Tự Truyện Của Tôn Giả Longchen Rabjam

27/01/20246:54 SA(Xem: 763)
Tự Truyện Của Tôn Giả Longchen Rabjam
TỰ TRUYỆN CỦA TÔN GIẢ LONGCHEN RABJAM[1]
Từ Lịch Sử Tràng Bảo Châu
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

blank Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ, Ta đã có niềm tin lớn lao, lòng bi mẫn và sự thông tuệ. Có những dấu hiệu rằng Namdru Remati đã cung cấp sự bảo vệ cực kỳ mật thiết; Bà thậm chí được thấy trong hình tướng vật lý. Vào khoảng năm bảy tuổi, Ta đã học cách đọc và đã học hỏi các thực hành nghi quỹ Phổ Ba (Kilaya), Tập Hội Thiện Thệ và Guru Rinpoche. Nhờ đó, khoảng năm lên chín, Ta đã có được chút hiểu biết.

Mười hai tuổi, Ta xuất gia làm một tu sĩ tập sự dưới sự chứng minh của Khenpo Samdrup Rinchen và Lobpon Kunga Ozer. Ta học hỏi Luật Tạng và đã giải thích Luật Tạng từ năm mười bốn tuổi. Mười sáu tuổi, Ta thọ nhận quán đỉnh, sự hướng dẫn và chỉ dẫn từ Lobpon Tashi Rinchen về những chủ đề như Lamdre, Sáu Du Già, Sáu Pháp Của Hợi Mẫu (Varahi), truyền thống Thắng Lạc của Ngài Ghantapada và Mahacakra Vajrapani [Kim Cương Thủ]. Từ Lobpon Wang-ye[2], Ta thọ nhận chỉ dẫn về nhiều kiểu nghi quỹ Chân ngôn Bí mật. Từ Zalung Rinpoche, Ta thọ nhận chỉ dẫn về Zhang Tsalpa, những chỉ dẫn của Tôn giả Gotsangpa về con đường và nhiều giáo lý khác, bao gồm [những giáo lý] về Chod và Zhije.

Mười chín tuổi, Ta đến Sangphu, nơi Ta nghiên cứu thừa của những đặc tính, bao gồm những bộ luận của Ngài Di LặcNhận thức Xác thực (pramāa). Trong sáu năm, Ta nghiên cứu tỉ mỉ với đạo sư vĩ đại – Labrangpa Chopal Gyaltsen và Pháp Xứng thứ nhì[3] cùng nhiều vị khác. Từ đạo sư vĩ đại Tsengonpa, Ta thọ nhận chỉ dẫn liên quan đến Bảy Bộ Luận về Nhận thức Xác thực, Tâm Kinh, nhiều trao truyền phụ liên quan đến Độ Mẫu Tara và v.v. Từ Lotsawa Lo-Ten[4], Ta thọ nhận nhiều trao truyền phụ, bao gồm năm Kinh điển sâu xa, chẳng hạn Kinh Định Vương và luận giải mở rộng về Tâm Kinh.

Thỉnh thoảng, Ta tiến hành các thực hành về chư Tôn tăng cường sự thông tuệ, chẳng hạn Acala, Diệu Âm và Prajñālokakṛtya[5]. Kết quả là, Ta trải qua một số dấu hiệu về sự thành tựu trong giấc mơ và đạt được chút hiểu biết liên quan đến kinh văn, lập luận, chỉ dẫn cốt tủy và thi ca. Sau đó, Ta lang thang qua nhiều địa điểm khác nhau, thọ nhận giáo lý về Kinh điển, Mật điểnchỉ dẫn cốt tủy từ nhiều đạo sư khác nhau và tôi luyện sự hiểu của bản thân nhờ nghiên cứuquán chiếu.

