PHẦN HAI: CHẾT
13- GIÚP ĐỠ TINH THẦN CHO NGƯỜI SẮP CHẾT
Tôi đến
Tây phương đầu tiên vào đầu thập niên 1970, và điều đã làm tôi khó chịu nhất, và hiện nay vẫn còn khó chịu, là hầu như thiếu hẳn sự giúp đỡ
tinh thần cho người hấp hối hiện nay trong nền
văn minh tân tiến. Ở
Tây Tạng, như tôi đã nói, mỗi người đều có vài
hiểu biết về những
sự thật cao siêu của
đạo Phật, và vài
liên hệ với một bậc thầy. Không ai chết mà bị
cộng đồng của họ
bỏ rơi, trên
phương diện thiển cận cũng như
sâu xa. Người ta đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện về người chết ở
Tây phương bị
bỏ rơi, buồn khổ, vỡ mộng, không một
nâng đỡ tinh thần nào. Một trong những
động lực thúc đẩy tôi viết sách này là muốn trải đến tất cả
mọi người (
Tây phương) sự minh triết của
Tây Tạng, có thể
hàn gắn sự
thiếu sót ấy.
Phải chăng tất cả
chúng ta đều có quyền lúc chết không những xác ta được đối xử với niềm
kính trọng, mà còn quan trọng hơn nữa là
tâm thức chúng ta ?
Phải chăng một trong những quyền chính của bất cứ
xã hội văn minh nào, là để cho mỗi người trong đó đều có quyền được chết trong sự
săn sóc phần
tâm linh một cách toàn hảo nhất ? Có phải
chúng ta chỉ thực sự
văn minh khi điều này
trở thành một
tiêu chuẩn được
chấp nhận ? Có nghĩa gì các nền kỹ thuật đưa người lên cung trăng, khi mà ta không biết cách nào giúp
đồng loại mình chết có
tư cách và
hy vọng ?
Sự
săn sóc tâm linh không chỉ là một
xa xỉ phẩm dành cho
thiểu số, nó là quyền thiết yếu của mỗi người, cũng thiết yếu như quyền chính trị, y tế và
bình đẳng trong cơ hội. Một
lý tưởng dân chủ thực sự phải
bao gồm sự
săn sóc tâm linh có thể
thừa nhận đối với
mọi người, kể như một trong những
sự thật thiết yếu nhất của nó.
Bất cứ ở đâu tôi đến tại
Tây phương, tôi đều
kinh ngạc trước nỗi
đau khổ tinh thần lớn lao do sự
sợ chết phát sinh, dù họ có
chấp nhận nỗi sợ ấy hay không. Thật là một điều
an tâm biết bao cho người ta, nếu họ biết rằng khi nằm xuống chết họ sẽ được
săn sóc với niềm
yêu thương có
trí tuệ. Nền
văn hóa chúng ta hiện nay thực
nhẫn tâm trong sự khôn khéo của nó, sự phủ nhận mọi
giá trị tâm linh của nó, đến nỗi
con người ta mỗi khi
đối diện với cơn bệnh nan y thì
cảm thấy kinh hoàng như họ sắp bị vứt đi như một món hàng
vô dụng. Ở
Tây Tạng,
phản ứng tự nhiên là
cầu nguyện cho người sắp chết và
săn sóc tâm linh cho họ. Còn ở phương Tây, sự
lưu ý duy nhất về
tâm linh mà
đa số người đem lại cho người chết chỉ là đi đưa
đám ma.
Quả vậy, trong
thế giới Tây phương vào cái thời điểm
đau đớn nhất của người hấp hối, họ thường bị
bỏ rơi,
hoàn toàn không được một
nâng đỡ hay một
tuệ giác nào để giúp họ. Đấy là một thực trạng
bi đát sỉ nhục,
cần phải thay đổi. Tất cả những tự hào về
uy lực và
thành công của
nhân loại tân thời sẽ là
rỗng tuếch, khi mà
mọi người chưa được chết trong một mức độ
an bình nào đó, khi chưa có
ít nhất một vài
nỗ lực để
đảm bảo khả năng ấy.
Bên cạnh tử sàng
Một người bạn tôi, mới tốt nghiệp một
trường y khoa
nổi tiếng, khởi sự
phục vụ trong một bệnh viện lớn ở Luân Đôn. Vào ngày đầu của phiên cô ta trực, có bốn năm người bệnh chết. Đấy là một cú sốc
kinh khủng đối với cô, vì không có một điều gì cô đã học có thể giúp cô
đối phó thực tại ấy. Có phải đáng
ngạc nhiên không, khi xét rằng cô đã được huấn luyện để làm một
bác sĩ ? Một ông già nằm trên giường, mắt trợn trừng nhìn lên vách. Ông ta chỉ có
một mình, không có
gia đình bè bạn nào đến
thăm viếng cả, và ông
mong mỏi có được một người nào để nói chuyện. Cô đi đến nơi ông. Đôi mắt ông đẫm lệ, giọng run run, ông hỏi cô ta một câu mà cô không ngờ : “Bà có nghĩ rằng
Thượng đế sẽ
tha tội cho tôi không ?” . Bạn tôi không biết phải
trả lời như thế nào ;
thời gian học tập y khoa
hoàn toàn không chuẩn bị cho cô những
vấn đề tâm linh. Cô không có gì để nói, tất cả gì cô có bên trong chỉ là nghề nghiệp y khoa của cô. Không có nhà nguyện ở gần, và cô cứ đứng đấy, tê liệt, không thể
trả lời sự
kêu cứu tuyệt vọng của con bệnh, đang
van xin một lời
bảo đảm về
ý nghĩa cuộc đời.
