PHẦN BỐN : TỔNG KẾT
22 SỨ GIẢ HOÀ BÌNH
Một trong những học viện lâu nhất đã
theo dõi sự hình thành quyển sách này trong bao nhiêu năm,
mới đây đã hỏi tôi : “Thầy thực sự mong muốn điều gì
sâu xa nhất qua quyển sách này, khi nó được xuất bản ?” . Khi đó trong tâm tôi
hiện lên hình ảnh Lama Tseten, mà lúc còn bé tôi đã
chứng kiến cái chết của ngài trong tư thái hài hòa
an tịnh. Tôi buộc miệng nói : “Tôi muốn
mọi người đừng sợ chết, hay cũng
đừng sợ sống. Tôi muốn
mọi người chết trong
thanh thản, được vây quanh bởi sự chăm sóc
thông minh sáng suốt nhất, nhẹ nhàng nhất, và tìm được niềm
hạnh phúc tối hậu nhờ thấu hiểu
thực chất,
tự tánh của tâm và của thực tại”.
Thomas Merton viết : “Chúng ta có được cái gì, dù có thể lên đến cung trăng, nếu ta không
vượt qua được hố thẳm ngăn cách giữa
chúng ta ? Đây mới là cuộc
du hành quan trọng nhất trong các cuộc
du hành để
khám phá, mà
nếu không có nó, thì tất cả mọi chuyện khác không những
vô ích, mà còn tai hại”. (Minh triết của Sa mạc, 90).
Chúng ta dùng hàng triệu Mỹ kim mỗi phút vào việc huấn luyện
con người giết nhau và
phá hoại, vào bom đạn và phi cơ chiến đấu. Nhưng trong khi ấy
chúng ta gần
như không tốn đồng nào vào việc
giáo dục con người về
bản chất cuộc đời và cái chết, vào việc giúp đỡ họ đối mặt và hiểu thấu những gì xảy ra khi họ chết. Tình huống này thực đáng buồn, đáng
kinh hãi xiết bao, và nó thực đã cho ta thấy
chúng ta vô minh đến mức nào, ta thiếu
tình thương chân thật đối với chính mình và người khác đến mức nào. Hơn bất cứ gì khác, tôi
cầu nguyện rằng sánh này có thể góp
một phần nhỏ vào sự thay đổi
tình trạng này trên
thế giới, có thể
thức tỉnh càng nhiều người càng tốt, làm cho họ chú ý tính
cấp thiết của nhu cầu
chuyển hóa tâm linh, tính
cấp thiết của
trách nhiệm đối với tự thân và
tha nhân. Tất cả
chúng ta đều có tiềm năng
thành Phật, và đều mong muốn sống
an ổn và chết
an ổn. Khi nào thì
nhân loại mới thực sự thấu hiểu điều này, thực sự
kiến tạo một
xã hội phản ảnh được
trí tuệ đơn giản mà
thiêng liêng ấy trong tất cả lĩnh vực
hoạt động của nó ?
Nếu không có điều ấy, thì
cuộc đời có
giá trị gì ?
Nếu không có điều ấy, làm sao ta chết
thoải mái được ?
Điều tối quan trọng bây giờ là một
tri kiến sáng suốt về sự chết cần được đưa vào trong
thế giới ở mọi tầng lớp
giáo dục. Trẻ con không nên được “che chở” cho khỏi thấy chết chóc, mà phải được khai thị, lúc chúng còn nhỏ, cho thấy
bản chất thực của cái chết và những gì họ có thể học được từ cái chết. Tại sao ta không khải thị
tri kiến này trong những
hình thức đơn giản nhất của nó, cho tất cả mọi nhóm tuổi ?
Tri kiến về cái chết, về sự làm thế nào để giúp đỡ người sắp chết, về
bản chất tâm linh của sự chết, cần được
truyền thông cho tất cả tầng lớp
xã hội ;
tri kiến ấy cần được dạy tại các trường và phân khoa
đại học đủ loại ; và quan trọng nhất, tại các bệnh viện có huấn luyện cho
bác sĩ và y tá điều dưỡng bệnh nhân sắp chết, những người có
trách nhiệm đối với bệnh nhân.
