn biết có người không qua Triệu Châu quan.
-
Tên bán muối rong này!
(Thiền
Cơ)
Triệu
Châu quan chỉ 3 quan của Thiền tông là: sơ quan, trùng quan
và lao quan. Ông tăng tự tham, tự ngộ cần phải có một thiền
sư có kiến địa ấn chứng nếu không thì sẽ giống một
tên bán muối rong.
780. Xách bình.
Quy
Sơn giao cho Ngưỡng Sơn một tịnh bình, Ngưỡng Sơn giơ tay
ra nhận, Quy Sơn rụt tay lại hỏi:
-
Là cái gì?
-
Thầy còn thấy cái gì?
-
Vậy, sao còn cầu ta?
-
Tuy vậy, xách bình múc nước là bản phận sự của con.
Quy
Sơn liền giao tịnh bình cho Ngưỡng Sơn.
(Thiền
Cơ)
Tịnh
bình chỉ tự tánh. Đây là Quy Sơn ấn chứng cho Ngưỡng Sơn
theo ý nghĩa truyền đăng.
781. Ta không bao giờ nói.
Một
ông tăng hỏi Giáp Sơn:
-
Nghe nói thầy có câu: “Ta trú ở núi này 20 năm chưa hề
đề cập đến chuyện tông môn.” Có phải không?
-
Phải.
Ông
tăng liền lật thiền sàng; Giáp Sơn bỏ đi.
Hôm
sau phổ thỉnh đào một cái huyệt, sai thị giả mời ông
tăng đặt câu hỏi hôm trước ra. Giáp Sơn bảo ông:
-
Lão tăng 20 năm qua chỉ nói “Không” nay thỉnh ông đập
chết lão tăng và vùi xuống huyệt này; nếu không ông hãy
tự đập chết mình và chôn ở đây.
Ông
tăng vội thu xếp hành trang và bỏ đi.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
nói của Giáp Sơn có nghĩa là: Ta chưa hề nói về Thiền.
Ông tăng lật thiền sàng có ý là câu nói “Chưa nói về
Thiền” là đã nói về Thiền rồi. Cũng có thể hiểu là
ông tăng trách Giáp Sơn không dạy Thiền. Dĩ nhiên Giáp Sơn
không có ý nói là không dạy Thiền mà là chỉ không nói về
Thiền. Khi lật đổ thiền sàng ông tăng nhấn mạnh Giáp Sơn
không xứng đáng làm thầy. Giáp Sơn cảm thấy mình không
đáng bị chỉ trích nặng như thế nên khai chiến với ông
tăng. Ông tăng không có đủ lý do để giết Giáp Sơn, cũng
không đủ cơ trí để thoát chết nếu không giết Giáp Sơn
chỉ còn cách bỏ đi.
782. Thế nào là:
Một sợi lông nuốt biển lớn
Một hạt cải đựng núi Tu Di.
(Chích Thủ Chi Thanh)
Công
án này diễn tả triết lý của kinh Hoa Nghiêm: Tất cả là
Một.
783. Người sáng mắt rơi xuống giếng.
Một
ông tăng hỏi Ba lăng:
-
Thế nào là Đạo?
-
Người sáng mắt rơi xuống giếng.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Ông
tăng hỏi Đạo, tâm còn chấp trong việc cầu Đạo có một
phương pháp có thể phân biệt rõ ràng thế nào là Chánh Đạo
và Tà Đạo. Ba Lăng ám chỉ nếu dùng phương thức có ý thức
(người sáng mắt) để cầu Đạo thì không được Đạo (rơi
xuống giếng).
784. Cẩn thận!
Hàn
Sơn nói:
-
Cẩn thận, cẩn thận: ba giới luân hồi!
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Hàn
Sơn ám chỉ lúc nào cũng phải cẩn thận mọi hành vi của
mình sợ bị nhân quả báo ứng.
785. Ba bệnh của Pháp Thân.
Càn
Phong thượng đường nói:
-
Pháp Thân có 3 loại bệnh, 2 loại ánh sáng cần phải thông
qua trước khi giác ngộ.
Vân
Môn bước ra thưa:
-
Người trong am vì sao không biết việc ngoài am?
Càn
Phong cười ha hả; Vân Môn nói:
-
Học nhân vẫn còn nghi.
-
Tâm hạnh ngươi là sao?
-
Xin thầy chỉ cho biết.
-
Phải quan sát tỉ mỉ mới tỏ ngộ được.
-
Dạ! Dạ!
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Càn
Phong nói về tự kỷ (pháp thân) quá lý thuyết. Vân Môn bất
mãn với phương thức ấy nên ám chỉ: thay vì biện luận
về giáo lý thì nên biết một chút về thực tướng của
thế giới (chuyện ngoài am). Càn Phong cười là đồng ý và
khen ngợi Vân Môn. Vân Môn chấp nhận lời khen và uyển chuyển
khen ngợi kiến thức của Càn Phong.
786. Tặc cơ của Quan Sơn.
Quan
Sơn nói:
-
Chuyện cây bách có tặc cơ.
(Chích
Thủ chi Thanh)
Câu
nói của Quan Sơn khen ngợi sự thấu triệt và hiệu quả nhanh
chóng của công án “cây bách trước sân” của Triệu Châu.
787. Núi Đông đi trên nước.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Chỗ xuất thân của chư Phật là thế nào?
-
Núi Đông đi trên nước.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Nếu
câu nói đề cập đến xuất xứ của Đức Phật lịch sử
thì không liên quan gì với chúng ta và cũng không quan trọng.
Nhưng nếu ông tăng hỏi Phật tánh hay pháp thân Phật thì
đó là một cái bẫy huyền hoặc. Vân Môn dùng một câu nói
phi lý để trả lời là chọc quê ông tăng và bác bỏ cả
hai ý của câu hỏi.
788. Chẳng rời đương niệm.
Vô
biên sát thổ ta, người chẳng cách một sợi lông; mười
đời xưa nay đầu cuối chẳng rời đương niệm.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
này diễn tả triết lý Nhất nguyên của tông Hoa nghiêm, đem
quan niệm “Viên mãn tự túc” diễn thành lời.
789. Rùa là ba ba.
Một
ông tăng hỏi Hương Lâm Viễn thiền sư:
-
Thế nào là ngọn đèn trong thất?
-
Ba người làm chứng con rùa là con ba ba.
(Chích
Thủ chi Thanh)
Câu
hỏi của ông tăng là hỏi về thật tướng tuyệt đối (chân
lý). Câu đáp của Hương Nghiêm ám chỉ không có chuyện đó.
790. Sám hối.
Một
tín đồ hỏi Phổ Giao:
-
Tu sám hối pháp môn là vì mình mà sám hối hay vì người
mà sám hối? Nếu vì mình, thì tội lỗi mình từ đâu tới?
Nếu vì người thì người không phải là mình vì sao mình
có thể sám hối cho họ?
Phổ
Giao không trả lời được, bèn vân du tham phỏng, hy vọng
tìm được giải đáp cho vấn đề này. Một hôm đến Lặc
Đàm. Chân vừa bước vào cửa, Lặc Đàm liền hét lớn: “A!”
Phổ
Giao không hiểu ý nghĩa của tiếng hét, nhưng nghĩ mình đến
hỏi Đạo nên định mở miệng hỏi thì Lặc Đàm dùng gậy
đánh. Phổ Giao không hiểu sao chỉ đành nhẫn nại. Vài ngày
sau
Lặc
Đàm bảo Phổ Giao:
- Ta có công án của cổ đức muốn cùng ông thương lượng.
Phổ
Giao định mở miệng nói “Được” thì Lặc Đàm lại hét
“A!” Phổ Giao ngay đó giác ngộ bèn cười ha hả. Lặc Đàm
bước xuống thiền sàng nắm tay Phổ Giao hỏi:
-
Ông hiểu Phật pháp không?
Phổ
Giao hét lên “A!” và rụt tay lại. Lặc Đàm ha hả cười
lớn.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Nói
về pháp môn sám hối thì có tầng lớp nông, sâu: tác pháp
sám, công đức sám, vô sinh sám. . .
Có
bài kệ:
Tội khởi từ tâm, nếu diệt tâm, thì tội sẽ mất;
Tâm, tội đều không thì đó mới là chân sám hối.
Vì
mình sám hối cũng vì người sám hối. Vì người sám hối
cũng vì mình sám hối. Ta người không hai, sự lý là một;
hà tất phải ly khai mình và chúng sanh? Nếu nói về tội nghiệp,
thì ở sự tướng đương nhiên có tội, có nghiệp. Có nghiệp
thì có báo. Nhưng ở bản thể giới thì làm gì có giả danh
tội nghiệp? Tiếng “A!” là thiện hay ác? là thường hay
đoạn? là mình hay người? Sự phân biệt của chúng sanh ở
trong chân lý là không phân biệt.
791. Việc dưới áo nạp.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn Hải Yến:
-
Thế nào là sự dưới áo nạp?
-
Như nhai đá cứng.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
Xuất
gia cầu giải thoát không phải là chuyện dễ dàng, cần kiên
trì không lười biếng.
792. Thế nào là Đạo.
Một
ông tăng hỏi Quy Sơn Linh Hựu:
-
Thế nào là Đạo?
-
Vô tâm là Đạo.
-
Con không hiểu.
-
Hiểu cái không hiểu là tốt.
-
Thế nào là cái không hiểu?
-
Chính là ngươi không là ai khác.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
Điều
cốt yếu là minh bạch tự tánh.
793. Khay vỡ.
Một
thiền sư sống 30 năm trong một am nhỏ. Ông dùng 1 cái khay
làm bằng đất sét nung. Một hôm, một đệ tử vô ý làm
bể. Sau đó, mỗi ngày thiền sư đều đòi khay, nhưng mổi
khi đồ đệ đưa một cái khay mới ra ông đều ném đi và
bảo:
-
Không phải! Hãy trả cái cũ lại cho ta.
(Zen
Koans)
Cái
khay tượng trưng cho cái gì? Có lẽ là cái tâm thanh tịnh
của thiền sư. Người đệ tử nhiều lần mang cái khay mới
ra, nhưng sư phụ đều ném đi. Ông không muốn cái khay; ông
muốn đệ tử mang trả ông cái tâm thanh tịnh. Người đệ
tử chấp vào cái khay nhưng ông thầy già thì không.
794. Khâm Sơn ăn gậy.
Khâm
Sơn cùng Nham Đầu, Tuyết Phong đến Đức Sơn, hỏi:
-
Thiên Hoàng nói thế, Long Đàm cũng nói thế; không biết Đức
Sơn nói thế nào?
(Thiên
Hoàng là sư phụ của Long Đàm, Long Đàm là sư phụ của Đức
Sơn)
-
Cho ta biết Thiên Hoàng và Long Đàm nói thế nào?
Khâm
Sơn định nói, Đức Sơn bèn đánh.
Khâm
Sơn trở về Diên Thọ đường phàn nàn:
-
Phải thì phải, nhưng đánh ta thì hơi quá.
Nham
Đầu bảo ông:
-
Nếu như vậy thì đừng nói đã gặp Đức Sơn.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Khâm
Sơn đưa ra cái bẫy cho Đức Sơn biểu thị sư phụ và sư
công của Đức Sơn đều cùng nói thiền một phương cách;
do đó ông hỏi Đức Sơn làm sao nói? Đức Sơn không những
từ chối nói thiền của mình mà còn đòi Khâm Sơn nói. Bất
luận Khâm Sơn nói thế nào đều bị ăn gậy, vì sao? Vì ở
đây là nói về Thiền chứ không phải là Thiền. Nham Đầu
đã hiểu đạo lý của Đức Sơn, còn Khâm Sơn thì chưa.
795. Lỗ Tổ xoay mặt vào vách.
Khi
có ông tăng hoặc cư sĩ nào đến tham học, Lỗ Tổ đều
xoay
mặt
vào vách. Bạn đồng môn là Nam Tuyền chỉ trích phương pháp
này:
-
Ta bảo chư tăng hãy đặt mình vào thời trước khi Đức Phật
ra đời, nhưng ít người thực sự hiểu Thiền ý; chỉ cho
họ xoay mặt vào vách như Lỗ Tổ chả mang lại lợi ích gì.
(Zen
Koans)
Xưa
nay truyền thông là một vấn đề lớn của đời sống, trong
thế giới thương mại cũng như trong Thiền. Có 2 loại truyền
thông: một là ở mức độ dữ kiện, (thí dụ: Tôi sẽ đến
vào 10 giờ sáng mai), hai là ở mức độ cảm giác. Nam Tuyền
chỉ trích phương pháp của Lỗ Tổ, bởi ngay cả khi ông giảng
thì cũng chỉ một số ít đệ tử lãnh ngộ được chân lý,
vì vậy phương pháp của Lỗ Tổ không tốt chút nào. Nhưng
con người càng ngày càng trở nên lười suy nghĩ, ít sáng
tạo vì vậy phương pháp của Lỗ Tổ có lẽ tốt hơn. Khi
một đệ tử đến tham học thiền sư lập tức xoay mặt vào
vách, đệ tử không thể làm gì khác ngoài ngồi yên lặng.
Ông có cơ hội thiền ngay đó vì thầy đang thiền. Do đó
người đệ tử có thể nội quán và tự làm sáng tâm mình
thay vì nhận những lời giải thích từ bên ngoài.
796. Niệm Phật.
Có
tọa chủ ngồi niệm “Nam Mô A Di Đà Phật.” Một chú tiểu
gọi “Hòa thượng.” Tọa chủ ngoảnh đầu lại, chú tiểu
không nói năng gì. Cứ thế 3, 4 lần, hòa thượng gắt:
-
Ngươi kêu 3, 4 lần có chuyện gì vậy?
-
Hòa thượng gọi Phật 3, 4 năm thì được, con chỉ gọi thầy
có 3, 4 lần đã bị mắng rồi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Câu
truyện cười trên hoài nghi việc niệm Phật hiệu, khiến
người ta phát tâm đi tìm Phật chân chánh, do đó được coi
là có thiền ý.
797. Soi bóng mặt hồ.
Một
ông tăng hỏi Đơn Hà:
-
Phật là gì?
-
Soi bóng mặt hồ trong, chẳng phải Phật thì là ai?
(Niêm
hoa vi tiếu)
Đơn
Hà thường dùng những lời đơn giản nhất để giải thích
những mê vọng của người đời.
798. Nghi.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Khi con nghi thì sao?
-
Nghi lớn hay nghi nhỏ?
-
Nghi lớn.
-
Nghi lớn thì đến Bắc giác, nghi nhỏ thì ra sau tăng đường.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Ông
tăng nói mình nghi lớn là ám chỉ mình đã đại ngộ, nhưng
Triệu Châu thấy ông chỉ là con vẹt nói tiếng người. Do
đó Triệu Châu lợi dụng tiếng đồng âm nghi là nghi ngờ
với Nghi là tiện nghi, ám chỉ ngươi chỉ là tên tục tử
tạo cứt, tạo đái, vì người chân chánh giác ngộ ngay lúc
đại nghi liền vô nghi.
799. Tiếng hét nặng bao nhiêu?
Hàn
Lâm học sĩ Tô Đông Pha rất thích Thiền học. Nhân bàn về
tình và vô tình cùng viên chủng trí rồi, tự giác có chỗ
ngộ. Do đó, làm 3 bài kệ diễn tả cảnh giới lúc chưa tham
thiền, lúc tham thiền và lúc ngộ đạo.
Bài
1:
橫
看 成 嶺 側 成 峯
Hoành
khán thành lãnh trắc thành phong
遠
近 高 低 皆 不 同
Viễn
cận cao đê giai bất đồng
不
識 廬 山 真 面 目
Bất
thức lư sơn chân diện mục
只
緣 身 在 此 山 中
Chỉ
duyên thân tại thử sơn trung
Ngó ngay thành dẫy, xéo thành chỏm
Cao thấp gần xa mỗi chẳng đồng
Chẳng rõ Lô Sơn mày mặt thật
Muốn biết chỉ cần vô núi trông.
(Hân
Mẫn dịch)
Bài
2:
廬
山 煙 雨 浙 江 潮
Lư
sơn yên vũ Chiết giang triều
未
到 千 般 恨 不 消
Vị
đáo thiên bàn hận bất tiêu
到
得 原 來 無 別 事
Đáo
đắc nguyên lai vô biệt sự
廬
山 煙 雨 浙 江 潮
Lư
sơn yên vũ Chiết giang triều
Khói ngút non Lô, sóng Chiết Giang
Khi chưa đến đó luống mơ màng
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non Lô, sóng Chiết Giang.
(Trúc
Thiên dịch)
Bài
3: Xem bài kệ chữ Hán ở công án 440.
Suối reo vẫn pháp âm bất tuyệt
Mầu non kia chân thể Như Lai
Đêm đó tám vạn, bốn nghìn kệ
Ngày sau nói lại làm sao đây?
(Tuệ
Sĩ dịch)
Tô
Đông Pha từ sau khi có thiền ngộ đó rồi, đối với thiền
học tự cho là mình cao thâm. Một hôm nghe nói ở chùa Ngọc
Tuyền, Kinh Nam có thiền sư Thừa Hạo thiền phong sắc bén,
cơ phong thâm diệu khôn lường; trong lòng không phục, bèn
thay áo đến thử thiền công của Thừa Hạo. Vừa gặp mặt
liền hỏi:
-
Nghe nói thiền ngộ của thiền sư rất cao; xin hỏi thiền
ngộ là gì?
Thừa
Hạo không đáp, hỏi ngược lại:
-
Xin hỏi tánh danh tôn quan?
-
Tánh cân, cân hết thảy các cân của trưởng lão trong thiên
hạ.
Tô
Đông Pha cho là câu trả lời của mình cao minh, đắc ý không
cùng. Thừa Hạo hét một tiếng lớn rồi hỏi:
-
Xin hỏi, tiếng hét này nặng bao nhiêu?
Tô
Đông Pha không trả lời được, khâm phục, lạy rồi đi.
(Nhất
vị Thiền: quyển Phong)
Bài
kệ 1: là lúc chưa tham thiền, còn bị giả tướng mê hoặc.
Từ chỗ đứng khác nhau mà nhìn thì thấy Lô Sơn khác nhau.
Vậy chỉ nương vào vào thấy nghe thì không thể đạt tới
chân tướng của sự vật. Từ quan điểm sai biệt mà nhìn
vạn vật thì sự vật đều tồn tại độc lập nhưng nếu
nhìn từ quan điểm bình đẳng thì vạn vật với ta chỉ là
một.
(Nhật
chủng Nhượng sơn)
Bài
kệ 2: là đã tham thiền nhưng chưa ngộ, còn bị mây núi che
mờ lối đi. Suy đi tính lại, không cam tâm, quay đầu lại
mới biết Lô sơn ở trong đám sương mù đó, trừ bỏ suy
nghĩ mới biết ăn là ăn, ngủ là ngủ.
(Tinh
Vân đại sư)
Bài
kệ 3: là đã ngộ, nghe tiếng suối reo cũng như tiếng Phật,
tướng lưỡi rộng dài là 1 trong 32 tướng của Phật, là
chỉ lúc Phật thuyết pháp. Mầu núi là thanh tịnh thân tức
Pháp Thân. Nếu tưởng như vậy thì 4 vạn, 8 ngàn phiền não
đều là Phật ngữ.
(Bình
Điền Tinh Canh)
800. Phật Thủ.
Phật
Thủ hành nhân thiền sư, một hôm bảo đại chúng:
-
Đúng ngọ hôm nay ta sẽ đi.
Đến
trưa, một ông tăng vào thưa:
-
Đúng ngọ rồi!
Thiền
sư xuống giường, đi vài bước rồi đứng mà hóa.
(Cao
tăng truyện)
801. Kinh Triệu.
Kinh
Triệu Trí Huy thiền sư là bạn cũ của tiết độ sứ
Vương Ngạn Siêu. Một hôm, đến từ biệt. Lúc sắp đi dặn
dò phải hộ trì Phật pháp. Tiết độ sứ không nỡ rời.
Sư cười nói:
-
Dù có lưu lại ngàn năm thì cũng có lúc phải ly biệt.
Nói
rồi, ngồi kiết già mà hóa.
(Cao
tăng truyện)
802. Ngưỡng Sơn.
Ngưỡng
Sơn sắp thị tịch, đọc bài kệ:
年
滿 七 十 七
Niên
mãn thất thập thất
無
常 在 今 日
Vô
thường tại kim nhật
日
輪 正 當 午
Nhật
luân chính đương ngọ
兩
手 攀 屈 膝
Lưỡng
thủ phan khuất tất
Tuổi đã bẩy mươi bẩy
Vô thường tại hôm nay
Mặt trời đang chính ngọ
Ôm gối với hai tay.
(Cao
tăng truyện)
Sau
đó hai tay ôm gối mà mất.
803. Động Lão.
Động
Lão thiền sư đến từ biệt Vương Ngạn Bác. Bác hỏi:
-
Lão sư đã già rồi, còn định đi đâu?
-
Nhập diệt.
Bác
cho là nói đùa, về kể chuyện lại với mọi người:
-
Động Lão tu hành cao thâm, đã khế hợp với Đạo, du hí
nhân sinh.
Lại
sai người đi dò tin tức; quả nhiên Động Lão đã nhập diệt.
Bác tán thán không cùng.
(Cao
tăng truyện)
804. Quan Sơn.
Có
ông tăng bạch với Quan Sơn:
-
Đệ tử đến đây mong giải quyết vấn đề sinh tử, xin
thầy chỉ thị.
Thiền
sư hét lớn rồi bảo:
-
Nơi đây, Huệ Huyền không có sinh tử (Huệ Huyền là pháp
danh của Quan Sơn).
Sư
phụ của Quan Sơn là Đại Đăng quốc sư khi tu hành ở Ngũ
Điền Thụ gia nhập nhóm ăn mày; sống với họ nhiều năm
nên bị cố tật. Khi ngộ đạo rồi vì chân bị tật nên
không thể ngồi kiết già được. Khi sắp mất nói:
-
Lúc trước ta đều phải nghe ngươi, lần này ngươi phải
nghe ta!
Nói
rồi tự chặt chân, ngồi thiền mà mất.
Một
hôm, Quan Sơn xếp đặt hành trang, kêu đệ tử Thọ Ông bảo:
-
Ta muốn ra ngoài vân du ít ngày.
Nói
rồi 2 người cùng đi ra Phong Thủy Tuyền, Quan Sơn đứng nghỉ
dưới gốc cây, an nhiên mà hóa; ấn chứng câu thường nói:”Nơi
đây Huệ Huyền không có sinh tử.”
(Nhất
nhật nhất thiền ngữ)
805. Đạo Khải.
Phù
Dung Đạo Khải làm bài kệ phó pháp trao lại cho thị giả
rồi mất:
吾
年 七 十 六
Ngô
niên thất thập lục
世
緣 今 已 足
Thế
duyên kim dĩ túc
生
不 愛 天 堂
Sinh
bất ái thiên đường
死
不 怕 地 獄
Tử
bất phạ địa ngục
撒
手 橫 身 三 界 外
Tát
thủ hoành thân tam giới ngoại
騰
騰 任 運 何 拘 束
Đằng
đằng nhậm vận hà câu thúc.
Đã
bẩy sáu năm trường
Thế duyên cũng tạm được
Sống chẳng thích thiên đường
Chết chẳng sợ địa ngục.
Buông tay, ngoài tam giới
Chẳng gì có thể trói.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
806. Khoái Xuyên.
Khoái
Xuyên (? – 1582) đức hạnh kiêm bị, được võ tướng Võ
Điền Tín Huyền mời về trụ trì ở Huệ Lâm Tự, lấy sư
lễ mà đãi. Chức Điền Tín Trưởng chinh phạt họ Võ rồi,
do kính mộ Khoái Xuyên đã lâu, dùng hậu lễ đối đãi nhưng
hòa thượng quật cường không khuất phục. Lòng tự tôn của
Tín trưởng bị tổn thương, trong lòng rất bất mãn. Chính
lúc đó lại biết cừu địch của mình là Tả tả Đại Nghĩa
Bật trốn ở Huệ Lâm tự và sau đó đào thoát. Tín Trưởng
nổi giận hạ lịnh bao vây Huệ Lâm Tự, bức chư tăng thối
lui lên lầu, dùng lửa thiêu đốt. Khoái Xuyên ngồi đối
mặt với đại chúng, trước tiên bảo mọi người nói lời
sau cùng, sau đó tự nói:
An thiền chẳng cần tu sơn thủy
Diệt hết tâm đầu, lửa tự mát.
Nói
rồi tiến vào hỏa định.
(Nhất
nhật nhất thiền ngữ)
807. Huệ Xuân.
Một
hôm, ngoài cửa Tiểu Điền Nguyên Tối Thừa Tự xuất hiện
một thiếu nữ, yêu cầu xuất gia. Cô vào khoảng hai mươi
mấy tuổi , xinh đẹp, cao quý. Trụ trì là Liễu Am hòa thượng
ra coi thì ra chính là cô em gái mình, bèn nói:
-
Cửa thiền chẳng thích hợp với đàn bà, con gái. Tuy không
thiếu gì đàn bà, con gái đi tu, nhưng cũng không thiếu gì
trường hợp làm ô uế cửa Thiền. Huống chi cô lại xinh
đẹp hơn người, đương nhiên không thích hợp xuất gia.
Thiếu
nữ nghe xong đi ra dùng kìm lửa phá hủy dung nhan, sau đó lại
yêu cầu xuất gia. Liễu Am cuối cùng phải chấp nhận cho
cô xuống tóc, đặt pháp danh là Huệ Xuân.
Vào
lúc vãn niên, Huệ Xuân sống ở trước cửa chùa, nấu trà
đãi khách đến viếng chùa. Mọi người đều biết cô là
một ni cô từ bi hoàn hảo. Một hôm, cô xếp một đống củi
trước cửa chùa ngồi vào trong đó, tự châm lửa đốt và
tiến vào hỏa định. Liễu Am chạy ra hỏi:
-
Ni cô, có nóng không?
Huệ
Xuân ngồi yên đáp:
-
Nóng lạnh chỉ người triệt ngộ mới biết.
(Nhất
nhật nhất thiền ngữ)
Từ
802 – 809:
Ham
sống sợ chết là thường tình của con người. Khi chết không
tự làm chủ mà phải do Diêm Vương xếp đặt. người đắc
đạo thì không thế, muốn sống là sống, muốn chết là chết.
Thực ra nói sống chết là đối với người phàm mà thôi.
Dùng con mắt thánh mà nhìn thì không có gì gọi là sống,
là chết. Gọi sống, chết là y theo tục đế, tạm thời
giả lập các pháp vốn không sinh diệt, không đến đi, không
một không khác, chẳng đoạn chẳng thường làm sao có sinh
tử? Chẳng những không có sinh tử mà cả đến Niết Bàn
cũng không nữa. Nói có sinh tử chẳng qua là để thị hiện
mà thôi. Do đó du hí sinh tử, đi ở tự do không phải là
làm sự kỳ lạ để hoặc chúng mà là phương tiện hóa độ.
(Hùng
Uyển)
808. Không thè lưỡi.
Một
ông tăng hỏi Lợi Sơn:
-
Các hiện tượng ngoại tại đều trở về không, còn không
thì trở về đâu?
-
Không thè lưỡi.
-
Vì sao?
-
Trong ngoài một dạng.
(Thiền
cơ)
Câu
đáp “Trong ngoài một dạng” ám chỉ phàm thánh là một.
809. Không có tâm đạo.
Văn
Đạo là một vân thủy tăng vì ngưỡng mộ đạo phong của
Huệ Huân, trèo núi băng rừng từ ngàn dặm tới tham phỏng.
Văn Đạo tới trước động Huệ Huân cư trú thưa:
-
Mạt học Văn Đạo thường ngưỡng mộ cao phong của thầy,
nay đến thân cận, mong thầy từ bi khai thị.
-
Trời đã tối rồi, hãy tá túc một đêm đã.
Hôm
sau, Văn Đạo tỉnh dậy thấy Huệ Huân đã dậy từ lâu,
nấu cháo đã xong. Khi dùng bữa sáng vì trong động không dư
bát, Huệ Huân bèn ra ngoài động, thuận tay nhặt một mảnh
xương sọ vào múc cháo đưa cho Văn Đạo. Văn Đạo còn do
dự không biết có nên nhận hay không, Huệ Huân bảo:
-
Ngươi không có đạo tâm, không phải vì pháp mà lại.Ngươi
lấy sạch bẩn, yêu ghét mà xử sự tiếp vật, làm sao đắc
đạo được?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đạo
đích thực không thiện ác, không sạch bẩn. Văn Đạo có
niệm yêu ghét là có tâm phân biệt, đương nhiên là phải
bị mắng rồi!
810. Giết người sao?
Một
ông tăng tóm chặt lấy Đồng Phong. Đồng Phong hét lên:
-
Định giết người sao?
Ông
tăng buông thiền sư ra và hỏi:
-
Kêu cái gì?
-
Ai kêu đó?
Ông
tăng hét lên, thiền sư quơ gậy đánh, ông tăng bỏ chạy,
ngoảnh đầu lại nói:
-
Đợi chút nữa rồi hãy đánh.
Thiền
sư cả cười.
(Thiền
cơ)
Ông
tăng ‘tóm chặt” lấy Đồng Phong, nên Đồng Phong bảo “Định
giết người sao?” là ám chỉ ông tăng đừng chấp hãy “buông
tay.”
811. Không giảng nữa.
Một
ông tăng hỏi Sam Dương:
-
Thiền sư được đạo lý gì mà trụ trì ngọn núi này?
-
Vốn định nói nguyên do nhưng lại sợ gập chuyện tào lao
của người khác nên không giảng nữa.
-
Không giảng coi sao được?
Thiền
sư hét lớn, ông tăng thưa:
-
Thì ra là vậy!
Thiền
sư quơ gậy đánh, ông tăng cười lớn bỏ đi.
(Thiền
cơ)
Đạo
lý là chỉ Phật pháp, giảng chỉ là giải thích về Phật
pháp không phải là bản thân Phật pháp, không giảng là ám
chỉ phải tự ngộ.
812. Ý tổ sư từ Tây sang.
Có
tới hơn 230 công án về câu hỏi này, ở đây chúng tôi chỉ
nêu ra 10 câu trả lời tiêu biểu:
1/.
Hương Lâm: Ngồi lâu sanh mệt.
(Bích
Nham lục)
2/.
Triệu Châu: Răng mọc lông
(Không
Tốc tập)
3/.
Cửu Phong : Một tấc lông rùa nặng 9 cân.
(Không
Tốc tập)
4/.
Thạch Sương : Nếu có người rơi xuống giếng sâu ngàn thước,
ngươi có thể cứu hắn ra mà không dùng dây thì ta sẽ bảo.
(Bích
Nham lục)
5/. Đại Hải : Tây sang không ý.
(Ngũ
đăng hội nguyên)
6/. Phúc Thuyền : Tốt nhất là đừng mắng chửi tổ sư.
(Ngũ
đăng hội nguyên)
7/. U Khuê : Trâu bùn từng bước, từng bước đi trước người.
(Ngũ
đăng hội nguyên)
8/. Long Vân : Tối qua, trong chuồng mất trâu.
(Ngũ
đăng hội nguyên)
9/. Ô Thạch : Người thích đến, đi là ai?
(Ngũ
đăng hội nguyên)
10/. Lạc Phố : Trả lời bằng một bài kệ:
深
嵐 覆 處
Thâm
lam phú xứ
出
聚 藏 峯
Xuất
tụ tàng phong
白
日 輝. 時
Bạch
nhật huy thời
碧
潭 無 影
Bích
đàm vô ảnh.
Sơn lam mờ trời đất
Từ hang bay phủ non
Lúc vầng dương chói lọi
Đầm biếc bóng hình không.
(Hân
Mẫn dịch, Hư Đường lục)
Đối
với câu hỏi trên, có nhiều câu đáp khác nhau. Có câu chẳng
ăn nhập gì đến câu hỏi cả, khiến ta bị mê hoặc. Sự
thực thì Thiền môn lấy câu “Chỉ thẳng tâm người, thấy
tánh thành Phật” là tông chỉ cho nên không chấp vào văn
tự, ngôn ngữ, kinh điển, tranh, tượng; nếu không thì là
bỏ gốc mà tìm ngọn. Trang Tử nói:” Được cá quên nơm,
được thỏ bỏ bẫy”, Lão Tử:”Đạo có thể nói thì không
phải là Đạo thường, tên có thể gọi thì không phải là
tên thường.” Tất cả đều cùng một ý “Được ý quên
lời” Kinh Kim Cương nói: “Chánh pháp còn nên xả huống
hồ là phi pháp.” Lời nói chỉ thẳng chỉ là một phương
tiện thôi, dù nói dọc, nói ngang, phải, trái, thiên biến
vạn hóa cũng là dao sắc chặt đứt những dây leo mê chấp
mà lãnh ngộ tự tánh.
(Hùng
Uyển)
813. Đại Đăng quốc sư.
Một
ông tăng hỏi Đại Đăng quốc sư:
-
Đối với những câu hỏi khó, đại sư đều tự do trả lời
được là tại sao?
-
Vì 12 thời lão tăng đều dùng.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Ở
đây dùng 2 chữ tự do của Thiền sư là như vậy sao? Tức
là xử dụng 12 thời? Trong 12 thời, tất cả các vấn đề
khởi diệt đều không trói buộc được tâm, tâm vẫn tự
chủ xử lý. Một công án khác cũng tương tự như công án
trên chúng tôi cũng xin chép ra đây:
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Làm sao làm chủ trong 12 thời?
-
Ngươi bị 12 thời chuyển, còn ta chuyển 12 thời.
814. Bắc Dã.
Bắc
Dã đến nhà tù thuyết pháp. Ông đưa mắt nhìn mấy trăm
tù nhân, chắp 2 tay lại:
-
Các người đều là Phật, đều có tâm Phật, chỉ vì nhân
duyên không tốt nên ra nông nỗi này, thực khiến lão tăng
đau lòng.
Nói
rồi bật khóc. Các tù nhân đều cảm động, cúi đầu rơi
lệ.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Thân
mình chính là Phật, chỗ này chính là liên hoa quốc, sum la
vạn tượng đều phóng quang minh.
815. Nhà ở đâu?
Nga
Sơn ở Thiên Long Tự là một vị Thiền sư Nhật Bản nổi
danh cận đại. Lúc 5 tuổi được người nhà cõng đến Nga
Sơn xin làm đệ tử của Nghĩa Đường hòa thượng. Vừa gặp
mặt, Nghĩa Đường hỏi:
-
Nhà ở đâu?
-
Con quên rồi.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Câu
đáp “Con quên rồi” rất có thiền cơ. Thiền cần quên
hết, chỉ luận chuyện ngay trước mắt.
816. Lục Hằng khóc cười.
Lục
Hằng thường đến tham phỏng Nam Tuyền. Khi Nam Tuyền mất,
Lục Hằng đến chùa phúng viếng. Ông đến trước quan tài
cười ha hả. Chấp sự tăng trách:
-
Ông là đệ tử sao chẳng khóc mà lại cười?
-
Được Đạo chẳng khóc, thầy hãy nói một câu coi!
Chấp
sự tăng là một ông tăng không mắt (không hiểu Đạo) nên
không trả lời được. Lục Hằng than:
-
Trời xanh! Trời Xanh! Tiên sư qua đời đã xa rồi.
Nói
rồi buông lời khóc lớn.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Trường
Khánh nghe truyện này bình phẩm: “Hiểu Đạo nên cười,
chẳng nên khóc.” Ông hy vọng được cười như Lục Hằng.
817. Vô Tam.
Vô
Tam hòa thượng trụ trì ở Phúc Xương Tự, vốn xuất thân
là bần nông; được các Vương công quý tộc quy y. Một võ
sĩ thường coi nhẹ ông, nhân ngày hội định làm ông mất
mặt trước công chúng. Võ sĩ rót một chén rượu, bưng đến
trước mặt ông:
-
Tôi xin kính rượu vị nông dân này.
Các
tọa khách đều thất kinh, nhưng hòa thượng vẫn mỉm cười
đáp:
-
Đó chính là hoa sen trong bùn.
Các
vương công quý tộc không ai là không khen ngợi. Đây là một
công án hữu danh.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Hoa
sen không mọc trên núi cao, trên mặt đất, mà mọc trong bùn.
Sen nỡ hoa và đồng thời kết quả, không giống như các loại
hoa khác: hoa rụng rồi mới kết quả. Đại thừa Phật giáo
cũng tương tự như vậy, cũng từ bùn phiền não mà nở hoa
Bồ Đề. Hoa quả đồng thời, tức phàm thánh là một. Chúng
sanh vốn là Phật, chưa thành Phật đã là Phật rồi.
818. Hoàng Long.
Một
ông tăng đến thăm Hoàng Long, hỏi:
-
Từng nghe tiếng Hoàng Long, đến nơi chỉ thấy con rắn khoang
đỏ.
-
Ngươi chỉ thấy con rắn khoang đỏ mà chưa thấy Hoàng Long?
-
Hoàng Long thực ra thế nào?
-
Cong queo, khuất khúc.
-
Bỗng nhiên kim xí điểu giang rộng cánh xuất hiện thì sao?
-
Thật đáng sợ!
-
Vậy là bị nó ăn sao?
-
Phải không? Cho ta một miếng, ăn ngon lắm!
Ông
tăng quay đầu lại làm bộ đang ăn.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Tương
tự như công án cầu đá Triệu Châu, nhưng ở đây 2 người
đối
đáp chan chát không ai nhường ai.
819. Phương tiện chỉ dạy.
Quảng
Châu Ngưỡng Sơn Huệ Tịch tham học tại Phúc Châu Quy Sơn
Linh Hựu, ngộ đạo rồi, ở đó 15 năm, được truyền tâm
ấn. Năm 35 tuổi lãnh chúng hoằng pháp. Đương thời thiền
giới xưng tụng là Tiểu Thích Ca.
Một
hôm, Ngưỡng Sơn hỏi một ông tăng đi ngang qua trước mặt:
-
Ngươi từ đâu đến tham học?
-
Phương Nam.
Ngưỡng
Sơn giơ gậy lên quơ quơ hỏi:
-
Các trưởng lão ở phương Nam có nói cái này không?
-
Không nói.
Ngưỡng
Sơn vung vẩy cây gậy, hét lớn:
-
Đại đức!
-
Dạ!
-
Vào thiền đường!
Ông
tăng đi về phía thiền đường, Ngưỡng Sơn ở phía sau hét:
-
Đại đức!
Ông
tăng xoay đầu lại, Ngưỡng Sơn ra lệnh:
-
Đến trước mặt ta.
Ông
tăng đi đến trước mặt Ngưỡng Sơn, Ngưỡng Sơn lấy gậy
gõ vào đầu ông và bảo:
-
Đi!
Ông
tăng ngay đó đại ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Ngưỡng
Sơn chỉ cho ông tăng không có phân biệt Nam, Bắc, Đông, Tây;
không có phân biệt bên này, bên kia. Bảo ông đi vào thiền
đường là chỉ nơi nơi đều là Đạo, chốn chốn đều là
Thiền. Lại kêu ông ra trước mặt là chỉ Đạo ở ngay trước
mắt, rồi lại bảo ông đi là chỉ Phật pháp không đến
không đi, ở khắp 10 phương, tràn đầy pháp giới. Ngưỡng
Sơn phương tiện chỉ dạy như vậy, học tăng không ngộ sao
được?
820. Điểm tâm nào?
Đức
Sơn mới đầu theo Luật tông. Coi Thiền tông như cừu địch.
Ông
hạ quyết tâm Nam du kiếm thiền tăng để tranh luận. Ông
nghiên cứu kinh Kim Cương rất thâm, vác sách chú thích kinh
trên vai mà đi. Tới Hồ Nam ông dừng lại một quán bên đường
định điểm tâm trước khi đi tiếp. Bà già chủ quán hỏi
ông vác gì trên vai. Đức Sơn ưỡn ngực kiêu ngạo đáp là
sách chú giải kinh Kim Cương của mình. Bà già liền bảo:
-
Vậy sao? Ta có một câu hỏi nếu thầy đáp được thì được
điểm tâm miễn phí, nếu đáp không được thì hãy đi quán
khác.
Đức
Sơn cười, bằng lòng.
Bà
già hỏi:
-
Kinh Kim Cương nói: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại
tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”, thầy muốn
điểm tâm là điểm tâm nào?
Đức
Sơn vốn không nghĩ đến vấn đề này, do đó không trả lời
được.
Bà
già chỉ điểm:
-
Nếu thầy chưa cam lòng hãy tìm Long Đàm mà hỏi.
(Thiền
tông dật sự)
Tâm
không có thực thái, chỉ bất quá xuất hiện trong một thời
gian ngắn ngủi rồi biến mất. Tâm quá khứ đã qua rồi,
tâm hiện tại thì trong sát na, tâm vị lai thì còn chưa xuất
hiện, như vậy đều không nắm được.
821. Biện đạo là gì?
Đạo
Nguyên khi đi tham học ở Trung Hoa, gập một vị Hỏa đầu
tăng ở núi A Dục Vương, ông hỏi:
-
Cái gì gọi là văn tự?
-
1, 2, 3, 4, 5.
-
Thế nào là biện đạo?
-
Không có cái gì ẩn dấu được.
(Thiền tông dật sự)
Văn
tự không giới hạn ở kinh văn, tổ lục. Biện đạo (nỗ
lực tinh tấn) không giới hạn ở khắc khổ tu hành. Vạn
vật đều đang nói Phật pháp, vạn sự đều liên quan đến
tu hành.
822. Đạo Nguyên giác ngộ.
Một
lần Đạo Nguyên ngồi thiền cạnh một ông tăng đang ngủ
gục. Thiền sư Như Tĩnh dùng dép cỏ đánh vào đầu ông tăng:
-
Tọa thiền là thoát lạc tâm trần, chỉ lo ngủ thì có ích
gì?
Đạo
Nguyên đột nhiên lãnh ngộ vội hướng Như Tĩnh vái lạy,
thưa:
-
Thân, tâm con đã thoát lạc rồi!
(Thiền
tông dật sự)
Thân,
tâm thoát lạc là thoát ra khỏi những trói buộc của thân
tâm. Đoạn trừ được những phiền não trong tâm, siêu việt
ý thức đạt tới cảnh giới giác ngộ.
823. Rồng kêu trong cây khô.
Một
ông tăng hỏi Trí Nhàn:
-
Thế nào là Phật?
-
Rồng kêu trong cây khô.
-
Đệ tử không hiểu.
-
Con mắt trong đầu lâu.
(Thiền
cơ)
Ông
tăng hỏi thế nào là tự tánh. Các câu đáp “Rồng kêu trong
cây khô” và “con mắt trong đầu lâu”, ám chỉ phải chết
đi sống lại, tự nhiên sẽ thấy Phật.
824.
Ta đánh ngươi vô lý.
Một
ông tăng hỏi Cảnh Thông:
-
Thế nào là Phật?
Thiền
sư đánh ông, và ông đánh trả. Thiền sư bảo:
-
Ngươi đánh ta có lý, ta đánh ngươi vô lý.
Ông
tăng không đáp được, thiền sư lại đánh.
(Thiền
cơ)
Nói
được hay không đều bị đánh, ám chỉ ông tăng không được
ngưng trệ, phải tinh tấn tham cứu.
825. Đức Sơn mất sớm.
Đức
Sơn sắp viên tịch, ngồi ngay ngắn bảo chúng đệ tử:
-
Nắm bắt hư không, đuổi theo âm vang chỉ làm loạn tâm các
ngươi.
Khi tỉnh mộng mới biết là sai lầm, kết cục được cái
gì đâu?
(Thiền
tâm dật sự)
Cái
gì cũng không có. Có hoặc không chỉ là do ý thức phán đoán.
Siêu việt được có, không thì mới tránh khỏi ăn gậy của
Đức Sơn.
826. Ba chuyển ngữ của Ba Lăng.
Ba Lăng người huyện Ba Lăng, tỉnh Hồ
Nam, là học trò của Vân Môn. Những lời ông nói ra đều
thi vị, đẹp đẽ. Vân Môn rất thưởng thức ông và đã
từng khen ngợi, bảo chúng đệ tử:
-
Khi ta chết không cần phải tụng kinh, chỉ cần đọc 3 chuyển
ngữ của Ba Lăng là đủ.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Ba
chuyển ngữ của Ba Lăng là:
Có
ông tăng hỏi:
-
Thế nào là Đạo?
-
Người sáng mắt rớt xuống giếng (1)
(Xem
công án 8ỏ)
-
Thế nào là thổi lông trên kiếm?
-
San hô từng cành chống dưới trăng (2)
(Xem
công án 174)
-
Thế nào là Đề Bà tông?
-
Tuyết đầy chén bạc (3)
(Xem
công án 117)
827. Đạt Ma tổ sư đến Trung quốc độ ai?
Đối
với câu hỏi này có thiền sư đáp:
-
Đến độ lừa, ngựa, chó, dê nhưng không độ các ngươi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Vì
sao độ súc sanh mà không độ con người? Thực ra câu đáp
này hàm ý thiền sư đã thể nghiệm “Tất cả chúng sanh
đều có Phật tánh”; mặt khác phát huy phải tự mình thể
nghiệm. Không độ các ngươi vì các ngươi phải tự độ.
828. Sai một ly.
Một
lần Pháp Nhãn hỏi Tu Sơn Chủ:
-
Sai một ly, đất trời ngăn cách, ngươi làm sao thể hội?
-
Sai một ly, đất trời ngăn cách.
-
Nếu nói vậy, sao gọi là đã thể hội?
Tu
Sơn Chủ không hiểu hỏi lại, Pháp Nhãn bảo:
-
Sai một ly, đất trời ngăn cách.
Tu
Sơn Chủ bỗng nhiên tỉnh ngộ.
(Thiền
tông dật sự)
Sai
một ly, đất trời ngăn cách (tương tự như: sai một ly đi
ngàn dặm) là hiểu sai một chút thì xa chân lý như đất xa
trời. Do lý giải chúng ta tưởng mình đã ngộ, kỳ thực
lý giải và ngộ là hai chuyện khác nhau.
829. Vinh Tây.
Một
hôm, có một người đàn ông đói khát đến Kiến Nhân Tự
khóc lóc, kể lể cảnh khốn khổ của vợ con. Vinh Tây rất
thương xót nhưng tự mình cũng chẳng có vật gì quý để
cho. Lúc đó Vinh Tây bỗng nghĩ đến vòng hào quang bằng đồng
của tượng Dược sư Như Lai bèn đem ra cho người đàn ông
đó. Người đàn ông vui mừng tiếp nhận. Chúng đệ tử kinh
ngạc hỏi:
-
Đem cho vòng hào quang của Phật có tội không?