Cô hỏi tôi trong
ngạc nhiên đau đớn : “Ngài làm được gì trong
hoàn cảnh ấy ?” . Tôi nói, tôi sẽ ngồi bên cạnh ông, cầm tay ông và để cho ông nói. Tôi vẫn thường
kinh ngạc nhiều lần khi thấy - nếu bạn cứ để cho người ta
thổ lộ, nếu bạn chú ý lắng nghe với
tâm từ mẫn - họ có thể nói những lời có chiều sâu
tâm linh lạ lùng, dù cho họ nghĩ là họ không tin
tôn giáo nào cả. Mỗi người đều có
tuệ giác của riêng họ về
đời sống, nên khi bạn để cho họ nói, là bạn làm cho
tuệ giác ấy
hiển lộ. Tôi vẫn thường
xúc động khi thấy được rằng, ta có thể giúp người khác “tự cứu mình” bằng cách ta giúp họ
khám phá sự thật trong chính họ, một
sự thật mà có thể họ chưa từng biết nó
phong phú, ngọt ngào,
sâu xa đến mức nào. Suối nguồn của sự
lành mạnh và
tuệ giác vốn ẩn sâu trong mỗi
chúng ta, và công việc của bạn
tuyệt nhiên không phải là áp đặt
niềm tin của bạn, mà chính là giúp họ có thể
tìm thấy suối nguồn của
tuệ giác ấy trong chính họ.
Khi ngồi bên cạnh người sắp chết, bạn hãy tin rằng bạn đang ngồi bên cạnh một người có tiềm năng thực sự để
thành Phật. Hãy tưởng
tượng Phật tính họ như một tấm
gương sáng vô cấu, và tất cả
đau đớn lo sợ của họ chỉ như sương mù mỏng manh trên mặt gương, có thể nhanh chóng
dẹp bỏ. Điều này sẽ giúp bạn nhìn thấy họ rất
dễ thương, đáng
tha thứ, và giúp bạn rút ra tình yêu vô
điều kiện của bạn. Bạn sẽ thấy
thái độ này làm cho người sắp chết
mở lòng ra với bạn. Thầy Dudjom Rinpoche tôi thường bảo : Giúp một người sắp chết giống như đưa ra một bàn tay để đỡ người sắp té. Nhờ
sức mạnh, sự
bình an, sự chú ý
sâu xa đầy bi mẫn của bạn, mà bạn có thể giúp họ
đánh thức sức mạnh nơi chính họ.
Tính chất sự
hiện diện của bạn vào cái lúc dễ
tổn thương nhất,
gay cấn nhất ấy thực
vô cùng quan trọng. Cicely Saunders viết : “Người sắp chết đã rũ bỏ những mặt nạ và những nông cạn của sự sống hàng ngày, và chính
vì vậy mà họ cởi mở hơn,
nhạy cảm hơn. Họ thấy rõ mọi sự
giả dối. Tôi nhớ một người đã nói : “Không, xin đừng đọc. Tôi chỉ cần những gì ở trong trí bạn, trong tim bạn mà thôi” .
Tôi
chưa bao giờ đến bên giường người sắp chết mà trước đấy không nhúng mình vào bầu không khí
thiêng liêng của
tự tánh tâm. Khi ấy tôi không
cần phải vất vả để có được tâm
đại bi và sự
chân thực, vì những tính này đã có ở trong đấy, chiếu sáng một cách
tự nhiên.
Cần nhớ rằng bạn không thể làm gì để gây
cảm hứng cho người
trước mặt bạn, nếu chính bạn không có
cảm hứng từ trong tâm bạn. Bởi vậy, khi nào bạn không biết phải làm gì, không biết làm sao để giúp đỡ, thì hãy
cầu nguyện và
thiền quán,
triệu thỉnh Phật hay bất cứ
năng lực thiêng liêng nào bạn tin. Mỗi khi gặp người nào đang
trải qua nỗi
thống khổ ghê gớm, tôi lại tha thiết
cầu khẩn sự giúp đỡ của chư Phật và
thánh chúng, với tim tôi
hoàn toàn mở về hướng người sắp chết, tràn đầy bi mẫn đối với nỗi đau của họ. Thu hết
năng lực của lòng
sùng kính tin tưởng, tôi quán
hình ảnh các ngài đầy ánh sáng đang ở trên đầu người sắp chết,
từ bi nhìn xuống họ và chan hòa ánh sáng
ân sủng lên họ, thanh lọc
ác nghiệp họ trong
quá khứ và nỗi
đau đớn trong
hiện tại. Tôi lại
cầu nguyện cho người ấy không còn khổ nữa,
được giải thoát bình an.
Tôi làm việc ấy với sự tập trung
nghiêm cẩn, rồi
an trú trong
tự tính tâm, để cho sự
bình an và ánh sáng của
tự tính lan khắp không khí trong phòng. Tôi đã nhiều lần
cảm thấy úy phục bởi
cảm giác có một
hiện hữu thiêng liêng đang ở đấy một cách
tự nhiên và
ảnh hưởng đến người sắp chết.