Làm sao bạn có thể là một
bác sĩ giỏi thực sự, khi bạn không có
ít nhất vài
tri kiến về
sự thật của cái chết ? Làm sao bạn có thể thực sự giúp đỡ
tâm linh người bệnh sắp chết của bạn ? Làm sao bạn có thể là một y tá giỏi, nếu bạn không khởi sự
đối diện với chính nỗi
sợ chết của mình, và do đó không có gì để nói với những người hấp hối khi họ hỏi bạn, nhờ bạn
chỉ dẫn ? Tôi biết có nhiều
bác sĩ, y tá có
thiện ý, những người có tính
phóng khoáng chân thành mở lòng ra mà đón nhận những
tư tưởng mới, cách làm mới. Tôi
cầu nguyện cách này sẽ đem lại cho họ
can đảm và
sức mạnh mà họ cần có để giúp các cơ sở của họ
thẩm thấu những bài học của
giáo lý Trung Ấm này, và
áp dụng.
Phải chăng đã đến lúc nghề nghiệp y khoa nên hiểu rằng sự
tìm tòi chân lý về
sống chết, và việc chữa bệnh vốn là hai chuyện không thể tách rời ? Điều tôi
hy vọng từ quyển sách này là nó sẽ giúp
mọi người khắp nơi,
thảo luận về những gì có thể làm được cho người sắp chết, và những
điều kiện tốt nhất để làm việc ấy. Một cuộc
cách mạng tâm linh và
thực tiễn trong việc huấn luyện
bác sĩ và y tá, để chăm sóc bệnh nhân và đối xử với cái chết của họ, là điều quan yếu
cấp thiết. Tôi
hy vọng sách này sẽ là một đóng góp nhỏ mọn cho công việc ấy.
Tôi đã nhiều lần
ca tụng công trình tiên phong đang được
thực hiện trong
phong trào Tiếp dẫn đường.
Ít nhất tại đấy
chúng ta thấy người chết được đối xử với sự
kính trọng mà họ đáng được. Tôi muốn nói lên ở đây một lời
thỉnh cầu tha thiết đến tất cả các nền cai trị trên
thế giới, rằng họ nên khuyến khích
sự tạo lập những
Tiếp dẫn đường, tài trợ cho
công trình này càng nhiều càng tốt.
Tôi có
ý định cống hiến quyển sách này làm nền tảng cho nhiều loại
chương trình huấn luyện khác nhau, những người thuộc đủ loại ngành nghề, mà nhất là những người quan hệ
mật thiết đến việc
săn sóc người chết :
gia đình,
bác sĩ, y tá,
tu sĩ thuộc mọi
giáo phái,
cố vấn tinh thần, các nhà chữa bệnh
tâm lý và những
nhà tâm lý học.
Có cả một kho tàng
tuệ giác y khoa trong
Phật giáo Tây Tạng cũng như những
tiên tri của Padmasambhava
liên hệ chi tiết đến những chứng bệnh của
thời đại này. Tôi
cực lực kêu gọi nên đổ tiền bạc vào
công trình nghiên cứu nghiêm túc về những lời dạy đáng
ngạc nhiên ấy. Biết đâu người ta không
tìm ra được từ đấy những
phương pháp chữa những bệnh ngặt nghèo, như Sida và ung thư, và những chứng chưa
xuất hiện, và làm
giảm thiểu tính chất kinh khủng của nó ?
Tôi
hy vọng gì từ quyển sách này ?
Hy vọng gợi
cảm hứng cho một cuộc
cách mạng êm thấm trong
toàn thể lối nhìn của ta về sự chết và
săn sóc người sắp chết, cũng như lối nhìn của
chúng ta về sự sống và
săn sóc người sống.
***
Trong khi quyển sách này đang được viết ra, thì bậc thầy vĩ đại của tôi, Dilgo Khientse Rinpoche từ giã thân xác vào thứ sáu, ngày 27 tháng 9 năm 1991, ở Thimphu, Bhutan. Ngài đã 82 tuổi, và đã dành
suốt đời giúp đỡ tất cả
mọi người. Ai đã từng trông thấy ngài mà quên ngài được ? Ngài như núi tuyết sáng chói, sự hùng vĩ của ngài đã lan tràn
nếu không có niềm
an tịnh sâu xa luôn
tỏa ra từ nơi ngài, cùng với tính hài hước
tự nhiên và
tâm hỷ lạc, những dấu hiệu của
thực chứng. Với tôi và nhiều người khác, ngài là bậc thầy có tầm cỡ của Milarepa, của Longchenpa, của Padmasambhava, và ngay cả của
đức Phật. Khi ngài qua đời, thì như
mặt trời lặn mất, để lại đêm tối đen dày, và cả một
thời đại huy hoàng của nền học
tâm linh Tây Tạng đã
cáo chung. Dù tương lai có đem gì lại cho
chúng ta, tôi
chắc chắn không ai trong
chúng ta sẽ còn gặp được người nào như ngài. Chỉ cần nhìn thấy ngài
một lần dù trong giây lát, là cũng đã gieo trong bạn một
hạt giống giải thoát mà không có gì sẽ
phá hủy được, và sẽ có ngày
hạt giống ấy đi đến kết nhụy đơm bông.
