PHẦN MỘT: SỐNG
3. TƯ DUY VÀ THAY ĐỔI
Hồi còn bé ở
Tây Tạng, tôi có nghe
câu chuyện về bà Krisha Gotami, một thiếu phụ có cái
diễm phúc được sống vào thời Phật. Đứa con đầu lòng của nàng mới chừng một tuổi bỗng nhiên ngã bệnh và chết. Quá
đau khổ, nàng ôm xác con đi lang thang khắp các nẻo đường, gặp ai cũng xin cứu cho nó
sống lại. Một số người tảng lờ, vài người
cười nhạo, nghĩ nàng đã điên, nhưng
cuối cùng nàng gặp một người
thông minh chỉ cho nàng biết đức Bụt là người
duy nhất trên đời có thể làm được cái
phép lạ mà nàng đang cần. Bởi thể nàng
tới nơi Bụt, đặt xác con dưới chân ngài và kể lại chuyện trên. Bụt lắng nghe với
lòng bi mẫn vô biên, rồi ngài nhẹ nhàng bảo:
- Chỉ có một cách
duy nhất để
hàn gắn nỗi đau buồn của con. Con hãy xuống phố, xin về cho ta một hột mù tạt từ một nhà nào chưa hề có người chết.
Gotami
sung sướng đi ngay xuống phố thị. Nàng đứng trước ngôi nhà đầu tiên và nói:
- Bụt đã bảo tôi đi tìm một hột mù tạt từ nơi nhà chưa từng biết đến cái chết. Người trong nhà nói:
Nhiều người đã chết trong nhà này.
Nàng đến nhà
kế tiếp, và cũng được bảo:
Trong
gia đình chúng tôi, có
vô số người thân đã chết.
Cứ thế qua đến nhà thứ ba thứ tư
cho đến khi nàng đã đi quanh hết cả thành phố, và
nhận ra rằng cái
điều kiện mà Bụt đặt ra không thể nào
thực hiện. Nàng bèn đem xác con đến nghĩa địa và nói lời
cuối cùng vĩnh biệt nó, rồi
trở về nơi Bụt. Ngài hỏi:
Con có đem lại hột mù tạt đó không?
Nàng đáp:
Thưa Bụt không. Con bắt đầu hiểu được bài học Bụt cố dạy con. Sự
đau khổ đã làm cho con
mù quáng, và con nghĩ rằng chỉ có con là khổ vì cái chết.
Phật hỏi:
Tại sao con trở lại?
Nàng đáp:
Để xin Bụt dạy cho con
chân lý về chết là gì, cái gì ở đằng sau và bên kia sự chết, và có cái gì ở trong con sẽ không chết hay không.
Đức Phật khởi sự giảng dạy cho nàng.
- Nếu con muốn biết
sự thật về sống và chết, con hãy
tư duy liên tục về điều này: “Có một
định luật duy nhất trong
vũ trụ không bao giờ thay đổi, đó là mọi sự đều
chuyển biến vô thường. Cái chết của con con bây giờ đã giúp con thấy được rằng cái
thế giới của
sinh tử mà ta đang sống là một biển khổ
vô biên không thể nào chịu nổi. Chỉ có một
con đường duy nhất ra khỏi vòng
sống chết bất tận đó là
con đường giải thoát. Vì sự
đau khổ đã khiến con sẵn sàng
học hỏi, và tâm con sẵn sàng mở ra để đón nhận
chân lý, nên ta sẽ khai thị cho con”.
Krisha Gotami quỳ dưới chân Bụt và theo Bụt suốt quãng đời còn lại của nàng. Khi
gần chết, nàng đã
giác ngộ.
CHẤP NHẬN CÁI CHẾT
Câu chuyện về Krisha Gotami chỉ cho ta một điều mà ta có thể
chiêm nghiệm nghiền ngẫm: Một sự xúc chạm gần gũi với cái chết có thể đem lại một sự
tỉnh thức thực sự, một sự
chuyển hóa trong
toàn bộ nhân sinh quan của ta.
Hãy lấy ví dụ cái
kinh nghiệm cận tử. Có lẽ một trong những khải
thị quan trọng nhất của nó đã
chuyển hóa con người trải qua kinh nghiệm ấy như thế nào. Những nhà nghiên tầm đã
lưu ý một số
hậu quả và
biến đổi đáng
ngạc nhiên nơi những người ấy: Đó là họ bớt
sợ hãi và biết
chấp nhận sự chết; họ
quan tâm đến việc giúp đỡ người khác nhiều hơn, họ càng thấy rõ tầm quan trọng của
yêu thương, họ ít
quan tâm đến những
theo đuổi vật chất, họ càng
tin tưởng vào chiều hướng
tâm linh và
ý nghĩa cuộc đời, và
dĩ nhiên họ càng
mở rộng niềm tin về
đời sau. Một người đã nói với Kenneth Ring:
- Tôi đã được
chuyển hóa từ một
con người lạc lõng lang thang không
mục đích, không thiết gì
trong đời ngoài ra là
tài sản vật chất, đến một người có định hướng, có động cơ
sâu xa, có một
mục đích trong
cuộc đời, và một
niềm tin mãnh liệt rằng sẽ có một
quả báo vào cuối
cuộc đời. Lòng say mê
của cải,
ham muốn sở hữu vật chất nơi tôi đã được thay bằng sự khát khao
tìm hiểu về
tâm linh và
ước mong thấy
thế giới được
cải thiện.
