PHẦN MỘT: SỐNG
4. BẢN CHẤT CỦA TÂM
Vì bị nhốt kín trong cái lồng hạn hẹp
tối tăm của
bản ngã mà ta cho là cả
vũ trụ, rất ít người trong
chúng ta khởi sự ngay cả tưởng đến một chiều
không gian khác của
thực tại. Patrul Rinpoche kể cho
chúng ta câu chuyện về một con ếch già
suốt đời sống trong một cái giếng ẩm. Một ngày kia có con ếch từ ngoài biển vào thăm nó. Nó hỏi:
- Anh từ đâu đến?
- Từ biển.
- Biển của anh to bao nhiêu?
- To khổng lồ.
- Anh muốn nói là bằng cỡ chừng phần tư cái giếng của tôi đây chứ gì?
- Không, lớn hơn cơ.
- Lớn hơn à?
Vậy thì bằng nửa cái giếng của tôi không?
- Không, lớn nữa kia.
- Thế... Chẳng nhẽ lại bằng cả cái giếng của tôi à?
- Không có thể
so sánh được.
- Chuyện vô lý! Tôi phải đi xem cho tận con mắt.
-Chúng cùng đi. Khi con ếch ở giếng trông thấy
đại dương, nó bị một cú sốc
kinh hoàng tới nỗi nó nổ tung ra thành từng mảnh.
Phần lớn những
hoài niệm tuổi thơ tôi về
Tây Tạng đã phai tàn, nhưng có hai thời điểm mà tôi không bao giờ quên. Đó là khi thầy tôi Jamyang Khientse khải thị cho tôi
đi vào bản chất cốt tủy, uyên nguyên và
sâu xa nhất của tâm tôi.
Lúc đầu tôi
cảm thấy dè dặt không muốn
tiết lộ những
kinh nghiệm riêng tư này, vì ở
Tây Tạng không bao giờ người ta làm chuyện đó, nhưng các học trò, bạn bè tôi tin rằng nếu tôi nói ra thì có thể giúp đỡ nhiều người, và họ
yêu cầu tôi,
năn nỉ tôi viết về những
kinh nghiệm ấy.
Lần đầu tiên nó xảy đến khi tôi khoảng sáu bảy tuổi, tại trong cái phòng
đặc biệt mà thầy tôi ở, trước mộ
bức tranh lớn của
tiền nhân thầy là Jamyang Khientse Wangpo. Đấy là một
hình dáng oai vệ
nghiêm trang, càng oai vệ
trang nghiêm hơn khi
ánh đèn bơ đặt trước
bức tranh cứ chập chờn
soi sáng gương mặt trên
bức tranh ấy. Tôi chưa biết có chuyện gì xảy ra thì thầy tôi đã làm một sự bất thường chưa từng có. Ngài
thình lình ôm tôi và nhấc bổng lên. Đoạn ngài hôn tôi một cái vào một bên má. Trong một lúc lâu, tâm tôi
hoàn toàn biến mất, tôi được bao phủ bởi một niềm
yêu thương,
tin tưởng, một
năng lực phi thường.
Biến cố kế tiếp thì trang trọng hơn và xảy ra ở Lhodrak Kharchu trong một hang động mà Padmasambhava bậc thánh vĩ đại và là cha đẻ của
Phật giáo Tây Tạng, đã
nhập thất thiền định.
Chúng tôi đã dừng chân tại đấy trên đường
hành hương đến miền Nam. Lúc đó tôi chừng chín tuổi. Thầy tôi gọi tôi đến và bảo tôi ngồi
trước mặt ôn. Chỉ có hai thầy trò
chúng tôi. Thầy tôi bảo:
- Bây giờ ta sẽ khai thị cho con về
bản lai diện mục của tâm.
Cầm cái chuông và trống tay nhỏ lên, thầy
triệu thỉnh tất cả những bậc thầy trong hệ
truyền thừa, từ Phật
nguyên thủy trở xuống đến bậc thầy của chính thầy. Rồi thầy bắt đầu khai thị. Bỗng chốc thầy ném vào mặt tôi một câu hỏi không thể
trả lời:
- Tâm là gì?
Thầy nhìn xoáy sâu vào mắt tôi. Tôi
hoàn toàn kinh ngạc. Tâm tôi tan ra. Không còn
ngôn từ, tên gọi,
ý tưởng nào ở lại – Không có tâm nào hết, quả thế.
Cái gì xảy ra trong giây phút đầy
kinh ngạc ấy? Những
ý niệm quá khứ đã chết, tương lai chưa đến; dòng
tư tưởng của tôi bị cắt ngang đột ngột. Trong cú sốc đó một khoảng trống mở ra,
trong khoảng trống ấy chỉ có một
giác tính tuần túy trực tiếp về
hiện tại, một cái gì
hoàn toàn vượt ngoài mọi
bám víu chấp thủ.
Giác tính ấy
đơn giản, sơ nguyên và căn để. Tuy vậy sự giản
đơn thuần túy đó cũng tỏa sáng đầy sự ấm áp của một niềm bi mẫn
bao la.
Biết bao nhiêu điều tôi có thể nói về giây phút ấy! Thầy tôi
rõ ràng đang đặt cho tôi một câu hỏi, nhưng tôi biết thầy không chờ đợi một câu
trả lời. Tôi chưa săn tìm
giải đáp thì đã thấy rằng không có
giải đáp nào có thể
tìm kiếm. Tôi ngồi thộn ra trong
kinh ngạc, nhưng trong khi ấy một
niềm tin vững chắc sâu xa sáng chói tôi chưa từng biết đến, đang dâng tràn trong tôi.
Thầy tôi đã hỏi: “Tâm là gì?” và vào
lúc ấy tôi tưởng chừng ai cũng biết rằng, không có chuyện có
hiện hữu một cái tâm nào cả, làm sao tôi có thể
tìm ra. Vậy, dường như đi tìm tâm thực là
phi lý.
Sự khai thị của thầy tôi đã gieo một
hạt giống sâu xa trong tôi. Về sau tôi mới biết đấy là
phương pháp khai thị được dùng trong
truyền thống chúng tôi.