-
Có thể, nhưng nếu Phật gập tình cảnh này, thì ngay huyết
nhục ngài còn đem cho xá gì vòng hào quang của tượng. Ngay
cả tượng Phật ta cũng sẽ đem cho, nếu có tội ta sẽ vui
lòng đón nhận.
(Thiền
tông dật sự)
Vinh
Tây đã đem lòng từ mà độ dân.
830. Vất bỏ gia tài.
Bàng
Uẩn xuất thân từ một gia đình giàu có. Ông mang hết của
cải chất lên thuyền, chở đến Động Đình Hồ vất bỏ;
đoạn tuyệt mọi chấp trước của thế gian.
Có
ông tăng khuyên ông nên đem tiền của mà lập đền, chùa.
Bàng Uẩn cự tuyệt:
-
Ta đã biết đây là vật chẳng lành, sao lại tặng cho người?
Dù bỏ dưới hình thức nào, tiền tài nhất định tạo nên
lòng tham muốn.
Chẳng
còn một phân tiền, Bàng Uẩn và con gái là Linh Chiếu đan
giỏ tre đem bán để duy trì sinh hoạt.
(Thiền
tông dật sự)
Xả
bỏ lợi danh, không còn mê hoặc thì những công việc hàng
ngày như gánh nước, bửa củi đều là Phật sự. (Xem công
án 494)
831. Một cũng chẳng giữ.
二
由 一 有 一 亦 莫 守
Nhị
do nhất hữu nhất diệc mạc thủ
Hai do một mà có
Một cũng chẳng giữ.
(Tăng Xán, Tín Tâm Minh)
Hai
là chỉ thế giới đối đãi, yêu ghét. Một là chỉ thế
giới tuyệt đối, hư vô hoặc không. Nhưng một cũng phải
bỏ vì nếu không thì là chấp trước. Nếu chấp một thì
trước hết rơi vào hư vô chủ nghĩa; nhận rằng mọi sự
đều không thường còn, đều vô nghĩa. Đó là bi quan của
những người thất bại. Hơn nữa, lại tạo nên giả bình
đẳng, coi mọi việc đều không có sai biệt. con người sống
trong xã hội, tài năng, hoàn cảnh đều khác nhau. Nếu coi
như đồng đẳng là ảo tưởng, phủ nhận những nỗ lực
tinh tiến của con người.
(Thích
Dĩ Nhiên)
832. Bảo Tích.
Bàn
Sơn Bảo Tích sắp mất, bảo đại chúng:
-
Có ai tả chân được ta không?
Chư
tăng vẽ hình trình lên đều không hợp ý sư. Phổ Hóa thưa:
-
Con tả được.
-
Sao không trình ra cho lão tăng coi?
Phổ
Hòa lộn tùng phèo mà ra.
Bảo
Tích nói:
-
Gã này về sau tiếp người như khùng điên.
Nói
rồi mất.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Bảo
Tích bảo chư tăng tả chân, không phải là bảo vẽ hình mình
mà là tả “chân” tự tánh. Làm sao giấy, bút, mực chết,
giới hạn, trừu tượng, cùng những ký hiệu phiến diện
có thể diễn tả được tự tánh? Phổ Hóa dùng toàn thân,
chân thật, cụ thể, sống động mà trình ra cho lão sư. Thật
là một họa sĩ thiên tài.
833. Ngưỡng Sơn.
Một
ông tăng hỏi Ngưỡng sơn:
-
Hòa thượng còn giữ giới không?
-
Không giữ giới.
-
Còn tọa thiền không?
-
Không tọa thiền.
Rất
lâu, Ngưỡng Sơn hỏi:
-
Hiểu không?
-
Con không hiểu.
-
Hãy nghe bài kệ của ta:
滔
滔 不 持 戒
Thao
thao bất trì giới
兀
兀 不 坐 禪
Ngột
ngột bất tọa thiền
釅
茶 三 兩 碗
Nghiệm
trà tam lưỡng oản
意
在 矍 頭 邊
Ý
tại quắc đầu Biên
仰 山 蕙 寂
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
Hỗn loạn, giới chẳng giữ
Hôn trầm, chẳng tọa thiền
Trà nồng hai ba cữ
Ý nghĩ tại điền viên.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Ngưỡng
Sơn rất đại từ, đại bi chỉ điểm cho ông tăng, không
giữ giới, không tọa thiền thì làm gì? Uống trà, làm ruộng
là bản lai diện mục. Do đó, “Bình thường tâm là Đạo
là thiền định, là giới luật, là Đạo.
834. Thiên Vương.
Chùa
Trung Hoa nào cũng có tượng Thiên Vương. Thiên Vương là thần
hộ trì Phật pháp. Lục Hằng hỏi Nam Tuyền:
-
Thiên Vương có địa vị gì?
-
Thiên Vương chẳng có địa vị gì.
-
Như con được nghe thì Thiên Vương ở sơ vị Bồ Tát có phải
không?
-
Thành Thiên Vương là để cứu người, thuyết pháp.
(Thiền
tông dật sự)
Nếu
hạn chế Thiên Vương ở địa vị Thiên Vương thì Thiên Vương
không phải là Thiên Vương nữa. Thiên Vương chân chính phải
tự tại, vô ngại.
835. Thiết Chu đoạn sắc.
Thiết
Chu thuở trẻ tinh thông kiếm thuật, do đó thân thể cường
tráng. Ông lại là thị tùng của Hoàng thái tử, hưởng đủ
vinh hoa phú quý bao gồm ái dục. Một hôm nhân đứng bên đường
ngắm bông hoa đẹp lập tức khai ngộ; từ đó đoạn trừ
ái dục phiền não.
(Hiện
đại thiền nhập môn)
Giống
như gương sáng phản chiếu vạn vật. Gái đẹp đến phản
chiếu gái đẹp; ác ma đến phản chiếu ác ma. Gương phản
chiếu vô niệm, không vì người soi gương mà gương bị ô
nhiễm. Đó là tâm cảnh gương sáng nước lặng. Tâm cảnh
Thiết Chu khi xem hoa là tâm cảnh đó.
836. Sông thiền sâu nông.
Định
thượng tọa thụ trai ở Trấn Châu về ngồi nghỉ trên cầu
gập 3 vị tọa chủ. Một vị hỏi:
-
Sông thiền sâu nông phải dò tận đáy là sao?
Định
thượng tọa nắm lấy ông định ném xuống cầu. Hai vị kia
lại gần năn nỉ:
-
Xin thượng tọa từ bi tha thứ.
-
Nếu không nể hai vị, ta đã cho hắn xuống đáy sông rồi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Muốn
biết đáy sông nông sâu chỉ có cách là xuống nước.
837. Trời lạnh, người lạnh?
Quy
Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
-
Trời lạnh, người lạnh?
-
Mọi người đều ở đây.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Câu
trả lời của Ngưỡng Sơn quả không hổ là là người sáng
lập ra dòng Quy Ngưỡng. Ông không bắt chước Huệ Năng ‘trong
công án cờ động hay gió động” mà đáp “không phải trời
lạnh, cũng không phải người lạnh mà là tâm lạnh”, cũng
không bắt chước Tổ Già Da Xá Đa trong công án ‘gió kêu
hay chuông kêu” mà đáp “pháp vốn không có lạnh và không
lạnh.” Giả sử nếu đáp vậy cũng đúng nhưng nhất định
có người sẽ bảo Ngưỡng Sơn chỉ là con vẹt. Trong Thiền
học sự thể nghiệm phải là độc sáng không cần bắt chước
người. Trời lạnh rồi người lạnh, lạnh rồi lại không
lạnh, tất cả phải tự mình thể nghiệm. Tôi lạnh là cảm
giác của tôi, anh lạnh là cảm giác của anh.. Không ai thay
thế cho ai được. Sự thể nghiệm thành Phật cũng chính như
thế.
838. Giáo dục.
Xưa
có một vị tôn túc nuôi một đứa trẻ chẳng biết phép
tắc gì. Có
một
vị hành cước tăng ghé qua, dạy đứa trẻ lễ nghi. Buổi
chiều khi lão túc từ ngoài về, đứa trẻ ra đón, chào hỏi
lễ phép. Lão túc lấy làm lạ hỏi:
-
Ai dạy ngươi vậy?
-
Là vị thượng tọa ở trong nhà.
Lão
túc kêu ông tăng ra, bảo:
-
Thượng tọa là người có tâm hạnh gì? Đứa trẻ này ta
nuôi đã 2, 3 năm rồi, tình trạng đáng thương sao ông lại
dạy hư nó? mau đi đi!
Trời
chiều mưa rơi tầm tã, ông tăng vẫn bị đuổi đi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Trong
Thiền học “Tâm bình thường là Đạo”, “Đói ăn, mệt
ngủ”
giảng đến cùng là yêu cầu người học từ bỏ xã hội
tính trở lại “chân diện mục” tự nhiên.
839. Một câu.
Một
ông tăng hỏi La hán:
-
Thế nào là một câu của La Hán?
-
Nếu ta trả lời thì đã là hai câu rồi!
-
Thế nào là đệ nhất nghĩa?
-
Nếu ta trả lời thì đã là đệ nhị nghĩa rồi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Cái
gọi là “một câu”, “đệ nhất nghĩa” là chỉ nội chứng
chân như viên mãn. Nếu nói ra thì nội tại trở thành phù
hiệu biểu đạt, chính thể thành cục bộ, toàn diện thành
phiến diện.
840. Tự độ.
Huệ
Năng được Ngũ tổ truyền y pháp rồi, đương đêm rời khỏi
Hoàng Mai. Ngũ tổ đưa tiễn đến bờ Cửu Giang; có một chiếc
thuyền đậu sẵn ở đó. Ngũ tổ bảo Huệ Năng lên thuyền
để mình chèo. Huệ Năng thưa:
-
Thỉnh hòa thượng ngồi để con chèo.
-
Ta độ ngươi mới phải, sao ngươi độ ta được.
-
Khi con mê thì thầy độ, nay con ngộ rồi thì tự độ.
“Độ”
danh tuy một mà chỗ dùng chẳng đồng. Huệ Năng sinh ra ở
nơi biên cương lời nói cũng chẳng đúng, nhờ thầy dạy
dỗ nay được ngộ phải lấy tự tánh tự độ.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Đàn
kinh, từ đầu đến cuối toàn là chữ “tự”; kiến tự
tánh tự tĩnh, tự tu tự tác pháp thân; tự hành Phật tánh;
tự tác, tự thành Phật đạo. người đời vì mê nên không
thấy tự tánh ở ngay chính sắc thân mình cứ mải đi tìm
tam thân Như Lai ở bên ngoài.
841. Lưỡng kiến.
Để
trả lời thư hỏi Đạo của Hướng cư sĩ, Huệ Khả viết:
-
Vô minh tức trí tuệ, phiền não tức Bồ Đề. Nhận rằng
vô
minh
và trí tuệ không tương đồng, mình và Phật sai biệt là
có tâm phân biệt, là chấp lưỡng kiến.
(Trung
Quốc thiền tông)
Cái
gọi là lưỡng kiến là nhận rằng sinh và tử, vô minh và
trí tuệ, phiền não và Bồ Đề, Phật và chúng sanh hỗ tương
đối lập, do đó có kiến giải sai biệt. Chấp vào lưỡng
kiến thì không thấy được chân lý, vì Huệ Khả cũng từng
nói: “Vạn pháp tức chân như.”
842. Duy Chính.
Hàng
Châu Duy Chính thiền sư không nói về Thiền. Có người hỏi
duyên cớ, ông nói:
-
Vì sao phải phí lời? Ta lười lắm, cũng không thích loại
phương pháp cơ xảo; chỉ cần thuận theo vạn tượng biến
hóa là được. Ngôn ngữ có giới hạn, loại đối phó của
ta thì vô cùng vì tạo vật cũng vô cùng.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Ta
thấy thiền sư để tùy duyên cũng như Lão tử gọi là đạo
pháp tự nhiên vậy.
843. Tháo chuông vàng.
Một
hôm, Pháp Nhãn hỏi đại chúng:
-
Ai tháo được cái chuông vàng ở cổ con hổ?
Pháp
Đăng đáp:
-
Người buộc nó, tháo được.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Chuông
buộc vào cổ hổ dụ cho phiền não; chỉ người buộc nó
mới tháo được. Đoạn tập không phải là cắt đứt ngoại
duyên mà là phải
trừ
bỏ gốc rễ của phiền não trong tâm.
844. Kỳ Vực.
Thiên
Trúc tăng Kỳ Vực đến Lạc Dương. Trúc Pháp Hạnh thỉnh
nói pháp. Kỳ Vực đọc bài kệ:
Giữ miệng, nhiếp tâm ý
Chớ phạm các việc ác
Tu hành mọi việc lành
Như vậy, được giải thoát.
Sau
đó im, Pháp Hạnh lại thưa:
-
Mong thượng nhân cho nghe những gì chưa được nghe, chớ như
nghĩa lý của bài kệ này trẻ lên tám cũng tụng rõ.
Kỳ
Vực cười đáp:
-
Tuy trẻ lên tám cũng tụng rõ, nhưng trăm tuổi không hành
thì tụng có ích gì?
Người
đời đều kính người đắc Đạo mà không biết tự hành,
tự đắc.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Ý
nghĩa của công án này cũng giống với công án thi sĩ Bạch
Cư Dị và Điểu Sào thiền sư.
(Công
án số 75)
845. Giọt thủy ngân.
Hoàng
Bá bảo:
-
Trong vạn loại, con người ai cũng là Phật, tỷ như một giọt
thủy ngân phân tán ra, mỗi hạt đều là hạt tròn.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Không
những chúng sanh là Phật, vật vô hình cũng có Phật tánh
cho nên mới nói “hữu tình, vô tình cùng viên cảnh trí.”
Tâm bao hàm vạn vật, vật vô hình cũng không thể ở ngoài
tâm.
846. Tứ tổ và Pháp Dung.
Tứ
tổ bảo Pháp Dung:
-
Ngươi cứ tùy tâm tự tại, chẳng quán hạnh, chẳng lắng
tâm, chẳng khởi sân si, chẳng buồn lo, bình thường vô ngại,
tùy ý tung hoành, chẳng làm thiện, chẳng làm ác, đi đứng
nằm ngồi xúc mục ngộ duyên,tất cả đều là diệu dụng
của Phật.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Phật
vốn bình thường, chỉ vì người học Phật đi những con
đường không bình thường. Lúc trước Pháp Dung thấy hổ,
lang nhiễu quanh am, chim chóc hiến hoa là bất bình thường.
sau khi được Tứ tổ chỉ điểm rồi mới trở lại sinh hoạt
bình thường, đó mới là triệt ngộ.
847. Tâm, Phật, Đạo.
Giác
hòa thượng nói:
-
Nếu muốn cầu Phật thì tâm là Phật; nếu muốn cầu Đạo
thì vô tâm là Đạo. Vì vô tâm nên phi pháp, vì tức tâm nên
trải qua muôn kiếp vẫn thường kiên cố.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Tâm
là Phật và vô tâm là Đạo dường như mâu thuẫn? Thực ra
cái tâm trên chỉ tâm thanh tịnh, cái tâm dưới chỉ thức
tâm. Khi hiểu vô tâm là Đạo thì gập sự không sinh tâm.
Khi hiểu tâm là Phật thì có thể hồi quang phản chiếu tùy
duyên bất biến, chính như lời Lục tổ “Vô là không một
hạt bụi trong tâm, niệm là niệm chân như.” Vô Túc thiền
sư thì nói: “Không nhớ gọi là giới, không niệm gọi là
không, không vọng gọi là Huệ.” Do đó một tâm chẳng sanh
thì đủ cả Giới, Định, Huệ.
848. Đoạn Kiều Diệu Luân thiền sư.
Đoạn
Kiều Diệu Luân thiền sư đọc bài kệ của Phó đại sĩ
(xem công án 263) bèn làm một bài kệ bình xướng (để phê
bình, khen ngợi, hoặc đưa ra một quan điểm khác) như sau:
狗
走 抖 擻 口
Cẩu
tẩu đẩu tẩu khẩu
猴
愁 摟 摟 頭
Hầu
sầu lâu lâu đầu
瑞
嚴 門 外 水
Đoan
Nghiêm môn ngoại thủy
自
古 向 西 流
Tự
cổ hướng tây lưu
Chó chạy há mõm
Khỉ buồn ôm đầu
Sông ngoài Đoan Tự
Hướng Tây từ lâu.
(Sinh
hoạt Thiền)
Con
chó khi chạy đầu lắc lư, há mõm, thè lưỡi; con khỉ cổ
ngắn, khi buồn so vai rụt cổ, chỉ thấy đầu; con sông ngoài
chùa Đoan Nghiêm từ cổ vẫn chẩy về hướng tây. Tất cả
những sự kiện mô tả trên đều là sự thật không biến
đổi, là chân lý. Ông đồng ý với những gì Phó đại sĩ
kể “Tay không cầm cuốc . . . “Nói cách khác là
mô tả cảnh giới Thiền “tất cả đều không” của triết
lý kinh Kim Cương. Để miêu tả cảnh giới vốn không thể
nói được này chỉ còn cách dùng phương thức mâu thuẫn
như nói lông rùa, sừng thỏ. Nói lông rùa đen là sai, nói
xanh, đỏ tím, vàng cũng sai nốt vì rùa vốn không có lông.
Vì vậy kinh điển thường nói “không thể nói.” Nhưng nếu
không nói thì làm sao giảng Đạo cho chúng sanh? Vì vậy nhà
Thiền thường dùng 3 loại phương pháp:
1/
dùng sự mâu thuẫn
2/
không trả lời vào câu hỏi
3/
dùng thể ngữ.
849. Vẽ bát quái.
Lâm
Tế thường dùng gậy để khai ngộ thiền sinh (xem công án
554) Kinh Sơn Cảo thiền sư làm một bài kệ ca tụng:
五
月 五 日 午 時 書
Ngũ
nguyệt ngũ nhật ngọ thời thư
赤
口 毒 吞 盡 消 除
Xích
khẩu độc thôn tận tiêu trừ
更
饒 急 急 如 律 令
Cánh
nhiêu cấp cấp như luật lịnh
不
須 門 上 畫 蜘 蛛
Bất
tu môn thượng họa tri thù
Muốn
trừ được mọi bịnh
Tết Đoan Ngọ đúng trưa
Nuốt
vào bụng lá bùa
Cấp, cấp như luật lịnh
Từ nay chẳng vẽ nữa
Mạng nhện trên cánh cửa.
(Sinh
hoạt Thiền)
Theo
tục lệ thì 12 giờ trưa tết Đoan Ngọ là giờ rất linh,
vẽ bùa nuốt vào bụng sẽ trừ hết mọi bịnh tật, tai nạn,
phiền não. Cấp cấp như luật lịnh! (mau mau làm theo lịnh):
đây là câu thường nói của các thầy phù thủy khi sai bảo
quỷ thần, sau đó không phải vẽ hình bát quái (giống như
mạng nhện) lên cửa nữa. Bùa ở đây là chỉ phương pháp
dùng gậy của Lâm Tế đả phá tất cả mọi phiền não, chấp
trước. Trong công án số 554 gọi ông tăng vái lạy là Giáp;
ông tăng không vái lạy là Phi Giáp. Theo thường lý nếu Giáp
không đúng thì Phi Giáp phải đúng; nếu Phi Giáp không đúng
thì Giáp phải đúng. Nhưng ở đây Giáp và Phi Giáp đều không
đúng vì đều bị đánh. Đó là dùng phương thức mâu thuẫn
để diễn tả triết lý: tất cả đều không vậy. Nếu tất
cả đều không thì làm gì còn ma quỷ mà phải vẽ bát quái
lên cửa để trừ nữa?
850. Sám hối với ai?
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Giết cha, giết mẹ thì sám hối trước Phật; giết Phật,
giết tổ thì sám hối với ai?
-
Lộ.
(Thiền
ngộ)
Lâm
Tế lấy vô minh là cha, tham ái là mẹ để trả lời. Vì vậy
nửa câu trên là phải bỏ hết phiền não (giết cha) là chấp
trước (giết mẹ). Nửa câu dưới là cũng không chấp thánh
cảnh (giết Phật, giết tổ). Câu trả lời của Vân Môn “Lộ”,
nghĩa là hiển lộ. Đối với ông những gì tai nghe, mắt thấy
đều là Phật tánh hiển lộ.
851. Tống Thái Tông.
Một
hôm, Tống thái tông giơ một cái bát lên hỏi thừa tướng
Vương Tùy:
-
Tại sao ở Đại dữu lãnh Minh thượng tọa giơ lên không
nổi mà nay quả nhân lại giơ lên được?
Vương
Tùy không trả lời được.
(Chích
thủ chi thanh)
Trong
công án này Tống thái tông (hay người đặt ra công án)
đã
coi nhẹ tính cách siêu nhiên của các hiện tượng.
852. Bàn luận về Phật pháp.
Nam
Tuyền bảo đại chúng:
-
Canh ba tối qua Văn Thù và Phổ Hiền bàn luận về Phật pháp;
ta đánh họ 30 gậy và đuổi đi Nhị Thiết Vi Sơn.
Triệu
Châu bước ra khỏi chúng thưa:
-
Ai ăn gậy của hòa thượng?
-
Vương lão sư (Nam Tuyền tự xưng) sai chỗ nào?
Triệu
Châu vái lạy.
(Chích
thủ chi thanh)
Nam
Tuyền ám chỉ bàn luận về Phật pháp là thừa. Triệu Châu
ám chỉ Nam Tuyền cũng phải ăn gậy vì bàn về sự thừa
của sự bàn luận cũng là thừa. Cũng còn một ý nữa là
nếu dùng gậy có thể giải quyết được mọi vấn đề thì
chúng con chẳng nên đánh cho hòa thượng vài gậy sao?
853. Buồm cũ chưa treo.
Một
ông tăng hỏi Nham Đầu:
-
Khi buồm cũ chưa treo thì sao?
-
Cá nhỏ nuốt cá lớn.
-
Treo rồi thì sao?
-
Con lừa ăn cỏ ở sân sau.
Hư
Đường hỏi Nam Phố:
-
Buồm cũ chưa treo thì sao?
-
Núi Tu Di trong mắt côn trùng.
-
Treo rồi thì sao?
-
Hoàng Hà chảy về hướng Bắc.
(Chích
thủ chi thanh)
Buồm
cũ chưa treo chỉ chưa ngộ; treo rồi chỉ đã ngộ. Đối thoại
lập lại 2 lần nhưng ý nghĩa không khác. Khi cố gắng cầu
“ngộ” thì “ngộ” được coi như cái gì siêu phàm, nhưng
khi ngộ rồi thì thấy vạn vật vẫn chỉ bình thường.
854. Pháp Vân thị chúng.
Hòa
thượng Pháp Vân bảo đại chúng:
-
Vào năm Hy Ninh thứ 2 lão tăng coi việc sổ sách ở phủ
Phụng
Tường. Năm đó núi Hoa Sơn bị xụp, nhà cửa trong vòng 80
dặm đều bị vùi lấp. Bọn hậu bối các ngươi làm sao biết
được việc này.
(Chích
thủ chi thanh)
Ở
đây chúng ta chỉ nên xét giá trị bề mặt của công án,
thiền sư chỉ là một vị thầy theo đúng nghĩa của chữ
thầy; nhưng nếu chúng ta coi nhẹ công án này thì có lẽ chúng
ta đã quá giác ngộ.
855. Hoàng Long Hối Cơ.
Hoàng
Long Hối Cơ hỏi Nham Đầu:
-
Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Ngươi có biết làm sao rửa tay nhớp không?
-
Dạ biết!
-
Vậy đi rửa đi!
Hoàng
Long nghĩ toát mồ hôi cũng chẳng hiểu gì; sau lại gập Huyền
Tuyền và đặt cùng câu hỏi. Huyền Tuyền giơ trùy đập
quần áo lên; Hoàng Long vẫn không hiểu. Huyền Tuyền lại
giơ trùy lên một lần nữa. Hoàng Long liền ngộ.
(Nhất
vị thiền, quyển Nguyệt)
Đi
rửa tay, giơ trùy đập quần áo lên đều chỉ phải trừ
bỏ những dính dấp, bụi bậm trói buộc. Mục đích của
Thiền là chỉ cho người tu biết tự mình có trí tuệ Bát
Nhã. Nếu đem câu đáp mà bảo cho thì dù người tu có tham
cứu đến năm lừa cũng không khai ngộ được (Trong 12 con
giáp không có con lừa, ý nói chẳng bao giờ ngộ).
856. Cối xay tám góc bay trong không.
Ở
Nhật Bản vào cuối thời Liêm Thương, Lâm Tế tông phát triển
rất mạnh, lấn áp vào địa bàn của cựu Phật giáo. Cựu
Phật giáo thấy cơ nguy bèn thượng tố lên Hậu Đề Hồ
Đế. Kết quả quyết định một cuộc pháp chiến ở điện
Thanh Lương. Đại biểu cho cựu Phật giáo là Huyền Huệ,
Hư Thánh; đại biểu cho tông Lâm tế là Đại Quang quốc sư
và đồ đệ là Tông Phong. Vì Đại Quang bị cảm nên chỉ
có một mình Tông Phong tham gia Pháp chiến.
Huệ
Huyền hỏi:
-
Thế nào là ngoài giáo truyền riêng?
Tông
Phong đáp:
-
Cối xay tám góc bay trong không.
Huệ
Huyền không hiểu hàm ý của câu nói chịu thua, thối lui.
Sau
đó liên tục 7 ngày đêm tranh luận, cuối cùng Thiền tông
đạt được thắng lợi.
(Thiền
ngộ)
Đối
với người ngày nay, cối xay 8 góc bay trong không cũng như
hỏa tiễn bắn lên mặt trăng, chẳng có gì là ly kỳ. Nhưng
ở thời xưa đây là một chuyện không thể nghĩ bàn. Những
chuyện siêu việt thường lý đều do tự giác căn nguyên của
nhất tâm rồi liền sản sinh công năng diệu dụng vô cùng
của tâm.
857. Hoằng Nhất.
Có
một lần, Hoằng Nhất pháp sư hướng về vị trụ trì thô
lỗ, ngạo mạn của một chùa quê, hành lễ ngũ thể đầu
địa, một nghi thức dùng lễ Phật, Bồ tát. Ông lạy
rất cung kính, hoan hỉ. Người tùy tùng rất ngạc nhiên và
bất mãn, hỏi ông lý do, ông trả lời:
-
Ta lạy Phật tánh của ông ta.
(Nhất
vị Thiền , quyển Hoa)
Tất
cả mọi sự vật đều là Phật tánh hiển lộ, huống hồ
là ông tăng nhà quê đó.
858. Viễn Bá.
Viễn
Bá có nhiều đệ tử, chúng tăng từ xa đến tham phỏng cũng
đông. Một hôm ông dẫn một thiếu nữ về phòng, đóng cửa
lại , rất lâu mà không thấy ra. Đệ tử bàn cãi xôn xao,
sư phụ dẫn gái vào phòng thật đáng nghi, lại sợ tín chúng
biết được đồn đãi khắp nơi. Một đệ tử nhịn không
được chạy đến phòng sư phụ, nhìn qua cửa sổ thấy thiếu
nữ lộ bán thân, lưng trần nõn nà, tóc huyền xõa ngang vai,
sư phụ đang xoa lưng nàng. Người đệ tử nổi giận, đạp
cửa xông vào hét lớn:
-
Sư phụ, sao dám làm chuyện này?
Thiếu
nữ bị tiếng hét thất kinh ngoảnh mặt lại nhìn. Người
đệ tử đứng xững, nói không ra lời. Thì ra thiếu nữ bị
cùi, mặt mũi không còn nhân dạng, sư phụ đang thoa thuốc
cho nàng.
-
Chuyện này ngươi làm lại càng tốt.
Vừa
nói thiền sư vừa đưa lọ thuốc cho đồ đệ. người đệ
tử hổ thẹn, hối hận quỳ ngay xuống tạ tội.
(Nhất
vị Thiền, quyển Hoa)
Chính
mắt nhìn thấy cũng chưa chắc đã là sự thật.
859. Xem kinh.
Triệu
Châu hỏi một ông tăng:
-
Một ngày xà lê xem bao nhiêu kinh?
-
Bẩy, tám hoặc mười quyển.
-
Xà lê chẳng biết xem kinh.
-
Hòa thượng một ngày xem bao nhiêu kinh?
-
Lão tăng một ngày chỉ xem một chữ.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Xem
kinh không phải là xem nội dung văn tự, đuổi theo mặt chữ;
xem kinh là xem đại ý Phật pháp. Do đó xem một chữ là đủ
vậy.
860. Người trong nhà.
Già
Da Xá Đa tôn giả (tổ 18 Thiền tông Ấn Độ) muốn vào phòng
Cưu Ma Đa La (tổ 19 Thiền tông Ấn Độ). Đa La đóng cửa
lại, Xá Đa đứng đợi rất lâu mà cửa không mở, bèn gõ
cửa. Đa La trả lời:
-
Trong nhà không có người.
-
Người nói: trong nhà không có người, là ai?
Đa
La bèn mở cửa.
(Nhất
vị Thiền, quyển Nguyệt)
Trong
nhà không có người chỉ là lời nói thác. nếu là người
thường thì sẽ hỏi “Nếu ngươi không phải là người thì
là giống gì?” Xá Đa chỉ dùng một câu hỏi đủ khiến
Đa La phải đi ra. Trong Thiền tông “người trong nhà” có
ý nghĩa thâm sâu như câu nói của Đại Huệ “Thiền không
ở chỗ tĩnh, không ở chỗ động, không ở chỗ phân biệt,
không ở chỗ ứng duyên hàng ngày. Tuy nhiên như vậy nhưng
không được xả bỏ chỗ tĩnh, chỗ động, chỗ phân biệt,
chỗ ứng duyên hàng ngày, bỗng nhiên mở mắt tất cả đều
là việc trong nhà.” Đối với người giác ngộ, trong nhà
ngoài nhà đều là cảnh tốt, vì trong ngoài đều là một.
861. U Thê.
Chư
tăng xây thọ tháp cho sư xong, sư dẫn chúng đến xem tháp,
vào tháp ngồi và nói:
-
Một tháp không phiền hai chủ.
Rồi
cáo tịch.
Chúng
tăng gọi:
-
Hòa thượng trụ thế nhiều năm, không thể ra đi tùy tiện
như thế!
Sư
bèn theo chúng trở lại. Chủ sự bèn biện trai; sư lại thượng
đường bảo chúng:
-
Không được gọi là có, cũng không được gọi là không;
không biết gọi là gì?
Có
ông tăng bước ra thưa:
-
Nghe nói hòa thượng có câu: Không được gọi là có, cũng
không được gọi là không, không biết hòa thượng gọi là
gì?
Sư
trân trọng cáo tịch.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Pháp
sinh diệt không thể nói là có, cũng không thể nói là không.
Sư khi lâm chung đề ra vấn đề này hy vọng tăng chúng thể
ngộ sự siêu việt sinh diệt. Chư tăng không ngộ, sư chỉ
còn cách trân trọng cáo tịch; do đó tất cả thị phi đều
im bặt.
862. Trúc biếc hoa vàng.
Hoa
Nghiêm tọa chủ hỏi Đại Châu:
-
Thiền sư vì sao không chấp nhận “Xanh xanh tạp trúc đều
là pháp thân, xum xuê hoa vàng thẩy đều bát nhã”?
-
Pháp thân không tượng, đáp lại tạp trúc mà thành hình.
Bát nhã vô tri đối hoa vàng mà hiển tướng. Không phải vì
có hoa vàng tạp trúc mà có bát nhã, pháp thân; cho nên kinh
nói “Pháp thân Phật như hư không, ứng vật hiện hình như
trăng trong nước. Hoa vàng nếu là bát nhã thì bát nhã cũng
như vô tình. Nếu tạp trúc là pháp thân thì tạp trúc có
thể ứng dụng, tọa chủ hiểu không?
-
Không hiểu ý này.
-
Đối với người kiến tánh nói được, không được đều
được, tùy dụng mà nói. Đối với người chưa kiến tánh
nói tạp trúc liền chấp tạp trúc; nói hoa vàng liền chấp
hoa vàng.; nói pháp thân liền chấp pháp thân, nói bát nhã
mà không biết bát nhã. Do đó, khởi nên tranh biện.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Pháp
thân và bát nhã đều ở khắp nơi. Huệ Trung (trong công án
866) đứng trên lập trường tự tánh (Thể); Đại Châu đứng
trên lập trường thể tướng (Dụng). Nói về Thể thì mọi
pháp đều thuộc Tánh tông, nói về Dụng thì mọi pháp đều
thuộc Tướng tông; quan sát dưới góc độ khác nhưng tánh
siêu việt chỉ là một. Do đó Diệu Hỷ nói “Một người
được Thể, một người được Dụng. người được Dụng
kiến lập trên sự, người được Thể đứng trên lý mà
tảo trừ, không thọ một hạt bụi.” Thiền sư tùy nghi nói
pháp, không chấp thị phi không quản nói tánh, nói tướng,
tùy cơ ứng biến.
863. Phổ Ân.
Phù
Phong Phổ Ân thượng tọa có bài kệ:
返
本 還 源 便 到 家
Phản
bản hoàn nguyên tiện đáo gia
亦
無 玄 妙 可 稱 誇
Diệc
vô huyền diệu khả xưng khoa
湛
然 一 片 眞 如 性
Trạm
nhiên nhất phiến chân như tánh
迷
失 皆 因 一 念 差
Mê
thất giai nhân nhất niệm sai.
Thấy được tánh là về nguồn cội
Lại không huyền diệu để khoe khoang
Rõ ràng một phiến chân như ấy
Một niệm sai thôi đủ lạc đường.
Sư tham Thiên Ninh trình sở kiến, Thiên Ninh chấp nhận; lại đến
tham Vạn Tùng. Tùng hỏi:
-
Từ đâu tới?
-
Thiên Ninh.
-
Thiên Ninh có lời gì?
Phổ
Ân thuật lại, Tùng bảo:
-
Không phải! Không phải!
-
Thiên Ninh bảo phải sao hòa thượng lại bảo không phải?
-
Thiên Ninh phải còn ta không phải.
Phù
Ân nghi ngờ không quyết; sau tham Ngọc Chi Tụ thiền sư, kể
lại chuyện trên. Tụ bảo:
-
Phải, không phải chưa ra khỏi thường tình, cả hai đều
phải ăn gậy.
-
Thế nào là ra khỏi thường tình?
Tụ
giơ một tay lên. Sư ngay đó giác ngộ. Tụ nói:
-
Ngươi đã như vậy, hãy khá hộ trì!
Lại
đọc cho bài kệ:
莫
學 支 流 辦 濁 清
Mạc
học chi lưu biện trọc thanh
是
非 盡 處 出 常 情
Thị
phi tận xứ xuất thường tình
鐵
鞭 擊 碎 珊 瑚 月
Thiết
tiên kích toái san hô nguyệt
會
看 東 山 水 上 行
Hội
khán Đông Sơn thủy thượng hành.
Chớ lấy nước sông mà phân trong đục
Phải ra khỏi thường tình mọi thị phi
Trăng san hô bị roi sắt đập thì
Mới thấy ngọn Đông Sơn đi trên nước.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Công
án này thuyết minh tự tánh siêu việt quan niệm thị phi. Câu
cuối của bài kệ nếu cứ theo thường lý thì không thể
giải thích được.
864. Trúc biếc hoa vàng.
Một
ông tăng hỏi Huệ Trung quốc sư:
-
Cổ đức nói:
青
青 雜 竹
Thanh
thanh tạp trúc
盡
是 法 身
Tận
thị pháp thân
鬱
鬱 黄 花
Uất
uất hoàng hoa
無
非 般 若
Vô
phi bát nhã
“Xanh xanh tạp trúc đều là pháp thân
Xum xuê hoa vàng thẩy đều bát nhã.”
Người
không tin cho là tà thuyết; người tin cho là không thể nghĩ
bàn. Không biết ý kiến của sư phụ thế nào?
-
Đây là cảnh giới của Phổ Hiền và Văn Thù, không phải
cảnh giới mà phàm phu và tiểu thừa tin nhận được.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Lý
này hợp với kinh điển đại thừa như kinh Hoa Nghiêm nói:
“Pháp thân tràn đầy pháp giới, phổ hiện ở ngay trước
mặt chúng sanh.” Tạp trúc không ra khỏi pháp giới sao lại
không phải là Pháp thân? Kinh Bát Nhã nói:“Sắc vô biên,
bát nhã cũng vô biên. Hoa vàng đã không ra ngoài sắc vậy
sao lại không là bát nhã? Lời nói cao xa, nếu không tĩnh thì
không nắm được ý. Pháp thân là thể của tự tánh; bát
nhã là giác tánh của tự tánh. Thể đã phổ hiện quần sinh,
thì giác tánh cũng phổ biến pháp giới. Do đó không ở chỗ
nào mà không là một thể, làm sao còn phân biệt chủ khách?
865. Ngọc trong áo rách.
Có
một lần tướng quốc Bùi Hưu đến chùa Đại An, hỏi chư
tăng:
-
Mười đại đệ tử của Đức Phật, người nào cũng đứng
đầu một môn, xin hỏi La Hầu La đứng đầu môn nào?
Chư
tăng nhận rằng câu hỏi quá dễ nên đồng thanh đáp:
-
Mật hạnh đệ nhất.
Bùi
Hưu không hài lòng về câu đáp, liền hỏi:
-
Nơi đây có thiền sư không?
May
sao lúc đó Long Nha đang trồng rau ở sau vườn, chư tăng mời
ông ra. Bùi Hưu lập lại câu hỏi. Long Nha không do dự trả
lời ngay:
-
Không biết.
Bùi
Hưu nghe rồi vui mừng lạy tạ và tán thán rằng:
-
Thật đúng là ngọc quý trong áo rách!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Chúng
ta đều biết La Hầu La là mật hạnh đệ nhất. Đã là mật
hạnh thì không thể nói ra. Do đó, Bùi Hưu nhận rằng câu
đáp của Long Nha mới là đúng.
866. Chân, giả.
Đạo
Quang hỏi Đại Châu:
-
Thiền sư bình thường dụng công là dùng tâm nào để tu Đạo?
-
Lão tăng không có tâm nào để dùng, Đạo nào để tu.
-
Vậy sao mỗi ngày đều họp chúng, khuyên người tham thiền,
tu Đạo?
-
Lão tăng trên không mái ngói, dưới không đất cắm dùi, làm
gì có chỗ nào để tụ chúng.
-
Sự thực thì thiền sư hàng ngày họp chúng luận Đạo, chẳng
lẽ không phải là thuyết pháp, độ chúng sao?
-
Xin đừng đổ oan cho ta, một lời ta cũng không biết nói,
làm sao luận Đạo? Cũng không hề gập một người làm sao
độ chúng?
-
Vậy là thiền sư vọng ngữ rồi!
-
Lão tăng ngay cả lưỡi cũng không có làm sao vọng ngữ?
-
Chẳng lẽ khí thế gian, hữu tình thế gian, sự tồn tại
của thiền sư và đệ tử, tham thiền, thuyết pháp đều là
giả cả sao?
-
Đều là thật.
-
Nếu là thật thì tại sao thiền sư lại phủ nhận.
-
Giả cũng phủ nhận, thật cũng phủ nhận.
Đại
Quang đại ngộ ngay lời nói đó.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Nhận
thức chân lý có khi dùng khẳng định, có khi dùng phủ định.
Tâm kinh nói: “Sắc tức là không, không tức là sắc, thọ,
tưởng, hành, thức đều như vậy.” Đó là dùng khẵng định
để nhận thức thế gian và con người. Kinh cũng nói: “Không
mắt, tai, lưỡi, thân, ý, không sắc, thanh, hương, vị, xúc”
đó là dùng phủ định để nhận thức thế gian và con người.
Lời của Đại Châu không phải là vọng ngữ vì phủ định
tất cả cũng là khẳng định tất cả.
867. Bảo Phúc.
Thời
Hậu Đường, Bảo Phúc sắp thị tịch bảo đại chúng:
-
Gần đây khí lực ta chẳng liên tục, đại khái thế duyên
gần đứt rồi.
Chúng
đệ tử nghe vậy nhao nhao thưa:
-
Sư phụ pháp thể hãy còn mạnh lắm!
-
Đệ tử chúng con còn cần thầy chỉ Đạo.
-
Yêu cầu sư phụ thường trú thế gian vì chúng sanh thuyết
pháp.
Đại
chúng nghị luận bất nhất, có một đệ tử hỏi:
-
Thời hạn đến, sư phụ đi tốt hay ở lại tốt?
-
Ngươi nghĩ làm sao mới tốt?
-
Sinh cũng tốt, tử cũng tốt; tất cả đều tùy duyên.
Bảo
Phúc cười ha hả nói:
-
Không ngờ điều ta định nói đã bị ngươi nghe trộm rồi.
Nói
xong kết phu già thị tịch.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
đời coi sinh là vui, tử là buồn; nhưng dưới mắt người
ngộ đạo thì sinh cũng chẳng vui, tử cũng chẳng buồn. Sinh
và tử là một thể, hai mặt. Sinh tử tuần hoàn là luật
tự nhiên. Không thiếu gì thiền sư nói sinh tử đối với
họ vô can như Tông Diễn nói: “Sinh tử của con người ví
như bọt nước sinh diệt đều trở về nước.”
868. Đi ra.
Hoàng
Long Huệ Nam hỏi một ông tăng đứng bên:
-
Trăm ngàn tam muội, vô lượng pháp môn, tóm lại thành một
câu rồi bảo cho ngươi, ngươi có tin không?
-
Lời sư phụ chân thành sao con lại không tin.
Hoàng
Long chỉ về phía trái bảo:
-
Ngươi đi sang bên này.
Ông
tăng đi sang phía trái, Hoàng Long mắng:
-
Theo tiếng rượt sắc, biết bao giờ mới xong, đi ra!
Một
ông tăng khác biết được chuyện liền chạy vào.Hoàng Long
cũng dùng câu hỏi trước hỏi ông, ông tăng này đáp:
-
Sao dám không tin.
Hoàng
Long chỉ tay về phía phải nói:
-
Đi sang bên này.
Ông
tăng vẫn đứng yên. Hoàng Long mắng:
-
Ngươi đến thân cận ta mà không nghe lời ta, đi ra!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đối
với người chưa ngộ thì bên này không đúng, bên kia cũng
không đúng; nhưng đối với người ngộ đạo thì sơn hà
đại địa đều là Phật pháp. Bảo đi sang bên này, bên này
không đúng. Bảo đi sang bên kia, bên kia cũng sai. Bên
này, bên kia đều phải đi ra vì học tăng chưa khế tâm. Giả
như học tăng đi sang trái rồi đi sang phải, sau đó đứng
yên ở chỗ cũ không biết Hoàng Long còn có cao chiêu gì nữa?
869. Không có một pháp nào để được.
Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch hỏi Song Phong:
-
Sư đệ, gần đây ngươi có kiến địa gì?
-
Như chỗ đệ biết thì không có một pháp nào để được.
-
Vậy là ngươi còn ở trần cảnh.
-
Vì sao?
-
Ngươi nói không một pháp có thể được là còn một pháp
có thể được.
-
Đệ chỉ làm được thế, căn chẳng theo trần, tâm chẳng
ở cảnh, sư huynh thấy thế nào?
-
Sao sư đệ không truy cứu không một pháp có thể được?
Lão
sư Quy Sơn đứng bên nghe lời nói đó vui mừng khen:
-
Huệ Tịch, câu nói này của ngươi có thể nghi hoặc người
thiên hạ.
Song
Phong không hiểu nếu đã không một pháp để được làm sao
còn truy cứu. Quy Sơn biết tâm ý Song Phong bèn bảo:
-
Ngươi chính là người thiên hạ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Sự
tu hành của thiền giả là tu hành pháp môn không tu, là chứng
quả vị không chứng, bởi vì không tu là chân tu, không chứng
là thật chứng.
870. Phiền não của Phật.
Một
tín đồ hỏi Triệu Châu:
-
Phật có phiền não không?
-
Có.
-
Làm sao hiểu được đây? Phật là người đã giải thoát
làm sao còn có phiền não?
-
Là vì người còn chưa được độ.
-
Giả như con tu hành được độ, Phật có phiền não không?
-
Có.
-
Con đã được độ rồi sao Phật còn phiền não?
-
Vì còn tất cả chúng sanh.
-
Đương nhiên không thể độ được tất cả chúng sanh vậy
Phật vĩnh viễn ở trong phiền não không thể siêu việt?
-
Đã siêu việt, thì không phiền não.
-
Chúng sanh không được độ hết vì sao Phật lại không phiền
não?
-
Vì tự tánh của chúng sanh đã độ hết.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phiền
não của phàm phu là do vô minh vọng tưởng sinh ra; phiền não
của Phật là do tâm từ bi mà ra, từ bát nhã mà nói thì Phật
không phiền não.
871.
Tâm và tánh.
Một
ông tăng đến tham học Nam Dương Huệ Trung quốc sư, hỏi:
-
Thiền là biệt danh của tâm. Tâm ở Phật không tăng, ở phàm
không giảm, chân như thiệt tánh. Chư tổ Thiền tông gọi
tâm này là tánh. Xin hỏi tâm và tánh sai biệt thế nào?
-
Khi mê thì có sai biệt, ngộ rồi thì không sai biệt.
-
Kinh nói Phật tánh thường còn, tâm thì vô thường sao thầy
nói không sai biệt?
-
Ngươi chỉ theo lời mà không theo ý. Nước khi lạnh đóng
thành băng, khi nóng băng chẩy thành nước. Mê thì kết tánh
thành tâm, ngộ thì tâm tan thành tánh.
Học
tăng cuối cùng đã hiểu.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Trong
Phật giáo tâm tánh có rất nhiều tên như: bản lai diện mục,
như lai tạng, pháp thân, thật tướng, tự tánh, chân như,
bản thể, chân tâm, bát nhã, thiền. . . mê ngộ tuy có sai
biệt, bản tánh thì không khác như dùng vàng chế các đồ
trang sức: bông tai, nhẫn, vòng . . . Các đồ trang sức tuy
khác nhau nhưng đều cùng là vàng. Tâm và tánh danh tuy khác
nhưng đều là bản thể của chúng ta.
