Tuyển Dịch Kinh Điển Phật Giáo Kim Cang Thừa Introduction To The Selections From Vajrayāna Buddhism

21/12/20233:57 SA(Xem: 1850)
Tuyển Dịch Kinh Điển Phật Giáo Kim Cang Thừa Introduction To The Selections From Vajrayāna Buddhism
TUYỂN DỊCH
KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO KIM CANG THỪA

INTRODUCTION TO THE SELECTIONS FROM VAJRAYĀNA BUDDHISM
Tamás Agócs

1.
1.
Các đoạn văn được đánh dấu ‘V.’ trong sách này đại biểu cho truyền thống kinh điển của Phật giáo Kim cang thừa (Vajrayāna). Kim cang thừa xuất hiện như là một hệ phái đặc biệt về phương tiện (upāya) trong Đại thừa (Mahāyāna), chỉ dạy những phương pháp tu tập được cho là dẫn đến giác ngộ nhanh hơn so với tu tập các ba-la-mật (pāramitā) như được thuyết trong Kinh (sūtra). Những phương pháp mật truyền này được thuyết trong một lớp kinh điển Phật giáo riêng biệt gọi là mật tục (tantra), bắt đầu xuất hiện với số lượng lớn từ thế kỷ thứ năm Tây lịch ở Ấn-độ. Giống như các kinh Đại thừa, hầu hết các tantra Phật giáo cũng truy nguyên đến đức Phật lịch sử. Tuy nhiên, hệ thống tantra về hành trì được gọi là Kim cang thừa (Vajrayāna) dường như đã được phát triển bởi một nhóm quán hành giả (du-già sư, yogi) được biết đến với danh hiệuĐại Thành Tựu Giả (mahā-siddha, những người thành tựu vĩ đại), hầu hết đều hoạt động dưới vương triều Pāla (750-1120).

The passages marked ‘V.’ in this book represent the textual tradition of Vajrayāna Buddhism. Vajrayāna emerged as a distinctive school of method (upāya) within the Mahāyāna, teaching ways of meditation said to effect awakening more rapidly than the practice of the perfections (pāramitās) presented in the sūtras. These esoteric methods are taught in a distinct class of Buddhist scriptures known as tantras, which started to appear in great number from the fifth century CE in India. Like the Mahāyāna sūtras, most Buddhist tantras also trace their origins back to the historical Buddha. But the tantric system of practice known as Vajrayāna seems to have been developed by a group of yogis known as mahā-siddhas (‘great accomplished ones’), most of whom were active under the Pāla Empire (750–1120).

2. Sự truyền bá của Kim cang thừa
2. The spread of the Vajrayāna

Kim cang thừa du nhập Tây Tạng trong khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ XI Tây lịch, và trở thành quốc giáo của đất nước này. Từ đó nó lan sang Mông-cổ và nhiều phần đất Trung Hoa. Ngày nay, mặc dù phải chịu những tổn thất nặng trong cuộc ‘cách mạng văn hoá’ Trung Hoa, Phật giáo Kim cang thừa vẫn tồn tại trong các khu vực thuộc Trung Hoa mà trước đây thuộc về Tây Tạng (không chỉ ở khu tự trị Tây Tạng mà còn ở các tỉnh Thanh Hải, Cam Túc, Tứ Xuyên và Vân Nam) và khắp các nơi trong vùng Hy-mã-lạp sơn, nơi mà văn hóa Tây Tạng chiếm ưu thế, bao gồm vương quốc Bhutan, các phần đất Nepal và các bang thuộc Ấn-độ trong Hy-mã-lạp sơn. Sau bảy thập niên chịu sự đàn áp của chính quyền do Liên Xô hậu thuẫn, nó đã được hồi sinh vào cuối thế kỷ hai mươi ở Mông-cổ, Buryatia và Kalmykia (các phần đất thuộc Nga có dân tộc Mông-cổ). Một bộ phận riêng biệt của truyền thống Kim cang thừa đã được duy trì bởi dân Newari theo đạo Phật thuộc Nepal, và một phái Mật giáo được gọi là Chân ngôn tông (Shingon-shū) đã phát triển mạnh thành một trong những tông phái Phật giáo Nhật Bản.

The Vajrayāna was introduced to Tibet during the eighth to eleventh centuries CE, and it here became the official state religion. From there it spread to Mongolia and parts of China. Today, though having suffered heavy losses during the Chinese ‘cultural revolution’, Vajrayāna Buddhism is still present in historically Tibetan areas of China (not only in the Tibetan Autonomous Region but also in Quinghai, Gansu, Sichuan, and Yunnan provinces) and everywhere in the Himalayan region where Tibetan culture prevails, including the kingdom of Bhutan, parts of Nepal, and the Himalayan states of India. After seven decades of Russian-backed Communist repression, it was revived at the end of the twentieth century in Mongolia, Buryatia, and Kalmykia (parts of Russia with people of Mongolian ethnicity). A separate strand of the Vajrayāna tradition has been preserved by the Newari Buddhists of Nepal, and a tantric school known as Shingon has flourished as one of the schools of Japanese Buddhism.

3. Ba Pháp Luân
3. The three Wheels of Dharma

Kim cang thừa Tây Tạnghậu duệ của các hình thái văn hóa của Phật giáo Bắc Ấn hậu kỳ, đặc trưng bởi hai mặt vừa nghiên cứu triết học vừa hành trì mật tục. Mặt học vấn chủ yếu phát triển trong các tăng viện lớn tổ chức thành những viện đại học, như Nālandā, tại đó giảng dạy tổng hợp các hệ triết học Phật giáo khác nhau. Tất cả những giáo pháp của đức Phật đều được xem như thuộc trong ba thời chuyển Pháp luân (Dharma-cakra): thời thứ nhất chuyển Pháp luân Tứ đế (xem *L.27) và ‘Vô Ngã’ (*Th.170-171) cho hạng có căn cơ tu tập Tiểu thừa’ (Hīnayāna),27 và hai thời thuộc về Đại thừa. Thời thứ hai chú trọng giáo lý tánh không (śūnyatā) theo đó tự tánh của hết thảy pháp vốn không, và Bồ-tát đạo như được thuyết trong các kinh bát-nhã ba-la-mật-đa (Prajñāpāramitā Sūtra), và thời thứ ba được xem những biểu dương về chân tánh của thực tại theo nghĩa tích cực hơn ‘tánh không’, như giáo thuyết ‘duy tâm’ (citta-mātra) và ‘Như Lai tạng’ (Tathāgata-garbha). Diễn rộng thêm, các mật tục (tantra) về sau cũng được nhận là thuộc về thời cuối này, mặc dù một số phái Tây Tạng xếp các mật tục vào thời Pháp luân thứ tư. Ý nghĩa của tất cả những giáo thuyết khác nhau này như được hàm chứa trong các kinh điển và những mối quan hệ phức tạp của chúng đã được các triết gia lớn của Đại thừa minh giải trong các luận thư (śāstra) và nhận thức phát triển trong triết học Phật giáo Ấn-độ hậu kỳ có cơ sở trên những ý tưởng hội thông của các luận sư này. Như vậy, những nghiên cứu tại các tăng viện đại học viện tập trung vào các luận thư ấy, thay vì trực tiếp y cứ kinh điển (sūtra), dù cho các luận thư Ấn-độ và Tây Tạng vẫn thường trích dẫn kinh điển (sūtra).