Tuy nhiên, vì lúc đó tôi không biết, mà những gì xảy ra có vẻ
hoàn toàn bất ngờ, và do đó càng
kinh hoàng mãnh liệt.
Trong
truyền thống chúng tôi có “ba chân xác” cần hội đủ để khai thị
bản tâm:
· Sự làm phép của một bậc thầy chân xác,
· Lòng
sùng tín của một
đệ tử chân xác, và
· Tính
chính thống trong
phương pháp khai thị.
Tổng thống Mỹ không thể khai thị
bản tâm cho bạn, mà cha hay mẹ bạn cũng không thể làm việc đó. Một người có
quyền thế đến bao nhiêu cũng không
ăn thua gì, hoặc họ có yêu mến bạn bao nhiêu cũng không
ăn thua gì. Việc khai thị chỉ có thể được
thực hiện bởi một người đã
hoàn toàn thực chứng, và có sự ban phép và
kinh nghiệm thuộc trong hệ phái
truyền thừa.
Và bạn, người học trò, phải
tìm ra và luôn hàm dưỡng cái
tri kiến khoáng đạt
thênh thang ấy, niềm hăng say, nhiệt tình và sự
tôn trọng nó sẽ làm
biến đổi cả bầu không khí trong tâm bạn, làm bạn sẵn sàng đón nhận sự khai thị. Đây là điều mà ta gọi là lòng
sùng tín.
Nếu không có lòng
sùng tín, thì thầy có khai thị trò cũng không
nhận ra. Sự khai thị
bản tâm chỉ có thể
thực hiện khi cả thầy lẫn trò cùng
thể nhập cái
kinh nghiệm ấy; chỉ trong sự giao cảm giữa tâm và trí ấy, người
môn sinh mới trực ngộ được.
Phương pháp khai thị cũng
vô cùng quan trọng. Chính
phương pháp ấy đã được thử nghiệm qua hàng ngàn năm và đã giúp cho những bậc thầy trong
quá khứ đạt đến thực chứng. Khi thầy tôi khai thị cho tôi một cách
tự nhiên như thế, vào lúc tuổi còn bé như thế, là thầy đã làm một việc
hoàn toàn bất thường. Thông thường thì việc khai thị xảy ra muộn hơn nhiều, khi
đệ tử đã
trải qua những
thực tập thiền định và thanh luyện tâm ý. Chính những
việc làm này khiến cho
tâm trí người
đệ tử thuần thục và có thể mở ra để đón nhận
tri kiến trực tiếp về
chân lý. Vào cái thời điểm đầy tiềm năng của sự khai thị, bậc thầy có thể truyền cái
tâm giác ngộ của mình vào trong tâm của người
đệ tử bấy giờ đã chân xác sẵn sàng đón nhận. Bậc thầy làm cái việc khai thị cho trò thấy Phật thật là gì, nói cách khác là
đánh thức trò thấy sự
hiện diện sống động của
tuệ giác nội tâm. Trong
kinh nghiệm ấy, thì Phật,
bản tâm của người
đệ tử, và
tâm giác ngộ của bậc thầy tan hòa thành một. Khi ấy người học trò
nhận ra, trong một niềm
tri ân vô bờ bến, rằng không còn
nghi ngờ gì nữa, giữa thầy và trò, giữa
tâm giác ngộ của bậc thầy và
bản tâm người
đệ tử, không có và
chưa bao giờ có sự ngăn cách nào cả. Dudjom Rinpoche trong bài ca
chứng đạo nổi tiếng của ngài đã viết:
-
Tuệ giác về cái bây giờ chính là Phật thật,
Trong tâm trạng cởi mở,
hài lòng, tôi gặp Thầy trong tim tôi. Khi ta nhận chân được rằng cái tâm bản nhiên bất tận đó chính là Thầy.
Thì không cần
bám víu,
chấp thủ,
cầu khẩn khóc than.
Chỉ cần
an trú thoải mái trong
trạng thái tự nhiên như nhiên ấy,
Là ta có được
phúc lạc của
giải thoát.
Khi bạn đã nhận chân toàn triệt rằng
tự tính của tâm bạn cũng giống như của thầy, thì từ đấy trở đi bạn và thầy không bao giờ ngăn cách vì thầy là một với tâm bản nhiên của bạn, luôn luôn
hiện tiền. Có lẽ bạn còn nhớ Lama Tseten (Chương một), khi sắp chết và được hỏi có muốn gọi bậc thầy đến bên giường không, ông đã
trả lời:
- Với bậc thầy, không có cái gì gọi là ngăn cách.
Khi nào bạn thấy được như Lama Tseten rằng thầy và mình không từng
xa nhau, thì một niềm
tri ân vô bờ bến, một cảm thức úy phục và
kính lễ nảy sinh trong bạn. Dudjom Rinpoche gọi đó là “Sự
kính lễ của
Tri kiến.” Đó là một niềm
sùng kính luôn phát
tự nhiên do ngộ được cái
Tri kiến về
bản tâm.
Đối với tôi, còn có nhiều lần
nhập môn khác nữa:
Nhập môn về
giáo lý và
quán đảnh, và về sau tôi được sự khai thị của nhiều thầy khác. Sau khi Jamyang Khientse
viên tịch, Dudjom Rinpoche chăm sóc tôi, bao bọc tôi trong
tình thương mến của ngài, và tôi làm người thông dịch cho ngài trong nhiều năm. Việc này mở ra một giai đoạn mới
trong đời tôi.
Dudjom Rinpoche là một trong những bậc thầy
mật tông nổi tiếng của
Tây Tạng, một
học giả,
tác giả nổi tiếng. Thầy Jamyang Khientse tôi thường
ca tụng Dudjom, nói ngài là một
đại diện sống động của Padmasambhava trong
thời đại này. Bởi thế tôi rất
kính trọng ngài, mặc dù chưa từng
tiếp kiến cũng chưa được nghe ngài giảng dạy. Một hôm, sau khi thầy tôi đã chết, vào lúc tôi chừng hai mươi mấy tuổi, tôi đến viếng Dudjom Rinpoche tại nhà riêng của ngài ở Kalimpong, trên một ngọn đồi thuộc
dãy núi tuyết.