Một
phụ nữ nói với Margot Grey, một nhà
nghiên cứu Anh quốc về
kinh nghiệm cận tử:
- Tôi
dần dần cảm thấy có một
ý thức cao về tình yêu, khả năng
cảm thông, khả năng
tìm thấy niềm vui và
lạc thú trong những việc nhỏ nhặt tầm thường nhất quanh tôi... Tôi phát sinh một
lòng bi mẫn lớn lao đối với người bệnh và người sắp chết, và
hết sức mong sao cho họ biết và
ý thức được rằng tiến trình chết chỉ là một sự nối dài của
đời sống. (1)
Tất cả
chúng ta đều biết những khủng hoảng
đe dọa sự sống như bệnh nặng, v.v... có thể phát sinh những
chuyển hóa sâu xa tương tự. Freda Naylor, một
bác sĩ can đảm ghi
nhật ký khi chết vì bệnh ung thư như sau:
- Tôi đã có những
kinh nghiệm mà có lẽ không bao giờ tôi có được, về điều nầy tôi phải
cảm ơn bệnh ung thư. Sự khiêm cung,
giảng hòa với cái chết của chính tôi,
nhận ra năng lực tâm linh tôi - một điều luôn làm tôi
ngạc nhiên - và nhiều điều khác nữa về chính mình mà tôi đã
khám phá bởi vì tôi đã dừng tại chỗ, xác định lại và tiến lên. (2)
Nếu
chúng ta quả có thể “xác định lại và tiến lên” với lòng khiêm cung và cởi mở ấy, và thực sự
chấp nhận cái chết của
chúng ta, thì ta sẽ tự thấy mình sẵn sàng hơn để đón nhận những
chỉ dẫn về
tâm linh để
tu tập. Sự sẵn sàng đón nhận này còn mở đến một khả năng khác
kỳ diệu hơn: Khả năng
phục hồi đích thực.
Tôi nhớ một
phụ nữ Mỹ trung niên đến viếng Dudjom Rinpoche tại Nữu ước vào năm 1976. Bà ta không
đặc biệt quan tâm gì tới
Phật giáo, nhưng bà nghe nói có một bậc thầy vĩ đại đang ở trong thành phố. Bà đang ốm nặng, và trong cơn
tuyệt vọng bà muốn thử bất cứ gì, cả đến sự viếng thăm một bậc thầy Tây Tạng!
Lúc ấy tôi làm người thông dịch.
Bà vào phòng, ngồi
trước mặt Dudjom Rinpoche. Bà quá
xúc động bởi chính
tình trạng mình và sự
hiện diện của ngài, tới nỗi bà òa lên khóc.
Bà la lên: [1] [2]
-
Bác sĩ của tôi bảo tôi chỉ còn sống vài tháng nữa. Thầy có thể nào giúp tôi không? Tôi đang chết.
Ngạc nhiên cho bà làm sao, một cách nhẹ nhàng đầy từ mẫn Dudjom Rinpoche khởi sự cười khúc khích. Rồi ngài
bình tĩnh nói:
- Bà thấy, ai trong
chúng ta cũng đang chết cả. Chỉ là
vấn đề thời gian. Một số người
chết sớm hơn người khác, thế thôi.
Với những lời ít ỏi đó, ngài giúp bà ta thấy được
tính chất phổ quát của sự chết, và cái chết sắp tới của bà không phải là
duy nhất. Điều ấy làm bà đỡ lo. Rồi ngài nói về chết và
chấp nhận cái chết. Ngài nói về niềm
hy vọng ở trong sự chết. Và
cuối cùng ngài cho bà một
phương pháp tu tập để chữa trị, mà bà đã
hăng hái tuân theo.
Không những bà khởi sự
chấp nhận cái chết, mà nhờ
tu tập một cách
hoàn toàn thành khẩn, bà đã khỏi bệnh. Tôi đã nghe nhiều
trường hợp khác, có những người được
chẩn đoán là bệnh đã tới
thời kỳ sau chót, chỉ còn sống vài tháng, nhưng khi họ
đi vào độc cư,
tu tập tâm linh, thực sự đối mặt với chính mình và với cái chết, thì họ lại hết bệnh. Điều này cho ta thấy gì? Rằng khi ta
chấp nhận chết,
chuyển hóa thái độ của ta đối với
cuộc đời, và
tìm ra mối
liên hệ căn để giữa sống và chết, thì
lúc ấy, một khả năng chữa trị
kỳ diệu có thể xảy ra.
Những
Phật tử Tây Tạng tin rằng những bệnh như ung thư có thể là một lời
cảnh cáo nhắc ta nhớ rằng ta đã lãng quên những khía cạnh
sâu xa của
bản thể ta, những nhu cầu
tâm linh chẳng hạn. Nếu ta nghiêm túc đón nhận sự
cảnh cáo này, và thay đổi một cách
căn bản chiều hướng
cuộc đời ta, thì rất có
hy vọng chữa lành không những thân xác ta
mà cả toàn thể con người ta nữa.
