TRANG NGHIÊM DOHA

08/11/20239:48 CH(Xem: 2547)
TRANG NGHIÊM DOHA
TRANG NGHIÊM DOHA[1]
Một Miêu Tả Thực Sự Về Cuộc ĐờiSự Giải Thoát Của Dzogchenpa Rangjung Dorje
Jigme Lingpa soạn | Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ


blank Kính lễ vị Phật căn bản!

 

Lịch sử trọn vẹn của luân hồi,

Trong đó chúng ta chẳng nhận ra chân lý

Của sự cạn kiệt và không-khởi lên

trở thành nạn nhân của những ý nghĩ nhị nguyên

Thì quá nhiều chẳng thể kể hết.

 

Khi nền tảng-tất thảy trung lập

Liên hệ với những đối tượng tập trung,

Ô nhiễm khởi lên và sinh sôi.

Các tuyển tập thức hữu vi,

Các uẩn và xứ

Tạo ra điều mà chúng ta biết đến là thế giới, bánh xe tồn tại.

 

Và như thế, từ xa xưa, khi mà trong Dục giới,

Ta bám chấp vào một cái ngã,

Ta đã sinh ra ở xứ Sri Parvati[2],

Trong dòng họ đằng nội của Đức Gyayakpa[3].

Bởi gia đình không có bất kỳ người phụ thuộc nào,

Điều này không ngăn cản Ta sở hữu mọi thuận duyên về hoàn cảnh.

 

Ta sinh ra là một cậu bé với tâm thanh tịnh

Và vì thế, Ta cũng sở hữu tất cả năm thuận duyên cá nhân.

Mặc dù những đứa bé không thể đuổi quạ

Thường không thọ giới[4],

Lên năm tuổi[5],

Ta bước vào đời sống tu sĩ.

 

Được người phụ trách thúc giục, Ta học thuộc những bản văn nghi lễ

Và với chút nỗ lực tối thiểu, lắng nghe, quán chiếuthiền định,

Xuất hiện như là kẻ chẳng đếm xỉa đến luật nhân quả.

 

Mười bốn tuổi, Ta thọ giới Sa Di.

Thế nhưng ngoài bốn giới gốc,

Ta thậm chí còn chẳng biết về các giới luật[6],

Vậy thì làm sao Ta có thể duy trì sự rèn luyện về trì giới?

Ta nghĩ rằng nỗ lực hoàn toàn trong những nguyện xuất sắc[7]

Sẽ tạo thành giới từ bỏ ác hạnh.

Và vì thế, dưới vỏ bọc là một tu sĩ, Ta lãng phí những cúng dường,

Sống cuộc đời như một người bình phàm.

 

Thế nhưng Ta chán nản thế gian

tự nhiên cảm thấy sự xả ly và đại bi

Kể từ rất lâu về trước như Ta có thể nhớ lại.

Ta khát khao hành vi của một vị tu khổ hạnh.

Ta khá thông minh và khéo léo,

Và dù Ta sống cuộc đời của một đứa trẻ,

Ta không thể tận hưởng hành vi độc ác, như-mèo[8].

 

Khi trưởng thành, Ta không có ham muốn hành xử tiêu cực,

Về tâm hay thân, thế nhưng bởi hoàn cảnh bên ngoài,

Chẳng hạn như hành vi của những tu sĩ khác,

Ta không chống lại được sân và tham, điều mà Ta cảm thấy ân hận.

 

Duy trì đơn độc, Ta chỉ nghĩ về Giáo Pháp linh thiêng.

Khi Ta đọc tiểu sử của đạo sư vĩ đại xứ Uddiyana

Và nhớ về Tam Bảo,

Niềm tin mạnh mẽ tuôn trào không ngừng nghỉ.

Đầy lòng sùng mộ, Ta nghĩ đến việc lập tức đến

Núi Màu Đồng

Và ngay lúc đó, tâm Ta thực sự được gia trì.