Tibetan Vajrayāna is heir to the cultural forms of late North-Indian Buddhism, which was characterized by a double strand of philosophical study and tantric practice. The former flourished mainly in the great monastic universities, such as Nālandā, where a synthesis of different Buddhist philosophies was taught. All the teachings of the Buddha were seen as belonging to three turnings of the ‘Wheel of Dharma’ (or three teaching-cycles, Dharma-cakra): the first one on the four ‘Noble Truths’ (see *L.27) and ‘non-Self’ (*Th.170–171) represented the ‘Hīnayāna’ (‘Lesser Vehicle’) level of practice,28 and the other two belonged to the Mahāyāna. The second Wheel emphasized the teaching of emptiness (śūnyatā) of inherent nature/inherent existence and the bodhisattva path as presented mainly in the Perfection of Wisdom (Prajñāpāramitā) Sūtras, and the third was seen to contain formulations of ultimate reality in terms more positive than ‘emptiness’, such as the teaching of ‘mind-only’ (citta-mātra) and the ‘Buddha-nature’ (Tathāgata-garbha). By extension, the tantras later also came to be seen as belonging to this latter category, though some Tibetan schools classified them as a fourth Wheel. The meaning of all these different teachings contained in the sūtras and their complex relationships were elucidated by the great Mahāyāna philosophers in their śāstras (treatises), and late Indian Buddhist philosophy developed an understanding based on a synthesis of their ideas. Thus, studies at the monastic universities centred on the treatises, rather than on the sūtras directly, though both the Indian and Tibetan treatises often cite the sūtras.

4. Kim cang thừa (Vajrayāna), Chân ngôn thừa (Mantrayāna), Mật thừa (Tantrayāna)
4. Vajrayāna, Mantrayāna, Tantrayāna

Kim cang thừa (Vajrayāna) còn được gọi là Chân ngôn thừa (Mantra-yāna), hay Mật tục thừa (Tantra-yāna). Mặc dù ba từ này thường được dùng như là những từ đồng nghĩa, nhưng mỗi từ có một ý nghĩa hơi khác biệt. Theo truyền thống Tây Tạng, ‘Chân ngôn’ (‘mantra’), nguyên nghĩa là ‘hộ trì tâm ý’ (man-tra), thông qua việc phá vỡ các mẫu vọng tâm tiêu cực và tập trung vào những phẩm giác tánh được tu tập. ‘Tantra’ được hiểu là tính liên tục của tâm giác tánh hiện diện trong tất cả chúng sinh (không chỉ riêng loài người), được gọi là Phật tánh hay Như Lai tạng (Tathāgata-garbha). Nó được hiển lộ hoặc đánh thức thông qua ‘tính liên tục’ không gián đoạn của các phả hệ truyền thừa thầy–trò trong mật tục lần trở về khởi nguyên từ chính đức Phật. Trong khi trong Đại thừa nói chung, tiến trình chứng đắc Phật quả viên mãn phải trải qua ba vô số kiếp, thì trong Kim cang thừa được nói là có thể mong cầu chứng đắc Phật quả chỉ trong một đời bằng các pháp tu được chỉ dạy bởi các bậc thượng sư đại thành tựu của mật tục (mahā-siddha) ở Ấn-độ. Các Thành tựu tiên này đã khởi xướng những hệ truyền thừa giáo pháp mà sau đó truyền đến Tây Tạng, tại đây gây nguồn cảm hứng cho việc thành lập các hệ phái và tông môn khác nhau (Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa, và Gelukpa, là bốn phái chính) đã tận tâm bảo tồnlưu truyền các pháp tu nhắm thể ngộ tính liên tục đó. Mật tục thừa (Tantra-yana) là tên gọi chung cho pháp tu được tải thuật trong các mật tục của Phật giáo, đặc trưng bởi phép quán tưởng, tụng đọc chân ngôn, và tu tập các môn nhập định (samādhi). Cuối cùng, từ ‘Vajra-yāna’ được dùng để chỉ biểu tượng cao nhất của tâm đã giác ngộ, ‘vajra’, thường được dịch là ‘kim cang’ hoặc ‘lưỡi tầm sét’. Nó thực ra là tên gọi vũ khí huyền thoại của Indra, thủ lãnh của các thần có từ thời tiền Phật giáo ở Ấn-độ, là biểu tượng của tính bất hoạiuy quyền.

The Vajrayāna is also known as the Mantra-, or Tantra-yāna. Though the three terms are often used as synonyms, each one has a slightly different connotation. According to the Tibetan tradition, ‘mantra’ literally ‘protects the mind’ (man-tra), through disrupting negative mental patterns and focusing it on the awakened qualities being cultivated. ‘Tantra’ is understood to mean the ‘continuity’ of the awakened nature of the mind present in all sentient beings (not just humans) that is known as Buddha-nature (Tathāgata-garbha). It is uncovered or awakened through the unbroken ‘continuity’ of the master-disciple tantric lineages that are understood to go back to the Buddha himself. While in the general Mahāyāna, the process of attaining full Buddhahood is said to take three incalculable eons, in the Vajrayāna, one can aspire to attain Buddhahood in one lifetime through the methods taught by the great accomplished tantric masters (mahā-siddhas) of India. They gave rise to teaching lineages that eventually reached Tibet where it inspired the founding of different schools or orders (Nyingmapa, Kagyupa, Sakyapa, and Gelukpa being the four main ones) that were dedicated to preserving and transmitting the methods for realizing that continuity. Tantra-yāna is a general name for the way of practice laid down in the Buddhist tantras, characterised by visualization, mantra recitation, and cultivation of various states of meditative concentration (samādhi). Finally, the term ‘Vajra-yāna’ refers to the foremost symbol of the awakened mind, ‘vajra’, often translated as ‘diamond’ or ‘thunderbolt’. It is actually the name of the mythical weapon of Indra, chief of the pre- Buddhist gods in India, which was a symbol of indestructibility and mastery.