Tôi lại nói điều này, có lẽ sẽ làm bạn
ngạc nhiên : có thể có đầy
cảm hứng trong sự chết. Trong
kinh nghiệm tôi có với những người sắp chết, tôi đã thấy rằng tôi phải
kinh ngạc khi thấy sự
cầu nguyện,
triệu thỉnh của tôi đã làm thay đổi bầu không khí, khiến cho
đức tin của tôi
tăng trưởng sâu xa khi thấy
hiệu lực của sự
cầu nguyện và
hiện hữu của chư Phật. Nhờ ở cạnh người sắp chết mà tự
tu tập của tôi càng có
năng lực lớn hơn.
Đôi khi những người sắp chết cũng cảm nhận được bầu không khí đầy
cảm ứng đạo giao ấy, và lấy làm
tri ân vì đã tạo cơ hội cho cả hai
chúng tôi cùng
đạt đến một giây phút thực sự gây cảm khái và hoán cải.
Đem lại
hy vọng và tìm sự
tha thứTôi muốn nêu lên hai điểm trong việc giúp đỡ
tinh thần người hấp hối : đem lại
hy vọng, và
tìm thấy sự
tha thứ.
Khi gần người sắp chết, luôn luôn bạn chỉ nên giữ lấy những gì họ đã
thành tựu được, những
thành công của họ. Giúp họ
cảm thấy họ đã sống
một đời hữu ích và
hạnh phúc, càng nhiều càng tốt. Tập trung vào đức tính của họ, chứ không tập trung vào
lỗi lầm của họ. Người sắp chết thường rất
nhạy cảm về
tội lỗi,
hối hận,
buồn nản, hãy để họ trút hết tất cả ra, lắng nghe và
công nhận những gì họ nói.
Đồng thời, lúc
thích hợp, hãy nhớ nhắc họ
Phật tính của họ, và khuyên họ cố
an trú tự tính nhờ
thiền định. Nhất là nhắc họ nhớ :
đau đớn khổ sở không phải là cả
cuộc đời họ.
Tìm cách nào
hiệu quả nhất, để gợi
cảm hứng cho họ, gây cho họ niềm
hy vọng. Nhờ vậy, họ có thể chết với tâm
an lạc thay vì cứ nhớ tới
lỗi lầm của mình.
*
Với người la lên một câu : “Bạn có nghĩ
Thượng đế sẽ
tha tội cho tôi chăng ?”, tôi sẽ nói : “Sự
tha thứ đã có sẵn trong
bản chất của
Thượng đế.
Thượng đế đã
tha cho bạn rồi, vì
Thượng đế chính là sự
tha thứ.
Lầm lạc là
con người,
tha thứ là
Thượng đế. Nhưng bạn có thể
tha thứ cho bạn không ? Đó mới thực là
vấn đề.
“Chính cái
cảm tưởng không được
tha thứ và không thể
tha thứ đã làm cho bạn
đau khổ. Nhưng
cảm tưởng ấy chỉ có trong
tâm trí bạn. Bạn chưa đọc về một vài
kinh nghiệm cận tử nói có một ánh
hào quang vàng rực chiếu đến toàn là sự
tha thứ sao ? Và thông
thường có câu rằng : chỉ có
chúng ta tự phê phán
chúng ta mà thôi. Muốn giải tỏa
tội lỗi bạn, hãy xin thanh lọc từ tận đáy tim bạn. Nếu bạn thực sự xin
sám hối và
trải qua sự thanh lọc ấy, thì sự
tha thứ đã có ở đấy rồi.
Thượng đế sẽ
tha thứ bạn, hệt như người cha
tha thứ cho đứa con hoang đàng trong
ẩn dụ đẹp đẽ của Ki-tô giáo. Muốn giúp bạn tự
tha thứ cho bạn, thì hãy nhớ lại những việc tốt bạn đã làm, hãy
tha thứ cho
mọi người khác
trong đời bạn, và
xin lỗi bất cứ người nào mà bạn đã làm hại” .
Không phải ai cũng tin vào một
tôn giáo, nhưng hầu như ai cũng tin vào sự
tha thứ. Bạn có thể giúp người sắp chết rất nhiều bằng cách cho họ thấy
thời gian cận tử là lúc để
tha thứ và
giảng hòa.
Hãy khuyên họ
hòa giải với bạn bè
thân quyến,
dọn sạch cõi lòng để đừng giữ lại dấu vết nào của sự sân giận hay oán ghét. Nếu họ không thể gặp người mà họ có
vấn đề, thì hãy gợi ý họ điện thoại
hay nói vào máy ghi âm cho người ấy, hay viết một bức thư để xin
tha thứ. Nếu họ
ngờ vực người kia không
tha thứ được, thì ta không nên khuyên họ
chạm mặt trực tiếp với người kia ; vì một
phản ứng tiêu cực chỉ làm tăng thêm
nỗi buồn khổ của họ. Đôi lúc người ta cần
thời gian để
tha thứ. Hãy nói họ để lại một bức thư
xin lỗi, để
ít nhất họ có thể chết trong khi
biết mình đã làm
hết sức mình, có thể giải tỏa sự
gay cấn giận hờn khỏi trái tim họ. Nhiều lúc tôi đã thấy những người trái tim cứng lại vì tự giận và vì
mặc cảm phạm tội,
cuối cùng chỉ nhờ một
hành vi xin lỗi mà đã có được một
năng lực và sự
bình an không ngờ.