 

Thậm chí nghe về những thợ săn lùng bắt hươu,

Dân du mục lùa đàn cừu đến lò mổ

Hay những người sợ hãi việc bị trừng phạt,

Chứ đừng nói đến việc thấy trực tiếp,

Cũng khiến lòng bi mẫn áp đảo khởi lên.

 

Bước sang tuổi hai mươi tư,

Ta chỉ nghĩ về những lỗi lầm của sự xao lãng

Và mơ về việc chạy trốn để theo đuổi Giáo Pháp.

Ta mong mỏi được lang thang một mình ở những nơi hoang vắng

Và cắt đứt bám chấp với quê nhà.

 

Bởi Ta không có chút dấu vết của lòng thù hận trong nhận thức,

Ta hài lòng khi nghe được danh hiệu của chư đạo sư,

Hay nghe về những thiền gia vĩ đại có ít nhiệm vụ

Hay những người an bình và thiện lành.

Chẳng hề có bất kỳ nghi ngại nào,

Ta cảm thấy kính trọng mọi người và tất cả những giáo lý khác nhau.

 

Mặc dù thiếu hương thơm ngọt ngào

Của mười hai thực hành khổ hạnh[9],

Thái độ và hành động của Ta vẫn không giống như những chủ hộ bình phàm.

Với sự chán nản và xả ly vô lượng,

Ta chấp nhận quan điểm của Giải Thoát Cá Nhân.

 

Khi những thuận duyên khởi lên,

Tại Sri Parvati và tại Samye Chimphu,

Ta nhất tâm thiền định trong bảy năm

Về giai đoạn sinh khởihoàn thiện,

Trong khi giữ gìn dáng vẻ đơn thuần của giới Chân ngôn thừa.

 

Khi năm khả năng của phiền não trọn vẹn

Trở thành nguyên nhân của sự tịnh hóa đầy đủ,

Tâm Ta ngập tràn những kinh nghiệm tâm linh, Ta trở nên thư giãn,

Và sự chứng ngộ của Ta về tính Không và lòng bi ngày càng tăng trưởng.

Những ý nghĩ về tham, sân, hy vọngsợ hãi

Tự nhiên được giải thoát trên con đường.

 

Nhờ sự gia trì của Tam Căn

nguyên nhân trực tiếp của con đường kim cương[10],

Ta khai mở kho tàng mọi phẩm tính của sự tịnh hóa trọn vẹn.

Thân Ta trở nên rừng rực; chư Không Hành Nữ ban những dấu hiệu

Và Ta tìm ra kho tàng của nhận thức phân biệt

Giống như đấng chiến thắng oai hùng Liên Hoa đã tiên đoán.

 

Bánh xe-mây của những chủng tự trong các kinh mạch và xứ

Dội vang như là âm nhạc của Giáo Pháp linh thiêng.

Ta kiểm soát mắt thấy-tất cả của tầm nhìn hoàn toàn vô ngại

Và chư Không Hành Nữ ba nơi.

Với nhận thức trực tiếp xác thực, Ta tịnh hóa vào hư không bao trùm-tất cả

Mọi ý nghĩ về từ bỏ hay chấp nhận, khẳng định hay bác bỏ,

Những thứ như nỗi sợ hãi mà các trí thức đơn thuần trải qua,

Đào xới tìm kho tàng,

Hy vọng một vị kế thừa Giáo Pháp xuất hiện

Hay hy vọng có được bất kỳ thứ gì.

 

Mặc dù Ta không thể tuyên bố đã đạt đến những đạo và địa cao hơn,

Trong Kinh Niệm Xứ,

Đức Phật nói về tám kho tàng Pháp vĩ đại[11].

Điểm đặc biệt của chúng là bất kỳ ai mà chúng được phát lộ cho

Sẽ không thất bại trong việc tiến hành những hoạt động giác ngộ

Và sẽ đạt được những thành tựu.