872. Không phải lời ngươi nói.
Văn
Yển mới đầu đến tham Tuyết Phong, đến Tuyết Phong trang
gập
một học tăng liền hỏi:
-
Hôm nay ông định lên núi có phải không?
-
Phải.
-
Nhờ ông chuyển giùm một câu cho Tuyết Phong nhưng đừng bảo
là ta nói.
-
Được.
Ông
lên núi, khi phương trượng thượng đường, đại chúng tập
họp, ông bước ra nắm lấy tay phương trượng nói: “Lão
đầu tử, cổ mang gông sắt sao không cổi ra?”
Ông
tăng làm đúng như lời dặn của Văn Yển. Tuyết Phong nghe
rồi nắm ngực ông tăng bảo:
-
Đây không phải lời ngươi nói.
-
Là của con.
Tuyết
Phong hét lớn:
-
Thị giả! Mang dây thừng và gậy ra đây.
Ông
tăng hoảng sợ vội nói lại:
-
Không phải lời của con mà là của Văn Yển từ Triết Giang
tới bảo con nói thế.
Tuyết
Phong bảo đại chúng:
-
Các ngươi mau nghênh tiếp vị đại sư của 500 chúng.
Hôm
sau Văn Yển đến gập Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
-
Ông sao được cảnh giới này?
Văn
Yển cúi đầu. Từ đó thầy trò tâm tâm khế hợp. Văn Yển
lưu lại nơi Tuyết Phong và được Tuyết Phong truyền cho thiền
pháp.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Trong
thiền giới, chân không thể giả, giả không thể chân. Ngộ
đạo cân lượng bao nhiêu người sáng mắt nhìn là biết ngay.
873. Chữ suôi ngược.
Một
chú sa di tâm đầy nghi vấn, hỏi Vô Danh:
-
Thiền sư, thầy nói người học Phật phải phát tâm phổ
độ chúng sanh nay nếu có người ác mất hết cả nhân tính,
thì có độ hắn không?
Thiền
sư không trả lời ngay mà cầm bút viết một chữ “ngã”
ngược trên giấy rồi hỏi:
-
Đây là gì?
-
Đó là một chữ viết ngược.
-
Chữ gì?
-
Chữ ngã.
-
“Ngã” viết ngược có phải là chữ không?
-
Không phải.
-
Nếu không phải sao ngươi nói là chữ “ngã”?
-
Phải.
-
Nếu là phải sao ngươi nói là ngược?
Tiểu
sa di không biết đáp làm sao.
-
Viết suôi là chữ, viết ngược cũng là chữ. Ngươi nói đó
là chữ “ngã”, lại nhận biết là viết ngược. Chủ yếu
là ngươi nhận được chữ “ngã.” Trái lại, nếu ngươi
không biết chữ thì ta có viết ngược ngươi cũng không biết.
Cũng như vậy, người tốt là người, người xấu cũng là
người; tối trọng yếu là ngươi nên biết bản tánh của
người. Khi gập người ác ngươi có thể nhìn thấy thiện
ác của hắn, liền gọi bản tánh hắn ra. Bản tánh đã sáng
thì độ không khó.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
thiện nên độ, người ác lại càng nên độ. Đất bùn càng
bẩn thì càng dễ cho hoa sen thanh tịnh; buông dao đồ tể lập
tức thành Phật. Cái gọi là thiện ác, suôi ngược chỉ trong
một niệm. Thiện, ác là pháp, pháp không thiện ác. Từ bản
tánh mà nhìn thì không có người nào là không độ được.
874. Địa ngục và thiên đường II.
Một
tín đồ hỏi Vô Đức:
-
Thiền sư, con học thiền nhiều năm nhưng vẫn không khai ngộ,
đối với các kinh điển nói địa ngục, thiên đường rất
hoài nghi, ngoài thế gian ra còn chỗ nào là địa ngục, thiên
đường nữa?
Vô
Đức không trả lời ngay chỉ bảo tín đồ ra bờ sông múc
một thùng nước về. Khi tín đồ mang thùng nước đến trước
mặt Vô Đức. Vô Đức bảo:
-
Ngươi hãy nhìn kỹ mặt nước, có thể phát giác được địa
ngục và thiên đường.
Tín
đồ lấy làm kỳ quái, tập trung tinh thần xem mặt nước.
xem một lúc chẳng thấy gì. Vô Đức đột nhiên dìm đầu
ông xuống nước. Ông khổ sở vùng vẫy tưởng chừng sắp
hết hơi, thiền sư liền buông tay ra. Tín đồ vừa thở dốc
vừa mắng chửi:
-
Thầy thiệt thô lỗ, dìm đầu con xuống nước, thầy có biết
là con
khổ
sở như đang ở địa ngục không?
-
Hiện tại ngươi thấy thế nào?
-
Bây giờ có thể hít thở tự do, con thấy sướng như ở thiên
đường.
-
Chỉ một tý công phu thiên đường, địa ngục ngươi đều
đi qua, sao ngươi còn chưa tin có địa ngục, thiên đường.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
chưa đi Âu Châu, không tin có Âu Châu. Đó là vô tri. Nhưng
không thể vì vô tri mà phủ nhận sự tồn tại của Âu Châu.
Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Người thông minh không cần
thấy nghe nhưng có thể cảm thọ.
875. Im lặng không lời.
Khi
Hoàng Long trú tại Tĩnh Giới Tự, có một lần cùng Động
Sơn Viên thiền sư tương kiến. Hoàng Long im lặng, hai người
đốt hương ngồi đối mặt từ quá ngọ cho tới thâu đêm.
Động Sơn Viên thiền sư đứng dậy nói:
-
Đêm khuya rồi, làm phiền thầy nghỉ ngơi.
Nói
rồi đi.
Hôm
sau, Hoàng Long hỏi thủ tòa:
-
Khi ông ở Lư Sơn có biết Động Sơn Viên trưởng lão không?
-
Không biết chỉ nghe danh.
Ngừng
một lát thủ tòa hỏi:
-
Lão sư lần này gập mặt thấy trưởng lão thế nào?
-
Kỳ nhân.
Thủ
tòa thối lui hỏi thị giả:
-
Khi lão sư và ông gập Động Sơn hai người bàn chuyện gì
trong đêm?
Thị
giả thuật lại hai người ngồi đối mặt không nói gì cả.
Thủ tòa hít một hơi dài rồi kêu lớn:
-
Thật là nghi giết người thiên hạ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Giữa
người với người, dùng lời nói để trao đổi ý kiến.
Có nhiều khi càng nói càng hỗn loạn. Thiền bất lập văn
tự, thiền sư truyền đạo có lúc nhăn mày, chớp mắt, có
khi dùng gậy hét, đánh, cười, mắng đều là dạy trực tiếp
như Hoàng Long và Động sơn, hai người tuy không nói nhưng
tâm tâm tương ứng, lão thủ tòa hà tất đa nghi, chẳng qua do đa nghi mới vào được thiền.
876. Ngươi hãy bảo trọng.
Linh
Huấn tham học ở Lư Sơn với Quy Tông.Một hôm động niệm
muốn xuống núi bèn cáo từ Quy Tông. Quy Tông hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Về Lãnh Trung.
Quy
Tông từ bi quan tâm:
-
Ngươi tham học ở đây 13 năm, hôm nay muốn đi; ta nên vì
ngươi mà chỉ thị một chút tâm yếu của Phật pháp, ngươi
thu xếp hành lý xong hãy đến gập ta.
Linh
Huấn sửa soạn hành lý xong để ở ngoài cửa, vào gập Quy
Tông. Quy Tông gọi:
-
Hãy đến trước mặt ta.
Linh
Huấn bước lại gần. Quy Tông nhỏ nhẹ:
-
Trời lạnh lắm, ngươi đi đường phải tự bảo trọng.
Linh
Huấn ngay câu nói đó hốt nhiên triệt ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Tâm
yếu Phật pháp của Quy Tông là gì? Là từ bi tâm, bồ đề
tâm, bát nhã tâm. Nói tóm lại một lời là thiền tâm. Tu
học Phật pháp chưa thành mà đã bỏ cuộc là không chịu
trách nhiệm đối với chính mình. “Trời lạnh lắm” là
một câu quan tâm; “Ngươi hãy tự bảo trọng” là lời khích
lệ. Mọi người đều quan tâm đến mình, sao ngươi không
tự quan tâm? Linh Huấn cuối cùng đã về nhà nhận thức chính
mình. Thiền có khi nói hết thiên kinh vạn luận mà chưa tới
bờ bến; có lúc chỉ sơ sài một câu, một động tác mà
vào đến tận xương tủy của bản lai diện mục. Lòng từ
bi, quan tâm của Quy Tông cũng là do 13 năm tu học và quán chiếu
của Linh Huấn. Linh Huấn triệt ngộ là do cơ duyên đã chín
mùi. Cơm chưa chín đừng mở vung, trứng chưa thành đừng
mổ. Thật không phải là chuyện hư giả.
877. Nước mắt thiền sư.
Một
lần, Không Dã đi hoằng pháp qua một con đường núi. Bỗng
nhiên có nhiều thổ phỉ xuất hiện, giơ dao đòi tiền mãi
lộ. Không Dã nhìn thấy bỗng nhiên rơi lệ. Bọn thổ phỉ
thấy Không Dã khóc thì cười ha hả:
-
Lão xuất gia này mật nhỏ!
Không
Dã nói:
-
Đừng tưởng ta sợ các ngươi mà rơi lệ. Sinh tử ta sớm
đã gác qua một bên rồi. Ta chỉ nghĩ các ngươi là những
người tuổi trẻ, khỏe mạnh không làm việc gì ích lợi
cho xã hội mà lại tụ tập ở đây để ăn cướp. Dĩ nhiên
pháp luật và đạo đức xã hội đã không dung tha các ngươi,
tương lai các ngươi còn bị sa địa ngục chịu khổ tam đồ.
Vì thương các ngươi cho nên ta mới rơi lệ.
Bọn
cướp nghe lời, cuối cùng xả bỏ lòng tham dục, sân hận
quy y với Không Dã.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Có
nước mắt bi thương, hoan hỉ, cảm động, cũng có nước
mắt từ bi. Nước mắt của Không Dã là nước mắt từ bi,
là do tâm từ bi chẩy ra. Bọn cường đạo đã bị những
giọt nước mắt từ bi của Không Dã dập tắt lòng sân hận,
tà niệm. Người có thiền tâm lấy lòng từ bi, nước mắt
từ bi mà rửa sạch tội nghiệp thế gian.
878. Vả vào mồm.
Có
ông tăng gõ cửa. Trần Tôn Túc hỏi:
-
Làm gì đó?
-
Việc lớn chưa rõ, cần thầy chỉ thị.
-
Nơi đây chỉ có gậy.
Sư
vừa mở cửa, ông tăng định mở miệng hỏi, sư liền vả
vào mồm.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
“Sự
lớn chưa rõ” là chỉ ông tăng tự mình triệt để quán
chiếu mà chưa thấy bản lai diện mục, do đó cần thầy chỉ
điểm. Tự tánh là phải tự mình thể nghiệm, không ai có
thể thay thế cho mình. Cái mà ông thầy có thể giúp được
là bảo cho đồ đệ đem tất cả những gì kinh nghiệm, tri
thức, quan niệm trong quá khứ trừ bỏ đi, ngay cả hy vọng
được vào thiền cảnh cũng bỏ luôn thì mới có thể tương
ưng được với tự tánh. Khi ông tăng chưa kịp mở miệng,
Trần Tôn Túc đã cho ông một vả mạnh. Trong sát na kinh ngạc
ấy có thể ông tăng đã bỏ được tất cả vọng tưởng
mà tiến vào ngộ cảnh. Hoặc ít ra cũng giúp ông tăng không
nói ra những vọng niệm. Công án này không ghi lại phản ứng
của ông tăng cho nên chúng ta không biết được kết quả
của cái vả miệng đó thế nào!
879. Đốn tiệm.
Có
ông tăng hỏi Ngưỡng Sơn Tây Tháp:
-
Thế nào là đốn?
Sư
vẽ vòng tròn chỉ thị.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Đốn
giáo là Đạo pháp chỉ thẳng khiến cho người thượng căn
trí đốn ngộ Phật quả. Vì vậy đốn giáo không dùng ngôn
ngữ giải thích, chỉ có thể tự chứng. Nếu dùng ngôn ngữ
thuyết minh sẽ rơi vào tiệm giáo. Trong công án trên nếu
ông tăng suy nghĩ về vòng tròn thì không thể nào tìm ra lời
đáp vì một niệm động tức càng xa lìa Đạo. Ngược lại,
nếu ông tăng bỏ hết vọng tưởng, ngay cả tâm tìm lời
đáp cũng vất bỏ thì mới vượt được thế giới nhị nguyên
phân biệt của hiện tượng giới, vào thẳng thế giới tuyệt
đối bình đẳng của cảnh giới giác ngộ tương ưng cùng
với kinh ngiệm nội chứng của lão sư. Lúc đó đáp án sẽ
trình hiện: đốn chính là tự tánh tròn đầy vô ngại.
880. Chết đi sống lại.
Có
một lần, Nam Tuyền đang ngồi thiền bỗng hét lên một tiếng
lớn khiến thị giả giật mình vội chạy lại bên. Nam Tuyền
bảo:
-
Ngươi hãy đến Nát Bàn Đường xem có phải có người vừa
mất không?
Thị
giả vừa đi được nửa đường thì gập Nát Bàn đường
chủ, do đó cùng đi báo cáo Nam Tuyền:
-
Vừa có một ông tăng viên tịch
Thị
giả và Nát Bàn đường chủ vừa nói dứt thì thấy tri khách
tăng hốt hoảng chạy tới hướng Nam Tuyền thưa:
-
Ông tăng vừa mất đã sống lại rồi.
Nam
Tuyền hỏi:
-
Ông ta hiện thế nào rồi?
-
Ông ta muốn gặp sư phụ, nhưng đó là ông tăng không chịu
tu phúc cũng không chịu kết duyên.
Do
đó, Nam Tuyền đến gặp ông tăng bệnh, hỏi:
-
Vừa rồi ngươi đi đâu?
-
Con tới âm gian.
-
Tình hình âm gian thế nào?
-
Con đi được chừng 100 dậm thì chân tay bủn rủn không đi
được nữa, miệng rất khát. Bỗng có một người kêu vào
tòa lâu đài. Lúc đó, con rất mệt muốn vào đó nghỉ ngơi.
Vừa bước vào thì thấy một vị lão tăng hét lớn ngăn không
cho con vào. Tiếng hét lớn khiến con ngã bật ra đằng sau;
do đó mà con còn thấy được lão sư.
Nam
Tuyền bảo ông tăng:
-
Đó là một tòa lâu đài tráng lệ; nhưng nếu không tích phúc
thì làm sao vào được. Nếu như ngươi không gập lão tăng
thì ngươi đã sa địa ngục, chịu khổ rồi!
Từ
đó về sau ông tăng bệnh không ngừng tích đức tu phúc sống
đến ngoài 70 tuổi mới an nhiên tọa hóa.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Nam
Tuyền trong cơn đại định có thể lên trời, xuống đất,
có thể hét lớn khiến một người đã chết có thể trở
lại dương gian. Người ta thường nói các thiền sư hay đi
nguợc lại nhân tình, nhưng Nam Tuyền thì rất quan tâm và
thương mến đệ tử. Đệ tử đã sa địa ngục rồi còn
cứu sống lại để ông ta có một cơ hội “Lãng tử hồi
đầu, vàng cũng không chuyển.” Do đó, thiền cũng có khi
khổ tâm thuận theo nhân tình.
881. Phật nay ở đâu?
Đường
Thuận Tông có một lần hỏi Như Mãn:
-
Phật từ phương nào tới, nhập diệt đi về đâu? Nói Phật
thường trụ thế, nay Phật ở đâu?
-
Phật từ vô vi tới, nhập diệt về vô vi, pháp thân ngang
hư không, thường trú ở nơi vô tâm, hữu niệm trở về vô
niệm, có trú trở về vô trú; đến vì chúng sanh đến, đi
vì chúng sanh đi, thể thanh tịnh trong sáng thường trú, người
trí biết suy nghĩ thì không bị nghi hoặc.
-
Phật sanh ở hoàng cung, diệt ở Sa La song thụ, giảng pháp
49 năm lại nói không nói một lời, sơn hà đại địa, mặt
trời, mặt trăng đến kỳ cũng tận, ai nói không sinh diệt?
Người trí là người giỏi phân biệt.
-
Phật thể vốn vô vi, mê tình vọng phân biệt, pháp thân ngang
hư không, chưa từng sanh diệt, hiểu được chỗ vô tâm thì
tự nhiên thấy không có pháp nào để nói cả.
Thuận
Tông nghe rồi vui vẻ, càng coi trọng Như Mãn.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Có
người hỏi A Di Đà Phật ở Tây Phương Tịnh Độ, Dược
Sư Phật
ở
Đông Phương thế giới, còn Thích Ca Phật nay ở đâu? Kỳ
thật Phật Thích Ca ở Thường Tịch Quang Độ, nhưng Thường
Tịch Quang Độ ở đâu? Vấn đề này thiền giả trả lời
rất hoạt bát: Hữu tâm nhìn thế giới thấy có sinh diệt,
có Ứng thân Phật; vô tâm nhìn thế giới vô sinh diệt, có
Pháp thân Phật. Vô tâm chính là Thiền tâm. Chỉ có dùng Thiền
tâm mới biết Phật ở đâu. “Có duyên Phật xuất thế,
vô duyên Phật nhập diệt.” Chữ diệt ở đây không có nghĩa
sinh diệt mà là cảnh giới Niết Bàn. Tại Thường Tịch Quang
Độ, diệt trừ mọi phiền não, sai biệt, đối đãi, là thế
giới tuyệt đối, tịch diệt giải thoát.
882. Cầu Phật và hỏi Đạo.
Đời
Đường, Dương Đình Quang gập Bản Tĩnh ở núi Tư Không hỏi:
-
Sanh tử là việc lớn, vô thường đến mau, con một lòng một
dạ cầu Đạo, xin thầy từ bi khai thị.
-
Ông từ kinh đô đến, nơi đó có nhiều thiền giả ông hỏi
các vị đó là hơn, đối với Đạo ông vừa hỏi, ta chẳng
biết gì cả.
Dương
Đình Quang năn nỉ xin chỉ dạy, Bản Tĩnh bảo:
-
Ông muốn cầu Phật hay hỏi Đạo? Nếu cầu Phật thì tâm
là Phật; nếu hỏi Đạo thì vô tâm là Đạo.
Dương
Đình Quang vẫn chưa hiểu rõ, nên Bản Tĩnh lại giảng thêm:
-
Tâm là Phật vì Phật là do tâm mà được, nếu ngộ vô tâm
thì ngay cả Phật cũng không có. Do đó vô tâm là Đạo.
-
Các Đại đức ở kinh thành đều nói phải bố thí, trì giới
để cầu Phật, nay thầy nói trí huệ Bát Nhã vốn tự đầy
đủ không phải do tu mà được; như vậy những gì con bố
thí, trì giới lúc trước đều là phí công?
Bản
Tĩnh nói chắc như đinh đóng cột:
-
Phí công rồi!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Giống
như Đạt Ma khi Lương Võ Đế hỏi về công đức đã trả
lời “Chẳng có công đức gì cả.” Tự tánh ai ai cũng có,
không thể cầu được, do đó nói vô công đức. nhưng làm
sao kiến tánh thành Phật? Bờ bên kia tuy có, nhưng nếu không
có bè thật thì làm sao qua?
Cho
nên công đức bố thì, trì giới làm được càng nhiều càng
tốt.
883. Không hổ là thị giả.
Một
lần Thạch Thê thấy thị giả bưng bát đi về phía trai đường
bèn gọi lại hỏi:
-
Ngươi đi đâu?
-
Đến trai đường.
-
Thấy ngươi bưng bát sao ta lại không biết là ngươi đến
trai đường?
-
Đã biết sao còn bắt con trả lời?
-
Đó là ta muốn hỏi bản phận sự của ngươi.
-
Nếu thầy hỏi bản phận sự của con thì con thực muốn đến
trai đường.
Thạch
Thê vỗ tay khen:
-
Ngươi thật không hổ là thị giả của ta.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Bản
phận sự là gì? là minh tâm kiến tánh, là thoát khỏi sanh
tử, là về nhà, là nhận rõ bản tánh, an trú thân tâm, từ
bi nhẫn nại phát tâm làm việc. Trong sinh hoạt của nhà Thiền
không đâu không là thiền: ăn là thiền, ngủ là thiền, đi
đứng nằm ngồi, xách nước bửa củi không việc nào không
là thiền. Thiền không những bao hàm sinh hoạt lại bao hàm
cả vũ trụ. Nếu chúng ta làm việc cho tốt, không vọng cầu,
đó là bản phận sự, cũng là thiền tâm vậy.
884. Tuyết Phong và Tây Sơn.
Một
ông tăng hỏi Tây Sơn:
-
Ý tồ sư từ Tây sang là gì?
Tây
Sơn giơ phất trần lên, ông tăng không hiểu lại đến gặp
Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
-
Ngươi từ đâu đến?
-
Hạ này từ Tô Châu Tây Sơn đến.
-
Tây Sơn có mạnh không?
-
Khi con tới, tất cả đều an lành.
-
Vì sao ngươi không ở lại học với người?
-
Vì Tây Sơn không hiểu tổ sư thiền.
-
Sao ngươi biết?
-
Khi con hỏi “Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?” Tây Sơn
chỉ giơ
phất
trần lên, không đáp được một lời nào.
-
Ngươi có thấy nam nữ ở Tô Châu không?
-
Có thấy.
-
Vậy là đúng rồi! Ngươi thấy nam nữ, biết là nam nữ khác
nhau; ngươi thấy cây cỏ hoa lá, biết chúng đều có tên gọi
và công dụng khác nhau. Sơn hà đại địa, cỏ cây hoa lá
chưa nói pháp với ngươi, nhưng ngươi vẫn rõ ý chúng phải
không?
-
Phải.
-
Tây Sơn giơ phất trần lên là chỉ Phật pháp sao ngươi lại
không hiểu.
Ông
tăng nghe lời, có chỗ tỉnh ngộ liền lạy và thưa:
-
Con thốt lời bất cẩn, thỉnh thầy từ bi cho con trở lại
Tây Sơn
sám
hối.
-
Cả càn khôn là một con mắt, ngươi hướng chỗ nào để
lạy?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Mắt
thịt không thấy phất trần, nhưng mắt huệ thấy cả càn
khôn, đâu đâu cũng là Phật pháp. Do đó ông tăng cuối cùng
đã hiểu giơ phất trần lên là ý gì.
885. Buông bỏ.
Kim
Đại rất thích hoa lan. Bên sân chùa trồng cả trăm chậu
lan, đủ mầu đủ loại. Ngoài giảng kinh, thuyết pháp ông
để hết tâm trí săn sóc hoa. Mọi người đều nói hoa Lan
là sinh mạng của thiền sư. Một hôm, ông có việc phải ra
ngoài, dặn một đệ tử tưới cho hoa. Người đệ tử này
sơ ý làm đổ giàn hoa khiến các bồn lan đều bị đổ vỡ.
Người đệ tử nghĩ sư phụ về chắc sẽ tức giận lắm.
Ông bàn với các huynh đệ sẽ dũng cảm nhận tội, chịu
bất cứ hình phạt nào. Khi Kim Đại về, nhìn thấy cảnh
tượng này, không một chút tức giận, tâm bình khí hòa bảo
đồ đệ:
-
Ta sở dĩ yêu hoa lan là để dùng hương cúng Phật, lại còn
làm đẹp cảnh chùa nữa, chứ không phải trồng để nổi
giận. Tất cả mọi sự việc ở thế gian đều vô thường,
không nên chấp vào sự vật ưa thích mà không buông bỏ được
vì đó không phải là đường lối của người tu Thiền.
Người
đệ tử nghe rồi hết thấp thỏm, càng tinh tấn trên đường
tu học.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Ở
đời việc khó nhất là có thể buông bỏ. Những gì mình
ưa thích không thể bỏ xuống được. Cả những gì mình không
ưa thích cũng không bỏ được. Đó là vì ái và hận. Vậy
làm sao có được cái vui tự chủ? Phải làm sao để được
không ái, không hận như Tâm Kinh nói: “viễn ly điên đảo
mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.” Câu nói của Kim Đại
“trồng hoa không phải để nổi giận” thật là thiền công
rất cao vậy.
886. Vân thủy tùy duyên.
Pháp
Nhãn tham học với Khánh Huy mãi vẫn không khế ngộ, bèn từ
biệt đi vân du. Một hôm, trên đường gập mưa, tạm
trú ở một tòa Địa Tạng Viện. Tri khách tăng hỏi:
-
Thiền sư định đi đâu?
-
Không mục đích, chỉ tùy tiện thôi.
-
Thầy đối với phương thức vân du tứ phương có cảm thọ
gì?
-
Vân thủy tùy duyên.
-
Câu nói này thật là tiêu dao tự tại.
Pháp
Nhãn nghe rồi đối tiêu dao tự tại bỗng có sở cảm.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
ta sống ở trên đời đi Đông, đi Tây, mấy ai có thể vân
thủy tùy duyên, huống chi lại còn tiêu dao tự tại.
887. Diệu dụng của Thiền.
Tiên
Nhai trên đường hoằng pháp gập một cặp vợ chồng đang
cãi lộn.
Vợ:
-
Ông không phải là trượng phu, không có một điểm nào là
đàn ông.
Chồng:
-
Bà mắng tôi? Nếu còn nói thế nữa tôi sẽ đánh bà.
Vợ:
-
Tôi cứ mắng! Ông thật không giống đàn ông.
Tiên
Nhai kêu gọi người qua đường:
-
Mọi người mau tới xem! Xem đấu bò, chọi dế, đá gà đều
phải mua vé, hiện đấu người không phải mua vé, lại xem
mau!
Hai
vợ chồng vẫn tiếp tục cãi lộn.
Chồng:
-
Bà mà nói tôi không phải là đàn ông một lần nữa tôi sẽ
giết bà.
Vợ:
-
Ông cứ giết đi, tôi vẫn cứ nói ông không phải là đàn
ông.
Tiên
Nhai:
-
Bây giờ lại muốn giết nhau, mau lại xem.
Người
đi đường:
-
Hòa thượng, thầy làm gì mà kêu loạn lên thế? Vợ chồng
người ta cãi lộn, quan hệ gì đến thầy?
Tiên
Nhai:
-
Sao lại không? Ngươi không nghe họ nói giết người sao? Có
người chết thì cần phải có hòa thượng tụng kinh, có tụng
kinh thì ta lại có phong bao.
Người
đi đường:
-
Chuyện lạ, vì phong bao mà hy vọng có người bị giết sao?
Tiên
Nhai:
-
Hy vọng không bị giết cũng được, vậy thì ta sẽ thuyết
pháp.
Lúc
đó hai vợ chồng đang cãi nhau cũng ngưng lại xem Tiên Nhai
và người đi đường tranh luận cái gì.
Tiên
Nhai hướng về cặp vợ chồng vừa cãi nhau nói:
-
Trời lạnh, băng tuyết dù dầy khi mặt trời lên cũng bị
tan, rau dưa tuy lạnh, củi lửa nấu cũng chín. Vợ chồng vì
có duyên mới được cùng chung sống. Ta muốn được là mặt
trời sưởi ấm mọi người, làm củi lửa đun rau cho chín,
hy vọng hai vợ chồng hãy thương yêu và kính trọng lẫn nhau.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Tiên
Nhai ứng dụng Thiền một cách thật linh động.
888. Một khối củi.
Thạch
Đầu Hi Thiên trú ở Hồ Nam, một lần hỏi một ông tăng
mới đến:
-
Ngươi từ đâu lại?
-
Từ Giang Tây.
-
Vậy ngươi có tới Mã đại sư không?
-
Dạ có.
Thạch
Đầu thuận tay chỉ đống củi hỏi:
-
Mã Tổ có giống đống củi này không?
Ông
tăng không trả lời được, ở nơi Thạch Đầu không khế
hợp
được,
lại quay lại Giang Tây, thuật cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ cười
hỏi:
-
Ngươi thấy đống củi đó nặng bao nhiêu?
-
Con không xem kỹ.
-
Ngươi thật rất khỏe!
-
Vì sao vậy?
-
Ngươi từ Nam Nhạc xa xôi, vác một đống củi về đây chẳng
là mạnh lắm sao?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đời
Đường, các thanh niên tăng không đến Giang Tây tham học Mã
Tổ thì đến Hồ Nam tham học Thạch Đầu. Đó là căn nguyên
của từ ngữ giang hồ, chỉ sự tham học. Về sau từ ngữ
này biến nghĩa thành lão luyện, thậm chí còn chỉ những
người bán cao đơn, hoàn tán. Ông tăng trên chạy tới chạy
lui cũng tỷ như các tín đồ ngày nay hết đi chùa nọ tới
chùa kia, vác một đống củi tới, lui mà chẳng biết nặng
bao nhiêu!
889. Đi tham mùi khai.
Đời
Tống, Giang Tây Tòng Duyệt tham phỏng Vân Cái, nói chưa được
vài câu, Vân Cái bảo:
-
Tuy ngươi là thủ tọa Trường Sa Đạo Ngô Sơn, nhưng ngươi
nói như người say ruợu.
Tòng
Duyệt đỏ mặt thưa:
-
Xin hòa thượng từ bi khai thị cho.
-
Ngươi có tham Xương thiền sư không?
-
Học nhân có xem ngữ lục của ngài, đã dung hội tại tâm
nên không đến tham phỏng.
-
Vậy ngươi có tham Động Sơn Khắc Văn không?
Tòng
Duyệt khinh thường trả lời:
-
Động Sơn Khắc Văn ư? Cả ngày khùng khùng điên điên, mặc
hoài một cái quần vải khai nồng mùi nước tiểu, thật chẳng
giống một vị thiền giả.
Vân
Cái nghiêm trang bảo:
-
Thiền chính tại nơi đó, ngươi hãy đi tham phỏng vị nước
tiểu khai nồng đó.
Tòng
Duyệt thấy Vân Cái dặn dò cẩn thận như thế bèn y lời;
sau
khi
thâm lãnh áo chỉ về tạ ơn Vân Cái. Vân Cái hỏi:
-
Ngươi tham Động Sơn Khắc Văn thế nào?
-
Nếu không được thiền sư chỉ thị, học tăng đã uổng
phí kiếp này, vì vậy đến lạy tạ.
-
Tạ cái gì, tạ mùi nước tiểu khai là được!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Trông
mặt mà bắt hình dong là thông bệnh của người đời. Thiền
ở đâu? Thiền không ở tướng mạo trang nghiêm, cũng không
ở quần áo đẹp, một quần vải khai mùi nước tiểu chỉ
con mắt tuệ mới nhìn thấy chân cảnh, là hoa sen mọc trong
bùn nhơ, là châu ngọc trong đất đá.
890. Chỉ trộm một lần.
Thạch
Thất đi du phương gập một người, họ mải nói chuyện không
biết trời đã tối. Hai người do đó cùng vào một quán trọ
qua đêm. Nửa đêm, Thạch Thất nghe có tiếng động bèn hỏi:
-
Trời sáng rồi sao?
-
Chưa, hãy còn tối.
Thạch
Thất nghĩ một người đêm tối mà đã thức chắc phải là
một người tu Đạo cao hoặc có thể là một vị La Hán không
chừng, bèn hỏi:
-
Ngươi là ai?
-
Kẻ trộm.
-
A! Thì ra là kẻ trộm, ngươi trộm bao nhiêu lần rồi?
-
Nhiều không đếm hết.
-
Mỗi lần trộm vui được bao lâu?
-
Tùy theo vật trộm có giá nhiều ít.
-
Lần vui nhất được bao lâu?
-
Chỉ được vài ngày, sau đó hết vui.
-
Chỉ là trộm nhỏ, sao không làm một vố thiệt lớn?
-
Ông có kinh nghiệm không? Trộm bao nhiêu lần rồi?
-
Chỉ một lần.
-
Một lần có đủ không?
-
Chỉ một lần dùng cả đời không hết.
-
Vật trộm ở đâu? Ông dạy tôi được không?
Thạch
Thất nắm lấy ngực tên trộm bảo:
-
Cái này là bảo tàng vô cùng tận, ngươi chân chính phụng
sự sự nghiệp này thì dùng hoài không hết, ngươi hiểu không?
-
Dường như hiểu, dường như không hiểu, nhưng cái cảm giác
thọ nhận này khiến cho rất khoan khoái.
Tên
trộm sau đó sám hối hành vi trộm cắp và xin quy y với Thạch
Thất.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Kỳ
quái! Kỳ quái! Con người ta vì sao ham chiếm đoạt tài vật
ngoài thân, còn bảo tàng của mình thì lại không muốn?
891. Ai tội?
Một
cư sĩ đang tản bộ bên bờ sông, thấy ông lái đò chống
sào
đẩy
thuyền rời bến. Vừa vặn một thiền sư cũng có mặt ở
đó, cư sĩ chạy lại hỏi:
-
Thiền sư vừa rồi ông lái đò chống sào làm cho các sò,
hến nhiều con bị chết. Xin hỏi đó là tội ông lái đò
hay là tội người đi đò?
-
Không phải là tội ông lái đò, cũng không phải là tội người
đi đò.
-
Vậy là tội của ai?
-
Là tội của ngươi.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phật
giáo tuy giảng lục đạo chúng sanh nhưng mà lấy con người
làm gốc; đứng trên lập trường con người. Chân lý không
thể nói toạc ra, sự tướng có lúc cũng không thể nói toạc
ra. Ông lái đò vì kiếm tiền để sống, người đi đò vì
có việc phải qua sông, sò hến vì ở dưới đất mà bị
ép chết, đó là tội của ai? Không của ai cả vì tất cả
đều vô tâm. Tội nghiệp vốn do tâm tạo, nếu tâm không
thì tội cũng không. Vô tâm làm sao tạo tội? Nếu có tội
cũng là vô tâm tội. Cư sĩ vì từ không sinh có, vọng tự
phân biệt, do đó thiền sư bảo tội ở ông.
892. Tụng kinh tám lạng.
Một
Phật tử đến chùa thỉnh Phật Quang tụng kinh siêu độ cho
phụ thân. Phật Quang thắp hương, bầy hoa quả lên bàn thờ,
sửa soạn tụng kinh. Vị hiếu tử này cứ thắc mắc về
phí dụng của lễ cầu siêu, không ngớt hỏi Phật Quang:
-
Tụng một bộ kinh A Di Đà phải tốn bao nhiêu tiền?
Phật
Quang không chịu được thái độ này nên không nể nang đáp:
-
Phải 10 lạng.
-
Mười lạng quá nhiều đi, thầy có thể bớt 2 lạng được
không?
Phật
Quang tụng:
-
Thập vạn chư Phật, Bồ tát, nguyện công đức tụng kinh
này xin hồi hướng về người chết, mong hương linh được
vãng sanh Đông Phương thế giới.
Hiếu
tử liền phản đối:
-
Không đúng! Con thường nghe người ta tụng vãng sanh Tây
phương
Cực Lạc thế giới chứ không phải Đông Phương thế giới.
-
Vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới phải 10 lạng, ngươi
đòi bớt 2 lạng thì chỉ có thể đi về Đông Phương thế
giới.
Hiếu
tử bất đắc dĩ nói:
-
Con xin đưa thêm 2 lạng, thầy hãy tụng cho phụ thân con về
Tây Phương.
Lúc
đó người chết trong quan tài mắng con:
-
Thằng bất hiếu, chỉ vì ngươi bớt 2 lạng khiến ta phải
nhọc sức chạy Đông, chạy Tây.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phật
pháp không phải là món hàng nên không thể trả giá.Kinh Phật
nói: “Tâm Điền sự bất đồng, công đức phân thắng, liệt.”
Cùng một số tiền (sự) đem bố thí, nhân vì người nhận
(điền) không đồng thậm chí có ý nghĩ (tâm) to nhỏ, kết
quả thiên sai vạn biệt. Công đức to nhỏ là do tâm chân,
vọng chứ không phải là do số tiền nhiều ít.
893. Tướng quân sám hối.
Một
lần, Mộng Song quốc sư đi đò. Thuyền vừa rời bến, bỗng
có một vị tướng quân vai đeo kiếm, tay cầm roi, gọi lớn:
-
Ông lái, chờ một chút cho ta đi với!
Cả
thuyền đều nói thuyền đã rời bến rồi không thể quay
lại, ông lái đò cũng nói to:
-
Xin chờ lần sau đi.
Lúc
đó Mộng Song bảo ông lái:
-
Ông lái, thuyền chưa đi xa, hãy ghé lại cho ông ta lên.
Ông
lái đò thấy vị xuất gia nói vậy bèn quay thuyền lại cho
vị tướng quân lên. Vị tướng quân lên thuyền đứng bên
cạnh Mộng Song, giơ roi lên quất vào đầu Mộng Song và hét:
-
Hòa thượng, xê ra nhường chỗ cho ta ngồi!
Roi
đánh trúng đầu làm phun máu, Mộng Song im lặng xích ra nhường
chỗ cho tướng quân. Mọi người đều sợ hãi không dám nói
lớn chỉ thầm thì bàn tán, làm ơn mắc oán. Tướng quân
biết mình sai, nhưng cũng không chịu thừa nhận. Thuyền cập
bến, Mộng Song theo mọi người lên bờ, ra ven sông im lặng
rửa vết thương. Tướng quân cuối cùng thấy mình không phải,
lại quỳ trước mặt Mộng Song sám hối:
-
Thiền sư, con xin lỗi!
Mộng
Song tâm bình, khí hòa đáp:
-
Không sao đâu, người ta đi ra ngoài tâm tình thường không
được tốt.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Ở
thế gian này sức mạnh nào là lớn nhất? Chính là sự nhịn
nhục. Phật nói:
-Người
tu đạo nhịn được sự mắng chửi, coi đó như được uống
đề hồ thì mới là người có đại lực.
Dùng
đao thương uy hiếp chỉ làm cho người ta sợ chứ không phục,
chỉ có sự nhẫn nhục mới cảm hóa được ngoan cường.
894. Nhất Hưu phơi kinh.
Nhất
Hưu ở trong làng dưới chân núi Tỷ Duệ. Một hôm thấy các
tín đồ kéo nhau từng đoàn lên núi. Hỏi ra mới biết chùa
trên núi phơi kinh. Theo truyền thuyết khi phơi kinh, có cơn
gió nào thổi qua kinh, người nào đón được gió ấy thì
có thể trừ được tai ách và trí tuệ tăng trưởng. Nhất
Hưu liền nói:
-
Ta cũng phơi kinh.
Nói
rồi, Nhất Hưu cởi trần nằm trên bãi cỏ phơi nắng. Các
tín đồ lên núi trông thấy lấy làm bất nhã. Pháp sư ở
trên chùa vội chạy xuống khuyên Nhất Hưu đừng làm mất
uy nghi. Nhất Hưu giải thích:
-
Các ngươi phơi là phơi kinh chết, còn ta phơi kinh sống, có
thể thuyết pháp, làm lụng, ăn cơm, có trí tuệ, tạng kinh
đó lại không đáng quý sao?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Hành
động đùa nghịch của Nhất Hưu thực ra rất chí lý không
gì không từ tự tâm hiển lộ. Tu hành sợ nhất là bỏ gốc
theo ngọn. Kinh chỉ là chữ in trên giấy, chân tâm mới là
pháp. tại sao chỉ chú ý đến kinh mà không chú ý đến tự
tâm? Huệ tăng trưởng là do đọc kinh, tham thiền nhập Phật
là phải biết cơ yếu, tất cả đều do tâm tạo. Quý trọng
kinh không phải là do chữ in trên giấy, mà là in trên tâm.
Tạng kinh in trên tâm mới có thể sinh vạn pháp.
895. Bánh ngọt.
Một
ông tăng đến tham học Mục Châu Đạo Minh. Đạo Minh hỏi:
-
Ngươi bình thường học Phật là học pháp môn nào?
-
Duy thức.
-
Ngươi có thể giảng Duy Thức luận không?
-
Không dám.
Thiền
sư bẻ một cái bánh ngọt ra làm đôi và hỏi:
-
Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, ngươi làm sao thuyết
pháp?
Ông
tăng không trả lời được; thiền sư lại hỏi:
-
Cái bánh này gọi là bánh ngọt đúng hay không gọi là bánh
ngọt đúng?
Ông
tăng nghĩ toát mồ hôi, trả lời:
-
Không thể không gọi là bánh ngọt.
Thiền
sư nhìn quanh, tùy tiện chỉ một sa di hỏi:
-
Cái bánh chia làm hai, ngươi làm sao thuyết pháp?
Sa
di không do dự đáp:
-
Hai mảnh lưu lại nhất tâm.
-
Ngươi gọi nó là gì?
-
Bánh ngọt.
Mục
Châu Đạo Minh cười ha hả:
-
Ngươi cũng biết giảng Duy Thức luận.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Duy
Thức và Thiền tông phương pháp và phương hướng khác nhau.
Duy Thức trọng trí giải và phân tích, muốn người học nhận
rõ Duy Thức nghĩa; còn Thiền tông thì không trọng trí giải
và phân tích. Thiền là trực tiếp bản tâm, kiến tánh thành
Phật. Câu nói của các thiền sư đầy khôi hài, thái độ
thân thiết. Khi họ nói Đông là để chỉ Tây; có lúc
đánh mắng thực ra là thương yêu và giúp đỡ.
896. Ta không phải là Phật.
Có
một vị tú tài trú ở chùa để học, tự phụ thông minh
thường lấy thiền cơ tranh luận với Triệu Châu.
Một
hôm hỏi Triệu châu:
-
Phật từ bi phổ độ chúng sanh là do tâm nguyện, không trái
với những gì chúng sanh mong cầu không biết có phải thế
không?
-
Phải.
-
Nay con muốn thiền trượng trong tay thầy, không biết có được
thỏa mãn không?
Triệu
Châu cự tuyệt:
-
Người quân tử không đoạt của người, ngươi có hiểu đạo
lý này không?
-
Con không phải là quân tử.
-
Ta cũng không phải là Phật.
Tú
tài không đáp được nhưng không chịu thua. Một hôm tú tài
ngồi thiền Triệu Châu đi ngang qua. Tú tài trông thấy nhưng
lờ đi. Triệu Châu trách:
-
Người trẻ thấy bậc trưởng giả tới sao không đứng dậy
nghênh đón?
-
Con ngồi đón thầy cũng như đứng dậy đón thầy.
Triệu
Châu bèn cho ông một tát tai. Tú tài nổi giận:
-
Thầy vì sao đánh con.
-
Ta đánh ngươi cũng như không đánh ngươi!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Vị
tú tài là phần tử trí thức; Triệu Châu là thiền giả đã
thể ngộ; trí thức không phải là đối thủ của bậc thể
ngộ, huống hồ lại là Triệu Châu mà thiền phong rất hoạt
bát. Triệu Châu không cho thiền trượng không phải là hẹp
lượng mà là không thích lối cưỡng lời đoạt lý của tú
tài, lại cho ông một tát tai là để huấn giới ông chỉ
học thiền mà không ngộ thiền.
897. Con cũng có miệng lưỡi.
Quảng
Huệ Nguyên Liễn lúc mới học đạo, tham thiền ở nơi Chân
Giác thiền sư. Buổi sáng phụ trách nhà bếp, buổi chiều
tụng kinh coi đó là công khóa. Một hôm Chân Giác hỏi ông:
-
Ngươi xem kinh gì?
-
Kinh Duy Ma.
-
Kinh ở đây còn cư sĩ Duy Ma ở đâu?
Nguyên
Liễn không biết làm sao trả lời, tự thẹn tri thức có hạn,
bèn
hỏi lại:
-
Cư sĩ Duy Ma nay ở đâu?
-
Ta biết cũng được, không biết cũng được, nhưng không thể
bảo cho ngươi biết.
Nguyên
Liễn rất mắc cỡ, từ biệt Chân Giác đi vân du, thân cận
hơn 50 vị thiện tri thức, nhưng vẫn chưa khế ngộ. Một
hôm tham phỏng Thủ Sơn Tĩnh Niệm ở Hà Nam, hỏi:
-
Học nhân đến Bảo Sơn, khi tay không trở về thì thế nào?
-
Bỏ giữ kho báu nhà mình.
Nguyên
Liễn ngộ ngay lúc đó, bèn nói:
-
Con sẽ không nghi miệng lưỡi của các thiền sư nữa.
-
Tại sao?
-
Vì con cũng có miệng luỡi.
Thủ
Sơn cao hứng bảo:
-
Ngươi đã ngộ tâm yếu của Thiền rồi!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Miệng
lưỡi ai cũng có, nhưng thực sự hiểu được diệu dụng
của nó thì có mấy ai. Một câu nói có thể làm đất nước
hưng vượng, cũng có thể làm mất nước. Có người dùng
miệng lưỡi làm công đức; có người tạo tội nghiệp. Đó
là có biết cách xử dụng miệng lưỡi hay không.
898.
Tâm yếu của Thiền.
Thi
sĩ Bạch cư Dị có một lần hỏi Duy Khoan:
-
Thân, khẩu, ý làm sao tự tu?
-
Người vô thượng bồ đề ở thân là luật, nói ra miệng
là pháp, hành ở tâm là Thiền. Ứng dụng có 3 nhưng chỉ
là một, như sông Hoài sông Hán do nơi chảy qua mà có tên
khác nhau, nhưng tánh nước thì không hai. Luật tức là pháp,
pháp chẳng lìa Thiền. Lấy thân, khẩu, ý hợp nhất mà tu.
Vì thân, khẩu, ý đều là tên gọi của tâm, vì vọng nên
khởi phân biệt.
-
Nếu đã không phân biệt, làm sao tu tâm?
-
Tâm vốn không tổn thương, sao cần tu. Nên biết bất luận
là tịnh là trần không nên khởi niệm.
-
Trần (bụi) có thể dùng phất trần quét khiến không khởi
niệm;
Tịnh
trong sạch thì làm sao còn có niệm?
-
Cũng như mắt người không để vật gì bám vào, ví như mạt
vàng tuy quý nhưng vào mắt sẽ sinh bệnh. Mây đen, mây trắng
đều che phủ bầu trời.
-
Không tu không niệm thì khác gì phàm phu?