5. Các phái Phật giáo Tây Tạng 28
5. Schools of Tibetan Buddhism29

Phái Nyingmapa là những vị (pa) thuộc ‘Môn đồ của Cựu giáo’ (Tantra). Phái này tôn Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) là Tổ sư sáng lập. Ngài là vị thượng sư (guru) mật tục Ấn-độ trong thế kỷ thứ tám, đã có nhiều cống hiến cho việc thiết lập Phật giáoTây Tạng. Nyingmapa chủ trương một hệ thống ‘chín thừa’ (cửu thừa thứ đệ): Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát, ba thừa này gồm những pháp tu đoạn trừ phiền não; ba thừa tiếp theo thuộc ‘ngoại Mật’, gồm những pháp môn ‘tịnh trị’; kế đến là ba thừa thuộc ‘nội Mật’: Đại Du-già (Mahā-yoga), Vô tỉ Du-già (Anuyoga) và Tối thượng Du-già (Ati-yoga), gồm những pháp môn tu tập chuyển hóa nhiễm tâm thành trí, thay vì chỉ đơn giảndiệt trừ chúng. Về mặt giáo thuyết, Nyingmapa xem các thừa này là thích hợp theo từng hạng người có căn cơ tu tập khác nhau. Tuy nhiên, về mặt hành trì, Nyingbmapa khuyến khích mọi người thực hành các thừa nội Mật, miễn làthọ trì quy y và các hành và nguyện của Bồ-tát. Tối thượng Du-già (Ati-yoga) bao hàm các giáo lýhành trì cùa ‘Đại viên mãn’ (Dzogchen). Pháp này nhằm mang lại cho hành giả nhận thức về ‘minh-không bản hữu’ (quang minhKhông tánh có sẵn) mà Tạng ngữ gọi là rig pa (Skt. vidyā, minh). Nó được biểu trưng bởi Phổ Hiền (Samantabhadra) (xem *V.6), vị Phật bản sơ biểu hiện cho Pháp thân (xem *M.9), nhưng nó cũng hiện diện sẵn trong tất cả chúng sanh, như trong một diễn giải trong các giáo thuyết Như Lai tạng (Tathāgatagarbha)/Phật tánh. Mục đíchloại bỏ tất cả các hoạt động của tâm và nội dung của nó để thấy rõ những gì đang sinh khởi. Các vị Nyingmapa hành theo các Cựu Mật tục được dịch trong đợt hoằng pháp thứ nhất ở Tây Tạng (thế kỷ 7-10). Trong những thế kỷ kế tiếp, họ tuyên bố đã phát hiện ra nhiều kinh điển từ phục tạng (gter-ma: terma, kho tàng chôn giấu) được nói là do Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) chôn giấu và được khám phá bởi một phục tạng sư (tertön), người phát hiện kho báu. Các phục tạng có thể là bản văn thuộc vật thể hoặc các hiện vật tôn giáo (tượng khắc/pháp khí). Trong trường hợp ‘các terma tâm ý’, chúng được xem là do Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) chôn kín trong tâm ý vô thức của một đệ tử, rồi đệ tử ấy trong một lần tái sinh đời sau tái phát hiện. Sự truyền thừa giáo pháp bằng các phục tạng (terma), vốn được xem là để trao truyền trực chỉ từ một vị thầy quá khứ sang người nhận hiện tại, được xem là bổ sung cho sự lưu truyền thông thường là khẩu truyền (bka' ma: ka-ma), mà qua đó các giáo thuyết bằng lời nói và bằng văn tự được truyền lại qua các thế hệ.

The Nyingmapa school are those who (pa) are ‘Adherents of the Old (Tantras)’. It looks to Padmasambhava, an eighth century Indian tantric guru who did much to establish Buddhism in Tibet, as its founder. It has a system of nine spiritual ‘vehicles’ (yāna): those of the Disciple, Solitary-buddha and Bodhisattva, which it sees as ways of ‘renunciation’ of defilements; those of the three ‘outer Tantras’, which it sees as ways of ‘purification’; and those of the three ‘inner Tantras: Mahā-yoga, Anu- yoga and Ati-yoga, which it sees as ways of transformation, which transmute defilements into forms of wisdom, rather than seeking to simply negate them. In Nyingmapa doctrine, these are all seen as appropriate for people at different levels of spiritual development. However, in practice, everyone is encouraged to practise the inner Tantras, provided that the basic refuge and Bodhisattva commitments and vows are also maintained. Ati-yoga, the highest teaching, concerns the doctrines and practices of the Dzogchen, or ‘Great Completion/Perfection’. This seeks to bring the practitioner to awareness of an uncreated radiant emptiness known as rig pa (Skt vidyā, insight-knowledge). This is symbolized by Samantabhadra (see *V.6), the primordial Buddha who embodies the Dharma-body (see *M.9), but it also already present in all beings, as in one interpretation of the Tathāgata- garbha/Buddha-nature teachings. The aim is to let go of all mental activities and content, so as to be aware of that in which they occur. The Nyingmapas follow the Old Tantras translated during the first dissemination of Buddhism in Tibet (7–10th centuries). Over the next centuries, they claim to have discovered many termas or ‘treasure’ texts, which are attributed to Padmasambhava and seen as discovered by a tertön or ‘treasure-finder’. Termas might be physical texts or religious artefacts. In the case of ‘mind termas’, they are seen to have been buried in the unconscious mind of a disciple by Padmasambhava, then rediscovered there by a later incarnation of that disciple. The teaching- transmission by termas, which is seen to jump direct from a past teacher to a present recipient, is seen to complement the more usual Kama (Oral Tradition) transmission, by which oral and written teachings are passed down the generations.

Vào thế kỷ thứ XI, sự phục hưng của đạo Phật dẫn tới sự thiết lập vững chắc trên toàn cõi Tây Tạng và sự phát triển của nhiều hệ phái mới dựa trên các bản dịch mới được gọi là các phái ‘tân dịch’ (gsar-ma: sarma). Theo thỉnh cầu của một vị vua bản xứ, tôn giả Atiśa, một vị lão sư đại học giả, từ Ấn- độ sang hoằng pháp vào năm 1042. Ngài chấn chỉnh lại chế độ Tăng-già, chủ trương độc thân phạm hạnhcải thiện tri kiến Phật pháp của người Tây Tạng, dựa trên sự kết hợp giữa Trung luận (Madhyamaka) và Mật tục (Tantra). Những cải cách của Ngài đã khiến cho vị đệ tử chân truyền (Dromton: 'brom ston, 1005-1064) lập nên phái Kadampa (bka' gdams pa: Phật ngôn giáo giới) và cũng ảnh hưởng đến hai tân phái khác trong thời kỳ này. Thứ nhất là Kagyupa (bka' brgyud, Phật ngữ tông), ‘truyền thừa bằng mật khẩu’. Người sáng lập của phái này là Marpa (1012-97), một cư sĩgia đình đã học đạo với các thượng sư Mật tục ở Ấn-độ và phiên dịch nhiều kinh điển. Marpa chủ trương một hệ thống du-già (yoga) phức tạp cùng những mật quyết được nhĩ truyền từ thầy đến trò. Đại đệ tử của ông là đại thi hào khổ hạnh Milarepa. Đồ đệ của Milarepa là Gampopa (sgam po pa) đầu tiên xây dựng các chùa của phái Kagyupa. Một tân phái khác là Sakyapa (sa-skya-pa), được thành lập vào năm 1073 tại chùa Sakya. Phái này nổi danh với trình độ học thuật và gần gũi với Kagyupa trong hầu hết mọi vấn đề.