 

Đặc biệt, nhờ sức mạnh của những nguyện trước kia

Và nương tựa chỉ dẫn cốt tủy từ Đấng Toàn Tri vĩ đại[12],

Ta đã chứng ngộ bản tính của tâm mình.

Bởi trong động hạ tại Chimphu,

Ta đã diện kiến Đức Longchenpa trong một linh kiến và chứng ngộ chân lý về sự thực,

Còn cần gì đại dương những hệ thống triết học?

Dựa trên sự gia trì của Ngài, Ta biết mọi chi tiết của các giáo lý,

Bắt đầu từ mười tám tự dothuận duyên

quy y của ba kiểu chúng sinh.

 

Đấng chiến thắng thuyết chân lý đã tuyên bố rằng

Chúng ta cần bày tỏ lòng kính trọngkính lễ

Bất kỳ ai mà từ vị ấy, chúng ta thọ nhận Giáo Pháp,

Giống như những Bà La Môn thanh tịnh thờ lửa của họ.

Do đó, nhờ noi theo tấm gương này, Ta hiểu được bản tính của mọi giáo lý

đặc tính đặc biệt của Đại Viên Mãn.

 

Một cách trực tiếp, trong những linh kiến và giấc mơ,

Ta nhận được thọ ký rằng Ta sẽ làm hài lòng chư Phật.

Những kẻ không thể phân biệt được giáo lý thật – giả

Và sự thông minh bị ma quỷ làm cùn

Khinh thường và quở trách Sa Môn Cồ Đàm

Khi Ngài từ bỏ những khổ hạnh của Tirthika,

Gọi Ngài là kẻ làm ác[13]!

Họ mới đáng được thương xót làm sao!

 

Trong thời kỳ trước, Ta đã thọ

Bồ Tát giới từ Phật Ca Diếp và được thọ ký rằng

Sau khi tiêu trừ che chướng của sự thấy và thiền định che lấp Phật tính,

Ta sẽ trở thành Phật Toàn Thắng.

Cho đến khi Ta đến trước cây Bồ đề,

Ta sẽ không thất bại trong hành vi của chư Bồ Tát

Hay rơi vào sự thống trị của chúng sinh bình phàm,

đạt được trạng thái thống lĩnh của sự chứng ngộ chân thật

Rangjung Dorje tự nhiên thành tựu.

 

Hơn nữa, bởi tâm Ta đã trở nên

Thành thật và ngay thẳng,

Ta thậm chí không chỉ trích

Giáo Pháp và những hành giả tâm linh chỉ có vẻ ngoài,

Chứ đừng nói đến những vị thực sự kết nối với Giáo Pháp.

 

Về những môn đồ của Giáo Pháp, dù từ Ấn Độ hay Tây Tạng,

Làm sao kẻ ngu dốt có thể nhận ra phẩm tính

Của những vị thượng căn?

Sau khi tiêu trừ tâm của đỉnh tồn tại và ngã chẳng thể diễn tả

Bằng trí tuệ phân biệt,

Khi những vị như Aryasura [Thánh Dũng] và Dignaga [Trần Na]

Trở thành những vị soi sáng giáo lý vĩ đại như mặt trời,

Đây là hoạt động giác ngộ của chư vị chiến thắng.

 

Mặc dù Ta có niềm tin với mọi giáo lý,

Ta xem Bồ Tát Tạng

Là nền tảng cho Chân ngôn thừa,

Vì thế, Ta đến trước tôn tượng Jowo Thích Ca Mâu Ni

Để thọ Bồ Tát giới.

Ta thề giữ gìn nguyện và hạnh, đánh thức sự ham thích của mình.

 

Thấy sự suy giảm trong truyền thống của bản thân,

Ta thu thập các bản văn của Tuyển Tập Mật Điển,

Thọ nhận trao truyền và viết một lịch sử, một danh mục[14]

Và những phản bác tiêu trừ nhận thức sai lầm.