Tất cả mọi
tôn giáo đều
nhấn mạnh năng lực của
tha thứ, và
năng lực này không bao giờ
cần thiết và được cảm thụ một cách
sâu xa cho bằng lúc người sắp chết nhờ
tha thứ và được
tha thứ, mà đã thanh lọc mình khỏi màn
hắc ám và chuẩn bị một cách
trọn vẹn cho cuộc
hành trình đi qua cái chết.
Tìm một pháp tu
Nếu người thân bạn đang chết đã quen với một lối
thiền định nào đó, thì bạn hãy khuyên y
an trú trong thiền ấy càng nhiều càng tốt, và hãy nhập
thiền định với họ khi cái chết
đến gần. Nếu người sắp chết sẵn sàng
chấp nhận một pháp tu, bạn hãy giúp họ tìm một pháp tu
thích hợp, giản dị, và cùng
thực tập với họ càng
thường xuyên càng tốt, và nhẹ nhàng nhắc cho họ
thực tập pháp ấy khi cái chết
đến gần.
Bạn
cần phải phong phú,
sáng tạo trong cách giúp đỡ, vào cái lúc cao điểm này, vì rất nhiều chuyện
lệ thuộc vào đấy.
Toàn thể bầu không khí chết chóc có thể được
chuyển hóa nếu người ta tìm được một pháp tu mà họ có thể làm hết mình, trước và trong khi họ chết. Có rất nhiều
phương diện của sự
tu tập tâm linh, bạn phải
sử dụng tính mẫn cảm của bạn để
tìm ra phương diện liên hệ tới họ nhiều nhất : hoặc
tha thứ (
sám hối), hoặc thanh luyện, hoặc hiến dâng, hoặc
cảm thấy hiện diện của ánh sáng và tình yêu. Khi bạn giúp họ khởi sự
tu tập, hãy tha thiết
cầu nguyện cho họ tập luyện
thành công, nguyện cho họ có mọi
năng lực và
đức tin để theo
con đường họ chọn. Tôi đã biết có những người ngay cả khi
gần chết, đã làm được sự
tiến bộ tâm linh rõ rệt nhờ
sử dụng một câu chú, một
bài kinh hay một
sự quán tưởng
đơn giản, nhờ vào đó họ đã thực sự
liên lạc được với cái tâm của họ.
Stephen Levine kể cho tôi
câu chuyện về một
phụ nữ chết vì bệnh ung thư. Bà
cảm thấy chới với vì đã
bỏ nhà thờ, mặc dù bà
sùng kính Chúa Giê-su. Stephen cùng bà ta cố
tìm cách nào để bà có thể
lấy lại được
sức mạnh của
lòng tin và sự
sùng kính ấy. Bà
nhận ra rằng cái điều có thể giúp bà
tái lập quan hệ với Chúa để tìm được một ít
bình an,
tin tưởng trong lúc chết, là
liên tục nhẩm lời
cầu nguyện : “Xin Chúa Ki-tô hãy
thương xót con” . Sự đọc
lời nguyện này đã
mở lòng bà, làm cho bà khởi sự
cảm thấy sự
hiện diện của Chúa ở bên bà
mãi mãi.
Pháp
chuyển di tâm thức “Phowa”
Pháp tu có
giá trị nhất,
hiệu lực nhất mà tôi
tìm thấy trong lúc
săn sóc người hấp hối, là pháp
chuyển di tâm thức, Tạng ngữ là phowa. Rất nhiều người
hăng hái theo pháp này.
Pháp
chuyển di tâm này đã được
thực hiện bởi những bạn bè
thân quyến hay thầy (của người chết) ở khắp nơi trên
thế giới - Úc, Mỹ và AÂu châu. Nhờ
năng lực của nó mà hàng ngàn người đã có cơ hội để chết một cách
thanh thản. Tôi lấy làm
hoan hỷ khi đem trái tim của sự
thực hành “chuyển di” này đến cho bất cứ ai
cần dùng.
Tôi muốn
nhấn mạnh, pháp tu này ai làm cũng được. Nó rất giản dị, nhưng cũng là pháp tu cốt yếu nhất mà ta có thể làm để tự chuẩn bị cái chết cho ta. Và đây là phần
thực tập chính thức mà tôi đã dạy cho học trò để giúp người bạn sắp chết của họ, hoặc những
bà con thân quyến đã chết.
Thực tập một :
Trước hết, ngồi
thoải mái theo thế
ngồi thiền. Nếu bạn làm
thực tập này lúc bạn
gần chết, thì có thể ngồi kiểu nào
thuận tiện cho bạn, hoặc nằm mà tập.
Rồi đưa tâm bạn về nhà,
buông xả, thư giãn
hoàn toàn.
