PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH
16- NỀN TẢNG
Chúng ta thường nghe những câu nói như : “Chết là lúc nói sự thật” , hay “Chết là thời điểm ta đối mặt với chính ta”. Như ta đã thấy những người qua
kinh nghiệm cận tử đôi khi kể lại rằng họ
chứng kiến cả
cuộc đời họ quay lại
trước mắt, và họ được hỏi những câu như : “Ngươi đã làm gì với
cuộc đời ngươi ? Ngươi đã làm gì cho người khác ?” . Tất cả những chuyện này
ám chỉ một điều
duy nhất rằng : khi chết, ta không thể tránh thoát
đối diện với
sự thật ta là ai, ta là gì ? Dù ta muốn hay không,
bản chất thực của ta cũng
hiển lộ. Nhưng điều quan trọng cần biết là có hai khía cạnh
con người của ta
hiển lộ vào lúc chết :
bản chất tuyệt đối của ta và
bản chất tương đối - ta
hiện tại như thế nào, và đã như thế nào, trong
cuộc đời.
Như tôi đã
giải thích, khi chết tất cả những hợp thể của
thân tâm ta đều bị tước bỏ, phân tán. Khi thân
xác chết,
giác quan và
đại chủng vi tế tan rã,
tiếp theo đó là cái chết của các khía cạnh tâm thông thường (
nhãn thức,v.v... - DG), với những
cảm xúc tiêu cực của nó như tham, sân, si.
Cuối cùng không còn gì để che mờ
bản chất thực của ta, vì mọi
thế sự vây phủ cái
tâm giác ngộ đã rơi rụng. Và khi ấy, cái được
hiển bày là nền tảng tối sơ của
bản chất tuyệt đối chúng ta, như một bầu trời
trong sáng không mây.
Điều này gọi là sự
xuất hiện Ánh sáng
Căn bản, hay “Điểm Linh Quang”, khi
chính tâm thức cũng tan vào trong
không gian bao la của
chân lý.
Tử Thư Tây Tạng nói về giây phút này như sau :
Bản chất vạn pháp là khoáng đạt, trống rỗng, trơ trụi như bầu trời.
Sự trống rỗng sáng chói, không có tâm điểm hay chu vi :
Tính giác của tâm, hay Rigpa,
xuất hiện.
Padmasambhava
mô tả ánh sáng ấy như sau :
Điểm
Linh quang tự sinh ấy, từ khởi thủy chưa từng sinh.
Là con đẻ của Rigpa, tự nó không
cha mẹ - lạ lùng thay !
Trí tuệ tự sinh ấy chưa từng được ai tạo ra - lạ lùng thay !
Nó chưa từng sinh, và không gì trong nó để gây ra sự chết - lạ lùng thay !
Nó thấy, mà không ai là người thấy nó - lạ lùng thay !
Nó
du hành qua
sinh tử mà không hại gì - lạ lùng thay !
Nó thấy
Phật tính, nhưng cũng không lợi gì - lạ lùng thay !
Nó
hiện hữu trong
mọi người,
mọi nơi, mà không ai
nhận ra nó - lạ lùng thay !
Người ta lại mong đạt một kết quả nào khác bên ngoài - lạ lùng thay !
Mặc dù nó là vật của bạn, bạn lại đi tìm nó ở chỗ khác - lạ lùng thay !
Vì sao
trạng thái ấy được gọi là “ánh sáng” hay “Điểm linh quang” ? Các bậc thầy có nhiều cách
giải thích khác nhau. Có vị bảo rằng nó
biểu thị sự sáng chói của
tự tánh tâm
hoàn toàn thoát khỏi bóng tối mê mờ “thoát khỏi bóng tối
vô tri và có được khả năng trí giác”. Một bậc thầy khác tả ánh sáng hay
linh quang là “một
trạng thái ít phân tán nhất” , vì tất cả
đại chủng,
giác quan, đối tượng
giác quan đã tan rã. Điều quan trọng là xin đừng
lẫn lộn nó với ánh sáng
vật lý mà ta biết, hay những
kinh nghiệm về ánh sáng mà ta sẽ thấy trong Bardo
kế tiếp. Ánh
sáng khởi lên vào lúc chết là tia tự chiếu của
tính giác Rigpa trong ta, “tự tánh
vô vi hiện diện suốt trong
sinh tử và niết bàn” .
Sự
xuất hiện Ánh sáng
Căn bản hay Điểm
linh quang vào lúc chết là cơ hội ngàn năm một thuở để
giải thoát. Nhưng điều cốt yếu là phải
nhận ra cơ hội ấy được
cống hiến cho ta trong những
điều kiện như thế nào. Một vài nhà văn và nhà
nghiên cứu tân thời về cái chết đã
coi thường sự sâu sắc của giây phút ấy. Vì họ đã đọc và
giải thích Tử Thư Tây Tạng mà không được sự chỉ giáo
khẩu truyền, không
tu tập để
hiểu ý nghĩa
thiêng liêng của nó, nên họ đã
đơn giản hóa
quá mức và nhảy bổ đến những
kết luận vội vàng. Họ cho rằng sự
xuất hiện Ánh sáng
Căn bản chính là
giác ngộ. Tất cả
chúng ta đều ưa
đồng hóa cái chết với
thiên đường hay
giác ngộ ; nhưng điều quan trọng hơn sự
mong ước ấy là phải biết rằng chỉ khi
chúng ta đã thực sự được
khai ngộ bản tâm, hay
Tính giác Rigpa, chỉ khi
chúng ta đã
an trú nó nhờ
thiền định và
thể nhập nó
trong đời sống hàng ngày của ta, thì cái thời điểm chết mới thực sự đem lại một cơ hội để
giải thoát.