Từ Lobpon Zhonnu Dondrup, Ta thọ nhận nhiều giáo lý về Tập Hội Ý Định Kinh, Diệu Huyễn Võng, Phần Tâm và v.v. Ta thọ nhận toàn bộ những trước tác của Thánh Long Thọ, bao gồm Những Đoạn Kệ Gốc Về Trung Đạo, Nhập Trung Đạo và v.v. từ Lobpon Zhonnu Gyalpo. Từ Lobpon Zhonnu Dorje, Ta thọ nhận Nhập Bồ Tát Hạnh, Tập Bồ Tát Học Luận (Śikāsamuccaya) và nhiều khẩu truyền khác nhau, bao gồm Sáu Hợp Nhất và Sáu Du Già từ truyền thống của Jowo Atisa. Từ một vị Khenpo, Ta thọ nhận thêm nhiều chỉ dẫn, chẳng hạn tuyển tập giáo lý của Trophu, tuyển tập giáo lý của Kharak, Đại Dương Nghi Quỹ, Trăm Pháp Phụ và những kinh văn Luật Tạng. Với đạo sư tôn quý – Pháp chủ Karmapa, Ta nghiên cứu Sáu Nhánh Du Già bao gồm sự tiêu trừ chướng cản, Sáu Du Già Của Naropa, Sự Giới Thiệu Trực Tiếp Về Ba Thân, Đấng Đại Bi Thắng Hải (Jinasāgara), Đấng Đại Bi theo Truyền thống Vua và v.v. Bên cạnh đó, Ta thọ nhận nhiều giáo lý về Sáu Nhánh Du Già, tiếp cận và thành tựu, và năng lượng-khí (Lung) từ Lobpon Wangtsul và đã thực hành chúng không theo trình tự đặc biệt.

Khi Ta dành năm tháng trong bóng tối trong hang đá ở Chokla, trong một giấc mơ sáng nọ, Ta thấy bản thân trong một thung lũng cát thấp với những ngọn đồi và thác nước nhỏ. Ta nghe thấy tiếng chũm chọe cùng bài ca và thấy một con ngựa được phủ những chiếc chuông trên lưng. Trên lưng ngựa là một cô gái mười sáu tuổi, mặc y phục từ lụa và đeo vàng và ngọc lam; khuôn mặt cô ấy được che bằng mạng vàng. Ta nắm lấy dây cương và nói, “Đức Bà tôn quý, xin hãy chăm sóc con!”. Lúc này, cô ấy cởi vương miện châu báu và đặt lên đầu Ta. Cô nói rằng, “Từ nay trở đi, Ta sẽ liên tục ban cho con gia trì và thành tựu”. Ngay khi cô ấy nói điều này, thân và tâm Ta đắm chìm trong định hỷ lạc, sáng tỏ, vô quan niệm. Ta không tỉnh giấc trong thời gian dài. Thậm chí sau khi Ta thức dậy lúc bình minh, kinh nghiệm đã tiếp tục trong ba ngày tròn.

Sau đó, tại Samye, vào mùa xuân, Ta hạnh ngộ đạo sư tôn quý [tức Tôn giả Kumaradza], vị đang sống tại vùng cao Yartokyam. Ngài nói, “Đêm qua, Ta nằm mơ thấy một con chim tuyệt diệu có nguồn gốc linh thiêng, điều ám chỉ đến con. Dường như một vị trì giữ dòng truyền thừa giáo lý này đã đến. Ta phải ban cho con toàn bộ những chỉ dẫn”. Ngài quá đỗi hoan hỷ.