Có nhiều dấu hiệu kỳ lạ trước và sau khi Dilgo Khientse Rinpoche chết,
chứng tỏ tầm mức vĩ đại của ngài, nhưng cái điềm làm cho tôi
kinh hãi nhất thì xảy ra cách xa bốn ngàn dặm Anh, ở miền Nam nước Pháp, tại một nơi gọi là Lerab Ling, gần Montpellier, nơi này sẽ được hiến cúng để
thành lập một
trung tâm nhập thất dưới
ân đức của ngài. Xin để cho một trong những học trò tôi đang sống và làm việc tại
trung tâm kể cho bạn nghe những gì đã xảy đến :
“Sáng hôm ấy bầu trời tối lâu hơn thường lệ, và dấu hiệu đầu tiên của bình minh là một đường dài màu đỏ thật sâu ở chân trời xa.
Chúng tôi sắp xuống phố, và khi
đến gần chót đỉnh
con đường của
chúng tôi, cái lều vải dựng tạm làm chỗ thờ, nơi sẽ xây
chánh điện,
hiện ra trên đỉnh đồi bên phải
chúng tôi.
Thình lình một chùm
tia sáng mặt trời thật sắc, xoáy vào ánh sáng mờ ban mai và chiếu ngay vào cái lều trắng, làm nó sáng lên
rực rỡ.
Chúng tôi vẫn
tiếp tục đi, và khi
tới gần khúc quanh để xuống phố, một cái gì
thúc đẩy chúng tôi nhìn lại ngôi lều. Bây giờ trời đã sáng.
Chúng tôi kinh ngạc. Một ráng cầu vồng trải dài khắp thung lũng, màu sắc nó sáng chói,
sống động, đến nỗi ta như có thể với tay ra mà sờ được. Nó vươn lên từ chân trời phía trái
chúng tôi, làm thành một vòng cung bắc ngang bầu trời. Điều
mầu nhiệm là không có dấu hiệu gì là sắp mưa cả, chỉ có cái ráng cầu vồng
xuất hiện linh động,
rực rỡ nổi bật trên nền trời trống trải
mênh mông. Chỉ đến chiều hôm sau đó
chúng tôi mới biết tin đấy chính là ngày mà Dilgo Khientse Rinpoche từ trần ở Bhutan. Tất cả
chúng tôi đều
cảm thấy chắc chắn rằng cầu vồng ấy là dấu hiệu ngài đã
ban phước xuống cho tất cả, và cho vùng đất Lerab Ling”.
Khi
đức Phật nằm
niết bàn trong một khu rừng ở Kushinagara (
Câu thi na)
xung quanh có 500
đệ tử, Ngài đã dạy những lời
cuối cùng : “Tất cả
pháp hữu vi đã
sinh thành đều sẽ phải
hoại diệt, tan rã. Các con hãy
nỗ lực tinh tiến đạt đến sự toàn thiện” . Những lời dạy ấy vẫn thường
trở lại với tôi từ khi thầy Dilgo tôi từ trần. Có lời dạy nào sâu sắc về
vô thường hơn cái chết của một bậc
đạo sư tối thượng, đã từng như là cột trụ của
thế gian ? Cái chết ấy làm cho
chúng tôi, những người biết ngài, những
đệ tử của ngài,
cảm thấy bơ vơ, bị ném
trở lại chính mình. Bây giờ
chúng ta phải tự mình
tiếp tục tiến lên và cố
hết sức mình để
thể hiện truyền thống giáo lý mà ngài đã
đại diện một cách cao cả.
Chúng ta phải tự mình làm những gì mà
đệ tử Phật đã làm, khi bị bỏ lại trên
thế gian này, không còn được ánh
sáng trí tuệ của ngài
dìu dắt : đó là “hãy
nỗ lực tinh tiến để
đạt đến toàn thiện” .
