PHẦN HAI: CHẾT
15- TIẾN TRÌNH CHẾT
Padmasambhava nói :
Con người đối mặt với hai thứ chết : chết
phi thời và chết do chấm sứt
thọ mạng. Chết
phi thời có thể tránh nhờ những
phương pháp để kéo dài
thọ mạng.
Tuy nhiên, khi
nguyên nhân cái chết là
thọ mạng tận, thì bạn như một cây đèn đã hết dầu. Không thể nào tránh cái chết bằng cách lừa bịp nó, bạn phải sẵn sàng ra đi.
Bây giờ ta hãy nhìn vào hai
nguyên nhân sự chết :
thọ mạng hết và một
chướng ngại hay
tai nạn đưa đời ta đến một
kết thúc phi thời.
Thọ mạng tận
Do
nghiệp lực,
chúng ta mỗi người đều có một
thọ mạng, và khi nó
chấm dứt, thì thực
vô cùng khó mà kéo dài
đời sống. Tuy vậy, một người đã kiện
toàn thực tập yoga có thể vượt cả
giới hạn ấy, và thực sự kéo dài dược
thọ mạng. Có
truyền thống là, đôi khi những bậc thầy được bổn sư họ báo
cho biết họ sẽ sống bao lâu. Nhưng họ cũng biết rằng nhờ
năng lực tu luyện, nhờ sự thuần tịnh của mối
liên hệ giữa họ với
đệ tử họ nhờ
công đức, họ có thể kéo dài
thọ mạng. Thầy tôi tiên đoán Dilgo Rinpoche sẽ sống đến tuổi 80, nhưng nếu
xa hơn là nhờ
tu tập. Dilgo Rinpoche đã sống tới 82 tuổi. Dudjom Rinpoche được thầy bảo
cho biết sẽ thọ 73 tuổi, nhưng ngài đã sống đến tuổi 82.
Chết
phi thờiNgười ta bảo, nếu do trở ngại nào đó mà ta có thể chết bất đắc kỳ, thì cái chết ấy có thể dễ dàng tránh được,
miễn là ta
biết trước. Trong
giáo lý về
Trung Ấm và y học
Tây Tạng,
chúng ta có thể
tìm thấy những
mô tả về những dấu hiệu
báo trước cái chết, có dấu hiệu
báo trước hàng năm, hoặc tháng, có khi tuần hay ngày. Những điềm báo này gồm những dấu hiệu
vật lý, vài loại
chiêm bao đặc biệt, và những
điều tra đặc biệt xử dụng
hình ảnh cái bóng. (CT. –
Quan sát cái bóng của mình trên nền trời vào lúc bình minh hay trăng
sơ tuần). Rủi thay chỉ một ít người có khả năng chuyên môn mới có thể đoán giải những dấu hiệu này.
Mục đích là để báo cho một người biết mạng sống của họ
lâm nguy, và
báo động cho họ nên dùng các
pháp môn để kéo dài
thọ mạng, trước khi những
chướng ngại ấy xảy đến.
Bất cứ pháp tu nào ta làm, cũng có thể giúp kéo dài
thọ mạng và đem lại
sức khỏe. Một
hành giả thiện xảo nhờ
năng lực công phu của mình, thường
cảm thấy lành mạnh về
tâm lý,
cảm xúc và
tâm linh, và đấy là nguồn suối lớn nhất để chữa trị và sự
che chở lớn nhất
chống lại bệnh tật.
Cũng có những pháp tu
đặc biệt kéo dài
thọ mạng, dùng
năng lực thiền định và
quán tưởng để hô triệu
sinh lực từ
tứ đại và
vũ trụ. Khi
nghị lực chúng ta suy yếu và thiếu
quân bình,
pháp môn này cũng làm
tăng cường và điều hòa lại cơ thể, và cũng kéo dài
thọ mạng ta. Cũng có nhiều pháp để
tăng cường mạng sống.
Một
pháp môn là
phóng sanh những con vật sắp
bị giết. Pháp này rất
phổ thông ở
Tây Tạng và vùng
Hy Mã Lạp Sơn, ở đấy người ta thường mua cá để thả. Việc này căn cứ trên
luật nhân quả nghiệp báo tự nhiên là : giết hại mạng sống của kẻ khác thì
rút ngắn mạng sống của chính mình, và
phóng sinh thì sẽ kéo dài
thọ mạng.
Trung gian đau đớn của sự chết
Trung Ấm này kéo dài từ khi ta mắc một bệnh nan y thời
cuối cùng, hoặc một tình huống sẽ
chấm dứt bằng cái chết, đến lúc
hơi thở bên trong
chấm dứt. Nó được gọi là “đau đớn” vì nếu ta không chuẩn bị, thì nó có thể thành một
kinh nghiệm vô cùng đau khổ.