Như thế, Ta tạo ra những hoàn cảnh cát tường

Để các bản văn và sự trao truyền phát triển và lan tỏa.

 

Khi chẳng thể nương tựa ý nghĩa

Của Kinh, Huyễn và Tâm

Và Bốn Phần Tâm Yếu,

Một số học giả khác làm ô uế và khinh thường những tác phẩm Mật thừa này.

Do đó, Ta nghiên cứu, giải thíchthực hành hết sức có thể

Các bản văn như vậy, thứ cung cấp những nghi lễ mạch lạc giúp chín muồigiải thoát,

Thứ cho thấy sự không mâu thuẫn giữa Mật điểnchỉ dẫn cốt tủy,

Thứ kết hợp mọi điểm trọng yếu của nền tảng và tác nhân của sự tịnh hóa,

Và thứ có sức mạnh trao kết quả của năm thân,

Bao gồm những tác phẩm từ Kama

Như Hợp Nhất Chư Phật, Kilaya Bí Mật Nhất,

Vét Cạn Đáy Sâu, Tám Đại Đàn Tràng, Yamantaka và v.v.

 

Dựa trên truyền thừa gần của những gia trìquán đỉnh

Từ đạo sư Sri Simha,

Ta một lần nữa thu thập những giáo lý

Của Kilaya Hệ Thống Mật Điển[15].

 

Mọi truyền thốnggiáo lý của Núi Tuyết Tây Tạng,

Bất kể chúng là gì,

Đều giữ gìn những giáo lý của Đức Phật.

Vì những kẻ mong muốn hiểu mọi giáo lý,

Cả tuyển tập Kinh điểnMật điển,

Ta đã biên soạn Kho Tàng Phẩm Tính Quý Báu[16]

Cùng với luận giải – Cỗ Xe Hai Chân Lý và Cỗ Xe Toàn Tri[17]

Để soi sáng đường lối

Của các hệ thống giáo lý trong truyền thống của chúng ta.

Ta đã nương tựa Những Lời Của Đức Phật, Luận Tam Bảo[18],

Ba Cỗ Xe[19] và Bảy Kho Tàng

Và điểm tô bằng nhiều trích dẫn

Từ Những Lời Của Đức Phật và các bộ luận.

 

Gạt sang một bên hệ thống thiền định về tính Không của khởi và diệt

Dựa trên một phân tích chính xác về các thức và xứ

Theo Luận Tạng tôn quý,

Ta đạt đến những cấp độ chứng ngộ của chư Thánh

Nhờ sức mạnh thiền định về trí tuệ của Đại Viên Mãn,

Điều tức là Bồ đề tâm tuyệt đối.

 

Để tăng thêm sự thành thạo của bản thân trong các rèn luyện

Về Bồ đề tâm tương đối, nguyện và hạnh,

Quan trọng hơn sự phát triển ban đầu của chúng,

Ta phóng sinh khoảng hai trăm con gia súc và cừu

Cùng vô số động vật nhỏ

Trong khi tránh bất kỳ cảm giác tham lam nào.

 

Ta không tuân theo sinh kế sai lầm của việc phô trương

phung phí sử dụng tiền cúng dường được trao vì niềm tin và vì người đã khuất.

Tuy nhiên, Ta thực sự đã xây dựng Tu viện Pema O Ling

Với một ngôi chùa lưu giữ những bản văn của các Tạng

Cùng những ẩn thất niêm phong bằng bùn, nơi một số thiền giatu sĩ sống.

Ta dùng hàng nghìn đồng bạc

Để tạo ra những đại diện của Tam Bảo

cúng dường hàng vạn để phục hồi những ngôi chùa của tổ tiên hoàng gia của chúng ta.

Ta có được Những Lời Của Đức Phật và tài trợ việc tụng chúng.