1- Trong bầu trời
trước mặt, bạn hãy
triệu thỉnh biểu tượng của
chân lý mà bạn tin, dưới dạng ánh sáng tỏa chiếu. Hãy chọn
hình ảnh vị Phật hay
thần thánh nào bạn thích. Nếu bạn không có
liên hệ đặc biệt với một
hình ảnh nào cả, thì chỉ tưởng tượng một ánh sáng
vàng ròng trong nền trời
trước mặt. Điểm quan trọng là bạn xem đấy là
biểu tượng của
chân lý,
trí tuệ và
từ bi của tất cả chư Phật,
thánh chúng, các bậc thầy, các bậc đã
giác ngộ. Đừng lo nếu bạn
không quán ra
hình ảnh được một cách
rõ ràng. Chỉ cần bạn làm tràn ngập tim mình với sự
hiện diện của Phật, và tin rằng Phật đang ở đấy
2- Rồi tập
trung tâm, trí, hồn của bạn vào
hiện diện mà bạn đã
triệu thỉnh, và
cầu nguyện như sau :
Nhờ
ân sủng, sự
dìu dắt,
năng lực ánh sáng tuôn phát từ nơi ngài.
Xin cho tất cả
ác nghiệp của con,
phiền não nghiệp chướng đều được tịnh trừ.
Xin cho con tự biết đã được
tha thứ về tất cả điều hại mà con đã nghĩ và làm.
Xin cho con
hoàn tất phép
chuyển di sâu xa này, để chết một cái chết
an ổn.
Và qua sự chết
vinh quang của con, mong con có thể
lợi lạc tất cả
hữu tình sống hay chết.
3- Bây giờ, hãy tưởng tượng sự
hiện diện ánh sáng mà bạn đã
triệu thỉnh - do lời
cầu nguyện chân thành tha thiết của bạn - liền
đáp ứng bằng một nụ cười
âu yếm và gởi đến bạn
lòng từ bi trong một luồng ánh sáng từ trái tim vị ấy chiếu ra. Khi ánh sáng này chạm tới bạn, vào trong
bản thể bạn, thì bao nhiêu
ác nghiệp phiền não chướng ngại của bạn,
nguyên nhân đau khổ đều được tịnh hóa. Bạn thấy và cảm nhận rằng bạn
hoàn toàn chìm ngập trong ánh sáng
ân sủng ấy.
4- Bây giờ bạn đã được tịnh hóa,
hoàn toàn được chữa lành những
đau khổ, nhờ ánh sáng ấy. Hãy
xem như chính
thân thể do nghiệp sanh của bạn, bây giờ bỗng tan rã
hoàn toàn thành ánh sáng.
5- Cái thân bằng áng sáng của bạn bây giờ bay lên
hư không và tan hòa trong sự
hiện diện của ánh sáng
ân sủng trên kia, thành một
nhất thể bất khả phân.
6-
An trú trong
trạng thái nhất thể ấy càng lâu càng tốt.
Thực tập hai :
1- Muốn
thực tập pháp này cách giản dị hơn, hãy bắt đầu như trên, bằng cách nghỉ ngơi yên tĩnh, rồi
triệu thỉnh sự
hiện diện của
chân lý.
2- Tưởng tượng
tâm thức của bạn như một trái cầu sáng ở tim, chiếu ra như một vì
sao băng, và bay vào tim của sự
hiện diện trước mặt bạn.
3- Trái cầu sáng ấy tan ra và hòa nhập với
hiện diện ấy.
Qua sự luyện tập này, bạn đặt tâm bạn vào
tâm giác ngộ của Phật. Dilgo Khientse Rinpoche nói rằng giống như ném một hòn sỏi vào hồ, nghĩ đến hòn sỏi chìm xuống càng lúc càng sâu.
Quán tưởng rằng nhờ
ân sủng đó, tâm bạn được
chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Phật.
Thực tập ba :
Phương pháp cốt yếu nhất để tập luyện phép này như sau : chỉ việc hòa tâm bạn vào
tâm giác ngộ của
hiện diện thuần khiết. Hãy quán : “Tâm con và
tâm Phật là một” .
Bạn hãy chọn bất cứ
phương pháp nào trong các pháp trên, mà bạn thấy
thuận tiện ; hoặc pháp nào
hấp dẫn bạn nhất vào một lúc
đặc biệt nào đó. Đôi khi
pháp môn hiệu nghiệm nhất có thể lại là
pháp môn đơn giản nhất. Nhưng dù chọn cách nào, điều cốt yếu vẫn là bạn cần
thời gian tập luyện cho
thuần thục. Còn cách nào khác để bạn có được
niềm tin cậy mà làm phép
Chuyển di cho chính bạn hay người khác vào lúc chết ? Thầy tôi, Jamyang Khientse Rinpoche nói : “Nếu
bạn thiền định và tập theo cách ấy luôn luôn thì vào lúc chết, nó sẽ xảy đến một cách dễ dàng”.
