PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH
20- KINH NGHIỆM CẬN TỬ: NẤC THANG LÊN TRỜI
Ngày nay ở phương Tây
chúng ta đã rất
quen thuộc với
kinh nghiệm cận tử, cái tên đặt cho một loạt những gì xảy đến cho những người
chết hụt , và được họ kể lại sau khi thoát một
tai nạn hay một cơn bệnh thập tử
nhất sinh.
Kinh nghiệm cận tử này đã được kể khá nhiều, trong tất cả các
truyền thống huyền học, bởi các
văn sĩ,
triết gia thuộc đủ trường phái khác nhau như Platon, Giáo hoàng Gregory, một vài bậc thầy
giáo phái Sufisme, Toltoi và Carl Jung. Mẩu chuyện mà tôi thích nhất là mẩu chuyện của một sử gia Anh, thầy tu Bede, đã kể lại vào thế kỷ thứ 8.
Vào thời ấy, một
phép lạ đáng chú ý, giống như những
phép lạ ngày xưa, đã xảy ra ở Anh quốc. Để
đánh thức những người đang sống mà
tâm hồn đã chết, có một người đã chết
trở về lại
đời sống trong thân xác cũ của họ và kể nhiều chuyện mà y đã trông thấy. Một vài chuyện trong đấy tôi nghĩ là đáng
nói vắn tắt ở đây. Có một
gia chủ ở xứ Northumbrian, tên là Cunningham, sống
một đời sùng tín. Ông ta ngã bệnh càng ngày càng nặng,
cho đến vào đầu một đêm kia, ông chết. Nhưng đến lúc bình minh, ông
thình lình sống lại, ngồi dậy trên giường trước nỗi
kinh ngạc của
mọi người đang khóc
xung quanh xác ông. Họ vùng bỏ chạy, chỉ trừ bà vợ, người
yêu thương ông hơn ai hết, ở lại bên ông mặc dù bà cũng run lên vì hãi sợ. Ông trấn an bà và bảo : “Đừng sợ, vì tôi quả thực vừa
thoát khỏi nanh vuốt thần chết, và tôi được phép
sống lại giữa
loài người. Nhưng từ đây tôi không được sống theo thói cũ, và phải có một
lối sống hoàn toàn khác hẳn” . Không lâu sau đó, ông
từ bỏ tất cả
trách nhiệm ở đời và
gia nhập tu viện Melrose...
Ông thường kể lại
kinh nghiệm ông đã
trải qua như sau :
“Một người đẹp trai trong chiếc áo
rực rỡ, hướng dẫn tôi, và
chúng tôi im lặng đi về hướng dường như là đông-bắc. Khi
tiếp tục đi,
chúng tôi gặp một thung lũng rộng, sâu, và có độ dài bất tận... Người ấy liền đưa tôi ra khỏi bóng tối, đến một bầu không khí có ánh sáng
trong suốt, và khi người ấy dẫn tôi đi trong ánh sáng ấy, tôi thấy
trước mặt một bức tường to lớn dường như có chiều cao và chiều dài
vô tận. Vì tôi không trông thấy cửa ngõ, cửa sổ hay lối vào nào cả, tôi tự hỏi tại sao
chúng tôi đi đến đấy làm gì. Nhưng vừa khi
tới nơi, tôi không hiểu tại sao,
chúng tôi đã ở trên nóc bức tường ấy. Bên trong có một cánh đồng khoáng đạt và
vui vẻ trải ra... Ánh sáng tràn ngập trong đó, còn sáng chói hơn cả
ánh mặt trời giữa ngọ...
Người hướng đạo nói : “Nay ngươi phải
trở về nhập xác lại và sống giữa
loài người một lần nữa, nhưng nếu ngươi
cân nhắc hành động một cách
cẩn thận và
học hỏi để giữ cho
lời nói và
tư cách ngươi đều
bình dị, có
đạo đức, thì khi chết, ngươi cũng sẽ được một căn nhà trong đó và sống giữa những
linh hồn hạnh phúc mà ngươi đã thấy. Vì khi ta rời ngươi trong chốc lát là để xem tương lai của ngươi sẽ là gì” . Khi ông ta nói thế, tôi rất
miễn cưỡng trở về thân xác, vì tôi đâm ra mê mẩn trước vẻ đẹp và sự vui thú của cái nơi tôi đã thấy và những người trong đó. Nhưng tôi không dám hỏi người hướng đạo tôi, và trong khi ấy, không biết làm thế nào tôi chợt thấy mình sống lại”.
Bede
chấm dứt câu chuyện với những lời này :
“Con người của Chúa trời này không kể chuyện này và những
điều y đã thấy với những người sống bất cẩn, vô cảm, mà chỉ nói với những người sẵn sàng ghi nhớ những lời của y và tăng thêm sự thánh thiện”.
Kỹ thuật y khoa tân tiến đã đem lại một chiều hướng mới mẻ,
hấp dẫn cho tầm mức
kinh nghiệm cận tử ; bây giờ nhiều người đã
sống lại sau một
tai nạn, cơn suy tim hay bệnh nặng, hoặc trong khi giải phẫu, trong cuộc chiến.
Kinh nghiệm cận tử đã là đề tài của một số lớn khảo cứu khoa học và
tư duy triết học. Theo một cuộc trưng cầu
ý kiến của viện Gallup năm 1982, có đến 8 triệu người Mỹ, hay một phần hai mươi dân số, đã có
ít nhất một lần suýt chết.
Mặc dù
kinh nghiệm cận tử không ai giống ai, cũng
như không có hai người cùng có một
kinh nghiệm giống nhau về cõi
Trung Ấm,
tuy thế có một mẫu mực chung về các giai đoạn khác nhau trong
kinh nghiệm cận tử, một “kinh nghiệm cốt lõi”
xuất hiện :
1- Họ đều
cảm thấy một tâm trạng đổi khác,
an lạc và
thoải mái, không
đau đớn, hoặc có những
cảm thọ về thân, hoặc
cảm thấy sợ hãi.
2- Họ có thể
để ý đến một
âm thanh ào ào hay vù vù, và
cảm thấy mình rời khỏi xác. Đây gọi là “kinh nghiệm thoát xác” : Họ có thể nhìn thấy cơ thể họ từ một điểm ở trên cao ;
thị giác và
thính giác của họ bén nhạy hơn,
tâm thức họ
sáng suốt và rất
nhạy cảm, và họ còn có thể đi
xuyên qua vách tường.
3- Họ
ý thức đến một
thực tại khác,
đi vào một bóng tối,
trôi nổi trong một
không gian có chiều hướng, rồi
di chuyển rất nhanh qua một đường hầm.