Khi
tới nơi, tôi thấy một trong những
đệ tử Mỹ đầu tiên của ngài đang
thọ giáo. Bà ta đang khổ sở vì không có người nào biết đủ Anh ngữ để dịch những lời dạy về
tự tánh của tâm. Khi thấy tôi
đi vào, Dudjom Rinpoche nói:
- Ồ! Có con đây rồi. Tốt. Con có thể thông dịch giùm bà ấy không?
Thế là tôi ngồi xuống và khởi sự dịch. Ngày trong một
thời gian giảng dạy chừng một tiếng đồng hồ, ngài đã cho một bài pháp
tuyệt diệu, bao trùm tất cả mọi sự. Tôi xúc cảm và phấn chấn đến độ mắt tôi rớm lệ. Tôi
nhận ra đây là điều mà Jamyang Khientse muốn nói.
Ngay sau đó, tôi
thỉnh cầu ngài chỉ giáo cho tôi. Tôi thường đến tư thất ngài mỗi chiều và ở đó vài giờ. Ngài có vóc người nhỏ thó, gương mặt đẹp
hiền từ, đôi bàn tay
tuyệt vời, và một dáng dấp
mảnh mai gần như
phụ nữ. Ngài để tóc dài bới cao lên như một
hành giả Du già; Mắt ngài luôn ánh lên một niềm
thích thú huyền bí. Giọng nói ngài dường như chính là tiếng nói của tâm
đại bi, êm và hơi khàn. Ngài thường ngồi trên một ghế thấp trải thảm
Tây Tạng, tôi ngồi dưới chân ngài. Tôi luôn nhớ lại
hình ảnh ngài ngồi đó, bóng trời chiều chiếu qua khung cửa sổ sau lưng ngài.
Rồi một hôm trong khi tôi đang
thụ giáo và
thực tập với ngài, tôi có một
kinh nghiệm kỳ lạ nhất. Mọi sự mà tôi đã từng nghe trong
giáo lý mật tông dường như đang xảy đến với tôi – tất cả những
hiện tượng vật chất quanh
chúng tôi đang tan biến – tôi
sung sướng ấp úng:
- Thầy, thầy... Nó đang xảy ra!
Tôi không bao giờ quên được vẻ bi mẫn trên gương mặt thầy, khi thầy cúi xuống
vỗ về:
- Được, được. Đừng có náo nức quá. Chung quy, điều ấy không tốt cũng không xấu...
Sự
kinh ngạc và
sung sướng bắt đầu cuốn hút tôi đi, nhưng Dudjom Rinpoche biết rằng mặc dù những
thực chứng có thể là những cái mốc hữu ích trên đường
tu thiền định, chúng cũng có thể thành những cái bẫy nếu có sự
bám víu xen vào. Ta
cần phải vượt qua kinh nghiệm ấy để
đi vào một nền tảng
sâu xa vững chắc hơn: Những lời minh triết của thầy để đưa tôi đến cái nền tảng ấy.
Dudjom Rinpoche còn giúp tôi
thực chứng nhiều lần
bản chất của tâm qua những
lời dạy của thầy, chính những danh từ cũng đã nhen nhúm lên những
tia sáng về
kinh nghiệm thực. Trong nhiều năm, mỗi ngày ngài thường chỉ giáo cho tôi về
bản tính tự nhiên của tâm mà người ta gọi là
giáo lý “trực chỉ” (pointing-out instructions). Mặc dù tôi đã thụ huấn tất cả những gì thiết yếu từ nơi thầy Jamyang tôi, nhưng đó chỉ như mới gieo hạt. Chính Dudjom là người đã tưới tẩm chăm bón làm cho nó đơm hoa. Và khi tôi khởi sự ra giảng dạy, thì chính tấm gương thầy Dudjom đã gợi
cảm hứng cho tôi nhiều nhất.
TÂM VÀ
TỰ TÍNH CỦA TÂM
Cái thấy thực “cách mạng” trong
Phật giáo là, sự sống và chết ở ngay trong tâm, không đâu khác. Tâm được
xem như nền tảng phổ quát của
kinh nghiệm - kẻ
sáng tạo ra
hạnh phúc và
đau khổ, kẻ
sáng tạo ra cái ta gọi là sự sống và cái ta gọi là sự chết.
Có nhiều
phương diện của tâm, nhưng có hai
phương diện nổi bật hơn cả. Đầu tiên là cái tâm thông thường mà người
Tây Tạng gọi là sem. Một bậc thầy đã định nghĩa:
- Đó là cái tâm có khả năng
phân biệt, có
ý thức về
nhị nguyên - hoặc lấy hoặc bỏ một đối tượng ngoài – đó là tâm. Đó là cái có thể
giao thiệp với một cái “khác”, bất cứ cái gì khác, được xem là
sở tri (bị biết) khác với cái năng tri (người biết). Sem là cái tâm
suy nghĩ, tâm
nhị nguyên,
phân biệt, chỉ có thể
vận hành tương quan với một điểm quy chiếu ở ngoài, bị
nhận lầm và chỉ là một cái bóng được chiếu ra.
Vậy Sem là cái tâm
suy nghĩ, đặt
kế hoạch,
ham muốn,
vận động, cái tâm bừng lên trong
cơn giận dữ, tạo ra và say mê trong những đợt sóng
tư duy và
cảm xúc tiêu cực, cái tâm cứ luôn luôn phải
tiếp tục quả quyết,
đánh giá, và xác định lại
hiện hữu của nó bằng cách cắt xén, đặt tên,
củng cố kinh nghiệm. Tâm thông thường là miếng mồi
thụ động di chuyển không ngừng theo những
ảnh hưởng bên ngoài, theo những khuynh hướng tập quán và
điều kiện: Những bậc thầy ví nó với một
ngọn đèn cầy đặt trước gió, phải bị lay động bởi tất cả những ngọn gió của
hoàn cảnh.
