PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH
19- GIÚP ĐỠ SAU KHI CHẾT
Trong
thế giới tân tiến, rất thường khi một người nào chết, thì một trong những nỗi lo sầu nhất cho người ở lại là nghĩ rằng họ không thể làm gì để giúp đỡ những người
thân yêu đã mất. Đó là một
niềm tin chỉ làm cho sự
sầu khổ của họ càng thêm
trầm trọng. Nhưng sự
thực không phải thế. Có nhiều, rất nhiều cách
chúng ta có thể giúp người đã chết, và tự giúp cả
chúng ta để sống
vắng bóng họ. Một trong những
đặc điểm của
đạo Phật, một trong những đường lối
chứng tỏ phương tiện thiện xảo và
tâm từ bi của chư Phật là có rất nhiều pháp tu
đặc biệt để giúp người chết, và còn an ủy được tang quyến đau buồn.
Tử Thư có lối nhìn bao quát cả sống và chết, cho ta thấy rằng có nhiều cách giúp đỡ người khác trong mọi tình huống có thể nghĩ tới, bởi vì không có một
ranh giới nào giữa cái gọi là “sinh” và cái gọi là “tử”.
Năng lực sáng chói và sự ấm áp của
tâm từ bi có thể vươn tới để giúp đỡ tất cả mọi tình huống, mọi
cảnh giới.
Khi nào ta có thể giúp
Trung Ấm tái sinh, như đã nói, dường như là một
thời gian hết sức rầy rà đáng ngại. Nhưng trong đó có niềm
hy vọng lớn lao. Những
tính chất của thân ý sanh suốt trong giai đoạn
Trung Ấm làm cho nó dễ
bị thương tổn - sự
sáng suốt của nó,
di động,
nhạy cảm, và
thần thông - song cũng làm cho nó
đặc biệt dễ cảm thụ đối với sự giúp đỡ của người sống.
Sự kiện nó không có hình dạng
vật lý làm cho nó rất dễ hướng dẫn.
Tử Thư Tây Tạng ví thân ý sanh này như một con ngựa, dễ dàng được điều khiển với sợi dây cương hoặc với một thân cây khổng lồ, khi ở trên đất thì có thể là khó
di chuyển, nhưng khi đã nổi
bềnh bồng trên mặt nước thì bạn có thể đưa nó đi bất cứ đâu
tùy ý, không cần
nỗ lực.
Thời gian tốt nhất để
tu tập cho người chết là 49 ngày
Trung Ấm tái sanh, mà 3 tuần đầu là quan trọng nhất. Chính trong 3 tuần ấy, người chết có một
liên hệ mạnh mẽ với
cuộc đời này, làm cho họ dễ dàng nhận sự giúp đỡ của ta. Bởi thế, chính trong
thời gian này sự
tu tập của ta có thể
ảnh hưởng đến tương lai của người chết nhiều hơn cả, hoặc giúp họ
giải thoát, hoặc giúp họ có
tái sanh tốt đẹp. Vậy ta nên dùng mọi
phương tiện ta có thể để giúp họ, vì sau khi hình dạng
vật lý của họ bắt đầu
quyết định, - thường là khoảng từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 49 - thì cơ hội chuyển nghiệp cho họ càng bị
hạn chế.
Tuy nhiên sự giúp đỡ người chết không chỉ
giới hạn trong 49 ngày
sau khi chết. Không bao giờ quá muộn để giúp đỡ người nào đã chết, dù họ chết lâu bao nhiêu về trước. Người mà bạn muốn giúp có thể đã chết 100 năm về trước, nhưng nếu ta
tu tập cho họ, vẫn còn được
lợi lạc. Dudjom Rinpoche thường nói ngay cả khi người ấy đã đạt
giác ngộ, họ vẫn còn cần tất cả sự giúp đỡ mà họ có thể dùng để giúp lại kẻ khác.
Ta có thể giúp đỡ như thế nào
Cách tốt nhất và dễ nhất để giúp đỡ một người chết là làm pháp
Chuyển di tâm thức tinh yếu mà tôi đã trình bày trong chương 13, khi
chúng ta nghe một người nào đã chết.
Ở
Tây Tạng,
chúng ta nói cũng như
bản chất của lửa là đốt cháy, của nước là giải khát,
bản chất của chư Phật là
hiện thân ngay khi người nào
triệu thỉnh, vì
từ bi của các ngài là vô hạn, muốn giúp đỡ tất cả
hữu tình. Đừng bao giờ tưởng tượng rằng bạn
cầu nguyện không
hiệu quả bằng một “người thánh thiện”
cầu nguyện cho họ. Bởi vì bạn gần với người chết hơn, nên mãnh lực của tình yêu và chiều sâu của mối
liên hệ sẽ làm cho sự
cầu nguyện của bạn có
năng lực hơn.
Các bậc thầy đã
bảo đảm với
chúng ta : hãy kêu cầu với chư Phật, các ngài sẽ
đáp ứng bạn.
Khandro Tsering Chodron, người vợ
tâm linh của Jamyang Khientse, thường nói rằng, nếu bạn thực sự có tâm tốt và có
ý định chân thành, thì khi bạn cầu cho người nào, sự
cầu nguyện sẽ rất
hiệu nghiệm. Bởi thế, hãy
tin tưởng rằng nếu người nào bạn rất
thương yêu đã chết, và nếu bạn
cầu nguyện cho họ với tình yêu và lòng
chân thành, thì sự
cầu nguyện của bạn sẽ có
hiệu lực đặc biệt.
Cách tốt nhất,
hiệu quả nhất để làm pháp
Chuyển di là trước khi thi thể bị chạm tới hay bị
di chuyển bất cứ cách nào. Nếu điều này không thể
thực hiện, hãy làm pháp
Chuyển di tại chỗ mà người ấy đã chết, hay
ít nhất tưởng tượng rõ rệt
hình ảnh nơi ấy trong tâm bạn. Có một
liên hệ mãnh liệt giữa người chết với nơi chốn và
thời gian chết, nhất là trong
trường hợp người chết
bạo tử.
Trong cõi
Trung Ấm tái sanh, như tôi đã nói,
tâm thức người
chết sống trở lại cái
kinh nghiệm chết mỗi tuần
một lần, vào đúng ngày hôm ấy. Bởi thế bạn nên làm pháp
Chuyển di, hay bất cứ
pháp môn tu nào bạn đã chọn, vào bất cứ ngày nào trong 49 ngày, nhưng
đặc biệt là vào những ngày tuần của người chết.
Mỗi khi người
bà con hay bạn bè đã chết
hiện lên trong
tâm trí bạn, mỗi khi bạn nghe tên người ấy được nhắc tới, thì hãy gởi đến họ niềm
yêu thương của bạn, và tập trung làm phép
Chuyển di. Làm pháp ấy bao lâu
tùy ý, và càng nhiều lần càng tốt.
Một điều khác bạn có thể làm, mỗi khi bạn nghĩ tới người nào đã chết, là đọc ngay một câu chú như
OM MANI PADME HUM,
thần chú của
đức Phật của
lòng từ mẫn, tịnh hóa được tất cả
ác nghiệp đưa đến
tái sanh ; hoặc câu OM AMI DEWA HRIH,
thần chú của đức
A Di Đà, vị Phật của ánh sáng
vô lượng. Rồi bạn có thể
tiếp theo bằng pháp
Chuyển di.