4- Họ trông thấy một ánh sáng,
lúc đầu chỉ là một điểm ở đằng xa, rồi họ bị cuốn hút tới đó và được bao phủ trong ánh sáng và tình
yêu thương. Nó được
mô tả như ánh sáng chói chang rất đẹp, nhưng không hại mắt nhìn. Vài người kể lại, họ đã gặp “một
thực thể thuần là ánh sáng”, một
hiện diện bằng quang sắc có vẻ
toàn năng mà một số người gọi là
Thượng đế hay Chúa Ki-tô, có
lòng từ mẫn. Đôi khi trước
hiện diện này, họ có thể
chứng kiến toàn cảnh
cuộc đời họ diễn lại ; thấy
mọi việc họ đã làm lúc sống, cả tốt lẫn xấu. Họ nói chuyện bằng thần cảm với
hiện diện ánh sáng ấy, và tự thấy mình ở trong một
trạng thái phúc lạc, trong đó mọi khái niệm về
thời gian và
không gian đều
vô nghĩa. Mặc dù
kinh nghiệm ấy chỉ kéo dài một hai phút, nó vẫn là cái gì rất
toàn vẹn và
phong phú.
5- Một vài người thấy
một thế giới nội tâm tràn đầy vẻ đẹp,
dinh thự,
phong cảnh thiên đường, với
thiên nhạc, và họ có một
cảm giác về
nhất thể. Một vài người, dường như rất ít người,
báo cáo thấy những
hình ảnh ghê rợn của
hỏa ngục.
6- Họ có
thể đạt đến một
biên giới mà họ không thể đi
xa hơn; vài người gặp
bà con bè bạn đã chết và nói chuyện với họ. Họ
quyết định (thường rất
miễn cưỡng) hoặc được bảo phải
trở về lại thân xác và
cuộc đời, đôi khi vì
ý thức sứ mệnh và
phụng sự, đôi khi vì để lo cho
gia quyến, đôi khi chỉ để
hoàn tất mục tiêu cuộc đời họ đang bị
dang dở.
*
Khía cạnh quan trọng nhất của
kinh nghiệm cận tử là sự
chuyển hóa toàn diện trong sự sống, trong
thái độ và trong tương giao của những người đã có
kinh nghiệm ấy. Họ có
thể không mất nỗi
sợ hãi đối với nỗi đau và hấp hối, song chính cái chết thì họ không sợ. Họ trở nên
bao dung hơn, đầy
tình thương yêu, và
quan tâm đến những
giá trị tâm linh, đến
con đường trí tuệ, và thường họ thiên về
đời sống tâm linh nói chung, hơn là
quan tâm đến những
giáo điều của một
tôn giáo.
Thế thì làm sao để
giải thích kinh nghiệm cận tử ? Vài người
Tây phương đọc
Tử Thư Tây Tạng đã
so sánh những
kinh nghiệm cận tử này với các
kinh nghiệm về
thân Trung Ấm trong
truyền thống Tử Thư. Nhìn qua thì có vẻ tương đồng, nhưng nói
chính xác thì những
chi tiết của
kinh nghiệm cận tử
liên hệ như thế nào với
giáo lý Bardo ? Tôi nghĩ rằng việc này cần một khảo sát
đặc biệt vượt ngoài tầm sách này, nhưng có một số điểm đồng và dị mà ta có thể thấy.
Bóng tối và đường hầm
Có lẽ bạn cũng nhớ,
giai đoạn cuối tiến trình tan rã của Bardo chết là khi
kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu”
xuất hiện “như một bầu trời trống trải trùng trong màn đêm tối mịt” . Ở điểm này,
giáo lý nói đến một giây phút
hỷ lạc hạnh phúc. Một trong những nét chính của
kinh nghiệm cận tử là cái
cảm tưởng di chuyển “với tốc độ kinh khủng” và “cảm giác vô trọng lực” qua một
không gian tối đen, “một màu đen
kỳ diệu,
thanh bình, toàn triệt”, và
đi xuống “một cái hầm đen dài” .
Một
phụ nữ kể cho Kenneth Ring :
“Nó
giống hệt một khoảng trống
thoải mái thanh bình, đến nỗi bạn có thể
tiếp tục đi tới. Chỉ toàn là màu đen, không có
cảm giác nào cả... như là một đường hầm. Bạn cứ như là trôi giữa hư không”.
Và một bà khác kể :
“Điều đầu tiên tôi nhớ được là một tiếng
xào xạc kinh khủng... Thực khó thể nói nên lời. Tôi có thể nói là nó như một cơn gió lốc, một trận cuồng phong kéo tôi đi. Và tôi đang được kéo từ một điểm chật hẹp đến một nơi rộng rãi” .
Một
phụ nữ kể cho Margot Grey :
“Tôi đang ở một nơi giống như là một khoảng trống
ngoài trời.
Hoàn toàn tối đen, và tôi
cảm thấy đang được lôi kéo về phía cuối một đường hầm. Tôi biết thế vì tôi có thể trông thấy một ánh sáng cuối đường. Tôi đang thẳng đứng và bị kéo về phía lối ra. Tôi biết đấy không phải là mộng mộng mị không xảy ra kiểu đó. Tôi không bao giờ tưởng tượng đó lại là mộng mị”.
Ánh sáng
Vào lúc chết, Ánh sáng
Căn bản hay
Linh quang xuất hiện với tất cả vẻ chói lọi
quang vinh.
Tử Thư Tây Tạng nói : “Hỡi thiện nam/nữ,
tự tánh tâm ngươi là ánh sáng và koảng trống bất khả phân, nó trú như một vùng ánh sáng rộng lớn, vượt ngoài sống và chết ; quả thế, đấy là
đức Phật với Ánh sáng không thay đổi” .
Melvin Morse, chuyên gia sưu tầm
kinh nghiệm cận tử nơi trẻ em, có
nhận xét : “Gần hết mọi
kinh nghiệm cận tử của trẻ con (và một phần tư
kinh nghiệm của người lớn) đều có
yếu tố ánh sáng. Tất cả đều
báo cáo rằng ánh sang
xuất hiện ở
giai đoạn cuối của
kinh nghiệm cận tử, sau khi
chúng ta đã có
kinh nghiệm thoát xác, hoặc đã đi hết đường hầm” .
Một
mô tả hay nhất về sự tiến gần ánh sáng được Margot Grey
báo cáo :
Dần dần, bạn
nhận ra rằng : rất xa ở đằng xa, một khoảng cách
vô lượng, bạn có
thể đạt đến cuối đường hầm, vì bạn có thể trông thấy một ánh sáng trắng, nhưng nó quá cách xa, tới độ tôi chỉ có thể
so sánh nó như khi nhìn lên bầu trời mà thấy một vì sao
duy nhất ở đằng xa. Nhưng bạn phải nhớ rằng mình đang nhìn qua một đường hầm, và ánh sáng ấy sẽ lấp đầy cuối đường hầm. Bạn có thể tập trung trên điểm sáng ấy vì khi bạn ngoi tới trước bạn sẽ gặp nó.
Dần dần, khi bạn
du hành về phía điểm sáng ấy ở một tốc độ cực nhanh, ánh sáng càng ngày càng lớn.