Ngay cả đối với một
hành giả,
toàn thể tiến trình chết cũng vẫn
đau khổ, vì mất cái thân xác ở đời có thể là một
kinh nghiệm rất
gay go. Nhưng nếu
chúng ta đã được
chỉ dẫn về
ý nghĩa sự chết, ta sẽ biết có một niềm
hy vọng lớn lao như thế nào khi Ánh sáng
Căn bản ló dạng vào lúc chết.
Tuy nhiên, vẫn còn một điều bất trắc là không biết ta có
nhận ra được ánh sáng ấy hay không.
Vì vậy, thực quan trọng để ổn định
nhận thức về
tự tánh tâm nhờ
thực tập thiền trong lúc ta còn sống.
Nhưng nhiều người trong
chúng ta không có cái
may mắn gặp được nền
giáo lý này, và ta không có một khái niệm nào về
ý nghĩa thực thụ của sự chết. Khi
chúng ta thình lình nhận ra rằng
toàn thể cuộc đời ta,
toàn thể thực tại của ta, đang biến mất, thì điều ấy
thực kinh khủng :
Chúng ta không biết ta sẽ ra sao, sẽ đi về đâu. Không có một thứ gì trong
kinh nghiệm trước đấy của ta đã chuẩn bị cho ta đón nhận cái chết. Như bất cứ ai đã từng
săn sóc người hấp hối đều biết, sự lo sợ của ta chỉ tổ tăng thêm nỗi đau thể xác. Nếu
chúng ta đã không lo cho
đời sống của ta, hay ta đã có hành động
xấu xa tác hại,
tiêu cực, thì lúc đó ta sẽ
cảm thấy hối hận,
phạm tội,
sợ hãi. Bởi thế, nhờ có chút
quen thuộc với
giáo lý này về các cõi
Trung Ấm mà ta sẽ được
an tâm phần nào, được
cảm hứng và
hy vọng, cho dù ta chưa từng
tu tập hay
thực chứng giáo lý ấy.
Đối với những
hành giả thuần tục, biết rõ cái gì sẽ xảy đến, thì không những chết không có gì
đau đớn đáng sợ mà còn chính là thời điểm mà họ đang chờ chực sẵn ; họ đối mặt với cái chết một cách
thản nhiên, còn có
hỷ lạc nữa. Tôi nhớ
câu chuyện Dudjom Rinpoche kể về cái chể của một
hành giả đã
ngộ đạo. Ông đã đau ốm vài hôm,
bác sĩ đến xem mạch và
khám phá rằng ông sắp chết, nhưng không biết có nên nói cho ông biết hay không. Mặt ông
bác sĩ xệ xuống, đừng bên giường trông có vẻ
nghiêm trọng, buồn bã. Nhưng với một vẻ nồng nhiệt của trẻ thơ,
hành giả năn nỉ bác sĩ cho biết sự thực tệ nhất.
Bác sĩ đành nhượng bộ, nhưng cố nói như để
an ủi ông : “Hãy
cẩn thận,
thời gian đã đến”.
Bác sĩ lấy làm
ngạc nhiên khi thấy mặt ông tươi hẳn lên, vui như đứa trẻ nhận được quà. “Thật sao ? Ôi, thật là một
tin mừng !” . Ông nhìn lên trời và chết ngay trong một
trạng thái thiền
sâu xa.
Ở
Tây Tạng ai cũng biết rằng chết một cái chết
đặc biệt là cách thực sự để
lưu danh, nếu ta chưa thể làm gì có
tiếng tăm trong lúc sống. Tôi nghe nói về một người
quyết định chết một cách
phi phàm, bằng một kiểu vĩ đại. Ông biết thông thường các bậc thầy sẽ chỉ rõ lúc nào thì họ chết, và
triệu tập môn đệ. Bởi thế, người này cũng tụ hội tất cả bạn bè đến ăn một bữa tiệc lớn
xung quanh tử sàng của ông. Ông ngồi đấy trong tư thế thiền để
chờ chết, nhưng không có gì xảy đến. Sau nhiều giờ, các thực khách đâm ra
mệt mỏi vì chờ đợi, và bảo nhau : “Ta hãy kởi sự ăn thôi”. Họ bỏ
thức ăn đầy đĩa, rồi nhìn người sắp chết mà bảo : “Ông ta sắp chết, không
cần phải ăn đâu” .
Thì giờ trôi qua mà vẫn không có dấu hiệu gì về cái chết, người “sắp chết” cũng thấy đói bụng và lo sợ sẽ không còn gì để ăn. Ông ta tụt xuống khỏi giường và
tham gia bữa tiệc. Cái màn “dự tri thời chí” lớn lối của ông
trở thành một trò hề.
Những
hành giả thiện xảo có thể tự
lo liệu lấy khi họ chết, nhưng những người thường thì cần có thầy họ ở bên giường chết,
nếu không thì một
bạn đạo có thể nhắc nhở họ tinh yếu của việc
tu hành và giúp họ thấy được
tự tánh tâm.