Cái cầu vồng bắc qua bầu trời nước Pháp, ở thung lũng Lerab Ling là một điềm triệu Dilgo Khientse Rinpoche đang
ban phước và sẽ
tiếp tục ban phước cho toàn
thế giới. Khi đã
thoát khỏi thân xác, ngài sống trong
thế giới huy hoàng vượt ngoài thời - không của
Pháp thân, có
năng lực như những bậc đã
giác ngộ, là có thể giúp đỡ
chúng sanh không hạn cuộc. Hãy
tin tưởng ở sự
chứng đắc của ngài, và kêu cầu ngài với tất cả
lòng thành, thì bạn sẽ thấy ngài ở bên bạn tức khắc. Làm sao ngài, người
yêu thương tất cả
chúng sanh với tình yêu toàn hảo như vậy, có thể
bỏ rơi chúng ta được ? Và ngài sẽ đi đâu,
con người đã nhập làm một với tất cả ấy ?
Thật
may mắn cho
chúng ta, rằng một bậc thầy như ngài, nhập thể của
truyền thống Tây Tạng, đã ở với
chúng ta 30 năm nay sau khi xứ sở
Tây Tạng bị
diệt vong. Ngài đã giảng dạy trong vùng
Hy Mã Lạp Sơn,
Ấn Độ, Âu châu, Á châu và Hoa Kỳ.
Chúng ta thực
may mắn làm sao đã có được hàng trăm giờ thu băng giọng nói và lời dạy của ngài, nhiều băng hình ghi lại vài nét hùng vĩ của sự
hiện diện ngài, một vài phần của dòng thác
từ tâm giác ngộ của ngài, đã được dịch ra Anh ngữ và nhiều
ngôn ngữ khác. Tôi
đặc biệt nghĩ tới những
giáo lý ngài dạy ở miền Nam nước Pháp, gần Grenoble vào năm cuối của đời ngài. Lúc đó, nhìn ra thung lũng và đồi núi, một khung cảnh gần như có cái hùng vĩ của
Tây Tạng, ngài đã ban
ân sủng là
truyền giáo lý Dzogchen, một
giáo lý quan trọng nhất, cho một ngàn rưỡi học viên, nhiều người trong đó là học trò tôi từ khắp
thế giới, một điều làm cho tôi
sung sướng vô cùng. Những bậc thầy
hiện diện có
cảm tưởng rằng qua
hành vi cuối của đời ngài, Dilgo Khientse Rinpoche đang ban
ấn tín cho việc giảng dạy những
giáo lý này ở
Tây phương, và đã
ban phước cho sự đón nhận của họ bằng
năng lực của nhiều đời
thiền định nơi ngài. Về phần tôi, tôi cũng đang
ban phước cho tất cả những gì tôi đã cố
thực hiện cho nền
giáo lý ấy từ bao năm ở
Tây phương.
Nghĩ về Dilgo Khientse Rinpoche và những gì ngài đã làm cho
nhân loại là nghĩ về tính vĩ đại của món quà tặng mà
Tây Tạng hiến cho
thế giới, được tập trung và được
hiển lộ nơi một
con người duy nhất.
Tôi luôn nghĩ rằng, không phải là chuyện
tình cờ khi xứ sở
Tây Tạng cuối cùng đã mất, đúng vào lúc
Tây phương sắp mở tâm mở trí để đón nhận những
truyền thông của
trí tuệ phương Đông. Vậy, ngay vào lúc
Tây phương trở nên sẵn sàng đón nhận, thì một vài
giáo lý sâu xa của
truyền thống ấy, vốn từ lâu được
bảo trì trong niềm cô tịch của núi Tuyết
Tây Tạng, bây giờ có thể ban bố cho
nhân loại. Điều thiết yếu hiện nay của
chúng ta là
cố gắng duy trì bằng mọi giá,
truyền thống tuệ giác sống động ấy, mà người dân
Tây Tạng đã chịu
vô lượng khổ đau để làm cho
chúng ta có được. Hãy nhớ đến họ luôn luôn trong tim
chúng ta, và
chúng ta hãy làm việc để thấy có ngày xứ sở
Tây Tạng và những
truyền thống của xứ sở ấy được
phục hồi. Những
giáo lý vĩ đại mà tôi đã san sẻ với bạn
hiện giờ không được phép
tu tập công khai trên đất
Tây Tạng bởi chính những người đã có công
bảo trì chúng. Mong sao sẽ có ngày các Tăng viện và
Ni viện của
Tây Tạng sẽ vươn lên từ đống tro tàn đổ nát, và những khoảng trống
bao la của xứ
Tây Tạng sẽ được hiến cho nền hòa bình
thế giới và sự
theo đuổi giác ngộ của tất cả
mọi người.