Mặc dù Ánh sáng
Căn bản hiện ra cho tất cả
chúng ta một cách
tự nhiên, song phần đông
chúng ta hoàn toàn không sẵn sàng để đón nhận tính
bao la thuần túy của nó, chiều
sâu rộng vi tế, tính giản dị sơ nguyên của nó.
Đa số chúng ta không có cách gì để
nhận ra nó, vì
trong đời chúng ta chưa từng
quen thuộc với những phương thức
nhận ra nó. Khi ấy, điều xảy đến là,
theo bản năng,
chúng ta có khuynh hướng
phản ứng lại do những nỗi
sợ hãi quá khứ của ta, do tập quán,
hoàn cảnh, tất cả những phản xạ cũ của ta. Mặc dù những
cảm xúc tiêu cực có chết đi thì Ánh sáng
Căn bản mới
xuất hiện, song tập quán của nhiều đời vẫn còn, ẩn nấp trong hậu trường của tâm
phàm tình chúng ta. Mặc dù mọi
rối ren mờ mịt của
chúng ta chết đi lúc thân ta chết, song thay vì
quy phục, đón nhận ánh sáng, thì vì
sợ hãi và
vô minh,
chúng ta lùi lại, và
theo bản năng bám lấy những gì ta đã từng bám giữ.
Đấy chính là
nguyên nhân ngăn cản chúng ta lợi dụng thời điểm mãnh liệt này làm cơ hội
giải thoát. Padmasambhava nói : “Tất cả
hữu tình đã sống và chết
vô số lần. Chúng đã nhiều lần
kinh nghiệm Ánh sáng khôn tả này, nhưng vì bóng tối
vô minh làm
mờ mịt, chúng vẫn lang thang bất tận trong sinh tử” .
Nền tảng của tâm
phàm tìnhTất cả những khuynh hướng tập quán ấy,
hậu quả của
ác nghiệp chúng ta, tuôn phát từ
vô minh, được
chất chứa trong nền tảng của tâm
phàm tình. Tôi vẫn thường không biết lấy gì làm ví dụ
thích hợp để
mô tả nền tảng tâm
phàm tình. Bạn có thể ví dụ nó với một cái bọt
thủy tinh trong suốt, một tấm màn rất mỏng manh che mờ
toàn thể tâm ta, song có lẽ
hình ảnh hay nhất là một cái cửa kính. Tưởng tượng bạn đang ngồi trước một cửa kính dẫn ra vườn, nhìn qua cửa để ngắm trời. Dường
như không có gì giữa bạn và bầu trời, vì bạn không thể trông thấy mặt gương. Nhưng nếu bạn
đứng dậy đi ra vườn, bạn có thể đụng lỗ mũi của bạn vào tấm kính, vì tưởng là không có gì. Khi
va chạm, bạn mới thấy có vật gi ở đấy giữ lại dấu tay bạn, một cái gì đứng chắn giữa bạn và
không gian bên ngoài.
Cũng thế, nền tảng tâm
phàm tình ngăn
chúng ta không
đi vào bản chất tuyệt đối như bầu trời của tâm, dù
chúng ta vẫn
thoáng thấy nó. Như tôi đã nói, các bậc thầy
giải thích rằng có mối nguy là những thiền giả có thể
lầm lẫn nền tảng tâm
phàm tình với
tính giác đích thực của tâm. Khi họ
an trú trong một
trạng thái an tĩnh vắng lặng, thì có thể họ chỉ
an trú trong nền tảng tâm
phàm tình. Đấy là sự khác nhau giữa nhìn trời từ một vòm kính, và đứng ra giữa trời mà nhìn.
Chúng ta phải phá vỡ
hoàn toàn nền tảng của tâm phàm, để
khám phá và thở bầu không khi tươi mát của
Tính giác Rigpa.
Bởi thế,
mục đích mọi sự
tu tập của
chúng ta là chuẩn bị thực sự cho lúc chết, là thanh ọc cái rào ngăn
vi tế ấy,
dần dần làm nó
suy yếu và
cuối cùng sụp đổ. Khi bạn đã phá đổ nó
hoàn toàn, thì không có gì ngăn cách bạn với
trạng thái toàn giác.
Sự khai thị
bản tâm của bậc thầy phá vỡ
hoàn toàn nền tảng tâm
phàm tình ấy, vì chính nhờ sự tan rã của tâm
phân biệt khái niệm mà
tâm giác ngộ được
hiển bày một cách
rõ ràng. Rồi khi
chúng ta an trú tỉnh giác bản tâm, thì nền tảng tâm
phàm tình ấy càng
suy yếu. Nhưng ta sẽ thấy, sự
an trú lâu hay mau trong
trạng thái tâm bản nhiên ấy
hoàn toàn tùy thuộc vào việc
tu tập hàng ngày của ta. Rủi thay những tập quán cũ rất khó bỏ, và nền tảng tâm
phàm tình cứ
quay trở lại ; tâm ta như một bợm nhậu chỉ có thể đá đổ vò rượu trong chốc lát, nhưng lại rơi vào thói nghiện ngập
trở lại mỗi khi bị
cám dỗ hay buồn sầu.
Cũng như cánh cửa kính dính đầy dấu vết bụi dơ từ nơi những bàn tay và ngón tay ta, nền tảng tâm
phàm tình cũng chứa nhóm tất cả nghiệp và
thói quen của ta. Và cũng như ta phải
tiếp tục lau kính luôn luôn, ta phải luôn luôn thanh lọc nền tảng tâm
phàm tình. Sự
thực tập thiền cũng như thể là làm cho tấm cửa kính bị mòn dần, mỏng dần, những hỗ hổng
xuất hiện, và nó bắt đầu tan rã. Nhờ
thực tập,
chúng ta dần
an trú vững vàng trong
tính giác bản nhiên hơn nữa, đến nỗi nó không còn là
bản tánh tuyệt đối của ta, mà
trở thành thực tại hàng ngày của ta. Khi
tình trạng này xảy đến, thì những thói cũ của ta càng tan biến, và càng có ít sự khác biệt giữa
thiền định và sự sống hàng ngày.