-
Phàm phu nuôi dưỡng vô minh, nhị thừa nuôi dưỡng chấp trước.
Lìa bỏ hai bệnh vô minh và chấp trước là chân tu. Người
chân tu không cầu, không vọng. Cầu gần chấp, vọng thì rơi
vào vô minh. Đó là tâm yếu.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Thế
gian có tốt, có xấu, có lớn, có nhỏ. Thí dụ như bố thí
nhiều, ít thì công đức nhiều ít; tất cả đều có phân
biệt. Tu thân thì không được sát, đạo, dâm. Tu khẩu thì
không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu. Tu ý
thì không tham dục, không sân si, không tà kiến. Tu thân, khẩu,
ý dĩ nhiên có phân biệt. Nhưng chân tâm tự tánh vốn thanh
tịnh đầy đủ cần gì tu chứng, sao có cầu, vọng. Do vậy,
Duy Khoan cho đó là tâm yếu của Thiền.
899. Hóa duyên độ chúng.
Chiêu
Dẫn vân du khắp nơi, có tín đồ hỏi:
-
Con thường nổi giận làm sao sửa đổi?
-
Nổi giận là do tâm sân mà ra; được rồi để ta hóa duyên,
ngươi hãy đem tâm sân và sự nổi giận cho ta có được không?
Con của tín đồ ham ngủ, cha mẹ không biết phải làm sao. Chiêu
Dẫn đến nhà lay tỉnh đứa con:
-
Ta đến hóa duyên mê ngủ của con; hãy đem mê ngủ cho ta!
Nghe
vợ chồng tín đồ cãi nhau, Chiêu Dẫn bèn hóa duyên sự cãi
lộn. Tín đồ uống rượu, Chiêu Dẫn liền hóa duyên uống
ruợu.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Chiêu
Dẫn suốt đời hóa duyên độ chúng. Các ác tập của người
đời đều được ông hóa duyên mà thay đổi.
900. Chẳng hứa làm thầy.
Tòng
Duyệt tham phỏng Thanh Tố; có một lần đang ăn trái vải
đi ngang qua cửa sổ phòng Thanh Tố, cung kính thưa:
-
Đây là trái vải ở Giang Tây quê con, mời trưởng lão ăn
vài trái.
Thanh
Tố hoan hỉ tiếp nhận, cảm khái bảo:
-
Từ ngày tiên sư viên tịch, lâu lắm không ăn thứ này.
-
Tiên sư của trường lão là ai?
-
Từ Minh thiền sư, ta làm quản lý 13 năm cho ngài.
-
Mười ba năm kham nhẫn, không đắc đạo sao được?
Nói
rồi cung kính dâng hết vải trong tay cho Thanh Tố. Thanh Tố
cảm kích:
-
Ta vì phúc bạc, tiên sư thọ ký không nhận truyền nhân, nay
thấy ngươi thành kính, hãy nói tâm đắc của ngươi cho ta
nghe.
Tòng
Duyệt bèn nói sở kiến, Thanh Tố khai thị:
-
Thế giới có Phật, có ma, phải bỏ xuống hết, nên nhập
Phật, chẳng nên nhập ma.
Tòng
Duyệt được ấn khả rồi, Thanh Tố lại bảo:
-
Nay ta vì ngươi chỉ điểm khiến ngươi được đại tự tại
nhưng không thể nói ngươi truyền thừa ta; Chân Tĩnh Khắc
Văn mới là thầy ngươi.
(Tinh
Vân thiến thoại)
Muốn
học Phật đạo trước hết phải kết nhân duyên, cầu đạo
phải cung kính mà cầu. Tòng Duyệt cung kính đối với tiền
bối nên đã được đạo. Câu nói “Chân Tĩnh Khắc Văn mới
là thầy ngươi” biểu thị trong Thiền môn thầy trò tương
trợ, tương tín.
901. Tâm của cổ Phật.
Động
Sơn hỏi Hưng Bình hòa thượng:
-
Thế nào là tâm của cổ Phật?
-
Là tâm ngươi.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
của Động Sơn có nghĩa là: “thế nào là tâm yếu của chư
Phật quá khứ?” Chư Phật cho đến tất cả chúng sanh đều
có Phật tánh quang minh, thanh tịnh. Phật tánh không vì Phật
(giác)và chúng sanh (chưa giác) mà tăng hay giảm. Vì vậy, Hưng
Bình mới nói “là tâm ngươi.”
902. Tháp vô phùng.
Một
ông tăng hỏi Pháp Chân:
-
Thế nào là tháp vô phùng? (Xem công án 172)
-
Cao 5 thước.
Lại
mắng:
-
Hồ đồ!
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Tháp
vô phùng là tháp không vá; các tháp ở thế gian đều dùng
gạch xếp lên nhau, dùng vữa mà dính lại, không thể không
vá, Như vậy là ở đây tháp vô phùng không chỉ thế giới
hiện tượng mà chỉ cảnh giới vô lậu, không còn phiền
não, là lý cứu cánh là chân tướng của sinh mạng. Lão sư
đáp “cao 5 thước” có vẻ mâu thuẫn với quốc sư Huệ
Trung. Có cao độ là có hình thể. Có hình thể thì không phải
là cảnh giới tuyệt đối; 5 thước ở đây là thiền sư
chỉ ông tăng cao 5 thước (thước Tầu).
903. Tìm linh dương.
Có
6 học tăng cùng đến Hoàng Bá tham học. Khi mới gập mặt,
năm người thành kính vái lạy, chỉ có một ông tăng tỏ
ra mình là một thiền giả, giơ tọa cụ lên vẽ một vòng
tròn, không nói một câu, đứng tại một bên. Hoàng Bá bảo
ông tăng đó:
-
Ta nghe nói có một chó săn rất hung dữ.
Ông
tăng dùng Thiền ngữ trả lời:
-
Chắc là nghe tiếng linh dương mà tới.
-
Ngươi có nghe được tiếng linh dương không?
-
Vậy nhất định là do dấu chân mà tới.
-
Ngươi có thấy dấu chân linh dương không?
-
Vậy thì nhìn sau lưng linh dương mà tới.
-
Ngươi có thấy sau lưng linh dương không?
-
Chỉ là xác một con linh dương.
Hoàng
Bá bèn thối lui. Hôm sau ở Pháp đường nói lại chuyện cũ:
-
Mời ông tăng nói chuyện linh dương hôm qua bước ra.
Ông
tăng bước ra vài bước.
-
Công án hôm qua còn chưa xong, ngươi giải thích thế nào?
Ông
tăng không trả lời được.
-
Tưởng ngươi là một thiền giả đã tới nhà; nguyên lai chỉ
là một ông tăng nghĩa học, tông đồ trí giả.
Đại
chúng nhận rằng ông tăng này mạo nhận thiền giả, liền
mời ông ra khỏi cửa.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Thiền
là ngộ, không phải là học. Tri thức có thể học, Thiền
không thể học. Tự cổ, các thiền tăng cử chỉ, lời nói
quái dị, nhưng trong sự quái dị ấy có chân thật, thường
lý. Nếu không phải là thiền giả, chỉ cần mở miệng ra
là người ta biết ngay là giả; còn thiền ngộ tự nhiên hiển
lộ ra.
904. Bốn chín năm trước.
Một
ông tăng hỏi Tuyết Phong Nghĩa Tồn:
-
Chuyện 49 năm sau không hỏi, còn chuyện 49 năm trước thì
sao?
Thiền
sư bỗng dùng phất tử đánh vào mồm ông tăng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Thích
Ca Mâu Ni thành Đạo rồi thuyết pháp 49 năm, sau đó nhập
Niết Bàn. Chuyện 49 năm sau chỉ Phật đã nhập Niết Bàn;
chuyện 49 năm trước chỉ Phật chưa thành Đạo thì cũng tu
trì cầu Đạo, nỗ lực chứng Phật tánh vốn tự đầy đủ.
Đây là ông tăng mượn cổ dụ kim. Dụ rằng mình cũng như
Phật Thích Ca lúc chưa thành Phật, cũng nỗ lực tầm Đạo,
cần lão sư chỉ dẫn. Tự tánh vốn tự quang minh do con người
ta tự vọng tâm khởi phân biệt do đó có sáng tối, mê ngộ.
Chính câu hỏi của ông tăng đã là một loại ý thức phân
biệt rồi. Thiền sư bỗng đánh làm cho ông tăng hoảng sợ
mà bỏ được vọng niệm. Nếu ông tăng tâm lực tập trung
đến trình độ đại ngã thì nhân đó có thể siêu việt
tất cả phân biệt, vào thẳng tự tánh quang minh.
905. Pháp thân.
Một
ông tăng hỏi Ngưỡng Sơn Huệ Tịch:
-
Pháp thân còn nói pháp không?
-
Ta không nói được, nhưng có một người nói được.
-
Người nói ở đâu?
Thiền
sư đưa cái gối đầu ra.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Pháp
thân không phải là một vật cụ thể mà vô hình, vô tướng,
vô sinh, vô diệt của cảnh giới tuyệt đối, đã vượt qua
đối lập của hiện tượng giới. Do đó không nói pháp. Chỉ
có người đã ngộ mới biết lý này, còn không thì cứ xoay
quanh múa lộn ở trong vòng danh tướng. Vì vậy thiền sư mới
bảo mình không nói được, nhưng có một người có thể nói
được, ông tăng hỏi người nói được ở đâu? Thiền sư
bèn đưa cái gối đầu ra. Vì hiện tượng và bản thể là
một không hai cho nên bất cứ vật gì cũng là pháp thân, không
đâu không có pháp thân nói pháp. Nếu ngộ thì cái gối đầu
là một pháp thân, còn chưa ngộ thì đó chỉ là một đồ
vật ở hiện tượng giới.
906. Quý mến hiện tại.
Thân
Loan Thượng Nhân của Nhật Bản, mới 9 tuổi đã quyết tâm
đi tu; xin Từ Trấn xuống tóc cho ông. Từ Trấn nói:
-
Ngươi còn nhỏ như vầy, vì sao muốn xuất gia?
-
Con tuy mới 9 tuổi, nhưng cha mẹ đều mất cả. Con không biết
vì sao người ta phải chết, vì sao con nhất định phải lìa
xa cha mẹ? Vì muốn hiểu đạo lý này nên con nhất định
xuất gia.
-
Được! Ta biết rồi! Ta chấp nhận thâu ngươi làm đệ tử;
hôm nay trời đã muộn rồi, sớm mai sẽ xuống tóc cho ngươi.
-
Sư phụ, tuy thầy hứa sáng mai sẽ xuống tóc cho con, nhưng
con còn trẻ vô tư, không biết ngày mai còn giữ được quyết
tâm xuất gia hay không? Hơn nữa, thầy niên kỷ đã cao không
biết sáng mai còn sống không?
Từ
Trấn nghe lời vỗ tay khen:
-
Được lắm! Ngươi nói không sai, bây giờ ta xuống tóc cho
ngươi.
Đời
Đường, Huyền Trang cũng 12 tuổi xuất gia. Bấy giờ muốn
xuất gia phải qua một kỳ khảo hạch. Huyền Trang vì quá
nhỏ không được thâu nhận. Huyền Trang thương tâm khóc lớn.
Chủ khảo Thiện Quả hỏi:
-
Vì sao nhất định xuất gia?
-
Vì muốn làm sáng di giáo của Như Lai, giới thiệu hạt giống
bồ đề của Phật.
Nhận
thấy lời nguyện rộng lớn nên chủ khảo đặc biệt chấp
nhận.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Gương
của hai vị cao tăng trên đã trở thành giai thoại trong Phật
giáo.
907. Bịt tai.
Một
ông
tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch:
-
Lỗ Tổ xoay mặt vào vách là biểu thị chuyện gì?
Sư
bịt tai lại.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Lỗ
Tổ xoay mặt vào vách là một thủ đoạn để tiếp dẫn thiền
sinh (Xem công án 796); thủ đoạn ấy không ngoài tác dụng
của tự tánh là xúc, mục. Tào Sơn bịt tai chỉ không nghe,
vì câu hỏi của ông tăng trái ngược với dụng ý của Lỗ
Tổ. Động tác này làm cho ông tăng rõ câu hỏi của ông là
thừa, muốn ông bỏ vọng tưởng.
908. Một đường Nát Bàn.
Một
ông tăng hỏi Như Bảo:
-
Thế nào là một đường Nát Bàn?
Sư
khẩy ngón tay rồi mở rộng hai tay ra.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
hỏi của ông tăng là hỏi về tự tánh. Động tác của thiền
sư là chỉ diệu dụng của tự tánh. nếu ông tăng quay về
tự thể nghiệm động tác của chính mình thì có thể thấy
một đường Nát bàn, hiểu được câu trả lời của thiền
sư.
909. Cổ đức vì sao mà thôi?
Một
ông tăng hỏi Cát chân Tư Phúc;
-
Hòa thượng, cổ nhân được ý chỉ gì mà thôi?
Sư
vẽ vòng tròn chỉ thị.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
hỏi của ông tăng có nghĩa là cổ đức được tâm yếu gì
mà giác ngộ? Tâm yếu chỉ có thể thể ngộ, không thể dùng
lời mà giải thích; do đó thiền sư vẽ vòng tròn để trả
lời (Xem công án 881).
910. Cái nào không là Phật.
Một
ông tăng hỏi Đại Châu Huệ Hải:
-
Tức tâm, tức Phật, cái nào là Phật?
-
Ngươi nghi cái nào không là Phật, chỉ ra cho ta coi!
Ông
tăng không trả lời được, sư bảo:
-
Nếu đạt thì mọi cảnh đều là Phật, còn không thì vĩnh
viễn trái ngược.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Thiền
sư hỏi ngược lại, ông tăng không trả lời được, sư đành
phải
thuyết
minh: Nếu ngươi chứng được tự tánh thì mọi cảnh đều
là Phật. Còn như ngươi dùng lý trí để phân tích thì những
gì ngươi kiến thức được chỉ là tương đối, không phải
là cảnh giới tuyệt đối.
911. Không được, không biết.
Đạo
Ngô hỏi Thạch Đầu:
-
Đại ý của Phật pháp là gì?
-
Không được, không biết.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
đáp của Thạch Đầu có hai ý:
1/
Phật pháp không thể dùng trí mà biết được.
2/
Ta không phải là người đắc pháp. Do đó, đả phá vọng
tâm của Đạo Ngộ muốn nhờ thầy chỉ cho đáp án, phải
tự mình thể nghiệm tự tánh.
912. Ý tổ sư.
Một
ông tăng hỏi Ngưỡng Sơn:
-
Thế nào là ý tổ sư?
Sư
vẽ vòng tròn, ở trong viết chữ Phật. Ông tăng không nói
được một lời.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ý
tổ sư là ý chỉ của Tổ Đạt Ma vượt biển tới Trung thổ.
Ý chỉ này thực là tinh tủy của Thiền: “Chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật.” Ngưỡng Sơn dùng vòng tròn
và chữ Phật để khai ngộ cho ông tăng. Nếu ông tăng chấp
vào vòng tròn và chữ Phật, dùng đường lối suy luận mà
tìm ý nghĩa thì vĩnh viễn không khai ngộ được.
913. Thế nào là Thiền, là Đạo?
Một
ông tăng hỏi Thạch Đầu:
-
Thế nào là Thiền?
-
Đá, gạch.
-
Thế nào là Đạo?
-
Khúc gỗ.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Gạch
đá là gạch đá, khúc gỗ là khúc gỗ. Đối thoại trong công
án này nếu cố giải thích thì có thể nói Thiền, Đạo không
lìa hiện tượng giới mà tồn tại trong mọi sự, mọi vật.
Lời giải thích này là dùng lý trí phân tích. Ở đây thiền
sư dùng một vật không liên quan để làm đứt đoạn suy nghĩ
của thiền sinh. Nếu thiền sinh còn cố giải thích thì có
đúng không? Trong quá trình dạy dỗ thiền sư không giảng
lý Đạo, mục đích là giúp thiền sinh lần lượt trừ bỏ
những chấp trước của nội tâm mà đạt tới mục đích
minh tâm kiến tánh. Những lời nói của các thiền sư không
có hàm ý rõ ràng, do đó chúng ta đứng ở góc độ nào mà
giải thích thì cũng được. Như câu hỏi: Đạo là gì? Chúng
ta có thể giải thích lúc đó thiền sư chạm mắt vào khúc
gỗ nên tự nhiên đáp là khúc gỗ, biểu thị Đạo ở khúc
gỗ, ở tất cả mọi vật. Cũng có thể giải thích cách khác
là Đạo không lìa tự thân. Ông tăng vì chưa thể hội tự
thân là Đạo nên bị thiền sư mắng “Ngươi sống như một
người chết, không khác gì khúc gỗ.”
Cả
hai lối giải thích trên không giúp ích gì cho ông tăng cả
nếu ông không tự thể nghiệm.
914. Tây sang không ý.
Một
ông tăng hỏi Đại Mai:
-
Thế nào là ý của tổ sư từ Tây sang?
-
Tây sang không ý.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ông
tăng hỏi tinh yếu của Thiền là gì? Câu hỏi của ông chỉ
rằng ông có vọng tưởng chấp rằng có tự tánh có thể
cầu được. Do đó, Đại Mai phủ định để phá chấp cho
ông, khiến ông bỏ ý niệm mong cầu giải thoát mà vào thẳng
ngộ cảnh.
915. Giơ phất tử.
Hương
Nghiêm Trí Nhàn hỏi ông tăng đến tham phỏng:
-
Từ đâu tới?
-
Từ Quy Sơn.
-
Hòa thượng gần đây có lời gì?
-
Có người hỏi ý Tây sang, Quy Sơn giơ phất tử lên.
-
Huynh đệ nơi đó hiểu ý hòa thượng thế nào?
-
Họ cho rằng hòa thượng lấy sắc minh tâm, nương vật hiển
lý.
-
Hiểu liền hiểu ngay, không hiểu thì gấp làm gì?
-
Ý thầy thì sao?
Hương
Nghiêm giơ phất tử lên.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Do
đối thoại chúng ta thấy đáp án không phải ở phất tử,
cũng không phải ở động tác giơ lên. Các đệ tử của Quy
Sơn cho rằng thầy giơ phất tử lên là lấy săc minh tâm,
nương vật hiển lý. Do lý mà nói thì suy luận này là đúng,
nhưng ở lão sư là thực tiễn, còn ở đồ đệ chỉ là khái
niệm, sai biệt như trời và đất. Thiền sư dùng thủ đoạn
này (nương vật hiển lý) mục đích là muốn đồ đệ khế
nhập không tánh; thấy được tự tánh. Do đó Hương Nghiêm
phê bình đồ đệ Hương Nghiêm “Hiểu liền hiểu ngay, không
hiểu thì gấp làm gì.” Ông tăng bèn thỉnh thị Hương Nghiêm,
Hương Nghiêm giơ phất tử lên. Cử chỉ và lời nói của
Hương Nghiêm xuất từ cảnh giới vô ngã, chỉ là động tác,
không nương tựa vào đó để thuyết minh cái gì. Nói theo
nhà Phật thì đó là cảnh giới diệu hữu, một thể không
hai như nước và sóng không phân biệt được. Động tác của
thiền sư là diệu hữu cũng là duyên khởi. Do đó giơ phất
tử lên bản thân là hiện tượng, nhưng cũng là tánh không.
Nếu thiền sinh bỏ được các quan niệm mà coi động tác
của thiền sư thì có thể thoát khỏi sự trói buộc của
khái niệm mà vào thẳng bản nguyên của nội tâm. Đó gọi
là kiến tánh.
916. Đà La Ni.
Một
ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
-
Đà La Ni là thế nào?
Sư
chỉ thiền sàng bên phải:
-
Sư tăng này không tụng được.
-
Người khác tụng được không?
Sư
chỉ thiền sàng bên trái:
-
Sư tăng này tụng được.
-
Sao con không nghe?
-
Đại đức không biết tụng thật không tiếng, nghe thật không
nghe.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Đà
la ni ý dịch là tổng trì. Có bốn loại đà la ni là: pháp,
nghĩa, chú, dẫn. Ngày nay thường dùng Đà La Ni để chỉ chú
Đà La Ni. Chú chỉ Phật, Bồ tát từ trong thiền định ra
bảo cho biết những lời bí mật, là tự tánh dùng âm
thanh để lưu lộ. Tự tánh không thể dùng ngôn ngữ để
chỉ rõ, chỉ có thể dùng Dụng để hiển thể. Vì vậy Trường
Sa chỉ thiền sàng bảo nó có thể tụng Đà La Ni. Nếu ông
tăng có thể trừ bỏ ý thức phân biệt, vào thẳng thế giới
tuyệt đối thì không đâu không là diệu tâm của Đa La Ni.
Ngược lại, nếu ông còn chấp khái niệm thiền sàng là một
cá thể thì còn có phân biệt ta, người; miệng tuy đọc chú
nhưng đó không phải là Đà la ni. Do đó, thiền sư lại chỉ
cho ông tụng thật không tiếng, nghe thật không nghe. Có tiếng,
có nghe là có chủ thể và đối tượng không phải là cảnh
giới tuyệt đối. Phải trừ bỏ sự phân biệt tiếng cho
đến tất cả mọi sự phân biệt; thì đó mới là tụng Đà
la ni.
917. Cá chép trên núi, cỏ bồng dưới sông.
Một
ông tăng hỏi Đạo Khâm:
-
Thế nào là Đạo?
-
Cá chép trên núi, cỏ bồng đáy sông.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Cá
chép là sinh vật sống trong sông, cỏ bồng là loại cỏ mọc
ở lục địa. Câu nói của Đạo Khâm rõ ràng là trái với
thường lý. Nếu nghĩ rằng có thể căn cứ vào câu đáp của
thiền sư để tìm vết tích của Đạo thì khó chẳng khác
gì lên trời. Thiền sư không giảng lý luận. Khi huấn luyện
có lúc dùng những câu đáp phản thường, mục đích là để
cắt đứt những niệm đầu của vọng tâm. Nếu ông tăng
còn dùng suy luận thì câu nói này hoàn toàn vô ý nghĩa.
918. Thế nào là Phật.
Một
ông tăng hỏi Đạo Minh:
-
Thế nào là Phật?
-
Là không thể nói cho ngươi biết.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Người
đã hiểu thì không đặt câu hỏi này; do đó thiền sư phủ
định là đối với tâm cảnh đặt câu hỏi của ông tăng
lúc đó, chứ không phải là phủ định Phật tánh sẵn có
nơi ông.
919. Tự độ.
Một
Phật tử đứng tránh mưa ở dưới mái hiên thấy một thiền
sư cầm dù đi qua bèn gọi lớn:
-
Thiền sư phổ độ chúng sanh, hãy cho con đi ké dù một quãng.
-
Ta đi dưới mưa, ngươi đứng ở dưới mái hiên. Ở dưới
mái hiên không mưa, ngươi không cần ta độ.
Phật
tử chạy ra:
-
Hiện con cũng ở dưới mưa, thầy có độ không?
-
Ngươi và ta đều ở dưới mưa, ta không bị ướt vì có dù
che, ngươi bị ướt vì không có dù che. Do đó dù độ ta,
ta không độ ngươi. Ngươi muốn được độ thì tìm dù, đừng
tìm ta.
Nói
rồi đi thẳng.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Mình
có dù thì không bị ướt; kiến tự tánh thì không bị mê.
Trời mưa không mang dù muốn người khác giúp giống như không
chịu kiến tánh mà muốn người khác độ mình. Dùng dù mình
mà che mưa, dùng tự tánh mình mà tự độ. Thiền sư không
cho mượn dù là do lòng đại từ bi vậy.
920. Là một, là ba.
Huyền
Sa hỏi Tuyết Phong:
-
Thầy có thiền trượng không, cho con hóa duyên một cái.
-
Ta có ba cái, ngươi hãy lấy một cái đi.
-
Mỗi người chỉ có một cái, vì sao thầy có 3 cái?
-
Mỗi cái đều có dụng xứ.
-
Phải là phải, con không có dụng pháp đó.
-
Ngươi dụng thế nào?
-
Là ba, là một.
-
Ba là ba, một là một, ba không phải là một, một không phải
là ba, là ba là một, là một là ba; chuyện này giống mảnh
ruộng mặc chúng trồng cấy, mọi người không nhờ đó mà
sống. Là một, là ba, sao ngươi chỉ nói là ba là một?
-
Thầy căn cứ vào đâu mà nói một mảnh ruộng?
Tuyết
Phong vạch một vạch trong không:
-
Nhìn coi! Đây là một mảnh ruộng.
-
Đúng thì đúng; con không nói thế.
-
Ngươi vì sao không nói thế.
-
Người nào sanh, người đó chết; người nào ăn người đó
no.
-
Dĩ nhiên là mọi người đều vậy; sao ngươi không dùng gậy
của mình mà đi mượn gậy của người khác?
-Đạt
Ma chẳng tới Đông thổ, Nhị tổ chẳng tới Tây phương.
Đến thì đến, đi thì đi; dùng gậy để giúp người, không
dùng để khốn người.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Gậy
ở đây chỉ bản tánh mà mọi người đều có. Không thể
nói có, không thể nói không; không thể nói một sao có thể
nói ba. Ngươi không có gậy ta đoạt đi, ngươi có gậy ta
lại cho ngươi. Giữa các thiền sư chỉ là một đến, một
đi hà tất phân biệt hai, ba.
921. Thân này ở đâu?
Một
ông tăng hỏi Thảo Đường:
-
Khi chưa có một pháp thì thân này ở đâu?
Sư
vẽ vòng tròn, trong viết chữ thân.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
“Chưa
có một pháp” chỉ tự tánh không thể nghĩ bàn. Người ngộ
nhập tự tánh thì thấy bản thể và hiện tượng là một;
rời hiện tượng thì không thể có bản thể có thể cầu
được. Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là ở thế giới tuyệt
đối còn thân này (hiện tượng) không? Cách hay nhất để
trả lời câu hỏi này là dẫn ông tăng ngộ nhập tự tánh. Nếu ông tăng dùng lý luận mà cho rằng tác động của thiền
sư chỉ rằng thân này và tự tánh viên dung vô ngại thì đã
sai rồi.
922. Tổ sư chưa tới.
Một
ông tăng hỏi Sùng Huệ:
-
Đạt Ma chưa tới Trung quốc, Trung Quốc có Phật pháp không?
-
Chuyện chưa tới gãy gác lại, còn chuyện ngày nay thì sao?
-
Con không hiểu, xin thầy chỉ thị.
-Vạn
cổ trường không, một sáng gió trăng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Vạn
cổ chỉ thời gian vô cùng; trường không chỉ không gian vô
tận. Cả câu có nghĩa là Đạo vô biên giới, vượt lên thời,
không gian, là chân không. Một sáng gió trăng là chỉ bất
cứ sự việc gì trong trời đất đều đương thể tồn tại;
đó là diệu hữu, là cảnh giới giác ngộ tuyệt đối, không
còn ta, người vì chân không là diệu hữu, diệu hữu là chân
không. Vạn cổ là một buổi sáng, một buổi sáng là vạn
cổ. Vì vậy thiền sư không bàn chuyện “chưa đến” mà
chỉ bàn chuyện “ngày nay.” Nếu chuyện ngày nay đã rõ
thì đâu cần biết Đạt Ma tới hay không tới. Phật pháp
không đâu không có, không bị giới hạn bởi không gian và
thời gian. Do đó, Đạt Ma không mang Phật pháp tới Trung Quốc,
mà tới giúp người Trung Hoa thể hội tự tánh.
923. Hồng!
1/
Có ông tăng hỏi Toàn Hoát:
-
Giếng sâu làm sao tới đáy?
-
Hồng!
2/Có
ông tăng hỏi An Phi:
-
Thế nào là tháp vô phùng?
-
Hồng!
-
3/Có
ông tăng hỏi Hưng Thánh quốc sư:
-
Thế nào là sự trong tông môn?
-
Hồng!
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Cả
3 câu hỏi đều hỏi tự tánh là gì? Các thiền sư đều
dùng chữ “Hồng” mà đáp. Tiếng Hồng này cũng tương tự
như tiếng hét khiến thiền sinh giật mình; trong khoảng khắc
kinh ngạc ấy đoạn trừ tất cả mọi vọng tưởng, có cơ
hội tương ứng với Đạo.
924. Bùa hộ mạng.
Đam
Nguyên hỏi quốc sư Huệ Trung:
-
Trăm năm sau, có người hỏi con sự cực tắc, con phải trả
lời làm sao?
-
Thật đáng thương! Còn muốn bùa hộ mạng để làm gì?
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Tự
tánh lìa ngôn ngữ, vĩnh viễn không có một đáp án chính
xác, bùa hộ mạng chân chính cho Đam Nguyên là ông tự mình
thật chứng tự tánh.
925. Một và hai.
Trong
lịch sử Phật giáo Trung Hoa, đạo sĩ của Đạo giáo thường
tranh luận, đấu pháp với các thiền sư. Có một đạo sĩ
hỏi Pháp Ấn:
-
Phật giáo các người dù dưới dạng thức nào so với Đạo
giáo cũng thua cả; bởi vì cảnh giới tối cao của Phật giáo
là nhất tâm, nhất thừa, nhất chân pháp giới, nhất Phật,
nhất Như Lai, đều là một cả. Trong khi đó Đạo giáo chúng
tôi cái gì cũng là hai như càn khôn, âm dương . . . Hai
thắng một, hai cao minh hơn một.
-
Có thật không? Có thật hai của các ngươi thắng một không?
-
Chỉ cần người nói một, chúng tôi sẽ nói hai, nhất định
thắng các người.
Pháp
Ấn liền nhấc một chân lên hỏi:
-
Bây giờ ta nhấc một chân lên, ngươi có nhấc được hai
chân lên không?
Đạo
sĩ không trả lời được.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phật
giáo Trung Hoa có 3 võ, 1 tông pháp nạn đều là do đạo sĩ
đố kỵ. Phật giáo chuộng hòa bình mà cũng không tránh khỏi,
ngay cả 1, 2 cũng là đề tài để tranh luận. Cách đối phó
của Pháp Ấn là ứng dụng xảo diệu của Thiền vậy.
926. Ném gậy.
Một
ông tăng hỏi Nghĩa Đoan:
-
Thế nào là trực tiếp cắt đứt căn nguyên?
Thiền
sư ném gậy xuống đất, trở về phòng phương trượng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
hỏi của ông tăng dẫn từ câu: “Trực tiệt căn nguyên Phật
sở ấn” của Vĩnh Gia Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca (Thẳng
tận đầu nguồn phăng dấu Phật. Trúc Thiên dịch) là chỉ
trực tiếp cắt đứt căn nguyên của sanh tử. Sanh tử là
khái niệm của thế giới nhị nguyên, thuộc hiện tượng
giới. Nếu cắt đứt được căn nguyên của sanh tử thì thể
ngộ được tự tánh. Vì vậy câu hỏi: cắt đứt được
căn nguyên là thế nào, có nghĩa tự tánh là thế nào? Tự
tánh là cảnh giới không một sự việc, làm sao có sự tiếp
dẫn; do đó thiền sư ném gậy và về phòng. Nhìn về bề
ngoài thì là thiền sư từ chối không trả lời câu hỏi,
nhưng thật ra đó là cách dạy rất sinh động, bảo thiền
sinh phải nỗ lực để giác ngộ.
927. Nhà điêu khắc.
Thanh
niên Quang Tạng lúc chưa học Phật, quyết tâm thành một
nhà
điêu khắc tượng Phật. Ông đặc biệt đến bái phỏng Đông
Vân, mong được thiền sư chỉ bảo cho những điều thường
thức về tượng Phật. Đông Vân gập mặt rồi, bảo ông
ra giếng múc nước. Đông Vân xem Quang Tạng múc nước xong,
to tiếng mắng chửi và đuổi đi. Lúc đó trời đã tối,
các đệ tử thấy tình cảnh ấy năn nỉ sư phụ cho Quang
Tạng lưu lại một đêm, sáng mai sẽ đi. Đông Vân đồng
ý. Đến nửa đêm Quang Tạng đang ngủ bị gọi dậy đến
gập Đông Vân. Thiền sư ôn tồn bảo:
-
Chắc ngươi không hiểu lý do chiều qua tại sao ta lại mắng
ngươi; nay ta bảo cho ngươi biết. Tượng Phật được mọi
người cúng lễ do đó tượng phải do người có tâm thành
kính tạc thì mới thành tượng Phật trang nghiêm. Ta thấy
ngươi múc nước để nước đổ ra ngoài thùng, tuy là chút
nước nhưng đó là phúc đức nhân duyên; nhưng ngươi không
thèm để ý, cái cách lãng phí không biết tiếc phúc ấy làm
sao có thể điêu khắc tượng Phật được?
Quang
Tạng nghe lời chỉ dạy cảm động, phản tỉnh, cuối cùng
xin nhập môn làm đệ tử, trở thành một nhà điêu khắc
nổi tiếng.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Tâm
thành kính không phải chỉ để điêu khắc tượng Phật, bất
cứ làm gì cũng nên thành kính.
928. Cắn không?
Thời
Đức Phật còn tại thế, có một vị tỳ khưu ni tên là Ưu
bà tiên na, một hôm đang ngồi thiền trong sơn động bỗng
lớn tiếng kêu gọi tôn giả Xá lợi phất ngồi thiền ở
động đối diện.
Khi
Xá lợi phất tới , bà nói:
-
Tôn giả Xá lợi phất! vừa rồi tôi ngồi thiền có vật
gì bò qua người, mới đầu không chú ý, sau nhìn lại thì
là một con rắn độc. Tôi bị nó cắn một miếng; tôi chắc
sắp chết rồi! Thừa lúc độc khí còn chưa phát xin ngài
từ bi chiêu tập đại chúng lân cận, tôi muốn cáo biệt
họ.
Xá
lợi phất nghe xong, nhìn kỹ Ưu bà tiên na nghi hoặc hỏi:
-
Có chuyện đó thật sao? Bị rắn cắn sao sắc mặt bà vẫn
bình thường vậy?
-
Tôn giả! Cái thân này là do tứ đại, ngũ uẩn tạo thành,
vốn không có chủ tể, vốn vô thường, do nhân duyên tụ
hội nên là không. Tôi đã hiểu đạo lý đó do vậy rắn
độc có thể cắn xác thân tôi, nhưng làm sao có thể cắn
không tuệ được?
Xá
lợi phất nghe rồi, tán thán:
-
Bà nói đúng lắm! Bà đã đạt đến bực giải thoát. Dù
sắc thân có bị đau đớn cũng có thể dùng huệ kiến chân
tâm bất biến. Người tu đạo phải điều tâm tiến vào Niết
Bàn bất sinh, bất diệt.
Chết
là chết đi sắc thân, không phải là chết đi chân ngã.
Đó
là dùng mắt trí tuệ mà nhìn thể tướng, ra khỏi nhà lửa,thật
tốt quá.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Con
người vì sanh tử mà phiền não, sợ hãi. Nếu chứng được
thiền quán, hoặc khế nhập không huệ thì sẽ tiến vào cảnh
giới không sợ nữa. Như Ưu bà tiên na nói rắn độc có thể
cắn sắc thân nhưng làm sao có thể cắn không tuệ được?
Bậc
thánh sống trong cảnh giới chân thiện mỹ không phải là
lìa bỏ thế giới ta bà này mà tới cảnh giới tịnh độ,
chủ yếu là không tuệ thiền quán một khi chuyển thì một
sát na sẽ thành vĩnh viễn, ô uế thành thanh tịnh, phiền
não thành bồ đề, sanh tử thành niết bàn.
929. Không gập được.
Tào
Sơn Bản Tịch lúc mới tới tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Từ Tây Viện tới.
-
Xà lê tên gì?
-
Mỗ, giáp.
-
Nói rõ hơn một chút.
-
Không nói!
-
Vì sao không nói?
-
Vì tên con không là mỗ, giáp.
Động
Sơn vừa lòng, nhận Tào Sơn ở lại tham học, thường chỉ
thị pháp yếu cho ông. Một hôm Tào Sơn đến cáo biệt. Động
Sơn hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Đi đến nơi không biến dịch.
-
Nơi không biến dịch lại có đi sao?
-
Không đi thì không biến.
Tào
Sơn thọ pháp rồi, đi giang hồ; chúng thỉnh trụ trì ở Vũ
Châu Cát Thủy sơn, sư cải tên là Tào Sơn, pháp độ ngày
càng thạnh, đồ chúng không dưới hai ngàn người. Nam Bình
Chung Lăng Vương nghe danh, 3 lần mời mà không đáp ứng do
đó Vương nổi giận bảo chuyên sứ:
-
Ngươi không mời được Tào Sơn đại sư đến, thì đừng
gập mặt ta!
Chuyên
sứ khổ sở xin đại sư;
-
Thiền sư! Thầy không tuân vương chỉ, đệ tử thật không
còn mạng.
-
Chuyên sứ đừng lo, cứ trình bài kệ này, bảo đảm không
sao.
Sư
đọc bài kệ (của Đại Mai):
摧
殘 枯 木 倚 寒 林
Tồi
tàn khô mộc ỷ hàn lâm
幾
度 逢 春 不 變 心
Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm
樵
客 貝 之 犹 不 顧
Tiều khách bối chi du bất cố
郢
人 何 得 苦 追 尋
Dĩnh
nhân hà đắc khổ truy tầm
Cây khô gẫy mục tựa rừng xanh
Mấy độ xuân về tâm chẳng sanh
Lão tiều trông thấy nào đoái nghĩ
Dĩnh khách thôi thì chớ hỏi phanh.
(Thích
Thanh Từ dịch)
Nam
Bình Chung Lăng Vương đọc bài kệ hướng về núi Cát thủy
Sơn đảnh lễ:
-
Đệ tử kiếp này không dám vọng cầu gập Tào Sơn đại
sư nữa.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Có
người chỉ sợ người ta không biết đến mình; có người
lại sợ người ta biết đến mình. Như Tào Sơn, chỉ ở ẩn
núi sâu mà thanh danh ảnh hưởng đến thế đạo, khiến người
ta cung kính ngưỡng mộ. Đó là đạo phong của Thiền môn
vậy.
930. Sự cấp thiết.
Một
ông tăng hỏi Thiệu Châu:
-
Thế nào là sự cấp thiết?
-
Đồ ngu!
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Sự
cấp thiết là liễu ngộ tự tánh. Ông tăng còn hướng ngoại
tìm cầu thì không phải là sự cấp thiết nữa. Do đó, thiền
sư mắng ông để ông lìa bỏ ngôn cú, phản hướng tự tâm
mà tìm.
931. Ý Tây sang.
Một
ông tăng hỏi Đạo Thường:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Sư
giơ thiền trượng lên hỏi:
-
Hiểu không?
-
Không hiểu!
Sư
hét lớn, đuổi đi.
(
Thiền sư khải ngộ pháp)
Thiên
địa vạn vật, cho đến tất cả mọi hiện tượng nhà Phật
đều gọi chung là “tướng.” Tướng là do nhiều điều
kiện mà thành. Danh là phù hiệu của tướng. Kinh Kim Cương
nói: “Phàm có tướng đều là hư vọng.” Tướng đều không
thiệt, huống hồ là danh do tướng mà có, nhưng mà người
thường dùng trí phân biệt mà nhận thức hiện tượng cho
nên: hồng không thể đồng thời là lục, trắng không thể
đồng thời là đen. Nếu có thể bỏ được sự phân biệt
ta người, không còn phân biệt có không thì có thể tiến
vào cảnh giới tuyệt đối. Cho nên kinh Kim Cương nói:
“Nếu thấy các tướng không tướng thì thấy Như Lai.”
Thiền sư giơ gậy lên hỏi hiểu không? Ông tăng đứng trên
quan điểm người thường thấy gậy và mình không thể cùng
một thể, nhưng đứng trên quan điểm của cảnh giới tuyệt
đối thì gậy không phải là gậy mà là giả danh do con người
gán cho; kỳ thực nó cùng vạn vật một thể đều là tự
tánh hiển lộ. Ông tăng không lìa danh tướng đương nhiên
không thể ngộ tự tánh nên bị thiền sư đuổi đi.
932. Huyền Chỉ.
Một
ông tăng hỏi Trí Thường:
-
Thế nào là Huyền Chỉ?
-
Không ai hiểu được.
-
Người hướng về thì sao?
-
Có hướng liền sai.
-
Người không hướng về thì sao?
-
Ai cần Huyền Chỉ?
Sư
lại nói thêm:
-
Đi đi, không phải là chỗ dụng tâm của ngươi.
-
Thầy không có pháp phương tiện cho đệ tử vào được sao?
-
Quán âm diệu trí lực có thể cứu khổ thế gian.
-
Thế nào là quán âm diệu trí lực?
Sư
gõ vào đỉnh 3 lần hỏi:
-
Ngươi nghe không?
-
Nghe.
-
Sao ta lại không nghe?
Ông
tăng không đáp được, sư giơ gậy đuổi đi.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Huyền
Chỉ là chỉ tự tánh. Tự tánh không thể dùng trí mà biết
được. Do đó thiền sư bảo không ai hiểu được, đồng
thời cũng chỉ ta không hiểu, sao ngươi không tự mình hướng
nội mà tìm? Ông tăng lại lấy hướng và không hướng để
hỏi đều bị thiền sư chặn lại. Vì ông tăng chưa bỏ được
suy nghĩ nên thiền sư bảo “Đi đi, không phải là chỗ dụng
tâm của ngươi.” Xét bề ngoài thì là đuổi ông tăng đi,
không cho hỏi nhưng sự thực thì nếu ông tăng đã nỗ lực
tu tập đến trình độ đại ngã thì chỗ không dụng tâm
tức là chỗ dụng tâm. Bỏ đi tất cả mọi phân biệt đó
là dụng tâm. Ông tăng không hiểu lại hỏi phương tiện để
vào cảnh giới tuyệt đối. Thiền sư lấy câu kệ trong kinh
Pháp Hoa để trả lời. Quán âm diệu trí lực không phải
là trí phân biệt của người phàm mà là trí huệ bát nhã.
Ngài Quán Thế Âm ngồi thiền bên bờ bể nghe hải triều
âm lên xuống, nghe tiếng ở trong sát na sinh diệt, không vĩnh
viễn, không thực có. Vọng tưởng phiền não của con người
đều do chấp thanh âm mà ra. Quán Âm dùng phương pháp ‘nhập
lưu vong sở” khiến âm thanh không còn là căn nguyên của
phiền não. “Nhập lưu vong sở” là không dừng lại ở âm
thanh vào tai mà khiến âm thanh đó như dòng nước trôi đi
không ngừng, đồng thời quên hẳn âm thanh đối tượng, khiến
nó không sản sanh ra được hiện tượng. Thiền sư gõ vào
đỉnh 3 lần, hỏi ông tăng có nghe không? Nếu là người thường
thì sẽ để ý đến âm thanh vào tai, họp thành lời, thành
câu có ý nghĩa, vọng tưởng phiền não đều do đó mà sanh.
Thiền sư lại hỏi ngược lại “Sao ta không nghe?” là chỉ
người đã ngộ không phân biệt chủ thể và đối tượng.
Thiền sư không phải là điếc mà là không còn phân biệt
tiếng và người nghe nữa. Đã giảng nhiều lần như vậy,
ông tăng vẫn không hiểu, thiền sư dùng gậy đuổi đi là
để ông tăng không khởi vọng tưởng phân biệt nữa.
933. Im lặng hồi lâu.
Một
ông tăng hỏi Thủ Sơn Tĩnh Niệm:
-
Thỉnh thầy khẩy đàn không dây.
Sư
im lặng hồi lâu rồi bảo:
-
Nghe không?
-
Không nghe.
-
Sao không hỏi to lên?
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ông
tăng muốn thiền sư khẩy đàn không dây. Chuyện này ở hiện
tượng giới không thể làm được. Đó là cảnh giới của
tự tánh. Thiền sư trực nhập thể nghiệm, nhưng ông tăng
thì không; cho nên ông đã không hiểu dụng ý “im lặng hồi
lâu” của thiền sư. Thiền sư thấy ông tăng không ngộ nhập
được, lại sợ ông chấp vào “Im lặng hồi lâu” mà sinh
vọng niệm cho nên nói là mình chưa nghe rõ câu hỏi để phá
cái chấp này cho ông.
934. Ứng vật hiện hình.
Một
ông tăng hỏi Nghiêm Dương:
-
Thế nào là ứng vật hiện hình?
-
Mang thiền sàng lại đây!
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ứng
vật hiện hình xuất xứ từ Kim Quang Minh Kinh :”Phật chân
pháp thân, do như hư không, ứng vật hiện hình, như trăng
trong nước.” Ý nói pháp thân Phật tùy theo căn cơ bất đồng
của chúng sanh mà hóa hiện cứu độ. Câu hỏi của ông tăng
có nghĩa là: Thế nào là dụng của pháp thân? Câu đáp của
thiền sư nhìn bề ngoài thì chả có gì liên quan đến câu
hỏi. Khi chưa mở tâm nhãn thì hiện tượng và tự tánh là
hai, nhưng đối với người giác ngộ thì cái gì mà không
phải là tự tánh hiển lộ. Do đó, dưới mắt thiền sư đi
đứng, nằm ngồi, nói năng, im lặng, động tĩnh đều là
pháp thân
hiển
hiện, đều là ứng vật hiện hình.
935. Quỷ tàn phế.
Một
lần, Huệ Khôi ngồi thiền trong sơn động, bỗng thấy quỷ
không đầu tới. Nếu là người thường thì đã sợ chết
khiếp, nhưng Huệ Khôi mặt không đổi sắc, bảo:
-
Ngươi không có đầu, không bị cái khổ nhức đầu! Thực
tốt quá!
Quỷ
nghe rồi biến mất.
Một
lần khác, lại có quỷ không có thân mình chỉ có tay, chân
tới.
Huệ Khôi bảo:
-
Ngươi không có thân mình, không phải chịu những đau khổ
do bịnh tật của lục phủ ngũ tạng gây ra; thật là hạnh
phúc!
Quỷ
lại biến mất.
Quỷ
không mồm xuất hiện, Huệ Khôi bảo:
-
Ngươi không có mồm không sợ bị tội ác khẩu, lưỡng thiệt.
Quỷ
không mắt xuất hiện, Huệ Khôi bảo:
-
Ngươi không mắt, không phải nhìn những hỗn loạn làm bận
tâm.
Quỷ
không tay xuất hiện Huệ Khôi bảo:
-
Ngươi không tay, không bị tội cướp giật, đánh người!