Theo cách này, Ta rèn luyện trong sự hoàn hảo siêu việt của bố thí.

 

Ta đạt được sự thành thạo trong những kinh mạch, khí bên trong và năng lượng sống còn

giữ gìn Luật của Kim Cương thừa,

Chấp nhận sự trì giới của Chân ngôn.

 

Chỉ trích từ kẻ ngu dốt

Chẳng thể làm hư hại sự tự tin vô úy mà Ta có được.

Một cách nhẫn nhục, Ta chấp nhận ý nghĩa của chân lý sâu xa,

Sống cuộc đời không đạo đức giả.

 

Như sự hỗ trợ cho phạm vi hoạt động của công việc

Và mọi kiểu hành vi khác nhau,

Ta có được sự hoàn hảo siêu việt của tinh tấn.

 

Bằng cách thu tâm lại và không để nó lang thang,

Các quan niệm liên quan đến giai đoạn sinh khởihoàn thiện tự tan biến,

Và tâm Ta được đưa đến trạng thái của thiền định.

 

Sau đó, như là sự hoàn hảo siêu việt của trí tuệ,

Vipasyana trở thành Đại Viên Mãn.

 

Mặc dù làm hài lòng những người quan trọng

Chỉ là tám bận tâm thế tục,

Chẳng hạn hy vọng được lợi và sợ hãi mất mát,

Nếu Ta không khéo léo hành xử về chuyện này,

Giáo sĩ hoàng gia sẽ đố kỵ và gây chuyện.

Quán chiếu về điều này và các chướng ngại bởi tuổi tác và bệnh tật của bản thân,

Đáp lại lời mời từ Vua của Derge,

Ta đã gửi một bức thư[20].

 

Pháp Chủ, người đứng đầu vinh quang của chư vị Sakyapa[21],

Quả quyết mời Ta đến

Và từ cách mà vị này gọi Ta,

Ta nhận ra những kết nối cát tường từ đời trước.

Đó là một hành trình dài mà trong đó,

Ta tỏ lòng kính trọng đến những đại diện của Tam Bảochúng ta gặp dọc đường.

 

Khi Ta đến nơi, chúng ta tập hợp trong chùa lớn

Trong ba tháng mùa Đông.

Ta thánh hóa những đại diện của Tam Bảo nói chung

đặc biệt, sự chuẩn bị cho những đệ tử bao gồm

Mật điểnkhẩu truyền của các trường phái Cựu DịchTân Dịch, tám đại quán đỉnh,

Những gia trì cho phépgiao phó sinh lực của chư vị bảo vệ.

Ta cũng trao nghi lễ mở rộng để truyền Bồ Tát giới

Và Ta đã ban những chỉ dẫn liên quan đến điều đó.

Như thế, chư vị nỗ lực lớn lao trong phương tiện thiện xảo

Để chín muồi hai kiểu Bồ đề tâm.

 

Mặc dù những vị vĩ đại là vị thọ nhận thích hợp cho giáo lý cao hơn

Bởi bản tính siêu phàm của chư vị,

Với những kẻ có căn cơ thấp hơn, thật khó để trở thành bình chứa thích hợp.

Để những bậc tôn quý này, những vị được xem là đạo sư của cả vùng đất,

Trở thành những vị thầy tốt

Với tâm đắm chìm trong ý nghĩa của Đại thừa

phù hợp với bản tính của sự thực,

Ta đã phát một vài nguyện xuất sắc và ý nghĩa.

 

Ta tránh việc kiêu ngạo với những vị căn cơ thấp hơn

Hay việc giả bộ từ ái

Với những thí chủ giàu có.

Được thúc đẩy bởi tâm giác ngộ và bốn cách thu hút đệ tử,

Ta đã dạy hơn hai trăm đệ tử,

Và không chỉ những giải thích cho tập hội được dùng cho thực hành theo nguyện[22].