Dần dần, bạn
trở thành như một người có thể
đi thẳng ra vườn,
xuyên qua cửa kính, không bị
chướng ngại. Và cái dấu hiệu tâm
phàm tình suy yếu là khi ta có thể
an trú không
nỗ lực trong
tự tánh của tâm.
Khi Ánh sáng
Căn bản ló dạng, thì
vấn đề then chốt sẽ là mức độ
an trú tự tánh nơi ta, mức độ hợp nhất
bản chất tuyệt đối và
đời sống hàng ngày nơi ta, và mức độ thanh lọc tâm
phàm tình nơi ta, để
thể nhập trạng thái trong sáng nguyên ủy.
Mẹ con gặp gỡ
Có một
phương pháp theo đó
chúng ta có thể sẵn sàng chuẩn bị để
nhận ra khi Ánh sáng
Căn bản xuất hiện vào lúc chết. Đấy là
phương pháp thiền
tối thượng (đã nói trong chương 10), kết quả
tối hậu của
pháp hành trì Dzogchen.
Phương pháp ấy gọi là “hợp nhất giữa hai ánh sáng”, hay còn gọi là “sự tan hòa giữa Ánh sáng Mẹ và Ánh sáng Con” .
Ánh sáng Mẹ là cái tên mà ta đặt cho Ánh sáng
Căn bản. Đấy là
bản chất nội tại của mọi sự vật, nằm bên dưới
toàn thể kinh nghiệm của ta, và
thể hiện trong vẻ
sáng ngời nguyên vẹn của nó vào lúc chết.
Ánh sáng Con, còn gọi là Ánh sáng Đạo lộ, là
tự tánh của tâm ta, cái mà nếu được thầy khai thị và
chúng ta trực nhận, thì ta có thể
dần dần an trú nó nhờ
thiền định, và càng ngày càng hội nhập nó vào sự sống hàng ngày của ta. Khi sự hội nhập đã được toàn triệt thì
trực nhận cũng toàn triệt, và sự
chứng ngộ xảy đến.
Mặc dù Ánh sáng
Căn bản là
bản chất nội tại của ta và là
bản chất của mọi sự vật, song ta không
nhận ra nó,
thành thử hầu như bị khuất lấp. Tôi muốn nghĩ đến Ánh sáng Con như là cái chìa khóa mà bậc thầy trao cho bạn để mở cánh cửa
nhận thức, để bạn
nhận ra được Ánh sáng
Căn bản, mỗi khi gặp cơ hội.
Hãy tưởng tượng bạn phải đi đón một
phụ nữ đến bằng phi cơ. Nếu bạn không biết bà ấy ra sao thì bạn có thể đến phi trường nhưng vẫn hụt đón vì bà ta đi qua mà bạn không biết. Nếu bạn có một tấm ảnh giống bà ta, hoặc đã có
hình ảnh bà ấy trong trí bạn, thì bạn có thể
nhận ra bà ấy ngay khi bà tiến đến.
Một khi
tự tánh tâm đã được khai thị cho bạn, và bạn đã
trực nhận, tức là bạn có chìa khóa để
trực nhận lần khác. Nhưng, cũng như bạn phải giữ tấm ảnh và nhìn nó luôn luôn để cho chắc bạn có thể
nhận ra người bạn sắp gặp ở phi trường, cũng vậy bạn phải
tiếp tục an trú sự
trực nhận tâm bản nhiên (
tự tánh tâm) qua sự
thường xuyên thực tập. Khi ấy, sự
trực nhận trở thành thâm căn cố đế nơi bạn, thành một phần của bạn, đến nỗi gặp là
nhận ra ngay không cần bức ảnh. Vậy, sau khi
thực hành sự
trực nhận bản tâm đã thuần, thì vào lúc chết, khi Ánh sáng
Căn bản xuất hiện, bạn có thể
nhận ra nó và hòa nhập với nó một cách
tự nhiên “như con thơ sà vào lòng mẹ”, các bậc
cổ đức nói, hay như gặp
bạn cố tri, hay như sông chảy vào biển.
Nhưng điều này thực
vô cùng khó khăn. Cách
duy nhất để
bảo đảm sự
trực nhận ấy là ngay khi ta còn sống phải kiện toàn sự luyện tập hội nhập hai ánh sáng. Điều này chỉ khả dĩ nhờ cả
một đời nỗ lực tu luyện. Thầy tôi, Dudjom Rinpoche nói rằng : “Nếu
chúng ta không
thực tập hòa nhập hai ánh sáng ngay bây giờ, và từ đây về sau, thì đừng nói tới chuyện sự
trực nhận sẽ
tự nhiên xảy đến vào lúc chết.
Nhưng hội nhập hai ánh sáng nghĩa là gì ? - Đây là một pháp
tu luyện rất
sâu xa và cao cấp, và đây không phải chỗ để bàn
chi tiết về điều ấy. Nhưng ta có thể nói điều này : Khi bậc thầy khai thị
bản tâm cho ta, thì cũng giống như chữa lành mắt ta, vì ta đã bị mù đối với Ánh ánh sáng
Căn bản nằm trong tất cả mọi sự. Sự khai thị của bậc thầy
đánh thức con mắt tuệ trong ta, nhờ vậy ta thấy được
rõ ràng bản chất thực của mọi sự, hay
thực chất Ánh sáng - điểm
Linh quang - của mọi
cảm xúc và
ý tưởng trong ta. Hãy tưởng tượng, nhờ
thực tập toàn
hảo sự an trú bản tánh, mà sự
trực nhận bản tánh ấy giống như một vầng
mặt trời rực rỡ.