Một phần lớn của tương lai
nhân loại có thể
tùy thuộc vào sự
tái lập một xứ
Tây Tạng tự do, một xứ
Tây Tạng sẽ đóng
vai trò của một
Thánh địa cho những người tìm
chân lý thuộc mọi
truyền thống tín ngưỡng,
vai trò trái tim
tuệ giác của một
nhân loại tiến hóa,
vai trò phòng thí nghiệm để thử nghiệm những
tuệ giác cao nhất, những kỹ thuật
thiêng liêng nhất, để nó sẽ thành một nguồn
cảm hứng giúp toàn
nhân loại trong giờ phút
lâm nguy. Thật khó tìm được khung cảnh toàn hảo cho việc
tu tập tuệ giác ấy trong
một thế giới như
thế giới Tây phương chúng ta. Một xứ
Tây Tạng được
hồi phục, được tịnh hóa bởi
bi kịch đau thương sẽ là khung cảnh
lý tưởng, và điều này thực
cấp thiết cho sự
tiến hóa của
loài người.
Tôi muốn hiến tặng sách này cho hàng trăm ngàn người chết trong sự
khủng bố ở
Tây Tạng, chết với
đức tin của họ và với
tri kiến kỳ tuyệt của
giáo lý Phật. Tôi cũng muốn hiến tặng cho những người đã chết ở thế kỷ này trong những tình huống
tương tự : người
Do Thái, người Cao Mên, người Nga ; cho những nạn nhân hai cuộc thế chiến, cho tất cả những người chết bị
bỏ rơi, bị
quên lãng, và cho tất cả những người đang
tiếp tục bị tước hết cơ hội
tu tập con đường tâm linh của họ.
Nhiều bậc thầy tin rằng
giáo lý Tây Tạng đang bước vào một
thời đại mới. Có những
lời tiên tri của Padmasambhava và nhiều bậc thầy thấu thị khác đã
nói trước về việc
giáo lý truyền đến
Tây phương. Bây giờ
thời gian ấy đã đến, và tôi biết rằng
giáo lý sẽ khoác
một đời sống mới.
Đời sống mới này cần thay đổi, nhưng tôi tin rằng bất cứ một
mô phỏng nào cũng phải tuôn phát từ một
tri kiến sâu xa, để tránh phản bội sự thuần tịnh
trong sáng của
truyền thống hay
năng lực của nó, hay tính “phi thời gian” của
chân lý. Nếu có sự
hiểu biết sâu xa về
truyền thống phối hợp với
ý thức thực tế về những
vấn đề và
thử thách của
thời đại, thì sự
mô phỏng có thể
tăng cường,
mở rộng, làm
phong phú thêm
truyền thống, làm
hiển lộ những tầng lớp
sâu xa của
giáo lý, và giúp cho việc
ứng dụng giáo lý được
hiệu quả hơn, trong việc
đối phó với những khó khăn ngày nay.
Nhiều bậc thầy vĩ đại của
Tây Tạng đã viếng thăm
Tây phương trong 30 năm sau này, bây giờ đã
viên tịch, và tôi
tin chắc họ đã
cầu nguyện cho
giáo lý này sẽ
lợi lạc không những cho người
Tây Tạng, cho
Phật tử mà thôi, mà còn cho cả toàn
thế giới. Tôi nghĩ người
Tây phương biết rõ tầm
giá trị của
giáo lý này khi họ đâm ra sẵn sàng đón nhận. Tôi nghĩ đến Dudjom Rinpoche và Karpama, những bậc thầy vĩ đại đã chọn để chết ngay trên đất
Tây phương, như thể cốt ban phúc cho
Tây phương bằng
năng lực giác ngộ của các ngài. Mong sao những lời
cầu nguyện của các ngài - cho
thế giới được
chuyển hóa, cho
tâm trí nhân loại được
soi sáng - được ứng nghiệm ! Mong sao cho
chúng ta, những người
hấp thụ giáo lý các ngài sẽ
ý thức trách nhiệm đối với
giáo lý ấy, và
nỗ lực thể hiện giáo lý.