Nhưng dù bạn có làm bất cứ
pháp môn nào trên đây để giúp người chết hay không làm, đừng bao giờ quên rằng tâm trong cõi
Trung Ấm rất bén nhạy, bạn chỉ cần hướng những
thiện cảm đến họ cũng đủ
lợi lạc cho họ rồi.
Khi bạn
cầu nguyện cho người nào
thân thiết, bạn có thể, nếu muốn,
bao gồm cả những người đã chết khác trong lời
cầu nguyện : những nạn nhân của chiến tranh, tàn bạo, tai ách, đói kém, hoặc những người đã và đang chết trong các trại tập trung, như tại
Trung Quốc và
Tây Tạng. Bạn có thể
cầu nguyện cho những người đã chết nhiều năm về trước, như ông bà cố của bạn và những người trong
gia đình đã chết từ lâu, hay những nạn nhân trong hai cuộc thế chiến. Hãy tưởng tượng lời
cầu nguyện của bạn
đặc biệt trải đến những người đã chết trong
cơn giận dữ,
lo lắng hãi hùng.
*
Những người đã có cái chết
kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của
ám sát,
tự sát,
tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào
sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong
kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn
tái sanh. Khi bạn làm pháp
Chuyển di cho họ, hãy làm với mức độ mãnh liệt tha thiết hơn bao giờ cả.
Hãy tưởng tượng những
tia sáng chói lọi tuôn phát từ chư Phật và Bồ-tát, trút xuống tất cả
ân sủng từ bi của các ngài. Tưởng tượng ánh sáng ấy tuôn xối trên người chết, tịnh hóa họ
hoàn toàn,
giải thoát họ khỏi nỗi
đau đớn rối loạn của cái chết, đem lại cho họ
an bình sâu xa lâu dài. Rồi tưởng tượng, với tất cả
tâm hồn bạn, người chết đang tan thành ánh sáng và
tâm thức họ bây giờ đã được chữa lành, thoát mọi khổ đau và bay lên hòa nhập với
tâm giác ngộ của chư Phật.
Một vài người
Tây phương vừa qua viếng thăm
Tây Tạng đã kể cho tôi nghe một
câu chuyện mà họ
chứng kiến. Một ngày nọ, một người
Tây Tạng đang đi bộ bên lề đường, bị một chiếc xe cam-nhông của
Trung Quốc đụng chết ngay tức khắc. Khi ấy, một
tu sĩ tình cờ đi qua,
vội vàng đến ngồi cạnh người chết nằm trên đất. Họ trông thấy
tu sĩ ghé vào tai người chết đọc một câu gì đó ;
thình lình họ
kinh ngạc thấy người
chết sống lại. Khi ấy
tu sĩ làm pháp
Chuyển di tâm thức cho người ấy, và hướng dẫn ông ta
an tịnh đi vào cõi chết. Cái gì đã xảy ra ?
Rõ ràng vị
tu sĩ đã
nhận thấy nỗi
kinh hoàng của người kia, làm cho y rất
giao động khi chết, nên vị
tu sĩ đã hành động
chớp nhoáng : trước hết
giải thoát tâm người chết khỏi nỗi đau buồn, rồi sau đó, nhờ pháp
Chuyển di, đưa
thần thức họ về một
cõi Phật, hoặc một
tái sanh tốt. Đối với những người
Tây phương chứng kiến việc ấy, thì
tu sĩ có vẻ chỉ là một người
bình thường, nhưng
câu chuyện này
chứng tỏ ông là một
hành giả có
năng lực rất đáng nể.
Thiền định và
cầu nguyện không phải là cách
duy nhất ta có thể làm để giúp người chết.
Chúng ta có thể
bố thí cho người bệnh, người
nghèo khổ, để
hồi hướng cho họ.
Chúng ta có thể đem
tài sản họ để lại để cho người nghèo. Ta có thể
nhân danh họ mà đóng góp vào các việc nghĩa như sung vào bệnh viện, cứu trợ,
tiếp dẫn đường hay
tu viện.
Ta cũng có thể
bảo trợ cho các khóa tu
nhập thất của những
hành giả tốt, hay lễ
cầu nguyện do những bậc thầy vĩ đại hướng dẫn ở những nơi
thiêng liêng như
Bồ đề tràng. Ta có thể cúng đốt đèn cho người chết, hay
bảo trợ những
công trình mỹ thuật
liên hệ đến việc
tu tập. Một
phương pháp giúp đỡ người chết nữa là
phóng sanh những con vật sắp
bị giết. Pháp này
thịnh hành ở
Tây Tạng và dãy
Hy Mã Lạp Sơn.
Điều quan trọng là
hồi hướng công đức những
thiện sự ấy cho người chết, cho tất cả người chết, để
mọi người đã chết có được một
tái sanh tốt và
hoàn cảnh thuận lợi trong đời kế tiếp của họ.
Sự thấu thị của người chết
Hãy nhớ rằng
tâm thức người trong cõi
Trung Ấm sáng suốt bén nhạy gấp bảy lần khi sống. Điều này có thể làm cho họ
đau khổ lớn hoặc
lợi lạc lớn.
Bởi thế, điều cốt yếu là, khi một người thân chết, bạn phải càng
cẩn thận càng tốt, trong tất cả
hành vi cử chỉ bạn, để khỏi
quấy rầy họ, làm họ
tổn thương. Vì khi người chết
trở về nhà với những người thân còn lại, hay với những người
tụng niệm làm phép cho họ, thì trong
tình trạng mới của
tâm thức họ, họ có
thể không những trông thấy những gì đang xảy ra, mà còn đọc được trong tâm những người khác. Nếu
bà con chỉ
âm mưu tranh đoạt chia
gia tài họ để lại, hay chỉ nói và nghĩ về
ân oán, không co
tình thương chân thực đối với người chết, thì họ có thể
vô cùng tức giận,
đau khổ, vỡ mộng, và do đó sẽ bị lôi kéo vào những
cảm xúc dữ dội mà phải
đi vào một
tái sanh bất hạnh.
Chẳng hạn, hãy tưởng tượng nếu người chết thấy người ta
tụng kinh cho mình không
thành khẩn, tâm người tụng bận rộn với những việc
giải trí tầm thường thì họ có thể mất tất cả chút
niềm tin nào họ có thể có. Hãy tưởng tượng nếu một người chết phải nhìn những người thân buồn sầu
thảm thiết, cũng có thể làm cho họ
vô cùng áo não. Và nếu ví dụ người chết
khám phá ra rằng
bà con chỉ
giả vờ yêu thương họ vì tiền, thì họ cũng có thể
đau khổ vỡ mộng đến nỗi sẽ thành ma
trở về ám ảnh người hưởng
gia tài mình để lại. Bây giờ bạn đã thấy những gì bạn làm, nghĩ, hay
cư xử sau khi một người thân chết, có thể có tầm quan trọng ghê gớm và
ảnh hưởng lớn lao đến tương lai họ nhiều hơn bạn tưởng.