Quả thế, bạn
cần phải quen thuộc với phép
Chuyển di này để cho nó thành một phản xạ
tự nhiên,
bản tính thứ hai của bạn. Nếu bạn đã xem phim Gandhi, bạn sẽ thấy khi bị bắn,
phản ứng lập tức của ngài là kêu lên “Ram... Ram !” (
Thượng đế của Ấn giáo). Hãy nhớ,
chúng ta không bao giờ biết được khi nào thì mình chết, hoặc
biết mình có
thời giờ mà nhớ lại
pháp môn nào không. Ta sẽ có bao nhiêu thời giò, chẳng hạn, nếu ta tông chiếc xe hơi của mình vào một xe cam-nhông đang chạy hết tốc lực trên xa lộ ? Khi ấy sẽ không có một giây nào để nghĩ cách nào làm phép
Chuyển di, hoặc để
xem lại những xách
chỉ dẫn trong sách này. Hoặc
chúng ta đã
thuần thục phép
Chuyển di, hoặc là không. Có một cách
đơn giản để đo lường điều này : hãy xem
phản ứng của bạn khi gặp
hoàn cảnh khủng hoảng, hoặc trong một phút
kinh hoàng như động đất, hay
ác mộng. Bạn có
phản ứng bằng phép
Chuyển di hay không ? Nếu có, bạn làm với mức độ
tin tưởng thế nào,
vững vàng thế nào ?
Tôi nhớ một học trò tôi ở Mỹ, có lần cỡi ngựa đi chơi. Con ngựa hất nàng xuống, bàn chân nàng mắc vào sợi dây cương, và nàng bị kéo xềnh xệch trên đường.
Tâm trí nàng trống rỗng, nàng cố một cách
vô vọng để nhớ lại vài
pháp môn nhưng không nhớ được một tí gì. Nàng đâm ra
kinh hoàng thất sắc. Một điều tốt về nỗi hoảng sợ này là, nó làm cho nàng nhận chân rằng sự tập luyện
cần phải trở thành bản tính thứ hai của mình mới được. Đây là bài học của nàng phải học, quả thế, là bài học mà tất cả
chúng ta phải học. Hãy
thực tập Chuyển di càng nhiều càng tốt,
cho đến khi bạn
bảo đảm có thể
phản ứng lại bất cứ
biến cố bất ngờ nào, bằng
pháp môn ấy. Điều ấy sẽ
bảo đảm rằng khi cái chết xảy đến, bạn sẽ sẵn sàng.
Dùng pháp
Chuyển di để giúp người sắp chết
Làm sao
chúng ta sử dụng pháp này để giúp một người sắp chết ?
Nguyên tắc và thứ tự của sự tập luyện cũng giống như đã nói ; chỉ khác là bạn quán
hình ảnh Phật ở trên đầu người sắp chết. Tưởng tượng những
tia sáng trút xuống người hấp hối, tịnh hóa
bản thể họ, và người ấy đang tan thành ánh sáng, nhập vào ánh sáng của Phật.
Làm pháp này suốt
thời gian người thân của bạn bị bệnh, nhất là vào lúc họ thở hơi
cuối cùng, hoặc vừa khi ngưng thở, trước khi
thân thể họ
bị động tới bằng cách nào đó. Nếu người hấp hối biết bạn sắp làm phép ấy cho họ, và đã biết qua
pháp môn này, thì điều ấy có thể đem lại cho họ một nguồn
cảm hứng và
an ủi lớn lao.
Hãy
ngồi yên tĩnh với người hấp hối, thắp đèn sáng trước một
hình ảnh Phật, rồi luyện pháp
Chuyển di này cho họ. Bạn có thể tập luyện trong
lặng lẽ, không cần người kia biết ;
trái lại nếu người kia sẵn sàng - như phần đông người sắp chết - thì bạn chỉ cho họ cách
quán tưởng và cùng làm với họ.
Người ta thường hỏi : “Nếu người
bà con đang hấp hối của tôi là một người
thực hành Ki-tô giáo, còn tôi là
Phật tử, thì có mâu thuẩn gì không ?” . Làm sao có mâu thuẩn được ? Bạn đang
triệu thỉnh chân lý, và Chúa hay Phật đều là
hiện thân đầy
từ bi của
chân lý,
xuất hiện cách cách khác nhau để giúp đỡ
con người.
Tôi
cực lực đề nghị các
bác sĩ, y tá cũng nên
tập pháp Chuyển di cho những bệnh nhân đang hấp hối của họ. Hãy tưởng tượng điều ấy sẽ thay đổi bầu không khí trong bệnh viện một cách
kỳ diệu thế nào, nếu những người chữa trị cho người hấp hối cũng làm pháp
Chuyển di này. Tôi nhớ cái chết của thầy Samten lúc tôi còn bé, hồi đó thầy tôi và các
tu sĩ đều giúp ông. Thật là mãnh liệt, nhẹ nhàng làm sao ! Điều tôi
mong mỏi nhất là ai cũng chết được với niềm
bình an và
ân sủng như thầy Samten.
*
Tôi đã soạn pháp
Chuyển di vắn tắt này
từ pháp truyền thống đặc biệt của
Tây Tạng dành cho người sắp chết. Nó
bao gồm tất cả những nguyên tắc quan trọng nhất. Không những nó chỉ là một pháp luyện tập cho người sắp chết, mà còn có thể dùng để tịnh hóa và chữa lành ; nó còn quan trọng đối với người đang sống và người bệnh nữa. Nếu người ốm khỏi bệnh, thì pháp này giúp cho khỏi bệnh ; nếu người ấy chết thì pháp này sẽ giúp chữa lành
tâm hồn họ trong khi chết ; nếu người ấy đã chết, thì nó vẫn
tiếp tục tịnh hóa người sống cũng như người chết.