Dù
chúng ta là ai, cũng vẫn rất
lợi lạc nếu làm quen với tiến trình chết. Nếu
chúng ta hiểu biết các giai đoạn của sự chết, ta sẽ biết rằng tất cả những
kinh nghiệm lạ lùng mà ta đang kinh quá trong lúc chết, chỉ là một phần của một tiến trình
tự nhiên. Khi tiến trình ấy bắt đầu, nó
báo hiệu cái chết sắp đến, và nhắc ta
tỉnh giác. Và đối với một
hành giả thì mỗi giai đoạn của sự chết sẽ là một cột
đánh dấu hiệu, nhắc cho ta nhớ cái gì đang xảy đến với ta, và nhớ
thực hành pháp vào mỗi thời điểm như vậy.
Tiến trình chết
Tiến trình chết được
giải thích cặn kẽ trong nhiều kinh sách
Tây Tạng. Cốt yếu nó gồm hai giai đoạn tan rã : một sự tan rã bên ngoài, khi các căn và
tứ đại phân tán ; và một sự tan rã bên trong, thuộc về các
ý tưởng và
cảm xúc thô và tế. Nhưng trước hết ta cần
hiểu rõ những
thành phần của thể xác và
tâm thức ta, những thứ sẽ phân tán vào lúc chết.
Toàn thể sinh tồn của ta được
quyết định bởi các
đại chủng : đất, nước, lửa, gió và khoảng không. Nhờ các
đại chủng này mà
thân thể thành hình và
tồn tại, và khi chúng tan rã thì
chúng ta chết.
Chúng ta quen thuộc với những
đại chủng bên ngoài, những thứ
định đoạt cách thế
chúng ta sống, nhưng điều đáng chú ý là những
đại chủng bên ngoài này
tác động ảnh hưởng lên các
đại chủng bên trong cơ thể ta như thế nào. Và tiềm năng cùng
tính chất của năm
đại chủng này cũng
hiện hữu trong tâm
chúng ta. Khả năng của
tâm thức để làm nền tảng cho mọi
kinh nghiệm là cái khả năng của đất ; tính
tương tục và dễ
thích nghi của nó là nước ; tính
sáng suốt và khả năng
nhận thức của nó là lửa ; tính chuyển động
liên tục của nó là gió ; và tính trống rỗng
vô giới hạn của nó là
hư không.
Sau đây,
giải thích cơ thể
vật lý của
chúng ta hình thành như thế nào. Một văn bản y khoa cổ của
Tây Tạng nói :
“Các thức thuộc về
giác quan khởi lên từ trong tâm. Thịt, xương,
khứu giác và mùi được tạo thành do
địa đại. Máu,
vị giác, vị và chất lỏng khởi lên
từ thủy đại. Hơi ấm, màu,
thị giác và
hình sắc được hình thành từ
hỏa đại.
Hơi thở,
xúc giác và đối tượng
vật lý được tạo thành từ
phong đại. Những lỗ hổng trong thân,
thính giác và
âm thanh được tạo thành
từ không đại”.
(Ambrosia Heart Tantra, p.33)
Kalu Rinpoche viết : “Tóm lại, chính từ nơi tâm, biểu trưng
tính chất năm
đại chủng, mà cơ thể
vật lý phát triển.
Chính cơ thể
vật lý cũng
thấm nhuần năm
tính chất này, và chính vì cái phức thể tâm/vật này mà
chúng ta nhận thức được
ngoại giới - cái
thế giới cũng gồm năm
đại chủng đất, nước, lửa, gió và
hư không như vậy”.
Truyền thống Mật tông Tây Tạng nêu lên một
giải thích về thân xác
hoàn toàn khác với lối
giải thích mà
chúng ta vẫn
quen thuộc. Đây là một
hệ thống tâm
vật lý, gồm một mạng lưới
năng động với những huyệt đạo
vi tế, “khí” hay nội khí, và
tinh thần. Những thứ này
Phạn ngữ gọi là nadi, prana và bindu (
tinh khí thần) ; Tạng ngữ gọi là tsa, lung và tikleù.
Chúng ta quen thuộc với một thứ
tương tự trong y học và châm cứu
Trung quốc là các kinh mạch và khí.
Thân người được các bậc thầy
ví như một
đô thị, các kinh mạch giống như đường sá, gió như ngựa, tâm như người cỡi. Có 72.000 kinh mạch
vi tế trong
thân thể, nhưng có 3 kinh mạch chính : trung ương, chạy dọc cột sống, và kinh mạch bên trái và phải chạy hai bên kinh mạch trung ương. Hai kinh mạch phải, trái cuộn quanh kinh mạch giữa tại một số điểm để làm thành một dãy “gút” . Dọc theo kinh mạch chính có một số “luân xa” chakras,
trung tâm năng lượng, từ đấy những kinh mạch phân ra như những cọng dù. Qua những kinh mạch ấy, “khí” tuôn chảy, còn gọi là nội khí. Có 5 khí gốc và 5 khí ngành ngọn. Mỗi khí gốc
nâng đỡ một
đại chủng và chịu
trách nhiệm về một
vận hành của cơ thể
con người. Những khí ngành ngọn giúp cho các
giác quan hoạt động. Những khí nào chảy qua tất cả các kinh mạch, ngoại trừ kinh mạch giữa, thì được gọi là
bất tịnh, vì gợi lên những mẫu
tư duy nghị nguyên,
tiêu cực. Những khí ở huyệt
đạo trung ương gọi là “khí của trí tuệ”.