Nhìn từ một góc cạnh, thì sem là lay động, không dừng trụ,
chấp thủ, luôn luôn xía vô việc của người khác;
năng lực nó bị tiêu hao do chiếu ra ngoài quá nhiều. Đôi khi tôi vì nó như hột đậu nhảy của xứ Mexico hay một con khỉ không ngừng nhảy chuyền cành. Tuy vậy nhìn một cách khác, thì tâm thông
thường có một tính cố định
cùn nhụt giả tạm, một tính trơ lì tự về và tự mãn, một sự bình thản
lạnh lùng của
thói quen ăn sâu. Sem
láu cá như một chính
trị gia quỷ quyệt,
hoài nghi, nhiều muu mô lừa dối, và “tinh vi với những trò lừa gạt,” Jamyang Khientse đã viết. Chính trong
kinh nghiệm của sem, cái tâm hỗn mang vô
trật tự này mà
chúng ta chịu những đổi thay và chết chóc.
Nhưng còn có
bản tính tự nhiên của tâm,
tính chất sâu xa của nó, cái
tuyệt đối không dính tới đổi thay và chết chóc.
Hiện giờ nó đang ẩn trong tâm sem thông thường của ta, bị bao phủ và che mờ bởi những huyên náo rộn ràng trong tâm, những
ý nghĩ và
cảm xúc. Cũng như mây có thể bị luồng gió mạnh thổi tan, để lộ
mặt trời sáng chói và bầu trời rộng mở,
cũng thế, trong vài
trường hợp đặc biệt, một
cảm hứng nào đó có thể vén mở cho ta hé thấy
bản tính tự nhiên ấy của tâm. Những sự hé thấy này có nhiều mức độ cạn sâu, song đều đem lại cho ta một ít
tuệ giác,
ý nghĩa và
giải thoát tự do. Bởi vì
bản tính tự nhiên này của tâm chính là gốc rễ của
trí tuệ. Tạng ngữ gọi nó là Rigpa, một sự
tỉnh giác trong sáng nguyên ủy có
tính chất thông minh, biết
nhận thức, sáng chói và luôn luôn
tỉnh thức. Có thể nói nó là cái biết của chính cái biết.
Đừng tưởng lầm
bản chất tự nhiên của tâm chỉ có trong tâm ta mà thôi. Kì thực nó là
bản chất của mọi sự vật. Điều cần nói là,
trực nhận bản tính tự nhiên của tâm cũng chính là
trực nhận bản tính tự nhiên của mọi sự vật.
Những bậc thánh và
hành giả huyền học trong lịch sử thường nói về sự
chứng ngộ của họ bằng những tên khác nhau, khoác cho nó nhiều bộ mặt khác nhau, lối
giải thích khác nhau, nhưng tất cả đều
kinh nghiệm một điều
căn bản là
bản tính thuần túy của tâm. Người Ki tô và
Do thái giáo gọi nó là
Thượng đế; Ấn giáo gọi là
Đại ngã, Shiva, Brahman và Vishnu; những nhà
thần bí Sufi gọi nó là “Tính chất ẩn nấp;” còn
Phật tử thì gọi là “Phật tính.”
Trọng tâm của mọi
tôn giáo là niềm xác tín rằng có một
chân lý căn để, và
đời sống là một cơ hội
thiêng liêng để
tiến hóa và
thực chứng chân lý ấy.
Khi ta nói Phật, ta
tự nhiên nghĩ đến
thái tử xứ Ấn Gotama Siddhartha đạt
giác ngộ vào thế kỷ thứ sáu trước tây lịch, người đã giảng dạy
con đường tâm linh mà hàng triệu người khắp Á châu noi theo, ngày nay gọi là
Phật giáo.
Tuy nhiên danh từ Buddha có một
ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó có nghĩa là một
con người, bất cứ người nào, đã
hoàn toàn thức dậy từ giấc ngủ
vô minh và mở mang tiềm năng
trí tuệ bao la của mình. Một
đức Phật là một người đã
chấm dứt đau khổ và
bất mãn, đã
tìm ra một niềm
bình an,
hạnh phúc dài lâu bất tận.
Nhưng đối với nhiều người trong
thời đại hoài nghi này, thì
trạng thái ấy có vẻ như một điều huyễn hoặc, mộng mị, hay một sự
thành tựu hoàn toàn vượt ngoài tâm
chúng ta. Điều quan trọng nên nhớ là,
đức Phật đã từng là một
con người như bạn và tôi. Ngài chưa từng
tuyên bố là
thần thánh gì cả, ngài chỉ biết ngài có
Phật tính,
hạt giống của
giác ngộ, và
mọi người cũng đều có.
Phật tính là quyền sống của mọi
chúng sinh, và tôi thường nói rằng
Phật tính nơi
chúng ta cũng tốt như
Phật tính nơi bất cứ
đức Phật nào. Đấy là
tin lành mà
đức Phật mang lại cho
chúng ta từ khi ngài
giác ngộ tại
bồ đề tràng, nơi mà nhiều người sau đã
tìm thấy nguồn
cảm hứng thiêng liêng.
Thông điệp của ngài, đem lại cho ta một
hy vọng tràn trề. Nhờ luyện tập,
chúng ta cũng có
thể đạt đến sự
tỉnh thức. Nếu điều này không đúng, thì
vô số người tư xưa
cho đến ngày nay đã không
giác ngộ.
Tương truyền khi Phật mới đạt
giác ngộ, điều
duy nhất ngài muốn làm là chỉ cho tất cả
chúng ta tự tính của tâm, san sẻ cho ta những gì ngài đã trực ngộ. Nhưng ngài cũng thấy, với nỗi đau buồn và
lòng bi mẫn bao la - rằng thật khó mà làm cho
chúng ta hiểu được.