Toàn thể tiến trình này nhớ lại dường như kéo dài chỉ chừng một phút. Khi bạn từ từ tiến đến ánh sáng cực chói lọi ấy, thì không có
cảm giác đường hầm đột ngột
chấm dứt, đúng hơn bạn có
cảm giác mình tan vào trong ánh sáng ấy. Khi đó, đường hầm đã ở sau bạn, và
trước mặt là một ánh sáng màu trắng xanh
rực rỡ tuyệt đẹp. Ánh sáng
vô cùng rực rỡ hơn cả một ánh sáng sẽ làm lòa mắt bạn, nhưng ánh sáng này
tuyệt nhiên không làm hại mắt bạn chút nào.
Nhiều người có
kinh nghiệm cận tử đã tả ánh sáng ấy như sau :
Tôi sẽ tả về ánh sáng ấy là - vâng, đấy không phải là ánh sáng, mà là sự
vắng mặt của bóng tối,
toàn diện và
viên mãn... Bạn thường nghĩ, ánh sáng lớn là ánh sáng chiếu trên
mọi vật làm nên những cái bóng.v.v... Nhưng ánh sáng này thực sự là
vắng mặt của bóng đen.
Chúng ta không quen với khái niệm này, vì ta luôn luôn có một cái bóng từ nơi ánh sáng, nếu ánh sáng không bao quanh ta. Nhưng ánh sáng này
toàn vẹn, tràn đầy tới nỗi bạn không nhìn vào nó, mà bạn ở trong nó.
Một người kể cho Kenneth Ring : “Nó không sáng. Nó như một
ngọn đèn có chụp lại, hay gì ấy. Nhưng đó không phải là loại ánh sáng mà bạn có được từ
ngọn đèn. Bạn biết nó ra sao không ? Giống như người nào đã để một cái chụp
lên mặt trời. Nó làm cho tôi
cảm thấy vô cùng an lạc. Tôi không còn
sợ hãi. Mọi sự sẽ không sao cả” .
Một
phụ nữ bảo Margot Grey : “Ánh sáng
rực rỡ hơn bất cứ gì bạn có thể tưởng tượng nổi. Không có lời nào để
mô tả nó. Tôi
cảm thấy hạnh phúc khôn tả. Đấy là một
cảm giác an lành, một
cảm giác kỳ diệu. Ánh sáng chói lọi tới nỗi
bình thường có thể làm lòa mắt bạn, nhưng sao nó không làm ta đau mắt chút nào” .
Những người khác kể lại, họ không những trông thấy ánh sáng, mà còn có
thể nhập vào đó, và kể về
cảm giác ấy như sau : “Tôi không có
cảm giác mình là cái gì tách biệt với ánh sáng. Tôi chính là ánh sáng, và là một với nó” .
Một
phụ nữ đã qua hai cuộc giải phẫu lớn trong trong hai ngày, đã kể cho Margot Grey : “Chỉ có
tinh chất của tôi được
cảm thấy.
Thời gian không còn là cái gì cả, và
không gian thì tràn đầy
phúc lạc. Tôi được tắm trong ánh sáng
rực rỡ và chìm ngập trong
hào quang của ánh cầu vồng. Mọi sự đều tan hòa vào nhau. Những
âm thanh thuộc về một
trật tự khác, hòa điệu, không tên (bây giờ thì tôi gọi là
âm nhạc) ”.
Một người đàn ông khác khi
đạt đến giai đoạn
thể nhập ánh sáng đã tả :
“Loạt
biến cố sau đây dường như xảy ra
đồng thời, nhưng khi
mô tả thì tôi phải làm
tuần tự. Tôi có
cảm giác về một
thực thể thuộc loại nào đó, một
năng lực, đúng hơn là một
con người, một
trí tuệ mà ta có thể nói chuyện với. Về tầm vóc thì “thực thể ấy” chiếm trọn khoảng
không gian trước mặt ta, nuốt chửng tất cả mọi sự, bạn
cảm thấy bạn cũng được bao bọc trong đó.
Ánh sáng ấy liền nói với bạn, đọc được ngay những làn sóng
tư tưởng bạn, không cần
ngôn ngữ.
Thông điệp đầu tiên tôi nhận được là “Hãy thư giãn, mọi sự đều
tốt đẹp, con không có gì phải sợ hãi”. Tôi liền được
hoàn toàn thoải mái. Trong
quá khứ nếu một người nào, như một
bác sĩ, nói “Không sao, bạn không có gì phải lo sợ, không đau đâu”, thì
thường có đau, nên bạn không thể tin được. Nhưng đây lại là cái
cảm giác kỳ tuyệt nhất mà tôi từng biết đến, đầy
thuần túy là tình yêu. Mọi
cảm giác đều toàn hảo. Bạn
cảm thấy ấp áp, nhưng không dính gì đến
thời tiết cả. Mọi sự ở đấy
tuyệt đối sống động và sáng sủa. Cái mà ánh sáng
truyền thông cho bạn là một
cảm giác về tình yêu
chân thật và thuần tịnh. Lần đầu tiên bạn
cảm thấy điều ấy. Bạn không thể
so sánh nó với tình yêu của
vợ con bạn. Tất cả những tình yêu trên
thế gian góp lại cũng không sánh được với
cảm giác bạn có được từ nơi ánh sáng ấy” .
Một người đàn ông suýt chết đuối vào năm 14 tuổi, đã kể :
“Khi tôi
đạt đến nguồn gốc của Ánh sáng, tôi có thể nhìn vào. Tôi không thể nào khởi sự
mô tả bằng
ngôn ngữ con người những
cảm giác mà tôi có về những gì tôi trông thấy. Đấy là
một thế giới
vô biên, đầy sự
an tĩnh,
năng lực, vẻ đẹp và tình yêu. Dường như
đời người không quan trọng khi
so sánh với cái này. Tuy vậy, “nó”
nhấn mạnh tầm quan trọng của
đời sống,
đồng thời cũng xin cầu cái chết như một
phương tiện để
đạt đến một đời sống khác
tốt đẹp hơn. Đấy là tất cả vẻ đẹp và
ý nghĩa của mọi
hiện hữu. Đó là tất cả
năng lực vũ trụ”.
Melvin Morse đã viết rất
cảm động về
kinh nghiệm cận tử của trẻ em, và kể lại cách chúng
mô tả ánh sáng với sự hùng hồn
đơn giản : “Cháu có một điều
bí mật kỳ diệu để nói với chú. Cháu đã leo lên một cái thang bắc lên thiên đàng” . “Cháu chỉ muốn đi đến Ánh sáng ấy, quên
thân thể cháu, quên tất cả mọi sự. Cháu chỉ muốn
đạt đến Ánh sáng ấy” . “Có một Ánh sáng thực đẹp trong đó có đủ mọi điều
tốt lành. Trong chừng một
tuần lễ sau đó, cháu có thể thấy những tia nhỏ của Ánh sáng ấy nơi tất cả mọi sự” . “Khi cháu ra khỏi cơn
hôn mê trong bệnh viện, cháu
mở mắt và trông thấy những mẩu của Ánh sáng ấy ở khắp nơi. Cháu có thể thấy được mọi sự trong
thế giới ăn khớp nhau như thế nào”.