Bây giờ, vào cuối thời kỳ thích hợp để thực hành

Chỉ một nhận thức mơ hồ về sự xả ly

Cũng là tất cả những gì mà hầu hết những kẻ nỗ lực thực hành Pháp có thể xoay xở,

Bởi tâm họ bị thống trị

Bởi đại ma của năm sự suy đồi.

Mặc dù sau khi trải qua nhiều năm tháng thực hành,

Họ có thể phát triển một vài phẩm tính tích cực,

Đa số sẽ lại đọa lạc

Thực sự hiếm những vị tiến bộ trên con đường!

 

Vì thế, Ta luôn luôn cố gắng chăm chỉ

Để duy trì ở chốn cô tịch.

Đặc biệt, mặc dù họ có thể được hướng dẫn

Trong Tạng về Chân ngôn thừa,

Rất hiếm người thực sự thành công.

Những nhân và như thế, những quả, chỉ là không ở đó –

Giống như rút nước từ hồ chứa rỗng không.

 

Vì thế, nếu sự hưng – suy của giáo lý

Được đo lường, không phải bởi sự chứng ngộ về chính sự thực

Hay bởi những hành động hòa hợp với Giáo Pháp,

Mà lại bởi số lượng người,

Bảng phả hệ, vẻ ngoài của thân hay sức mạnh,

Thì chẳng có gì ngoài mê lầm và ngu dốt.

 

Sáu sức trang hoàng và tám mươi thành tựu giả,

Padampa Sangye từ Ấn Độ,

Geshe Kharak Gomchung[23]

Và Đấng Chiến Thắng Longchen Rabjam

Chẳng rời những nơi cư ngụ khiêm nhường của chư vị để đổi lấy

Điền trang tu viện to lớn mà đầy dẫy ác nghiệp,

Và chư vị không kết giao với các tập hội tu sĩđệ tử,

Những vị mà sự hành trì Giáo Pháp bao gồm tham và sân.

Giống như vậy, Ta thúc giục các con phát khởi lòng kính trọng với Tam Bảo

sùng kính thực hành Giáo Pháp.

Ta đã phát nguyện hoàn hảo rằng bất kỳ ai kết nối với Ta

Đều có thể được truyền cảm hứng hướng về điều thiện.

 

Trong thiền định, mọi ý nghĩ khởi lên thành trí tuệ,

Và trong hậu thiền định,

Ta có thể chỉ nghĩ về xả ly.

Bởi tâm hình thành một cái ‘tôi’ và bám chấp vào nó

Thực sự chẳng hề tồn tại,

Ta vượt khỏi những đặc điểm như sự kiêu ngạo tự phụ và cường điệu,

Thành kiến tinh thần, tán thán bản thân và chê bai kẻ khác,

Ngạo mạn và làm hại chúng sinh khác.

 

Ta thoát khỏi mọi hy vọng hay sợ hãi

Liên quan đến việc liệu những chúng sinh mê lầm, những kẻ nhấn mạnh tầm quan trọng

Của gia đình, vẻ đẹp, sức mạnhdanh tiếng,

kính trọng Ta hay không,

Bởi mọi người luôn luôn có những nhận thức khác nhau

Tùy theo dấu ấn nghiệp của họ và cách mà hoàn cảnh được nhìn nhận

Tùy thuộc vào nhân và duyên phụ thuộc lẫn nhau.

 

“Những cá nhân được Đại thừa truyền cảm hứng

Mặc dù họ có thể khôngsức mạnh giải thoát chúng sinh

Cần liên tụcý định đó.

Chính sự thật về việc có ý định như vậy

Sẽ nghĩa là họ hoàn thành nó”.

Do đó, khi con liên tục hiến dâng cho tâm Bồ đề quý báu,

Thứ giống như cam lồ biến mọi thứ thành vàng,

Phần đời còn lại của con sẽ vô cùng ý nghĩa.