Bạn cũng sẽ thấy tại sao điều thật thiết yếu cho
tâm linh người chết được
an ổn, là những người còn lại phải
hòa hợp. Bởi thế, ở
Tây Tạng khi
bà con bạn bè người chết tụ hội lại, họ thường được khuyến khích hãy cùng tụng đọc
với nhau càng nhiều càng tốt một câu
thần chú như OM MNI PADME HUM. Điều này ai ở
Tây Tạng cũng có thể làm, vì biết nó
chắc chắn sẽ giúp đỡ người chết. Bởi thế, câu
thần chú này gây cho họ nguồn
cảm hứng để cùng nhau tụng đọc trong niềm
sùng tín. Tính
thiêng liêng của người chết trong cõi
Trung Ấm cũng khiến nếu được một bậc thầy hay
hành giả tâm linh giàu
kinh nghiệm làm lễ, người chết sẽ được
lợi lạc vô cùng. Điều vị ấy là là
an trú trong
tự tánh tâm nguyên ủy, rồi hô triệu thân ý sanh của người chết đang lang thang trong cõi
Trung Ấm. Khi thân ý sanh đã đến trước bậc thầy, do
năng lực thiền định của ông, ông có thể khai thị
bản tánh thanh tịnh cho người chết. Nhờ
năng lực thần thông, người chết thấy được
tâm giác ngộ của vị thầy, và ngay tại chỗ
được giải thoát.
Những cũng chính vì
lý do đó, mà bất cứ gì một
hành giả thông
thường có thể làm cho người chết, cũng có thể giúp họ rất nhiều. Bạn có thể
tu tập pháp quán một trăm vị thần
an lạc và
phẫn nộ liên hệ Tử Thư Tây Tạng, hay bạn có thể chỉ
an trú trong một tâm trạng bi mẫn ; nhất là nếu khi ấy bạn có
triệu thỉnh hương linh người chết, thì họ được
lợi lạc vô cùng.
Mỗi khi
hành giả Phật tử chết,
chúng tôi báo cho tất cả thầy và
bạn đạo của họ biết để có thể khởi sự
hành pháp cầu siêu cho họ ngay. Thường tôi thâu thập tên những người đã chết, rồi gửi đến cho những bậc thầy lớn mà tôi biết ở Ấn và
Hy Mã Lạp Sơn. Cách vài tuần, các vị này làm pháp thanh luyện cho họ
một lần, và mỗi năm có một thiền hội mười ngày để cầu siêu tập thể tại các
tu viện.
Cách Tây Tạng cầu siêu người chết
1-
Tử Thư Tây Tạng Tại
Tây Tạng, khi pháp
Chuyển di đã làm cho người chết xong, quyển
Tử Thư được đọc đi đọc lại nhiều lần, và những pháp tu
liên hệ được
thực hành. Ở miền Đông
Tây Tạng,
chúng tôi thường có truyền thống đọc
Tử Thư suốt 49 ngày
sau khi chết. Qua đó, người chết được chỉ
cho biết họ đang ở giai đoạn nào trong tiến trình, và được cho những
chỉ dẫn hay
cảm hứng mà họ cần.
Những người
Tây phương thường hỏi tôi : “Làm sao một người đã chết có thể nghe đọc
Tử Thư ?”
Câu
trả lời giản dị là :
Tâm thức người chết khi được hô triệu bởi
năng lực của lời kinh, thì có thể đọc được tâm ta và có thể cảm nhận đúng những gì mà ta có thể nghĩ hay
thiền định về họ. Bởi thế, không có
chướng ngại nào cho người chết để hiểu được
Tử Thư Tây Tạng đang đọc cho họ, dù là đọc bằng Tạng ngữ.
Đối với người chết thì
ngôn ngữ không là một trở ngại, vì tâm họ có thể đọc được
ý nghĩa cốt yếu của kinh văn.
Điều này khiến cho sự tập
trung tâm ý của người
hành lễ càng thêm quan trọng, chứ không phải chỉ làm chiếu lệ mà được. Và bởi vì người chết đang thực sự sống những
kinh nghiệm đề cập trong sách, nên họ có thể có nhiều khả năng hơn ta để hiểu
chân lý của
Tử Thư.
Đôi khi tôi tự hỏi : “Nhưng nếu lỡ
tâm thức đã ngất xỉu và rơi vào
tình trạng quên lãng vào lúc chết thì sao ?” . Vì ta không biết bao lâu người chết sẽ ở trong
trạng thái hôn mê, và lúc nào thì họ bắt đầu
đi vào Trung Ấm tái sanh, nên
Tử Thư được đọc và
tu luyện liên tục để phòng hờ.
Nhưng còn những người không
quen thuộc với
giáo lý hay
Tử Thư thì sao ?
Chúng ta có nên đọc cho họ nghe không ? Đức Dalai Lama đã cho một lời
chỉ dẫn rõ ràng :
Dù bạn có tin
tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm
an bình lúc chết... Theo
quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin
luân hồi hay không, thì sự
tái sanh của họ vẫn
hiện hữu, bởi thế một tâm
an bình là quan trọng vào lúc chết. Nếu người chết là một kẻ
vô thần, thì việc đọc
Tử Thư có thể làm tâm họ
giao động, có thể gợi sự thù ghét, và bởi thế có thể hại họ hơn là giúp họ. Nhưng nếu người nào
mở lòng ra mà nghe, thì những câu
thần chú hay
danh hiệu Phật trong đó có thể giúp họ “kết nhân duyên” và nhờ thế có thể có
ích lợi cho họ. Bởi thế, điều quan trọng trên hết là xét
thái độ của người chết.
2- Né Dren và Chang Chok
Cùng với việc đọc
Tử Thư còn có lễ Né Dren để hướng dẫn hương linh, hay lễ Chang Chok để tịnh hóa hương linh, trong đó bậc thầy sẽ hướng dẫn người chết đến một
tái sanh tốt.
Tốt nhất, hai lễ ấy nên làm
ngay sau khi chết, hay
ít nhất trong vòng 49 ngày. Nếu thi
thể không có đấy, thì nên hô triệu
thần thức người chết về trong một hình nhân hay tấm thẻ “bài vị” có hình và tên họ người ấy, gọi là một “tsenjang”. Lễ này có
năng lực nhờ ở
sự kiện rằng
thời gian ngay sau khi chết, người chết
thường có một
ấn tượng mạnh về thân xác mình
trong đời vừa qua.
Nhờ
năng lực thiền quán của bậc thầy,
thần thức người chết đang lang thang trong cõi
Trung Ấm, được gọi về trong tấm thẻ bài hay tấm
ảnh tượng trưng cho họ.
Thần thức khi ấy được tịnh hóa, lọc sạch những
hạt giống nghiệp trong sáu cõi, rồi được nghe một bài
thuyết pháp giống như lúc còn sống ở đời ; và người chết khi ấy được khai thị
bản tâm.
Cuối cùng, lễ
Chuyển di tâm thức được
thực hiện và
thần thức người chết được hướng dẫn đến một trong các
cõi Phật. Sau đó tsenjang (hình nhân hay thẻ bài) được đốt, và thế là đã tịnh hóa
nghiệp chướng của người chết.
3- Tịnh hóa
lục đạoThầy tôi, Dilgo Khientse Rinpoche thường bảo, lễ “Tịnh hóa lục đạo” là lễ thanh luyện tốt nhất cho một
hành giả đã chết.