Mùa xuân đó, chúng ta đã di chuyển từ thung lũng hoang vắng này đến thung lũng khác chín lần. Biến động liên tục mỗi lần thiết lập một căn cứ dẫn đến sự khó nhọc cực độ với thân và khẩu. Ta chống đỡ trong hai tháng chỉ với ba phần bột mì và hai mươi mốt viên thủy ngân. Bất cứ khi nào tuyết rơi, Ta cuộn mình bên trong bao tải, thứ vừa làm áo choàng vừa là nệm ngồi. Ta phát nguyện trải qua những khó khăn như vậy vì Giáo Pháp trong ba năm. Ta đã thiền định tại các ẩn thất ở những nơi như Chimphu, và thỉnh thoảng đến gặp đạo sư để làm sáng tỏ sự hiểu của mình về những chỉ dẫncúng dường sự hành trì của bản thân, điều làm Ngài hài lòng. Ta chẳng bám chấp vào những hình tướng của đời này và thoát khỏi cạm bẫy của việc duy trì hy vọngsợ hãi về luân hồiNiết Bàn. Ít nhất, Ta đã bắt đầu trên con đường đến giải thoát nhờ tri kiến về bản tính căn bản của Đại Viên mãnliên tục an trụ trong định. Đặc biệt, nhờ sự vận hành của nghiệp và nguyện quá khứ, Ta đến nơi nhập thất của Đấng Liên Hoa Tự Sinh, Ngũ Đài Sơn của chính Tây Tạng[6], nơi mà vì một vài đệ tử với nghiệp và phước báu cần thiết, Ta chiếu tỏa ánh sáng về con đường xuất sắc của Tinh Túy Kim Cương Tịnh Quang.

Ta có nguyện thiện lành về việc nỗ lựclợi lạc của chúng sinh khác bất kể ngày – đêm; Ta dâng những cúng dường, hoàn toàn chẳng bị sai lạc bởi ba phạm vi quan niệm, năm lần trước sự chứng minh của đạo sư tôn quý; và Ta duy trì truyền thống cúng dường đến chư Dũng Phụ và Không Hành Nữ vào ngày Mười và Tám mỗi tháng, như thế, khiến cho bất cứ thứ gì được trao vì niềm tin đều trở nên ý nghĩa. Bất cứ điều gì mà Ta làm, sự hiển bày đơn thuần của những hiện tượngnhận thức hư huyễn, đều hòa hợp với Giáo Pháp cao quý. Như thế, để đảm bảo rằng những chỉ dẫn chân chính không bị rối loạn mà trở nên dễ hiểu và dễ đưa vào thực hành, Ta đã viết lại những chỉ dẫn cốt tủy trong nhiều bản văn. Đặc biệt, Ta đã sắp xếp những chỉ dẫn về Cực Tinh Túy Đạo SưNhư Ý Bảo Châu (Lama Yangtik) trong một chuỗi ba mươi lăm giáo lý và niêm phong chúng bằng lời nguyệnthế hệ tương lai.

Cầu mong những vị đi theo Ta trong tương lai sẽ quay lưng lại với những vấn đề của đời này, chịu trách nhiệm cho tương lai, đi theo một đạo sư tâm linh chân chính, thọ nhận những chỉ dẫn về Tinh Túy Tịnh Quang, và tự mình đưa những chỉ dẫn của Tâm Yếu Bí Mật vào thực hành ở những nơi hẻo lánh. Theo cách này, cầu mong họ vượt qua luân hồiNiết Bàn trong chính đời đó và khi những dấu hiệu thọ ký khởi lên, cầu mong họ làm việc càng nhiều càng tốt vì chúng sinh khác. Chịu đựng mọi kiểu vô ơn bạc nghĩamệt mỏi, cầu mong họ truyền bá những chỉ dẫn rộng khắp.

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/longchen-rabjam/autobiography-from-jewel-rosary.

Adam Pearcey chuyển dịch Tạng-Anh năm 2024.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Tựa đề này được dịch giả thêm vào.

[2] Tức Ngài Wangchuk Yeshe.

[3] Trong những nguồn khác, Pháp Xứng thứ nhì được xác nhận là Ngài Zhonnu Rinchen.

[4] Tức Ngài Lodro Tenpa.

[5] Một hình tướng của Hợi Mẫu Kim Cương (Vajravarahi).

[6] Địa điểm của Đấng Liên Hoa Tự Sinh ám chỉ Samye Chimphu, nơi mà ở đây, Đức Longchenpa so sánh với Ngũ Đài Sơn, ngọn núi ở Trung Quốc liên hệ với Văn Thù Sư LợiTôn giả Vô Cấu Hữu (Vimalamitra).

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.