Điểm tương đồng với
Trung Ấm tái sanhTrong
kinh nghiệm cận tử, tâm tạm thời
thoát khỏi thân xác, và kinh quá một số
kinh nghiệm gần giống những gì mà một thân ý sanh
trải qua trong cõi Bardo
tái sanh.
1-
Kinh nghiệm thoát xác
Kinh nghiệm cận tử thường khởi đầu bằng một
kinh nghiệm thoát xác : người ta có thể trông thấy
thân thể của chính họ, cũng như thấy
hoàn cảnh chung quanh. Điều này
trùng hợp với điều đã được nói trong
Tử Thư :
“Tôi nhớ mình
tỉnh dậy khỏi
hôn mê, rồi trôi giạt và tự thấy mình đã ra khỏi xác, đang
lơ lửng trên không nhìn xuống cái thân xác của tôi. Tôi chỉ
biết mình có một óc não và đôi mắt, mà không nhớ đã có một xác thân” .
Một người đàn ông đã qua một cơn suy tim kể với Kenneth Ring : “Nó như thể là tôi đang ở trên không trung và chỉ có tâm tôi đang
hoạt động. Không có
cảm giác cơ thể, cũng như óc não tôi cũng ở trên không. Tôi không có gì ngoài tâm tôi. Mất trọng lượng, tôi không có gì cả” .
2-
Ngắm nhìn thân quyến một cách
vô vọngTrong
Trung Ấm tái sanh, tôi đã tả rằng những người chết có thể thấy và nghe
bà con đang sống của họ, nhưng không thể nào
liên lạc được với họ, và điều này làm họ tức tối. Một
phụ nữ ở Florida kể cho Michael Sabom, nàng đã nhìn xuống mẹ nàng như thế nào, từ một điểm gần cái trần nhà : “Điều to tát nhất tôi nhớ được là tôi
cảm thấy vô cùng buồn bã vì không thể làm sao để nói cho họ biết tôi không sao cả”.
Và một
phụ nữ khác kể cho Michael Sabom : “Tôi đang ngồi tuốt trên cao nhìn chính tôi đang co giật, còn mẹ tôi và tớ gái thì la lớn lên vì họ tưởng tôi đã chết. Tôi
thương hại cho họ... Một
nỗi buồn vô tận. Nhưng tôi
cảm thấy mình đã
tự do ở trên cao ấy, và không lý gì để đau khổ” .
3-
Thân thể toàn vẹn,
Di động và
Sáng suốtTrong
Tử Thư Tây Tạng, thân ý sanh ở trong
Trung Ấm tái sanh được
mô tả là “như một
thân thể của
thời đại hoàng kim” , và có
năng lực di động và
sáng suốt phi thường.
Kinh nghiệm cận tử cũng thấy rằng hình dạng mà họ có là
toàn vẹn và ở độ
tuổi thanh xuân. “Tôi đang
trôi nổi, và tôi là một người trẻ hơn rất nhiều... Cái
cảm tưởng tôi
lúc ấy là tôi có thể nhìn thấy chính mình qua một
phản chiếu hay qua một cái gì đó mà làm cho tôi trẻ lại hơn 20 năm tuổi tôi lúc ấy” .
Họ cũng thấy mình có thể
du hành rất nhanh, chỉ bằng
năng lực của tâm ý. Một cựu chiến binh
Việt Nam đã kể với Michael Sabom rằng :
“Tôi có
cảm tưởng tôi nghĩ
tới nơi nào là có mặt ngay ở đấy... Tôi khoái chí vì
cảm giác về
năng lực thần thông này. Tôi có thể làm bất cứ gì mình muốn... Điều ấy còn thực hơn là chuyện tôi hiện đang ở đây nữa, thực đấy”.
“Bỗng chốc tôi nhớ mình
trở lại nơi chiến trường, chỗ tôi đã chết... Dường như thể là bạn
hiện thân ra ngay ở đấy, rồi một giây sau, bạn đã ở đây, như một cái chớp mắt”.
Nhiều người chết đi
sống lại cũng đã
báo cáo họ có một cảm thức
toàn tri “từ khởi thủy
cho đến chung cuộc của thời gian”. Một
phụ nữ kể với Rayond Moody : “Bỗng chốc, tôi có được
hiểu biết về mọi sự từ
vô thủy đến vô chung. Trong một giây, tôi có thể biết được
bí mật của các
thời đại, biết được
ý nghĩa của
vũ trụ, trăng sao, biết tất cả”.
“Có một giây phút trong đó dường như tôi biết tất cả mọi sự... Trong giây lát, ở đấy, dường như
ngôn từ không
cần thiết. Tôi nghĩ rằng tất cả điều gì tôi muốn biết là có thể biết ngay”.
“Khi ở đấy, tôi
cảm thấy mình ở
trung tâm điểm của sự vật. Tôi
cảm thấy mình
sáng suốt và
trong sạch. Tôi
cảm thấy mình có thể thấy được
ý nghĩa cốt yếu trong mọi sự. Mọi sự đều khít khao, đều có
ý nghĩa của nó, ngay cả những lúc
đen tối nhất. Nó như thể là những mảnh vụn của một trò chơi nối ráp đã được kết lại vừa khít”.
4- Gặp gỡ người khác
Tử Thư Tây Tạng mô tả thân ý sanh trong Bardo
tái sanh là có gặp những người chết khác trong cõi
Trung Ấm tương tự, người chết đi
sống lại cũng thường (trong lúc chết) có thể nói chuyện với người đã chết.
Cựu chiến binh
Việt Nam kể cho Michael Sabom, khi ông ta nằm bất tỉnh trên chiến trường, ngắm cái thi thể mình :
“13 ba đứa đã bị tử trận vào ngày hôm trước, mà tôi đã cho vào túi nylon, bây giờ đang ở đấy với tôi. Hơn thế nữa, suốt trong tháng năm ấy, trung đoàn tôi chết 42 người. Tất cả 42 người đều có mặt ở đấy. Họ không ở trong hình dạng mà ta thấy như người thường... Nhưng tôi biết họ ở đấy. Tôi
cảm thấy hiện diện của họ.
Chúng tôi liên lạc với nhau không cần
ngôn ngữ, lời nói”.
Một
phụ nữ bị đứng tim vì thuốc gây mê trong lúc nhổ răng, đã nói :
“Khi ấy tôi thấy mình đang ở trong một
phong cảnh đẹp đẽ, cỏ xanh hơn bất cứ thứ gì tôi đã thấy trên mặt đất, nó có một ánh sáng, một vẻ
rực rỡ đặc biệt. Những màu sắc đẹp vượt ngoài
mô tả, không có màu gì ở trên đời có thể
so sánh được... Ở chỗ này, tôi thấy lại những người tôi biết đã chết. Không có lời
trao đổi, nhưng dường như tôi biết được họ đang nghĩ gì,
đồng thời tôi biết họ biết tôi đang nghĩ gì”.