SỰ THAY ĐỔI SÂU XA TRONG TÂM ĐỂ
Tư duy sâu xa về
vô thường, như Krisha Gotami đã làm là thấu hiểu tận trong tim bạn cái
sự thật được
diễn tả trong những câu thơ của một bậc thầy hiện nay, Nyoshul Khenpo:
Bản chất mọi sự đều
huyễn hóa phù du
Những người
nhận thức nhị nguyên thường xem khổ là vui
Như kẻ liếm mật nơi lưỡi dao bén.
Đáng thương những ai bám chặt vào thực hữu
Hãy xoay sự chú ý vào trong, hỡi
bạn thân.
Nhưng thật là khó làm sao để xoay chú ý vào trong!
Chúng ta dễ dàng quen thói cũ, đặt ra những mẫu mực để nó
trở lại khống chế mình! Mặc dù, như bài thơ trên cho thấy, chúng đem lại
đau khổ cho ta, ta vẫn
chấp nhận chúng một cách
cam chịu, vì đã quen
đầu hàng chúng.
Chúng ta có thể xem
tự do giải thoát như một
lý tưởng, song khi động tới những
thói quen của mình, thì ta
hoàn toàn biến thành nô lệ.
Tuy thế, nhờ
tư duy mà ta có thể
dần dần đạt đến trí tuệ.
Chúng ta có thể một ngày nào đó
nhận ra rằng mình đang tái đi tái lại những mẩu mực cố định, và khởi sự mong muốn thoát ra.
Dĩ nhiên chúng ta có thể rơi
trở lại vào
thói quen, nhiều lần, nhưng dần dà cũng có thể ngoi lên khỏi chúng và bắt đầu thay đổi. Bài thơ sau đây nói cho tất cả
chúng ta, gọi là “Tự truyện trong Năm Chương”:
1. Tôi
đi xuống đường phố
Có một lỗ sâu bên vệ đường
Tôi rớt vào đó.
Tối chới với
vô phương.
2. Tôi
đi xuống cũng
con đường ấy
Có một lỗ sâu bên vệ đường
Tôi làm bộ
như không trông thấy
Tôi lại rớt như thường.
Tôi không ngờ mình ở ngay chỗ cũ
Nhưng đó đâu phải lỗi
tại tôi Mất nhiều
thời gian mới hòng ra được.
3. Tôi cũng lại đi
con đường cũ
Có một lỗ sâu bên vệ đường
Tôi thấy nó vẫn đang ở đấy
Và tôi vẫn rơi vào. Đó là
thói quen Mắt tôi vẫn mở
Tôi
biết mình ở đâu
Đấy là lỗi
tại tôi Tôi liền ra tức khắc.
4. Tôi
đi xuống con đường phố cũ
Có một lỗ sâu bên vệ đường
Tôi đi quành qua nó.
5. Tôi
đi xuống bằng
con đường khác.
Mục đích của
tư duy về cái chết (
tử tưởng) là làm một cuộc đổi mới thực sự trong đáy tim bạn, và
tập khởi sự tránh cái “lỗ sâu bên vệ đường” bằng cách “đi
con đường khác”. Thường điều này cần có một
thời gian nhập thất quán tưởng sâu xa, vì chỉ có vậy ta mới có thể
mở mắt thực sự để thấy ta đã làm gì với
cuộc đời ta.
Nhìn thẳng cái chết không
nhất thiết phải
hãi hùng ghê gớm lắm. Tại sao không
tư duy sự chết khi bạn đang cao hứng,
thoải mái, nằm trong giường ấm áp
tiện nghi, hoặc khi bạn đang
trải qua dịp nghỉ lễ, đang lắng nghe bản nhạc mà bạn yêu thích? Tại sao không
tư duy sự chết khi bạn đang
hạnh phúc, khỏe mạnh, đầy
tin tưởng và
hoàn toàn an vui? Bạn có
để ý rằng có những giờ phút
đặc biệt trong đó bạn có khuynh hướng
nội quán hay không? Hãy làm việc với những giây phút ấy một cách nhẹ nhàng, vì đấy là những giây phút bạn có thể có được một
kinh nghiệm mãnh liệt
sâu xa, thay đổi
toàn thể quan niệm của bạn về
thế giới. Có những thời điểm trong đó những
niềm tin cũ của bạn trước kia tự động sụp đổ
hoàn toàn, bạn tự thấy mình được đổi mới hẳn.
Sự quán niệm cái chết sẽ đem lại cho bạn một
ý thức sâu xa về sự
từ bỏ trong
đạo Phật, Tạng ngữ là Ngé jung. Ngé có nghĩa là “thực sự” hay “quyết định”, jung là “ra khỏi”, “ngoi lên”, hay “sinh ra”. Kết quả sự
tư duy thường xuyên và
sâu xa về cái chết là, bạn sẽ thấy mình “ngoi lên” khỏi những mẫu mực
thói quen của mình, thông thường là với
cảm giác ngấy chán đối với chúng. Bạn sẽ thấy mình càng lúc càng thêm sẵn sàng rũ bỏ chúng, và
cuối cùng bạn có thể
thoát khỏi chúng một cách
êm thấm nhẹ nhàng, “như rút một cọng tóc ra khỏi một thỏi bơ”, các bậc thầy đã ví dụ.