Tư tưởng và
cảm xúc vẫn
tiếp tục sanh khởi, chúng như những đợt sóng
đen tối. Nhưng mỗi khi những đợt sóng ấy cuộn lên và gặp
ánh mặt trời, thì chúng lại tan ngay.
Nền tảng tâm
phàm tình của ta được
hoàn toàn thanh lọc thì cũng giống như ta đã phá tan cái kho chứa nghiệp của mình và không còn nguyên liệu nghiệp để
cung cấp cho
tái sinh tương lai. Nhưng nếu ta chưa có thể
hoàn toàn thanh lọc tâm, thì sẽ vẫn còn tàn dư của những khuynh hướng tập quán cũ đang nằm trong kho chứa nghiệp của
chúng ta. Khi gặp
điều kiện thích hợp, chúng sẽ
xuất hiện để đẩy
chúng ta vào những
tái sinh mới.
Thời gian của Ánh sáng
Căn bảnÁnh sáng
Căn bản xuất hiện, đối với một
hành giả, nó kéo dài bao lâu vị ấy
an trú không
tán loạn vào
tự tánh tâm. Nhưng đối với phần đông, nó kéo dài không lâu hơn một búng tay, và với vài người, nó kéo dài “khoảng chừng một bữa ăn”. Phần đông người
tuyệt nhiên không
nhận ra Ánh sáng
Căn bản, thay vì thế, họ rơi vào một
trạng thái ngất xỉu có thể kéo dài ba ngày rưỡi. Sau đó
thần thức mới thực sự rời khỏi thể xác.
Do vậy, ở
Tây Tạng có tục lệ không động đến thi thể trong 3 ngày
sau khi chết. Điều này rất quan trọng, nhất là nơi một
hành giả, vì có thể họ đã hòa tan với Ánh sáng
Căn bản và đang ở trong
trạng thái tâm bản nhiên. Tôi còn nhớ ở
Tây Tạng, người ta thường giữ bầu không khí
tuyệt đối thanh bình im lặng quanh
xác chết như thế nào, nhất là khi đó là xác một bậc thầy hay
hành giả tu cao, để tránh gây sự
quấy rầy dù nhỏ nhất.
Nhưng dù là thi thể của người thường cũng không nên
di chuyển trong vòng 3 ngày
sau khi chết, vì ta không thể biết được ai đã chứng, ai chưa, và cũng không
chắc chắn thần thức đã rời khỏi xác. Người ta tin rằng nếu sờ vào một nơi nào trên thi thể - ví dụ chích một mũi thuốc - thì
thần thức có thể bị lôi kéo đến chỗ ấy. Khi đó
thần thức người chết có thể chui ra lỗ hổng gần nhất để thoát ra ngoài thay vì thoát lên đỉnh đầu, và
vì vậy sẽ có một
tái sanh bất hạnh. Một vài bậc thầy
nhấn mạnh nhiều đến chuyện
để yên thi thể trong 3 ngày. Khi nghe có người nói sợ để thi thể trong
thời tiết nóng sẽ thối, Chadral Rinpoche, một
thiền sư Tây Tạng sống ở
Ấn Độ và Nepal, đã bảo : “Bạn làm như thể là bạn phải ăn hay bán cái thây ấy” .
Như vậy, việc
hỏa táng hay giải phẫu
tử thi tốt nhất nên để 3 ngày sau.
Tuy nhiên, vì ngày nay không thể nào
để yên một thây chết đến 3 ngày không động tới, nên
ít nhất pháp
Chuyển di tâm thức cần được làm trước khi động đến thi thể hoặc dời đi chỗ khác.
Cái chết của một bậc thầy
Một hàng giả đã
chứng đắc thường
tiếp tục an trú sự
trực nhận tính giác bản tâm vào lúc chết, và
tỉnh thức để
thể nhập Ánh sáng
Căn bản khi nó
xuất hiện. Vị ấy còn có thể trú trong
trạng thái ấy một vài ngày. Một vài
hành giả và bậc thầy chết trong tư thế
ngồi thiền, lưng thẳng, hoặc nằm như “dáng nằm
sư tử ngủ”. Ngoài sự
tuyệt đối tự chủ, còn những dấu hiệu khác
chứng tỏ vị ấy đang
an trú trong
trạng thái Ánh sáng
Căn bản : gương mặt họ vẫn còn có sắc sáng, mũi không lún vào, da vẫn mềm mại,
thân thể không cứng đờ, đôi mắt vẫn giữ một ánh sáng
hiền hậu,
từ bi, và tim vẫn còn hơi ấm. Người ta phải rất
thận trọng đừng chạm đến nhục thể của bậc thầy, và giữ
im lặng cho đến khi vị ấy ra khỏi
trạng thái thiền định này.
Gyalwang Karmapa, một bậc thầy vĩ đại, chưởng môn một trong bốn
tông phái lớn của
Phật giáo Tây Tạng, đã chết trong một bệnh viện tại Hoa Kỳ vào năm 1981. Ngài gây một
cảm hứng kỳ diệu cho tất cả
mọi người xung quanh, vì ngài luôn luôn
vui tươi và đầy bi mẫn.