Sự
tu tập để tịnh hóa
lục đạo này thường làm khi sống, dùng
thiền định và
quán tưởng để thanh lọc thân xác khỏi sáu
phiền não chính, cùng với sáu cõi mà
phiền não ấy tạo nên. Pháp này cũng có thể làm cho người chết rất
hiệu nghiệm, vì nó thanh lọc
căn bản nghiệp của họ,ï và do đó thanh lọc cái gốc rễ của tương quan giữa họ với
sinh tử. Điều này quan trọng, vì nếu
cảm xúc tiêu cực (
phiền não) không tịnh hóa, thì chúng sẽ điều động
thần thức tái sanh vào cõi nào đó trong
lục đạo.
Theo
mật điển Dzogchen, những
cảm xúc tiêu cực tích tụ trong hệ tâm-vật-lý là những huyệt đạo
vi tế, nội phong hay
năng lực, và nhóm lại ở một vài
trung tâm năng lực (huyệt)
đặc biệt trong cơ thể. Bởi thế,
hạt giống của
địa ngục và nhân của nó là
giận dữ, được định
vị trí ở dưới hai gót chân ;
cõi ngạ quỷ và nhân của nó là
dục tham, gốc ở
bàn tọa ;
cõi súc sinh và nhân của nó là
ngu si thì có
vị trí ở rốn ;
cõi người và nhân của nó là
hoài nghi, có trị tri ở tim ; cõi tu-la và nhân của nó là ganh tị nằm ở yết hầu ;
cõi trời và nhân của nó là
kiêu mạn, thì có
vị trí ở đỉnh đầu.
Trong pháp
tu tập để tịnh hóa
lục đạo, khi mỗi cõi và
cảm xúc tiêu cực của nó được thanh lọc,
hành giả quán tưởng tất cả nghiệp do
cảm xúc đặc biệt ấy tạo nên bây giờ đã khô kiệt, và
thân phần liên hệ đến nghiệp của
cảm xúc ấy
hoàn toàn tan thành ánh sáng. Bởi thế, khi bạn làm pháp
tu luyện này cho một người chết, thì hãy
nhất tâm quán tưởng rằng, sau khi làm xong, tất cả nghiệp được
thanh tịnh và thân họ, toàn
bản thể họ tan thành ánh sáng
rực rỡ.
4- Pháp
tu quán một trăm vị thần
an lạc và phẫn noä
Một cách khác để giúp người chết là sự
hành trì Trăm vị thần
an lạc và
phẫn nộ (những thần này đã được nói ở chương 17 - “Tia sáng nội tâm”).
Hành giả quán
toàn thân thể mình là một mandala của trăm vị thần
an lạc và
phẫn nộ ; chư thần
an lạc được quán ở huyệt tim, chư thần
phẫn nộ ở não.
Hành giả khi ấy tưởng tượng chư thần phát ra ngàn
tia sáng chan hòa lên trên người chết để tịnh hóa tất cả
ác nghiệp của họ.
Thần chú để tịnh hóa mà
hành giả tụng đọc là
thần chú Kim cương tát đỏa, vị
thần chủ trì tất cả mandala của
Mật giáo, và là vị thần ở trung ương trong mandala một trăm vị thần
an lạc và
phẫn nộ, mà
năng lực được hô triệu cốt để tịnh hóa và chữa bệnh.
Thần chú này là “Thần chú một trăm ngữ âm”,
bao gồm trăm “chủng tự” của trăm vị thần ấy. Bạn có thể xử dụng một dạng ngắn gồm sáu âm của
thần chú Kim cương tát đỏa (Vajrasattva) là OM VAJRA SATTVA HUM (Tạng ngữ Om Benza Sattb Hung).
Ý nghĩa câu này là “Hỡi
thần Kim cương tát đỏa ! Nhờ
năng lực của ngài, xin cho con được tịnh hóa, được chữa lành, được chuyển nghiệp”.
Một bài chú quan trọng khác trong
mật điển Dzogchen và trong
hành trì liên hệ đến
Tử Thư Tây Tạng là A A HA SHA
SA MA. Sáu âm của bài chú này có
năng lực “đóng cửa ngõ”
đi vào lục đạo luân hồi.
5-
Hỏa táng Thông thường trong nhiều
truyền thống Đông phương,
hỏa táng là cách để
thanh toán thây chết. Trong
Phật giáo Tây Tạng cũng có những
pháp hành đặc biệt cho lễ
hỏa táng. Chỗ
hỏa táng hay dàn
hỏa táng được
quán tưởng thành mandala của
Kim cương tát đỏa, hay Trăm vị thần
an lạc và
phẫn nộ. Chư thần được
quán tưởng mãnh liệt, sự
hiện diện của họ được
triệu thỉnh. Cái thây của người chết được quán như thực sự
đại diện cho tất cả
nghiệp ác và
chướng ngại của họ. Khi cái thây bùng cháy, những
ác nghiệp chướng ngại ấy được chư thần
tiêu thụ trong một bữa tiệc lớn,
chuyển hóa chúng thành ra
bản chất trí tuệ. Những
tia sáng được tưởng tượng như là tuôn phát từ chư thần ; cái xác được quán đang tan rã
hoàn toàn thành ánh sáng, và tất cả
bất tịnh của người chết được tịnh hóa trong ngọn lửa
rực rỡ của
trí tuệ. Khi
quán tưởng điều này, ta có thể tụng đọc
thần chú một trăm âm hay sáu âm của
Kim cương tát đỏa. Sự
tu tập giản dị này dành cho lễ
hỏa táng là do Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche truyền lại.
Tro của cái xác và tsenjang (hình nhân,
bài vị...) khi ấy có thể trộn với đất sét mà làm thành những
hình tượng nhỏ gọi là tsatsa, được
chú nguyện và dâng hiến
nhân danh người chết để tạo những duyên tốt cho một
tái sanh tốt đẹp trong tương lai.
6- Cúng tuần
Trong một môi
trường Tây Tạng, những cuộc hành thiền
tu tập xảy ra
đều đặn mỗi ngày thứ bảy
sau khi chết, hay nếu
gia đình có thể
lo liệu, thì suốt cả 49 ngày. Những
tu sĩ được mời đến
hành pháp, nhất là những vị Lama thường gần gũi
gia đình ấy và có
liên hệ với người chết. Đèn được thắp sáng và
liên tục đọc kinh cầu nguyện,
cho đến khi cái xác được đưa ra khỏi nhà. Những phẩm vật được
cúng dường lên các vị thầy và các
bàn thờ, và phát chẩn cho kẻ nghèo
nhân danh người chết.
Những
pháp hành hàng tuần
nhân danh người chết được xem là thiết yếu, vì thân ý sanh trong cõi
Trung Ấm đang kinh quá cái chết của mình
trở lại đúng vào ngày ấy mỗi tuần. Nếu người chết có đủ
công đức do kết quả của
thiện nghiệp quá khứ, thì
lợi lạc của những pháp này,
hành trì nhân danh họ, sẽ làm cái đà để chuyển họ đến một cõi
thanh tịnh.
Nói thật chính xác, thì nếu người ấy chết ngày thứ tư trước ngọ, thì tuần thứ nhất sẽ làm vào thứ
ba tuần sau đó. Nếu chết sau ngọ, thì làm tuần vào ngày thứ tư
tuần sau.