Vì mặc dù ta cũng có
tự tánh của tâm như Phật,
chúng ta không
nhận ra nó được vì nó bị gói kín, bao trùm trong những cái tâm thông thường
phàm tục của ta. Hãy tưởng tượng một cái bình trống. Khoảng không trong bình cũng
giống hệt như khoảng không bên ngoài. Chỉ có những bức thành
mong manh của cái bình đã ngăn cách
không gian bên trong với bên ngoài.
Tâm Phật trong ta bị vây kín trong những bức thành của tâm thông tục. Nhưng khi ta
giác ngộ, thì cũng giống như cái bình
vỡ tan thành mảnh vụn. Khoảng
không gian “bên trong” liền tan hòa ngay vào
không gian “bên ngoài”. Cả hai
trở thành một: Ngay lúc đó và tại chỗ đó, ta
trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác; chúng vẫn luôn luôn là một.
BẦU TRỜI VÀ NHỮNG
ĐÁM MÂY Bởi thể, dù đời ta có thế nào đi nữa,
Phật tính của ta cũng luôn luôn ở đấy. Và nó luôn luôn toàn hảo. Ngay cả chư Phật với
trí tuệ vô biên cũng không thể làm cho nó
tốt hơn được, và
chúng sinh với tất cả
vô minh có vẻ bất tận, cũng không thể làm cho nó lấm lem. Tính bản nhiên của
chúng ta có thể
ví như bầu trời, và sự
mờ mịt của tâm thông tục giống như mây. Có những ngày bầu trời
hoàn toàn bị mây phủ kín. Khi ấy nếu nằm xuống đất mà nhìn lên, thì ta thực khó mà tin nổi
trên trời còn có cái gì khác
ngoài ra mây. Nhưng chỉ cần bay trong một chiếc phi cơ ta sẽ thấy tít trên cao xa nữa là một vùng trời xanh trong
bao la vô tận. Từ đấy mà nhìn xuống thì thấy những
đám mây – mà khi ở
dưới đất, ta tưởng là tất cả mọi sự - thật
xa xăm nhỏ bé làm sao.
Ta phải cố nhớ luôn luôn rằng: Những
đám mây không phải là bầu trời, và không “thuộc về” bầu trời. Chúng chỉ
lơ lửng giữa từng không, và đi qua với kiểu hơi
lố bịch, không
lệ thuộc vào đâu. Nhưng chúng không bao giờ có thể để dấu vết làm lấm lem nền trời.
Vậy thì Phật tính ấy đích thực nằm ở đâu? Nó nằm ngay nơi
tự tính của tâm, cái
tự tính được
ví như bầu trời ấy.
Hoàn toàn cởi mở,
tự do,
vô biên,
Phật tính ấy thực
đơn giản,
tự nhiên như nhiên tới nỗi không bao giờ có thể
trở thành phức tạp, hư hỏng, hay bị
nhiễm ô; nó thuần tịnh tới nỗi vượt ngoài cả
ý niệm dơ sạch. Nhưng nói về
tự tính của tâm
ví như bầu trời ấy chỉ là một
ẩn dụ để giúp ta bắt đầu tưởng tượng được
tính chất vô biên bao trùm tất cả của nó; vì
Phật tính có một
tính chất mà bầu trời không có được, đó là tính sáng chói của
tỉnh thức. Như có câu:
- Đó là cái
giác tính hiện tiền không lỗi nơi bạn, biết
nhận thức mà vẫn trống rỗng, giản đơn mà
sáng suốt.
Dudjom Rinpoche viết:
Không lời nào có thể
mô tả,
Không ví dụ nào để chỉ rõ
Sinh tử không làm nó
xấu hơnNiết bàn không làm nó
tốt hơnNó chưa từng sinh
Nó chưa từng diệt
Chưa từng
giải thoátChưa từng
mê lầmChưa từng có cũng chưa từng không
Nó không có một
giới hạn nào
Không thể xếp nó vào một
phạm trù nào cả.
Nyoshul Khen Rinpoche nói:
Sâu xa vắng lặng, thoát mọi
rắc rốiSáng suốt không do
kết hợp mà thành
Vượt ngoài tâm
phân biệt đặt tên;
Đấy là tâm
sâu xa của những Đấng Chiến thắng.
Trong đó không một vật gì phải vứt ra
Cũng không một vật gì cần thêm vào.
Đấy thuần là cái
vô nhiễmĐang nhìn vào chính nó một cách
tự nhiên.
BỐN LỖI
Tại sao người ta thấy khó, ngay cả cái chuyện nghĩ đến chiều sâu và vẻ sáng chói của
tự tính tâm? Tại sao đối với nhiều người, đấy dường như là một
ý niệm lạ lùng vô lối?
Giáo lý nói đến bốn lỗi
ngăn cản chúng ta không
trực nhận được
bản tâm ngay bây giờ:
1.
Tự tính tâm quá gần gũi đến nỗi ta khó
nhận ra. Cũng như ta không thể nhìn chính cái mặt của mình, tâm cũng thấy rất khó nhìn vào
tự tính của chính nó.
2. Nó quá
sâu xa chúng ta khó dò thấu. Ta không thể biết tâm ta sâu tới mức nào, nếu biết, ta đã ngộ một phần nào
tự tính của nó.
3. Nó quá dễ ta không tin nổi. Điều
duy nhất ta cần làm là
an trú trong sự
tỉnh giác sơ nguyên
thuần túy của
tự tính tâm, cái luôn luôn có mặt
hiện tiền.
4. Nó
quá kỳ tuyệt ta không dung chứa nổi. Nội một
tính chất bao la của nó cũng quá lớn rộng không lọt được vào lối
suy nghĩ hẹp hòi của tâm ta. Ta không thể tin nổi, cũng không thể tưởng tượng nổi rằng
giác ngộ lại là
bản chất thực sự của tâm
chúng ta.
Nếu sự phân tích trên đây về bốn lỗi đã đúng trong nền
văn minh Tây Tạng, một nền
văn minh hầu như dành trọn cho
sự nghiệp giác ngộ, thì nó lại càng đúng xiết bao ở trong nền
văn minh tân tiến hiện nay, một nền
văn minh dành phần lớn cho
sự nghiệp tôn thờ
ảo tưởng. Không bao giờ ở
tây phương có một thông tin tổng quát nào về
bản chất của tâm.