 

Ta đã viết bản văn này theo thỉnh cầu

Của vị đạo sư Sakya vĩ đại[24].

Nhờ công đức này, nguyện nó trở thành nhân để tất cả những ai thấy, nghe,

Nghĩ hay chạm, đều thành tựu giác ngộ tôn quý.

Sarva mangalam!

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/jigme-lingpa/verse-autobiography.

Han Kop chuyển dịch Anh ngữ, Barry Cohen hiệu đính cho Dự Án Longchen Nyingtik, 2023. Với lòng biết ơn Lama Sherab Tharchin từ Tu viện Dodrupchen và Khenpo Sonam Tsewang từ Namdroling, những vị đã hướng dẫn cho toàn bộ bản văn; Khenpo Sonam Tsewang và Matthias Staber vì đã xem lại bản dịch và cung cấp vô vàn gợi ý hữu ích.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Theo Rigpawiki, Doha là những bài ca chứng ngộ.

[2] Sri Parvati liên quan đến Palri Osal Tekchen Ling, một Tu viện Nyingma và là một nhánh của Kathok ở Chonggye, nơi vốn được Terton Sherab Ozer (1518-1584) thành lập dưới sự bảo trợ của Sonam Tobgyal vào thế kỷ 16.

[3] rgya yags pa. Ở nơi khác, đây được xem là Gyadrakpa (rgya brag pa). Ngài là một trong sáu vị kế thừa tâm linh của Choje Drukpa.

[4] Theo Luật Tạng Vinaya, những đứa trẻ quá nhỏ đến mức không thể đuổi quạ nhìn chung không được phép thọ giới.

[5] Tức là vào năm 1735. Ngài Jigme Lingpa tính tuổi ở đây theo phong tục Tây Tạng, điều bắt đầu từ thời điểm thụ thai, khiến một cá nhân đã một tuổi lúc chào đời. Vì vậy, mặc dù Ngài Jigme Lingpa viết [trong bản Tạng ngữ] rằng Ngài sáu tuổi, chúng ta hiểu điều đó nghĩa là Ngài lên năm.

[6] Điều này liên quan đến 33 hay 36 giới của một Sa Di, điều bao gồm tránh bốn sa sút gốc.

[7] Những nguyện xuất sắc (legs smon) liên quan đến những lời cầu nguyện được tiến hành để có được tái sinh thuận lợi làm chư thiên hay con người.

[8] Mèo có thể trông vô tội, nhưng bí mật chúng săn bắt, giết chuột và những con vật khác.

[9] Mười hai thực hành khổ hạnh gồm: (1) mặc y phục được tìm thấy trong đống rác; (2) chỉ sở hữu ba y; (3) mặc y phục nỉ hay len; (4) xin đồ ăn; (5) ăn bữa ăn chỉ trong một lần; (6) hạn chế số lượng đồ ăn; (7) sống ở nơi hẻo lánh; (8) ngồi dưới cây; (9) ngồi ngoài trời; (10) ngồi ở nghĩa địa; (11) ngồi ngay cả trong lúc ngủ; và (12) ở bất kỳ đâu.

[10] Ở đây, Ngài Jigme Lingpa đang nói đến những bài tập du già của kinh mạch vi tế (rtsa), năng lượng khí (rlung) và tinh túy trọng yếu (thig le).

[11] Tám kho tàng của sự tự tin (spobs pa’i gter chen po brgyad) gồm: (1) kho tàng của ghi nhớ; (2) kho tàng của sự thông tuệ, (3) kho tàng của sự chứng ngộ; (4) kho tàng của ký ức; (5) kho tàng của sự tự tin; (6) kho tàng của Pháp; (7) kho tàng của Bồ đề tâm; và (8) kho tàng của thành tựu.

[12] Tức Đức Longchen Rabjam.