In the eleventh century, a renaissance of Buddhism led to its firm establishment throughout Tibet and the development of several new schools of Buddhism that were based on new translations of Buddhist texts, so as to be referred to as ‘new translation’ (sarma) schools. At the invitation of a regional king, the ageing monk-professor Atiśa came from India on a missionary tour in 1042. He helped purify the Sangha, emphasizing celibacy, and improved Tibet’s understanding of Buddhist doctrine, as based on a mix of Madhyamaka and the Tantras. His reforms led his main disciple to establish the Kadampa, or ‘Bound by Command (of monastic discipline) School’, and also influenced two other new schools of the period. The first was the Kagyupa, the ‘Whispered Transmission School’. Its founder was Marpa (1012–97), a married layman who had studied with tantric gurus in India and translated many texts. He emphasized a complex system of yoga and secret instructions whispered from master to disciple. His chief pupil was the great poet-hermit-saint Milarepa, whose own pupil Gampopa first established Kagyupa monasteries. The other new school was the Sakyapa, founded in 1073 at the Sakya monastery. It is noted for its scholarship and is close to the Kagyupa in most matters.

Một ý niệm dường như có nguồn gốc từ các vị Kagyupa vào thế kỷ thứ XIII là cho rằng các tulku (sbrul sku: hóa thân) đã được nhận biết mà bấy giờ đã có khoảng 3000 ở Tây Tạng. Một tulku thường được gọi là một ‘Lama tái sanh (yangsid- lâm: yang srid bla ma)’. Mặc dù trong đạo Phật tất cả mọi người đều được xem là tái sinh của chúng sanh nào đó trong quá khứ, nhưng các tulku khác biệt ở chỗ là tái sinh của một nhân vật quá vãng được xác định, là một vị Lama chủ yếu, và cũng là hóa thân của một bổn tôn. Các tulku được nhận diện từ các thiếu nhi, dựa trên các dự báo của các vị tiền nhânthiếu nhi này có khả năng nhặt ra các vật tùy thân của vị ấy trong số những món có vẻ tương tự.

An idea which seems to have originated with the Kagyupas in the thirteenth century is that of recognized Emanation-bodies or tulkus, of which there are now around 3,000 in Tibet. A tulku is often referred to as a ‘reincarnate (yangsid) Lama’. Though in Buddhism all people are seen as the rebirths of some past being, tulkus are different in being the rebirth of an identified past person, who was a key Lama, and also an emanation of a celestial being. Tulkus are recognized as children, based on predictions of their predecessors and the child’s ability to pick out the latter’s possessions from similar looking ones.

Tông phái chính yếu cuối cùng của Phật giáo Tây Tạng được thành lập bởi nhà cải cách Tsongkhapa (1357-1419), dựa trên nền tảng của phái Kadampa và sự chỉnh lý giáo nghĩa của Atiśa căn cứ theo trình độ căn cơ, trong thuần mật thuộc hàng thượng căn. Tsong-kha-pa thành lập phái Gelukpa (dge lugs pa: đức lý tông/ thiện quy tông), cũng được gọi là phái Hoàng mạo, vì tăng lữ của phái này phân biệt với các phái bằng mũ vàng khi hành lễ. Tsongkhapa chú trọng học giáo nghĩa của Trung luận (Madhyamaka), và tuân thủ giới luật tu đạo. Trong Đạo thứ đệ quảng luận (Lamrim Ch’enmo), Tsongkhapa lý luận rằng trong quá trình tiến tu trước hết ta nên mong cầu một tái sinh thiện thú (phước báo thế gian), thứ đến tầm cầu giải thoát tự thân (khởi phát Tiểu thừa/ Hīnayāna), tầm cầu Phật quả để cứu giúp giải thoát mọi loài (khởi phát Đại thừa/ Mahāyāna), và để nhanh chóng đạt đến cứu cánh của Đại thừa thì cần được nhiếp thọ với các pháp tu của Kim cang thừa. Các cấp hành đạo và chứng chân lý cao hơn cần phải lập cước trên những cấp thấp hơn, chứ không thể đảo ngược. Phân tích luận lý mở đường cho đốn ngộ vô phân biệt, và truyền thừa bằng văn tự cũng quan trọng như truyền thừa qua khẩu ngữ.

The last major school of Tibetan Buddhism was founded by the reformer Tsongkhapa (1357– 1419), on the basis of the Kadampa school and Atiśa’s arrangement of teachings in a series of levels, with a purified tantrism at the top. He founded the Gelukpa, or ‘Followers of the Way of Virtue’, whose monks are distinguished from others by the yellow colour of their ceremonial hats. Tsongkhapa emphasized the study of Madhyamaka, and the following of moral and monastic discipline. In his ‘Great Exposition of the Stages of the Way’ (Lamrim Ch’enmo), he argues that one should progress from seeking a good rebirth (a worldly goal), to seeking liberation for oneself (Hīnayāna motivation), to seeking Buddhahood so as to aid the liberation of others (Mahāyāna motivation), with Vajrayāna methods then helping to more speedily attain the Mahāyāna goals. Higher levels of truth or practice are seen to build on, but not subvert, lower ones. Logical analysis prepares the way for direct, non- conceptual insight, and textual transmissions are as important as oral ones.

Vào thế kỷ XVI, người đứng đầu phái Gelukpa (Sonam Gyatso: bsod nams rgya mtsho) phục hưng Phật giáo Mông- cổ vốn đã suy tàn. Do vậy, một trong những người cai trị Mông-cổ, Altan Khan (1507–1582), do vậy đã phong cho vị Lạt-ma này danh hiệu Mông-cổ là Đạt-lai Lạt-ma (Dalai Lama), trong đó tiếng Mông-cổ có nghĩa là ‘Đại dương (của trí tuệ)’. Ngài được xem nhưhóa thân thứ hai của một vị cựu lãnh đạo phái Gelukpa (Gendun Drub: dge 'dun grub pa), (đồ đệ và cũng được xem là) cháu của Tsongkhapa, do đó vị ấy (Gendun Drub) được truy phong là Đạt-lai Lạt-ma thứ nhất. Mỗi vị Đạt-lai Lạt-ma được xem như một tulku và cũng một hình thức thị hiện hóa thân Bồ-tát đại bi Quán Thế Âm (Avalokiteśvara). Vị tulku chính yếu khác của phái Gelukpa là Ban-thiền Lạt-ma (Panchen Lama), được xem như một hiện thân liên tục của Phật A-di-đà (Amitābha).