Người
Tây Tạng xem tuần thứ tư
sau khi chết là một ngày có
ý nghĩa đặc biệt, vì có người nói
bình thường người chết không ở trong cõi
Trung Ấm lâu hơn 4 tuần. Tuần thứ bảy cũng được xem là một khúc quanh quan trọng, vì 49 ngày được xem là
thời hạn lâu nhất trong cõi
Trung Ấm đi
đầu thai. Bởi thế, vào những dịp này, thầy và các
bạn đạo sẽ được mời đến nhà, và những sự
tu tập,
cúng dường,
bố thí... được
thực hiện đại quy mô.
Một lễ cúng khác được
thực hiện mỗi năm
một lần sau khi chết, để
đánh dấu ngày
tái sanh của người chết. Phần đông
gia đình Tây Tạng thường làm lễ mỗi năm
một lần vào những ngày giỗ thầy, giỗ
cha mẹ, chồng vợ,
anh chị em của họ. Vào những ngày ấy họ cũng
bố thí cho người nghèo.
Giúp đỡ người đau buồn
Trong
cộng đồng Tây Tạng, mỗi khi một người nào chết, thì điều
tự nhiên là
thân quyến bạn bè họ
tụ họp lại, và
mọi người tìm cách này cách khác để
giúp một tay.
Toàn thể cộng đồng đem lại cho tang
gia sự nâng đỡ tinh thần, tình cảm và
thực tế, nên nhà có người chết không bao giờ bị bỏ mặc cho
cảm thấy vô phương không biết phải làm gì.
Mọi người trong
xã hội Tây Tạng biết họ phải làm những gì họ có thể làm cho người chết, càng nhiều càng hay, và chính điều đó giúp tang quyến có thể
chịu đựng,
chấp nhận cái chết của người thân để
tiếp tục sống.
Thật là khác xa với
xã hội tân tiến, trong đó sự
nâng đỡ của
cộng đồng hầu như
hoàn toàn không có. Tôi nghĩ sự
nâng đỡ như
thế thường đã giúp ích xiết bao cho
thân quyến người chết khỏi kéo dài nỗi đau buồn và những khó khăn không
cần thiết.
Những học trò tôi, làm
cố vấn tỉnh cảm trong các
Tiếp dẫn đường, cho tôi biết một trong những
nguyên nhân buồn khổ
trầm trọng nhất của một người mất mát người thân, là nghĩ rằng
bản thân họ cũng như bất cứ ai, không ai có thể làm gì cho những
thân quyến đã mất của họ. Nhưng như tôi đã nói, có rất nhiều việc mà bất cứ ai cũng có thể làm để giúp cho người đã chết.
Một cách
an ủi người đau buồn là khuyến khích họ làm cái gì cho những người thân của họ đã chết : bằng
cách sống hăng hái hơn, sống thay cho người chết, tu thay cho họ, và đem lại cho cái chết của họ một
ý nghĩa sâu xa hơn. Ở
Tây Tạng người ta còn đi
hành hương nhân danh người đã chết, và vào những
thời gian đặc biệt và nơi chốn
thiêng liêng, họ sẽ nghĩ đến những người thân đã chết và
tu tập để
hồi hướng cho họ. Người
Tây Tạng không bao giờ quên người chết : họ thường cúng chùa
nhân danh người chết ; khi có những
lễ hội cầu nguyện lớn, họ sẽ cúng vào đó
nhân danh người chết ; họ
tiếp tục hiến tặng cho những
chương trình tu học nhân danh người chết, và lúc nào gặp những bậc thầy họ cũng xin lời
cầu nguyện đặc biệt cho người chết. Niềm
an ủi lớn nhất cho một người
Tây Tạng là khi biết một bậc thầy đang
tu tập hồi hướng công đứ cho
thân nhân đã chết của họ.
Vậy thì đừng để cho ta chết đi một nửa theo với người chết ; ta hãy cố sống sau khi họ chết với niềm hăng say hơn nữa. Ta hãy cố
ít nhất làm tròn
ước nguyện của người chết, ví dụ bằng cách
bố thí vài
sở hữu của họ cho hội
từ thiện, hay
bảo trợ nhân danh họ cho một
dự án mà họ thường
ưa chuộng.
Những người
Tây Tạng thường viết thư
chia buồn với bạn bè đang khóc người thân với những lời
đại khái như sau :
“Mọi sự đều
vô thường,
mọi người rồi phải chết, bạn đã biết. Vậy mẹ bạn có chết cũng là điều
tự nhiên :
thế hệ già chết trước. Bà cụ đã già yếu, chắc cũng không
ân hận gì khi bỏ thân xác này. Và vì bạn có thể giúp bà bằng cách cúng vào các thiền hội
tu tập và làm
việc thiện nhân danh bà,
chắc chắn bà sẽ
sung sướng nhẹ nhàng. Vậy bạn đừng buồn” .
Nếu bạn ta có con hay một người thân còn trẻ chết,
chúng ta có thể nói với họ :
“Con trai bạn đã chết, thật là như trời long đất lỡ với bạn. Tôi
biết điều đó thật tàn nhẫn
phi lý. Tôi không thể nào hiểu được. Nhưng có lẽ cái nghiệp của cháu là phải chết, và tôi tin rằng cái chết ấy chắc đã
thanh toán được một món nợ nghiệp nào đó mà bạn và tôi không thể biết. Nỗi đau buồn của bạn cũng là của tôi. Nhưng hãy nhớ rằng, bây giờ bạn và tôi có thể giúp cháu, bằng sự
tu tập của
chúng ta,
thiện nghiệp chúng ta,
tình thương của
chúng ta ;
chúng ta có thể cầm tay cháu mà bước bên cạnh cháu ngay bây giờ, dù cháu đã chết, để giúp cháu có được một
tái sanh mới và
một đời sống dài hơn lần sau” .
Trong
thế giới hiện nay của
chúng ta, nơi mà ta không biết được cả đến chuyện có thể giúp đỡ người chết, nơi mà ta chưa từng đối mặt cái chết
một lần nào
trong đời, thì chuyện
tư duy sáng suốt và
bình tĩnh như vậy không phải dễ. Một người lần đầu tiên khóc người thân có thể phải tan nát cõi lòng vì những
cảm xúc rối bời như buồn, giận, chối bỏ, rút lui,
mặc cảm phạm tội...
thình lình tàn phá
tâm hồn họ. Muốn giúp những người như thế, bạn cần sự
kiên nhẫn và
tế nhị. Bạn cần
thời gian ngồi với họ để cho họ nói, lắng nghe không phê phán mỗi khi họ nhớ lại những
hoài niệm riêng tư nhất, hoặc cứ tái đi tái lại từng
chi tiết của cái chết. Trên tất cả, có thể bạn chỉ cần ở đấy với họ, lúc mà họ đang kinh quá nỗi đau buồn khốc liệt nhất
trong đời. Hãy sẵn sàng đến với họ bất cứ lúc nào, ngay cả những lúc họ có vẻ không cần
hiện diện của bạn. Carol, một góa phụ, khi được hỏi ai giúp bà nhiều nhất trong lúc chồng bà chết, đã
trả lời : “Những người
tiếp tục gọi điện thoại và ghé thăm, ngay cả khi tôi nói không cần” .