Sự
từ bỏ mà bạn sẽ đạt tới ấy, đem lại cho bạn vừa
nỗi buồn vừa niềm vui: Buồn vì bạn
nhận thức được cái
vô vị của những thói cũ nơi bạn, và vui vì cái
tri kiến sâu xa dần dần mở ra trong bạn, khi bạn có thể
buông bỏ những thói cũ. Đây không là một niềm vui
phàm tục, mà là một hỉ lạc làm phát sinh một
năng lực mới mẻ, thâm hậu, một
niềm tin, một
cảm hứng bền bỉ
thoát thai từ
nhận thức rằng mình không phải là tên
nô lệ cho những
thói quen của mình, quả thế mình có thể ngoi lên khỏi chúng, rằng mình có thể thay đổi, và trở nên càng ngày càng
giải thoát tự do.
NHỊP TIM CỦA THẦN CHẾT
Sẽ không có
hy vọng nào biết được cái chết nếu nó chỉ xảy đến
một lần mà thôi. Nhưng may thay,
cuộc đời toàn thị chỉ là một màn luân vũ của sống và chết, một cuộc nhảy múa của
vô thường. Mỗi khi tôi nghe tiếng thác đổ, hay
tiếng sóng vỗ vào bờ, hay tiếng tim tôi đập, tôi lại nghe tiếng của
vô thường. Những thay đổi ấy, những cái chết nhỏ ấy là những móc nối
sống động giữa ta với sự chết. Đó là mạch nhảy của thần chết, là nhịp tim của thần chết, nhắc ta buông mọi sự ta đang
bám víu.
Bởi thế ta hãy làm việc với những thay đổi ấy ngay bây giờ,
trong đời sống: Đấy là cách thực sự để chuẩn bị cho cái chết.
Đời sống có thể đầy những nỗi đau thể xác và
tinh thần, đầy những gian khổ, nhưng tất cả những thứ này lại là những cơ hội giúp ta có thể
chấp nhận cái chết. Chỉ khi ta
tin tưởng mọi sự vẫn
trường tồn, thì ta mới không thể rút bài học từ
biến dịch. Khi ấy ta như bị nhốt kín, và trở nên
tham lam níu kéo (
chấp thủ).
Chấp thủ là nguồn gốc mọi
vấn đề của
chúng ta. Vì
vô thường đối với
chúng ta có nghĩa là
lo âu bất trắc, nên ta bám vào, níu kéo mọi sự một cách
tuyệt vọng, mặc dù mọi sự đều
biến đổi.
Chúng ta sợ phải
buông xả, và có thể nói là
chúng ta sợ phải sống thực sự, vì tập sống thực sự có nghĩa tập
buông xả. Và đấy là
bi kịch, là sự
nghịch lý của cuộc đấu tranh hòng
tiếp tục bám víu: Không những điều ấy là bất khả, mà nó còn mang lại cho ta cái khổ mà ta muốn tránh. Cái
ý định đằng sau sự
bám víu tự nó có
thể không có gì quấy; không có gì
sai lầm trong sự việc ta muốn được
hạnh phúc an vui, nhưng cái điều ta muốn níu kéo thì tự
bản chất đã là không thể níu kéo được. Người
Tây Tạng nói rằng: “Chúng ta không thể rửa tay hai lần trong cùng một dòng nước”, và “Dù có ép mạnh bao nhiêu, bạn cũng không thể ép cát ra dầu”.
Thâm nhập lý vô thường thực sự chính là
dần dần tự
giải thoát khỏi
chấp thủ, khỏi
quan niệm sai lầm tai hại của ta về
trường tồn, khỏi sự say mê
an ninh bảo đảm trên đó ta dựng xây mọi thứ. Dần dà, ta
nhận ra rằng, cái cơn nhức nhối tim gan mà ta phải
trải qua do cố níu những gì không níu được, suy cho cùng
thực không cần thiết.
Lúc đầu, ngay đến chuyện này cũng thật khó mà
chấp nhận, vì ta chưa
quen thuộc. Nhưng khi càng
suy nghĩ và
tiếp tục suy nghĩ,
tâm trí ta sẽ
dần dần thay đổi. Sự
buông xả bắt đầu có vẻ
tự nhiên hơn, và càng ngày càng dễ. Có thể phải cần nhiều
thời gian để những sự điên rồ của ta lắng xuống, nhưng càng
tư duy, ta càng phát triển cái
tri kiến của sự
buông xả, chính lúc đó một sự đổi mới xảy ra trong lối nhìn của ta đối với mọi sự.
Quán niệm tính
vô thường mà thôi chưa đủ, bạn phải làm việc với nó trong
cuộc đời của bạn. Cũng
như học y khoa cần cả
lý thuyết lẫn
thực hành, học sống cũng vậy, và trong sự học sống ở đời, sự
thực hành nằm ngay đây, trong phòng thí nghiệm của
biến dịch. Khi những đổi thay xảy đến,
chúng ta tập nhìn chúng với một
tuệ giác mới. Mặc dù mọi sự vẫn
tiếp tục xảy ra như trước, song một cái gì trong ta sẽ đổi khác.