Bất
cứ quỷ nào tới, Huệ Khôi cũng dùng cách đối phó trên,
các quỷ đều biến mất không tăm tích.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đối
với người thường, không đầu, không thân thật đáng sợ.
Không mắt, không mồm thật xấu xí, nhưng đối với Huệ
Khôi thì không đầu, không thân là rất tốt, không mắt, không
mồm, không tay thật hạnh phúc. Do đó chuyển mê thành ngộ,
chuyển uế thành tĩnh.
936. Cầu người chẳng bằng cầu mình.
Phật
Ấn và Tô Đông Pha cùng đi tản bộ ở vùng ngoại thành bỗng
gập một pho tượng đá Quán Thế Âm. Phật Ấn liền chắp
tay lạy. Tô Đông Pha hỏi:
-
Chúng ta niệm Quán Thế Âm, còn tượng ngài tay cầm niệm
châu không biết niệm ai?
-
Ngươi tự hỏi mình.
-
Đệ tử làm sao biết Quán Âm niệm ai?
-
Cầu người chẳng bằng cầu mình.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Học
Phật thực ra là học chính mình, hoàn chỉnh chính mình. Người
học Thiền có tự tôn tuyệt đối nên mới có câu tự tu
tự ngộ. Chúng ta không biết tự mình có kho tàng đầy đủ,
không tự cầu mình mà đi cầu người; hy vọng người giúp
đỡ, dẫn dắt.
937. Quốc sư gọi thị giả.
Một
ông tăng hỏi Tuyết Phong:
-
Quốc sư gọi thị giả 3 lần là ý gì? (Xem công án 198)
Sư
đứng dậy, đi về phòng phương trượng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ông
tăng dẫn công án quốc sư gọi thị giả 3 lần để hỏi
dụng ý quốc sư ở đâu. Bất cứ người nào đọc công án
này đều biết là quốc sư muốn tiếp dẫn thị giả ngộ
nhập tự tánh. Ông tăng không muốn biết đáp án do suy luận
mà là thật chứng lấy tâm ấn tâm. Nói cách khác ông xin
Tuyết Phong truyền thọ “ý chỉ.” Hành động của Tuyết
Phong không phải là đáp án. Dùng lý luận phân tích có thể
nói là Tuyết Phong ám chỉ Thiền tồn tại ở sinh hoạt của thân tâm, muốn ông tăng tự thể hội ở ngay thân mình,
đừng tìm kiếm bên ngoài. Cũng có thể nói đó là biểu hiện
nội chứng của Tuyết Phong. Nội chứng không thể dùng ý
mà hiểu được, chỉ có thể đạt được bằng kinh nghiệm.
Ông tăng chưa vượt lên được nhị nguyên tương đối thì
không thể nào hiểu được, ông cũng giống như thị giả
của quốc sư, phụ mình và cũng phụ luôn lão sư nữa.
938. Hợp Đạo.
Một
ông tăng hỏi Đạo Nhất:
-
Làm sao hợp Đạo?
-
Ta sớm đã không hợp Đạo.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
trả lời của thiền sư khiến ông tăng không còn chỗ nào
mà tìm cầu nữa.
939. Há mồm.
Hân
Châu đả địa hòa thượng hễ có ông tăng nào đến hỏi,
ông đều dùng gậy đánh xuống đất mà chỉ thị. Do đó,
người đương thời gọi là “đả địa hòa thượng.” Có
ông tăng dấu thiền trượng của sư đi rồi mới hỏi. Sư
há mồm chỉ thị.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Chí
Đạo không lời, nếu dùng lời e rơi vào nguy cơ tư duy. Để
tránh cho thiền sinh khỏi suy luận do lời đáp nên thiền sư
chỉ dùng động tác để chỉ thị. Ông tăng dấu gậy đi
rồi mới hỏi để xem phản ứng của thầy ra sao. Vì Đạo
không thể nói nên thiền sư chỉ há mồm.
940. Thè lưỡi.
Một
ông tăng hỏi Linh Quan:
-
Phật là thế nào?
Sư
thè lưỡi ra, ông tăng lạy tạ.
-
Ngưng! Ngươi thấy gì mà lạy?
-
Tạ ơn hòa thượng từ bi, dùng tướng lưỡi chỉ thị.
-
Gần đây lưỡi ta mọc mụn.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Tự
tánh không thể dùng lời để diễn tả. Nếu bất đắc dĩ
phải nói các thiền sư liền từ sinh hoạt hàng ngày dùng
bất cứ sự vật gì cụ thể ngay trước mắt mà có thể
cảm giác được để tượng trưng cho tự tánh không thể
cảm giác, không thể nghĩ bàn. Trong công án này thiền sư
lè lưỡi để đáp đương nhiên là ý ở ngoài lời, không
phải chỉ lưỡi là Phật; ý là sao chỉ có người cùng thể
nghiệm mới rõ. Ông tăng lạy tạ thiền sư lè lưỡi để
chỉ tự tánh là do suy luận, không phải là thể nghiệm, là
đã chấp tướng. Thiền sư bảo lưỡi mình mọc mụn là để
phá cái chấp này cho ông.
941. Tóm chặt lấy.
Thần
Án một hôm đến tham Tuyết Phong. Phong biết cơ duyên của
ông đã chín mùi, bỗng đứng dậy tóm chặt lấy ông hỏi:
-
Là cái gì?
Thần
Án hốt nhiên liễu ngộ.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Thần
Án tuy chưa mở miệng hỏi Đạo, nhưng mục đích ông đến
tham Tuyết Phong là để hỏi Đạo. Tuyết Phong đã có kinh
nghiệm chứng ngộ nên biết Thần Án đã đến trình độ
đứng trước cửa Thiền rồi, do đó đột nhiên đứng dậy
tóm chặt lấy ông và hỏi: “Là cái gì?.” Cái hành động
đột ngột, mãnh liệt này giúp cho Thần Án bước vào Thiền
Cảnh mà khai ngộ.
942. Dang hai tay.
1/.
Có một ông tăng hỏi Như Mẫn:
-
Phật pháp chí lý là sao?
Sư
dang hai tay ra.
2/.
Có ông tăng hỏi Nghĩa Sơ:
-
Thế nào là Đạo?
Sư
dang hai tay ra.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Phật
pháp chí lý và Đạo đều chỉ bản thể giới tuyệt đối,
hoặc tự tánh, Phật tánh. Đó là cái mà ngôn ngữ không thể
diễn tả rõ ràng được, do đó thiền sư dang hai tay ra để
trả lời. Đương nhiên tay và động tác dang ra không phải
là đáp án, đây chỉ là phương tiện để thiền sinh thể
ngộ tự tánh.
943. Túm ngực.
Một
ông tăng hỏi Quy Bản:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Sư
túm ngực ông, ông tăng biến sắc. Sư bảo:
-
Nơi đây ta không có cái đó.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Đột
nhiên túm lấy ngực ông tăng, động tác này để cắt đứt
ý thức suy luận của ông, khiến ông ngộ nhập tự tánh.
Nhưng ông tăng này chưa vứt bỏ được thế giới nhị nguyên
đối đãi nên đã không bắt được tia lửa tự tánh do hai
hòn đá đập vào nhau. Ông đã đánh mất cơ hội; lại không
rõ ý của thiền sư nên sợ hãi biến sắc mặt. Thiền sư
biết ông rơi vào tướng bên ngoài của động tác, vọng niệm
suy tư về ý nghĩa của động tác cho nên lại bảo thêm: “Nơi
đây ta không có cái đó.” Cái đó là chỉ tự tánh. Câu
nói này dùng lý luận phân tích có thể có 2 ý. Một là, ta
không có tự tánh mà ngươi muốn, vậy đừng cầu ta. Hai là,
ta không có tự tánh, do vậy động tác vừa rồi là vô nghĩa
ngươi đừng suy luận làm gì. Dù ở trong trường hợp nào
thì cũng là để giúp ông tăng đừng khởi vọng niệm.
944. Đạp cho một cái.
1/.
Thủy Lão đến thăm Mã Tổ , hỏi:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Ngươi lạy đi!
Thủy
Lão bèn lạy, Mã Tổ đạp cho một cái. Sư đại ngộ, đứng
dậy vỗ tay cười ha hả.
2/. Kim Luân đến tham Tuyết Phong, Tuyết Phong bảo:
-
Lại gần đây!
Sư
lại gần, Tuyết Phong đạp cho một cái. Sư hốt nhiên khế
ngộ.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Mã
Tổ bảo Thủy Lão lạy, Tuyết Phong bảo Kim Luân lại gần.
Cả hai nhân lúc thiền sinh lạy mà đạp cho một cái. Ở đây
phải hiểu là các thiền sư đang ngồi ở mé thiền sàng.
Nếu thiền sinh đứng thì cái đạp không mạnh mẽ, nếu thiền
sư cũng đứng thì sức đạp cũng không đi đến đâu. Chỉ
có lúc thiền sinh cúi mình lạy, không ngờ lão sư lại ra
tay lúc đó, cái đạp mới có tác dụng.
945. Im lặng.
Một
ông tăng hỏi Bảo Triệt:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư
ngồi im lặng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Đại
ý Phật pháp, khuôn mặt xưa nay…đều chỉ tự tánh. Phương
pháp hay nhất để trả lời câu hỏi này là để ông tăng
tự thể ngộ tự tánh; do đó thiền sư dùng sự im lặng để
khai ngộ cho ông.
946. Đánh.
Một
ông tăng hỏi Tuệ Giác:
-
Cổ nhân xoay mặt vào vách là ý gì?
Sư
liền đánh.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ông
tăng dẫn chuyện Lỗ Tổ xoay mặt vào vách (Xem công án 797).
Câu hỏi có nghĩa là: “Đạo là gì?.” Thiền sư đánh để
khai ngộ cho ông. Công án không nói rõ là dùng vật gì để
đánh nhưng thường là thiền sư xử dụng những gì thấy
ngay trước mắt như thiền trượng hoặc phất trần. (Xem công
án 909).
947. Hét.
Một
ông tăng hỏi Thủy Lục:
-
Thế nào là một câu tối sơ?
Sư
hét lên.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
tối sơ hoặc đệ nhất nghĩa đều chỉ cứu cánh của chân
lý tức tự tánh. Tự tánh không thể dùng lời mà chỉ, do
đó Thủy Lục bèn hét lên. Tiếng hét này có thể có 2 tác
dụng: một là đoạn trừ tình giải; hai là dùng âm thanh của
tiếng hét vào thẳng nội tâm sâu thẳm của ông tăng. Nếu
cơ duyên đã đầy đủ thì ông tăng nhân đó mà tiến vào
thiền cảnh, chân chính thể ngộ câu tối sơ.
948. Thầy của Văn Thù.
Một
ông tăng hỏi:
-
Văn Thù là thầy của 7 vị Phật, còn Văn Thù có thầy không?
Thiền
sư giơ phất trần lên, ông tăng lại hỏi:
-
Là cái đó sao?
Thiền
sư vất phất trần xuống, khoanh tay lại.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Văn
Thù là thầy của 7 vị Phật, là chỉ lúc 7 vị chưa thành
Phật chứ không phải là chỉ lúc thành Phật rồi. Lúc
chưa ngộ đạo còn là phàm phu thì cũng cần thầy dạy bảo,
Văn Thù cũng vậy. Đứng ở góc độ tự tánh mà nói thì
ai cũng có Phật tánh đầy đủ không tăng, không giảm, không
cần ai giáo huấn. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng kiến
tánh vì bị vô minh chướng ngại. Bởi vậy mới cần thầy
khai thị. Từ tánh không mà nói Văn Thù, 7 vị Phật, cho đến
tất cả chúng sanh vốn tự tròn đầy không có phân biệt
thầy trò. Nhưng từ duyên khởi mà nói thì có Phật, có chúng
sanh, có người giác, kẻ chưa giác do đó mà Văn Thù gập
duyên liền có thầy. Hoa nở, hoa tàn, hòn gạch văng vào thân
tre cho đến tất cả người, sự vật. . . đều là thầy của
Văn Thù. tất cả những cái này đều là hiện tượng, có
thể dẫn Văn Thù ngộ nhập Không Tánh. Do đó thầy của Văn
Thù không phải là chỉ tướng mạo mà là chỉ tâm yếu. Vì
thế thiền sư giơ phất trần lên để chỉ thị. Ông tăng
lại hỏi “Là cái đó sao?” Không biết ông tăng chỉ “cái
đó” là cái gì, đều tỏ ông tăng có sở kiến, chấp trước.
Tự tánh không hình tướng do đó thiền sư vất phất trần xuống đất.
949. Pháp yếu của chư Phật.
Một
ông tăng hỏi Pháp Chân:
-
Thế nào là pháp yếu của chư Phật?
Sư
giơ phất trần lên hỏi:
-
Hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Phất trần đuôi nai.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Dưới
mắt người thường tự tánh và hiện tượng là hai, nhưng
với người giác thì chỉ là một. Phất trần và ngã, người
thường thấy là 2 cá thể không có quan hệ gì, nhưng thiền
sư thì thấy nó là một bộ phận của tự tánh. Đó là cảnh
giới của thiền sư. Ông tăng nếu phá bỏ được khái niệm
phất trần, vào thẳng thế giới bản thể thì mới hiểu
được điều thiền sư chỉ. Ngược lại thì dù cướp được
phất trần trên tay thiền sư cũng không sao đạt được pháp
yếu của chư Phật.
950. Thế nào là Thiền?
Có
pháp sư hỏi Nga Hồ:
-
Dục giới không Thiền, Thiền ở sắc giới; nơi này dựa
vào đâu mà lập Thiền?
-
Pháp sư chỉ biết dục giới không Thiền mà không biết Thiền
giới không dục.
-
Thế nào là Thiền?
Sư
lấy tay chỉ không, pháp sư không nói gì được.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
Xá luận, phẩm thế gian nói phàm phu sinh tử qua lại trong
dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Dục giới có tình dục,
thực dục, là 2 dục vọng của loài hữu tình. Sắc giới
không có 2 dục này, chỉ nương vào thiền định nông sâu
mà phân làm 4 thiền thiên. Bốn thiền thiên này cũng dịch
là tư duy hoặc tĩnh lự, ý là thân nhiếp tâm tán loạn vào
một cảnh, không bị dao động, tiến vào cảnh giới tam muội.
Thiền không phải chỉ đơn thuần chỉ thiền định mà chủ
yếu là phá trừ vô minh, phiền não mà đạt tới diệu dụng
của tâm là trí huệ. Pháp sư chỉ hiểu Thiền là Thiền định.
Sự thực thì con người trong dục giới hoặc dị loại của
chúng sanh có thể tu trì mà đạt được 4 thiền thiên. Nhục
thể tuy tại dục giới, nhưng tinh thần có thể đạt tới
4 thiền thiên. Câu hỏi của pháp sư cho thấy ông chấp vào
văn tự. Thiền không hữu, vô; không hình tướng đương nhiên
không dục. Pháp sư không hiểu nên lại hỏi “Thế nào là
Thiền?” Thiền lìa tất cả ngôn ngữ văn tự, nhưng vì tiếp
dẫn thiền sinh nên thiền sư phải dùng nhiều phương pháp
để khai thị. Ở đây Nga Hồ chỉ không,rất tiếc pháp sư
vẫn chưa được ngộ.
951. Nhớ đóng cửa lại.
Một
tên trộm lẻn vào một ngôi chùa tính làm một mẻ. Hắn lục
lọi khắp nơi mà chẳng thấy một vật gì đáng giá để
trộm cả, tính bỏ đi. Lúc đó đang nằm ngủ trên giường,
Vô Tướng bảo:
-
Này ông bạn, khi nào đi ra nhớ đóng cửa hộ.
Tên
trộm mới đầu kinh ngạc, rồi tùy tiện trả lời:
-
Thật là lười hết nói, ngay cả cửa cũng nhờ người khác
đóng hộ, chả trách trong chùa không có một vật gì đáng
tiền.
-
Ông bạn quá trớn rồi, muốn ta ngày ngày khổ sở kiếm tiền
mua đồ để ngươi trộm sao?
Tên
trộm cảm thấy gập loại hòa thượng này thực không có
cách nào đối phó.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Thiền
không phải là không có gì cả. Cái mà thiền sư có là một
bảo tàng mà người khác không thể nào lấy trộm được.
952. Ta về tây phương.
Đời
Nam Tống, Đạo Duyệt trụ trì Giang Thiên Tự là vị thiền
sư được Nhạc Phi rất tôn kính. Khi Nhạc Phi bị Tần Cối
dùng 12 đạo Kim bài triệu hồi, đi ngang qua Kim Sơn Giang Thiên
Tự, Đạo Duyệt khuyên ông xuất gia đừng về kinh. Nhưng
Nhạc Phi vì lòng trung dù biết bất lợi vẫn cương quyết
về Nam. Lúc chia tay Nhạc Phi xin chỉ thị, Đạo Duyệt bảo:
歲
底 不 足
Tuế
để bất túc
謹
防 天 哭
Thận
phòng thiên khốc
奉
下 兩 點
Phụng
hạ lưỡng điểm
將
人 害 毒
Tương
nhân hại độc.
Năm cùng chẳng đủ
Nên phòng trời khóc
Dưới phụng hai điểm
Bị người hạ độc.
Nhạc
Phi lúc đó không hiểu là ý gì. Cho đến khi bị vu cáo hạ
ngục, bị ngộ độc rồi mới hiểu. Năm đó tháng 12 là tháng
thiếu, chỉ có 29 ngày. Đêm đó trời lại mưa. Nghe tiếng
mưa rơi ở ngoài Nhạc Phi biết đại họa đã tới. Chữ phụng
thêm 2 nét ở dưới thành chữ Tần, chỉ gian thần Tần Cối.
Quả nhiên tối đó bị Tần Cối hại chết ở Phong Ba Đình.
Tần
Cối giết Nhạc Phi rồi tra hỏi Khoái tử thủ, Nhạc Phi lúc
sắp chết nói gì, Khoái tử thủ thưa:
-
Nhạc Phi chỉ nói hối không nghe lời Đạo Duyệt.
Tần
Cối bèn sai kẻ thân tín là Hà Lập dẫn binh đến Kim Sơn
bắt Đạo Duyệt. Nhưng một ngày trước khi Hà Lập đến
Giang Thiên Tự, Đạo Duyệt tụ chúng thuyết pháp, sau đó
đọc 4 câu kệ:
何
立 自 南 來
Hà
lập tự nam lai
我
往 西 方 走
Ngã
vãng Tây phương tẩu
不
是 法 力 大
Bất
thị pháp lực đại
幾
乎 落 佗 手
Cơ
hồ lạc tha thủ
Hà Lập từ Nam tới
Còn ta đi về Tây
Chẳng phải pháp lực lớn
Sa vào tay hắn rồi!
Đọc
xong, tọa hóa. Lúc đó đại chúng nghi hoặc thương cảm. Hôm
sau Hà Lập dẫn binh tới, bấy giờ đại chúng mới rõ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đạo
Duyệt biết sự sanh tử của Nhạc Phi, đương nhiên cũng rõ
sự sanh tử của mình. Nhưng tại sao không tiếc sống, tránh
chết? Bởi vì sanh tử nghiệp lực không thể tránh được.
Nhạc Phi không tránh được, đương nhiên Đạo Duyệt cũng
không tránh được. Thiền sư tuy không tránh được nghiệp
báo, nhưng ngộ đạo rồi không sợ chết nữa. Sanh cũng tốt,
tử cũng đẹp!
953. Vào núi sâu.
Động
Sơn đến tham vấn Long Sơn. Long Sơn hỏi:
-
Không có đường vào núi sâu, ngươi làm sao tới?
-
Chuyện không có đường vào và làm sao đệ tử vào được
hãy tạm gác lại, giờ xin hỏi thầy làm sao vào?
-
Ta không phải từ mây trời tới, cũng không phải do dòng sông
đưa lại.
-
Xin hỏi thầy trú ở núi này bao năm rồi?
-
Ngày tháng xoay vần với ta vô can.
-
Vậy xin hỏi thầy ở đây trước hay núi này ở đây trước?
-
Không biết.
-
Vì sao?
-
Ta không phải là người phàm, cũng không phải là tiên trời,
làm sao biết?
-
Đã không phải là người phàm, cũng không phải là tiên chẳng
lẽ đã thành Phật?
-
Không phải là Phật.
-
Vậy là gì?
-
Nói giống một vật là không đúng.
-
Thầy vì duyên cớ gì mà vào núi này?
-
Vì lúc trước ta thấy 2 con trâu bùn vừa đánh nhau vừa cùng
tiến vào biển lớn cho đến bây giờ vẫn chưa thấy tung
tích.
Động
Sơn nghe lời này cung kính lạy tạ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Núi
sâu ở đây chỉ ngũ uẩn. Chúng ta làm sao vào tòa núi này?
Đương nhiên là không thể do một đường đi nào mà vào,
cũng không thể từ trời rơi xuống mà phải do nghiệp duyên
mà vào. Do thân ngũ uẩn mà tu là mượn giả tu thật, do đó
mà Động Sơn cung kính lạy tạ.
954. Mười điều về sau hối hận.
Một
học tăng hỏi Vân Cư:
-
Đệ tử cứ làm xong một chuyện, sau lại hối hận là vì
sao?
-
Ngươi hãy nghe ta kể 10 điều về sau hối hận:
1/.
Là gập thầy chẳng học.
2/.
Là gập bạn hiền chẳng kết giao.
3/.
Là thờ cha mẹ bất hiếu.
4/.
Là đối với chủ bất trung.
5/.
Là thấy việc nghĩa chẳng làm.
6/.
Là thấy nguy chẳng cứu.
7/.
Là có tiền của chẳng bố thí.
8/.
Là đối với đất nước chẳng trung.
9/.
Là đối với nhân quả chẳng tin.
10/.
Là đối với Phật đạo chẳng tu.
Đối
với 10 loại hậu hối trên ngươi thuộc loại nào?
Ông
tăng gãi đầu thưa:
-
Xem ra đều là bệnh của con.
-
Đã biết đó là bệnh sao không sớm trị đi?
-
Con không biết cách trị, xin thầy từ bi khai thị.
-
Trong 10 hậu hối, ngươi hãy thay chữ chẳng bằng chữ nên
là được. Thí dụ gập thầy nên học.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Ác
tập của con người, chẳng đến Hoàng Hà chẳng từ tâm,
không thấy quan tài không đổ lệ. Kinh nói bồ tát sợ nhân,
chúng sanh sợ quả. Chúng sanh khi thấy quả báo hiện tiền
rồi mới hối hận, giả như ngay từ đầu đối với sự
tốt khẳng định, đối với sự xấu phủ định thì về
sau sẽ không bị hối hận.
955. Rễ cây.
Có
một Phật tử đọc kinh, gập câu “Kim cương không cứng
rắn nhất mà nguyện lực mới cứng rắn nhất”, không hiểu
ý nghĩa là sao, bèn đến hỏi Vô Tướng. Vô Tướng giảng:
-
Người học Phật không bị ma nghiệp, cơ duyên, . . . chướng ngại khiến tâm bồ đề bị thối chuyển thì phải
nhờ nguyện lực duy trì. Lịch đại tổ sư, đạo nghiệp
hoàn thành không người nào là không nhờ nguyện lực; thí
dụ như bồ tát Phổ Hiền có 10 đại nguyện, bồ tát Quán
Thế Âm có 12 đại nguyện, Phật A Di Đà có 48 đại nguyện,
bồ tát Địa Tạng có đại nguyện “Nếu địa ngục còn
có một người thì ta thề không thành Phật.”
-
Tại sao muốn thành Phật lại phải lập nguyện phổ độ
chúng sanh?
-
Lấy một cái cây làm thí dụ: chúng sanh là rễ, bồ tát là
hoa, Phật là quả. Muốn cây đơm hoa kết quả thì phải săn
sóc tưới bón cho rễ, tránh cho rễ bị tổn hại nếu không
làm sao cây trổ hoa, kết quả? Vì vậy kinh Hoa Nghiêm nói:
“Muốn thành Phật, trước phải làm trâu, ngựa chúng sanh.”
-
Nguyện lực của thầy là gì?
-
Không thể bảo cho ngươi biết.
-
Vì sao?
-
Nguyện lực của ta là của ta, sao ngươi không tự phát nguyện
lực?
Phật
tử cuối cùng tâm khai, ý giải lạy tạ mà đi.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Mỗi
người đều có nguyện lực của mình hà tất hỏi nguyện
lực của người. Trước hết hãy tự hỏi ta sẽ làm gì cho
chúng sanh, tỷ dụ muốn làm một chiếc thuyền để độ người
qua sông, làm một con đường để người đi, làm một cây
to cho bóng mát mọi người...
956. Xô.
Một
ông tăng hỏi Chỉ Quán:
-
Thế nào là thầy của Tỳ Lô?
Sư
xô vào ngực ông một cái.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Tỳ
Lô là viết tắt của Tỳ Lô Giá Na Phật tức Pháp Thân Phật.
Nhà Phật nhận rằng tất cả mọi sinh linh đều có Phật
tánh đầy đủ, chỉ vì vô minh làm chướng ngại nên người
phàm không thấy Phật tánh, phải nhờ người có trí huệ
(thầy) khai thị. Câu hỏi có nghĩa là:”thế nào là tâm yếu”, chứ không phải là hỏi tướng mạo. Tâm yếu của chư Phật
không ngoài tự tánh. Do đó thiền sư xô cho ông tăng một
cái, là dùng động tác thô bạo cắt đứt vọng tưởng của
ông tăng, dẫn ông tăng ngộ nhập tự tánh.
957. Tâm tịnh quốc thổ tịnh.
Có
một nữ Phật tử mỗi ngày đều hái hoa ở vườn nhà đem
đến chùa cúng Phật. Một hôm gập Vô Đức từ pháp đường
đi ra, Vô Đức rất hoan hỉ bảo:
-
Nữ thí chủ mỗi ngày đều thành kính hương hoa cúng Phật,
theo kinh điển thì kiếp sau sẽ được tướng mạo trang nghiêm.
-
Chuyện này nên làm lắm, mỗi lần con đến chùa cúng Phật
đều cảm thấy tâm hồn mát mẻ, nhưng khi về nhà thì lại
bị phiền não. Những kẻ nội trợ như con làm sao trong phiền
não có thể giữ được tâm thanh tịnh, thuần khiết?
-
Thí chủ thường dâng hoa cúng Phật, chắc là biết nhiều
về hoa, xin hỏi làm sao giữ cho hoa được tươi?
-
Muốn hoa được tươi thì mỗi ngày phải thay nước và tỉa
bớt cành phía dưới, vì ngâm nước nó dễ bị ủng thối,
không hút được nước khiến hoa mau tàn.
-
Giữ cho tâm thanh khiết cũng dùng đạo lý đó. Hoàn cảnh
sinh hoạt của chúng ta cũng giống như nước trong bình, chúng
ta là hoa, chúng ta phải tĩnh hóa thân tâm, không ngừng sám
hối cải tiến ác tập, khuyết điểm, mới hấp thụ được
những thực phẩm của đại tự nhiên.
-
Cám ơn sư phụ chỉ thị. Mong rằng con sẽ có cơ hội sống
ít lâu ở chùa hưởng thụ những tiếng chuông mõ ban mai,
những tiếng kinh kệ ban tối.
-
Tiếng thở là tiếng niệm kinh, nhịp tim đập là tiếng trống,
thân thể là chùa chiền, 2 tai là bồ đề. Không chỗ nào
là không thanh tịnh, việc gì phải đợi cơ hội sống ở
chùa?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
xưa nói dùng nơi ồn ào làm đạo trường. Chỉ cần dứt
bỏ vọng duyên, tạp niệm thì chỗ nào chả an tĩnh. Dù ở
núi sâu, cổ tự, nếu không bỏ được vọng tưởng thì cũng
không có cách nào mà tu được. Nhà Thiền đề cao tức khắc
đâu chờ ngày mai.
958. Một mớ rau tươi.
Tuyết
Phong, Nham Đầu, Khâm Sơn ba người kết bạn đi khắp nơi
tham phỏng, hoằng pháp. Một hôm đang định tìm nơi xin ăn
thì gập một con sông, nhìn thấy một mớ rau tươi trôi theo
dòng nước.
Khâm
Sơn:
-
Coi kìa, trên dòng nước có mớ rau, chúng ta hãy đi lên phía
trên, nhất định có nhà ở.
Nham
Đầu:
-
Mớ rau còn tươi, thật phí của trời!
Tuyết
Phong:
-
Thôn dân không biết tiếc phúc, không thể giáo hóa được,
chúng ta hãy tìm nơi khác khất thực.
Ba
người còn đang bàn luận thì thấy một người từ mạn trên
chạy xuống hỏi:
-
Các thầy có thấy một bó rau trôi ngang đây không? Con rửa
rau vô ý nên rau bị nước cuốn đi, nay con chạy đi vớt lại
để khỏi phí của trời!
Ba
người nghe xong cười lớn bảo nhau:
-
Chúng ta hãy đến nhà ông này tá túc.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Tiếc
vật gọi là tiếc phúc. Chỉ có người tiếc phúc mới được
phúc.
959. Đứng lại.
Một
hôm Vô Học đang đi ở pháp đường, Đầu Tử bước tới
lạy, hỏi:
-
Mật ý từ Tây sang, hòa thượng làm sao bảo người?
Sư
dừng bước.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Sự
đứng lại của Vô Học cũng có tác dụng tương tự như “im
lặng hồi lâu.” Đang đi bỗng đứng lại là chuyển từ
động sang tĩnh. Thiền sư không nói gì cả, trực tiếp dùng
sinh mạng thể nghiệm trình ra.
960. Vung tay.
Một
ông tăng hỏi Đại Lịch:
-
Vô vi là thế nào?
Sư
vung vẩy tay.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Vi
là làm, vô vi là không nhân duyên tạo tác, do đó không có
4 tướng: sinh, trụ, hoại, diệt. Niết bàn, pháp tánh, thật
tướng, pháp giới, tự tánh tuy khác tên nhưng đều chỉ chân
lý. Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là “tự tánh là thế
nào?” Động tác trực tiếp diễn tả tác dụng của tự
tánh, do đó thiền sư vung tay để đáp. Ở thiền sư thể
và dụng là một, nhưng đối với học tăng nếu chưa ngộ
thì lại là hai.
961. Cái chùa.
Một
hôm Bảo Phúc dạy đệ tử:
-
Nếu tới phía sau chùa thì gập ông Trương hoặc ông Lý, nhưng
nếu tới phía trước thì chẳng gập ai cả. Tại sao vậy?
Trong hai đường, đường nào tốt hơn?
Một
ông tăng thưa:
-
Chắc là lầm cảnh, nếu không thấy gì thì có lợi gì đâu!
-
Đồ ngu, chùa vẫn luôn như vậy.
-
Nếu không thấy chùa thì phải thấy một cái gì chứ?
-
Ta chỉ nói cái chùa chứ không nói về cái gì khác.
(Zen
Koans)
Chùa
ở đây tượng trưng cho thế giới thực tại. Sau chùa là
chỉ hiện tượng giới, trước chùa là chỉ cốt tủy và
thực tại của pháp. Khi tới sau chùa thì gập ông Trương,
ông Lý, núi, sông; khi tới phía trước thì không thấy gì
đặc biệt cả. Ông tăng phản đối nếu không nhìn thấy
gì thì chẳng có lợi gì. Nhiều người ngày nay cũng nói:
“Chỉ thấy mới tin.” Bảo Phúc mắng ông tăng chỉ nhìn
bề ngoài mà không thấy cốt tủy, thực tại. Chùa vẫn luôn
luôn là chùa chứ không là gì khác. Trong Phật giáo không có
được hay mất.
962. Phía Nam, phía Bắc.
Thạch
Sương trú ở phía Nam còn Quán Khê trú ở phía Bắc một ngọn
núi. Một hôm, một ông tăng từ tự viện phía Bắc tới tự
viện phía Nam để tham học. Thạch Sương bảo ông:
-
Tự viện phía Nam cũng không tốt hơn tự viện phía Bắc.
Ông
tăng không biết làm sao trả lời, về thuật lại cho thầy
nghe. Quán Khê bảo:
-
Sao ngươi không nói là thầy tôi đã sẵn sàng nhập diệt?
(Zen
Koans)
Như
câu nói “Cỏ nhà hàng xóm bao giờ cũng xanh hơn”; một người
sống trong thế giới so đo luôn luôn tìm một bãi cỏ xanh
hơn, như ông tăng trong chuyện này. Thạch Sương chỉ cho ông
biết tự viện mà ông vừa rời bỏ là một nơi để tham
học rất tốt. Thối chí vì thái độ không cạnh tranh này,
ông tăng không biết làm sao trả lời. Thầy ông phản ứng
với lời khen bằng câu “Ta sẵn sàng nhập diệt.” Cả hai
vị thầy đều gắng chỉ cho ông tăng chân lý ở bên trong
chứ không ở nơi nào khác.
963. Giáo lý cao hơn.
Động
Sơn bảo đại chúng:
-
Các ngươi nên biết còn có giáo lý cao hơn Phật giáo.
Một
ông tăng bước ra hỏi:
-
Giáo lý cao hơn Phật giáo là gì?
-
Không phải là Phật.
(Zen
Koans)
Động
Sơn sống dưới đời nhà Đường, thời hoàng kim của Phật
giáo, và học hỏi với nhiều thiền sư như Quy Sơn, Nam Tuyền,
Vân Nham. về sau, ông thiết lập dòng thiền Tào Động. Vài
vị thiền sư rất thô bạo, hoặc đánh hoặc đuổi thiền
sinh ra khỏi thiền viện; còn Động Sơn thì hiền từ và hiểu
biết. Câu nói của ông là để chống lại sự ngưng trệ.
Nhiều người nghe những câu như “Thiền là một cách sống,” “Nhìn sự vật như chính nó”, “Ta bà là Niết Bàn”. .
. nghĩ rằng mình đã hiểu Thiền và không học hay tìm kiếm
gì nữa. Câu “Không phải là Phật” là Động Sơn chỉ cho
những thiền sinh tìm kiếm giác ngộ. Nhưng với những người
nhập môn Động Sơn sẽ nói là Phật. Luôn luôn có 2 cách
học hỏi: Một là tiến về trước, một là quay trở lại.
Chúng ta tìm giác ngộ, Phật giới bình đẳng, cái một, nhưng
chúng ta cũng luôn quay lại thế giới nhân loại cụ thể này.
Chúng ta tìm thấy Phật trong con người, phổ quát trong riêng
biệt, bình đẳng trong bất bình đẳng, hòa hợp trong bất
hòa hợp, một trong tất cả. Chúng là 2 nhưng cũng là một.
Đừng chỉ chấp vào Phật hay người, đó là lời dạy của
Động Sơn.
964. Thiền trượng của Phần Dương.
Phần
Dương chỉ cây thiền trượng bảo đại chúng:
-
Ai hiểu cây thiền trượng này thì hiểu mục đích của Thiền.
(Zen
Koans)
Thường
lệ một thiền sinh đi thăm nhiều thiền sư để học hỏi
và thử nghiệm trình độ hiểu biết nông sâu của mình. Đối
với những thiền sinh du phương này cây thiền trượng đã
trở thành biểu tượng cho sự đi tìm chân lý. Phần Dương
là một người rất sốt sắng, ông đã đi tham học hơn 70
vị tôn túc. Tới thăm một vị thiền sư không phải là để
nhận một cái gì mà là một cơ hội để tự đào sâu vào
chính mình. Đạo Nguyên có nói: “Học Thiền là học chính
mình.”
965. Thuyền sắt.
Khi
Huyền Sa học với Tuyết Phong, một bạn đồng học tên Quang
nói:
-
Nếu thầy đạt được một cái gì đó, tôi sẽ đóng một
cái thuyền sắt và dong ra biển lớn.
Nhiều
năm sau, Huyền Sa trở thành một thiền sư, và ông tăng Quang
trở thành thị giả.
Một
hôm, Huyền Sa hỏi ông:
-
Ngươi đã đóng cái thuyền sắt chưa?
Quang
yên lặng.
(Zen
Koans)
Huyền
Sa học Thiền năm 30 tuổi với Tuyết Phong; bạn đồng học
nhỏ tuổi hơn tên Quang đưa ra câu nói về cái thuyền sắt
ở thế kỷ 8 và 9, khi người Trung Hoa chưa bao giờ mơ rằng
có tầu bằng sắt như chúng ta có ngày nay. Tuy ông tăng Quang
học thiền sớm hơn Huyền Sa, học hỏi và giữ gìn giới
luật chặt chẽ nhiều năm nhưng sự giác ngộ hãy còn xa vời.
Nhiều năm sau khi Huyền Sa đã là thiền sư và ông tăng trở
thành thị giả của mình, ông hỏi về cái thuyền sắt không
phải là để châm biếm hay trả thù Quang. Đó là câu nói
hiền từ nhất mà ông có thể cho Quang để đánh thức Quang
dậy. Ngộ không thể đạt được bằng thời gian thực hành
và giữ giới, cũng không bằng sự thu lượm kiến thức.
966. Chém rắn.
Một
ông tăng đến tham học với Trí Thường, gập lúc Trí Thường
đương
cuốc đất. Trong đám cỏ bỗng có một con rắn bò ra, thiền
sư giơ cuốc lên bổ. Ông tăng nói:
-
Từ lâu ngưỡng mộ đạo phong, đến nơi chỉ thấy một gã
tục nhân thô lỗ.
-
Như lời ngươi thì ta thô hay ngươi thô?
-
Thế nào là thô?
Trí
Thường hạ cuốc xuống.
-
Thế nào là tế?
Trí
Thường giơ cuốc lên làm bộ chém rắn.
Ông
tăng không hiểu ý, phàn nàn:
-
Thầy nói thô, tế làm người ta chẳng hiểu gì cả.
-
Vậy đừng nói thô, tế; xin hỏi ngươi thấy ta chém rắn
ở đâu?
-
Ngay đây!
-
Ngay đây ngươi đã không kiến tự kỷ, còn xem chém rắn làm
gì?
Ông
tăng cuối cùng tỉnh ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Cấm
sát sanh là một đại giới. Trong Thiền sử đã có chuyện
Nam Tuyền chém mèo, hành động đó là đại cơ, đại dụng
là để chặt đứt vật dục và chấp trước cho đại chúng.
Trong công án này, Trí Thường giơ cuốc lên làm bộ chém rắn,
ông tăng thấy gió nghĩ đến mưa nên phê bình thiền sư là
thô lỗ, không có lòng từ bi. Trí Thường dạy ông tăng không
nên ngưng lại ở kiến văn giác tri (biết do thấy, nghe). Thiền
phải cắt đứt cái thường tình, thường thức. Tại sao cứ
nhất định phải theo ngoại cảnh phân biệt mà không lập
tức quan tâm đến chính mình?
967. Thuận buồm suôi gió.
Một
tối Động Sơn thuyết pháp nhưng không thắp đèn, có ông
tăng Năng Nhẫn hỏi Động Sơn vì sao không thắp đèn. Động
Sơn kêu thị giả thắp đèn rồi bảo Năng Nhẫn:
-
Ngươi lại đây.
Năng
Nhẫn bước ra trước; Động Sơn bảo thị giả:
-
Ngươi đi lấy 3 cân dầu tặng vị thượng tọa này.
Năng
Nhẫn phất tay áo ra khỏi giảng đường. Qua một đêm tham
cứu Năng Nhẫn có chỗ ngộ, liền mang hết tiền ra biện
trai cúng dường đại chúng. Sau đó ông theo chúng sinh hoạt.
3 năm sau, ông đến từ biệt Động Sơn. Động Sơn cũng không
giữ lại chỉ nói:
-
Chúc ngươi thuận buồm suôi gió.
Lúc
đó, Tuyết Phong đứng bên cạnh Động Sơn; khi Năng Nhẫn
bước ra ngoài rồi, bèn hỏi:
-
Ông tăng này đi rồi, không biết bao giờ trở lại?
-
Ông ta biết ông ta có thể đi, nhưng không biết bao giờ có
thể về. Nếu ngươi không ngại, hãy đến tăng đường coi
thử.
Tuyết
Phong đến tăng đường mới biết Năng Nhẫn ngồi thiền mà
tọa hóa rồi. Tuyết Phong chạy đi báo cáo cho Động Sơn.
Động Sơn bảo:
-
Ông ta tuy chết rồi, nhưng so với ta đã chậm 30 năm.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Thiền
tăng Năng Nhẫn trách Động Sơn thuyết pháp mà không thắp
đèn; trong tối cần ánh sáng đó là thường tình. Động Sơn
sai thị giả thắp đèn đó là thuận theo thường tình, nhưng
lại sai thị giả tặng Năng Nhẫn 3 cân dầu đó là bất
bình thường. Có thể nói đây là Động Sơn rất từ bi; cũng
có thể nói là Động Sơn bóng gió chỉ trích Năng Nhẫn tham
cầu. Dù thế nào, Năng Nhẫn ngộ đạo rồi, thí tài thiết
trai là hiển thị xả bỏ tham cầu. Năng Nhẫn ngộ đạo rồi
còn trú 3 năm, khi thế duyên đã dứt mới cáo từ nhập diệt
Động Sơn chúc ông thuận buồm suôi gió. Dưới mắt nhà Thiền,
chết là về nhà. Nhưng Động Sơn sống mà nói Năng Nhẫn
chậm hơn ông 30 năm tức là nói Động Sơn 30 năm trước đã
sớm biết pháp thân không có sanh tử vậy.
968. Tất cả đều là Thiền.
Một
ông vân thủy tăng nghe nói Vô Tướng thiền sư Thiền đạo
cao diệu, liền tìm đến tranh biện. Chú sa di thị giả ra
tiếp đãi:
-
Thầy tôi đi vắng, có chuyện gì xin cứ cho biết, tôi có
thể thay thế.
-
Chú còn nhỏ quá, không được đâu!
-
Tuổi tuy nhỏ nhưng trí tuệ không nhỏ.
Vân
thủy tăng nghe có lý, bèn dùng ngón tay vẽ một vòng tròn
nhỏ rồi chỉ ra phía trước. Thị giả dùng cả 2 tay vẽ
vòng tròn lớn. Ông tăng giơ ngón tay lên, thị giả giơ 5 ngón
tay. Ông tăng lại giơ 3 ngón lên, thị giả lấy tay chỉ vào
mắt. Ông tăng hoảng sợ lạy 3 lạy rồi đi. Ông tăng nghĩ
bụng ta vẽ vòng tròn nhỏ rồi chỉ ra phía trước là hỏi
tâm ngươi lớn nhỏ thế nào? Hắn dùng 2 tay vẽ vòng tròn
lớn ý nói to như biển lớn. Ta giơ một ngón tay lên là hỏi
coi thân ngươi thế nào? Hắn giơ 5 ngón tay là chỉ thân thọ
ngũ giới. Ta lại giơ 3 ngón tay hỏi 3 giới thì sao? Hắn chỉ
vào mắt nói 3 giới chỉ ở trong mắt. Thị giả đã cao minh
như vậy thì thầy hắn phải cao thâm vào bậc nào, 36 kế
chỉ có chạy là hơn cả.
Khi
Vô Tướng về thị giả thuật lại cho thiền sư nghe:
-
Bạch thầy, không biết ông tăng đó làm sao biết nhà con bán
bánh nên giơ 1 ngón tay lên vẽ vòng tròn nhỏ, là bảo bánh
của nhà ngươi làm chỉ to thế này là cùng. Con vung 2 tay vẽ
vòng tròn lớn để bảo lớn như thế này cơ. Ông ta giơ một
ngón tay lên hỏi có phải bán 1 đồng một cái không? Con giơ
5 ngón tay trả lời 5 đồng chỉ mua được một cái thôi.
Ông ta lại giơ 3 ngón tay lên mặc cả 3 đồng một cái có
được không? Con giơ tay chỉ vào mắt là mắng ông đồ vô
lương tâm có mắt không tròng, bánh ngon và rẻ như vậy mà
còn trả giá. Ông ta sợ quá chạy mất.
Vô
Tướng nghe rồi dạy:
-
Tất cả đều là Pháp, tất cả đều là Thiền, chú hiểu
không?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phật
pháp giảng cơ duyên, Thiền là cơ duyên. Nếu hiểu thì bất
cứ ở đâu, lúc nào, người nào, việc nào đều là Thiền.
Nếu không hiểu thì có nói đến hoa trời rơi loạn, đối
với Thiền cũng vô can. Trong Thiền sử có trà Triệu Châu,
có bánh Vân Môn đều là Thiền. Tục ngữ có câu “Người
giảng vô tâm, người nghe hữu ý.”, cho nên Vô Tướng nói
tất cả đều là pháp, là Thiền vậy.
969. Ý Tây sang.
Hồng
Châu Pháp Hội hỏi Mã Tổ:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
-
Ngươi lại gần đây ta bảo nhỏ cho nghe.
Sư
bước lại gần, tổ cho một tát tai, và bảo:
-
Sáu tai chẳng đồng mưu, ngày mai hãy tới.
Hôm
sau sư đến vừa vào pháp đường thưa:
-
Thỉnh hòa thượng nói.
-
Đi đi, đợi lão hán thượng đường sẽ chứng minh cho ngươi.
Sư
bèn ngộ, thưa:
-
Tạ ơn đại chúng chứng minh.
Sư
đi nhiễu pháp đường một vòng rồi đi.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ý
Tây sang là chỉ Đạt Ma từ Tây thổ sang truyền ý chỉ gì?
Câu này giống như câu “Đại ý Phật pháp là gì?” đều
là hỏi về tự tánh. Để trả lời Mã Tổ cho một bạt tai
lại nói sáu tai chẳng đồng mưu, và ra lệnh ông ngày mai
tới. Người không có 6 tai, vì vậy 6 tai ở đây là chỉ 6
căn là sáu khí quan của con người. Khi sáu căn gập sáu trần
thì sinh ra chủng chủng kiến văn giác tri. Tác dụng này khiến
tâm phân biệt cho hiện tượng và tự tánh là 2. Nếu muốn
nắm lấy tự tánh thì phải không cho sáu căn nương vào ngoại
duyên, mà phải luyện cho thân tâm là một, do đó Mã Tổ mới
nói sáu căn chẳng đồng mưu, cũng là chỉ Pháp Hội hãy còn
vọng tâm. Mã Tổ cho ông một tát tai là để giúp ông rời
bỏ vọng tâm mong cầu. Pháp Hội vẫn chưa hiểu khổ tâm
của Mã Tổ, hôm sau lại đến. Mã Tổ lại nói thác là đợi
mình thượng đường sẽ chứng minh cho ông. Cuối cùng Pháp
Hội đã hiểu mình còn vọng tâm mong cầu.