In the sixteenth century, the head of the Gelukpa school reintroduced Buddhism to the Mongols, who had lapsed from it. One of the Mongol rulers, Altan Khan, therefore gave him the Mongolian title of Dalai, ‘Ocean (of Wisdom)’, Lama. He was regarded as the second reincarnation of a former Gelukpa leader, Tsongkhapa’s nephew, so that the latter was seen, retrospectively, as the first Dalai Lama. Each Dalai Lama was seen as a tulku who was also a re-manifested form of the great Bodhisattva embodiment of compassion, Avalokiteśvara. The other major Gelukpa tulku is the Panchen Lama, seen as a repeated incarnation of Amitābha Buddha.

Vào năm 1641, người Mông-cổ xâm chiếm Tây Tạng và lập Đạt-lai Lạt-ma thứ năm làm người cai trị đất nước này. Từ đó trở đi, phái Gelukpa trở thành ‘giáo phái đương quyền’. Vào thế kỷ mười chín, một phong trào phát triển, được gọi là Ri- may (ris med pa: không phái biệt, không thiên vị, công chánh vô tư). Đây là một phong trào chiết trung không phân biệt giáo phái phát sinh trong các nhóm Nyingmapa ở miền đông Tây Tạng và bắt đầu thu hút người ủng hộ của các phái khác, thậm chí cả những người theo phái Gelukpa. Tuy nhiên, phong trào Ri-may khởi thủy là sự dung hợp giáo nghĩa, cạnh tranh với sự dung hợp của Gelukpa. Ngoài một số ít ngoại lệ, các vị Lạt-ma của những truyền thống Ri-may được đào tạo ở các trung tâm Ri-may, còn các vị Gelukpa thì ở các trung tâm Gelukpa, và việc tiếp xúc giữa họ bị hạn chế. Sự dung hợp của Ri-may đã thu hút được ba phái ngoài Gelukpa (và một số người đạo Bön nửa Phật giáo). Những phái này vốn đều đã có các hành giả du-già (yogin) cư sĩ, đều có sự quan tâm đến các cựu Tantra và terma, và các giáo nghĩa/ hành trì vô tướng Đại viên mãn (Dzogchen) đã đưa ra một viễn cảnh thống nhất.

In 1641, the Mongolians invaded Tibet and established the fifth Dalai Lama as ruler of the country. From then on, the Gelukpa school became the ‘established church’. In the nineteenth century, a movement developed known as the Ri-may, meaning ‘Impartial’, ‘Non-aligned’ or ‘All- embracing’. This was a kind of universalistic eclectic movement that arose in Nyingmapa circles in eastern Tibet, and came to draw in adherents of other schools, even including some Gelukpa ones. However, the Ri-may movement was primarily a teachings-synthesis that rivalled the Gelukpa synthesis. With few exceptions, Lamas of the Ri-may traditions trained at Ri-may centres, and Gelukpa ones at Gelukpa ones, with only limited contact between them. The Ri-may synthesis drew together the three non-Gelukpa schools (and some of the semi-Buddhist Bön). These already had in common the existence of lay yogins, an interest in the old Tantras and termas, and the relatively formless Dzogchen teachings/practices provided a unifying perspective.

6. Đại Tạng Tây Tạng
6. The Tibetan canon

Trong sách này, từ ‘Kim cang thừa’ được dùng rộng rãi hơn để chỉ toàn bộ hệ thống Phật giáo Tây Tạng (hay Bắc Đại thừa), đã bảo tồn toàn bộ kiến trúc của Đại thừa Ấn-độ hậu kỳ. Điều này được phản ánh trong cấu trúc của Thánh điển Phật giáo Tây Tạng, phân chia các bản dịch Tạng ngữ từ các kinh điển Phật giáo Ấn-độ thành hai tạng chính. Tạng thứ nhất là Kangyur (bKa’ ‘gyur29) là phần Phật ngôn Tạng dịch – hai phần ba trong bộ phận này bao hàm Kinh điển Đại thừa (Mahāyāna Sūtra) – và tạng thứ hai là Tengyur (bsTan ‘gyur) là phần Luận thư Tạng dịch. Trong ấn bản Bắc kinh của hai tạng này, có 330 tập với 5,092 bộ Kinh Luận trong 224, 241 trang.30 Kangyur chủ yếu tập thành các kinh Đại thừa và các Mật tục căn bản (mūla-tantra) được cho là Phật thuyết. Ấn bản Bắc kinh bao gồm 106 tập, với 66,449 trang và 1,112 bản dịch, được phân nhóm theo thứ tự sau:

In this book, the term ‘Vajrayāna’ is used in a wider sense to refer to the entire system of Tibetan (or Northern Mahāyāna) Buddhism, which has preserved the whole edifice of late Indian Mahāyāna. This is reflected in the structure of the Tibetan Buddhist Canon, which divides the Tibetan translations of Indian Buddhist texts into two main parts: the Kangyur (bKa’ ‘gyur30) or ‘Translated Buddha Word’ – two thirds of which is comprised of Mahāyāna Sūtras – and the Tengyur (bsTan ‘gyur) or ‘Translated Treatises’. In the Peking edition of these two collections, there are 330 volumes with 5,092 texts and 224,241 pages.31 The Kangyur contains mainly Mahāyāna sūtras and the root-tantras (mūla-tantras) attributed to the Buddha. In the Peking edition, it consists of 106 vols. with 66,449 pages and 1,112 translated texts, grouped in the following order:
(i) Bí Mật bộ 秘密部 (rgyud) Tantra (738 bộ, 25 tập)
(i) Tantras (738 texts in 25 volumes)
(ii) Bát-nhã bộ 般 若 部 (sher phyin) Prajñāpāramitā (17 bộ, với 13 Kinh ‘Bảo trì’ tiền Đại thừa, 24 tập)
(ii) Perfection of Wisdom Sūtras (17 texts, plus 13 pre-Mahāyāna ‘Protection’ texts, in 24 vols.)
(iii) Hoa Nghiêm bộ 華嚴部 (phal chen) Avataṃsaka Sūtra (1 bộ 45 phẩm, 6 tập)
(iii) Avataṃsaka Sūtras (1 text with 45 chapters in 6 vols.)
(iv) Bảo Tích bộ 寶積部 (dkon brtsegs) Ratnakūṭa Sūtra (49 bộ, 6 tập)
(iv) Ratnakūṭa Sūtras (49 Sūtras in 6 vols.)
(v) Chư Kinh bộ 諸經部 (mdo) Sūtra (268 bộ, 32 quyển)
(v) Other sūtras (268 texts in 32vols.)
(vi) Giới Luật bộ 戒律部 ('dul ba) Vinaya (8 bộ, 13 quyển)
(vi) Vinaya (monastic discipline) (8 texts in 13 vols.)
(vii) Tán tụng bộ 願讚部 (bsngo smon) Praṇidhāna (18 văn bản ngắn ở cuối quyển cuối)
(vii) Praṇidhāna (aspiration prayers) (18 short texts at the end of final volume)