Những người buồn khổ cũng như đang
trải qua một loại chết. Cũng như người chết, họ cần biết rằng những
cảm xúc rối ren mà họ đang kinh quá là điều
tự nhiên. Họ cũng cần biết rằng tiến trình tang tóc thường cam go và dài đăng đẳng, khi nỗi đau buồn cứ tái đi tái lại theo chu kỳ. Nỗi
kinh hoàng tê tái không tin
ban đầu sẽ tàn phai, nhường chỗ cho một
ý thức sâu xa tuyệt vọng về sự mất mát
vô biên của họ, mà
cuối cùng cũng sẽ
hồi phục,
trở lại thế
quân bình. Hãy cho họ biết đây là một mẫu mực sẽ
trở lại nhiều lần, tháng này qua tháng khác, và tất cả những
cảm giác đau khổ,
sợ hãi không thể
chịu đựng, tưởng chừng
như không còn sống ra
con người được nữa, cũng chuyện là chuyện
bình thường. Cho họ biết rằng, dù họ có thể
đau đớn trong một, hai năm, nỗi đau của họ
chắc chắn rồi cũng đi đến
kết thúc và chuyển
thành sự chấp nhận.
Judy Tatebaum nói :
“Nỗi đau buồn là một vết thương cần được chú ý để
hàn gắn.
Hàn gắn một nỗi đau buồn có nghĩa là đối mặt với nó một cách
công khai, thẳng thắng,
bộc lộ và phóng thích
trọn vẹn nó,
chấp nhận nó kéo dài bao lâu nó cần để cho vết thương lành lại. Thường ta cứ sợ rằng một khi
công nhận nỗi đau buồn, chắc ta không thể nào chịu nổi.
Sự thật thì nỗi
đau khổ được
bộc lộ ra sẽ có lúc đi đến
kết thúc.
Đau khổ mà không
bộc lộ được thì cứ kéo dài bất tận”.
Nhưng thông thường, bạn bè và
gia quyến của người đau buồn cứ mong cho người ấy “trở lại bình thường” sau vài tháng. Điều này chỉ tăng thêm nỗi lạc loài
cô lập của họ, khi nỗi
đau khổ vẫn
tiếp diễn, và có thể càng sâu sắc hơn.
Ở
Tây Tạng, như tôi đã nói,
toàn thể cộng đồng, bạn bè,
bà con, thường
tham dự suốt 49 ngày sau khi một người nào chết, và
mọi người đều bận rộn trong việc giúp đỡ
tâm linh cho người chết, có hàng trăm chuyện để làm. Người đau buồn cứ việc đau buồn, họ khóc lóc chút đỉnh, đó là chuyện
tự nhiên, và khi
mọi người ra về, thì ngôi nhà có vẻ trống trải.
Tuy thế, sự bận rộn
lo lắng nâng đỡ của người
xung quanh - bằng nhiều cách
tế nhị, làm ấm lòng đã giúp họ rất nhiều trong nỗi
đau thương tang tóc.
Trong
xã hội Tây phương, sự
chạm mặt một mình với nỗi mất mát thực là khác hẳn. Và nhất là trong
trường hợp một vụ chết đột ngột,
tự sát, thì nỗi
đau khổ của người ở lại càng
tăng cường mãnh liệt. Nó làm cho họ càng
cảm thấy bất lực không biết làm sao để giúp đỡ người chết. Điều rất quan trọng là để cho người thân đến nhìn thấy
xác chết của người chết đột ngột,
nếu không, họ rất khó mà
nhận ra cái chết thực sự đã xảy đến.
Nếu có thể, người ta nên ngồi cạnh
xác chết ấy, để nói những gì cần nói,
diễn tả niềm
yêu thương, và khởi sự nói lời từ biệt.
Nếu điều này không thể
thực hiện được, thì hãy đem ra một tấm ảnh của người chết và khởi sự tiến trình từ giã,
hoàn tất mối tương quan, rồi
buông xả. Hãy khuyên những người có người thân chết nên làm việc này, điều này sẽ giúp cho họ
chấp nhận tin buồn,
thực tại nát lòng của cái chết. Cho họ biết những cách giúp đỡ người chết như đã nói trên, những cách
đơn giản họ có thể làm, thay vì
ngồi bó gối một cách
vô vọng,
nghiền ngẫm về cái chết ấy trong nỗi âm thầm
áo não tự trách.
Trong
trường hợp một cái chết đột ngột, những người thân
thường có thể kinh quá những
cảm xúc tức tối trước những gì mà họ cho là
nguyên nhân cái chết.
Hãy giúp họ
bộc lộ sự tức giận ấy, vì nếu bị giữ lại trong lòng, thì
sớm muộn sự tức giận ấy sẽ đưa đẩy họ vào một nỗi
áo não kinh niên. Hãy giúp họ
buông xả cơn tức giận và cho họ thấy những chiều sâu của nó, là nỗi đau mất mát. Rồi họ có thể khởi sự công việc
buông xả, một chuyện
gay go nhưng
cuối cùng sẽ
hàn gắn mối
thương tâm.
Cũng có nhiều khi người còn lại sau cái chết của một người thân,
cảm thấy mãnh liệt
mặc cảm phạm tội, cứ
bị ám ảnh bởi những
lỗi lầm của mình trong
quá khứ với người đã chết, hoặc tự dày vò vì nghĩ
đáng lẽ mình có thể làm gì để ngăn cái chết. Hãy giúp họ nói ra những
cảm giác phạm tội ấy, dù chúng có vẻ
phi lý đến đâu. Dần dà những
cảm giác ấy sẽ
giảm bớt, và họ sẽ tự
tha thứ cho họ để
tiếp tục sống nốt
cuộc đời của mình.
Một
pháp môn trọng yếuBây giờ tôi sẽ cho bạn một
phương pháp tu tập có thể giúp bạn rất nhiều, mỗi khi bạn bị
đau đớn, buồn sầu
kinh khủng. Đấy là một pháp mà thầy Jamyang Khientse tôi thường dạy cho những người đang kinh quá sự
đau khổ tinh thần, dằn vặt
tâm can. Và tôi biết với
kinh nghiệm bản thân rằng pháp này có thể đem lại nguồn
an ủi lớn lao như cất một
gánh nặng khổng lồ.
Đời sống của một người giảng dạy trong
một thế giới như
thế giới phương Tây không phải dễ. Lúc còn trẻ, có những lúc tôi gặp phải khủng hoảng khó khăn, khi ấy tôi luôn luôn
triệu thỉnh Padmasambhava, như bây giờ tôi vẫn làm, và nghĩ đến ngài như tất cả các bậc thầy của tôi. Và tôi đã
khám phá rằng
phương pháp ấy thật có thể
chuyển hóa tôi một cách
mầu nhiệm, thảo nào các bậc thầy tôi thường nói rằng,
pháp hành trì Padmasambhava là hữu ích nhất mỗi khi ta gặp khó khăn, vì pháp này có cái
năng lực mà bạn cần để
vượt qua sự
hỗn loạn,
rối ren của
thời đại.
Bởi vậy, khi bạn
buồn nản, lo sầu, xuống dốc, khi bạn
cảm thấy không thể đi thêm được nữa,
cảm thấy cõi lòng tan nát, thì tôi khuyên bạn nên
áp dụng pháp môn này.