970. Gương cổ chưa lau.
Hữu
Đạo lúc mới đi hành cước, trên đường gập một quán
trà, nhân đang khát bèn vào quán. Chủ quán thấy là một vị
vân thủy tăng bèn ra chào hỏi:
-
Thiền sư, thật là khổ! Mời vào uống trà.
Chỉ
thấy Hữu Đạo mắt bình đạm nhìn trà bầy trên giá, im
lặng gật đầu. Chủ quán có vẻ là một cao thủ về Thiền,
thận trọng nói:
-
Chắc thầy là một vị thiền sư cao thâm, tôi có một vấn
đề xin thỉnh giáo, nếu thầy đáp được tôi xin cúng dường,
có được không?
-
Ông hỏi đi.!
-
Khi gương cổ chưa lau thì sao?
-
Đen như sơn.
-
Lau rồi thì sao?
-
Chiếu trời, chiếu đất.
-
Thật xin lỗi, tôi không cúng dường!
Nói
rồi, chủ quán xoay mình đi vào. Hữu Đạo ngạc nhiên nghĩ
thầm: Chẳng lẽ 10 năm tham thiền của ta cũng không bằng
chủ quán trà? Do đó, ông quyết tâm bế môn thâm tu. Ba năm
sau, Hữu
Đạo
lại đến quán trà. Chủ quán thân thiết chào hỏi:
-
A! Ba năm không gập, xin nhắc lại câu hỏi cũ: gương cổ
chưa lau thì sao?
Hữu
Đạo thuận miệng đáp:
-
Chỗ này cách xa Hán Dương không xa.
-
Gương cổ lau rồi thì sao?
-
Lầu Hoàng Hạc ở trước Hoàng Hạc châu.
-
Thỉnh thầy tiếp thọ cúng dường của chúng tôi.
Chủ
quán quay vào trong gọi:
-
Tiểu nhị, mang trà ngon ra đây!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Gương
cổ ở đây là chỉ tự tánh. Tự tánh vốn thanh tĩnh không
sanh diệt, tự chiếu sáng làm gì có chưa lau với lau rồi.
Do đó, lần đầu Hữu Đạo không được uống trà. Lần thứ
hai ông tùy tiện đáp, tức là nhận biết tự tánh ngay đó,
vì vậy đã được uống trà.
971. Bay vượt sanh tử.
Đạo
Tụ chuyên cần tu hành nhưng vẫn không khế ngộ. Nhìn quanh
các bạn đồng tu không thiếu người có thể ngộ. Tự nghĩ
mình không có tư cách học Thiền. Đã không có óc khôi hài,
lại không linh xảo, có lẽ nên làm một vị hành cước tăng
thì hơn. Do đó, thu xếp hành lý đến pháp đường từ biệt
sư phụ:
-
Lão sư, con đành hạnh phụ từ tâm của thầy. Con theo thầy
tu học đã 10 năm rồi mà chẳng đạt được gì cả; con không
có căn cơ học Thiền, nay đến từ biệt, vân du nơi khác.
Quảng
Ngữ kinh ngạc:
-
A! Vì sao chưa ngộ lại muốn đi? Chẳng lẽ đi nơi khác lại
có thể ngộ sao?
-
Con trừ ăn, ngủ ra đều tinh tiến tu trì, có dụng công nhưng
nhân duyên chẳng hợp. Nhìn các bạn đồng tu người nào cũng
khế cơ hồi quy căn nguyên cả. Con nghĩ nên làm một vị khổ
hạnh hành cước tăng là hơn.
Quảng
Ngữ nghe rồi bèn khai thị:
-
Ngộ là một loại nội tại lưu lộ, vốn không thể hình
dung, cũng vô pháp truyền đạt cho người khác, không thể
học, cũng không thể gấp. Cảnh giới của người khác là
cảnh giới của họ, ngươi tu Thiền là cảnh giới của ngươi.
Đó là 2 chuyện sao lại gom vào làm một?
-
Sư phụ! thầy không biết con so với bạn đồng học như chim
sẻ nhỏ so với đại bàng lớn.
-
Thế nào là lớn, là nhỏ?
-
Đại bàng dương cánh là có thể bay hàng trăm dậm trời,
chim sẻ nhỏ chỉ bay quanh sân vài trượng thôi.
-
Đại bàng bay trăm dậm, nhưng có vượt qua sanh tử không?
Đạo
Tụ không đáp, dường như đã ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
So
sánh là căn nguyên của phiền não. Thông minh, cơ trí như đại
bàng có thể bay trăm dậm, nhưng cũng không thể vượt bể
sanh tử. Chim sẻ nhỏ và đại bàng so sánh thì có nhanh chậm,
nhưng Thiền là bình đẳng. Đạo Tụ khi lìa bỏ so sánh liền
ngộ.
972. Bài học thứ nhất.
Đại
Niên là một ông tăng rất ham tạc tượng Phật. Nhưng vì
không được chuyên gia chỉ bảo nên những tượng ông tạc
không được như ý. Do vậy, ông quyết tâm đi tham học.Ông
đến tham Vô Đức hy vọng học được những kiến thức và
kỹ xảo về tạc tượng. Mỗi ngày Đại Niên đến pháp đường,
Vô Đức đều đưa cho ông một viên đá quý bảo ông cầm,
sau đó cùng ông nói chuyện trên trời, dưới biển, chuyện
gì cũng nói nhưng tuyệt nhiên không nói gì về tạc tượng
cả. Cứ như vậy, một giờ sau đòi lại viên đá quý và
bảo Đại Niên về tăng đường. Năm tháng liên tục như vậy,
Đại Niên rất phiền muộn nhưng không dám hỏi, cũng không
dám đề cập đến việc bảo mình cầm viên đá quý để
làm gì. Một hôm theo thường lệ Vô Đức đưa viên đá cho
Đại Niên, sắp sửa nói chuyện trên trời, dưới biển. Đại
Niên chạm tay vào viên đá thấy không đúng viên đá mọi
khi bèn hỏi:
-
Lão sư, hôm nay thầy không đưa viên đá quý cho con.
-
Vậy là gì?
Đại
Niên không nhìn, đáp ngay:
-
Chỉ là một hòn đá thường.
Vô
Đức vui vẻ cười, đáp:
-
Đúng rồi! Tạc tượng nhờ công phu bàn tay. Ngươi đã qua
bài học thứ nhất rồi.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
đời khi học một kỹ thuật là muốn thành tựu ngay, thậm
chí người học Phật cũng muốn thành Phật ngay. Ngộ tu chỉ
trong một sát na, nhưng các thiền sư đã phải trải qua một
thời gian dài tu trì, khảo nghiệm. Nhẫn nại là bài học
đầu tiên phải học.
973. Quốc sư là báu vật.
Huệ
Trung quốc sư, người Chiết Giang, tên tục là Nhiễm hiệu
Quang Trạch, là đệ tử của Lục tổ. Năm 26 tuổi vào Hà
Nam Đảng tử Cốc tu hành trải 40 năm, sau đó trú ở Nam Dương
Long Hưng Tự. Huyền Tông, Tang Tông, Đại Tông đều mời vào
cung thuyết pháp. Một hôm Đại Tông triệu kiến, chỉ một
vị nhân sĩ là Thái Bạch Sơn Nhân, không rõ tên tuổi, quê
quán bảo Huệ Trung:
-
Vị này tự nhận là kỳ nhân, thỉnh quốc sư khảo nghiệm.
Quốc
sư nhìn Thái Bạch Sơn Nhân rồi hỏi:
-
Bệ hạ nói ông là dị sĩ, xin hỏi sở trường của ông là
gì?
-
Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, làm văn, nhận
chữ
không
gì không biết, lại giỏi toán mạng.
-
Xin hỏi Sơn nhân, núi Thái Bạch ông trú là núi đực hay cái?
Thái
Bạch không đáp được. Huệ Trung lại chỉ đất hỏi:
-
Xin hỏi đây là đất gì?
-
Toán một quẻ liền biết.
Huệ
Trung vạch một vạch trên đất hỏi:
-
Đây là chữ gì?
-
Chữ nhất.
-
Trên đất (thổ) thêm một vạch là chữ vương.
Lại
hỏi:
-
Ba bẩy là bao nhiêu?
-
Ba bẩy là hai mốt, ai chả biết?
-
Ba bẩy là mười, sao nhất định phải là hai mốt?
Đại
Tông đứng bên vui vẻ nói:
-
Trẫm có quốc vị chưa kể là quý; trẫm có quốc sư mới
thiệt là quý vậy!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Bọn
giang hồ thuật sĩ hoặc thông thiên văn, địa lý, hoặc giỏi
xem quẻ, xem tướng tự cho là thần kỳ, dị sĩ nhưng trước
Phật Đạo họ chỉ là bàng môn, tả đạo. Nhân vì đạo
do bên ngoài mà giải nên gọi là ngoại đạo. Thiền sư nội
tu, nội chứng cho nên Phật pháp còn gọi là nội học. Huệ
Trung khảo nghiệm sơn nhân tuy không phải là Phật pháp, nhưng
những lời nói từ thiền huệ mà ra nên ngoại đạo làm sao
ứng phó được.
974. Chặt ngón tay cầu pháp.
Đời
Đường, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch là người Quảng Châu, họ
Diệp. Lúc 9 tuổi, cha mẹ đưa đến Quảng Châu Hòa An Tự
xuất gia. Đến năm 16 tuổi đón ông về nhà, khiến ông hoàn
tục, lập gia đình. Huệ Tịch kinh sợ hỏi:
-
Tại sao lại như vậy?
Bố
Huệ Tịch bảo:
-
Lúc trước ta và mẹ ngươi đưa ngươi vào chùa, vì có một
ông thầy bói nói mạng ngươi bị nguy phải đầu cửa Phật,
cầu Bồ Tát bảo hộ, nếu không thì không thể nào ngươi
lớn lên được. Bây giờ ngươi đã qua khỏi vận nguy rồi,
có thể hoàn tục, kế thừa hương hỏa nhà họ Diệp. Ta và
mẹ ngươi đã xếp đặt một cuộc hôn nhân tốt đẹp, ngươi
bất tất phải về chùa sống khổ hạnh nữa.
Huệ
Tịch nghe rồi bi thống vạn phần. Một mặt thấy cha mẹ
dụng tâm rất khổ, ân tình thâm trọng, một mặt lại thấy
cha mẹ lợi dụng cửa Phật để bảo toàn tính mệnh cho con,
bây giờ vận nguy đã qua lại bỏ cửa Phật. Đây là loại
hành vi giả thiện, giả tín tự tư, tự lợi thật là tội
lỗi. Suy đi tính lại, Huệ Tịch quyết không tạo nghiệt
duyên, không theo lời cha mẹ mà thành hôn, nhưng dùng lời
mà cãi lại không được. Vì vậy thừa lúc người nhà không
để ý, dùng dao chặt đứt ngón tay út và ngón vô danh, quỳ
trước mặt cha mẹ thưa:
-
Con đã vào cửa Phật, chính là đệ tử, kiếp này nguyện
được chính đẳng, chính giác. Đại ân, đại đức của
cha mẹ con xin nguyện sẽ hồi hướng. Con không muốn hoàn
tục, nay chặt 2 ngón tay này để tỏ quyết tâm. Xin cha mẹ
thành toàn tâm nguyện cho con.
Cha
mẹ thấy máu chẩy đầm đìa từ 2 ngón tay, biết ý ông đã
quyết, đành phải cho phép ông về chùa. Về sau, lúc 18 tuổi
ông đến Giang Tây Cát Châu bái phỏng Đam Nguyên, được truyền
cho 96 loại viên tướng. Năm 26 tuổi đến tham học Quy Sơn
Linh Hựu, theo hầu 15 năm. Năm 35 tuổi lãnh chúng xuất thế,
thành đại đệ tử của Linh Hựu, sáng lập tông Quy Ngưỡng,
73 tuổi thị tịch. Người đời tôn xưng là Tiểu Thích Ca.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
đời đối với kẻ xuất gia thường không có nhận thức
đúng đắn. Có người cho là vì nghèo khổ mà phải xuất
gia, có người lại cho là vì thất tình mà xuất gia . . . Ngưỡng
Sơn nếu không có đại tâm, đại nguyện không thể vào cửa
Phật, làm sao có thể thành bậc tôn sư của một thời?
975. Chân chính trả lời.
Vân
Nham là đệ tử của Dược Sơn, là sư phụ của Động Sơn.
Một hôm ông bảo đại chúng:
-
Có một người, hỏi câu nào hắn cũng đáp được.
Động
Sơn hỏi:
-
Trong nhà ông ta chắc có nhiều sách lắm?
-
Một chữ cũng không.
-
Vậy sao ông ta biết nhiều vậy?
-
Ông ta ngày đêm không ngủ.
-
Con có thể hỏi một câu không?
-
Câu trả lời của ông ta là không trả lời.
-
Nếu câu hỏi nào cũng trả lời được, tại sao lại không
trả lời?
-
Vì không trả lời chính là chân chính trả lời.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Nghi
vấn của Thiền là tâm trí nở hoa. Câu đáp của thiền sư
quả là thần bí. Thần bí vì không nói toạc ra. Không nói
toạc ra là dụng ý của thiền giả. “Nhà chứa vạn quyển
sách”, đó chỉ là mê, là trí thức sách vở. Ngày đêm
không ngủ là chỉ lúc đã ngộ, không ngủ là chỉ chân như
Phật tánh, lại còn muốn trả lời cái gì nữa? Do đó, không
trả lời là trả lời chân chính.
976. Làm sao thấy đạo?
Mã
Tổ lúc còn trẻ đến gập Hoài Nhượng hỏi:
-
Dụng tâm làm sao để có thể khế hợp với vô tướng tam
muội?
-
Ngươi học tâm địa pháp môn giống như gieo hạt; ta nói pháp
giống như trời mưa. Chỉ cần duyên hợp là có thể thấy
Đạo.
-
Thầy nói thấy Đạo là thấy Đạo gì? Đạo vốn không hình
tướng làm sao thấy?
-
Tâm địa pháp nhãn có thể thấy Đạo. Đạo vốn là vô tướng
tam muội, từ tâm địa pháp môn có thể thấy Đạo.
Thấy
Mã Tổ còn chưa rõ, Hoài Nhượng nói thêm:
-
Muốn khế hợp Đạo, thì Đạo vốn không đến, không đi;
không đầu, không cuối; không thành, không hoại; không trụ,
không tán; không dài không ngắn; không tịch, không náo; không
nhanh, không chậm. Nếu hiểu rõ vậy thì đó là hợp đạo.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đạo
là gì? Đạo không thời gian: không đầu, không cuối; Đạo
không không gian: không trong, không ngoài. Làm sao thấy Đạo?
Chỉ có rõ tự mình thường trú chân tâm mới thấy Đạo.
977. Chẳng thiếu tương.
Bách
Trượng là đồ đệ của Mã Tổ trú ở Đại Hùng Sơn, Mã
Tổ sai thị giả mang cho 3 vò tương. Bách Trượng nhận 3 vò
tương rồi sai đánh chuông tập chúng, giơ gậy lên bảo:
-
Đây là 3 vò tương Đạo Nhất cho. Nếu có ai trong các ngươi
nói được thì 3 vò tương không bị đập, ngược lại thì
sẽ bị đập.
Đại
chúng không ai đáp được. Bách Trượng dùng gậy đập vỡ
cả 3 vò tương.
Khi
thị giả trở về, Mã Tổ hỏi:
-
Ngươi đã đem 3 vò tương tới chưa?
-
Đem tới rồi!
-
Bách Trượng nhận tương rồi có biểu thị gì? nói gì?
-
Bách Trượng nhận tương rồi tập họp đại chúng; vì đại
chúng không ai nói được, liền dùng gậy đập vỡ hết.
Mã
Tổ nghe rồi cười ha hả, rất cao hứng khen rằng:
-
Thằng nhỏ này không sai!
Sau
đó Mã Tổ sai truyền lời đến Bách Trượng bảo ông viết
thư cho biết tình huống tu hành lúc ấy thế nào?
Bách
Trượng hồi đáp:
-
Lão sư, cám ơn thầy quan tâm. Từ khi đập vỡ vò tương,
30 năm đồ đệ chưa hề thiếu tương ăn.
Mã
Tổ rất bằng lòng lại viết cho Bách Trượng:
-
Nếu đã không thiếu thì hãy mang lại cho người.
Về
sau Bách Trượng sáng lập Bách Trượng thanh quy.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Các
vị thiền sư qua lại cũng có lúc theo nhân tình thế thái;
nhưng đều có hàm ý. Tương là đồ chấm không thể thiếu
của người tu. Mã Tổ cho tương ngụ ý không thể ly khai sinh
hoạt hàng ngày, tu luyện mù quáng. Bách Trượng đập vỡ
vò tương ngụ ý Thiền Đạo cái gì cũng có không cần lão
sư phải phiền tâm.
978. Phật Ấn và Tô Đông Pha.
Một
hôm Phật Ấn đăng đàn thuyết pháp. Tô Đông Pha đến tham
gia. Mọi người ngồi chật hết phòng, chẳng còn một chỗ
trống. Phật Ấn bảo:
-
Chật hết rồi, không còn chỗ cho học sĩ!
-
Nếu phòng này hết chỗ, tôi lấy thân tứ đại, ngũ uẩn
của thầy làm chỗ ngồi.
Phật
Ấn thấy Tô Đông Pha muốn luận Thiền liền nói:
-
Học sĩ! Ta có một vấn đề hỏi ông, nếu ông trả lời
được thì thân ta sẽ là chỗ ngồi cho ông, bằng không thì
ông phải để thắt lưng ngọc lại bản tự làm vật kỷ
niệm.
Tô
Đông Pha vốn tự phụ bèn đáp ứng. Phật Ấn hỏi:
-
Bốn đại vốn không, năm uẩn cũng chẳng có, xin hỏi học
sĩ ngồi ở chỗ nào?
Tô
Đông Pha không trả lời được, đành phải cởi thắt lưng
ngọc trao cho Phật Ấn. Thắt lưng này ngày nay vẫn còn
lưu giữ ở Kim Sơn Tự.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Sắc
thân chúng ta là do tứ đại: đất, nước, gió lửa giả hợp
mà thành, không phải là thực tại.
979. Nhặt nhiều một chút.
Đỉnh
Chân cùng một chú tiểu đi kinh hành trong sân chùa. Bỗng nhiên
có một cơn gió, lá từ cây rụng rào rào. Thiền sư khom lưng
nhặt từng chiếc lá bỏ vào túi. Chú tiểu đứng bên thưa:
-
Xin thầy đừng nhặt nữa, sáng mai chúng con sẽ quét.
Đỉnh
Chân không cho là phải:
-
Đừng nói thế, chẳng lẽ cứ quét là sạch hết sao? Ta nhặt
nhiều một chút thì đất sạch thêm một chút.
-
Lá rụng nhiều như thế, thầy nhặt phía trước, phía sau
lại rơi, thầy nhặt làm sao cho xuể?
Đỉnh
Chân vừa nhặt vừa trả lời:
-
Lá rụng không nhặt thì còn trên mặt đất, lá rụng ở tâm
địa chúng ta, ta nhặt nhất định có lúc phải hết.
Chú
tiểu nghe xong đã hiểu sinh hoạt của thiền giả như thế
nào. (Tinh Vân thiền thoại)
Khi
Đức Phật còn tại thế, có một đệ tử là Chu Lợi Bàn
Gia rất ngu xuẩn. Dạy ông một bài kệ, đọc câu trước
quên câu sau, đọc câu sau quên câu trước. Bất đắc dĩ Phật
hỏi ông hiểu cái gì? Ông thưa chỉ biết quét nhà. Phật
dạy ông khi quét nhà thì niệm quét sạch bụi bẩn. Lâu dần
ông nghĩ: bên ngoài bụi bẩn thì quét, trong tâm ô uế thì
phải làm sao quét? Cứ thế cuối cùng Chu Lợi Bàn Gia khai
ngộ. Đỉnh Chân nhặt lá là kiểm điểm những vọng tưởng
phiền não của tâm. Đại địa sơn hà có bao nhiêu lá rụng
không cần biết. Trong tâm có lá rụng nhặt một cái là ít
đi một cái. Chỉ cần tâm được an, lập tức có cả đại
thiên thế giới.
980. Là tà, là chánh?
Tiệm
Nguyên khi làm thị giả cho Đạo Ngô, có một lần bưng một
tách trà đến cho thầy, Đạo Ngô chỉ tách trà hỏi:
-
Là tà, là chánh?
Tiệm
Nguyên đến trước mặt Đạo Ngô, không nói một tiếng. Đạo
Ngô bảo:
-
Tà thì luôn tà, chánh thì luôn chánh.
Tiệm
Nguyên lắc đầu phản đối:
-
Con không nghĩ vậy.
-
Vậy ý ngươi thế nào?
Tiệm
Nguyên đoạt chén trà trong tay Đạo Ngô, hỏi ngược lại:
-
Là tà, là chánh?
Đạo
Ngô vỗ tay cười lớn:
-
Ngươi không hổ là thị giả của ta.
Tiệm
Nguyên lạy tạ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đạo
Ngô khai thị cho đồ đệ “là tà, là chánh?” là diễn tả
đạo lý người tà nói chánh pháp, chánh pháp liền thành tà,
người chánh nói tà pháp,tà pháp liền thành chánh. Có người
nói pháp làm mất tín tâm của người ta, có người thích
đánh, chửi lại làm cho người ta nhập Đạo. Người thầy
thuốc giỏi thì chất độc như thạch tín cũng trở thành
thuốc hay. Tiệm Nguyên nhận rằng trong vũ trụ các pháp đều
do nhân duyên mà sanh, diệt. Nếu hiểu rối thì chẳng chấp
thường, chấp đoạn là chánh, còn nếu cho vật nắm trong
tay là có là không thì là tà. Tiệm Nguyên đem đạo lý này
hỏi lại Đạo Ngô. Đạo Ngô hoan hỉ khích lệ Tiệm Nguyên,
hai thầy trò đã ăn ý với nhau.
981. Nơi mát mẻ.
Có
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Khi trời lạnh, nóng đệ tử đến nơi nào để tránh?
Động
Sơn đáp:
-
Sao không đến chỗ nào không lạnh, không nóng?
Ông
tăng hỏi:
-
Đó là chỗ nào vậy?
-
Đó là chỗ khi lạnh làm ngươi chết cóng, khi nóng làm ngươi
chết thiêu.
(Thiền
Chi Hoa)
Sợ
nóng, lạnh là vì có thân thể. Nếu như chứng được tự
tánh (pháp thân) vượt lên hình tướng thì chỗ nào cũng mát
mẻ, không chỗ nào là không tiêu dao, còn sợ gì nóng lạnh
nữa.
982. Ngày nào cũng tốt.
Vân
Môn có lần hỏi đồ chúng:
-
Ta không hỏi các ngươi: trước ngày rằm như thế nào mà
chỉ hỏi sau ngày rằm như thế nào?
Đồ
chúng không ai đáp được, Vân Môn bèn nói:
-
Ngày nào cũng tốt cả.
(Thiền
Chi Hoa)
Ngày
rằm trỏ sự khai ngộ, khi khai ngộ rồi thì tiêu dao, tự
tại, có thể tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Tác
giả Vô Môn Quan tán thưởng cái “tâm bình thường là đạo”
của Nam Tuyền làm một bài kệ như sau:
春
有 百 花 秋 有 月
Xuân
hữu bách hoa thu hữu nguyệt
夏
有 凉 風 冬 有 雪
Hạ hữu lương phong đông hữu tuyết
若 無 閒 事 掛 心 頭
Nhược vô nhàn sự quải tâm đầu
便
是 人 間 好 時 節
Tiện
thị nhân gian hảo thời tiết.
Hoa Xuân muôn đoá bóng trăng Thu.
Hạ có gió vàng, Đông tuyết rơi.
Tuyết nguyệt phong ba, lòng chẳng chấp.
Mỗi mùa, mỗi thú mặc tình chơi.
(Trúc
Thiên dịch)
“Lòng
chẳng chấp” chỉ tâm không nhiễm trần, không bị trói buộc,
cũng tương tự như câu trong Tâm Kinh: “Tâm vô quái ngại,
vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố viễn ly điên đảo mộng
tưởng.”
Nếu
được như thế thì ngày nào cũng là ngày tốt vậy.
983. Nước trong, trăng hiện.
Có
một lần Nham Đầu, Tuyết Phong và Khâm Sơn đương nói chuyện,
Tuyết Phong bỗng chỉ vào bồn nước trong.
Khâm
Sơn nói:
-
Nước trong, trăng tự hiện.
Tuyết
Phong bảo:
-
Nước trong, trăng chẳng hiện!
Nham
Đầu không nói, đạp đổ bồn nước đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Khâm Sơn: “Nước trong, trăng tự hiện” là khẳng định,
câu của Tuyết Phong: “Nước trong, trăng chẳng hiện” là
phủ định. Còn Nham Đầu không nói mà đạp đổ bồn nước
tỏ rằng mình đã vượt trên cả khẳng và phủ định. Vì
sao? Vì khi đạp đổ bồn nước đi rồi thì không còn nước,
cũng không còn trăng, ly khai sự chấp trong và đục (nước)
hiện và không hiện (trăng) tất cả đều tịch tĩnh, vọng
niệm chẳng sinh; đó chính là tự tánh chân chánh vậy.
984. Không chỉ một đường.
Có
ông tăng hỏi:
-
Triệu Châu là gì?
Triệu
Châu ngoảnh nhìn xung quanh rồi đáp:
-
Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc!
(Thiền
Chi Hoa)
Ông
tăng hỏi: “Triệu Châu là gì?” là có ý hỏi thiền phong
của Triệu Châu như thế nào? Triệu Châu có ý coi Triệu Châu
là một địa danh. Đó là thành Triệu Châu có bốn cửa Đông,
Tây, Nam Bắc; gián tiếp thuyết minh thiền phong của mình khai
phóng, không chỉ một đường mà tứ thông bát đạt vậy.
Cửa chân chính của thiền là không cửa. Lão Tử có nói đại
tượng vô hình, có hình là tiểu tượng. Nhà là tiểu tượng,
chân lý là đại tượng. Đại tượng hình còn không có lại
còn có cửa sao?
985. Hạt cải đựng núi Tu Di.
Thích
Sử Giang Châu Lý Bột hỏi Trí Thường:
-
Phật lý có giảng Tu Di đựng hạt cải, điều đó là tự
nhiên, đệ tử không thắc mắc; nhưng đối với câu hạt
cải đựng Tu Di thì cái hạt cải nhỏ xíu đó làm sao đựng
được cả một tòa núi to lớn kia, đó chẳng phải là dối
người hay sao?
Trí
Thường hỏi lại:
-
Nghe nói ông đọc qua thiên kinh, vạn quyển có hay không?
-
Có.
-
Đầu ông chỉ to bằng trái dừa, xin hỏi “Cái vạn quyển
ấy của ông làm sao mà xem được?”
(Thiền
Chi Hoa)
Tâm
sinh thì các pháp đều sinh, tâm diệt thì các pháp đều diệt.
Vạn pháp đều do tâm. Công án này thuyết minh tự tánh lớn
không ngoài, nhỏ không trong, không bị hạn chế; cũng như
không gian thì vô tận, hạn chế chỉ là do tâm của chúng
ta mà thôi.
986. Phật mặt trời, phật mặt trăng.
Mã
Tổ lúc sắp mất, viện chủ hỏi rằng:
-
Gần đây, Hòa thượng tâm cảnh ra sao?
Mã
Tổ đáp:
-
Phật mặt trời, Phật mặt trăng.
(Thiền
Chi Hoa)
Phật
mặt trời là chỉ trường kỳ (dụ cho Pháp thân), Phật mặt
trăng là chỉ đoản kỳ (dụ cho Sắc thân). Ý của Mã Tổ
là: ở trên đời này, sống lâu hay chết yểu không có gì
là quan hệ cả; tối cần yếu là sống làm sao cho có ý nghĩa,
làm sao phát hiện được chân ngã. Khổng Tử có nói: “Sáng
đuợc nghe đạo, chiều chết cũng cam!” Kinh Nát Bàn cũng
có nói: “Phật tánh không thường, không vô thường mà là
không gián đoạn!” Đời sống của chúng ta có ý nghĩa khi
thể nghiệm đuợc cái bất đoạn ấy của tự tánh.
987. Phó Đại Sĩ giảng kinh.
Thiện
Huệ bồ tát có danh là Phó Đại Sĩ sinh năm 497 dương lịch
là một vị thiền sư tiên phong xuất sắc. Có lần Lương
Võ Đế mời giảng kinh Kim Cương. Ngài lên giảng đàn, đánh
vào mõ một cái rồi đi xuống làm Lương Võ Đế rất ngạc
nhiên.
Thiện
Huệ hỏi Lương Võ Đế:
-
Bệ Hạ hiểu không?
Lương
Võ Đế trả lời:
-
Trẫm không hiểu gì cả!
Thiện
Huệ nói:
-
Đã giảng xong bộ kinh rồi!
(Thiền
Chi Hoa)
Kinh
Phật là sự miêu tả cảnh giới giải thoát của chư Phật.
Nếu chúng ta muốn giải thoát thì phải thực tu, thực chứng.
Giảng kinh chẳng qua chỉ là một phương tiện thôi. Khi không
giảng kinh thì cái đạo lý của kinh vẫn tồn tại trong vũ
trụ, nếu giảng ra thì khó mà không bị sơ xuất. Do đó phương
pháp giảng kinh hay nhất là không giảng. Phó Đại Sĩ không
giảng kinh là để chỉ cái Thể của Đạo tròn đầy, thông
suốt không thể dùng lời mà nói được.
988. Hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang.
Cư
sĩ Bàng Uẩn lần đầu gặp Thạch Đầu hỏi rằng:
-
Ai là người không cùng vạn pháp là bạn?
Thạch
Đầu lấy tay bụm miệng cư sĩ lại. Cư sĩ phảng phất khai
ngộ, lại tìm Mã Tổ mà đặt cùng câu hỏi.
Mã
Tổ nói:
-
Đợi ngươi, hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang ta sẽ
bảo!
Nghe
lời nói đó Bàng Uẩn đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
hỏi của Bàng cư sĩ: “Ai là người không cùng với vạn
pháp là bạn?” là hỏi về tự tánh. Thạch Đầu bụm miệng
cư sĩ không cho nói. Và câu đáp của Mã Tổ: “Hớp một
ngụm cạn hết nước Tây Giang” là một việc không thể
làm được; cả hai
đều
ngụ ý: không thể dùng lời mà diễn tả tự tánh được.
989. Đầu con mèo chết là quý nhất.
Có
ông tăng hỏi Tào Sơn:
-
Ở thế gian này, cái gì là quý nhất?
-
Đầu con mèo chết là quý nhất.
-
Tại sao đầu con mèo chết lại quý nhất?
Tào
Sơn đáp:
-
Vì không có người ra giá.
(Thiền
Chi Hoa)
Tào
Sơn dùng đầu con mèo chết để đả phá sự bó buộc của
tánh lý luận và tánh tương đối khiến cho tự tánh tuyệt
đối hiển lộ. Cái tự tánh này ở trong vạn vật và không
thể ly khai ra được.
990. Trị bệnh.
Có
ông tăng bạch với Tào Sơn:
-
Đệ tử biết mình có bệnh, mong lão sư trị cho.
Tào
Sơn đáp:
-
Không trị.
Ông
tăng kinh ngạc hỏi:
-
Tại sao không trị?
-
Muốn bảo ngươi cầu sanh chẳng được, cầu chết chẳng
xong.
(Thiền
Chi Hoa)
Sanh
và tử là tương đối, vì có chấp sanh tử nên mới cầu
trị bệnh. Giả như hiểu được vạn vật trong thế gian này
đều là do nhân duyên giả hợp. Duyên tụ thì thành, duyên
tán thì diệt; hỗ tương mà tồn tại, không có độc lập
tính và chủ thể tính. Nếu hiểu được như vậy thì chứng
nhập được cảnh giới chân không. Lúc đó, sanh tử không
làm động tâm thì hà tất phải cầu trị bệnh. Dĩ nhiên,
đây chỉ là một công án thiền, trong đó thiền sư lợi dụng
những sinh hoạt thường ngày để khai ngộ cho thiền sinh chớ
không phải kêu người có bệnh không trị, nằm mà chờ chết.
991. Chân dung Triệu Châu.
Có
một ông tăng vẽ một bức chân dung Triệu Châu, bức họa
sinh động như thực, mang tặng Triệu Châu.
Triệu
Châu không cám ơn, còn nói rằng:
-
Giả như bức họa này chính là ta, thì là giết ta đó, còn
không thì đem mà thiêu nó đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Bức
chân dung của Triệu Châu chỉ là do những duyên hư ảo hòa
hợp mà thành, chớ không phải là Triệu Châu chân chính. Giả
sử bức chân dung có thể đại biểu cho Triệu Châu thì ta
có hai Triệu Châu. Vậy Triệu Châu nào là thực, Triệu Châu
nào là giả? Câu nói của Triệu Châu hàm ý phá trừ ngẫu
tượng (tượng thần), muốn chúng ta không bị hình tướng
không thực bên ngoài làm mê hoặc tự tánh.
992. Trừ danh.
Động
Sơn biết mình không còn sống được bao lâu nữa chiêu tập
môn đệ lại, nói rằng:
-
Ta tại thế gian có lưu lại một chút hư danh, ai vì ta mà
bỏ nó đi?
Mọi
người không lời đáp lại.
Lúc
đó, có một sa di chạy ra nói:
-
Xin hỏi Hòa thượng pháp hiệu là gì?
Động
Sơn hoan hỉ :
-
Cái hư danh của ta đã bỏ được rồi!
(Thiền
Chi Hoa)
Động
Sơn nhận rằng muốn minh tâm kiến tánh trước hết phải
quên danh. Nếu không muốn quên danh mà muốn thành Phật thì
chẳng khác nào xây lâu đài trên bãi cát. Sa di hỏi pháp hiệu
tỏ rằng không biết có Động Sơn, cũng chỉ Động Sơn chẳng
có danh tiếng gì lưu lại ở đời. Danh lợi, tư dục làm
che mất tự tánh vậy.
993. Kêu tự ngã ra.
Đại
phu Lục Hằng hỏi Nam Tuyền:
-
Người xưa nuôi một con ngỗng nhỏ ở trong bình, dần dần
con ngỗng nhỏ lớn lên không có cách nào ra khỏi bình. Giờ
xin hỏi, làm sao cho con ngỗng ra mà không phải phá bình, cũng
không làm con ngỗng bị thương.
Nam
Tuyền gọi lớn:
-
Đại phu.
Lục
Hằng thưa:
-
Dạ!
Nam
Tuyền nói:
-
Đã ra rồi!
(Thiền
Chi Hoa)
Nam
Tuyền không trả lời thẳng vào vấn đề vì loại vấn đề
này không có lời giải. Giả như động niệm trả lời tức
là tự mình làm cho mình mắc lưới vậy. Nam Tuyền cố ý
kêu lớn tiếng để thức tỉnh Lục Hằng. Chỉ cần tâm không
bị ràng buộc, tự tánh tự nhiên hiển lộ. Tìm kiếm bên
ngoài chẳng khác gì vấn đề trên, càng tìm kiếm càng mê
man, vĩnh viễn không thấy được tự tánh. Nam Nhạc Huệ Tư
đại sư đã nói: “Đạo vốn không xa, bể tánh không động,
hướng ngoại tìm, cầu chẳng bao giờ thấy!” là cũng ý
đó vậy.
994. Uống rượu, ăn thịt.
Hồng
Châu Liêm Sứ hỏi Mã Tổ:
-
Nên hay không nên uống rượu , ăn thịt?
-
Uống rượu, ăn thịt là duyên phận, không uống rượu, ăn
thịt là phúc khí!
(Thiền
Chi Hoa)
Theo
thuyết Luân Hồi của nhà Phật, gieo nhân thì gặt quả, “Muốn
biết đời trước tạo nhân gì, hãy xem đời này chịu quả
nào. Muốn biết đời sau chịu quả gì, hãy xem đời nay tạo
nhân gì.” Quả báo đối với người như bóng theo hình, do
đó nếu một người có phúc báo uống rượu, ăn thịt thì
đó là những chủng tử từ đời trước đã chín mùi nay
hiện thành. Do đó mới nói vinh hoa phú quý là duyên phận.
Nhưng nếu có phúc báo mà không hưởng thụ lại giữ giới
tu thiền thì đó là phúc khí. Vì phúc báo đã hưởng hết
rồi thì cũng bị đọa lạc lại; cũng như bắn một mũi tên
lên trên không, khi lực tận thì tên phải rơi xuống. Bậc
trời mà phúc báo hết cũng phải quay lại luân hồi huống
hồ chúng ta là người phàm, do đó chẳng nên giữ giới làm
lành ư? Đây là Mã Tổ khuyên chúng ta nên tiếc phúc, bồi
phúc, tu phúc vậy.
995. Lạc vào giai cấp nào?
Hành
Tư tham bái Lục Tổ hỏi rằng:
-
Phải làm thế nào để khỏi rơi vào giai cấp?
Lục
Tổ hỏi:
-
Từ trước đến giờ ngươi làm gì?
-
Thánh đế cũng chẳng làm!
-
Vậy ngươi rơi vào giai cấp nào?
-
Thánh đế cũng chẳng làm thì còn rơi vào giai cấp nào nữa?
Lục
Tổ nghe rồi, cho là bậc pháp khí.
(Thiền
Chi Hoa)
Phật
giáo có bốn thừa, mười địa, bốn thiền, tám định đều
là những giai đoạn của sự tiệm tu. Thiền tông chủ trương
đốn ngộ, kiến tánh thành Phật đương nhiên không dùng những
phương pháp này. Nguyên lai, Hành Tư đã khai ngộ đến bái
phỏng Lục Tổ là để cầu chứng mà thôi. Lục Tổ đem những
phương pháp tu trì phổ thông để khảo nghiệm, ông đều
phủ nhận. Đã phủ nhận Thánh đế tức cũng phủ nhận Tục
đế đều là danh tướng đối đãi. Lục Tổ thấy Hành Tư
đã vượt lên cả hai cảnh giới phàm thánh do đó mà hoan
hỉ.
996. Mai đã chín rồi.
Đại
Mai lần thứ nhất đến gặp Mã Tổ hỏi rằng:
-
Thế nào là Phật?
Mã
Tổ đáp:
-
Tức tâm, tức Phật.
Ngay
chính lúc đó Đại Mai khai ngộ, về sau lên tu ở trên núi.
Mã Tổ phái một Hòa thượng đến khảo nghiệm Đại Mai.
Vị
Hòa thượng này hỏi Đại Mai:
-
Khi ông ở với Mã Tổ học được những gì?
-
Mã Tổ dạy tôi, “Tức tâm, tức Phật”.
Vị
Hòa thượng này lại nói:
-
Hiện nay Mã Tổ đã cải biến pháp rồi, ngài nói “Phi tâm,
phi Phật!” Ông thấy thế nào?
Đại
Mai quát lên:
-
Cái lão Hòa thượng già này chỉ giỏi trêu người, ai cần
biết phi tâm, phi Phật là cái quái gì, ta chỉ biết tức tâm,
tức Phật.
Vị
Hòa thượng này về thuật lại cho Mã Tổ nghe, Mã Tổ cao
hứng nói:
-
Mai đã chín rồi!
(Thiền
Chi Hoa)
“Mai
đã chín rồi”, chỉ Đại Mai đã khai ngộ. “Tức tâm, tức
Phật”, chỉ sự khẳng định. “Phi tâm, phi Phật” chỉ
sự phủ định. Mặc dầu Mã Tổ đã cải biến thuyết pháp
nhưng tín niệm của Đại Mai vẫn không bị dao động, không
tin theo thầy một cách mù quáng; vì vậy mà được Mã Tổ
khen ngợi.
997. Câu chuyện cái bánh.
Long
Đàm thuở chưa xuất gia rất nghèo túng, Đạo Ngộ ngăn phòng
cho ở căn nhà nhỏ cạnh chùa. Cảm kích sự trợ giúp của
Đạo Ngộ, mỗi ngày Long Đàm mang biếu thiền sư mười cái
bánh. Đạo Ngộ mỗi lần nhận bánh đều giao hoàn lại một
cái cho Long Đàm và nói:
-
Đây là ta cho ngươi, hy vọng con cháu ngươi sẽ sung túc!
Long
Đàm lấy làm lạ nghĩ thầm bánh là của mình, giao trả lại
một cái sao lại nói là cho? Bèn hỏi Đạo Ngộ.
Đạo
Ngộ nói:
-
Đúng là do ngươi mang tới, cho lại ngươi thì có gì là sai
quấy đâu?
Long
Đàm nghe rồi có chỗ lãnh ngộ, bèn quyết tâm xuất gia.
(Thiền
Chi Hoa)
Đạo
Ngộ ngăn phòng cho Long Đàm ở là chỉ của ta là của người.
Lấy bánh của Long Đàm rồi cho lại Long Đàm là chỉ của
người là của ta. Đó là Năng Sở chẳng hai., ta người một
thể; (Năng là chủ thể, Sở là khách thể) nghĩa là không
có tự tha, vật ngã. Tương tự như Mạnh Tử trên dưới cùng
trời đất luân chuyển và Trang Tử, “Trời đất và ta cùng
sinh, vạn vật với ta là một.” Nhà Phật đặc biệt nhấn
mạnh đến ngã không và pháp không. Ngã không là không chấp
tự tha; pháp không là không chấp vật ngã. Vượt ngoài tự
tha, vật ngã là vượt ngoài chủ thể và khách thể chứng
nhập chân như bản tánh. Có lẽ Long Đàm đã hiểu được
ý đó nên mới quyết tâm xuất gia.
998. Con chó ở Tử Hồ.
Để
khảo nghiệm ngộ tánh của đại chúng Nam Tuyền nói:
-
Tử Hồ có một con chó rất lợi hại; có thể ở trên cắn
đầu, ở giữa cắn tim, ở dưới cắn chân. Giả sử các
ngươi gặp con chó đó thì phải làm thế nào?
Mọi
người xôn xao bàn tán mà chẳng đi đến đâu.
Sau
có Tang Sinh hỏi thiền sư:
-
Con chó ở Tử Hồ như thế nào?
Nam
Tuyền sủa ra ba tiếng.
(Thiền
Chi Hoa)
Tử
Hồ là tên núi nơi Nam Tuyền cư trú. Ở đây, con chó là trỏ
Nam Tuyền, ám chỉ ý tưởng vật ngã bình đẳng vì chúng
sinh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật.
Cái Phật tánh ấy ở bậc thánh nhân không tăng thêm, ở kẻ
phàm không giảm đi. Tiếng sủa là thanh trần không phải là
con chó; nhưng muốn tìm con chó thì ta có thể nương theo tiếng
sủa của nó mà tìm thấy được. Công án này cho ta thấy
sự liên quan của Thể, Tướng, Dụng vậy.
999. Có và không.
Có
vị cư sĩ hỏi Trí Tạng:
-
Có thiên đàng, địa ngục không?
-
Có.
-
Có Phật, Pháp, Tăng tam bảo không?
-
Có.
Cư
sĩ hỏi liên miên qua nhiều vấn đề khác, Trí Tạng đều
trả lời “Có.”
Cư
sĩ không nhẫn nại được nữa tức giận nói:
-
Sao cái gì thiền sư cũng đáp có, không nói khác được sao?
Đệ tử đã từng đem những vấn đề trên ra hỏi Hòa thượng
Kinh Sơn, cái gì ngài cũng đáp là không. Tại sao thiền sư
và hòa thượng Kinh Sơn lại tương phản như thế?
Trí
Tạng hỏi cư sĩ:
-
Ngươi có vợ con không?
-
Có.
-
Hòa thượng Kinh Sơn có vợ con không?
Cư
sĩ cười đáp:
-
Không có.
-
Cứ thế mà nói, hòa thượng Kinh Sơn đáp không lại chẳng
đúng sao?
Cư
sĩ nghe rồi tức khắc đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Dùng
“Có” là để chỉ thế gian pháp, “không” là để chỉ
xuất thế gian pháp. Không phải cứ ly gia cắt ái mới là
học Phật; người Phật tử tại gia trong những sinh hoạt
hàng ngày cũng đều có hòan cảnh để tu học. Vì thế, không
cần phải xả thế gian pháp, trốn tránh trách nhiệm làm người
mà chỉ cần phát bồ đề tâm, hành bồ tát đạo, lấy tinh
thần xuất thế mà nhập thế, lập nên đại nghiệp.
1000. Mời uống trà.
Có
lần Triệu Châu hỏi một ông tăng mới đến tham học:
-
Ngươi đã từng đến đây chưa?
-
Đã.
-
Ủa, vậy đã đến đây rồi, mời uống trà.
Sau
đó lại có một ông tăng khác tới, Triệu Châu lại hỏi:
-
Ngươi đã từng đến đây chưa?
Ông
này đáp:
-
Dạ, chưa. Đây là lần đầu tiên đệ tử đệ tử tới tham
học.
Câu
trả lời này với câu trả lời trên hoàn toàn tương phản,
nhưng câu nói của Triệu Châu thì vẫn vậy:
-
Ủa, chưa từng đến đây hả? Mời uống trà!
Viện
chủ hỏi Triệu Châu:
-
Thiền sư đối với ông tăng đến rồi và ông tăng mới đến
lần đầu tiên đều mời uống trà là có ý gì?
Lúc
đó Triệu Châu gọi:
-
Viện Chủ!
Viện
chủ lập tức trả lời:
-
Dạ.
Triệu
Châu nói:
-
Ủa, thì ra là viện chủ, mời uống trà!
(Thiền
Chi Hoa)
Cả
ba trường hợp trên đều mời uống trà; dù hoàn cảnh bất
đồng, nhưng cùng nêu lên một vấn đề “Ai uống trà?”
Cái động tác uống trà này phải chính mình thể hội chứ
không ai có thể thay thế cho mình được. Tâm bình thường
là Đạo, mỗi động tác bình thường đều là biểu thị
của Đạo vậy.
1001.
Pháp chẳng hai.
Duy
Ma Cật hỏi Văn Thù Sư Lợi:
-
Bồ Tát nhập pháp chẳng hai là thế nào?