Văn sĩ và những
nhà trí thức chưa từng đề cập tới nó; những
triết gia hiện đại không bàn về nó một cách trực tiếp;
đa số khoa học gia
hoàn toàn phủ nhận sự
hiện hữu của nó. Nó không có chỗ đứng trong
văn hóa nhân gian: Không ai hát ca về nó; không ai nói về trong những vở kịch; nó không có trên truyền hình.
Chúng ta thực sự được
giáo dục để tin rằng không gì có thực
ngoài ra là những cái ta có thể
nhận thức được bằng những
giác quan thông thường của
chúng ta.
Mặc dù sự chối bỏ
toàn diện ấy về
hiện hữu của
tự tính tâm,
chúng ta vẫn
thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được
cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi
thiên nhiên, hoặc bởi một
sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nhìn
mặt trời lên sau
dãy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào phòng. Những giây phút của sự thắp sáng, của
bình an và
hạnh phúc.
Mặc dù sự chối bỏ
toàn diện ấy về
hiện hữu của
tự tính tâm,
chúng ta vẫn
thỉnh thoảng thoáng thấy được nó. Những “thoáng thấy” ấy được
cảm hứng bởi một khúc nhạc hay, bởi
thiên nhiên, hoặc bởi một
sự cố nhỏ nhặt thường ngày. Chúng có thể phát sinh khi ngắm tuyết rơi, hay nhìn
mặt trời lên sau
dãy núi, hay ngắm một tia nắng rơi vào phòng. Những giây phút của sự thắp sáng, của
bình an và
hạnh phúc ấy vẫn thường xảy đến với tất cả
chúng ta và một cách lạ lùng, nó ở lại với
chúng ta.
Tôi nghĩ rằng
chúng ta đôi khi cũng hiểu được
lờ mờ những cái
thoáng thấy ấy, nhưng nền
văn hóa ngày nay không
cung cấp cho ta một bối cảnh nào để có thể hiểu được chúng. Tệ hơn nữa là,
thiên hạ đã không khuyến khích
chúng ta nên
thám hiểm những cái thấy ấy và
đào sâu xem nó từ đâu tới, mà lại còn bảo ta, bằng cách vừa
tinh vi vừa
lộ liễu, phải gạt nó ra ngoài. Không ai sẽ nghe ta một cách nghiêm túc nếu ta cố san sẻ
kinh nghiệm ấy với họ. Bởi thế ta thường tảng lờ những gì có thể thực sự là
kinh nghiệm mặc khải nhất
trong đời ta, nếu ta hiểu được chúng. Đấy có lẽ là khía cạnh
đen tối đáng buồn nhất của
văn minh hiện đại;
Vô minh và
áp chế đối với
sự thật là ai.
NHÌN VÀO TRONG
Giả sử bây giờ ta làm một cuộc thay đổi, ta không nhìn vào một hướng
duy nhất như trước nữa. Ta được dạy phải dành
suốt đời để
theo đuổi những
tư tưởng và
dự phóng của ta. Ngay cả khi nói về “tâm,” thì ta cũng chỉ nói tới những
ý tưởng và
cảm xúc của nó; và khi những nhà
nghiên cứu khảo sát cái mà họ tưởng là tâm, thì họ cũng chỉ nhìn thấy những phóng ảnh của nó. Chưa từng có ai thực sự nhìn vào chính cái tâm, nền tảng từ đó tất cả những
tư tưởng ngôn từ khởi lên, và điều này có những
hậu quả bi thảm. Như Padmasambhava nói:
- Ngay cả khi cái thường gọi là “tâm” được nhiều người bàn tới,
Nó vẫn không được hiểu thấu, hoặc hiểu
sai lạc, một chiều.
Vì
tâm không được hiểu đúng như nó là, trong
bản chất nó,
Cho nên có nhiều
tư tưởng triết học và
lý thuyết ra đời.
Lại vì người, thường không hiểu được tâm.
Nên họ không
nhận ra bản lai diện mục họ
Và
tiếp tục lang thang trong
sáu nẻo luân hồi và
ba cõi hữu mà kinh quá khổ đau.
Bởi thế không hiểu được
bản tâm của bạn là một lỗi rất đáng buồn.
Làm sao
chúng ta có thể lật ngược tình huống? Rất giản dị. Tâm ta chỉ có hai
vị trí: Nhìn ra và nhìn vào.
Nay ta hãy nhìn vào.
Điều khác biệt mà việc
chuyển hướng nhìn ấy đem đến lại có thể rất lớn lao, có thể lật lại những tai ách đang
đè nặng thế giới. Khi có một số lớn người biết được
bản tâm của họ, họ cũng sẽ biết được
bản chất đầy
quang vinh của cái
thế giới trong đó họ sống, và phấn đấu một cách
dũng cảm cấp thiết để
bảo trì nó. Một điều
thú vị là tiếng
Tây Tạng gọi
Phật tử là nangpa là “người ở trong”, nghĩa là người không
tìm kiếm chân lý ở bên ngoài mà tìm trong
bản chất của tâm. Mọi
giáo lý và
thực tập trong
Phật giáo đều dẫn đến một điểm
duy nhất là nhìn vào
tự tính của tâm, và nhờ vậy
giải thoát ta khỏi nỗi
sợ chết và giúp ta nhận chân được
sự thật của
cuộc đời.
Việc nhìn vào trong (
nội quán) đòi hỏi ta phải có sự
tế nhị sâu sắc và đức
can đảm lớn lao - một thay đổi tận gốc trong
thái độ của ta đối với
cuộc đời và
tâm thức.
Chúng ta đã quá ghiền nhìn ra ngoài đến nỗi ta hầu như hoàn tòan mất
liên lạc với
bản thể sâu xa của ta.
Chúng ta sợ phải nhìn vào trong, vì nền
văn hóa chúng ta không cho ta biết một tí gì về những cái ta sẽ tìm gặp.