5- Những
cảnh giới khác nhau
Trong Bardo
tái sanh, ngoài
các loại thấy khác, thân ý sanh còn thấy được những
ảnh tượng và dấu hiệu của những
cảnh giới khác nhau. Một số ít trong những người chết đi
sống lại thuật về những
cảnh tượng của
thế giới nội tâm, về những cõi
thiên đường,
đô thị ánh áng, với
âm nhạc siêu trần.
Một
phụ nữ kể với Raymond Moody :
“Ở tuốt đằng xa... tôi có thể trông thấy một
đô thị. Có những tòa nhà riêng rẻ, sáng chói,
rực rỡ. Người ta sống
hạnh phúc trong đó. Có hồ nước, suối nước tung tóe... cả một
đô thị ánh sáng, tôi có thể nói : thật
tuyệt vời. Lại có
âm nhạc tuyệt diệu. Mọi thứ đều sáng chói, diệu kỳ... Nhưng, nếu tôi vào trong đó, thì tôi nghĩ tôi đã không bao giờ
trở lại... Tôi được bảo
cho biết rằng nếu vào đấy thì tôi không thể
trở về... rằng tôi có quyền quyết định”.
Một người khác kể với Margot Grey :
“Tôi dường như thấy mình ở trong một cái gì như là một
dinh thự, nhưng tôi không thể nhớ được có tường vách nào. Chỉ có một ánh sáng
vàng ròng lan khắp... Tôi
để ý quanh tôi nhiều người dường như đang tản bộ,
mỉm cười ; họ dường
như không phải đang đi, mà họ đang
lướt qua. Tôi không
cảm thấy có gì ngăn cách với họ ; tất cả
cảm giác tôi nhớ nhất về họ là, một cảm thức toàn triệt về
nhất thể ; tôi là một phần của tất cả mọi thứ quanh tôi”.
6-
Cảnh tượng địa ngụcNhưng không phải tất cả
mọi người chết đi
sống lại đều
mô tả những
cảnh tượng tích cực lạc quan, vì bạn cũng đã thấy nói trong
Tử Thư Tây Tạng. Vài người kể họ đã kinh quá những nỗi
sợ hãi kinh hoàng,
cô độc, buồn sầu
ảm đạm, rất giống với
cảnh tượng mô tả trong
Trung Ấm tái sanh.
Theo
báo cáo của Margot Grey, một người đã kể : họ “như bị hút vào trong một vực nước xoáy rộng lớn, đen ngòm”, và những người đã làm ác thì thấy mình đang
du hành xuống phía dưới thay vì hướng lên trên, giống như
Tử Thư mô tả những người sắp bị rơi vào những đọa xứ trong
Trung Ấm tái sanh :
Tôi đang
di chuyển như một phần của một dòng sông
âm thanh - tiếng người lải nhải bất tận... Tôi thấy mình chìm vào trong đó,
trở thành một phần của dòng nước và từ từ bị chìm ngập. Một nỗi
kinh hoàng tóm lấy tôi, như thể tôi biết rằng một khi bị nuốt chửng bởi cái khối lượng tiếng ồn càng lúc càng tăng này, thì tôi sẽ chết mất.
Tôi đang dòm xuống một cái hố rộng sâu, đầy những sương mù
cuồn cuộn. Từ dưới ấy có
vô số những bàn tay và cánh tay vươn lên cố chụp bắt lấy tôi, kéo tôi vào đấy. Có tiếng
rên siết kinh khủng, đầy
tuyệt vọng.
(
Trở về từ cõi chết, trang 32)
Những người khác kinh quá những điều mà ta chỉ có thể gọi là
cảnh tượng địa ngục, với hơi nóng ngột ngạt và khí lạnh
kinh hồn, và nghe những
âm thanh của sự
kêu la do bị
hành hạ, hay tiếng gì như tiếng thú rừng. Theo
báo cáo của Margot Grey, một
phụ nữ đã kể :
“Tôi thấy mình ở một nơi
xung quanh toàn là sương mù
mờ mịt. Tôi
cảm thấy mình đang ở
địa ngục. Có một cái hố thật lớn từ trong đó hơi nóng tuôn ra, có những bàn tay và cánh tay đưa lên cố níu lấy tay tôi... Tôi
kinh hoảng, sợ rằng bàn tay ấy sắp sửa tóm lấy tôi mà kéo vào trong
địa ngục với họ... Từ phía khác, một con
sư tử khổng lồ nhảy chồm về phía tôi, tôi thét lên. Tôi không sợ con
sư tử, mà sợ nó sẽ làm cho tôi mất chân đứng và xô tôi vào cái hố sâu
kinh khủng ấy... Dưới đó
vô cùng nóng và luồng hơi dưới ấy tuôn lên cũng nóng khủng khiếp”.
(Grey,
Trở về từ cõi chết, trang 63)
Một người đàn ông bị đứng tim đã kể lại :
“Tôi đang
đi xuống, xuống sâu trong lòng đất. Có nỗi
giận dữ, và tôi
cảm thấy sợ hãi vô cùng. Mọi sự đều một màu xám. Có tiếng ồn náo khủng khiếp như những con thú
điên dại đang gầm gừ nghiến răng”.
(
Trở về từ cõi chết, trang 70)
Raymond Moody viết : Có nhiều người cho rằng họ đã thấy những người dường như đã bị mắc bẫy do không thể
đầu hàng cái khuynh hướng
bám víu thế giới vật lý :
tài sản, người, tập quán. Một
phụ nữ nói về những
con người “lạc loài” ấy như sau :
“Đầu họ cúi xuống, họ có những
vẻ buồn thảm
tuyệt vọng, họ dường như đang lê bước, như bị xiềng chung lại
với nhau, không
biết mình đang đi đâu, không biết có ai để
đi theo, hay có cái gì để
tìm kiếm. Khi tôi đi qua, họ không buồn ngẩng lên nhìn xem cái gì. Họ dường như nghĩ : “Thôi, thế là xong. Tôi đang làm gì ? Tất cả chuyện này có nghĩa gì ?”. Chỉ thuần một tư thái
vô vọng như thế, không
biết mình phải làm gì, phải đi đâu, không
biết mình là ai, hay gì cả. Họ dường như đi mãi, đi mãi tới trước, chứ không phải chỉ ngồi một chỗ, nhưng không có một hướng
đặc biệt nào. Họ cứ
đi thẳng tới, quay qua trái vài bước, rồi lại quay qua phải. Và
tuyệt đối không có một việc gì để làm. Họ đang
tìm kiếm, nhưng tìm cái gì tôi không biết được”.