Điều kiện duy nhất để
tu tập có
hiệu quả là bạn
cần phải làm
thực tập này với tất cả
năng lực của bạn, bạn
cần phải xin cầu, và tha thiết xin cầu.
Mặc dù hành thiền, bạn vẫn còn có nhiều
cảm xúc đau đớn khổ sở và
vô số chuyện từ các đời
quá khứ, hoặc đời này nổi lên mà bạn thấy khó thể đương đầu. Bạn có thể thấy mình không đủ
trí tuệ và định tĩnh để
đối phó với chúng, và một mặt
thiền định không mà thôi chưa đủ. Khi ấy điều bạn cần là cái mà tôi gọi “một sự
tu luyện từ tim”. Tôi luôn luôn
cảm thấy buồn sầu vì người ta không có một kiểu làm như thế để giúp họ trong những lúc khốn đốn. Nếu bạn có làm, bạn sẽ
tìm thấy mình có một cái gì
vô cùng quý báu, nó sẽ là một nguồn
sức mạnh chuyển hóa cuộc đời bạn.
1-
Triệu thỉnhTrong bầu trời
trước mặt, bạn hãy
triệu thỉnh hiện diện của bất cứ
thực thể giác ngộ nào mà bạn có
cảm ứng nhất, và xem vị ấy như
hiện thân của tất cả chư Phật, Bồ-tát, bậc thầy. Đối với tôi,
hiện thân ấy là Padmasambhava. Nếu bạn không thể tưởng tượng ra trong
tâm nhãn của bạn một hình dạng nào, thì hãy cứ có một
cảm giác mãnh liệt về sự
hiện diện ấy, và
triệu thỉnh năng lực từ bi và
ân sủng vô biên của ngài.
2- Hô triệu
Mở lòng bạn ra, và kêu gọi ngài với tất cả nỗi
đau đớn khổ sở mà bạn
cảm thấy. Nếu bạn
cảm thấy muốn khóc thì đừng cố nín, mà cứ việc tuôn ra, và
thực tình cầu xin sự giúp đỡ. Hãy biết rằng có một người nào thực sự đang ở đấy để giúp bạn, một người đang lắng nghe bạn,
cảm thông bạn với
lòng từ mẫn, không bao giờ phê phán bạn : đó là một người bạn
chân tình. Hãy hô triệu vị ấy từ đáy sâu nỗi
đau đớn của bạn, dùng câu
thần chú OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM,
thần chú đã
được xử dụng hàng bao thế kỷ bởi hàng trăm ngàn người, như một dòng suối để tịnh hóa, chữa lành và
che chở.
3- Làm tràn đầy
hỷ lạc trong tim
Hãy tưởng tượng và biết rằng vị Phật mà bạn đang kêu cầu ấy đã
đáp ứng với tất cả
năng lực từ bi và trí giác của ngài. Nguồn ánh sáng
rực rỡ từ nơi ngài đang tuôn về phía bạn. Hãy tưởng tượng ánh sáng ấy như vị
cam lồ đang rót đầy tim bạn, và
chuyển hóa tất cả
đau thương của bạn thành
hỷ lạc.
*
Một cách Padmasambhava
xuất hiện là
đắp y ngồi trong tư thế thiền, toát ra một
cảm giác ấm cúng tiện nghi, với nụ cười
yêu thương trên gương mặt ngài. Trong
hóa thân này, ngài được gọi là “Đại lạc”. Tay ngài đặt
thoải mái trên hai vế, đỡ lấy một cái tách làm bằng sọ người đựng toàn
cam lồ Đại lạc. Nước
cam lồ ấy đang tung tóe khắp nơi để chữa lành mọi
đau thương bệnh tật. Ngài ngồi một cách
an tịnh trên một
tòa sen nở, nằm trong một trái cầu bằng ánh sáng.
Hãy nghĩ về ngài như một
mặt trời phúc lạc, suối nguồn của sự nồng nàn
yêu thương,
an ủi, chữa lành. Hãy
mở lòng bạn ra, tuôn ra tất cả
đau khổ của bạn,
cầu xin cứu giúp. Và đọc câu
thần chú của ngài : OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDhi HUM.
Bây giờ, hãy tưởng tượng hàng ngàn
tia sáng tuôn ra từ nơi thân ngài hay từ tim ngài. Tưởng tượng ngài đang
vui vẻ chan rưới vị
cam lồ liên tục trên người bạn, một thứ ánh sáng như chất lỏng bằng
vàng ròng rót vào tim bạn,
chuyển hóa khổ đau của bạn thành
an lạc.
Đấy là
phương pháp kỳ diệu mà thầy tôi thường dạy, nó đem lại cho tôi
cảm hứng và sự giúp đỡ lớn lao vào những lúc tôi cần giúp đỡ.
4- Giúp đỡ người chết
Khi bạn làm
thực tập này nhiều lần, đọc
thần chú và làm cho tâm bạn tràn ngập
hỷ lạc, thì
dần dần sự khổ đau của bạn sẽ tan hòa vào trong niềm
an tịnh của
tự tánh tâm bạn. Bạn sẽ
vui mừng nhận ra rằng, chư Phật vốn không ngoài tâm bạn, mà luôn luôn ở với bạn, bất ly
tự tánh bạn. Và những gì Phật làm qua sự
ban phước của ngài, là
gia trì năng lực cho bạn,
nuôi dưỡng bạn bằng
niềm tin đối với
Phật tánh ở bên trong.
Bây giờ, với tất cả
năng lực tin tưởng mà pháp này đã đem lại cho bạn, bạn hãy tưởng tượng mình đang gởi
phúc lạc ấy, ánh sáng
từ bi của chư Phật ấy đến những người
thân yêu đã chết. Điều này
đặc biệt quan yếu trong
trường hợp một người gặp cái chết
thảm khốc, vì nó giúp
chuyển hóa nỗi
đau đớn của họ, đem lại cho họ
bình an và
phúc lạc. Trong
quá khứ, có lẽ bạn đã
cảm thấy tuyệt vọng,
vô phương giúp đỡ những người thân, nhưng bây giờ, qua pháp
tu tập này, bạn có thể
cảm thấy được
an ủi, khuyến khích và có thêm
năng lực để giúp người đã chết.
Mở rộng cõi lòng
Đừng mong có
hiệu quả tức thì, hay một
phép lạ nào đó. Có thể chỉ sau một
thời gian, hay lâu hơn nhiều, trong lúc không ngờ, sự
đau khổ của bạn sẽ
chuyển hướng. Đừng
mong đợi chấm dứt đau khổ một lần dứt khoát. Hãy
mở rộng lòng đối với nỗi đau buồn, như bạn
mở lòng ra đối với chư Phật và các bậc
giác ngộ trong lúc
thiền quán.
Bạn có thể
cảm thấy biết ơn nỗi
đau khổ, vì nó cho bạn cơ hội làm việc thẳng với nó và
chuyển hóa nó.
Nếu không có
đau khổ thì bạn đâu bao giờ
khám phá ra rằng tận đáy sâu của khổ đau còn có một kho tàng
phúc lạc.