Hoàn cảnh bây giờ đối với ta có vẻ
thoải mái hơn, bớt
căng thẳng khổ nhọc, và dù có
trải qua những cuộc bể dâu,
chúng ta cũng ít
kinh hãi trước
ảnh hưởng của chúng. Mỗi cuộc bể dâu đem lại cho ta thêm một ít
thực chứng, và
quan niệm của ta về sự sống trở nên càng ngày càng sâu sắc và khoáng đạt hơn.
LÀM VIỆC VỚI NHỮNG ĐỔI THAY
Ta hãy thử một thí nghiệm. Hãy nhặt một đồng xu lên, và tưởng tượng nó là cái đối tượng mà bạn đang
bám víu. Bạn hãy giữ nó thật chặt trong nắm tay
đối diện với mặt đất. Bấy giờ nếu bạn buông ra hay thả lỏng nắm tay, bạn sẽ mất cái mà bạn đang nắm giữ. Chính đó là
lý do làm bạn phải nắm lại.
Nhưng có một khả năng khác: Bạn có thể buông ra mà vẫn giữ được đồng xu đó. Bạn duỗi cánh tay, để ngữa nắm tay cho
đối diện với bầu trời. Rồi bạn thả nắm tay, thì đồng xu vẫn còn nằm trên bàn tay mở của bạn. Thế là bạn
buông xả mà đồng xu vẫn còn là của bạn, mặc dù
xung quanh nó là
hư không bao la.
Bởi vậy
vẫn có cách để
chúng ta có thể
chấp nhận vô thường mà vẫn
thưởng thức được hương vị
cuộc đời, và
đồng thời không
bám víu. Ta hãy nghĩ đến những gì thường xảy ra trong những mối tương quan. Phần lớn chỉ khi sắp mất bạn, người ta mới
nhận ra mình thương bạn, và khi ấy người ta càng bám chặt hơn. Nhưng càng níu kéo thì người kia càng
thoát ly, và mối
liên lạc giữa họ càng
mong manh hơn.
Chúng ta muốn có
hạnh phúc, nhưng chính cái cách ta
theo đuổi hạnh phúc lại quá
vụng về đến nỗi nó chỉ đem lại thêm nhiều
phiền muộn. Thông thường ta tưởng chừng ta phải giữ kỹ để có được cái gì mà ta cho là sẽ
bảo đảm hạnh phúc của ta. Ta tự hỏi: “Làm sao ta có thể sẽ
bảo đảm một cái gì nếu ta không thể
sở hữu nó?” Quá thường khi, ta
lẫn lộn sự
bám víu với tình yêu. Ngay cả khi mối tương giao thật
tốt đẹp, thì tình yêu vẫn thường bị hỏng do sự
bám víu, từ
bám víu có nỗi
bất an,
chiếm hữu và
kiêu căng; và khi tình yêu bay mất, thì bạn chỉ còn lại những
hoài niệm để
chứng tỏ tình yêu của bạn, đó là vết sẹo của sự
bám víu.
Vậy thì làm thế nào ta có thể
vượt qua sự bám víu? Chỉ bằng cách
trực nhận bản chất vô thường của nó; sự nhận chân này sẽ
giải thoát ta khỏi nanh vút của tính
chấp thủ.
Chúng ta sẽ
thoáng thấy được như các
thiền sư đã nói,
thái độ đích thực đối với sự đổi thay là: Ta như thể bầu trời đang nhìn mây bay qua, hay “giải thoát như thủy ngân”. Khi thủy ngân giọt trên đất,
bản chất nó là vẫn nguyên vẹn không lấm bụi. Khi ta theo lời dạy của các bậc thầy,
dần dần buông bỏ sự
bám víu, thì một
lòng bi mẫn bao la cũng nảy sinh trong ta. Những
đám mây vô minh chấp thủ tan biến, và
mặt trời là trái tim
yêu thương chân thực bỗng chiếu sáng. Chính
lúc ấy từ
bản thể sâu xa, ta bắt đầu nếm được hương vị câu thơ chứa đựng
chân lý siêu thoát của William Blake:
Kẻ nào
ràng buộc mình vào một
lạc thúLàm hỏng đôi cánh
cuộc đời;
Kẻ nào chỉ hôn
hạnh phúc khi nó
lướt quaSẽ sống trong
ánh mặt trời Bất tận.
TINH THẦN CHIẾN SĨ
Chúng ta có
thói quen tin rằng nếu ta
buông xả, ta sẽ không còn gì. Nhưng
cuộc đời luôn luôn cho thấy cái ngược lại. Đó là, sự
buông xả chính là
con đường đưa đến
giải thoát tự do.
Cũng như khi sóng đánh vào bờ, những mỏm đá không
thiệt hại gì mà còn được giũa mòn và chạm trổ thành những
hình dáng đẹp, nhân cách
chúng ta cũng vậy, có thể được
un đúc nhờ những cuộc đổi thay, những góc cạnh thô nhám được giũa mòn và trở nên mềm mại. Nhờ những đổi thay mà ta có thể dần phát huy một
thái độ hòa nhã nhưng không ai lay chuyển nổi. Lòng
tự tín nơi ta càng thêm
tăng trưởng và từ đó
tự nhiên tỏa ra sự tử tế
từ bi, đem lại niềm vui cho người khác. Chính
thiện tính ấy là cái gì còn lại
sau khi chết, cái
thiện tính căn để sẵn có trong tất cả
mọi người chúng ta.