(Moody,
Tư duy, trang 19)
Trong những tường thuật mà ta có về
kinh nghiệm cận tử, người ta
thỉnh thoảng thấy có một
ranh giới, một điểm ở đấy không thể có chuyện
trở về. Ở
ranh giới ấy, đương sự chọn lựa, hay được ánh sáng
hiện diện bảo phải chọn lựa,
trở về đời sống.
Dĩ nhiên trong
giáo lý Trung Ấm của
Tây Tạng không có điều này, vì
Tử Thư thì
mô tả về những người đã chết thực sự.
Tuy nhiên ở
Tây Tạng có một số người gọi là déloks, cũng có cái gì gần giống với
kinh nghiệm cận tử, và những gì họ thuật lại giống nhau một cách lạ lùng.
Délok : một
kinh nghiệm cận tử của
Tây TạngMột
hiện tượng lạ lùng, ít được biết ở
Tây phương, nhưng rất
quen thuộc ở
Tây Tạng, là délok. Tạng ngữ délok có nghĩa “trở về từ cõi chết”, và
truyền thống délok là những người dường như “chết” do
hậu quả một cơn bệnh, và tự thấy mình
du hành trong cõi
Trung Ấm. Họ đi thăm các
cõi địa ngục, ở đấy họ
chứng kiến sự phán xét người chết và những
thống khổ ở
địa ngục, và đôi khi họ lên
thiên đường hay những
cõi Phật. Họ có thể được một
thiên thần mang đi, người
bảo vệ họ và
giải thích cho họ những gì xảy đến. Sau một tuần, người chết
trở về thân xác với một
thông điệp của
Diêm vương gởi cho những người sống, giục họ phải
tu hành và có
một đời sống
lợi lạc. Thông thường, những người déloks này rất khó mà làm cho người ta tin được những gì họ kể, và họ dành
suốt đời còn lại để kể cho người khác nghe những
kinh nghiệm của mình, để làm cho người ta tiến đến
con đường tuệ giác. Có vài
tiểu sử những déloks
nổi tiếng được ghi lại thành vè, và được những người hát rong ca khắp xứ
Tây Tạng. Một số khía cạnh của
kinh nghiệm những déloks không những tương đương với
giáo lý Trung Ấm trong
Tử Thư Tây Tạng, mà còn tương đương với
kinh nghiệm cận tử.
Lingza Chokyi là một délok
nổi tiếng,
xuất thân từ vùng quê tôi ở
Tây Tạng và sống vào thế kỷ 16. Trong
tiểu sử của bà, bà kể rằng bà không
nhận ra mình đã chết, bà thấy mình thoát xác, thấy xác một con heo nằm trong giường bà, mặc áo quần của bà. Bà
cuống cuồng cố một cách
vô vọng để
liên lạc với
gia đình, khi họ đang khởi sự công việc
cầu nguyện cho cái chết của bà. Bà đâm ra tức giận họ, khi họ tỉnh bơ không
để ý gì tới mình, và không dọn
thức ăn cho mình. Khi những con cái bà khóc lóc, bà
cảm thấy như “một trận mưa đá đầy cả máu mủ” tuôn xuống, làm cho bà
đau đớn vô cùng. Bà cho
chúng ta biết bà rất vui khi thấy làm
lễ cầu siêu cho bà, và
cuối cùng một niềm
hạnh phúc vô lượng dâng lên khi bà đến trước bậc thầy đang làm lễ cho bà, đang
an trú trong
tự tánh tâm, và khi ấy tâm bà với tâm thầy
trở thành một.
Sau một lúc bà nghe
tiếng gọi của người mà bà nghĩ là
thân phụ mình, và bà
đi theo ông. Bà đến cõi
Trung Ấm, mà bà trông giống như một xứ sở. Từ đấy, bà kể, có một cây cầu dẫn xuống các
cõi địa ngục, nơi mà
Diêm vương đang kể những
hành vi thiện ác của người chết. Trong cõi này, bà gặp nhiều người kể cho bà nghe chuyện của họ, và bà trông thấy một thiền giả vĩ đại đã xuống
địa ngục để
giải cứu các
chúng sanh.
Cuối cùng Lingza Chokyi được trả về
thế gian, vì có sự
lầm lẫn về lý lịch, bà chưa tới số chết. Với
thông điệp từ
Diêm vương cho những người sống, bà
trở về nhập xác và
bình phục. Bà đã dành
cuộc đời còn lại để kể những gì bà đã học được.
Hiện tượng délok không chỉ có trong
quá khứ, mà vẫn
tiếp diễn đến rất
gần đây, ở
Tây Tạng. Đôi khi một người như vậy rời bỏ thân xác chừng một tuần, gặp những người đã chết, đôi khi là những người họ
hoàn toàn không
quen biết. Những người này gửi gắm những
thông điệp để mang về trần gian cho
bà con họ, bảo
bà con phải làm lễ này, lễ nọ
nhân danh họ. Người
chết hụt khi
trở về sẽ nói lại những
thông điệp ấy cho những
thân quyến của người kia. Ở
Tây Tạng, việc này được xem là thường, và có những
phương pháp tinh vi để thử xem nhữngn gười
sống lại ấy là thật hay giả. Con gái của Dilgo Khientse Rinpoche kể cho Francoise Pommaret,
tác giả một quyển sách về các délok, rằng ở
Tây Tạng, trong khi người délok đang
trải qua cơn
hôn mê, thì các lỗ trên thân xác của họ được bít lại bằng bơ và bột lúa mạch trát
lên mặt họ. Nếu bơ không chảy ra, mặt nạ lúa mạch không nứt ra thì vị délok ấy được
xác nhận là có chết thực.
Truyền thống déloks vẫn
tiếp tục ở
Tây Tạng và vùng
Hy Mã Lạp Sơn cho đến ngày nay. Những déloks là những người
hoàn toàn bình thường, thường là những
phụ nữ sùng tín. Họ “chết” vào những ngày
đặc biệt trong lịch
Phật giáo, chết đi vài giờ, và
nhiệm vụ chính của họ là làm những
sứ giả giữa người chết với người sống.
Thông điệp của
kinh nghiệm cận tử
Như ta đã thấy, có những giống nhau giữa
kinh nghiệm cận tử và
giáo lý về cõi
trung gian, nhưng cũng có những khác nhau. Sự khác nhau lớn nhất
dĩ nhiên là người có
kinh nghiệm cận tử chưa thực chết, trong khi
giáo lý Bardo thì nói về những gì xảy ra sau khi thân xác thực sự chết, và khi họ
tái sanh.
Sự kiện rằng
kinh nghiệm cận tử không
tiếp tục đi cuộc
hành trình xa hơn vào cõi chết - vài người nói họ chỉ “chết” trong một phút - phần nào
giải thích được sự khác nhau giữa hai bên.