Thử thách lớn nhất mà một
truyền thống tâm linh như
Phật giáo phải đương đầu trong giai đoạn chuyển tiếp này từ khung trời cũ đến
Tây phương là, làm thế nào trong
một thế giới
quay cuồng lăng xăng siêu tốc này, những người học
giáo lý có thể tìm phương thức để
thực hành giáo lý với một
tâm linh bình thản và tính
kiên trì mà họ cần, để có thể
chứng ngộ sự thật của
giáo lý. Sự huấn luyện
tâm linh chung quy là hình thái
giáo dục cao thượng nhất, đòi hỏi nhiều
điều kiện nhất, và phải được
theo đuổi với sự dấn thân,
chuyên cần có
hệ thống như bất
cứ sự huấn luyện nghiêm túc nào khác. Làm sao có thể
chấp nhận rằng, muốn thành một
bác sĩ phải trải nhiều năm học và
thực tập, thế mà với
con đường tâm linh để sống ở đời,
chúng ta lại chỉ cần một sự ban phép
tình cờ, những
lễ quán đảnh điểm đạo qua loa, và lâu lâu mới gặp vài bậc thầy chỉ để chào hỏi ? Trong
quá khứ, người ta ở lại luôn một nơi để theo thầy suốt
cả đời. Hãy nghĩ đến Milarepa, đã
phụng sự Marpa hàng nhiều năm trước khi đủ
trưởng thành tâm linh để rời thầy mà tự
tu tập. Sự huấn luyện
tâm linh cần một sự truyền trao
liên tục, làm việc và học với thầy, theo thầy với niềm hăng say và sự
thiện xảo tinh tế.
Vấn đề chính của việc giảng dạy tương lai ở trong
thế giới tân tiến là làm sao để giúp cho những người theo
giáo lý tìm được môi trường
nội tâm và
ngoại cảnh thích hợp để
thực hành giáo lý,
chứng ngộ và
thể nhập tinh yếu của nó.
Giáo lý của mọi
con đường huyền học trên
thế giới cho thấy rõ rằng trong ta có một bình chứa
năng lực khổng lồ,
năng lực từ bi và trí giác,
năng lực mà Ki-tô giáo gọi là Cung điện nhà trời, hay Nước chúa. Nếu ta biết cách
sử dụng - và đây là
mục đích con đường đi tìm
tuệ giác - thì
năng lực ấy không những có thể
chuyển hóa bản thân ta,
mà cả thế giới quanh ta. Có thời nào
cấp thiết hơn bây giờ, để có được sự xử dụng
sáng suốt năng lực thiêng liêng ấy ? Có thời nào
cấp thiết hơn bây giờ để hiểu thấu
bản chất của
năng lực thuần túy ấy, hiểu cách điều hướng nó để
lợi lạc cho
thế giới ? Tôi
cầu nguyện tất cả những ai đọc sách này sẽ có thể hiểu thấu và
tin tưởng năng lực của
giác ngộ, và
trực nhận bản chất của tâm ; vì
nhận ra bản chất tâm bạn cũng có nghĩa là làm phát sinh một
tri kiến sẽ thay đổi
toàn bộ thế giới quan của bạn, giúp bạn
tự nhiên khám phá và phát triển một ước muốn đầy bi mẫn, mong giúp đỡ tất cả mọi
hữu tình,
đồng thời cũng phát triển được một cái biết về cách giúp đỡ tốt nhất, trong bất cứ tình huống nào. Tôi
cầu nguyện cho các bạn sẽ thấm được vào tâm khảm
chân lý sống động trong lời này của Nyoshul Khenpo :
Một
lòng bi mẫn tự nhiên có thể phát sinh đối với những người chưa
nhận ra chân tánh của mình.
Lòng bi mẫn ấy rào rạt
bao la đến độ nếu nước mắt có thể
bộc lộ được thì bạn sẽ khóc không bao giờ ngưng. Không những tâm
đại bi, mà còn
phương tiện thiện xảo cũng sẽ phát sinh khi bạn đã trực ngộ
bản tâm. Hơn nữa, bạn còn
tự nhiên giải thoát khỏi mọi khổ đau
sợ hãi, như sợ sự sanh ra, sợ cái chết và giai đoạn
Trung Ấm. Khi ấy, nếu bạn phải nói lên niềm vui và
phúc lạc do sự
chứng ngộ mang lại, thì dù bạn có đem tất cả
vinh quang, hưởng thụ, khoái lạc, và
hạnh phúc trên đời gom lại, cũng không thể
diễn tả được một nhần nhỏ xíu của niềm
phúc lạc mà bạn có được khi trực ngộ
bản tâm.