Nếu bạn không chắc người bệnh nặng có qua khỏi hay sẽ chết, thì mỗi khi đi thăm, hãy làm pháp này cho họ, và khi về nhà lại làm nữa. Càng làm nhiều lần, thì người sắp chết càng được tịnh hóa. Bạn không bao giờ
biết mình có gặp lại họ không, hoặc có
hiện diện khi họ chết hay không, bởi thế mỗi lần viếng thăm, bạn nên
kết thúc bằng pháp
Chuyển di này để chuẩn bị và
tiếp tục làm lúc bạn rảnh rỗi.
Cống hiến cái chết của
chúng taTrích
từ Tử thư
Tây Tạng :
“Này
thiện nam, nay cái gọi là “chết” đã đến, vậy ngươi hãy có
thái độ này : Tôi đã tới thời chết. Bây giờ, qua cái chết này, tôi sẽ giữ
thái độ của tâm đã
giác ngộ mà thôi, đó là từ và bi, và sẽ đạt
giác ngộ hoàn toàn vì
lợi lạc cho tất cả
hữu tình nhiều
vô lượng như không gian...”
Gần đây, một học trò tôi đến nói với tôi : “Bạn tôi mới có 25 tuổi đang
đau đớn và sắp chết vì bệnh ung thư máu. Y đã đâm ra
cay đắng kinh khủng, và tôi sợ y sẽ bị chết đuối trong nỗi
cay đắng.
Y cứ hỏi tôi : “Tôi có thể làm gì với tất cả nỗi khổ đau
kinh khủng,
vô ích này ?”.
Tim tôi hướng về cô và người bạn cô. Có lẽ không gì
đau khổ bằng thấy mình chịu khổ đau một cách
vô ích. Tôi bảo cô học trò tôi rằng : “Có một cách để bạn cô có thể
chuyển hóa cái chết của y ngay bây giờ, ngay trong cơn đau ghê gớm mà y đang
chịu đựng : đó là y hãy hiến dâng với tất cả tấm lòng, nỗi khổ của cái chết và chính cái chết của y, cho sự
lợi lạc và
hạnh phúc tối hậu của người khác”.
Tôi bảo cô ta hãy nói với y : “Tôi biết bạn đang
đau đớn rất nhiều. Hãy tưởng tượng giờ phút này tất cả những người trên
thế giới đang
đau đớn như bạn, hay còn đau hơn nữa, và để trái tim bạn tràn ngập sự bi mẫn đối với họ. Hãy
cầu nguyện rằng sự khổ đau của bạn sẽ giúp làm vơi bớt khổ đau của họ. Bạn hãy lập đi lập lại sự hiến dâng nỗi
đau đớn của bạn để làm vơi bớt khổ đau của
nhân loại. Và rồi bạn sẽ tìm được ngay trong chính bạn một nguồn
năng lực mới, một
lòng bi mẫn mà bây giờ bạn khó tưởng tượng nổi, và bạn sẽ có được niềm xác
tín không chút
nghi ngờ, rằng nỗi đau của bạn không những
không vô ích, mà còn mang một
ý nghĩa nhiệm mầu” .
Điều mà tôi
diễn đạt cho người học trò tôi kỳ thực là
phương pháp hành trì Tonglen, “chịu thay” , hay “cho và nhận” mà tôi đã trình bày, nhưng nó còn có
ý nghĩa đặc biệt đối với người đang mắc bệnh nan y hay sắp chết.
Nếu bạn bị một căn bệnh như Sida hay ung thư, bạn hãy cố
hết sức tưởng đến
mọi người đồng bệnh với bạn trên
thế giới.
Hãy tự nhủ bạn, với
lòng bi mẫn sâu xa : “Tôi xin chịu thay
đau đớn cho tất cả những ai có căn bệnh
hiểm nghèo này. Mong cho họ
giải thoát thoát khỏi đau đớn này và khỏi tất cả khổ đau của họ” .
Rồi hãy tưởng tượng những ung nhọt, bệnh tật của người ấy từ giã cơ thể họ dưới dạng khói tan vào ung nhọt, bệnh tật của bạn. Khi
thở vào, bạn
thở vào tất cả
đau đớn của họ, và khi
thở ra, bạn
thở ra toàn sự khỏi bệnh, sự
an lạc. Mỗi khi
thực tập, bạn hãy
tin chắc bây giờ những người kia đã được chữa khỏi.
Khi bạn
gần chết, hãy
liên tục nghĩ trong tâm : “Tôi xin chịu thay sự
đau khổ, nỗi
sợ hãi,
cô đơn của tất cả
mọi người trên
thế giới giờ phút này đang hấp hối, đang chết. Mong tất cả họ đều
thoát khỏi đau đớn mê mờ ; mong tất cả họ đều được
tiện nghi và
an ổn. Mong sao tất cả
đau đớn mà tôi đang chịu và sẽ chịu trong tương lai có thể giúp họ tiến đến một
tái sinh tốt đẹp và
cuối cùng đạt giác ngộ” .