Vài người cho rằng
kinh nghiệm cận tử
diễn tả những giai đoạn của tiến trình tan rã trong Bardo cái chết. Tôi nghĩ còn quá sớm để cố
liên hệ kinh nghiệm cận tử một cách
chính xác với các
mô tả về
Trung Ấm, vì người kinh quá
kinh nghiệm cận tử chỉ có “suýt” chết mà thôi. Tôi thuật cho thầy Dilgo Khientse Rinpoche
tính chất kinh nghiệm cận tử, và thầy gọi đó là một
hiện tượng thuộc về cõi
trung gian tự nhiên của
cuộc đời này, vì
tâm thức chỉ tạm rời khỏi thân xác của người “chết” và lang thang trong các cõi.
Dilgo Khientse Rinpoche ngụ ý rằng những người chết đi
sống lại đang kinh quá sự chết lâm sàng ở trong cõi
trung gian tự nhiên của đời này. Có lẽ họ đang ở ngưỡng cửa của các cõi
Trung Ấm, chứ chưa thực sự
đi vào trong ấy rồi
trở về. Dù họ kinh quá những gì đi nữa, họ cũng vẫn đang còn trong
phạm vi Bardo
tự nhiên của đời này.
Kinh nghiệm về ánh sáng của họ có giống với sự
xuất hiện Ánh sáng
Căn bản chăng ? Có thể chăng ngay trước khi
mặt trời to rộng ấy mọc lên, họ đã nhìn thấy được những
tia sáng đầu tiên của bình minh ?
Dù
ý nghĩa tối hậu của những
chi tiết kinh nghiệm cận tử ra sao, tôi vẫn rất
xúc động trước nhiều
báo cáo mà tôi đã đọc hoặc nghe nói, nhất là trước những
thái độ tuôn phát từ những
kinh nghiệm ấy, những
thái độ đã
phản ảnh một cách
phong phú nhân sinh quan của
đạo Phật. Hai
thái độ tôi đã đề cập là sự
chuyển hóa sâu xa, sự bừng tỉnh về
tâm linh xảy ra nơi những người chết đi
sống lại, và những
ý nghĩa mà “toàn cảnh cuộc đời” đem lại cho
đời sống chúng ta. Tất cả những người chết đi
sống lại đều có cái
kinh nghiệm này, thấy toàn cảnh
cuộc đời mình diễn lại, và điều ấy
chứng minh rõ ràng tính cách không thể
trốn tránh của nghiệp, những
hậu quả lâu xa và mãnh liệt của tất cả hành động,
lời nói và
ý nghĩ chúng ta.
Thông điệp chính mà những người chết đi
sống lại đem về
cuộc đời này, hay
hiện diện của “thực thể ánh sáng”, là
giống hệt như
thông điệp của Phật và
giáo lý Trung Ấm : những đức tính cốt yếu và quan trọng nhất
trong đời là
yêu thương và
hiểu biết,
từ bi và
trí tuệ. Những người ấy
chắc chắn bắt đầu thấy cái mà
giáo lý Trung Ấm dạy
chúng ta rằng : sống và chết ở ngay trong tâm. Và
niềm tin mà phần nhiều họ có được
sau khi chết đi
sống lại cũng
phản chiếu phần nào cái
tri kiến sâu xa hơn của họ.
Còn có những tương đồng lạ lùng giữa
kinh nghiệm cận tử và
hậu quả nó, với những
trạng thái thần bí và
tâm thức đổi khác. Chẳng hạn, một số
hiện tượng bất thường đã được những người chết đi
sống lại báo cáo. Một vài người sau đó đã có những linh kiến
tiên tri,
nói trước nhiều việc xảy ra
trong đời mà về sau quả đã
thành sự thực.
Sau khi chết đi
sống lại, nhiều người dường như kinh quá
năng lực kundalini, nhiều người
cảm thấy họ có
năng lực thần thông hoặc chữa lành bệnh tật.
Nhiều người
sống lại đã nói một cách lưu loát về vẻ đẹp, tình yêu, sự
bình an,
hạnh phúc và
trí tuệ của cái mà họ đã
trải qua trong giây phút chết. Với tôi, điều này có vẻ như họ có được một thoáng nhìn thấy vẻ sáng chói của
tự tánh tâm, và do vậy không đáng
ngạc nhiên chút nào khi cái nhìn ấy đã đem lại sự
chuyển hóa tâm linh nơi họ. Nhưng như Margot Grey
nhận xét : “Chúng ta không
cần phải đợi suýt chết mới kinh quá được một
thực tại tâm linh cao cả”.
Thực tại ấy ở ngay đây, vào lúc này, trong
cuộc đời, nếu ta có thể
khám phá và
thể nhập.
Tôi lại muốn đưa ra một
đề phòng cốt yếu : Xin bạn đừng để những tường thuật về
kinh nghiệm cận tử - dù cũng khá
hấp dẫn thật đấy -
ru ngủ bạn đến chỗ tin rằng muốn
an trú trong những
trạng thái thanh bình an lạc ấy, bạn chỉ cần chết là được. Không phải và không thể giản dị thế đâu.
Đôi khi người ta gặp lúc quá
đau khổ, tưởng chừng không chịu nổi nữa, mà nghe nói về những
kinh nghiệm cận tử, họ có thể bị
cám dỗ chấm dứt mọi sự bằng cách
tự sát. Điều này có vẻ là một cách
giải quyết đơn giản, nhưng họ quên một
sự kiện rằng, bất cứ cái gìø ta
trải qua đều là một phần của
cuộc đời. Không thể trốn chạy. Nếu trốn chạy kiểu đó, bạn sẽ phải đối mặt với nỗi
đau khổ một cách sâu đậm hơn về sau.
Ngoài ra, trong khi quả thực
đa số kinh nghiệm cận tử được sưu tập đều là những
kinh nghiệm tốt đẹp, ta vẫn phải còn xét lại xem điều này nó có nghĩa là có rất hiếm
kinh nghiệm ghê gớm,
tiêu cực, hay chỉ có nghĩa là những
kinh nghiệm này khó nhớ lại. Có thể người ta không muốn nhớ lại những chuyện
đen tối khủng khiếp. Lại nữa, những người có
kinh nghiệm cận tử cũng
nhấn mạnh rằng, điều mà họ học được là sự quan trọng của việc
cải hóa cuộc đời ngay bây giờ, khi ta còn sống, vì họ bảo,
chúng ta “có một
sứ mạng quan trọng hơn trong lúc ta ở trên đời” .
Sự
chuyển hóa cuộc đời ta ngay bây giờ là điều
cấp thiết cốt yếu.
Phải chăng thực là
bi đát nếu cái
thông điệp cốt tủy này của
kinh nghiệm cận tử - rằng
đời sống là
thiêng liêng, và
cần phải sống một cách nhiệt tình, có
mục đích - lại bị
che lấp, bị mất hút trong
thái độ hời hợt là thi vị hóa cái chết ? Và có phải càng
bi đát hơn, nếu
thái độ lạc quan dễ dãi ấy càng
đào sâu thêm thói xem nhẹ
trách nhiệm đối với
bản thân và với
cuộc đời, một thói đang
đe dọa sự sống còn của hành tinh trái đất ?