Toàn thể cuộc đời chỉ là để dạy cho ta làm thế nào để
hiển lộ thiến tính ấy, và luyện cho ta
thực chứng nó.
Bởi thế mỗi khi những mất mát, vỡ mộng
trong đời dạy cho ta về
vô thường, chúng lại đưa ta
đến gần sự thật hơn. Khi bạn từ trên cao rớt xuống thì chỉ có một chỗ
duy nhất có thể đậu lại, đó là nền mặt đất, nền tảng của
chân lý. Và nếu bạn có
tuệ giác do sự
tu tâm đem lại, thì việc rớt xuống
tuyệt nhiên không là một
tai họa, vì chính nhờ vậy bạn tìm được một chỗ trú
nội tâm.
Những khó khăn và
chướng ngại nếu hiểu đúng và biết vận dụng,
thường có thể
biến thành nguồn
năng lực không ngờ. Trong
tiểu sử những bậc thầy, ta thường thấy rằng nếu họ không gặp khó khăn
chướng ngại, thì họ đã không
khám phá được
sức mạnh cần thiết để
vượt qua. Chẳng hạn đời của Gesar, vị vua chiến sĩ mà những cuộc tẩu thoát đã làm nên bản
anh hùng ca vĩ đại nhất của
văn học Tây Tạng. Gesar có nghĩa là không ai
hàng phục nổi. Từ khi ông sinh ra, người chú
ác độc tên Trotung tìm đủ mọi cách để giết, nhưng càng
gặp nạn Gesar càng trở nên hùng mạnh. Kỳ thực, chính nhờ những
nỗ lực của chú để làm hại ông, mà ông
trở thành con người vĩ đại như thế. Do đó
Tây Tạng có
ngạn ngữ: “Trotung tro ma tung na, Gesar ge mi sar,” có nghĩa nếu Trotung không mưu mô quỷ quyết, thì Gesar đã không lên cao như vậy.
Đối với dân
Tây Tạng, Gesar không những là một chiến sĩ về quân sự
mà cả về
tâm linh, nghĩa là đã luyện được một thứ
dũng cảm đặc biệt có
tính cách thông minh thiên phú, vừa
hiền hòa vừa bất khuất. Chiến sĩ
tâm linh thì dù vẫn còn
sợ hãi song cũng đủ
can đảm để nếm trải khổ đau, nhớ đến nỗi
sợ hãi căn để của mình, và rút ra được bài học từ những gian khổ nên không tránh né. Chogyam Trungpa Rinpoche nói:
-
Trở thành một chiến sĩ
tâm linh có nghĩa là có thể đổi sự phấn đấu cho sự
bảo đảm an ninh nhỏ nhen của ta để có một
tri kiến rộng lớn hơn, đầy tính
vô úy, khoáng đạt và
anh hùng...(*)
THÔNG ĐIỆP CỦA VÔ THƯỜNG TRONG CÁI CHẾT CÓ NIỀM HY VỌNG
Hãy nhìn sâu thêm nữa vào
vô thường, bạn sẽ thấy nó có một
thông điệp khác, một bộ mặt khác, đầy
hy vọng lớn lao, một
thông điệp làm bạn
mở mắt ra trước
bản chất uyên nguyên của
vũ trụ, và mối tương quan
kỳ diệu của ta với nó.
Nếu mọi sự là
vô thường, thì mọi sự là “không” (trống rỗng), nghĩa là không có một thực hữu nội tại,
chắc chắn,
trường cửu. Và mọi sự, khi được thấy và hiểu trong tương quan đích thực của nó, thì không phải là những
thực thể độc lập mà
hỗ tương lệ thuộc với
mọi vật khác. Phật
so sánh vũ trụ như một cái lưới rộng lớn dệt bằng
vô số hạt châu chiếu sáng, mỗi hạt có
vô số góc cạnh. Mỗi hạt châu
phản chiếu vô số hạt khác trong lưới, và là một với những hạt khác.
Hãy nghĩ đến một làn sóng trên biển. Nhìn một cách, thì nó dường như có một
thực thể riêng biệt, có đầu có cuối, có sinh có diệt. Nhưng nhìn cách khác, thì làn sóng chính nó không thực hữu mà chỉ là một dáng dấp của nước, nó “trống rỗng” hay
không có lý lịch riêng, nhưng mà “đầy” nước. Vậy khi bạn thực sự nghĩ về làn sóng, bạn
nhận ra [3]
rằng nó là một cài gì tạm thời có được nhờ gió và nước, và
tùy thuộc vào một loạt những
trường hợp luôn luôn thay đổi. Bạn cũng
nhận ra rằng mỗi làn sóng đều có tương quan với mỗi làn sóng khác.