Bác sĩ Ranulfo Sanchez, trưởng khoa giải phẫu đã viết :
“Tôi
cảm thấy tự
thâm tâm rằng ngài không phải người phàm. Khi ngài nhìn bạn, thì giống như đang xoáy sâu vào
bản thể bạn, ngài dường như thấy suốt
con người bạn. Tôi rất
kinh ngạc trước cái cách ngài nhìn tôi, như thể là ngài biết chuyện gì đang xảy đến. Ngài làm cho hầu hết
mọi người trong bệnh viện phải
cảm động, bất cứ ai
tiếp xúc với ngài. Nhiều lần khi
chúng tôi cảm thấy ngài gần kề cái chết, thì ngài lại nhìn
chúng tôi mà
mỉm cười, và bảo
chúng tôi nói sai, và sau đó
sức khỏe ngài lại khá hơn.
Ngài không bao giờ dùng thuốc giảm đau.
Chúng tôi, những
bác sĩ, trông thấy ngài và biết ngài phải
đau đớn lắm, nên hỏi : “Có phải hôm nay ngài đau nhiều lắm không ?”. Nhưng ngài bảo : “Không” . Khi
chúng tôi biết gần tới giây phút
cuối cùng, ngài có thể
cảm thấy sự
lo lắng của
chúng tôi, và điều ấy
trở thành một trò đùa.
Chúng tôi sẽ hỏi : “Ngài có đau không ?” , ngài lại
mỉm cười thật
từ bi và nói : “Không” .
Mọi dấu hiệu của sự sống nơi ngài đã gần
chấm dứt. Tôi chích cho ngài một mũi thuốc, chỉ để ngài có thể nói chuyện vào giây phút cuối. Tôi từ giã căn phòng vài phút để cho ngài
trao đổi với các vị
tái sanh (tulkus) ; ngài trấn an họ rằng ngài
không định chết vào ngày hôm ấy. Khi tôi
trở lại chừng năm phút sau, thì ngài đã ngồi thẳng dậy, mắt mở lớn và
nói thật rõ : “Hello, how are you ?” . Mọi dấu hiệu sống nơi ngài đã trở ngược lại, ngài ngồi nửa tiếng trên giường, nói chuyện, cười lớn. Trên
phương diện y học thì điều này người ta chưa từng nghe thấy bao giờ. Các cô điều dưỡng tái mặt, một cô dở cánh tay cho tôi xem họ đã nổi da gà như thế nào”.
Ban điều dưỡng
để ý thi hài của Karmapa không theo tiến trình thông thường của thây chết như cứng và hôi thối, mà vẫn như
tình trạng lúc ngài mới chết. Sau một lúc, họ mới
để ý vùng tim ngài còn ấm.
Bác sĩ Sanchez viết :
“Họ đưa tôi vào phòng 36 tiếng đồng hồ sau khi ngài chết. Tôi sờ vùng bên phải, trên trái tim ngài và thấy nó nóng hơn các chỗ khác. Đấy là một điều mà y học không thể
giải thích được”.
Một vài bậc thầy chết trong tư thế
ngồi thiền,
thân thể tự thẳng đứng. Kalu Rinpoche chết năm 1989 trong
tu viện của ngài ở
dãy núi tuyết,
xung quanh có nhiều bậc thầy và các
bác sĩ , y tá điều dưỡng.
Đệ tử hầu cận ngài đã viết :
“Ngài cố ngồi dậy, nhưng hơi khó khăn. Lama Gyaltsen
cảm thấy có lẽ đã đến thời, và
nếu không ngồi dậy thì sẽ
chướng ngại cho ngài, nên đã đỡ lưng ngài khi ngài ngồi. Ngài duỗi tay
tới nơi tôi, và tôi cũng giúp ngài ngồi thẳng. Ngài ngõ
ý muốn ngồi thật thẳng, vừa bằng lời vừa ra dấu.
Bác sĩ và y tá cuống lên
trước cảnh tượng ấy, nên ngài hơi thư giãn lại, nhưng vẫn để chân tay theo thế
ngồi thiền... Mắt ngài mở nhìn ra, kiểu nhìn trong lúc
thiền quán, và môi ngài khẽ
mấp máy. Một
cảm giác thanh bình,
an lạc ngự trị trên tất cả
chúng tôi, lan tràn qua tâm
chúng tôi. Tất cả
mọi người hiện diện lúc ấy đều
cảm thấy rằng niềm
phúc lạc dâng tràn trong
chúng tôi chính là
phản ảnh yếu ớt của niềm
phúc lạc trào dâng trong tâm ngài...
Dần dần tia nhìn và mi mắt Rinpoche hạ xuống, và
hơi thở chấm dứt” .
Tôi nhớ mãi cái chết của thầy tôi, Jamyang Khientse vào
mùa hạ năm 1959.
Vào khoảng cuối đời, ngài cố càng ít rời
tu viện càng tốt. Những bậc thầy đủ mọi
truyền thống thường
tụ họp lại để được
sự giáo thọ, những người
giữ gìn các hệ phái
truyền thừa cũng đến xin ngài
chỉ dẫn, vì ngài biết tận nguồn gốc của các hệ phái ấy.
Tu viện Dzongsar, nơi ngài cư trú
trở thành một trong những
trung tâm sinh hoạt tâm linh sống động nhất
Tây Tạng, ở đấy tất cả những Lạt-ma cao cấp thường
lui tới. Lời ngài là pháp là luật ở trong vùng ; ngài là bậc thầy vĩ đại và hầu như tất cả
mọi người đều là
đệ tử của ngài, tới nỗi ngài có
năng lực ngăn chận nội chiến chỉ bằng cách
hăm dọa ngài sẽ rút lui sự
gia trì tâm linh của ngài cho cả hai phe.