“Tinh chất” chứa đựng trong các huyệt đạo. Có tinh đỏ và trắng. Chỗ chứa
chính thức của tinh trắng là cái đỉnh đầu, và tinh đỏ ở nơi lỗ rốn.
Trong
thực hành yoga cao cấp,
hệ thống này được
hành giả quán rất rõ. Bằng cách làm cho khí vào trong huyệt
đạo trung ương nhờ
năng lực thiền định, một
hành giả có thể
trực nhận ánh sáng hay “Điểm Linh Quang” của
tự tánh tâm. Điều này làm được vì
tâm thức cỡi trên khí. Bằng cách hướng tâm về một chỗ
đặc biệt nào trên cơ thể mình,
hành giả có thể đưa khí đến đấy. Với cách ấy,
hành giả đang
mô phỏng cái điều xảy ra lúc chết : khi những gút trong các huyệt đạo được
bung ra, khí chảy vào huyệt
đạo trung ương, và
hành giả đốn ngộ tức thì.
Digo Khientse Rinpoche kể
câu chuyện về một bậc thầy
nhập thất ở một
tu viện thuộc tỉnh Kham, vị này ở gần các anh của ngài. Bậc thầy này đã
hoàn tất pháp yoga về các huyệt đạo, khí và
tinh thần. Một hôm ông hỏi
thị giả : “Bây giờ ta sắp chết, con hãy giở lịch xem ngày nào tốt” . Vị
thị giả kinh ngạc, nhưng không dám trái lời thầy. Ông xem lịch và
trả lời rằng ngày thứ hai, sau đó là ngày các sao đều
tốt lành. Bậc thầy bảo : “Còn ba hôm nữa. Được rồi, ta có thể chết”. Khi người hầu ở lại trong phòng ngài vài phút sau, ông đã thấy ngài
ngồi thiền bất động trông như đã chết. Không có
hơi thở nhưng còn một nhịp mạch rất yếu. Người hầu
quyết định không làm gì, chỉ chờ đợi. Vào giữa trưa,
thình lình ông nghe một tiếng
thở ra rất sâu, và thầy ông
trở lại tình trạng bình thường, nói chuyện với ông một cách
vui vẻ, và đòi
bữa ăn trưa, mà ông
thưởng thức rất
thú vị. Ông đã nín thở suốt một buổi sáng
thiền định.
Lý do ông làm việc ấy là vì
thọ mạng chúng ta được tính ra một số lượng có hạn những
hơi thở, và bậc thầy khi biết ông
gần chết đã nín thở để có thể kéo đến ngày tốt ông sẽ thở hơi
cuối cùng. Sau bữa trưa, ông
thở vào một hơi thật sâu, rồi giữ nó cho tới chiều. Ông làm như vậy ngày hôm sau, và sau nữa. Khi ngày thứ hai đến, ông hỏi : “Hôm nay có tốt ngày không ?” . “Tốt ạ” .
Đệ tử đáp. Ông bảo : “Tốt, vậy ta sẽ đi” . Và hôm ấy, không một dấu hiệu đau ốm nào, ông từ trần trong
thiền định.
Khi có một cái thân
vật lý thì ta cũng có
năm uẩn - những nhóm làm nên
toàn thể hiện hữu vật lý và
tâm lý của ta. Chúng là những
thành phần của
kinh nghiệm ta, chỗ nương cho sự
chấp thủ bản ngã, và cũng là nền tảng cho nỗi khổ
sinh tử. Đó là
hình dáng,
cảm giác,
nhận thức,
tri thức, và tâm ý (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) . “Năm uẩn biểu hiện cơ cấu
miên viễn của
tâm lý con người cũng như mẫu mực
tiến hóa của nó, và mẫu mực
tiến hóa của
nhân loại.
Năm uẩn còn
liên hệ đến những
chướng ngại thuộc nhiều loại khác nhau :
chướng ngại về
tâm linh, về
vật chất và về cảm xúc” . Chúng được khảo sát
sâu rộng trong nền
Tâm lý học
Phật giáo.
Tất cả những
kết hợp ấy sẽ tan rã khi
chúng ta chết. Tiến trình chết là một tiến trình
duyên sinh phức tạp, trong đó những nhóm thuộc các khía cạnh tương quan trong thân và tâm ta phân tán
đồng thời. Khi
phong đại biến mất thì những
thân hành và các
giác quan suy sụp. Những
trung tâm năng lượng sụp đổ, và vì không có những luồng gió
nâng đỡ chúng, nên các
đại chủng liên tiếp tan rã từ thô nhất đến tế nhất. Kết quả là mỗi giai đoạn của quá trình tan rã đều có
hiệu quả vật lý và
tâm lý trên người sắp chết, và được
phản chiếu bằng những
triệu chứng vật lý bên ngoài cũng như
kinh nghiệm tâm lý bên trong.