-
Cứ ý ta thì đối với mọi pháp không lời, không nói, không
biết, không biểu lộ, xa lìa mọi hỏi đáp. Đó là nhập
pháp chẳng hai.
Lúc
đó, Văn Thù lại dùng đúng câu hỏi trên hỏi lại Duy Ma
Cật. Duy Ma Cật yên lặng không nói.
Văn
Thù bồ tát tán thán rằng:
-
Lành thay! Lành thay! ngay cả ngôn ngữ văn tự cũng chẳng có,
đúng là nhập pháp chẳng hai.
(Thiền
Chi Hoa)
Pháp
chẳng hai, dùng lời không tới, dùng ý chẳng đặng. Do đó
trong những công án thiền có người hỏi tới tự tánh tuyệt
đối hoặc bản thể. Nếu người bị hỏi đã giác ngộ thì
yên lặng không nói, dùng sự yên lặng mà trả lời. Đó là
không nói mà nói vậy.
1002. Người câm ăn mật.
Có
ông tăng hỏi Huệ Lâm Từ Ái:
-
Người tỏ ngộ nhưng không nói ra được thì giống gì?
-
Giống người câm ăn mật.
-
Người không tỏ ngộ mà nói ra thinh sắc thì giống gì?
-
Giống con vẹt kêu người.
(Thiền
Chi Hoa)
Công
án này diễn tả rất đúng câu, “Người biết chẳng nói,
người nói chẳng biết.” (Lão Tử- Đạo Đức Kinh) chỉ
rằng sự tỏ ngộ tự tánh không thể nói được, nếu nói
ra thì đã sai rồi. Người tu thiền trong quá trình tu tập
dù đạt tới cảnh giới nào cũng không tỏ lộ cho người
khác biết huống chi bản thân không có tu chứng mà nói ra
thì khác gì con vẹt học nói tiếng người, tâm không sở
đắc mà chỉ loạn ngôn. Vì vậy mới có văn tự thiền và
khẩu đầu thiền (thiền ngoài miệng).
1003. Động tĩnh là một.
Ẩn
Phong khi còn tham học với Mã Tổ có một lần đang đẩy xe
gập lúc Mã Tổ cũng đang ngồi duỗi chân trên đường. Ẩn
Phong thỉnh Mã Tổ co chân lại để mình đẩy xe qua.
Mã
Tổ nói:
-
Ta chỉ duỗi chứ không co.
Ẩn
Phong không chịu lùi:
-
Đệ tử chỉ tiến chứ không lui.
Hai người không ai nhường ai. Về sau, Ẩn Phong tức giận cứ đẩy xe qua làm chân Mã Tổ bị thương. Mã Tổ nhịn đau, về pháp đường, cầm lấy một cái búa giơ lên mà hét lớn rằng:
- Ai đả thương chân ta, mau ra đây.
Ẩn Phong chạy tới trước mặt Mã Tổ, vươn cổ ra cho chém. Mã Tổ chỉ còn cách ném búa xuống.
(Thiền Chi Hoa)
Yếu chỉ của sự học Phật là phá chấp. Đối với vạn pháp không khởi một niệm chấp trước. Như kinh Kim Cương nói rằng: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.” Câu của Mã Tổ: “Chỉ duỗi không co.” là có ý chấp tịnh; còn câu của Ẩn Phong:”Chỉ tiến không lui.” là chấp động. Cứ như câu truyện trên cả hai dường như đều có chấp. Thực ra, đây chỉ là Mã Tổ muốn khảo nghiệm Ẩn Phong mà thôi, và cả hai người đều đã vượt qua quan niệm về động tĩnh. Vì vậy muốn làm là làm không bị động tĩnh bó buộc. Đó là tác phong của những vị thiền sư đã khai ngộ, không thể bắt chước một cách khinh xuất được.
1004. Xuất thế, nhập thế.
Có
một lần, Ngưỡng Sơn từ ruộng về, Quy Sơn hỏi:
-
Ngươi từ đâu về?
-
Ở ruộng về.
-
Ngoài ruộng có nhiều người không?
Ngưỡng
Sơn chống gậy mà đứng.
Quy
Sơn lại nói:
-
Hôm nay tại Nam Sơn, có nhiều người cắt cỏ lắm.
Ngưỡng
Sơn lập tức nhổ gậy mà đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
“Ngươi từ đâu về?” là hỏi Ngưỡng Sơn đã khai ngộ
chưa. Câu đáp, “Ở ruộng về” là nói đã ngộ rồi,
còn đang trong cảnh giới tiệm tu. Câu “Ở Nam Sơn có nhiều
người cắt cỏ lắm!” là bảo cứ y thể khởi dụng, phát
bồ đề tâm, hành bồ tát đạo mà phổ độ chúng sinh. Ngưỡng
Sơn hiểu ý đó nhổ gậy mà đi. Động tác này biểu tỏ
Ngưỡng Sơn vào hiện tượng giới vì người mà phục vụ,
lấy tinh thần xả thế mà nhập thế lập đại nghiệp.
1005. Con trâu đực.
Quy
Sơn tại giảng đường, khai thị đại chúng:
-
Một trăm năm sau lão tăng xuống núi làm một con trâu đực,
tại sườn bên trái có viết năm chữ “Quy Sơn tăng mỗ giáp.”
Lúc đó, nếu kêu ta là Quy Sơn tăng thì ta không phải là con
trâu đực, nếu kêu ta là con trâu đực thì ta không phải
là Quy Sơn tăng. Vậy ta hỏi các ngươi phải kêu ta làm sao?
Ngưỡng
Sơn từ đại chúng bước ra, cảm kích lạy tạ mà lui.
(Thiền
Chi Hoa)
Quy
Sơn nói đến cái tự tánh chân như, tự tánh của Quy Sơn
và con trâu đực không hề sai biệt. Một người nếu không
còn tâm phân biệt năng sở thì sẽ vượt trên tự tha, vật
ngã. Cũng như câu của Trang Tử, “Trời đất và ta cùng sinh,
vạn vật với ta là một.” Quy Sơn vì đại chúng khai thị
cảnh giới đó, do đó Ngưỡng Sơn cảm kích lạy tạ cũng
không phải là lạ vậy.
1006. Làm giống khác.
Có
lần Nam Tuyền nói với Triệu Châu:
-
Nay chính là lúc tốt nhất để chúng ta lìa nhân loại mà
gia nhập dị loại.
Triệu
Châu không chịu bèn trả lời:
-
Trước chẳng nói dị, xin hỏi loại là gì?
Nam
Tuyền chống hai tay xuống đất bắt chước thú bốn chân.
Triệu Châu chạy ra đằng sau đạp cho Nam Tuyền một đạp.
Sau
đó chạy vào Nát Bàn Đường kêu lớn: “Tiếc quá! Tiếc
quá!”
Nam
Tuyền rất hân thưởng cái đạp của Triệu Châu, nhưng không
biết vì sao Triệu Châu kêu tiếc quá. Nhân đó sai người
vào hỏi Triệu Châu tiếc cái gì?
Triệu
Châu trả lời:
-
Ta tiếc không đạp cho sư phụ vài cái nữa!
Nghe
câu nói đó Nam Tuyền lại càng coi trọng Triệu Châu hơn.
(Thiền
Chi Hoa)
Tự
tánh là tuyệt đối, do đó nếu có phân biệt dị loại và
đồng loại là có tư tưởng dị đồng, là có đối đãi.
Chẳng hạn vì dài nên có ngắn, vì lớn nên có nhỏ, vì ta
nên có người. Nam Tuyền nói là lìa nhân loại mà gia nhập
dị loại là để khảo nghiệm xem Triệu Châu có ngộ thật
không. Triệu Châu thâm hiểu ý của Nam Tuyền nên hỏi ngược
lại thế nào là loại. Nam Tuyền biết Triệu Châu đã giác
ngộ tự tánh, không dùng ngôn ngữ mà diễn tả được nên
dùng hình ảnh mà hình dung; do đó giả làm dã thú. Nhưng vì
bản thể chân như, một pháp chẳng lập lại có thể dùng
ảnh tượng mà tỏ ra được sao? Do đó Triệu Châu đạp cho
Nam Tuyền một cái để đả phá quan niệm ảnh tượng của
sư phụ. Nam Tuyền tưởng khảo nghiệm đệ tử không ngờ
mình lại chưa vượt qua quan niệm về hình tượng nên bị
đạp một đạp. Vì vậy không mừng sao được!
1007. Cứu hỏa.
Triệu
Châu thường tại nhà bếp làm hỏa phu. Có lần thiền sư
đóng cửa và đốt lửa; đốt đến phòng bếp lửa cháy ngút
trời. Sau đó kêu lớn, “Cứu hỏa, cứu hỏa!” Cho đến
khi mọi người lại, thiền sư từ trong phòng nói:
-
Các ngươi nói đúng thì ta mới mở cửa.
Mọi
người nhìn nhau không biết ý gì. Lúc đó Nam Tuyền lấy chìa
khóa, không nói một tiếng, giao qua cửa sổ cho Triệu Châu.
Triệu Châu nhận chìa khóa, nhìn Nam Tuyền cười rồi mở
cửa chạy ra.
(Thiền
Chi Hoa)
Tự
mình không chịu mở cửa, làm sao kêu người ngoài đến cứu
hỏa. Đó là hướng ngoại mà tìm Phật thì sao mà thấy được.
Nam Tuyền đưa chìa khóa cho Triệu Châu là chỉ cửa của tự
tánh phải do mình mở, không thể nhờ người khác giúp. Triệu
Châu đã sớm hiểu điều đó nên mới nói, “Nói đúng sẽ
mở cửa”. Đó chỉ là để khảo nghiệm ngộ tánh của đại
chúng.
1008. Tâm đệ tử chẳng an.
Nhị
tổ Huệ Khả có lần hỏi Đạt Ma tổ sư:
-
Tâm đệ tử chẳng an, thỉnh lão sư an cho.
-
Người đem tâm ra đây, ta vì ngươi mà an cho.
Qua
một lúc, Huệ Khả đáp:
-
Đệ tử tìm đã lâu mà không thấy tâm đâu cả.
-
Tốt, ta đã an tâm cho ngươi rồi đó!
(Thiền
Chi Hoa)
Tâm
mà Huệ Khả muốn an không phải là chân tâm mà là vọng tâm.
Chân tâm là chủ thể của tư tưởng, như như bất động,
thường an định. Nếu chúng ta nghĩ tới nó hay tìm kiếm nó
thì không phải là chủ thể mà là khách thể. Đạt Ma bảo
Huệ Khả đưa tâm ra là muốn Huệ Khả tự mình phát hiện
tâm mà mình nói đó là hư ảo và do lời nói bất ngờ của
tổ sư khiến Huệ Khả khởi chân quán, do đó mà liễu ngộ
đuợc chân tâm.
1009. Ngươi còn cái đó sao?
Có
một sớm mai, một vị ni cô hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là ý mật?
Triệu
Châu lấy tay chộp vào ngực ni cô. Ni cô thấy cử động của
Triệu Châu có vẻ nông nổi bèn nói:
-
Ngươi còn cái đó sao?
Triệu
Châu lập tức đáp lại ngay:
-
Thì ra, ngươi còn cái đó!
(Thiền
Chi Hoa)
“Ý
mật” là vấn đề tối căn bản của đạo lý, nó chính
là bản thể tự tánh. Cử động của Triệu Châu có ý bảo
ni cô là tự tánh chính ở ngay cô. Khi ni cô nói, “Ngươi
còn cái đó sao?” (ám chỉ dục tánh) cho thấy ni cô hãy còn
chấp tướng nam nữ. Một người đã siêu việt thì không
còn chấp tướng nữa; do đó Triệu Châu mới nói, “Thì ra,
ngươi còn cái đó!” ám chỉ ni cô còn chấp tướng nam nữ
thì làm sao có thể hiểu được mật ý là cái gì?
1010. Tác dụng của mật.
Thản
Nhiên khi tham học với quốc sư Huệ An hỏi rằng:
-
Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Sao không hỏi ý của mình?
-
Ý của mình là gì?
-
Đương quán tác dụng của mật.
-
Tác dụng của mật là gì?
Huệ
An nháy mắt ra hiệu. Thản Nhiên bỗng khai ngộ, lạy tạ mà lui.
(Thiền
Chi Hoa)
Ý
của tổ sư từ Tây sang, tức ý của mình cũng tương tự
như “tức tâm, tức Phật.” Chân tâm không có hình tướng
nên không dùng lời mà tả được, cũng như ý niệm “mật”
không thể thấy được (nên được dùng để chỉ bản thể)
nhưng tác dụng của nó thì quan sát được. Huệ An dạy Thản
Nhiên quan sát tác dụng của “mật” nhưng Thản Nhiên vẫn
chưa ngộ nên Huệ An dùng động tác nháy mắt để diễn tả
tác động của “mật” bởi vì tác dụng của lục căn (nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, khẩu, ý) không cái nào là không do
tâm làm chủ. Vì vậy do dụng mà có thể thấy thể. Đó là
lý do tại sao Thản Nhiên thấy Huệ An nháy mắt mà tỏ ngộ.
1011. Như bò kéo xe.
Mã
Tổ là người Tứ Xuyên, lúc nhỏ thường vào chùa chơi. Đến
năm 12 tuổi xuất gia làm sa di, đến học thiền ở Nam Nhạc.
Lúc đó Hoài Nhượng là vị trụ trì chùa Bát Nhã. Hoài Nhượng
thấy Mã Tổ có tài bèn hỏi:
-
Ngươi học tọa thiền để làm gì?
-
Để thành Phật.
Hoài
Nhượng lấy một viên ngói mài ngay trước mặt Mã Tổ.
Mã
Tổ háo kỳ hỏi:
-
Thiền sư mài viên ngói làm gì?
-
Để làm gương.
Mã
Tổ kinh dị hỏi:
-
Mài gạch sao thành gương được?
-
Mài gạch không thành gương được, vậy ngươi ngồi thiền
lại thành Phật sao?
-
Vậy làm sao mới thành Phật?
-
Đạo lý này như bò kéo xe, nếu xe không đi ta hỏi ngươi
đánh xe hay đánh bò?
Mã
Tổ bị hỏi không lời đáp được.
Hoài
Nhượng lại hỏi:
-
Ngươi học tọa thiền hay học tọa Phật? Như ngươi học
tọa thiền, thì thiền không phải ở ngồi hay nằm, như ngươi
học tọa Phật, thì Phật không có hình tướng nhất định.
Pháp không có chỗ trú do đó chúng ta cầu pháp không nên có
thủ, xả, chấp trước, như ngươi học tọa Phật chẳng khác
gì giết Phật. Nếu ngươi chấp tướng ngồi thì vĩnh viễn
không thấy được đại đạo.
Nghe
lời dạy ấy Mã Tổ như người đương khát mà được uống
đề hồ, do đó bái Hoài Nhượng làm thầy.
(Thiền
Chi Hoa)
Ý
của Hoài Nhượng là ngồi thiền không phải là thiền. ngồi
thiền chỉ là một phương pháp không phải là bản thân của
thiền. Nếu chỉ có ngồi thiền không thì chẳng khác gì ngón
tay trỏ mặt trăng. Nếu không làm phát xuất được trí huệ
Bát Nhã thì chỉ là khô tọa, không cách chi mà kiến tánh
thành Phật được.
1012. Gập hổ không?
Hoàng
Bá từ ngoài về, Bách Trượng hỏi:
-
Ngươi đi đâu về?
-
Hái nấm ở chân núi Đại Hùng về.
-
Có thấy hổ không?
Hoàng
Bá giả làm tiếng hổ gầm. Bách Trượng lấy tay giả bộ
cầm búa chém hổ. Hoàng Bá hươi tay đánh cho Bách Trượng
một chưởng. Bách Trượng lớn tiếng cả cười.
Ngày
hôm sau, Bách Trượng thượng đường bảo với đại chúng
rằng:
-
Dưới núi Đại Hùng có một con hổ, các ngươi phải cẩn
thận đề phòng, lão tăng đã bị nó ngoạm một miếng đấy.
(Thiền
ChiHoa)
Con
hổ của Bách Trượng là để chỉ tự tánh. Hoàng Bá đã
hiểu ý Bách Trượng nên không trực tiếp trả lời (Vì tự
tánh không thể dùng lời mà tả được), mà giả tiếng hổ
gầm hàm ý đã ngộ tự tánh. Bách Trượng giả vờ đánh,
Hoàng Bá giả vờ đỡ đều là biểu lộ chấp nhận hành
động của đối phương. Cái cười của Bách Trượng mới
bao hàm nhiều ý nghĩa làm sao!
1013. Cán dao có công dụng gì?
Có
một ngày, Thạch Thất theo Thạch Đầu lên núi chơi. Thạch
Đầu nói:
-
Đằng trước có cái cây ngăn cản không nhìn được, mau giúp
ta chặt đi.
-
Đưa dao đây.
Thạch
Đầu rút dao ra hướng lưỡi dao về phía Thạch Thất.
-
Không phải đầu này, đầu có cán kia.
-
Cán có ích gì?
Ngay
lúc đó Thạch Thất đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Thạch
Đầu kêu Thạch Thất chặt cây ngăn thị tuyến, ám chỉ trừ
bỏ những ràng buộc của Tâm thì tâm sẽ trở lại thanh tịnh.
Khi Thạch Thất yêu cầu đưa phía cán dao, Thạch Đầu hỏi,
“Cán có ích gì?” ám chỉ bản thể giới. Lời cùng, ý
tuyệt, còn chấp “cán” thì làm sao đạt tới cảnh giới
này được?
1014. Ai ở trong giếng?
Có
ông tăng hỏi Thạch Sương:
-
Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Giả như có người rớt xuống giếng sâu ngàn thước, ngươi
không dùng giây mà cứu được hắn ra thì ta sẽ bảo cho ngươi
biết ý của tổ sư từ Tây sang là gì!
-
Gần đây ở Hồ Nam có Xướng hòa thượng cũng hệt như thiền
sư, giảng Đông, giảng Tây.
Thạch
Sương kêu Ngưỡng Sơn đuổi ông tăng ra.
Ngưỡng
Sơn hỏi Đam Nguyên:
-
Cứ ý thiền sư thì làm sao cứu được người ở trong giếng?
-
Đồ ngốc, ai ở trong giếng?
Ngưỡng
Sơn lại hỏi Quy Sơn:
-
Làm sao để cứu được người ở trong giếng?
Quy
Sơn lớn tiếng gọi:
-
Huệ Tịch.
-
Dạ.
Quy
Sơn nói:
-
Đã ra rồi!
Về
sau Ngưỡng Sơn kể lại câu chuyện này cho đại chúng nghe
và nói:
-
Ta tại Đam Nguyên đắc danh, tại Quy Sơn đắc địa!
(Thiền
Chi Hoa)
“Ta
tại Đam Nguyên đắc danh” là chỉ lý ngộ. Câu của Đam
Nguyên, “Ai ở trong giếng?” đả phá sự chấp trước của
Ngưỡng Sơn làm cho Ngưỡng Sơn hiểu rằng tự tánh không
bị trói buộc bởi không, thời gian. “Tại Quy Sơn đắc địa”
là chỉ sự chứng ngộ. Khi nghe Quy Sơn kêu tên mình bèn lên
tiếng dạ, lập tức hiểu rằng cái tâm ấy đã ra khỏi giếng.
Chân Tâm là như như bất động ở khắp nơi, không bị ra
vào, trong, ngoài, cùng những quan niệm về thời, không gian
giới hạn. Chính là “Mười đời xưa nay, đầu cuối chẳng
rời đương niệm, vô biên sát thổ, ta người chẳng cách
một sợi lông.”
1015. Biện luận về ngón tay và mặt trăng.
Có
ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
-
Đệ tử không hỏi ngón tay mà muốn hỏi mặt trăng là cái
gì?
-
Ngươi không hỏi ngón tay, vậy ngón tay là gì?
Lúc
đó, có một ông tăng khác hỏi:
-
Đệ tử không hỏi mặt trăng mà muốn hỏi ngón tay là cái
gì?
-
Mặt trăng.
Ông
tăng phản đối:
-
Đệ tử hỏi ngón tay sao sư phụ lại đáp mặt trăng?
-
Đó là vì ngươi hỏi ngón tay.
(Thiền
Chi Hoa)
Nhân
lúc trước có người hỏi Pháp Nhãn, “Thế nào là tâm của
cổ Phật?” Pháp Nhãn đáp, “Có lòng từ bi hỉ xả là tâm
của cổ Phật.” Lời đáp tâm của cổ Phật và lời đáp
ngón tay và mặt trăng đều là lấy dụng làm thể. Hỏi mặt
trăng đáp ngón tay, ngón tay chỉ là để chỉ phương hướng
mà thôi, không phải là tự tánh chân thật vì tự tánh chân
thật không có sở tại. Hiện tượng thấu xứ tức bản thể,
bản thể hiện xứ tức hiện tượng. Thể không ly dụng,
dụng không ly thể, thể dụng chẳng hai. Hỏi ngón tay đáp
mặt trăng giả như hỏi mặt trăng nhất định đáp ngón tay.
Ngón tay và mặt trăng đều là thế pháp, giả danh mà an lập;
nhưng ở tự tánh thì lại không có sự phân biệt.
1016. Một mình trên núi.
Có
một ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Khi một mình ở trên núi thì cảm thấy thế nào?
-
Ta không trả lời ngươi.
-
Tại sao vậy?
-
Vì sợ ngã lăn trên đất.
(Thiền
Chi Hoa)
Núi
(cô phong) là chỉ bản thể giới vượt trên năng sở đối
đãi không thể dùng lời mà nói! “Ngã lăn trên đất” là
chỉ hiện tượng giới. Ta không thể dùng ngôn ngữ để nói
về bản thể giới đuợc, vì ngôn ngữ đã có sai biệt, năng
sở tương đối, do đó Triệu Châu mới nói, “Sợ ngã lăn
trên đất” để chỉ rằng ở bản thể giới phải quên
lời, tuyệt ý vậy.
1017. Tự tánh thần châu.
Có
một lần đức Thế Tôn lấy một viên “tùy sắc ma ni châu”
cho năm thiên vương xem và hỏi rằng:
-
Viên bảo châu này mầu gì?
Năm
vị thiên vương, mỗi người đều nói một mầu khác nhau.
Đức Phật thâu viên bảo châu lại và giơ bàn tay ra hỏi
rằng:
-
Viên bảo châu này có mầu gì?
Các
thiên vương đáp:
-
Bạch đức Thế Tôn, trong tay người không có châu thì làm
sao có mầu gì?
Đức
Thế Tôn bèn nói rằng:
-
Các ngươi thực là mê muội, khi ta lấy viên bảo châu cho
các ngươi xem, các ngươi mỗi người đều nói khác nhau: Xanh,
vàng, trắng, đỏ. . . không người nào nói giống nhau. Nhưng
lúc ta lấy viên chân bảo châu triển thị ra thì các ngươi
lại không biết, Ngộ đạo lại khó như vậy sao?
Ngay
chính lúc đó năm vị thiên vương đều giác ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Chân
bảo châu dụ cho tự tánh. Tự tánh thần châu có tánh quang
minh, thanh tịnh bất động… nhưng có dạng thức nào? Nói
giống một vật nào là cũng không trúng. Đó là chỗ khó khăn
vậy! Bởi vì nếu có thể trình hiện thì chỉ làm cho rối
mắt. Không phải là bản thân của tự tánh thần châu vì
tự nó không có pháp nào trình hiện cũng không thể nào trình
hiện được. Đó mới thật là tự tánh thần châu.
1018. Sa di có chủ.
Ngưỡng
Sơn tham phỏng Quy Sơn.
Quy
Sơn hỏi:
-
Ngươi là sa di có chủ hay là sa di vô chủ?
-
Có chủ.
-
Chủ ở đâu?
Ngưỡng
Sơn từ tây chạy sang Đông, sau đó đứng yên. Quy Sơn rất
tán thưởng.
(Thiền
Chi Hoa)
“Chủ”
đây là chỉ tự tánh. Quy Sơn biết Ngưỡng Sơn đã hiểu
nhưng muốn cho chắc nên hỏi thêm,” Chủ ở đâu?” Ngưỡng
Sơn biết ở đâu là trỏ không gian, không diễn tả được
bản chất của tự tánh, do đó, không mở miệng mà đi từ
Tây sang Đông, rồi đứng yên, tỏ rằng tự tánh ở khắp
nơi và động tĩnh là một, không dùng lời mà nói được.
Kinh Duy Ma Cật có nói, “Đến chẳng đến, đi chẳng đi!
Vì sao? Vì đến chẳng biết từ đâu đến, đi chẳng
biết đi về đâu.” Chính là miêu tả rất đúng tính
chất của tự tánh.
1019. Đường Thạch Đầu trơn lắm.
Ẩn
Phong đến từ biệt Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
Ẩn
Phong đáp:
-
Đệ tử định đến thăm Thạch Đầu.
Mã
Tổ nói:
-
Cẩn thận đường Thạch Đầu trơn lắm đấy!
-
Sư phụ đừng ngại, đệ tử có mang theo gậy trúc, phùng
trường tác hí, ứng phó được mà!
Đến
nơi, đi diễu quanh thiền sàng một vòng, chống gậy đứng
mà hỏi tông chỉ của Thạch Đầu là gì? Thạch Đầu không
nhìn Ẩn Phong ngẩng đầu lên mà than dài:
-
Trời xanh! Trời xanh!
Ẩn
Phong không lời đối lại, về thuật cho Mã Tổ nghe.Mã Tổ
nói:
-
Ngươi đến hỏi lại, đợi Thạch Đầu trả lời thì ngươi
hứ hai tiếng.
Ẩn
Phong quay lại và cũng làm như cũ nhưng khi hỏi lại thì Thạch
Đầu không nói nữa mà chỉ hứ hai tiếng. Ẩn Phong lại không
lời đối được về kể cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ nói:
-
Ta đã chẳng bảo ngươi trước là gì: “Đường Thạch Đầu
trơn lắm!”
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Mã Tổ, “Đường Thạch Đầu trơn lắm” là chỉ cơ
phong của Thạch Đầu rất lợi hại, không dễ đối phó.
Ẩn Phong tự thị thông minh, có mang theo gậy trúc không sợ
đường trơn. Khi hỏi tông chỉ của Thạch Đầu, Thạch Đầu
trả lời, “Trời xanh!” có thể giải thích là hư không
(thiền gia thường lấy trời, đất để trỏ hư không), là
chỉ tự tánh; có ý nói tông chỉ, mục đích của người
tu là chứng ngộ chân như bản tánh. Hiển nhiên là Ẩn Phong
không hiểu ý của Thạch Đầu nên khi Thạch Đầu nói, “Trời
Xanh!” là dùng ngôn ngữ, là chấp tướng do đó Mã Tổ dạy
Ẩn Phong dùng tiếng hứ mà đáp, có ý bảo còn chấp. Đồng
thời, tiếng hứ đồng thanh với tiếng hư vừa đại biểu
hư không mà cũng không phải là ngôn ngữ. Chẳng ngờ Thạch
Đầu biết đối phương có chuẩn bị bèn chiếm tiên cơ hứ
trước hai tiếng. Ẩn Phong vô pháp mở miệng. Quả nhiên,
câu nói của Mã Tổ đã ứng nghiệm, “Đường Thạch Đầu
trơn lắm!”
1020. Con chó không có Phật tánh.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Con chó có Phật tánh không?
-
Không!
-
Những loài xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, tại sao
con chó lại không có?
-
Vì có nghiệp thức.
Lại
có ông tăng khác hỏi:
-
Con chó có Phật tánh không?
-
Có.
-
Tại sao phải làm thú?
-
Biết mà cứ làm!
(Thiền
Chi Hoa)
Với
cùng một câu hỏi, cách trả lời của Triệu Châu lúc nói
có, lúc nói không theo lẽ đương nhiên là đầy mâu thuẫn.
Nhưng tại sao lại có sự mâu thuẫn khó hiểu ấy? Đứng
trên lập trường của Triệu Châu thì lại chẳng có gì là
mâu thuẫn cả. Vì đây là tùy cơ mà đáp, không cốt trả
lời mà là làm cho khởi nghi tình rồi do giải được nghi
tình mà ngộ. Nếu lấy chữ “không” của Triệu Châu mà
giải là không tứ đức (thường, lạc, ngã, tịnh) và chữ
“có” là tất cả đều có Phật tánh thì cũng được vì
con chó có nghiệp thức thành ra bốn đức không hiện; tuy
chó có Phật tánh nhưng mà vì “biết mà cứ làm” tạo ra
những ác nghiệp cho nên phải làm kiếp chó. Chữ “không”
này của Triệu Châu quả là độc sáng, nó chính là sinh mạng,
là tông chỉ của thiền sư vậy.
1021. Mây trên trời xanh, nước trong bình.
Lý
Cao rất ngưỡng mộ phong thái và trí tuệ của Dược Sơn
bèn tìm vào núi bái phỏng. Tới nơi chỉ thấy Dược Sơn
cầm sách đứng dưới tùng cây chăm chú đọc hầu như không
thèm để mắt tới Lý Cao. Lý Cao thấy Dược Sơn mục hạ
vô nhân, nổi giận nói rằng:
-
A! Gập mặt chẳng như nghe danh.
Nói
rồi phất tay áo định đi. Chính lúc đó, Dược Sơn bỏ sách
xuống, mỉm cười mà rằng:
-
Xin hỏi tiên sinh vì sao trọng tai mà khinh mắt vậy?
Lý
Cao không hiểu lời nói bóng gió của Dược Sơn, bèn hỏi:
-
Xin hỏi đại sư thế nào là Đạo?
Dược
Sơn giơ tay chỉ lên trời, rồi lại chỉ xuống đất hỏi:
-
Ngươi hiểu không?
-
Không hiểu.
Dược
Sơn nói:
-
Mây trên trời xanh, nước trong bình.
Lý
Cao nghe rồi lập tức đại ngộ, bỏ ngay thái độ khinh mạn,
cung kính bái tạ Dược Sơn, và làm ngay một bài kệ dâng
lên Dược Sơn đại ý, “Đại sư tu luyện thân hình như
con hạc, đọc sách dưới gốc tùng, khi tôi đến hỏi Đạo
ngài, đại sư chỉ đơn giản đáp, “Mây trên trời xanh,
nước trong bình.”
Bài
kệ của Lý Cao:
練
得 身 形 似 鶴 形
Luyện
đắc thân hình tự hạc hình
千
株 松 下 兩 函 經
Thiên
châu tùng hạ lưỡng hàm kinh
我
來 問 道 無 餘 說
Ngã
lai vấn đạo vô dư thuyết
雲
在 青 天 水 在 瓶
Vân tại thanh thiên thủy tại bình
Luyện được thân hình giống nhạn hình
Dưới tùng ngàn gốc hai hòm kinh
Ta tìm hỏi Đạo không lời khác
Mây
ở trời xanh, nước trong bình.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Thiền
Chi Hoa)
Mây
trên trời xanh không biết có trời. Nước ở trong bình không
biết có bình tự do, tự tại chẳng bị trói buộc. Đó chính
là bản chất của Đạo. Vạn vật trong vũ trụ cũng đều
thế cả không phân biệt cao hay thấp giống như câu của Lục
Tượng Sơn:” Đạo ở khắp thiên hạ, không chỗ nào là
thiếu cả.”
1022. Muỗi đốt trâu sắt.
Dược
Sơn hỏi Thạch Đầu:
-
Đệ tử đối với tam thừa thập nhị phân giáo có chỗ hiểu
được, nhưng đối nam phương,”Chỉ thẳng tâm người, thấy
tánh thành Phật” thì vẫn chưa hiểu, mong sư phụ lượng
cả từ bi giảng giải cho.
Thạch
Đầu trả lời:
-
Khẳng định không trúng, phủ định cũng không trúng; khẳng
định và phủ định đều chẳng trúng, lúc đó ngươi phải
làm sao?
Dược
Sơn hoang mang chẳng biết đáp làm sao.
Qua
một lúc, Thạch Đầu lại nói:
-
Nhân duyên của ngươi chẳng phải tại đây, mau đi kiếm Mã
Tổ đại sư.
Dược
Sơn nghe lời đi kiếm Mã Tổ và cũng nêu lên cùng câu hỏi.
Mã
Tổ đáp:
-
Ta có lúc kêu hắn nhướng mày chớp mắt, có lúc không kêu
hắn nhướng mày chớp mắt. Có lúc hắn tự nhướng mày chớp
mắt, có lúc không. Ngươi giải thích thế nào?
Dược
Sơn nghe tới đó liền giác ngộ hướng về Mã Tổ mà lạy
tạ.Mã Tổ hỏi:
-
Ngươi hiểu thế nào mà lạy ta?
-
Đệ tử ở nơi Thạch Đầu giống như con muỗi mà đốt trâu
sắt vậy!
(Thiền
Chi Hoa)
Lời
nói của Thạch Đầu và Mã Tổ tuy khác nhau nhưng cùng một
ý nghĩa. Câu của Mã Tổ:”Ta có lúc kêu hắn nhướng mày
chớp mắt” là khẳng định không trúng của Thạch Đầu;
“Có lúc không kêu hắn nhướng mày chớp mắt” là phủ
định không trúng của Thạch Đầu; “Có lúc hắn tự nhướng
mày chớp mắt, có lúc không” là khẳng định và phủ định
đều không trúng của Thạch Đầu.
Hắn
chính là tự tánh. “Muỗi đốt trâu sắt” là chỉ Dược
Sơn tại Thạch Đầu không liễu giải được mà chỉ đốn
ngộ được nhờ nghe Mã Tổ.
1023. Mặt mũi lúc chưa sanh.
Hương
Nghiêm tham phỏng Quy Sơn. Quy Sơn nói:
-
Ta nghe nói lúc ngươi ở với Bách Trượng, hỏi một đáp
mười, hỏi mười đáp trăm, vì ngươi thông minh lanh lợi.
Nay sinh tử là việc lớn, ta hỏi ngươi lúc cha mẹ chưa sanh
ra thì mặt mũi ngươi như thế nào?
Câu
hỏi này làm Hương Nghiêm không biết đâu mà đáp. Về phòng,
đem những sách vở thường đọc, giở xem từng quyển hy vọng
tìm lời giải đáp mà không thấy. Nhân đó cảm khái mà nói
rằng, “Bánh vẽ trong sách không làm thỏa mãn cơn đói của
ta”.
Do
đó, yêu cầu Quy Sơn giải thích bí mật.
Quy
Sơn từ chối:
-
Giả sử nay ta giải thích cho ngươi, tương lai ngươi sẽ mắng
chửi ta; vả lại những kiến giải của ta không quan hệ gì
đến ngươi cả.
Hương
Nghiêm cực kỳ thất vọng đem hết sách vở ra đốt, phẫn
hận mà rằng:
-
Ta là gã chẳng ra gì, học Phật chẳng nổi chỉ nên làm một
vị tăng hóa duyên khất thực mà thôi!
Bèn
từ biệt Quy Sơn, vân du khắp nước. Khi tới Nam Dương bèn
đi tham bái di tích của Huệ Trung quốc sư và tạm trú ở
đó. Một ngày kia, chính lúc đang rẫy cỏ, bẩy một hòn gạch
văng lên, chạm vào cây tre kêu thành tiếng. Tiếng động ấy
bỗng nhiên đưa Hương Nghiêm vào ngộ cảnh. Hương Nghiêm
bèn về phòng tắm gội sạch sẽ, đốt hương hướng vào
quãng không và nói:
-
Sư phụ, ơn huệ của người còn lớn hơn ơn cha mẹ sinh thành,
nếu sư phụ giảng cho con lúc đó thì con đâu có ngày nay.
Hương
Nghiêm cảm kích làm một bài kệ dâng Quy Sơn như sau:
一
擊 忘 所 知
Nhất
kích vong sở tri
更
不 假 修 持
Cánh
bất giả tu trì
動
容 揚 古 路
Động
dung dương cổ lộ
不
墮 悄 然 機
Bất
đọa tiễu nhiên cơ
處
處 無 蹤 跡
Xứ
xứ vô tung tích
聲
色 外 威 儀
Thanh
sắc ngoại uy nghi
諸
方 達 道 者
Chư
phương đạt đạo giả
咸
言 上 上 機
Hàm
ngôn thượng thượng cơ
香 嚴 智 閑
Hương Nghiêm Trí Nhàn
Tiếng dội lùm tre quên sở tri
Có gì đối trị giả tu trì
Đổi thay thần sắc nêu đường cổ
Nếp cũ tiêu điều chẳng trệ si
Chốn chốn dạo qua không dấu vết
Sắc thanh nào nhiễm được uy nghi
Mười phương đạt giả đều như vậy
Tối thượng là đây biết nói gì?
(Trúc
Thiên dịch)
(Thiền
Chi Hoa)
Ngôn
ngữ là công cụ để chuyển đạt ý thức, nhưng dùng ngôn
ngữ để diễn đạt tự tánh thì không thể được. Do đó,
thiền gia không dùng ngôn ngữ để giải thích, chỉ cố làm
sao cho người ta khởi nghi tình, thâm nhập tham cứu. Mục đích
là xóa bỏ mọi chấp trước (bao quát tất cả những kinh
nghiệm nghe, thấy) mà có thể chứng được tự tánh. Cũng
như trường hợp của Hương Nghiêm nghe tiếng động của hòn
gạch va vào cây tre mà giác ngộ tự tánh không bị câu thúc
bởi hình thể, không, thời gian. Quy Sơn không chịu giảng
ra, không phải là không giảng ra được mà là sợ làm dứt
đoạn huệ mạng của Hương Nghiêm, muốn để tự Hương Nghiêm theo thiền cơ mà ngộ chân như tự tánh. Do đó, Hương Nghiêm
tắm gội sạch sẽ, đốt hương mà lạy tạ sư phụ cũng
chẳng phải là lạ.
1024. Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác.
Lục
tổ Huệ Năng tiếp thu y bát từ Ngũ tổ bí mật rời bỏ
Đông Sơn, sợ đồ chúng của Thần Tú đuổi theo. Trần Huệ
Minh là quân nhân xuất thân, cước bộ rất mau, tánh tình
rất thô bạo, đuổi kịp Huệ Năng. Thấy Huệ Minh tới, Huệ
Năng đưa y bát cho Huệ Minh.
Huệ
Minh không nhận nói:
-
Tôi tới đây không phải vì y bát mà là cầu pháp.
-
Nếu ông muốn cầu pháp thì trước hết hãy dẹp hết ngoại
duyên tư niệm, ta sẽ vì ông mà nói pháp.
Huệ
Minh lạy tạ. Lúc đó Huệ Năng nói:
-
Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính ngay khi ấy thế nào
là bản lai diện mục của Minh thượng tọa?
Huệ
Minh nghe rồi đại ngộ bèn quay trở lui.
(Thiền
Chi Hoa)
Quan
niệm thiện ác là quan niệm thị phi (phải, trái). Loại quan
niệm này là do thức tâm sinh ra. Lục tổ bảo Huệ Minh không
nghĩ thiện và ác là để trừ thức tâm mà đạt tới tự
tánh. Vì tự tánh vượt trên tất cả hiện tượng nên không
dùng khẳng định mà hình dung vì như vậy là chấp có, cũng
không dùng phủ định vì như vậy là chấp không, rơi vào
đoạn diệt.
1025. Chẳng có thánh gì cả.
Đạt
Ma tổ sư năm 527 đến miền nam Trung Quốc nhận lời mời
của Lương Võ Đế ghé qua Nam Kinh.Lương Võ Đế hỏi:
-
Từ khi trẫm lên ngôi, lập nhiều chùa chiền, in nhiều kinh
sách, cấp dưỡng tăng ni, vậy có công đức gì không?
-
Không.
-
Tại sao không?
-
Vì những việc bệ hạ làm đó, chỉ là quả báo nhỏ của
thế tục không phải là chân công đức.
-
Vậy sao, còn chân công đức là thế nào?
-
Chân công đức là trí tuệ tối viên mãn, tối dung thông;
bản thể của nó là không tịch, bệ hạ không thể dùng phương
pháp thế tục mà đạt được.
-
Thế nào là thánh?
-
Là hoàn toàn không, trong cái thế giới không đó, không có
cái gì là thánh cả!
-
Không có thánh sao, vậy người là ai?
-
Không biết.
(Thiền
Chi Hoa)
Căn
bản của công án này là câu “Chẳng có thánh gì cả” (quách
nhiên vô thánh). Phật pháp phân làm chân, tục nhị đế. Lương
Võ Đế hỏi là hỏi nghĩa của Chân đế. Đạt Ma đáp là
tự chứng cảnh giới, vượt trên cả Chân Tục nhị đế
là cảnh giới niết bàn tuyệt đối. Do đó, Lương Võ Đế
không hiểu cũng chẳng có gì là lạ, vì trong cảnh giới “quách
nhiên vô thánh” vượt ngoài tất cả phàm thánh, mê ngộ,
phải trái; được mất là cảnh giới tự tại vô ngại. Do
đó, căn bản của thiền là truyền ngoài giáo lý, không thể
dùng lời mà giảng cho hiểu thế nào là thánh đế được.
1026. Tất cả hiện thành.
Có
lần La Hán hỏi Pháp Nhãn:
-
Người từng nói tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức; giờ
xin hỏi hòn đá ở trước sân kia là ở trong tâm hay ở ngoài
tâm?
-
Ở trong tâm.
-
Tại sao ngươi lại đem khối đá lớn kia ném vào trong tâm
vậy?
Câu
nói này làm cho Pháp Nhãn khốn quẫn, quyết tâm nhờ La Hán
giải đáp. Mỗi ngày đều đưa những lời đáp mới, La Hán
đều nói:
-
Phật pháp chẳng phải như vậy.
Cuối
cùng Pháp Nhãn chỉ còn cách thưa với La Hán rằng:
-
Đệ tử đã cùng lời, tuyệt lý rồi.
-
Nếu lấy Phật pháp mà nói tất cả đều hiện thành vậy!
Nghe
câu nói đó Pháp Nhãn hoát nhiên đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
“Tất
cả hiện thành” là chỉ chúng sinh đều có Phật tánh hay
“Phiền não tức Bồ Đề.” “Sinh tử tức Niết Bàn”
dụng tức là thể. Phật tánh vốn không trong ngoài, hòn đá
là Phật tánh hiển lộ sao lại phân biệt trong tâm, ngoài
tâm? Tinh thần của thiền là vượt ngoài cả Dụng lẫn Thể.
Về sau Pháp Nhãn làm phương trượng thường nói với đệ
tử rằng, “Xưa nay thực thể vốn hiện thành ngay trước
mắt chỉ vì bị các ngươi biến thành danh tướng vậy.”
1027. Xả thức, dụng căn.
Có
ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
-
Dùng phương pháp nào để phát lộ tự kỷ mà cùng với Đạo
hợp nhất?
Pháp
Nhãn hỏi lại:
-
Ngươi lúc nào phát lộ tự kỷ mà không cùng với Đạo hợp
nhất?
Ông
tăng lại hỏi:
-
Lúc sáu thức không ngộ âm của chân lý thì làm sao?
Pháp
Nhãn đáp:
-
Đó chẳng qua như bầy gia thuộc của ngươi thôi!
Và
hỏi lại:
-
Ngươi nói sáu thức không thể tri âm là nói tai hay nói mắt?
Nếu quả có chân lý thì đâu có thể vì sáu thức không biết
mà không có chân lý đâu? Cổ nhân từng nói “Lìa thanh sắc
chấp thanh sắc, lìa danh tự chấp danh tự” là ý đó.
(Thiền
Chi Hoa)
Công
án này nêu lên hai vấn đề:
Vấn
đề một: Người ngộ đạo có sinh hoạt khác thường không?
Câu trả lời của Pháp Nhãn nhận định rằng, “Thấy núi
vẫn là núi, sông vẫn là sông” đều là Đạo, Đạo không
ngoài sinh hoạt hàng ngày.
Vấn
đề hai: Thức tâm sinh diệt và tự tánh vô sinh diệt không
khế hợp thì sao? Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày vọng tưởng
quá nhiều nên tự tánh bị mê mờ nên có thể “tu” nhưng
không thể “ngộ.” Đức Phật lúc giác ngộ dưới gốc
Bồ Đề có nói rằng, “Kỳ thay! Kỳ thay! Đại địa chúng
sinh đều có như lai trí tuệ đức tướng nhưng vì vọng tưởng
chấp trước nên không chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng
thì nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô sư trí, tự nhiên hiện
tiền.” “Bầy gia thuộc” là chỉ lục căn, nếu biết dùng
lục căn thì lục thức sẽ giúp chúng ta liễu giải tự tánh.
(Kinh Lăng Nghiêm: Xả thức dụng căn) Vì lục thức phải nghe
lệnh của chủ nhân tự tánh. Chỉ cần không sinh niệm phân
biệt tùy duyên mà hành động thì tất cả đều là Đạo
không có gì gọi là Thể, là Dụng nữa.
1028. Diệu dụng của chữ vô.
Đạo
Thụ là môn đồ của Thần Tú, cùng vài vị học tăng trú
ở trên núi. Có một vị quái nhân thường xuất hiện, có
thể tùy ý hóa thành Phật, Bồ Tát, La Hán, hoặc phóng thần
quang hoặc thanh âm làm cho đồ đệ của Đạo Thụ rất kinh
khủng, không biết vị quái nhân ở đâu đến mà có quyền
phép như vậy? Vị quái nhân tác quái mười năm rồi bỗng
nhiên một hôm biến mất, không thấy xuất hiện nữa.
Đạo
Thụ bảo môn đồ rằng:
-
Vị thuật sĩ này dùng trăm kế, ngàn phương mà lừa dối
người; phương pháp đối phó của ta là chỉ không nghe, không
thấy nên hắn đã dùng hết cách mà cũng chẳng ăn thua gì!
(Thiền
Chi Hoa)
Thuật
sĩ dùng hình tướng lừa dối đại chúng, giả như Đạo Thụ
cũng dùng hình tướng ứng phó thì không thể thắng được
vì cảnh chẳng bao giờ ngưng. Phương pháp của Đạo Thụ
là không nghe, không thấy nên vượt cả hình tướng khiến
cho thuật sĩ cùng đường mà phải đi. Đạo Thụ chỉ dùng
chữ “Vô” mà chế chữ “Hữu”. Bởi vì bất luận chữ
hữu rộng lớn như thế nào, bền vững như thế nào cũng
còn giới hạn, còn chữ vô thì lớn không ngoài, nhỏ không
trong, giải trừ mọi chấp trước, vi diệu vô cùng, đó chính
là ứng dụng chữ “không” của nhà Phật đối cảnh không
chấp nên không bị vướng mắc vào cảnh mà thắng được
cảnh vậy.