Rủi thay, khi gọng kềm của quân
xâm lược Trung Quốc siết chặt, thì tình huống ở tỉnh Kham trở nên
tồi tệ một cách nhanh chóng. Dù còn bé, tôi cũng có thể linh cả sự
đe dọa của những gì sắp xảy ra. Vào năm 1955, thầy tôi đã có vài dấu hiệu
chứng tỏ ngài sẽ từ giã
Tây Tạng.
Trước tiên, ngài
hành hương đến những
thánh tích ở miền Trung và Nam
Tây Tạng, rồi để làm tròn
lời nguyện tha thiết của thầy ngài, ngài làm một chuyến
hành hương chiêm bái thánh tích tại đất Ấn, có tôi
đi theo.
Chúng tôi đều
hy vọng tình hình ở miền Đông sẽ khá hơn trong khi
chúng tôi đi xa. Hóa ra - về sau tôi mới biết - nhiều Lạt-ma khác, và dân thường, đã xem cái
quyết định du hành của thầy tôi như là một
điềm báo trước Tây Tạng sẽ
lâm nguy, nhờ thế họ đã kịp thời
thoát nạn.
Thầy tôi từ lâu đã muốn viếng thăm Sikkim, một nước nhỏ trong dãy
Hy Mã Lạp Sơn, một trong những vùng đất thiêng của Padmasambhava. Jamyang Khientse là nhập thể của bậc thánh
thiêng liêng nhất của Sikkim, nên vị vua ở đấy đã
yêu cầu ngài đến giảng dạy và
ban phước cho xứ ấy bằng sự
hiện diện của ngài. Khi được tin ngài đã đến Sikkim, nhiều bậc thầy từ
Tây Tạng cũng đến đấy để
thọ giáo với ngài,
mang theo những
bản kinh quý hiếm, nhờ vậy mới khỏi bị
phá hủy. Jamyang Khientse là bậc thầy của những bậc thầy, và đến lượt chùa, cung điện nơi ngài ở
trở thành một
trung tâm tu học lớn. Khi
tình hình Tây Tạng càng lúc càng
kinh khủng, thì có thêm nhiều Lạt-ma đến
tụ tập quanh ngài.
Người ta bảo nếu những bậc thầy vĩ đại giảng dạy quá nhiều, thì không sống lâu ; như thể là họ gánh lấy những
chướng ngại xảy ra cho nền
giáo lý. Có những lời tiên đoán, nếu thầy tôi đừng giảng dạy mà chỉ
du hành như một
ẩn sĩ đến những nơi xa xôi hẻo lánh, thì ngài có thể sống lâu nhiều năm nữa. Quả thế, ngài cũng đã cố làm điều này : Khi
chúng tôi khởi hành từ tỉnh Kham lần cuối, ngài đã để lại tất cả
sở hữu và ra đi
trong vòng bí mật hoàn toàn. Nhưng khi
khám phá ra tông tích ngài, thì
đâu đâu người ta cũng liền đến xin ngài giảng dạy và làm phép
quán đảnh.
Lòng từ bi của ngài lớn rộng tới nỗi dù biết nguy hiểm đến tánh mạng, ngài vẫn
tiếp tục giảng dạy.
Và chính tại Sikkim mà Jamyang Khientse ngã bệnh, đúng vào lúc nhận được hung tin
Tây Tạng cuối cùng đã gục ngã. Tất cả những vị Lạt-ma lớn nhất, trưởng các hệ phái,
lần lượt tấp nập đến viếng thăm thầy tôi.
Lễ cầu an diên mạng cho ngài được tổ chức suốt ngày suốt đêm. Mợi người đều
tham dự. Tất cả
chúng tôi đều yếu cầu ngài sống thêm, vì một bậc thầy vĩ đại như ngài thì có
năng lực quyết định thời gian để
lìa bỏ thể xác. Ngài cứ nằm trên giường, nhận tất cả những đồ dâng cúng, cười lớn mà bảo : “Được rồi, chỉ để
chứng tỏ điềm lành, tôi nói là tôi sẽ sống” .
Dấu hiệu đầu tiên
chúng tôi biết được là qua Gyalwang Karmapa. Ngài bảo Karmapa rằng ngài đã
hoàn tất công việc ngài phải làm
trong đời, và ngài đã
quyết định từ giã
thế gian. Một trong những
thị giả thân tín của thầy tôi bật lên khóc vừa khi nghe Karmapa
tiết lộ điều này, sau đó
chúng tôi đều biết. Cái chết của ngài
cuối cùng đã xảy đến
ngay sau khi chúng tôi nghe ba
tu viện lớn nhất
Tây Tạng là Sera, Drepung và Gaden đã bị quân
Trung Quốc chiếm đóng. Dường như đấy là một
biểu tượng bi đát khi
Tây Tạng sụp đổ thì
con người vĩ đại ấy,
linh hồn của
Phật giáo Tây Tạng, cũng từ trần.
Jamyang Khientse Chokyi Lodro mất lúc 3 giờ sáng, vào ngày mồng 6 tháng 5, lịch
Tây Tạng. Mười ngày trước đấy, trong khi
chúng tôi đang có cuộc lễ cầu
diên thọ suốt đêm cho ngài,
thình lình đất rung chuyển vì một trận động đất lớn. Theo
kinh điển Phật giáo, thì đấy là
triệu chứng một bậc
giác ngộ sắp từ trần.
Trong 3 ngày, sau khi ngài đã
viên tịch, sự
bí mật được giữ
tuyệt đối không ai được biết Khientse đã chết. Tôi chỉ được bảo
cho biết sức khỏe của ngài đang
biến đổi tệ hơn, và thay vì ngủ trong phòng ngài như thường lệ, tôi được bảo phải ngủ phòng khác.