Đôi lúc các bạn hỏi tôi : “Những người như
chúng tôi có thể trông thấy những
triệu chứng bên ngoài này nơi một người bạn hay
bà con sắp chết không ?” . Các học trò tôi
săn sóc người hấp hối đã
cho biết rằng một vài dấu hiệu
vật lý mô tả dưới đây đã được thấy tại các
Tiếp dẫn đường và bệnh viện.
Tuy nhiên, những giai đoạn của sự tan rã bên ngoài có thể xảy ra cực kỳ nhanh chóng và không rõ rệt lắm, và phần đông người
săn sóc người chết trong
thế giới ngày nay không cần
để ý tìm kiếm những dấu hiệu ấy. Những y tá trong những bệnh viện rộn ràng thường
dựa vào trực giác của họ và nhiều
yếu tố khác, như
thái độ của
bác sĩ, của các thành viên
gia đình bệnh nhân, hay tâm trạng người bệnh, để đoán biết người nào sắp chết. Họ cũng
quan sát một vài dấu hiệu
vật lý - song không theo một
hệ thống nào - như là màu da đổi khác, một mùi gì đó, một sự đổi khác trong
hơi thở.
Tuy nhiên, những dược liệu tân thời rất có thể
che lấp những dấu hiệu mà
giáo lý Tây Tạng mô tả. Và lạ thay, lại có rất ít
nghiên cứu ở
Tây phương về đề tài rất quan trọng này. Điều ấy
phải chăng chứng tỏ tiến trình chết rất ít được
hiểu biết và
tôn trọng ?
Tư thế chết
Theo
truyền thống thì tư thế để chết là
nằm nghiêng bên mặt, như dáng nằm
sư tử. Đó là thế nằm của Phật lúc nhập Niết-bàn. Bàn tay trái nghỉ trên vế trái ; tay mặt để dưới cằm, bít lỗ mũi phải lại. Hai ống chân duỗi ra và hơi cong lại. Bên hông phải có vài huyệt đạo
vi tế làm tăng thêm “gió nghiệp”
vọng tưởng. Nằm lên trên chúng trong dáng nằm
sư tử và bít lỗ mũi phải là làm bế tắc những huyệt đạo ấy, khiến cho một người dễ dàng
nhận ra ánh sáng khi nó
xuất hiện vào lúc chết. Điều ấy cũng giúp cho
thần thức từ giã thân xác qua ngõ mở trên đỉnh đầu, khi tất cả các chỗ mở khác - qua đó
thần thức có thể thoát ra - đều bít lại.
Sự tan rã bên ngoài : các
giác quan và
tứ đạiSự tan rã bên ngoài xảy ra khi các
giác quan và
tứ đại phân tán.
Chúng ta thực sự kinh quá điều này như thế nào khi chết ?
Điều
trước tiên chúng ta có thể
ý thức là các
giác quan ta ngưng
hoạt động như thế nào. Nếu người đứng
xung quanh giường ta đang nói chuyện, sẽ đến một lúc ta có thể nghe
âm thanh tiếng nói họ, mà không thể nghe ra một lời nào. Đây là dấu hiệu
nhĩ thức đã ngưng
hoạt động. Ta nhìn một vật
trước mặt, mà chỉ có thể thấy hình dạng
lờ mờ, không rõ
chi tiết. Đấy là dấu hiệu
nhãn thức đã suy. Và việc cũng xảy ra
tương tự đối với các khả năng ngửi, nếm, sờ. Khi các
giác quan không còn được cảm nhận một cách
trọn vẹn, đó là giai đoạn đầu tiên của tiến trình tan rã.
Bốn giai đoạn tan rã
kế tiếp đi kèm với sự tan rã của
bốn đại :
Địa đại :
Thân xác
chúng ta khởi sự mất
hết sức mạnh.
Chúng ta kiệt quệ, không còn chút
năng lực nào ; không thể đứng lên, ngồi thẳng, hay cầm bất cứ vật gì. Ta không còn giữ được cái đầu của ta. Ta
cảm thấy như mình đang té xuống, đang
nhận chìm xuống đất, hay đang bị một sức nặng ghê gớm nghiền nát.
Kinh điển mô tả như là trái núi khổng lồ đang ép xuống người ta, và ta đang bị nó nghiền nát. Ta
cảm thấy nặng nề, khó chịu trong bất cứ tư thế nào. Ta có thể
yêu cầu đỡ ta lên, chồng gối cao lên, lấy hết mền trên người ra. Màu da của ta phai nhạt và một màu tái xanh
xuất hiện. Má ta hóp lại, và những vết đen
xuất hiện trên răng. Càng lúc ta càng thấy khó
mở mắt nhắm mắt. Khi
sắc uẩn phân tán, ta trở nên
yếu đuối mong manh. Tâm ta
giao động,
nói nhảm, nhưng rồi lại chìm vào
hôn trầm.