Tôi biết một nghệ sĩ ở Nữu Ước chết vì chứng Sida. Anh ta có thói cay cú và ghét tất cả
tôn giáo có tổ chức, mặc dù
chúng tôi đều nghĩ
thâm tâm anh có nhiều tò mò về
tâm linh hơn là anh
công nhận. Bạn bè khuyên anh nên đến gặp một bậc thầy
Tây Tạng. Ngài hiểu ngay rằng
nguyên nhân lớn nhất của nỗi
bất mãn và
đau khổ nơi anh là vì anh
cảm thấy nỗi khổ của anh không có lợi gì cho chính anh, hay bất cứ ai. Bởi thế, ngài dạy anh một
pháp môn duy nhất : “Chịu thay”, tức Tonglen. Mặc dù
lúc đầu hơi
hoài nghi, song anh cũng chịu
tu tập, và bạn bè thấy anh thay đổi một cách diệu kỳ. Anh nói cho họ biết rằng nhờ pháp “chịu thay” nên nỗi
đau đớn mà trước đây anh thấy
vô nghĩa,
kinh khủng, bây giờ lại đầy
mục đích vinh quang. Ai biết anh đều
công nhận ý thức mới về
mục đích này đã
chuyển hóa cái chết của anh như thế nào. Anh chết trong
thanh thản,
hòa giải với chính mình và với nỗi khổ đau của mình.
Nếu sự
tu luyện pháp “chịu thay” này có thể
cải hóa một người trước đây chưa từng
tu tập, thì thử tưởng tượng với một bậc thầy vĩ đại, nó còn có
năng lực biết ngần nào. Khi Gyalwang Karmapa chết ở Chicago vào năm 1981, một
môn đệ của ngài kể lại :
“Vào lúc tôi viếng thăm, ngài đã qua nhiều cuộc giải phẫu, vài
thân phần bị cắt bớt, nhiều vật khác bỏ thêm vào, máu ngài được chuyền thêm.v.v... Cứ mỗi ngày các
bác sĩ lại
khám phá thêm một bệnh mới, chỉ để thấy hôm sau nó
hoàn toàn biến mất và thay bằng một bệnh khác, dường như tất cả bệnh tật trên
thế giới đều có chỗ cư trú trong xương thịt của ngài. Suốt hai tháng liền, ngài không dùng được
thực phẩm cứng,
cuối cùng bác sĩ cũng
hết hy vọng, nghĩ ngài không thể nào sống được nữa nên các
bác sĩ định rút ra tất cả máy móc
duy trì sự sống của ngài.
Nhưng ngài bảo : “Không, tôi sẽ sống, cứ để vậy”, và ngài vẫn sống, làm cho các
bác sĩ kinh ngạc. Ngài lại có vẻ
hoàn toàn thoải mái trong
hoàn cảnh của ngài - cười
pha trò, làm như ngài
vui mừng trước mọi sự mà cơ thể ngài
chịu đựng. Khi ấy tôi nghĩ, với
niềm tin sáng suốt nhất, ngài đã chịu tất cả sự cắt xẻ ấy, chịu mọi
xuất hiện của các chứng bệnh trên cơ thể ngài, chịu nhịn đói, bằng một cách
hoàn toàn cố ý tự nguyện :
rõ ràng ngài đang cố chịu những bệnh tật để giúp
giảm thiểu những khổ chiến tranh,
đói khát, tật bệnh sắp tới, để tránh nỗi
thống khổ kinh hoàng cho
nhân loại trong
thời đại đen tối này. Đối với những người có mặt hôm ấy, cái chết của ngài là một
cảm hứng khó quên. Nó
chứng tỏ một cách
sâu xa hiệu lực của pháp, và cái
sự kiện đạt
giác ngộ vì người khác là chuyện có thực” .
Bây giờ tôi
tin chắc một điều, không ai ở đời
cần phải chết trong
ân hận,
cay đắng cả. Không một
đau khổ nào, dù
kinh hãi tới đâu, là
vô nghĩa, nếu sự
đau khổ ấy được hiến dâng để
giảm thiểu khổ đau của người khác.
Trước mắt chúng ta có những tấm gương cao cả là những bậc thầy
tối thượng với tâm
đại bi, đã sống và chết với pháp tu “chịu thay”, đem vào
đau khổ của tất cả
hữu tình khi
thở vào, và chan hòa cho
nhân loại sự
lành mạnh, khỏi bệnh khi
thở ra -
trọn đời như thế,
cho đến khi
hơi thở cuối cùng. Lòng
đại bi của các ngài mãnh liệt,
bao la tới nỗi vào lúc chết, nó mang các ngài
tái sinh vào ngay
cõi Phật.
Thế giới và
kinh nghiệm của
chúng ta về
nhân sinh sẽ được
chuyển hóa xiết bao nếu mỗi
chúng ta trong suốt cuộc đời và lúc chết, có thể đọc
lời nguyện của Shantideva và các bậc thầy của tâm
đại bi :
Với những người bơ vơ, tôi xin làm người
che chởVới kẻ lữ hành, tôi xin làm người hướng đạo
Xin được là thuyền, là cầu, là lối đi qua
Cho người muốn đến bờ kia
Mong sao
đau khổ của mọi sinh vật
Đều
hoàn toàn chấm dứt.
Mong cho tôi được là y sĩ
Là dược liệu, là người điều dưỡng mọi bệnh nhân
Cho đến khi
mọi người đều được chữa khỏi.
Như
hư khôngNhư đất và
bốn đại chủng
Mong rằng tôi luôn
nâng đỡ sự sống của
vô lượng sinh loài
Cho đến khi chúng chết vì
đau đớnTôi vẫn là nguồn sống
Cho mọi
cảnh giới chúng sanhĐến tận cùng
hư không ấy.