Thị giả thân cận nhất của thầy tôi và Lama Chokden, vị thầy
nghi lễ, ở lại với thầy tôi lâu hơn tất cả
mọi người. Ông là một nhà
khổ hạnh lặng lẽ nghiêm trang với đôi mắt nhìn sâu thẳm và đôi má hóp,
phong độ nhã nhặn khiêm cung. Chokden
nổi tiếng vì tính
trung thực, đàng hoàng,
lịch sự, và có
trí nhớ phi thường. Ông nhớ từng chữ lời thầy tôi dặn, thuộc từng mẩu chuyện, và biết rõ từng
chi tiết của mọi lễ lạc
phức tạp nhất, cùng
ý nghĩa của chúng. Ông cũng là một
hành giả gương mẫu và một thầy giáo trong lĩnh vực của ông.
Lúc ấy chúng tôi nhìn Lama Chokden
tiếp tục mang những
bữa ăn của thầy tôi vào phòng, nhưng mặt ông trông rất buồn thảm.
Chúng tôi không ngớt hỏi thầy Khientse tôi ra sao, nhưng Chokden chỉ nói : “Ngài vẫn thế” . Trong vài
truyền thống, sau khi một bậc thầy qua đời, và suốt
thời gian ngài
an trú trong
thiền định sau khi chết, điều quan trọng là phải giữ
bí mật. Chỉ 3 ngày sau đó
chúng tôi mới được nghe thầy đã chết.
Chính phủ Ấn đã đánh một điện tín qua Bắc kinh, từ đấy tin được đưa đến
tu viện Dzongsar của thầy tôi ở
Tây Tạng, ở đấy nhiều thầy tu đã khóc trước khi
hay tin, vì họ đã biết ngài sẽ chết bằng cách nào đó. Trước khi thầy tôi và tôi ra đi, thầy Khientse đã làm một
lời hứa huyền bí rằng thầy sẽ
trở lại một lần trước khi chết. Và thầy đã
trở lại. Vào ngày Tết năm ấy, sáu tháng trước khi ngài từ trần, trong khi đang
cử hành một điệu vũ
cổ truyền, nhiều vị sư già đã thấy
hình ảnh ngài
xuất hiện trên nền trời. Tại
tu viện, thầy tôi đã lập một trường học
nổi tiếng vì đã
đào tạo được nhiều
học giả xuất sắc của thời
cận đại. Trong ngôi
chánh điện của trường, có một
tượng Phật Di Lặc khổng lồ. Vào một buổi sáng sớm, ngay sau ngày linh kiến
xuất hiện trên trời, khi người giữ
chánh điện mở cửa thì thấy Khientse đang ngồi trên vế
đức Phật Di Lặc.
*
Thầy tôi từ trần trong tư thế “sư tử nằm ngủ”. Mọi triệu tướng đều
chứng tỏ ngài vẫn đang trong
thiền định, không ai động tới thi thể
trong suốt 3 ngày. Cái lúc ngài
xuất định là một kỷ niệm tôi sẽ nhớ
suốt đời : Lỗ mũi ngài
thình lình xẹp xuống, màu sắc trên gương mặt không còn, và đầu ngài hơi ngoẻo về một phía. Cho tới
lúc ấy, luôn luôn vẫn còn một mức
tự chủ nào đó, một
sức mạnh, một sự sống nào đó ở trên xác thầy.
Vào chiều tối
chúng tôi tắm rửa cái xác, mặc
y phục và đưa xác từ phòng ngủ của thầy
lên ngôi chánh điện của cung đình. Từng đám đông người
lũ lượt kéo đến xếp hàng quanh ngôi đền để
lễ bái. Khi ấy, một điều
dị thường xảy ra. Một ánh sáng
rực rỡ màu sữa, trông như một đám mù mỏng và sáng bắt đầu
xuất hiện và
dần dần tỏa khắp. Ngôi
chánh điện của cung đình có 4 bóng điện bên ngoài, thông thường vào giờ ấy chúng chiếu sáng rực. Nhưng
lúc ấy chúng bị mờ đi vì ánh sáng huyền bí ấy. Apa Pant
lúc ấy là sĩ quan chính trị ở Sikkim, là người đầu tiên điện thoại đến hỏi có việc gì xảy ra. Nhiều người khác cũng khởi sự gọi đến
hỏi thăm :
hiện tượng lạ lùng
phi phàm ấy đã được hàng trăm người trông thấy. Một trong những bậc thầy
lúc ấy đã cho
chúng tôi biết đấy là dấu hiệu có người đang
chứng đắc Phật quả.
Lúc đầu có
dự tính xác của thầy tôi sẽ được giữ trong chùa cung điện một
tuần lễ, nhưng ngay sau đó
chúng tôi khởi sự nhận nhiều điện tín từ các
đệ tử của ngài. Đấy là vào năm 1959, nhiều người trong đó có Dilgo Rinpoche vừa mới di tản đến sau một cuộc
gian nan dài
đào thoát khỏi
Tây Tạng. Tất cả những vị này đều
yêu cầu giữ cái xác lại để họ có thể được dịp trông thấy. Bởi vậy
chúng tôi giữ thêm 2 tuần. Mỗi ngày có 4 phiên
cầu nguyện, mỗi phiên hàng trăm
tu sĩ,
dẫn đầu bởi những Lạt-ma thuộc đủ mọi
tông phái khác nhau, thường lại có những vị chưởng môn các
tông phái làm
chủ tọa buổi lễ. Hàng ngàn cây đèn bơ được thắp lên dâng. Cái xác vẫn không hôi thối, cúng không khởi sự tan rã, bởi thế
chúng tôi giữ thêm một
tuần lễ nữa. Ở Ấn, trời
vô cùng nóng bức vào
mùa hạ, thế mà hết tuần này sang tuần khác, thi thể vẫn không có dấu hiệu gì là tan rã.