Chúng ta lại còn nghĩ rằng nếu nhìn vào trong, ta sẽ có nguy cơ bị điên loạn. Điều này là một trong những mánh khóe
cuối cùng,
hiệu lực nhất của
bản ngã để
ngăn cản ta
khám phá bản chất chân thực của mình.
Chúng ta đã làm cho
đời sống trở nên
cuồng nhiệt tới nỗi ta
trừ khử mọi lăm le muốn nhìn vào trong. Cả đến
ý nghĩ “ngồi thiền” cũng làm cho người ta
sợ hãi. Khi nghe nói đến “Không” hay “vô ngã”, họ tưởng là mình phải
trải qua những
trạng thái như bị ném ra khỏi con tàu
vũ trụ để chơi vơi giữa khoảng không lạnh lẽo
âm u.
Thực không gì
sai lạc sự thật hơn thế. Nhưng trong
một thế giới dành trọn cho cuộc
giải trí, thì sự
im lặng và yên lặng làm cho ta
sợ hãi; ta tự bảo về để tránh né chúng bằng sự huyên náo và những công việc rộn ràng. Nhìn vào
bản chất của tâm ta là chuyện chót bẹt mà ta dám làm.
Đôi khi tôi nghĩ rằng
chúng ta không muốn đặt câu hỏi nghiêm túc nào về ta là ai, vì sợ sẽ
khám phá có một
thực tại khác hơn sự thực,
hiện tại này. Sự
khám phá ấy sẽ làm gì với cái kiểu sống của ta bấy lâu nay? Bạn bè,
đồng nghiệp của ta sẽ
phản ứng ra sao trước cái điều mà bây giờ ta mới biết? Kèm theo
hiểu biết là
trách nhiệm. Có đôi khi kẻ tù nhân chọn lựa ở lại, ngay cả khi cánh cửa ngục tù đã được mở tung.
NHỮNG HỨA HẸN CỦA
GIÁC NGỘ Trong
thế giới hiện nay, ít có những mẫu người
thể hiện được những đức tính do sự trực ngộ
bản tâm đem lại. Bởi thế thực khó cho
chúng ta tưởng tượng được
giác ngộ ra sao,
nhận thức của một người đã
giác ngộ là thế nào, huống hồ tin nổi rằng chính mình cũng có thể
giác ngộ.
Mặc dù luôn luôn đề cao
giá trị đời sống và
tự do cá nhân,
xã hội chúng ta kỳ thực xem
chúng ta như những kẻ luôn
bị ám ảnh bởi
quyền lực, tiền và
dục tính, và bất cứ lúc nào cũng
cần phải lôi kéo chú ý của
ta ra khỏi sự chết chóc, hay sự sống
chân thực. Nếu có ai bảo cho ta biết, hay nếu ta bắt đầu “đánh hơi” được tiềm năng
sâu xa của mình, thì ta không thể nào tin nổi chuyện ấy; và khi ta động nghĩ tới
việc làm một cuộc
chuyển hóa tâm linh, ta lại thấy rằng chỉ có những bậc
thánh hiền trong
quá khứ mới làm nổi điều ầy. Đức Dalai Lama thường nói đến sự thiếu niềm tự
tôn trọng, tự thương lấy mình nơi nhiều người trong
thế giới hiện nay. Bên dưới
toàn bộ nhân sinh quan của ta là một sự cả quyết – có
tính cách thần kinh loạn - về những
giới hạn của
chúng ta. Điều ấy làm cho ta mất
hết hy vọng thức tỉnh, và ngược lại với
chân lý trọng tâm của
lời Phật dạy, đó là, tự cốt tủy,
chúng ta vốn
toàn thiện.
Ngay cả khi có thể nghĩ đến chuyện đạt
giác ngộ, thì chỉ cần nhìn vào những gì làm nên cái tâm thường ngày của ta -
giận dữ,
tham lam, ganh tị,
ác ý, bạo tàn, nhục dục,
sợ hãi,
lo lắng,
giao động – cũng đủ làm cho ta không còn
hy vọng gì đạt
giác ngộ, nếu ta không được bảo
cho biết rõ về
tự tính thanh tịnh của tâm, và về khả năng ta
chắc chắn có thể
thực chứng được
tự tính ấy.
Nhưng sự
giác ngộ vốn thực có, và có nhiều bậc thầy đã
giác ngộ hiện còn sống trên trái đất. Khi bạn gặp được một vị như vậy, bạn sẽ
xúc động tận tâm can và sẽ thấy rằng mọi danh từ, như “giác ngộ” và “trí tuệ”, mà lâu nay bạn tưởng chỉ là những
ý niệm, thì ra là có thực. Mặc dù đầy những nguy hiểm,
thế giới nay vẫn là một cõi thật
hấp dẫn.
Tâm thức tây phương đang dần mở ra trước những
tri kiến khác nhau về
thực tại. Những bậc thầy vĩ đại như đức Dalai Lama và Mẹ Teressa có thể được trông thấy trên màn ảnh truyền hình; nhiều bậc thầy
đông phương đang viếng thăm và giảng dạy
giáo lý ở
Tây phương; và những sách vở từ mọi
truyền thống huyền học đang càng ngày càng có nhiều
độc giả.
Tình trạng tuyệt vọng của hành tinh này đang
dần dần đánh thức mọi người tỉnh dậy để thấy sự
cấp thiết phải thay đổi trên một
phạm vi rộng lớn có
tính cách toàn cầu.
Sự
giác ngộ, như tôi đã nói, là có thực, và bất cứ ai trong mỗi
chúng ta cũng có thể, nếu được huấn luyện đúng cách, và gặp đúng “thời tiết nhân duyên”, sẽ
trực nhận được
tự tính tâm và nhờ thế biết được trong ta có cái
bất tử và
vĩnh viễn thuần tịnh. Đấy là sự hứa hẹn trong mọi
truyền thống huyền học của
nhân loại, và nhiều ngàn người đã và đang
thực chứng điều đó.