Không một thứ gì có một
hiện hữu nội tại riêng nó, khi bạn
thực tình nhìn kỹ. Và sự
vắng mặt một
hiện hữu biệt lập ấy ta gọi là “trống rỗng”. Hãy nghĩ đến một cái cây. Khi bạn nghĩ đến cái cây, bạn ưa nghĩ đến một sự vật được xác định rõ rệt, và ở một bình diện, nó quả có thực, như làn sóng nói trên. Nhưng khi bạn nhìn kỹ hơn vào cái cây, bạn sẽ thấy
cuối cùng nó cũng không có
hiện hữu biệt lập. Khi
ngắm nhìn nó, bạn sẽ thấy nó tan biến vào một mạng lưới tương quan
vô cùng vi tế trải dài suốt
vũ trụ. Cơn mưa rơi trên lá cây, gió lay cành, đất
nuôi dưỡng và
nâng đỡ nó, bốn mùa và
thời tiết, trăng sao và
ánh mặt trời - tất cả đều là một phần của cái cây. Khi bạn khởi sự nghĩ về cái cây càng nhiều hơn nữa, bạn sẽ
khám phá rằng mọi sự trong
vũ trụ đều phụ lực để làm cho cây
trở thành cái nó đang thành, rằng không một lúc nào nó có thể tách biệt nó ra khỏi những cái khác; rằng mọi lúc
bản chất nó đang thay đổi một cách
tinh tế. Đây là
ý nghĩa khi
chúng tôi bảo mọi sự là trống rỗng, không có
hiện hữu độc lập.
Khoa học hiện nay cho ta biết
phạm vi rộng lớn của những tương quan trong
vũ trụ. Những nhà sinh môi biết rằng một cây cháy trong rừng Amazon bằng một cách nào đó, làm thay đổi bầu không khí mà một thị dân thủ đô Ba lê đang thở, và sự
rung động của một cánh bướm ở Yucatan có
ảnh hưởng tới
đời sống của một trang trại vùng Hebrides. Những nhà sinh vật học bắt đầu
khám phá cuộc luân vũ
phức tạp ly kỳ của những nhiễm thể trong tế bào tạo nên cá tính và sự giống nhau, một cuộc luân vũ trải dài rất xa về
quá khứ và
chứng minh rằng mỗi sự gọi là “giống nhau” gồm rất nhiều
ảnh hưởng khác nhau. Những nhà
vật lý học thì
giới thiệu chúng ta vào
thế giới của lượng tử,
một thế giới
giống hệt một cách lạ lùng với
thế giới mà Phật
mô tả trong
hình ảnh cái lưới
châu ngọc (
Phạm võng) trải khắp
vũ trụ. Hệt như những
hạt ngọc trong lưới ấy, mọi phân tử đều
hiện hữu kể như những
phối hợp khác nhau của những phân tử khác.
Bởi thế khi ta thực sự nhìn vào chính mình cùng những sự vậy chung quanh mà ta cho là
chắc chắn bền bỉ, ta đều thấy chúng không thực gì hơn một giấc
chiêm bao. Phật dạy:
Hãy
quán sát vạn phápNhư ảo tượng, lầu mây
Như mộng,
như hóa hiện,
Có thấy, không
thực chất Hãy
quán sát vạn pháp Như bóng trăng
phản chiếu Đáy hồ nước lặng trong
Trăng chưa từng
di chuyển.
Hãy
quán sát vạn phápNhư vang của
âm thanhTiếng nhạc và tiếng khóc
Trong vang không điệu gì.
Hãy
quán sát vạn pháp Như huyễn sư tạo huyễn
Đủ thứ ngựa, xe, bò
Chỉ có tưởng, không thực.
Sự quán tưởng
tính chất mộng huyễn của
thực tại không
nhất thiết làm cho ta phải trở nên
lạnh lùng,
vô vọng hay
cay đắng. Ngược lại, nó có thể mở ra trong ta một tính hài hước
thân thiện, một
lòng bi mẫn mà ta không ngờ mình cũng có, và do đó càng ngày tâm ta càng
rộng rãi đối với mọi sự vật và
hữu tình. Milarepa nói:
- Thấy được
Tánh không, thì
mở lòng thương xót.
Khi nhờ
quán sát mà ta thực sự thấy được
tánh không và tính
hỗ tương lệ thuộc của mọi sự và chính mình, thì ta sẽ thấy
thế giới dưới môt ánh sáng huy hoàng, tươi mát hơn, như cái lưới đan kết bằng
vô số bảo châu phản chiếu nhau mà Phật đã
mô tả. Khi ấy ta không
cần phải tự
che chở mình hay
giả bộ, và ta sẽ dễ dàng
thực hiện lời khuyên của một bậc thầy:
- Hãy luôn nhận
chân tính mộng huyễn của
cuộc đời để
giảm bớt ái luyến và thù ghét. Hãy có tâm tốt đối với mọi loài. Có tâm
thương xót, bất kể kẻ khác đối xử với bạn ra sao. Những gì người khác làm đối với bạn không quan trọng lắm, khi bạn
xem như mộng huyễn. Cái mánh là, bạn phải có những
ý định tốt trong
giấc mộng. Đây là điểm cốt yếu. Đây đích thực là
tu tâm.