Rốt cuộc chúng tôi giữ cái xác của thầy tôi trong 6 tháng ;
trong thời gian ấy, một khung cảnh giảng dạy và
thiền tập diễn ra trước sự
hiện diện thiêng liêng của thầy tôi : những
giáo lý mà Jamyang Khientse đã giảng dạy nhưng chưa
hoàn tất, bây giờ được
hoàn tất bởi những
đệ tử lớn nhất của ngài, và nhiều thật nhiều những
tu sĩ được
thụ giới pháp.
Cuối cùng chúng tôi đưa thi thể đến nơi mà thầy đã chọn để làm lễ
hỏa táng. Tashiding là một trong những cảnh
thiêng liêng nhất của Sikkim, nằm trên một ngọn đồi. Tất cả
đệ tử đều lên đấy,
chúng tôi tự
thân hành xây dựng tháp cho di thể của ngài, mặc dù ở Ấn những công việc ấy thường mướn nhân công.
Mọi người trẻ, già, từ bậc thầy như Dilgo Khientvse
cho đến người
bình thường nhất, đều mang đá gạch lên đồi và tự tay xây
toàn bộ ngôi tháp. Đấy là bằng chứng
cụ thể nhất
chứng tỏ niềm
sùng kính mà ngài đã gợi cho
chúng tôi.
*
Không một lời nào có thể nói lên để
diễn tả sự mất mát lớn lao trong cái chết ấy. Khi rời khỏi
Tây Tạng, tôi và
gia đình tôi mất hết đất đai,
tài sản, nhưng hồi đó tôi còn quá nhỏ nên không tiếc gì. Nhưng mất thầy Jamyang Khientse tôi, là một sự mất mát to lớn, đến nỗi bây giờ sau bao nhiêu năm tôi vẫn còn
thương tiếc.
Toàn thể chuỗi ngày
thơ ấu của tôi đã được sưởi ấm bởi sự
hiện diện của thầy như
ánh mặt trời. Tôi đã ngủ trong một cái giường nhỏ dưới chân giường thầy, trong nhiều năm tôi đã
thức dậy giữa
âm thanh của lời thầy
thì thầm lời kinh sáng và tiếng thầy lần
tràng hạt. Lời thầy,
giáo lý thầy dạy, ánh sáng
thanh bình mà sự
hiện diện của ngài
tỏa ra, nụ cười của ngài, tất cả, là những ký ức không
phai mờ trong tôi. Ngài là nguồn
cảm hứng của đời tôi ; chính
hiện diện của ngài và của Padmasambhava mà tôi luôn luôn
triệu thỉnh mỗi khi gặp khó khăn hay khi giảng dạy. Cái chết của ngài là một mất mát
vô số kể cho toàn
thế giới và cho
Tây Tạng. Tôi thường nghĩ về ngài, cũng như về Dilgo Rinpoche, rằng nếu
Phật giáo phải
bị hủy diệt mà chỉ cần
một mình ngài còn sống, thì
Phật giáo vẫn không sao cả, vì ngài là
hiện thân toàn vẹn của
ý nghĩa đạo Phật. Jamyang Khientse chết đi, là cả một
thời đại, dường như cả một trời
năng lực và
tri kiến cùng sụp đổ theo ngài.
Ngài mất lúc ngài chỉ mới 67 tuổi. Tôi thường tự hỏi tương lai
Phật giáo Tây Tạng sẽ khác tới mức nào nếu ngài còn sống để khơi nguồn
cảm hứng cho sự
tăng trưởng của
Phật giáo trong dân tộc
lưu đày và tại
Tây phương. Sự
uyên bác của ngài về mọi
truyền thống, sự
kính trọng của ngài đối với tất cả
giáo phái, đã làm cho ngài được
yêu chuộng khắp nơi ở
Tây Tạng. Bởi vì ngài đã là bậc thầy của tất cả những bậc thầy, chưởng môn các
giáo phái đều
thụ giáo và nhận
lễ quán đảnh từ nơi ngài, xem ngài như bổn sư, cho nên
lẽ tự nhiên là ngài có thể kéo họ lại gần nhau trong
tinh thần hòa điệu và
hợp tác.
Thế nhưng, một bậc thầy vĩ đại thì không bao giờ chết. Jamyang Khientse đang gợi
cảm hứng cho tôi viết sách này ; ngài là
năng lượng đằng sau
tác phẩm và bất cứ gì tôi giảng dạy ; là nền tảng, là
tinh thần của mọi sự tôi làm ; chính ngài hiện vẫn
tiếp tục dẫn đạo nội tâm tôi. AÂn sủng của thầy và
niềm tin vào
ân sủng đó luôn luôn có mặt trong tôi,
dìu dắt tôi qua những khó khăn trong
nỗ lực trình bày
truyền thống tâm linh mà ngài là một
đại diện cao cả. Gương mặt cao quý của ngài bây giờ vẫn còn
sống động với tôi hơn bất cứ gương mặt của một người nào đang sống ; và trong mắt ngài, tôi luôn luôn thấy ánh
sáng trí tuệ siêu thoát và từ mẫn
vô biên, mà
trên trời dưới đất không một mãnh lực nào có thể
dập tắt được.
Mong sao tất cả các bạn đọc sẽ biết được một ít về ngài như tôi biết, mong sao tất cả bạn đọc sẽ được nguồn
cảm hứng từ
cuộc đời phụng hiến của ngài và cái chết
vinh quang của ngài như tôi đã được, mong sao tất cả các bạn sẽ rút được - từ tấm gương
hy sinh của ngài cho sự
an lạc của tất cả
hữu tình -
lòng can đảm và
trí tuệ mà bạn cần, để làm việc cho
sự thật trong thời
hiện đại.