Tengyur bao gồm các luận thư (śāstra) có thẩm quyền của các luận sư Ấn, với một số ít luận thư của các luận sư Tây Tạng thời đầu, đã luận giải nghĩa lý của các kinh (sūtra) và các tantra. Trong ấn bản Bắc kinh, phần này gồm 224 tập với 3,980 bộ và 157,792 trang, được phân nhóm như sau:
The Tengyur includes the authoritative treatises (śāstras) by Indian scholars, with a handful of texts by early Tibetan masters, who commented on the meaning of the sūtras and tantras. In its Peking edition, it consists of 224 vols with 3,980 texts and 157,792 pages, which are grouped as follows:
(i) Tán Tụng bộ 讚頌部 (bstod tshogs) Stotra (63 bộ, 1 tập)
(i) Stotras (hymns of praise) (63 texts in 1 vol.)
(ii) Bí Mật Sớ bộ 秘密疏部 (rgyud) (3136 bộ, 87 tập)
(ii) Commentaries on the tantras (3,136 texts in 87 vols.)
(iii) Các chú sớ và luận thư dựa trên Kinh (và các chủ đề thế tục hữu dụng khác): Các chú sớ cho các kinh bát-nhã và Luật (vinaya); các luận thư Trung luận (Madhyamaka) và Du-già hành (Yogācāra), các tác phẩm abhidharma, truyện và kịch, các luận thư về các chủ đề nhân minh, y phương minh, thanh minh, công xảo minh (nghệ thuật và thủ công ứng dụng, như kiến trúc), và nhiều loại tác phẩm khác (781 bộ,136 tập).
(iii) Commentaries and treatises on the sūtras (and useful worldly subjects): commentaries on the Perfection of Wisdom Sūtras and the vinaya; Madhyamaka and Yogācāra treatises, abhidharma works, tales and dramas, treatises on such topics as logic, medicine, grammar, arts and applied crafts (e.g., architecture), and other miscellaneous works (781 texts in 136 vols.).
Hầu hết các Thánh điển – sūtra, tantra,và śāstra – đều được dịch từ bản gốc Sanskrit, dưới sự hướng dẫn của các học giả Ấn-độ (paṇḍita), những vị đã giúp truyền Phật giáo sang Tây Tạng. Các bản dịch được thực hiện có ‘khoa học’ – với các từ ngữ và các quy tắc cú pháp được chuẩn hóa – để duy trì sự mật thiết tối đa với bản gốc. Do đó, các bản dịch Tây Tạng nói chung được cho là rất đáng tin cậy. Tuy nhiên, không có văn bản nào được nghiên cứu mà không có khẩu truyền và hướng dẫn thực tế chi tiết từ một vị thầy đa văn và có kinh nghiệm. Đặc biệt, các tantra luôn được coi là bí truyền, hầu như không thể hiểu được nếu khôngkhẩu truyền ý nghĩa thực sự của chúng và sự khởi đầu đúng đắn để hành trì chúng.
Most of the canonical scriptures – sūtras, tantras, and śāstras – were translated from Sanskrit originals, under the guidance of Indian scholars (paṇḍita) who helped the transmission of Buddhism into Tibet. The translations were carried out in a ‘scientific’ manner – with standardized terminology and syntactic rules – to maintain maximum closeness to the original. Therefore, Tibetan translations are generally held to be very reliable. Yet, no text was meant to be studied without oral transmission and detailed practical instruction from a learned and experienced master. The tantras in particular have always been considered as esoteric, virtually unintelligible without oral transmission of their actual meaning and proper initiation into their practice.

Vào lúc trọng trách phiên dịch di sản Phật giáo Ấn-độ đã được hoàn thành, sự phát triển của một nền học thuật bản địa Tây Tạng đã được tiến hành tốt đẹp. Các tác giả Tây Tạng bắt đầu soạn thuật các luận thư của riêng mình để làm sáng tỏ ý nghĩa của các Kinh (sūtra) và Luận (śāstra), bao gồm cả kinh điển mật tục. Đối mặt với vô số các chuyện kể, giáo lý, và kỹ thuật giải thoát trong các văn bản Thánh điển, họ chắc chắn sẽ thấy mình phải làm việc sắp thứ tự và hệ thống hóa các tài liệu này. Theo truyền thống học thuật Phật giáo Bắc Ấn, họ căn cứ sự tổng hợp giáo nghĩa của mình trên các luận thư (śāstra) của Long Thọ (Nāgārjuna) (khoảng 150–250), Vô Trước (Asaṅga; khoảng 310–90, với Từ Thị Tôn/ Maitreya-nātha làm thầy), Thế Thân (Vasubandhu; khoảng 310–400), Pháp Xứng (Dharmakīrti; khoảng 530–600), Nguyệt Xứng (Candrakīrti; thế kỷ thứ VII), và Tịch Thiên (Ṥāntideva; khoảng 650–750) – đây chỉ đề cập đến các triết gia Đại thừa vĩ đại nhất. Các tantra cũng được nghiên cứu qua các chú sớ, chỉ dẫn và hướng dẫn hành trì được viết bởi các vị Đại thành tựu (mahā-siddha) Ấn-độ và các học giả mật tục, được nằm trong một phần đồ sộ của Tengyur. Các dòng truyền thừa mật tục khác nhau – các hệ thống thực hành mật tục được truyền lại từ thầy sang trò truyền đến Tây Tạng từ thế kỷ VII đến XII – đã được thể chế hóa trong bốn phái chính và các chi phái khác nhau. Theo thời gian, mỗi phái đều phát triển truyền thống văn học của riêng mình, kết quả là một sự gia tăng đáng kinh ngạc của văn học Kim cang thừa. Mặc dù theo cách thức của Ấn-độ là tiêu chuẩn ở khắp mọi nơi, nhưng vẫn có chỗ cho sáng tạo đổi mới. Chúng bao gồm các thư tịch phục tạng được chôn giấu ở Tây Tạng hoặc trong tâm tưởng của các môn đồ Tây Tạng bởi các vị thầy Ấn-độ được phát hiện lại vào thời điểm thích hợp, được nằm trong các bộ của Thánh điển.31