Thời gian mà bạn
đau khổ có thể là
thời gian bạn cởi mở nhất, và chỗ mà bạn cực kỳ
thương tổn có thể là nơi ẩn tàng
sức mạnh lớn nhất của bạn.
Vậy bạn hãy tự nhủ lòng : “Tôi sẽ không
chạy trốn khổ đau. Tôi muốn xử dụng nó bằng cách tốt nhất,
phong phú nhất, để tôi có thể
thương yêu người khác và trở nên hữu ích cho họ”. Chung quy, chính khổ đau dạy cho ta
lòng từ mẫn. Khi bạn
đau khổ, bạn mới biết người khác
đau khổ như thế nào. Và nếu bạn có thể giúp người khác, thì chính nhờ
kinh nghiệm khổ đau của bạn mà bạn có thể có sự
cảm thông và
tâm từ bi để làm việc ấy.
Bởi thế dù có làm gì, bạn cũng nhớ đừng
dập tắt nỗi
đau khổ của bạn ; hãy
chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nỗi khổ đau. Dù
tuyệt vọng đến đâu, bạn hãy nhận nỗi
đau khổ như nguyên trạng của nó, vì kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà
vô giá, nhờ
tu tập, bạn sẽ có cơ hội
tìm ra được cái ẩn giấu sau nỗi đau buồn. “Đau buồn có thể là khu vườn bi mẫn”, Rumi viết. Nếu bạn
mở lòng ra với mọi sự, thì nỗi khổ có thể
trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường
tìm kiếm từ bi và
trí tuệ.
Và có lẽ
chúng ta đều biết rõ rằng, ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ
chống lại đau khổ, thì ta chỉ càng thêm
đau khổ và không học được gì về
kinh nghiệm khổ đau. Rilke viết rằng : “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được
che chở, luôn
vô tư an ổn, thì không thể biết yêu thương” .
Chấm dứt đau buồn và rút bài học từ
nỗi buồn đau
Khi bạn tràn ngập khổ đau, thì hãy cố vươn lên bằng một trong những
phương pháp thiền tôi đã đề cập trong chương 5 “Đưa tâm về nhà” . Một trong những
phương pháp tôi thấy rất
hiệu lực để làm lắng dịu,
tiêu tan nỗi sầu là
đi vào thiên nhiên, nhất là đứng nhìn một dòng thác đổ, để cho nước mắt bạn, nỗi
đau khổ của bạn trào tuôn và tịnh hóa bạn, như dòng nước chảy kia. Hoặc bạn có thể đọc một
bản kinh cảm động nói về
vô thường, và để cho
trí tuệ nói trong kinh
xoa dịu lòng bạn.
Chấp nhận đau thương để
chấm dứt nó là chuyện có thể làm. Một cách mà nhiều người thấy
hiệu nghiệm là
phương pháp tôi đã nói về sự “hoàn tất công việc dang dở”, thay đổi đôi chút. Dù người thân của bạn chết từ bao lâu, bạn cũng sẽ thấy pháp này rất
hiệu nghiệm.
Quán tưởng chư Phật, Bồ-tát đứng ở trên bầu trời trên đầu và
xung quanh bạn, đang chiếu xuống những
tia sáng từ bi, ban
ân sủng cho bạn. Trước sự
hiện diện ấy, hãy nói những gì bạn cần nói, những gì thực sự ở trong tim bạn, với người thân đã chết.
Quán tưởng người ấy đang nhìn bạn với niềm
cảm thông và
tình thương mến nhiều hơn bao giờ cả
trong đời họ. Hãy biết rằng người chết muốn cho bạn hiểu rằng họ yêu mến bạn và
tha thứ cho bạn những gì bạn đã làm, và họ cũng muốn xin bạn
tha thứ cho họ.
Hãy để cho tim bạn tuôn ra thành lời bao nhiêu nỗi giận hờn,
thương tổn, mà có thể bạn đã ấp ủ bấy lâu, rồi
buông xả hoàn toàn. Bằng tất cả
tâm trí bạn, hãy để cho sự
tha thứ của bạn hướng về người chết. Nói với họ, bạn đã
tha thứ, nói với họ bạn đã
hối hận như thế nào về tất cả nỗi
đau khổ có thể bạn đã gây ra.
Bây giờ, hãy để cho sự
tha thứ và tình
yêu thương của họ tràn ngập
bản thể bạn. Hãy biết tận
đáy lòng bạn rằng bạn đáng được
yêu thương, đáng được
tha thứ, và hãy
cảm thấy nỗi đau buồn của bạn đang tan biến.
Cuối cùng, hãy tự hỏi bây giờ bạn có thể thực sự nói lời từ biệt và
buông xả người ấy hay chưa. Rồi tưởng tượng người ấy quay lưng bỏ đi, và
kết thúc bằng pháp
Chuyển di hay bất cứ pháp nào để giúp đỡ người đã chết.
Pháp này sẽ cho bạn cơ hội
chứng tỏ tình yêu của bạn
một lần nữa, làm một cái gì thêm nữa để giúp người đã chết, và chữa lành,
hoàn tất mối tương giao trong tâm bạn.
*
Bạn có thể học được rất nhiều từ nỗi
đau thương mất mát, nếu bạn
mở lòng ra. Sự
đau thương có thể bắt buộc bạn phải nhìn thẳng vào
cuộc đời bạn, tìm một
ý nghĩa trong đó mà lâu nay bạn chưa thấy. Khi
đột nhiên bạn
cảm thấy bơ vơ vì cái chết của người thân, thì bạn như
sống lại một
cuộc đời mới và tự hỏi : “Ta sẽ làm gì với
cuộc đời này ? Tại sao ta còn mong
tiếp tục sống ?” .
Sự mất mát thương đau còn có thể nhắc cho bạn một cách mãnh liệt cái gì có thể xảy ra nếu trong khi sống bạn không chịu bày tỏ
tình thương mến của bạn, sự tán thưởng của bạn, hay sự
xin lỗi, và bởi thế có thể làm cho bạn
nhạy cảm hơn đối với những người thân còn sống. Elisabeth Kubler-Ross nói : “Điều tôi muốn nhắn nhủ
mọi người là, hãy sống thế nào để bạn có thể nói những lời ấy trong lúc người kia còn có thể nghe được”. Và Raymond Moody, sau
công trình một đời nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, đã viết : “Tôi bắt đầu
nhận ra rằng : tất cả
chúng ta thường ngày như thế nào thì khi
gần chết, cũng như thế ấy. Hơn bao giờ hết, bây giờ tôi rất
thận trọng để làm cho
mọi người tôi yêu mến biết rõ
cảm xúc của tôi” .
Bởi thế,
lời khuyên tâm huyết của tôi cho những người đang ở trong cơn
đau đớn sâu xa về nỗi mất mát người thân của họ, là hãy
cầu nguyện chư Phật để được giúp đỡ, được
ân sủng và
sức mạnh.
Cầu nguyện cho bạn sống để
tìm ra ý nghĩa phong phú nhất cho
đời sống mới của bạn, sau khi họ mất đi. Hãy nhạy bén đối với nỗi
đau lòng, hãy
can đảm và
kiên nhẫn. Trên tất cả, hãy nhìn vào
cuộc đời bạn để
tìm cách san sẻ
niềm thương yêu của bạn một cách
sâu xa hơn, đối với những người khác ngay bây giờ.