Phụng sự thế giới bằng
năng lực trí tuệ và
từ bi có nghĩa là
tham dự một phần
tích cực vào việc
bảo trì hành tinh này. Những bậc thầy thuộc các
truyền thống tôn giáo bây giờ đã hiểu rằng
tu tập là điều thiết yếu không những chỉ dành cho
Tăng Ni, mà cho tất cả
mọi người, thuộc mọi
tôn giáo, mọi
lối sống. Những gì tôi cố
chứng minh trong sách này là tính
vô cùng thiết thực,
năng động và
hiệu nghiệm của sự phát triển
tâm linh. Một lời dạy
nổi tiếng của
Tây Tạng là : “Khi
thế giới đầy những sự ác, thì mọi
tai ương cần phải được
chuyển hóa thành
con đường giác ngộ”. Mối nguy mà tất cả
chúng ta đang vướng phải đã khiến cho việc
tu tập trở nên
cấp thiết, đến nỗi ta không còn xem sự phát triển
tâm linh như là một xa xí phẩm, mà như một
điều kiện cần thiết để sống còn.
Ta hãy tưởng tượng rằng
thế giới sẽ như thế nào nếu trong đó có một số lượng
đáng kể những người tóm lấy cơ hội mà
giáo lý đã chỉ,
để dành một phần của đời họ cho việc
tu hành nghiêm chỉnh, để
trực nhận bản tâm, và do vậy xử dụng cơ hội cái chết của mình để tiến gần hơn tới
Phật quả, và
tái sanh với một
mục đích duy nhất là
phụng sự và làm
lợi lạc mọi người.
Quyển sách này đang đem lại cho bạn một kỹ thuật
thiêng liêng, nhờ đó không những bạn có thể
chuyển hóa cuộc đời hiện tại của bạn,
chuyển hóa sự hấp hối và cái chết của bạn, mà còn
chuyển hóa cả những
đời sau của bạn, và do đó
chuyển hóa cả tương lai
nhân loại. Những gì mà những bậc thầy tôi và tôi
hy vọng khơi nguồn nơi đây, là một bước nhảy
tiến tới sự thăng tiến có
ý thức của
con người. Học cách thế nào để chết cũng là học
cách sống ; học
cách sống cũng là học làm thế nào để hành động không những
trong đời này
mà cả trong những đời sắp đến. Thực sự
chuyển hóa bản thân và học làm sao để
tái sinh như một
ứng hóa thân để giúp người khác, chính là giúp đỡ
nhân loại bằng cách hữu hiệu nhất.
Tuệ giác đầy bi mẫn của
truyền thống chúng tôi và sự đóng góp cao quý nhất của nó cho
trí tuệ tâm linh của
nhân loại là sự hiểu và
hành lý tưởng Bồ-tát,
con người nhận lãnh hết
đau khổ cho mọi
hữu tình, người
khởi hành lên đường giải thoát không những cho
một mình mình, mà còn để giúp đỡ người khác, người mà
cuối cùng, sau khi đạt
giải thoát tối hậu, không tan biến vào trong bầu trời
tuyệt đối hay trốn khỏi nỗi
thống khổ của
sinh tử, mà tự nguyện
trở lại nhiều lần để hiến mình
phụng sự toàn
thế giới bằng
năng lực từ bi và
trí tuệ. Điều mà
thế giới cần hơn bất cứ gì, đó là những
sứ giả tích cực của hòa bình như vậy, những
sứ giả “mặc áo giáp nhẫn nhục”, những người sống cho
lý tưởng Bồ-tát và sống để
gieo rắc trí tuệ vào mọi lĩnh vực
kinh nghiệm chúng ta.
Chúng ta cần những Bồ-tát
luật sư, Bồ-tát nghệ sĩ, Bồ-tát chính
trị gia, Bồ-tát
bác sĩ, Bồ-tát kỹ sư và chuyên viên, những Bồ-tát ở khắp nơi đang làm việc một cách
tận tâm như những kênh truyền của
trí tuệ và
đại bi ở mọi tầng lớp và
hoàn cảnh xã hội, đang
hoạt động để
chuyển hóa bản thân và người khác, làm việc không
mệt mỏi vì biết chắc có sự
nâng đỡ của chư Phật và những bậc
giác ngộ, để
giữ gìn thế giới và tiến đến một tương lai khá hơn. Teillard de Chardin nói : “Một ngày kia, sau khi
chúng ta đã làm chủ được những cơn gió, những ngọn sóng, thủy triều và lực hấp dẫn…
chúng ta sẽ khởi động
năng lực của tình yêu. Khi ấy, lần thứ hai
trong lịch sử loài người,
con người sẽ
tìm ra ngọn lửa” .