By the time the enormous task of translating the Indian Buddhist heritage was completed, the development of an indigenous Tibetan scholarship was well under the way. Tibetan authors started composing their own treatises to elucidate the meaning of the sūtras and śāstras, including the tantric scriptures. Faced with the immense variety of narrative, doctrine, and liberating technique contained in the canonical texts, they inevitably found themselves at the job of ordering and systematizing the material. Following the tradition of North-Indian Buddhist scholarship, they based their doctrinal syntheses on the śāstras of Nāgārjuna (ca. 150–250), Asaṅga (ca. 310–90, with Maitreya-nātha as his teacher), Vasubandhu (ca. 310–400), Dharmakīrti (ca. 530–600), Candrakīrti (7th century), and Ṥāntideva (ca. 650–750) – to mention only the greatest Mahāyāna philosophers. The tantras were also studied through the commentaries, instructions, and practice manuals written by Indian mahā- siddhas and tantric scholars, which were contained in a bulky section of the Tengyur. The different tantric lineages – systems of tantric practice handed down from master to disciple reaching Tibet from the seventh to twelfth centuries – became institutionalized in the four main schools and their various branches. Over time, those schools each developed its own literary tradition, resulting in an astonishing proliferation of Vajrayāna literature. Though following the Indian ways was the norm everywhere, there was room for creative innovation. These include ‘treasure’ texts hidden in Tibet or in the mind stream of Tibetan students by the Indian masters to be rediscovered later at an appropriate time which were included in canonical collections.32

7. Các đoạn văn được chọn
7. The selected passages

Các đoạn tuyển dịch từ truyền thống Kim cang thừa cho sách này đại biểu cho các quan điểm Phật giáo Kim cang thừa về các chủ đề đã chọn trong sách. Theo các loại kinh điển được chú trọng trong Phật giáo Tây Tạng, được tóm lược hay nhất bởi các tác giả Tây Tạng nổi tiếng nhất như Gampopa (1079– 1153) hay đạo sư Nyingmapa là Patrul Rinpoche (1808– 1887); họ có những tác phẩmchúng ta thường sử dụng làm nguồn tài liệu cho các đoạn được chọn. Trong số các nguồn tài liệu Thánh điển, chúng ta đã nêu ra một vài đoạn từ các luận thư của Long Thọ (Nāgārjuna) (*V.12) và Tịch Thiên (Ṥāntideva) (*V.34–5, 38), cũng như toàn bộ quyển “Bồ-đề Đạo Đăng Luận” của A-đề-sa (Atiśa) (982–1054) (*V.10). Những kinh văn của các vị đạo sư Gelukpa là “Bồ- đề đạo thứ đệ lược luận” của Tông-khách-ba (Tsongkhapa) (*V.40), “Tông-khách-ba mật sanh hạnh nguyện” (*V.91), của hậu nhân, và “Tứ Niệm Ca” (* V.69) của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VII (1708–1757). Tu Tâm: Viễn ly Tứ chấp Thể nghiệm ca (*V.16) của vị đạo sư Sakyapa và Ri-may là Khyentse Wangpo (1829–1870). Thiên tài mật tục về thơ được minh họa bởi một số bài kệ của nhà thơ vĩ đại nhất của Tây Tạng, Milarepa (*V.8, 11, 17, 23). Cụ thể, các văn bản mật tục được đặc trưng nhất trong Chương 2 (‘Các quan điểm khác nhau về đức Phật’) – nơi mà quan điểm mật tục về Phật tánh bản hữu được minh họa bằng những đoạn trích từ truyền thống kinh văn về Đại viên mãn (Dzogchen; *V.2-6). Thông tin thêm về những văn bản này và các văn bản khác được cung cấp trong phần giới thiệu và cước chú.

Passages selected from the Vajrayāna tradition for this book represent the Vajrayāna Buddhist views on the topics selected for the volume. In accordance with the kind of texts emphasized in Tibetan Buddhism, these are best summarized by well-known Tibetan authors like Gampopa (1079–1153) or the Nyingmapa teacher Patrul Rinpoche (1808–1887), whose works we have most often utilized as sources for the selections. From among canonical sources, we have included a few passages from treatises of Nāgārjuna (*V.12) and Ṥāntideva (*V.34–5, 38), as well as Atiśa’s (982–1054) ‘Lamp for the Path to Awakening’ (*V.10) in its entirety. Texts from Gelukpa teachers are Tsongkhapa’s ‘The Abbreviated Points of the Graded Path’ (*V.40), ‘Prayer of the Secret Life of Tsongkhapa’ (*V.91), on the latter, and ‘The Song of the Four Mindfulnesses’ (*V.69) of the Seventh Dalai Lama (1708–1757). ‘Mind Training: An Experiential Song of Parting from the Four Attachments’ (*V.16) is by Sakyapa and Ri-may teacher Khyentse Wangpo (1829–1870). The tantric genius for poetry is illustrated by some verses from Tibet’s greatest poet, Milarepa (*V.8, 11, 17, 23). Specifically tantric texts are best featured in Chapter 2. (‘Different Perspectives on the Buddha’) – where the tantric view of innate Buddhahood is illustrated by passages taken from the textual tradition of the Great Completion (Dzogchen; *V.2–6). More information on these and other texts are supplied in the introductions and footnotes.

Hầu hết các bản dịch tiếng Anh đã được bản thân tôi chuẩn bị từ tiếng Tây Tạng nhằm mục đích đưa vào sách này, dù rằng chúng cũng được hỗ trợ từ các bản dịch hiện tại, những trường hợp như vậy đều được ghi chú thích đáng.
Most English translations have been newly prepared from the Tibetan by myself for the purpose of inclusion in this volume, though they have profited from already existing translations, which are duly noted.

Người phiên dịch mong được cảm ơn tất cả những người ủng hộ dự án này. Mong nó có ích cho nhiều người!
The translator wishes to thank all those who supported the project. May it benefit many!
Tamás Agócs
___________________