Đấy là những dấu hiệu
địa đại đang rút vào
thủy đại. Điều này có nghĩa rằng gió
liên hệ đến
địa đại đang
trở thành ít có khả năng
cung cấp một nền tảng cho
ý thức và khả năng của
thủy đại bây giờ rõ rệt hơn. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật”
xuất hiện trong tâm lúc đó là thấy một
hình ảnh chập chờn.
Thủy đại :
Chúng ta khởi sự mất khả năng
kiểm soát chất lỏng trong thân. Mũi ta bắt đầu chảy nước, và miệng rỏ nước miếng. Có thể có nước mắt chảy ra, và ta cũng có thể mất hết sự tự chế. Ta không thể nào
di động cái lưỡi. Mắt ta khởi sự
cảm thấy khô cạn trong lỗ mắt. Môi ta thụt vào, không còn chút sắc máu ; miệng và cổ họng bế tắc. Những lỗ mủi ta lún vào, và ta
cảm thấy rất khát nước. Ta run rẩy, co giật. Mùi tử khí bắt đầu
phảng phất xung quanh. Khi
thọ uẩn phân tán, thì những
cảm giác của thân yếu dần ; khi khổ khi vui ; lúc nóng lúc lạnh. Tâm ta đâm ra
mờ mịt,
bất mãn, cáu tức, và
nóng nảy. Một vài
kinh điển nói
chúng ta cảm thấy như mình bị dìm trong
đại dương hay cuốn trôi trong dòng nước lớn.
Thủy đại đang tan rã vào
hỏa đại, bây giờ
hỏa đại thắng lướt và có khả năng
nâng đỡ tâm thức. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người sắp chết thấy một đám mờ như khói cuộn.
Hỏa đại :
Miệng và mũi
chúng ta hoàn toàn khô cạn. Tất cả hơi ấm trong cơ thể bắt đầu mất dần, từ chân tay
cho đến tim. Có thể có một luồng khói xuất từ đỉnh đầu.
Hơi thở lạnh giá khi qua miệng và mũi. Ta không còn có thể uống hay
tiêu hóa bất cứ thứ gì.
Tưởng uẩn đang phân tán, và tâm ta
lơ lửng giữa
sáng suốt và mê mờ. Ta không thể nhớ được tên
bà con, bè bạn, hay
nhận ra họ là ai. Càng lúc ta càng khó
nhận ra cái gì bên ngoài, vì
âm thanh và cái thấy
lẫn lộn.
Kalu Rinpoche viết : “Đối với người sắp chết,
kinh nghiệm bên trong là như thể bị nuốt chửng trong một ngọn lửa lớn, ở giữa một cái
hỏa lò hừng hực, hay toàn
thế giới đang bị thiêu đốt”.
Hỏa đại đang tan vào
phong đại, nên bây giờ nó không có thể làm nền tảng cho
tâm thức được nữa, mà khả năng của
phong đại thì rõ rệt hơn. Bởi thế dấu hiệu
bí mật là những đóm sáng chập chờn trên một ngọn lửa mở ra, như những con đom đóm.
Phong đại :
Càng lúc càng khó thở. Không khí dường như thoát ra ngõ yết hầu
chúng ta.
Chúng ta khởi sự
thở hào hển. Nhưng
hơi thở vào càng lúc càng ngắn và khó nhọc,
hơi thở ra càng lúc càng dài. Mắt
chúng ta trợn trừng lên, và
chúng ta hoàn toàn bất động. Khi
hành uẩn phân tán, tâm trở nên
hoang dã, không biết gì về
thế giới bên ngoài. Mọi sự trở nên một khối
mờ mịt.
Cảm giác liên lạc cuối cùng của
chúng ta với
hoàn cảnh vật lý đang tan mất.
Chúng ta khởi sự có những
ảo giác và thấy các
cảnh tượng : Nếu
trong đời ta đã tạo nhiều
nghiệp ác, ta có thể trông thấy những hình thù
ghê rợn. Những
ám ảnh và những giây phút
kinh hãi của đời ta bây giờ quay lại, và có khi
chúng ta cố la lên vì
kinh hoàng. Nếu
chúng ta đã sống đời có lòng tử tế
xót thương, thì
chúng ta có thể
kinh nghiệm những cảnh
thiên đường đầy
hỷ lạc, và “gặp” những bạn bè
thân yêu, hoặc những bậc
giác ngộ. Với những người đã sống đời
lương thiện, thì khi chết có sự
an bình thay vì hãi sợ. Kallu Rinpoche viết : “Kinh nghiệm
nội tâm đối với người sắp chết là một ngọn cuồng phong
quét sạch toàn
thế giới, kể cả chính mình, một trận gió xoáy cuốn hút toàn vũ trụ”.
Điều đang xảy đến là
phong đại đang tan vào
tâm thức. Những ngọn gió đều tập
hợp lại trong “gió
nâng đỡ đời sống” nằm ở tim. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là (người chết) thấy một ngọn đuốc hay đèn đỏ rực.