Một trong những
hy vọng sâu xa nhất của tôi khi viết sách này là nó sẽ làm một người bạn
trung thành cho bất cứ ai chon
con đường trở thành một Bồ-tát, một nguồn
dìu dắt và
cảm hứng cho những người thực sự đối mặt với những
thử thách của
thời đại, và vì
lòng bi mẫn mà
khởi hành lên đường tuệ giác. Mong sao họ không bao giờ
mệt mỏi hay
thất vọng, vỡ mộng ; mong cho họ đừng bao giờ
hết hy vọng dù có gặp bao nhiêu gian khó,
chướng ngại,
hãi hùng. Mong sao những
chướng ngại ấy chỉ làm tăng thêm
quyết tâm nơi họ. Mong sao họ
vững lòng tin ở tình yêu và
năng lực của các
đấng giác ngộ đã và đang
gia trì cho trái đất bằng
hiện diện của các ngài ; mong sao họ noi gương những bậc thầy vĩ đại đã
y theo lời
di giáo của Phật mà
suốt đời nỗ lực tinh tiến để
đạt đến toàn thiện. Mong sao cái
thế giới mà nhiều bậc thầy
huyền học thuộc mọi
truyền thống đã tiên đoán, nhờ
nỗ lực của tất cả
chúng ta mà sẽ thành
hiện thực :
một thế giới tương lai không còn
bạo hành,
khủng bố, ở đấy
nhân loại có thể sống trong
hạnh phúc vì đã
trực nhận bản tâm. Tất cả
chúng ta hãy
cầu nguyện cho được
thế giới tốt đẹp ấy, cùng với Shantideva và thánh Francis :
“Hư không còn
tồn tại,
hữu tình còn
tồn tại,
thì nguyện của tôi vẫn còn.
Đó là cái
ước nguyện xóa tan
thống khổ của cuộc đời”.
“Xin Cha hãy biến con thành khí cụ hòa bình của ngài.
Nơi nào có thù hận, cho con
gieo rắc tình yêu.
Nơi nào có
tổn thương, mang lại
tha thứ.
Nơi nào có
hoài nghi, mang lại
niềm tin.
Nơi nào
tuyệt vọng, mang lại
hy vọng.
Nơi nào có bóng tối, mang lại ánh sáng.
Nơi nào có buồn khổ, mang lại niềm vui.
Lạy Cha,
Xin cho con
an ủi người khác hơn là được
an ủi;
Cho con
cảm thông người khác hơn là được
cảm thông;
Cho con
yêu thương người khác hơn là được
yêu thương;
Vì chính trong khi cho, là ta được nhận;
Khi
tha thứ, là ta được
tha thứ;
Và chính khi chết, là ta sinh vào
đời sống vĩnh cửu”.
Xin dâng hiến sách này lên những bậc thầy tôi : với những bậc thầy đã
quá vãng,
mong ước nguyện các ngài được
thành tựu ; với những bậc thầy còn sinh tiền, mong các ngài
trường thọ,
công trình thiêng liêng vĩ đại của các ngài sẽ gặp
thành công sáng chói, mong sự giảng dạy của các ngài sẽ gợi
cảm hứng cho tất cả
hữu tình. Tôi thiết tha
thành khẩn cầu nguyện cho Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche sẽ chóng
tái sanh trong một nhập thể đầy
năng lực giác ngộ để cứu giúp
chúng ta qua những hiểm nguy của
thời đại này.
Xin hiến tặng sách này cho tất cả những người đã chết có nhắc tới trong sách : Lama Tseten, Lama Chokden, Samten, Ani Pelu, Ani Rilu và A-pé Dorje. Xin bạn nhớ tới họ mỗi khi
cầu nguyện, và nhớ cả những học trò của tôi đã chết và đang chết, những người mà lòng
sùng tín và
can đảm đã gây cho tôi nhiều cảm khái.
Xin hiến tặng quyển sách này cho tất cả
hữu tình đang sống, đang chết hay đã chết. Đối với những người vào giờ này đang kinh quá tiến trình chết, mong rằng họ chết được
an ổn, không
đau đớn hãi sợ. Mong rằng tất cả những người đang sinh ra trong lúc này, và những người đang
vật lộn với sự sống, hãy được
nuôi dưỡng bằng ân phước chư Phật, mong họ gặp được
giáo lý và
đi theo con đường trí tuệ. Mong đời họ được
hạnh phúc hữu hiệu,
thoát khỏi mọi lo buồn. Mong bất cứ ai đọc sách này sẽ rút được nhiều
lợi lạc bất tận từ đấy, và mong cho
giáo lý trong này
chuyển hóa tâm trí họ. Đây là lời
cầu nguyện của tôi.
Mong sao mỗi một
chúng sanh trong
sáu cõi luân hồi cùng
đạt đến nền tảng của sự toàn hảo tối sơ!