Chú thích (chung cho phần Dẫn Luận)
Notes.
1. Theo Pāli; Sanskrit: Siddhārtha Gautama. Pāli và Sanskrit là hai ngôn ngữ Ấn cổ liên hệ bảo tồn các văn bản Phật giáo nguyên thủy. Chúng thuộc cùng một họ ngôn ngữ với tiếng Hy-lạp và tiếng Latin, và qua đó có mối liên kết với các ngôn ngữ châu Âu.
1. In Pāli, Siddhārtha Gautama in Sanskrit. Pāli and Sanskrit are two related ancient Indian languages, in which Buddhist texts were originally preserved. They belong to the same family of languages as Greek and Latin, and through these have a link to European languages.
2. What the Buddha Thought, London, Equinox, 2009, p.vii.
2. What the Buddha Thought, London, Equinox, 2009, p.vii.
3. Viết tắt là Skt. trong sách này.
3. Generally abbreviated in this book as Skt.
4. Nhưng không phải là ‘thức tỉnh’ theo nghĩa một người có kinh nghiệm thức tỉnh về một phẩm tính hoặc kinh nghiệm mới mẻ nào đó mà chưa đến mức sung mãn hoàn toàn. Đức Phật là vị tu tâm viên mãn.
4. But not meaning ‘awakened’ in the sense of being a person who has experienced the awakening of some new quality or experience, which is yet to mature fully. A Buddha is a fully matured spiritual being.
5. Anh ngữ ‘blessed one’, phát âm ‘bless-ed one’.
5. Pronounced as ‘bless-ed one’.
6. Jambudīpa (Diêm-phu-đề, châu lục Hồng táo), một thuật ngữ có nghĩa đại khái là tiểu lục địa Ấn-độ.
6. Jambudīpa, a term roughly meaning the Indian sub-continent.
7. Câu chuyện nhìn thấy một người già... lần đầu tiên dựa trên tường thuật kinh điển về những kinh nghiệm của đức Phật quá khứ Vipassī (Dīgha- nikāya II.21-29).
7. The story of seeing an old person etc. for the first time is based on a canonical account of the experiences of the past Buddha Vipassī (Dīgha-nikāya II.21–29).
8. Ngụ ý rằng gia đình Ngài chẳng biết về ý định xuất gia làm sa-môn của Ngài; nhưng trong tường thuật kinh điển ở *L.8, thì song thân Ngài đều biết và rất buồn khổ.
8. Implying that his family did not know of his plan to become a renunciant; but in the canonical account in *L.8, his parents knew of this and were upset by it.
9. Trước đây được biết ở phương Tây là Benares.
9. Previously known in the West as Benares.
10. Các tên ở trên là dạng Pāli; dạng Sanskrit: Śāriputra, Maudgalyāyana, Ānanda, Aniruddha, Kṣemā,Utpalavarṇā, Anāthapiṇḍada, Prasenajit Kośala, Citta và Viśākhā.
10. The above names are in Pāli; their Sanskrit forms are: Śāriputra, Maudgalyāyana, Ānanda, Aniruddha, Kṣemā, Utpalavarṇā, Anāthapiṇḍada, Prasenajit Kośala, Citta and Viśākhā.
11. Từ Sanskrit sattva có nghĩa là ‘chúng sanh’, và từ Pāli satta cũng có thể có nghĩa như vậy, nhưng thực tế có thể phái sinh từ Sanskrit sakta, với chữ bodhi-sakta nghĩa là ‘người kết buộc với giác ngộ’.
11. Sanskrit sattva means a ‘being’, and Pāli satta can mean the same, but may actually have derived from Sanskrit sakta, with bodhi-sakta meaning ‘one bound to awakening’.
12. Chú giải Kinh Tập (Sutta-nipāta) II.486.
12. Sutta-nipāta commentary II.486.
13. Chú giải Cảm Hứng Ngữ (Udāna) 325.
13. Udāna commentary 325.
14. Chú ý rằng Pali Text Society có hai phiên bản của tập I Saṃyutta- nikāya; trong sách này, các tham chiếu được nêu theo cách đánh số trang của bản cũ, theo sau là cách đánh số trang của bản mới, ghi trong dấu ngoặc <>.
14. Note that the Pali Text Society has two editions of volume I of the Saṃyutta-nikāya; in this book, references to this are given to the pagination in the older edition, followed by the pagination in the newer one, shown in <> brackets.
15. The four ‘Truths of the Noble Ones’. Một cách dịch phổ biến hơn nhưng có chút lệch ý là ‘Chân lý Thánh’ (Noble Truths).
15. A more common, though somewhat misleading translation is ‘Noble Truths’.
16. Xem đoạn *Th.201.
16. On which, see passage *Th.201.
|| 17. See last but two paragraph of *LI.5, above, and Glossary.
17. Ví dụ, bộ Aṅguttara-nikāya II.7.
18. E.g. Aṅguttara-nikāya II.7.
18. Majjhima-nikāya, các kinh 43, 44, dưới hình thức vấn đápdiễn giải, về một số khái niệm Phật giáo.
19. Majjhima-nikāya, suttas 43 and 44, which are in the form of questions on, and extended explanations of, a number of Buddhist concepts.
19. Kinh Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā, tr. 4.
20. Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra p. 4.
20. Kinh 20, Đại hội, trong Trường bộ kinh (Dīgha-nikāya).
21. Dīgha-nikāya, sutta 20.
21. Bodhi-pakṣa-dharma (Pāli.bodhi-pakkhiya-dhamma), bao gồm các phẩm tính như bốn niệm trụ (*Th.138) và cho đến thánh đạo tám chi (*Th.99).
22. Bodhi-pakṣa-dharma (Skt, Pāli bodhi-pakkhiya-dhamma), which include such qualities as the four foundations of mindfulness (*Th.138) and the noble eightfold path (*Th.99).
22. Truyền thống Theravāda thường kể 10 vấn đề (xem *Th.20, cf. *Th.10).
23. In the Theravāda tradition, these are usually ten in number (see *Th.20, cf. *Th.10).
23. Tựa Skt.: Kṣitigarbha Bodhisattva Pūrvapraṇidhāna Sūtra.
24. Which would be Kṣitigarbha Bodhisattva Pūrvapraṇidhāna Sūtra in Sanskrit.
24. Trước đây còn phiên là Chih-i.
25. In an earlier way of transliterating Chinese, Chih-i.
25. Trước đây thường phiên là, theo thứ tự, Tushun và Fa-tsang.
26. In an earlier way of transliterating Chinese, respectively Tushun and Fa-tsang.
26. Một mẫu nghịch thường mà tinh tế, chẳng hạn như ‘tiếng vỗ của một bàn tay là gì?’, thường được dùng như một đề mục thiền quán trong phái Thiền Lâm tế.
27. An ‘Old case’ – a paradoxical story whose nub, such as ‘what is the sound of one hand clapping?’, is used as a focus of meditation in the Rinzai Zen school.
27. Xem ‘Tiểu Thừa’ (‘Hīnayāna’) trong Bảng chú giải thuật ngữ và tên riêng.
28. See ‘Hīnayāna’ in Glossary.
28. Viết bởi Peter Harvey.
29. By Peter Harvey
29. Sách này dùng các các dạng phiên âm Tạng ngữ cho phép phát âm gần đúng, nhưng khi có một dạng phiên âm khác trong ngoặc thì đây là dạng phiên âm chuẩn xác hơn của Tạng ngữ.
30. This book uses forms of Tibetan that give a fair guide to their pronunciation, but where another form follows in brackets, this is the more exact transliteration of the Tibetan.
30. Để có tổng quan về một số ấn bản Đại tạng Tây Tạng của Kangyur và Tengyur, xem: http://84000.co/kangyurtengyur-genres/ .
31. For an overview of a number of Tibetan editions of the Kangyur and Tengyur, see: http://84000.co/kangyur- tengyur-genres/.
31. Chẳng hạn như Nyingma Gyubum (rNying ma’i rGyud ‘bum) của phái Nyingma.
32. Such as the Nyingma Gyubum (rNying ma’i rGyud ‘bum) of the Nyingma school.
Tạo bài viết
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này. "Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…