Tu tâm đích thực cũng là
ý thức được rằng nếu ta có tương quan
mật thiết với
mọi người mọi sự, thì ngay cả một
ý nghĩ,
lời nói, hành động nhỏ nhất của ta cũng có những
hậu quả khắp
vũ trụ. Hãy ném một hòn sỏi xuống ao nước. Nó liền có một
rung động trên mặt nước, những làn sóng nhỏ lăn tăn tan hòa vào nhau và tạo thành những làn sóng mới. Mọi sự đều tương thuộc một cách chặt chẽ:
Chúng ta sẽ
nhận ra rằng
chúng ta chịu
trách nhiệm về mọi điều ta làm, nghĩ và nói, quả thế, có
trách nhiệm về chính ta, về
mọi người và mọi sự vật khác, cũng như với
toàn thể vũ trụ. Đức Dalai Lama đã dạy:
- Trong cái
thế giới hỗ tương lệ thuộc mật thiết này, những
cá nhân và
quốc gia không còn có thể tự
giải quyết vấn đề riêng của họ được.
Chúng ta cần đến nhau. Bởi thế ta phải phát huy một
ý thức về
trách nhiệm hỗ tương...
Trách nhiệm của tập thể và của từng
cá nhân là
bảo vệ và
nuôi dưỡng đại
gia đình địa cầu,
nâng đỡ những thành viên
yếu kém,
bảo trì và
săn sóc môi trường sống của tất cả
chúng ta. (*)
Vô thường đã khải thị cho ta nhiều
sự thật, nhưng còn một kho tàng cuối nó đang giữ, một kho tàng mà phần lớn bị
che khuất dưới mắt
chúng ta, ta không ngờ và cũng không
nhận ra được, song lại là của ta một cách
thân thiết nhất.
Thi sĩ Rainer Maria Rilke đã nói rằng những nỗi sợ
sâu xa nhất của ta giống như những con rồng đang giữ kho tàng sâu kín nhất của ta. Cái nỗi sợ mà
vô thường khơi dậy trong ta, theo đó không có gì là thực, không gì
trường cửu, hóa ra lại là người bạn tốt nhất của ta, bởi vì nó giục ta đặt câu hỏi: Nếu mọi sự đều hủy diệt, thay đổi, thì cái gì là có thực? Có chăng một cái gì đằng sau mọi giả tưởng, một cái gì
vô biên, khoáng đạt
vô cùng, làm sân khấu cho cuộc luân vũ của
vô thường chuyển biến? Có chăng một cái gì ta có thể nương tựa
an trú, một cái gì sống lâu hơn cái mà ta gọi là cái chết?
Để cho câu hỏi ấy xâm chiếm ta một cách
cấp thiết,
tư duy về nó, ta sẽ
dần dần thay đổi
sâu xa lối nhìn của ta về mọi sự. Với sự
liên tục quán tưởng và
thực hành buông xả, ta sẽ thấy
hiển lộ trong chính ta “một cái gì” ta không thể gọi tên,
mô tả, đặt thành khái niệm, “một cái gì” mà ta khởi sự thấy đang nằm đằng sau mọi sự
biến dịch chết chóc của
thế giới. Khi ấy những
dục vọng và
giải trí thiển cận mà ta bị
trói buộc vào do
chấp thủ tính chất trường cửu - khởi sự tan biến và rơi rụng.[4]
Khi điều này xảy đến, ta thường
thoáng thấy những hàm ẩn rộng lớn ở đằng sau
sự thật về
vô thường. Nó giống như suốt buổi ta đã bay trong một chiếc phi cơ luồng qua những
đám mây đen
vần vũ, rồi bỗng dưng phi cơ vút lên trên những tầng mây, bay vào một bầu trời
trong sáng bao la. Được
cảm hứng,
vui mừng khi ngoi lên trong chiều
không gian mới đầy
tự do ấy, ta dần
khám phá một
niềm an lạc sâu xa, một niềm tự tin làm ta đầy
ngạc nhiên sung sướng.
Dần dần, phát sinh một niềm xác tín rằng “một cái gì” đó trong ta không gì
phá hủy được, không gì làm thay đổi được, và không thể chết. Milarepa viết:
Vì
sợ chết tôi
đi vào núi-
Liên tục trầm tư về tính
bất định của giờ chết,
Bỗng bắt gặp thành trì
bất tử,
vô tận của tâm bản nhiên.
Bây giờ tất cả nỗi
sợ chết đều tan biến.
Vậy,
dần dần ta biết được trong ta có sự
hiện diện của
tự tính như bầu trời
trong sáng mà Milarepa gọi là tâm bản nhiên, vốn
bất tử và
vô tận. Khi
ý thức mới mẻ ấy trở nên
sống động và gần
như không gián đoạn, thì xảy ra cái mà
Áo nghĩa thư gọi là “một sự xoay chiều của tâm thức” một khải thị có
tính cách cá nhân,
hoàn toàn không thể đặt tên, cho thấy ta là gì, tại sao ta ở đây, ta phải làm thế nào... Điều này
cuối cùng, không khác gì
một đời sống mới mẻ, một cuộc
phục sinh.
Kỳ diệu thay, nhờ quán
chân lý về
vô thường một cách
liên tục, không
sợ hãi, mà
dần dần ta thấy mình giáp mặt – trong niềm
tri ân và hỉ lạc – với
chân lý về
bản chất bất biến,
bất tử và
vô tận của tâm.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Margit Grey, Return from Death, p. 97.
[2] Dr R. G Owens and Freda Naylor, G.P. Living While Dying, p.59. Welling-borough, England, 1987.
(*) The Superhuman Life of Gesar of Ling. A. David-Neel Shambala. 1987. Introduction.
(*) Policy of kindness, 1990