1029. Rửa bát.
Có
ông tăng bạch với Triệu Châu:
-
Đệ tử mới đến thiền viện, xin sư phụ chỉ điểm.
Triệu
Châu hỏi:
-
Ăn cháo chưa?
-
Ăn rồi!
-
Vậy, rửa bát đi.
Ông
tăng lập tức lạy tạ.
(Thiền
Chi Hoa)
“Bát”
chỉ tự tánh, tự tánh không để vật nào dính vào. Câu hỏi
của Triệu Châu, “Ăn cháo rồi chưa?” “Rồi” và “Chưa”
đều là biên kiến, phải trừ bỏ biên kiến đối đãi thì
mới chứng được tự tánh. Vì vậy Triệu Châu mới khuyên
đi rửa bát.
1030. Vô vị chân nhân.
Một
lần tại pháp hội, Lâm Tế nói với đại chúng rằng:
-
Trong thịt đỏ của các ngươi có một vị vô vị Chân Nhân
thường ra vào, mà các ngươi chẳng biết. Kẻ chứng hãy thử
coi.
Lúc
đó có một ông tăng bước ra hỏi:
-
Vô vị chân nhân là gì?
Lâm
Tế từ thiền sàng nhẩy xuống túm lấy ông tăng:
-
Nói đi, nói đi!
Chính
lúc ông tăng này mở miệng định nói, Lâm Tế đẩy ông ra
và nói:
-
Cái que cứt khô có phải là vô vị chân nhân không?
(Thiền
Chi Hoa)
Vô
vị chân nhân là chỉ Phật tánh, là cái chân ngã không đầu,
không cuối, chẳng sanh, chẳng diệt, vượt cả thời, không gian cùng với Đạo hợp nhất. Tự tánh chân như không thể
nói ra được. Lâm Tế vì muốn tiếp dẫn học nhân dùng “Vô
vị chân nhân” để biểu thị. Ông tăng đã hiểu rõ ý.
Lâm Tế biết vậy nhân cơ hội trắc nghiệm ngộ cảnh của
ông, muốn ông tự giải đáp. Khi ông tăng mở miệng định
nói, Lâm Tế sợ ông lạc vào tâm thức nói ra cái không thể
nói, nên đẩy ông ra ngăn không cho nói. Động tác này là
tác phong nhất quán của thiền gia. Sau, Lâm Tế lại lấy que
cứt khô mà dụ cho “vô vị chân nhân” , chỉ phàm thánh
bình đẳng, chúng sinh đều có Phật tánh. Thật là một mũi
tên mà bắn hai chim vậy.
1031. Vô Tình thuyết pháp.
Động
Sơn khi mới gập Vân Nham hỏi rằng:
-
Vô tình thuyết pháp ai nghe được?
Vân
Nham lập tức trả lời:
-
Vô tình nghe được.
-
Thiền sư nghe được chăng?
-
Giả sử ta nghe được, ta đã được pháp thân, lúc đó ta
thuyết pháp ngươi không nghe được.
Động
Sơn không hiểu hỏi lại:
-
Vì sao đệ tử không nghe được?
Vân
Nham đưa phất trần lên hỏi:
-
Ngươi nghe không?
-
Không nghe.
-
Ta thuyết pháp ngươi còn không nghe ra, nói chi đến vô tình
thuyết pháp?
-
Vô tình thuyết pháp là do đâu?
-
Trong kinh A Di Đà chẳng có nói: “Nước, chim, cây rừng đều
niệm Phật, niệm pháp sao? “
Nghe
lời đó Động Sơn khai ngộ bèn làm bài kệ sau:
也
大 奇 也 大 奇
Dã
đại kỳ dã đại kỳ
無
情 說 法 不 思 議
Vô
tình thuyết pháp bất tư nghì
若
蔣 耳 聽 終 難 會
Nhược
tương nhĩ thính chung nan hội
眼
處 聞 聲 方 得 知
Nhãn
xứ văn thanh phương đắc tri.
Thật cũng lạ thay, thật cũng lạ!
Vô tình nói pháp, nghĩ không ra
Dùng đến tai nghe càng chẳng rõ
Lấy mắt mà nghe mới hiểu a!
(Thiền Chi Hoa)
Tai
thì nghe được thanh trần, mắt thì nhìn được sắc trần;
ở đây mắt nghe được thì thanh này không phải là thanh trần
mà là tự tánh. Mắt này không phải mắt thịt mà là mắt
Đạo.Tự tánh ở khắp mọi nơi, có mắt Đạo thì có thể
nghe thanh của tự tánh. Người khác vật vì có ngôn ngữ để
diễn đạt tư tưởng. Vật vô tình không có ngôn ngữ, dĩ
nhiên không có tư tưởng làm sao có thể thuyết pháp? Nhân
vì hữu tình và vô tình đều có cùng một thể tự tánh.
Chỉ cần nhìn thấu suốt tự tánh của sự vật là có thể
xúc động linh cơ mà khai ngộ. Tô Đông Pha có thơ rằng:”Tiếng
suối reo chính là tướng lưỡi rộng dài, Mầu sắc núi chẳng
phải là không thân thanh tịnh.” Do đó, vô tình thuyết
pháp không phải là vọng ngữ vậy.
1032.
Tâm là Phật.
Vô
Nghiệp bình thời nghiên cứu luật tạng rất thâm sâu. Lúc
mới gập Mã Tổ, Mã Tổ thấy tướng mạo mạnh mẽ, to lớn
bèn nói:
-
Bên ngoài đường đường mà bên trong chẳng có Phật!
Vô
Nghiệp cung kính quỳ xuống thưa rằng:
-
Con từng nghiên cứu tam thừa có chỗ sở đắc, nhưng đối
với chủ trương của thiền tông, “Tức tâm. Tức Phật”
thì vẫn chưa hiểu.
-
Ta bảo cho ngươi biết chính cái tâm chưa hiểu được đó
là Phật chứ không có cái gì khác.
Vô
Nghiệp vẫn không hiểu, bèn hỏi tiếp:
-
Xin hỏi ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
Mã
Tổ trợn mắt:
-
Vị đại đức này thực mê mờ quá, mau đi đi, lúc khác lại.
Chính
lúc Vô Nghiệp định đi, Mã Tổ ở phía sau lưng quát lớn:
-
Đại đức!
Vô
Nghiệp quay đầu lại. Mã Tổ bèn hỏi:
-
Là cái gì?
Nghe
lời nói đó Vô Nghiệp bèn lạy tạ.
(Thiền
Chi Hoa)
Tâm,
Phật, chúng sinh không sai khác. Vô Nghiệp không hiểu rõ ý
đó. Vì tự tánh không thể nói, chỉ có thể dùng cơ duyên
xảo diệu mà tiếp dẫn. Mã Tổ kêu lớn, “Đại Đức!”
Vô Nghiệp ngoảnh đầu lại. Ai nghe tiếng kêu? Ai ngoảnh đầu
lại? Đó chẳng phải hoàn toàn do tự tánh của Vô Nghiệp
đó sao? Chỉ một tiếng quát của Mã Tổ đã làm Vô Nghiệp
ngộ được cái diệu dụng của tâm vậy.
1033. Chuột thuyết pháp.
Thị
lang Vương Công Tông Mộc nói với Liên Trì rằng:
-
Nửa đêm, chuột kêu chít chít không ngừng, giảng hết cả
bộ kinh Hoa Nghiêm.
Liên
Trì nói:
-
Ngay chính lúc đó, con mèo đột nhiên xuất hiện, biết phải
làm sao?
Tông
Mộc im lặng. Liên Trì bèn tự trả lời:
-
Pháp sư chạy đi, lưu lại giảng án.
Sau
đó lại làm một bài kệ như sau:
老
鼠 喞 喞 華 嚴 歷 歷
Lão thử tức tức hoa nghiêm lịch lịch
奇
哉 王 侍 郞 卻 被 畜
Kỳ
tai Vương thị lang khước bị súc
生
惑
sanh
hoặc
猫
兒 突 出 畫 堂 前
Miêu
nhi đột xuất hoạch đường tiền
床
頭 說 法 無 消 息
Sàng
đầu thuyết pháp vô tiêu tức
無
消 息 大 方 廣 佛 華
Vô
tiêu tức đại phương quảng Phật hoa
嚴
經
Nghiêm
kinh
世
主 妙 嚴 品 第 一
Thế
chủ diệu nghiêm phẩm đệ nhất
Giảng Hoa Nghiêm chuột kêu chút chít
Đã làm mê hoặc Vương thị lang
Một chú mèo bỗng nhiên xuất hiện
Đâu người nói pháp nơi đầu giường
Và đâu phẩm thế chú diệu nghiêm
Của Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm.
(Ngộ
Không dịch)
(Thiền
Chi Hoa)
Do
tiếng kêu, “Chít, chít” của con chuột, có thể thể hội
một bộ kinh Hoa Nghiêm; Tông Mộc tâm theo vật mà chuyển bị
súc sinh sở hoặc. Người tu nếu đạt đến “tùy duyên bất
biến, bất biến tùy duyên” thì đạt được tâm cảnh vật
ngã là một. Nếu tùy duyên mà biến thì tâm có sở trụ không
đạt được “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” của cảnh
giới giác ngộ. Tâm trụ thì không linh, các pháp theo đó mà
diệt. Như chuột thuyết pháp, con mèo xuất hiện, chuột bèn
lẩn trốn. Tâm bị vật mà động, trí bị thức mà mê như
vậy làm sao khai mở được Phật tri kiến? Vì vậy, muốn
thành Phật, phải tu tâm kiến tánh, tu thiền cũng vậy, mà
tu tịnh cũng vậy. Vương thị lang đêm nghe chuột thuyết pháp
không phản hồi nghe tự tánh vì vậy không kiến tánh, do đó
ngày càng rời xa Đạo. Chuyện nghe chuột thuyết pháp chỉ
thành hý luận. Nếu có thể ngộ, một niệm phản tỉnh thì
một mầu sắc, một mùi hương đều là trung Đạo, tiếng
gió, tiếng mưa chẳng phải là không diệu đế.
1034. Thế nào là Chánh Nhãn.
Có
lần Triệu Châu định lên Ngũ Đài sơn thăm chùa Thanh Lương
là đạo trường của Bồ Tát Văn Thù. Có ông tăng nghe Triệu
Châu định đi chùa Thanh Lương bèn làm bài kệ sau, trao cho
Triệu Châu:
何
處 清 山 不 道 場
Hà
xứ thanh sơn bất đạo tràng
何
須 策 杖 禮 清 凉
Hà
tu sách trượng lễ thanh lương
雲
中 縱 有 金 毛 現
Vân
trung túng hữu kim mao hiện
正
眼 觀 時 非 吉 祥
Chánh
nhãn quán thời phi cát tường
Chỗ nào núi xanh chẳng đạo trường
Việc gì chống gậy lễ Thanh Lương
Trong mây dầu có Kim Mao hiện
Chánh Nhãn nhìn xem chẳng cát tường.
Triệu
Châu bèn hỏi lại một câu:
-
Thế nào là Chánh Nhãn?
Ông
tăng không lời đáp lại. Do đó Triệu Châu vẫn cứ đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Ông
tăng làm bài kệ cho rằng Triệu Châu chưa lìa được quan
niệm về Không Gian và Ảnh Tượng. Vì pháp thân Phật ở
khắp nơi, chỉ cần tâm niệm chúng ta thanh tịnh thì có thể
cảm ứng được; việc gì phải chấp tượng Phật do bùn
đắp nên mà phải đi Ngũ Đài Sơn để lễ bái? Triệu Châu
biết ông tăng có tri kiến như vậy mà vị tất đã có ngộ
cảnh; còn ông tăng không biết Triệu Châu chính là người
có Chánh Nhãn. Một người có Chánh Nhãn đương nhiên không
bị thời, không gian và ảnh tượng ngăn trở, nhưng cũng không
phủ định sự tồn tại của mọi tướng. Ông tăng làm bài
kệ trước hết đã có quan niệm về Thanh Sơn, đạo trường
Kim Mao (viết tắt của Kim Mao Sư Tử: chỉ trí tuệ), Cát Tường
(viết tắt của Diệu Cát Tường, chỉ Bồ Tát Văn Thù), Chánh
Nhãn. Như vậy là đã chấp tướng rồi, làm sao kiến tánh
được? Kinh Kim Cương có nói, “Nếu thấy các tướng là
không tướng thì thấy Như Lai.” Do đó, ông tăng bị Triệu
Châu hỏi lại một câu đã không lời đáp lại. Nhìn bánh
vẽ không làm cho no. Chỉ những người đã vào được bể
trí tuệ chân như thì đối với bản thân mới có thọ dụng
chân chính vậy.
1035. Đỉnh núi không mây vờn
Lòng sóng, bóng trăng rơi.
Từ
Minh hỏi Thúy Nham:
-
Đại ý Phật pháp là gì?
Thuý
Nham đáp:
Đỉnh núi không mây vờn
Lòng sóng, bóng trăng rơi.
-
Đầu tóc bạc trắng, răng rụng cũng nhiều rồi mà còn kiến
giải như vậy, ngươi làm sao mà phá vòng sinh tử?
Thúy
Nham kinh sợ, khẩn khoản cầu Từ Minh chỉ bảo. Từ Minh nói:
-
Ngươi hỏi lại đi.
Thúy
Nham hỏi lại:
-
Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Từ
Minh đáp:
Đỉnh núi không mây vờn,
Lòng sóng, bóng trăng rơi.
(Thiền
Chi Hoac)
“Đỉnh
núi không mây vờn” là chỉ chân không, là lý pháp giới.
“Lòng sóng, bóng trăng rơi” là chỉ diệu hữu, là lý sự
pháp giới. Toàn câu là để chỉ Chân Không Diệu Hữu. Cũng
tương tự như Tâm Kinh có nói, “Sắc tức thị không, không
tức thị sắc.” Nếu có người trần thuật ngộ cảnh của
mình cho thiền sư, thiền sư sẽ khảo nghiệm xem có ngộ thật
không. Nếu học nhân nói đúng, thiền sư sẽ cố ý nói là
không đúng khiến học nhân nghi ngờ; sau đó mới bảo học
nhân hỏi lại. Rồi sau đó trả lời bằng chính câu nói của
học nhân làm cho học nhân hết nghi hoặc mà thêm lòng tự
tín.
1036. Ly khai hai bên.
Để
khảo nghiệm tăng đồ, Hương Nghiêm Trí Nhàn nêu ra vấn đề
như sau:
-
Người cầu Đạo giống như một người dùng răng cắn vào
cành cây, mình lơ lửng giữa trời. Bên dưới có người đặt
câu hỏi, “Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?” Nếu không
đáp là không biết, nếu mở miệng đáp thì sẽ rơi xuống
mà chết. Xin hỏi phải làm sao?
Lúc
đó Hổ Đầu Chiêu hòa thượng cũng có mặt bèn đứng dậy
thưa:
-
Không hỏi lúc đã ở trên cây, xin hỏi lúc chưa trèo lên
cây thì thế nào?
Hương
Nghiêm nghe rồi ha hả cười lớn.
(Thiền
Chi Hoa)
Phàm
nhân chúng ta tâm động thì niệm sanh, Vọng tưởng chấp trước
nên bị lạc vào biên kiến. Yếu chỉ của thiền là trừ
khử biên kiến. Chúng ta vỉ sao không chứng được trí tuệ
Như Lai? Chỉ bởi vì Vọng và Chấp vậy. Mà Vọng và Chấp
là do tâm động mà sanh. Hương Nghiêm có ý giúp đồ
đệ tự phá biên kiến. Trong công án trên trả lời hay không
trả lời đều là biên kiến; chẳng bằng hỏi lúc chưa trèo
lên cây thì sao? Đó chính là đã chứng được bản lai diện
mục. Phương pháp này đi thẳng vào tâm trách chi Hương Nghiêm
chẳng cười lớn sao được.
1037. Thể hội đại Đạo.
Có
người hỏi Mã Tổ:
-
Vì sao thiền sư nói: “Tức tâm, tức Phật.”?
-
Để dỗ con nít khỏi khóc!
-
Đứa trẻ ngưng khóc rồi làm sao?
-
Bảo nó: “Phi tâm, phi Phật.”
-
Ngoài hai phương pháp trên còn phương pháp nào để tiếp dẫn
người tu chăng?
-
Bảo cho hắn biết hắn không phải là “vật.”
-
Còn người đã giác ngộ thì sao?
-
Cứ theo tự tâm mà thể hội đại Đạo.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
đáp thứ nhất là đối với những người chấp không, dùng
khẳng định mà khai thị.
Câu
đáp thứ hai là đối với những người chấp có dùng phủ
định mà khai thị.
Câu
đáp thứ ba là đối với những người chấp không và có.
Phải loại trừ mọi chấp trước.
Câu
thứ tư là đối với những người đã ngộ rằng không và
có không phải là hai, giúp cho ngưòi này giữ được ngộ
cảnh.
Nói
một cách tổng quát, Phật pháp không có một pháp nhất định,
mục đích là làm sao cho chúng sinh khai thị mà ngộ được
cái “Phật tri kiến” vậy.
1038. Không ra không vào.
Có
vị giảng sư đến hỏi Mã Tổ:
-
Không biết Thiền tông chuyên tu pháp nào?
Mã
Tổ không trực tiếp trả lời mà hỏi ngược lại:
-
Ngươi chuyên tu pháp nào?
-
Nói ra thì hổ thẹn, bần tăng đã giảng ngoài hai chục bộ
kinh.
-
Thật là sư tử hống.
-
Không giám!
Mã
Tổ bèn giả tiếng sư tử gầm lên. Hòa thượng nói:
-
Đó cũng là pháp.
-
Pháp gì vậy?
-
Sư tử ra khỏi hang.
Mã
Tổ lại im lặng không nói. Hòa thượng nói:
-
Đó cũng là pháp.
-
Pháp gì vậy?
-
Sư tử ở trong hang.
Mã
Tổ hỏi:
-
Không ra, không vào là pháp gì vậy?
Hòa
thượng không có lời nào đáp lại được.
(Thiền
Chi Hoa)
Tiếng
gầm là một pháp sinh diệt. Khi gầm lên chỉ sư tử ra khỏi
hang, khi im lặng chỉ sư tử vào trong hang. Cả hai (ra, vào)
đều là loại tướng động. Nếu tâm có khởi cầu tĩnh thì
tức là đã động rồi. Câu Mã Tổ hỏi: “Không ra, không
vào là pháp gì?” chỉ cảnh giới vượt ngoài cả động
lẫn tĩnh. Nhưng vì hoà thượng chỉ hiểu có một mặt
động không hiểu rằng chân tâm thì động tĩnh là một cho
nên không đáp được. “Động tĩnh là một” không thể
dùng lý mà ngộ được, lại càng không thể dùng lời mà
giảng ra được, chỉ có thực chứng.
1039. Ai là người sau?
Đạo
Ngộ hỏi Thạch Đầu:
-
Nếu siêu thoát định, tuệ. Xin hỏi sẽ bảo kẻ khác cái
gì nữa?
-
Ta vốn không có nô lệ, nói gì đến siêu thoát.
Đạo
Ngộ buồn phiền hỏi:
-
Nói như vậy, ai mà hiểu nổi?
Thạch
Đầu không trực tiếp trả lời mà hỏi lại:
-
Ngươi hiểu chữ “Không” chăng?
-
Đối với chữ “Không” đệ tử cũng có chỗ tâm đắc!
-
A!Không ngờ ngươi là “Người phía bên kia”.
Đạo
Ngộ phản đối:
-
Đệ tử không phải là “Người phía bên kia.”
Thạch
Đầu cười mà rằng:
-
Ta đã sớm biết cư xứ của ngươi.
Đạo
Ngộ phẫn nộ:
-
Sư phụ lấy chứng cứ gì mà vu khống cho đệ tử?
-
Thân thể ngươi là chứng cứ.
-
Cứ nói như vậy thì làm sao người sau hiểu đạo được?
Thạch
Đầu hét lên:
-
Ai là người sau?
Đạo
Ngộ hoát nhiên đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Không
có “nô lệ” đương nhiên đều là chủ nhân như vậy đương
nhiên không phân biệt tự tha (ta, người). Đó là để đối
lại với” kẻ khác” của Đạo Ngộ. Khi Đạo Ngộ nói,
“Đệ tử không phải là ‘người phía bên kia’ ý nói mình
không phải là tiểu thừa “không tông.” Đạo Ngộ đã không
hiểu chữ “Không” của Thạch Đầu là một pháp chẳng
lập, trong chữ không đó không có phân biệt tự tha. “Thân
thể ngươi là chứng cứ” vì thân thể là do ảo mà có,
cuối cùng cũng quay về không. Vì có thân thể nên có tự
tha, thân thể diệt thì hoàn không, tự tha cũng không nốt.
Vì người không có tự tha, đều là một thể tự tánh, tự
giác tức giác tha, làm gì còn có người sau? Do đó Đạo Ngộ
hoát nhiên khai ngộ.
1040. Một trở về đâu?
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Vạn pháp trở về một, một trở về đâu?
Triệu
Châu đáp:
-
Ta tại Thanh Châu may một cái áo bông nặng bẩy cân rưỡi.
(Thiền
Chi Hoa)
Kinh
Phật thường dùng một và nhiều để trỏ Thể và Dụng.
Một là Thể và nhiều là Dụng. Vì bản thể chỉ có một
cái tuyệt đối không tánh, mà Dụng thì có thiên biến vạn
hóa. Câu đáp của Triệu Châu không phải là câu trả lời.
Một cái áo bông là cái một, nặng bẩy cân rưỡi là cái
nhiều. Một không lìa bẩy rưỡi, bẩy rưỡi không lìa một
tức diễn cái ý một là tất cả, tất cả là một nếu theo
câu hỏi của ông tăng thì câu đáp sẽ là, “Vạn pháp trở
về một, một trở về vạn pháp”.
1041. Con vịt trời của Bách Trượng.
Có
lần Bách Trượng và sư phụ là Mã Tổ ra ngoài, thấy con
vịt trời đang bay. Mã Tổ hỏi:
-
Con gì vậy?
-
Con vịt trời.
Mã
Tổ hỏi:
-
Bay đi đâu vậy?
-
Đã bay đi rồi!
Mã
Tổ đột nhiên lấy tay bóp mũi Bách Trượng.
Bách
Trượng bị đau kêu lớn:
-
Ái!
Mã
Tổ nói:
-
Ngươi nói đã bay đi rồi, nhưng cho tới giờ tất cả đều
chả ở đây là gì?
Bách
Trượng nghe câu nói đó, toàn thân xuất mồ hôi lạnh khai
ngộ ngay chính lúc đó.
(Thiền
Chi Hoa)
Đối
với thiền gia thì mắt nhìn, tai nghe toàn là do tự kỷ. Vịt
trời đang bay hay đã bay đi rồi đều là do mình. Mã Tổ nói:
“Con gì” trực tiếp trỏ pháp không ẩn mật mà hiển lộ
ngay trước mắt. Câu đáp của Bách Trượng “là con vịt”
làm mất đi chân sinh mạng của “pháp.” Nếu do tự thể
của Pháp mà nói con vịt trời là con vịt trời, hoặc ‘núi
tự cao, biển tự sâu’ thì mới đúng. Còn nếu lấy con vịt
trời làm cảnh thì ta đã phân ra chủ khách, trong ngoài. Nếu
hiểu được rằng vạn cảnh đều do chân như thể hiện thì
tâm cảnh chỉ là một. Mã Tổ muốn Bách Trượng hiểu đạo
lý đó nên bóp mũi Bách Trượng làm Bách Trượng hiểu rằng
tất cả khách quan đều do chủ quan triển khai, tất cả khách
thể đều do chủ thể mà thành do đó chứng được thánh
cảnh, “Một là tất cả, tất cả là một”. Nếu có chứng
được cảnh giới này thì mới có thể tùy xứ mà phát triển
tánh sáng tạo của mình được.
1042. Hạt gạo này từ đâu tới?
Thạch
Sương đang đong gạo tại kho, Quy Sơn đến nơi và nói:
-
Cẩn thận, đừng làm hao gạo của thí chủ.
Thạch
Sương hiểu nghĩa bóng, bèn trả lời:
-
Không làm hao đâu!
Quy
Sơn nhặt một hạt gạo rơi trên đất và nói:
-
Ngươi nói không, vậy hạt gạo này từ đâu ra?
Thạch
Sương không lời đáp lại. Quy Sơn lại nói:
-
Đừng coi thường hạt gạo này, hàng trăm ngàn hạt gạo từ
hạt này mà ra đó!
Thạch
Sương hỏi:
-
Hàng trăm ngàn hạt từ hạt này mà ra, nhưng chẳng biết hạt
này từ đâu ra?
Quy
Sơn ha hả cười lớn, trở về phương trượng thất.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Quy Sơn, “hàng trăm ngàn hạt từ hạt này mà ra” ý
nói vạn pháp đều do tự tánh sinh ra. Câu của Thạch Sương,
“Chẳng biết hạt này từ đâu ta?” là hỏi “Tự tánh
từ đâu mà ra?” Quy Sơn biết Thạch Sương đã ngộ tự tánh
là đệ nhất nguyên lý nên ha hả cười lớn. Quy Sơn không
dùng phương pháp át (hét), bổng (đánh), từ những sự việc
tầm thường Quy Sơn đã nhìn thấy những chỗ mà người thường
không thể thấy, tuy là những lời bình thường nhưng mỗi
lời đều là chân lý, thấm sâu vào tận xương tủy vậy.
1043. Đầu Tạng trắng, đầu Hải đen.
Có
ông tăng hỏi Mã Tổ:
-
Ly Tứ Cú, Tuyệt Bách Phi, xin hỏi” Ý của Tổ sư từ Tây
sang là gì?”
-
Hôm nay ta mệt lắm, không giải thích cho ngươi được, ngươi
đi mà hỏi Trí Tạng.
Ông
tăng đi hỏi Trí Tạng, Trí Tạng hỏi lại:
-
Sao ngươi không đi hỏi sư phụ?
-
Chính sư phụ bảo đệ đi hỏi sư huynh.
-
Ta hôm nay nhức đầu lắm, không giải thích cho ngươi được,
ngươi kiếm Hoài Hải mà hỏi.
Ông
tăng này lại đi hỏi Hoài Hải. Hoài Hải đáp:
-
Ta cũng chẳng biết.
Ông
tăng này trở về thưa với Mã Tổ. Mã Tổ bèn nói:
-
Đầu Tạng trắng, đầu Hải đen.
(Thiền
Chi Hoa)
Trắng
là “Minh Đầu Hợp”, đen là “Ám Đầu Hợp” đều là
thuật ngữ của thiền gia. “Minh Đầu Hợp” chỉ Dụng,
“Ám Đầu Hợp” chỉ Thể. Trí Tạng là Minh Đầu Hợp,
vì nhức đầu nên không giải thích được, giả như nếu
không bệnh thì sẽ trả lời, đó là thế pháp, là Dụng.
Hoài Hải là “Ám Đầu Hợp, “Ta cũng chẳng hiểu” là
chỉ tự tánh là Thể. Cứ như cách thấy của Hoài Hải thì
“Ý của tổ sư từ Tây sang” vượt ngoài cả khẳng định
và phủ định, không thể dùng ngôn ngữ mà diễn tả được,
cũng như Lão Tử quan niệm “Đạo có thể gọi, thì không
phải là Đạo thường, tên có thể gọi, thì không phải là
tên thường” hoặc cảnh giới “được ý, quên lời” của
Trang Tử.
1044. Phật tánh ở mọi nơi.
Vân
Môn khai thị đại chúng:
-
Người niệm Phật nhiều như cát sông Hằng, nhưng có ai hiểu
được Phật tánh ở đâu?
Rất
lâu, đại chúng không ai đáp được, thiền sư vì đại chúng
mà tự đáp:
-
Đều khắp.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
đáp của Vân Môn có ý là Đạo không trụ tại một nơi nào
nhất định mà ở khắp mọi nơi, cũng như Trang Tử cũng đã
nói Đạo ở loài giun dế, ở cả cứt đái.
1045. Cây trà.
Có
một lần, Ngưỡng Sơn theo Quy Sơn lên núi hái trà.
Quy
Sơn nói với Ngưỡng Sơn:
-
Chúng ta hái trà cả ngày mà chỉ phảng phất nghe thấy tiếng
chứ không nhìn thấy hình thể.
Ngưỡng
Sơn nghe rồi, dùng sức mà lay cây.
Quy
Sơn thấy vậy nói:
-
Ngươi chỉ thấy Dụng chứ không thấy Thể.
Ngưỡng
Sơn hỏi:
-
Sư phụ muốn thế nào?
Quy
Sơn yên lặng không nói.
Ngưỡng
Sơn lại nói:
-
Sư phụ chỉ biết Thể chứ không biết Dụng.
Quy
Sơn bèn nói:
-
Ta đánh cho ngươi ba mươi gậy.
-
Sư phụ đánh con, còn con thì đánh ai đây?
-
Ta lại đánh ngươi ba mươi gậy nữa!
(Thiền
Chi Hoa)
Ngưỡng
Sơn lay cây để chỉ cái Động của Dụng. Quy Sơn yên lặng
để chỉ cái Tịch Tĩnh của Thể. Ngưỡng Sơn vì Quy Sơn
mà phá Thể, nhưng vì tự tánh không thể dùng lời mà nói,
vì nói ra là chấp tướng. Do đó Quy Sơn đánh Ngưỡng Sơn
ba mươi gậy. Ngưỡng Sơn nghĩ sư phụ đã nói ra Dụng thì
sao mình lại không thể nói ra Thể. Già sử nói không trúng
thì sư phụ cũng bị ăn gậy. Nhưng Ngưỡng Sơn không biết
rằng Động mà nói ra thì không sai, nhưng Tịnh mà nói ra thì
lại sai. Vì vậy Quy Sơn lại đánh cho Ngưỡng Sơn ba mươi
gậy nữa.
1046. Do sinh hoạt hàng ngày mà ngộ Đạo.
Long
Đàm nói với Đạo Ngộ rằng:
-
Từ ngày đệ tử đến đây chưa hề được nghe sư phụ chỉ
dạy tâm yếu.
-
Từ ngày ngươi đến đây không có lúc nào là ta không chỉ
cho ngươi tâm yếu?
Long
Đàm chẳng chịu lại hỏi:
-
Sư phụ có chỉ cho con cái gì đâu?
Đạo
ngộ đáp:
-
Ngươi thử nghĩ lại mà xem: khi ngươi bưng trà lại, ta uống;
khi ngươi bưng cơm lại, ta ăn; khi ngươi hành lễ, ta gật
đầu. Đó không phải đều là chỉ thị tâm yếu cho ngươi
sao? Tại sao lại bảo ta không chỉ?
Long
Đàm cúi đầu suy nghĩ rất lâu, lúc đó Đạo Ngộ lại nói:
-
“Ngộ tức chân ngộ, suy tưởng là sai.”
Nghe
câu nói đó Long Đàm liền khai ngộ.
Lại
hỏi:
-
Làm sao giữ được ngộ cảnh này?
-
Dễ dàng thôi, chỉ cần ngươi thuận theo tự tánh, giữ tâm
bình thường, không phân phàm thánh là được.
(Thiền
Chi Hoa)
Tu
đạo không cần người khác, chỉ cần trong sinh hoạt hàng
ngày mà luyện tâm, lâu dần có thể tự ngộ. Khai ngộ cũng
vậy, bảo trì ngộ cảnh cũng vậy. Đạo rất bình thường,
không hề kinh thế hãi tục. Kinh Kim Cương có chép rằng: “Tới
giờ độ thực, Đức Thế Tôn, sửa y, trì bát vào thành xá
Vệ khất thực, khất thực rồi về chỗ ở độ thực, sau
đó thâu y bát, rửa chân, ngồi thiền.” Cho chúng ta thấy
rằng sinh hoạt của Phật tổ so với thường nhân cũng không
khác. Sách Trung Dung có nói rằng: “Đạo không xa người,
người vì Đạo mà xa người, không thể gọi là vì Đạo.”
Cũng chính là ý này vậy.
1047. Lễ Phật.
Có
lần Hoàng Bá đến bái phỏng Diêm Quan thiền sư, vào chùa
hướng về tượng Phật hành lễ. Lúc đó Đường Tuyên Tông
đang làm sa di ở chùa, hỏi thiền sư rằng:
-
Người cầu Đạo không chấp Phật, Pháp, Tăng, xin hỏi vì
sao người lại hành lễ?
Hoàng
Bá đáp:
-
Ta vốn không chấp Phật, Pháp, Tăng, hành lễ chỉ là do tùy
duyên mà thôi.
Tuyên
Tông lại hỏi:
-
Hành lễ có ích gì?
Hoàng
Bá tiện tay tát cho Tuyên Tông một cái. Tuyên Tông kêu lên:
-
Cái người này, sao lại thô lỗ như vậy?
Hoàng
Bá lại hét lên:
-
Đây là đâu ngươi biết không? Lại còn kêu thô với tế?
(Thiền
Chi Hoa)
Thiền
tông không sùng bái ngẫu tượng, lại còn phá trừ quan niệm
về ngẫu tượng, không thiếu những câu truyện thiền trong
đó các thiền sư mắng Phật, mắng Tổ, đốt tượng . v.
v. Nhưng những hành động đó đều là phương tiện để phá
chấp cho học nhân, còn bình thường gập tượng Phật thì
cũng cung kính lễ bái. Hoàng Bá tát cho Tuyên Tông một
cái là để giải trừ cái chấp của Tuyên Tông. “Ta là Hoàng
Tử” nhưng Tuyên Tông không hiểu còn nói Hoàng Bá thô lỗ.
Không biết rằng ở tự tánh làm gì có thô với tế, hơn
nữa tu viện không phải là triều đình, sa di chẳng phải
là Hoàng tử.
1048. Tổ sư thiền.
Một
hôm Ngưỡng Sơn khảo nghiệm sư đệ là Hương Nghiêm Trí
Nhàn, hỏi sư đệ gần đây tâm đắc như thế nào? Hương
Nghiêm làm một bài kệ rằng:
去
年 貧 未 是 貧
Khứ
niên bần vị thị bần
今
年 貧 始 是 貧
Kim
niên bần thủy thị bần
去
年 貧 猶 有 卓 錐 之 地
Khứ
niên bần do hữu trác trùy chi địa
今
年 貧 錐 也 無
Kim
niên bần trùy dã vô.
Năm ngoái, nghèo chưa là nghèo
Năm nay, nghèo mới là nghèo.
Năm ngoái nghèo, còn đất để cắm
Năm nay nghèo, không cả dùi cắm.
Ngưỡng
Sơn nghe rồi cười ha hả:
-
Sư đệ, ta thừa nhận ngươi đã qua Như Lai Thiền, còn như
Tổ Sư Thiền tưởng ngươi nằm mộng cũng chưa tới được.
Do
đó Hương Nghiêm lại làm một bài kệ nữa:
我
有 一 機
Ngã
hữu nhất cơ
瞬
目 是 伊
Thuấn
mục thị y
若
人 不 會
Nhược
nhân bất hội
別
喚 沙 彌
Biệt
hoán sa di.
Ta có một cơ
Chớp mắt là y
Nếu ngươi chẳng hiểu
Đừng gọi sa di.
Nghe
xong bài kệ, Ngưỡng Sơn rất cao hứng bèn đi báo cáo với
Quy Sơn:
-
Sư đệ đã đắc Tổ Sư Thiền.
(Thiền
Chi Hoa)
Như
Lai Thiền là chỉ tiệm tu, Tổ Sư Thiền là chỉ đốn ngộ.
Bài kệ thứ nhất diễn tả cảnh giới Như Lai Thiền. Nghèo
chỉ là Không. Năm ngoái đã tu tập được Nhân Không, vì
vậy nói, “Năm ngoái nghèo, chưa là nghèo”, chưa đạt được
chữ Không triệt để.Năm nay tu tập đến Pháp Không nên viết
“Năm nay nghèo mới là nghèo”. Muốn tới cảnh giới này
chỉ cần tu tập Giới, Định, Tuệ. Bài kệ thứ nhì cho thấy
đã ngộ nhập Chân Ngã vượt ngoài tất cả những quan niệm
về lý tính. “Cơ” là chỉ tự kỷ tâm linh, “Y” là chỉ
chân ngã. “Chớp mắt là y” là trọng tâm của bài kệ,
diễn tả sự đốn ngộ cảnh giới Chân Ngã, tức Tổ Sư
Thiền.
1049. Thì là cái đó.
Động
Sơn, sau khi ngộ đạo, đến bái biệt lão sư Vân Nham, đề
ra câu hỏi đã thắc mắc từ lâu:
-
Sư phụ, giả sử trăm năm sau có người hỏi con có còn nhớ
Chân Diện Mục của Thầy không thì phải đáp làm sao?
Vân
Nham mỉm cười, nhìn Động Sơn, qua một lúc rồi nói:
-
Thì là cái đó.
(Thiền
Chi Hoa)
Cái
đó, chính là cái Lục tổ Huệ Năng trong Pháp Bảo Đàn Kinh
có nói qua:
Nào ngờ tự tánh vốn không sinh diệt,
Nào ngờ tự tánh vốn trọn vẹn,
Nào ngờ tự tánh vốn không dao động,
Nào ngờ tự tánh có thể sinh ra vạn pháp!
“Cái
đó” là tự tánh vượt ngoài cả phủ định và khẳng định,
không có đối đãi chấp trước, là cái một, hễ nói ra là
sai, chỉ dùng trực giác mà thể ngộ.
1050. Hư không mất tiêu.
Thượng
tọa Ngạn Minh là vị học thức quảng bác, có ký ức tốt,
lại giỏi biện bác, nên có ý tự phụ. Một hôm đến bái
phỏng Bảo An Huệ Minh thiền sư; thiền sư hỏi rằng:
-
Càng nói nhiều lại càng xa Đạo, nay ta có một câu hỏi:
‘Lúc trước các Thánh nhân và các Tiên Đức còn có vị
nào không ngộ chăng?’
Ngạn
Minh đáp:
-
Đã gọi là Thánh Nhân, Tiên Đức thì sao lại không ngộ được?
Huệ
Minh nói:
-
Một người trở về nguồn chân, thì mười phương hư không
đều tiêu mất, nay Thiên Đài Sơn vẫn tồn tại, vậy là
sao?
Ngạn
Minh không sao đáp được.
(Thiền
Chi Hoa)
“Một
người trở về nguồn chân, mười phương hư không đều tiêu
mất”, đây là lời kinh Lăng Nghiêm giảng giải tự chứng
cảnh giới của tâm, không phải là chỉ ngoại cảnh của
hiện tượng giới. Thiền là tự tu tâm tánh mình không phải
là tu cho tha nhân, lại càng không phải là tu sơn hà đại
địa của ngoại cảnh. Thiền tâm là vô tâm, không chấp một
pháp. Nếu còn có một vi trần tại tâm thì không thể nào
kiến tánh được. Khi đã đạt được tới cảnh giới một
niệm chẳng sanh thì tâm đã vượt lên trên quan niệm về
thời không, vật ngã năng sở. Mười phương hư không còn
chẳng có, nói gì đến Thiên Đài sơn? Minh thượng tọa vì
không thực ngộ, nên làm sao hiểu được điều đó.
1051. Bặt đường suy nghĩ.
Chấn
Lãng hỏi Thạch Đầu rằng:
-
Tổ sư Đạt Ma từ Tây sang là có ý gì?
-
Đi mà hỏi cây cột (lộ trụ)
-
Đệ tử chẳng hiểu một tý gì?
-
Ta cũng chẳng hiểu gì cả!
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Thạch Đầu “Đi mà hỏi cây cột” là muốn đả phá
sự hướng ngoại tìm cầu của Chấn Lãng, mà phải quay về
quán chiếu tự tánh. Còn nếu cố chấp cứ theo cây cột mà
cố giải thích thì càng chấp thêm không sao ngộ Đạo được.
Mục đích của tổ Đạt Ma từ tây phương sang Trung thổ sợ
rằng ngay chính ngài cũng chẳng rõ. Có thể là do nhiều nguyên
nhân tụ họp mà thành, có thể là do lòng từ bi của Phật,
có thể là do lòng từ bi của tổ Đạt Ma, hoặc do nhiều
nguyên nhân khác nữa, tóm lại là điều không thể nghĩ bàn:
nếu cố giải thì sai lầm vì vậy khi gập câu hỏi trên,
các thiền sư đều tùy tiện dùng ngoại cảnh mà làm cho đứt
đoạn sự suy nghĩ của đối phương.
1052. Đại ý của Phật pháp.
Đạo
Ngộ hỏi:
-
Thế nào là là đại ý của Phật pháp?
Thạch
Đầu đáp:
-
Không đuợc, không biết.
-
Trên đó còn gì nữa không?
-
Trời cao chẳng ngăn ngại mây trắng bay.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
trả lời thứ nhất: Bác bỏ sự hướng ngoại tìm cầu.
Câu
trả lời thứ hai: Phật pháp là viên dung vô ngại, tới đi
tự như, tiêu dao tự tại.
1053. Chém mèo.
Có
một lần các tăng sĩ ở Đông đường và Tây đường vì
một con mèo mà khởi sự tranh chấp. Khi Nam Tuyền biết chuyện
túm lấy con mèo, nói với mọi người rằng:
-
Các ngươi nói đúng, thì con mèo đuợc cứu, bằng không ta
sẽ chém nó.
Mọi
người yên lặng, không nói được lời nào. Do đó, Nam Tuyền
chém con mèo thành hai đoạn. Khi Triệu Châu trở về, Nam Tuyền
thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Triệu Châu không nói một
tiếng, tháo dép đội lên đầu đi ra. Nam tuyền bèn nói:
-
Giả như lúc đó ngươi có mặt thì đã cứu được con mèo
rồi.
(Thiền
Chi Hoa)
Từ
bi vốn là căn bản của nhà Phật. Nam Tuyền lấy dao chém
mèo thành hai đoạn khiến cho mọi người kinh hãi. Nam Tuyền
bất mãn vì chư tăng là những người đã xuất gia mà lại
tranh chấp một con mèo, do đó chém mèo chỉ dạy người xuất
gia chân chính phải đoạn tuyệt trần thế. Chỉ có dùng phương
pháp độc đáo ấy mới làm cho người ta chân chính hướng
về tự do siêu nhiên. Triệu Châu đội dép lên đầu mà đi
ra để chỉ không chấp thường lý là dép thì phải mang ở
dưới chân. Nếu muốn siêu thoát thì phải bỏ hết mọi thị
phi của trần thế.
1054. Phá cả ba cửa.
Thắng
Quang dùng cưa, cưa đôi một con giun đất hỏi thiền sư rằng:
-
Hôm nay đệ tử cưa một con giun đất thành hai đoạn, hai
đầu của nó đều động đậy, không biết tánh mạng của
nó ở đầu nào?
Thần
Lực cầm cưa lên hướng về đầu phía phải đập một cái,
đầu phía trái đập một cái, vào khoảng giữa đập một
cái, rồi ném cưa mà đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Công
án này cho thấy thiền sư đả phá cả ba quan niệm không,
hữu và trung.
Đập
phải và trái đả phá không và hữu.
Đập
giữa đả phá trung.
Ném
cưa mà đi đả phá xong cả ba quan niệm.
1055. Cốt tủy đạo Phật.
Hàn
Dũ, bận rộn công vụ không thể đến tham phỏng thiền sư
Đại Điên luôn. Một hôm gập thiền sư, thưa rằng:
-
Đệ tử việc công bận rộn, xin lão sư chỉ điểm cho những
điểm cốt yếu của Phật đạo.
Rất
lâu, Đại Điên không nói. Hàn Dũ không biết là ý gì. Lúc
đó Tâm Bình là thị giả của thiền sư, gõ xuống thiền
sàng ba lần. Thiền sư hỏi:
-
Làm gì vậy?
Tâm
Bình đáp:
-
Trước lấy định chế động, sau dùng trí nhổ lên.
Hàn
Dũ nghe rồi hốt nhiên đại ngộ, cảm động nói:
-
Thiền sư môn phong cao thâm, đến cả thị giả cũng đã nhập
thủ.
(Thiền
Chi Hoa)
Chúng
sinh do chấp vọng tưởng, tạo nghiệp nên thọ khổ. Vô tận
phiền não chướng ngại tự tánh làm cho chúng sinh không thể
lìa khổ mà được vui. Làm sao để phá những chướng
ngại này mà tỏ ngộ đó là công phu tu trì. Tu trì là tu Giới,
Định, Huệ để diệt Tham, Sân, Si. Hàn Dũ là văn nhân không
thiếu Huệ, nhưng thiếu Định. Tâm Bình theo kinh Niết Bàn,
tùy chứng mà cho thuốc. Do đó, muốn trừ tâm danh lợi của
Hàn Dũ thì phải dùng Định Lực, sau đó dùng trí Huệ mà
nhổ nó lên.
1056. Triệu Châu cổ Phật.
Có
ông tăng từ phương Nam lại bái phỏng Triệu Châu; kể lại
đối thoại giữa Tuyết Phong và đệ tử. Đệ tử:
-
Xin hỏi thế nào là hồ cũ, suối lạnh?
Tuyết
Phong nói:
-
Như ngươi trợn mắt nhìn mà không thấy đáy.
Đệ
tử hỏi:
-
Người uống nước thì sao?
Tuyết
Phong đáp:
-
Hắn không dùng miệng uống.
Triệu
Châu nghe rồi, bèn có ý khôi hài mà rằng:
-
Nếu không dùng miệng mà uống thì dùng mũi chăng?
Ông
tăng không phục nói rằng:
-
Vậy sao? Thiền sư thử nói xem thế nào là hồ cũ, suối lạnh?
Triệu
Châu đáp:
-
Vị đạo rất khổ.
Ông
tăng lại hỏi:
-
Người uống nước thì sao?
Triệu
Châu đáp:
-
Chết cho rồi!
Tuyết
Phong nghe đoạn đối thoại trên tán thán rằng:
-
Thật là cổ Phật! Cổ Phật!
Danh
xưng “Triệu Châu cổ Phật” chính là do công án này.
(Thiền
Chi Hoa)
“Hồ
cũ, suối lạnh” là muốn hỏi thế nào là Đạo?
“Vị
Đạo rất khổ”: nếu như ngươi muốn