[13] Ở đây, Ngài Jigme Lingpa ám chỉ điều gì đó tương tự cũng đã xảy ra với Ngài.

[14] Trang Sức Bao Trùm Thế GianLịch Sử Của Tuyển Tập Mật Điển Quý Báu Của Trường Phái Cựu Dịch (snga 'gyur rgyud 'bum rin po che'i rtogs brjod 'dzam gling tha gru khyab pa'i rgyan), Derge, Quyển 3: 3-502.

[15] rgyud lugs phur ba. Một thực hành Phổ Ba Kim Cương khởi lên trong tâm trí tuệ của Ngài Jigme Lingpa, nhưng cùng lúc cũng được rút ra từ các Mật điển. Vì lý do này, nó được xem là một kho tàng (Terma) và cũng là một phần của truyền thừa truyền miệng (Kama). Trong lúc nhập thất, Ngài Jigme Lingpa có linh kiến về việc đang ở Paro Taktsang, nơi mà một trong hai mươi lăm đệ tử của Guru Rinpoche, Palgyi Senge, đã giải thích cho Ngài cách sắp xếp thực hành. Ngài đã hoàn thành tuyển tập này trước năm 1783, khi Ngài ban trao truyền tại Tu viện Sakya.

[16] Kho Tàng Phẩm Tính Quý Báu được viết vào mùa Đông năm 1779-80 tại Pema O Ling, theo thỉnh cầu của Choje Drakpukpa từ Lato.

[17] Cỗ Xe Hai Chân Lý được viết theo thỉnh cầu của vị trì giữ ngai tòa Sakya thứ 31 – Ngawang Kunga Lodro (1729-1783) và Cỗ Xe Toàn Tri theo thỉnh cầu của Choje Drakpukpa từ Lato.

[18] Một luận giải nổi tiếng về Mật điển Guhyagarbha do Ngài Rongzom Chokyi Zangpo (1012-1088) soạn.

[19] shing rta gsum. Cỗ Xe Vĩ Đại (shing rta chen mo), luận giải của chính Ngài Longchenpa về An Trú Trong Bản Tính Tâm (sems nyid ngal gso); Cỗ Xe Xuất Sắc (shing rta bzang po), luận giải của Ngài về An Trú Trong Huyễn (sgyu ma ngal gso); và Cỗ Xe Thanh Tịnh (shing rta rnam dag), luận giải của Ngài về An Trú Trong Thiền Định (bsam gtan ngal gso).

[20] Nói cách khác, Ngài Jigme Lingpa không thể chấp nhận lời mời đến Derge của đức vua và thay vào đó, đã gửi một bức thư. Đức vua ở đây là Sawang Zangpo (1768-1790).

[21] Ngài Jigme Lingpa đã viếng thăm Sakya vào năm 1786 ở tuổi 57. Bởi vị trì giữ ngai tòa Sakya thứ 31 – Ngawang Kunga Lodro (1729-1783) đã viên tịch, đây chắc hẳn là vị trì giữ ngai tòa Sakya thứ 32 – Jamgon Wangdu Nyingpo (1763-1809).

[22] Nói cách khác, Ngài Jigme Lingpa đang ám chỉ rằng Ngài trao truyền không chỉ những giải thích cho tập hội (tshogs bshad) mà cả những giải thích cho đệ tử (slob bshad), điều dành cho những đệ tử cao cấp hơn, những vị hướng đến việc hiện thực hóa và hoàn thiện thực hành.

[23] Kharak Gomchung Wangchuk Lodro là một đạo sư Kadampa từ thế kỷ 11 hay 12.

[24] Bản văn này có lẽ được viết vào năm 1786 khi Ngài Jigme Lingpa viếng thăm Tu viện Sakya ở tuổi 57. Goodman (1983, trang 36) lưu ý rằng những bản khắc gỗ của bản văn này được khắc lần đầu tiên vào năm 1787.

Tạo bài viết
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này. "Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…