Ý nghĩa kinh nghiệm cận tử
Dĩ nhiên vài người
cố tình chứng minh rằng những chuyện xảy ra trong lúc chết đi
sống lại không có gì là
kinh nghiệm tâm linh cả. Những nhà khoa học cố
giải thích quấy quá những
kinh nghiệm ấy là do những
ảnh hưởng vật lý,
thần kinh, hóa học hay
tâm lý.
Tuy nhiên, những nhà
nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, cũng là
bác sĩ và khoa học gia, thì lại
bác bỏ từng điểm một của
giải thích ấy một cách
minh bạch, và
nhấn mạnh rằng họ không thể
giải thích toàn thể kinh nghiệm cận tử. Melvin Morse viết cuốn
tác phẩm vĩ đại của ông “Gần ánh sáng hơn” , học từ
kinh nghiệm cận tử của trẻ em :
“Nhưng
kinh nghiệm cận tử có vẻ là một chùm
biến cố mà người ta không thể hiểu được
toàn diện bằng cách nhìn từng mảnh vụn khác nhau của nó. Ta không thể hiểu
âm nhạc bằng cách
nghiên cứu những tần số
âm thanh khác nhau đã tạo nên mỗi nốt nhạc, ta cũng không
cần phải thấu hiểu
vật lý học về
âm thanh mới
thưởng thức được Mozart.
Kinh nghiệm cận tử vẫn còn là một sự huyền bí”. (tr.40)
Melvin Morse còn nói :
“Tôi nghĩ rằng chỉ cốt hiểu được
kinh nghiệm cận tử, đó là
bước đầu của
chúng ta để
hàn gắn sự
phân chia lớn lao giữa khoa học và
tôn giáo, khởi đầu với Isaac Newton gần 300 năm trước. Việc
giáo dục những y sĩ, điều dưỡng viên, và chính
chúng ta về những gì người ta kinh quá vào những giờ phút
cuối cùng ấy, sẽ lung lay tận gốc những
thành kiến ta trong đường lối
suy nghĩ của ta về y học và đời sống”.
Nói cách khác,
tiến bộ thực sự của kỹ thuật y khoa
đồng thời cung cấp phương tiện cho nó
tự cách mạng chính nó. Melvin Morse nói :
“Tôi thấy điều thực
mỉa mai là chính kỹ thuật y khoa của
chúng ta đã đưa đến
vô số những
kinh nghiệm cận tử như thế... Trải hàng thế kỷ, đã có nhiều
kinh nghiệm cận tử, nhưng chỉ có 20 năm sau này ta mới có được kỹ thuật để
phục sinh bệnh nhân. Bây giờ họ đang kể cho
chúng ta nghe những
kinh nghiệm của họ, vậy ta hãy lắng nghe họ nói. Điều này tôi cho là một
thử thách cho
xã hội ta...
Kinh nghiệm cận tử, theo tôi nghĩ, là tiến trình
tâm lý tự nhiên liên hệ đến cái chết. Tôi dám tiên đoán rằng, nếu ta có thể hội nhập
tri kiến này vào
đời sống xã hội ta, thì không những nó sẽ giúp cho những bệnh nhân sắp chết, mà còn giúp cho
xã hội nói chung. Tôi thấy y khoa ngày nay thiếu hẳn
tâm hồn...
Không có lý do nào kỹ thuật và
tâm linh không
thể hiện hữu bên nhau được”.
Một trong những
lý do tôi viết sách này là để
chứng tỏ tôi tin điều Melvin Morse nói là có thể
thực hiện. Kỹ thuật và
tâm linh có thể, và
cần phải,
hiện hữu song hành, nếu ta muốn phát triển tiềm năng
con người chúng ta một cách
toàn vẹn.
Phải chăng một nền khoa
học nhân bản
hoàn toàn hữu ích sẽ có
can đảm khám phá những
dữ kiện huyền bí về cái chết, những
dữ kiện được khải thị trong
kinh nghiệm cận tử và trong sách này ?
Bruce Greyson, một trong những
tác giả quan trọng trong ngành
nghiên cứu kinh nghiệm cận tử đã nói :
“Khoa học nên cố
giải thích kinh nghiệm cận tử, vì trong đó có chìa khóa của sự
tăng tiến khoa học...
Lịch sử đã cho ta thấy chỉ nhờ cố
giải thích những
hiện tượng vượt ngoài tầm của ta mà khoa học đã phát huy được những
phương pháp mới. Tôi tin
kinh nghiệm cận tử là một trong những nạn để có thể bắt buộc các nhà khoa học phải phát triển một
phương pháp mới, một
phương pháp bao gồm một nguồn
tri thức, không những chỉ
tri thức lô-gích của
học giả, hay
quan sát thực nghiệm của nhà
vật lý, mà còn cả
kinh nghiệm trực giác của nhà
thần bí nữa”.
Bruce Greyson cũng nói, ông tin
kinh nghiệm cận tử xảy ra vì một
lý do : “Căn cứ trên sự canh chừng những
kinh nghiệm cận tử bao năm nay, tôi nghĩ rằng
chúng ta có những
kinh nghiệm như thế là để mà học cách giúp đỡ người khác”.
Kenneth Ring lại con thấy một khả năng và
ý nghĩa kỳ diệu trong
kinh nghiệm cận tử. Ông ta hỏi tại sao ngày nay có quá nhiều người có
kinh nghiệm ấy như vậy, và có sự
chuyển hóa tâm linh vào
thời đại này. Trong nhiều năm làm một trong những
tiên phong gan dạ nhất trong lĩnh vực
nghiên cứu kinh nghiệm cận tử, ông đã
dần dần thấy
kinh nghiệm cận tử như là “sứ giả của hy vọng”, nó cho thấy một
thực tại tâm linh cao cả hơn, và nhắc nhở
chúng ta thay đổi một cách khẩn thiết mọi khía cạnh của
lối sống ta
hiện tại ; nhắc ta
chấm dứt mọi
tranh chấp, chia rẽ giữa những
tôn giáo, dân tộc, và
bảo vệ, cứu lấy sinh môi.
“Tôi tin rằng
nhân loại nói chung đang cùng nhau
nỗ lực để
thức dậy một hình thái
tâm thức mới mẻ hơn và cao cả hơn, và
kinh nghiệm cận tử có thể được
xem như một
phương tiện tiến hóa để đem lại sự thay đổi này, qua
thời gian vài năm, trong hàng triệu con người”.
(Tiến về Omega, tr.7)
Có thể rằng điều này đúng hay không, còn tùy ở tất cả
chúng ta :
chúng ta có thực
can đảm đối diện với những
ý nghĩa hàm ẩn trong
kinh nghiệm cận tử và
giáo lý về
Trung Ấm hay không, và có thể nhờ sự
cải hóa mình, mà
chuyển hóa được
thế giới xung quanh ta, - và
lần lượt qua từng giai đoạn,
chuyển hóa toàn thể tương lai
nhân loại - hay không.