Hơi thở vào càng nông cạn,
hơi thở ra càng sâu. Ở thời điểm này, máu tụ lại
đi vào trong “kinh mạch của sự sống” nằm chính giữa tim ta. Ba giọt máu
lần lượt tụ lại, gây nên ba
hơi thở ra
cuối cùng. Rồi
thình lình,
hơi thở chúng ta chấm dứt. Chỉ một chút hơi ấm còn ở lại nơi tim ta. Mọi dấu hiệu của sự sống không còn, và đây là điểm mà sự xét nghiệm lâm sàng cho là “chết”. Nhưng những bậc thầy
Tây Tạng nói đến một tiến trình bên trong vẫn còn
tiếp diễn.
Thời gian giữa sự ngưng thở và
thời gian chấm dứt “hơi thở bên trong” được cho là “khoảng chừng bữa ăn”, tức khoảng 20 phút. Nhưng không có gì
chắc chắn, và
toàn thể tiến trình này có thể xảy ra rất nhanh.
Sự tan rã bên trong
Trong quá trình tan rã
nội tâm, ở đấy những tâm trạng và
cảm xúc từ thô đến tế tan rã, có bốn tầng lớp
tâm thức vi tế được gặp gỡ. Ở dây tiến trình chết
phản ảnh ngược lại với tiến trình
đầu thai. Khi tinh huyết
cha mẹ gặp gỡ,
tâm thức ta do nghiệp
thúc đẩy, bị kéo vào. Trong
thời kỳ phát triển
bào thai,
tinh chất của cha, một hạt nhân “trắng và phúc lạc”
an trú trong luân xa ở đỉnh đầu, trên cùng của huyệt
đạo trung ương.
Tinh chất của người mẹ, một hạt nhân “đỏ và nóng”,
an trú trong luân xa được nói là năm dưới rốn chừng bốn ngón tay. Chính từ nơi hai
tinh chất này mà những giai đoạn
kế tiếp của sự tan rã xảy ra. Với sự biến mất của ngọn gió giữ nó lại đấy,
tinh chất màu trắng
đi xuống huyệt đạo về phía trái tim. Bên ngoài có tướng màu “trắng”
hiện ra như “một bầu trời
trong sáng dưới ánh trăng” . Bên trong,
ý thức chúng ta trở nên
vô cùng sáng suốt, và tất cả những tâm trạng do sân giận, gồm 33 thứ, đi đến
chấm dứt. Giai đoạn này gọi là “Xuất hiện”. Rồi
tinh chất của mẹ bắt đầu
đi lên qua huyệt
đạo trung ương, khi ngọn gió giữ nó nguyên chỗ đã biến mất. Tướng bên ngoài là một màu “đỏ” như
mặt trời chiếu trên nền trời trong. Bên trong, có một
cảm giác phúc lạc phát sinh, và những tâm trạng do
tham dục, gồm 40 thứ tất cả, ngưng
hoạt động. Giai đoạn này gọi là “Tăng trưởng” .
Khi hai
tinh chất đỏ trắng gặp gỡ ở tim,
tâm thức được kèm theo trong ấy. Tulku Urgyen Rinpoche, một bậc thầy
lỗi lạc ở Nepal, nói : “Kinh nghiệm ấy giống như bầu trời và trái đất gặp nhau” . Bên ngoài,
chúng ta thấy
xuất hiện một màu “đen” giống như một bầu trời trống rỗng chìm trong màn đêm dày đặc. Tướng bên trong là một
trạng thái tâm thức không có
tư tưởng. Bảy
trạng thái tâm do
ngu si và
vọng tưởng đi đến
chấm dứt. Điều này được gọi là “Thành tựu”. Khi
chúng ta hơi
tỉnh giác trở lại, Ánh sáng
Căn bản lóe lên như một bầu trời
vô nhiễm không mây mù. Đôi khi đấy gọi là “tâm với ánh sáng trong của sự chết”. Đức Dalai Lama nói : “Tâm thức này là
tâm thức sâu xa nhất.
Chúng ta gọi nó là
Phật tính, suối nguồn thực sự của mọi thức. Dòng
tương tục của
tâm thức này kéo dài ngay cả đến khi
thành Phật quả.
Cái chết của “các độc tố”
Thế thì cái gì xảy ra khi ta chết ? Nó giống như ta
trở về trạng thái nguyên ủy của ta, mọi sự đều tan rã, khi thân và tâm đã được
gỡ rối.
Ba độc tham, sân, si cùng chết, có nghĩa là tất cả những
cảm xúc tiêu cực, gốc rễ của
sinh tử, thực sự
chấm dứt, và khi ấy có một khoảng hở.
Và tiến trình ấy đưa
chúng ta đi đâu ? Đi
trở về nền tảng nguyên ủy của
tự tánh tâm, trong tất cả vẻ
đơn giản tự nhiên và
thuần khiết của nó. Bấy giờ mọi thứ che mờ nó đã bị dời bỏ, và
bản lai diện mục của
chúng ta hiển lộ.