Điều kỳ diệu của sự hứa hẹn này là, nó không phải là một cái gì thần kỳ,
xa lạ gì cả, nó không phải chỉ dành cho một số ít người xuất sắc được chọn lọc, mà dành cho
toàn thể loài người; và khi
trực nhận được
bản tâm, thì thấy như lời các
thiền sư bảo, nó
bình thường một cách kỳ lạ.
Chân lý về
tâm không phải là một cái gì
rắc rối bí truyền, nó kỳ thực là
lương tri sâu xa. Khi ta trực ngộ
bản tâm, thì những tầng lớp
mê lầm rơi rụng. Thực sự không phải là bạn “thành” Phật, mà bạn chỉ có
chấm dứt mê hoặc, hết bị
ảo tưởng lừa dối. Và
thành Phật không có nghĩa là thành một
siêu nhân có nhiều
quyền năng tâm linh, mà thành một
con người đúng nghĩa.
Một trong những
truyền thống lớn của
Phật giáo Tây Tạng gọi
bản chất của tâm là “trí tuệ của bình thường”. Tôi phải nhắc lại lời này nhiều lần mới được:
Tự tính chân thực của chính ta, với
bản tính của mọi sự vật không phải là một cái gì lạ lùng. Điều
mỉa mai là, chính cái
thế giới mà ta gọi là thường nhật ấy mới thực lạ lùng, một màn
ảo hóa li kỳ
tinh vi của cái thấy
mê lầm trong
sinh tử. Chính cái thấy “lạ lùng” ấy đã làm ta mù mắt đối với
bản tính tự nhiên, “bình thường” của tâm. Hãy thử tưởng tượng những vị Phật đang nhìn xuống
chúng ta: các ngài sẽ
kinh ngạc đau buồn xiết bao để thấy sự khôn lanh chết người, và tính
phức tạp trong cái
vô minh của
chúng ta.
Đôi khi, chính vì ta vẫn thường
rắc rối một cách không
cần thiết, mà khi được một bậc thầy khai thị
bản tâm, ta không thể tin được rằng nó quá
đơn giản như thế. Cái tâm thường ngày của ta bảo ta rằng không thể thế được, phải có cái gì khác hơn thế chứ. Chắc phải “huy hoàng” hơn, phải có nhiều
hào quang xẹt
xung quanh ta, có
chư thiên với đầu tóc vàng óng bay
lả tả từ
trên trời sà xuống gặp ta mà loan tin “Thế là bạn đã được khai thị
bản tâm rồi đấy”.
Hoàn toàn không có cái màn ấy đâu.
Vì trong nền
văn hóa chúng, ta,
chúng ta đã quen
đánh giá tri thức quá cao, nên ta cứ tưởng rằng muốn
giác ngộ thì
cần phải có một
trí thông minh phi thường.
Tây Tạng có một
ngạn ngữ rằng: “Nếu bạn quá
thông minh, bạn có thể hụt mất
hoàn toàn cái cốt tủy.”
Patrul Rinpoche nói:
- Cái tâm duy lý có vẻ hay đấy, nhưng chính nó là
hạt giống của
mê lầm.
Con người có thể
bị ám ảnh bởi chính những
lý thuyết của mình và hụt mất cái cốt tủy trong mọi sự. Ở
Tây Tạng chúng tôi thường nói: “Lý thuyết giống như những miếng vá trên chiếc áo, có ngày cũng phải cũ mòn.”
Tôi xin kể cho bạn nghe một mẫu chuyện
lý thú:
- Một bậc thầy vĩ đại vào thế kỷ trước có một
đệ tử rất ngu đần. Ông đã giảng dạy nhiều lần, cố khai thị cho y trực ngộ
bản tâm, mà y vẫn không ngộ.
Cuối cùng, bậc thầy
nổi giận bảo, “Này, ngươi hãy mang bao lúa mạch này lên trên đỉnh núi xa kia, nhưng không được dừng lại nghỉ. Phải đi
một mạch cho tới đỉnh núi”. Người
đệ tử tuy ngu đần song có lòng
sùng kính và hoàn tòan
tin tưởng nơi thầy, nên đã làm
y như lời thầy dạy. Bao lúa rất nặng, nhưng y vẫn mang lên giốc núi không dám dừng lại nghỉ.
Y cứ đi mãi đi mãi, và cái bao mỗi lúc một năng thêm. Y phải mất một
thời gian dài, và
cuối cùng, khi lên tới đỉnh núi, y thả cái bao ngồi phịch xuống đất,
kiệt sức vì mệt nhọc nhưng bắt đầu thư giãn, nhẹ nhàng. Y
cảm thấy gió núi mát lạnh trên mặt. Tất cả sự trơ lì đối với
giác ngộ nơi y bỗng tan biến, cùng với cái tâm thường ngày của y. Mọi sự dường như ngừng phắt lại. Ngay
lúc ấy, y
thình lình trực ngộ
bản tâm. Y nghĩ, “Ồ, thì ra đây là cái mà thầy đã chỉ cho ta bấy lâu nay”. Y chạy xuống núi
trở về, và
trái với mọi
quy ước thường ngày y đâm sầm vào phòng thầy. “Con nghĩ rằng con đã được nó... Con thực sự đã được nó!” Vị thầy
mỉm cười đầy
cảm thông nhìn y mà nói: “Thế là con đã có một chuyến leo núi
thú vị đấy chứ?”
Ngay cả bạn, bất kể bạn là ai, cũng có thể có cái
kinh nghiệm mà người
môn đệ kia đã gặp trên đỉnh núi, và chính cái
kinh nghiệm ấy sẽ đem lại cho bạn đức tính
vô úy để điều đình với
sống chết. Nhưng gì là cách tốt nhất, nhanh nhất, và
hiệu nghiệm nhất để
khởi hành đi tìm nó?
Bước đầu tiên là
thực tập thiền định. Chính
thiền định dần dần thanh lọc cái tâm thường ngày, lột mặt nạ nó, làm cho
kiệt quệ những
ảo tưởng và tập quán của nó, để
chúng ta có thể, vào đúng
thời tiết,
trực nhận ra ta là ai.