Một
trạng thái tương tự có thể xảy ra như đã
giải thích ở chương 5 “Đưa tâm về nhà”, khi
chúng ta thực hành thiền quán và có những
kinh nghiệm hỷ lạc,
trong sáng,
vô tưởng : điều này
chứng tỏ tham, sân, si đã tạm thời tan rã.
Khi tham, sân, si chết, thì
chúng ta càng
trở nên thanh tịnh. Một vài bậc thầy
giải thích rằng, đối với một
hành giả Dzogchen thì những giai đoạn
xuất hiện,
tăng trưởng và
thành tựu là những dấu hiệu của của sự biểu hiện
dần dần của Rigpa hay
Tính giác (Tâm bản nhiên). Khi những gì che mờ
bản tánh của tâm chết đi thì ánh sáng của Rigpa dần khởi sự
xuất hiện và
tăng trưởng.
Toàn thể tiến trình trở nên một tiến trình phát triển của
trạng thái ánh sáng
gắn liền với sự nhận chân của
hành giả đối với ánh sáng ấy, sự
sáng suốt của
Tính giác hay tâm bản nhiên.
Trong
Mật tông có một lối
thực tập khác trong tiến trình tan rã. Trong
pháp thực hành yoga về
tinh khí thần,
hành giả Mật tông chuẩn bị cho tiến trình chết bằng cách
kích thích những thay đổi
tâm thức trong quá trình tan rã, mà cao điểm là
kinh nghiệm về ánh sáng hay “Điểm Linh Quang”.
Hành giả cũng
tìm cách duy trì sự
tỉnh giác đối với những đổi thay ấy khi ngủ. Vì điều quan trọng cần nhớ là chuỗi
trạng thái tâm thức tuần tự sâu dần này không những chỉ diễn ra khi
chúng ta chết. Nó còn xảy đến mà ta thường không
để ý, trong khi ta ngủ, hoặc khi ta
du hành từ những tầng
tâm thức thô đến tế, trong
thiền định. Một vài bậc thầy lại
chứng minh rằng nó còn xảy ra ngay trong tiến trình
tâm lý của
trạng thái tỉnh thức hàng ngày.
Sự kể
chi tiết tiến trình tan rã có vẻ
phức tạp, nhưng sẽ có
lợi ích lớn nếu ta thực sự
quen thuộc với nó. Đối với những
hành giả Mật tông, có một loạt những
thực tập đặc biệt để làm vào mỗi giai đoạn của quá trình tan rã. Chẳng hạn, bạn có thể chuyển tiến trình chết thành một pháp
tu Đạo sư Du-già. Với mỗi giai đoạn của sự tan rã bên ngoài, bạn
phát khởi tâm
sùng kính và
cầu nguyện với bậc thầy, quán
hình ảnh thầy trong các
trung tâm năng lượng (luân xa) khác nhau. Khi
địa đại tan rã,
hiện tượng ảo ảnh xuất hiện, bạn quán thấy trong tim bạn. Khi
thủy đại phân tán và dấu hiệu khói
xuất hiện, bạn quán thấy nơi luân xa ở rốn. Khi
hỏa đại phân tán và tướng đom đóm
xuất hiện, bạn quán thấy nơi luân xa ở trán. Và khi
phong đại phân tán, tướng ngọn đuốc
xuất hiện, bạn tập trung
hoàn toàn vào sự
chuyển di tâm thức bạn vào
tâm giác ngộ của thầy.
Về các giai đoạn chết, có nhiều
mô tả hơi khác về
chi tiết và thứ tự. Những gì tôi
giải thích ở đây là theo
mô tả thông thường, nhưng nó cũng có thể đổi khác tùy từng
cá nhân. Tôi nhớ khi Samten,
thị giả thầy tôi chết, chuỗi tiến trình rất rõ rệt. Nhưng những thay đổi có thể xảy ra do
hậu quả chứng bệnh
đặc biệt của người chết, và
tình trạng các huyệt đạo, khí lực và
tinh thần. Các bậc thầy nói rằng, tất cả
chúng sanh,
cho đến loài côn trùng nhỏ nhất cũng
trải qua tiến trình này. Trong
trường hợp chết bất ngờ hay chết vì
tai nạn, tiến trình này cũng vẫn xảy ra, nhưng cực kỳ nhanh chóng.
Tôi đã thấy rằng cách dễ nhất để hiểu cái gì xảy ra trong tiến trình chết, với sự tan rã bên trong và bên ngoài của nó, là xem nó như một phát triển
tuần tự và sự
sinh khởi của những tầng lớp
tâm thức càng lúc càng
vi tế dần. Mỗi tầng lớp nổi lên trên sự tan rã
liên tục của hợp thể
thân tâm, khi tiến trình
tuần tự di chuyển về hướng ở đấy có sự
hiển lộ cái tâm
vi tế hơn tất cả : Ánh sáng
căn bản hay Điểm
Linh Quang.