PHẦN MỘT: SỐNG
6. TIẾN HÓA, NGHIỆP VÀ TÁI SINH
Vào cái đêm lớn lao ấy, khi
đức Phật giác ngộ, tương truyền rằng ngài đã kinh quá nhiều giai đoạn của sự tỉnh thực. Đầu tiên, “với
tam định tĩnh, thuần tịnh, không
lỗi lầm, không
cấu nhiễm, được làm cho mềm mại, dễ
sử dụng,
an trú bất động,” ngài xoay chú ý về sự nhớ lại những đời
quá khứ. Ngài kể lại cho ta
kinh nghiệm ấy như sau:
- Ta nhớ lại nhiều đời trước:
một đời, hai, ba, bốn, năm đời,.. năm mươi, một trăm đời... trăm ngàn đời, trong các thời kiếp khác nhau. Ta biết mọi sự về những thời ấy: chỗ ở, tên họ,
gia đình, và ta đã làm gì. Ta kinh quá
trở lại những
may mắn bất hạnh của mỗi đời, cái chết của ta trong mỗi đời, rồi lại
tái sinh trở lại nhiều lần. Như thế ta nhớ lại
vô số đời trước với những nét
đặc biệt chính xác, và những
hoàn cảnh. Minh này ta đã chứng vào canh đầu của đêm.
Từ thuở bình minh của
lịch sử, sự
tái sinh và
niềm tin có
đời sau đã chiếm một chỗ quan trọng trong hầu hết các
tôn giáo lớn của
nhân loại. Sự tin có
tái sinh vẫn
hiện hữu trong những người Ki tô vào thuở
sơ khai của
lịch sử Ki tô giáo, và
tồn tại dưới nhiều
hình thức cho đến thời Trung cổ. Origen, một trong những người có
ảnh hưởng nhất trong những nhà thờ, đã
tin tưởng “sự có-trước của linh hồn” và đã viết vào thế kỉ thứ ba:
- “Mỗi
linh hồn đến
thế giới này được
tăng cường bởi
vinh quang hay bị
yếu kém bởi những thất bại trong những đời trước của nó.”
Mặc dù Ki tô giáo
cuối cùng đã chối bỏ
niềm tin tái sinh, ta
vẫn có thể tìm dấu vết
niềm tin ấy qua
tư tưởng thời
Phục sinh, trong những trước tác của những thi sĩ
lãng mạn chính như Blake và Shelley, và cả đến trong một
con người như tiểu thuyết gia Honoré de Balzac. Từ khi có sự nổi lên
ưa chuộng các
tôn giáo đông phương vào cuối thế kỉ trước, một số khá lớn những người
Tây phương đã bắt đầu
chấp nhận tri kiến của Ấn giáo và
Phật giáo về
tái sinh. Một trong những người này là Henry Ford, kỹ nghệ gia
nổi tiếng thương người, đã viết:
- Tôi theo
lý thuyết tái sinh vào năm tôi hăm sáu tuổi.
Tôn giáo không
cho biết tí gì về
vấn đề này. Ngay cả
sự nghiệp cũng không đem lại cho tôi niềm
thỏa mãn.
Sự nghiệp thật
vô bổ nếu ta không thể
đem theo cái
kinh nghiệm ta thu nhập để
sử dụng trong đời kế tiếp. Nhưng khi tôi
khám phá thuyết
tái sinh, thì
thời gian không còn bị
hạn chế nữa. Tôi không còn là một tên
nô lệ cho cái kim đồng hồ... Tôi muốn san sẻ với người khác sự
an tịnh mà cái thấy ấy đã đem lại cho
chúng ta.
Một cuộc trưng cầu
ý kiến của viện Gallup vào năm 1982
chứng tỏ cứ bốn người Mỹ thì có một người tin có
luân hồi. Đây là một thống kê làm ta giật mình, khi xét đến một nơi mà triết lý khoa học
duy vật hầu như tiềm tàng trong mọi
phương diện của
đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên, phần đông người ta chỉ có khái niệm
lờ mờ về
đời sống sau khi chết, và
hoàn toàn không biết nó ra như thế nào. Luôn luôn người ta bảo tôi rằng họ không thể nào tin nổi một chuyện không có bằng cứ
hiển nhiên. Nhưng sự “không tin” của họ đâu phải là bằng chứng để nói không có
đời sau chứ? Voltaire nói:
- Chung quy, sinh ra lần nữa cũng không là chuyện lạ lùng gì hơn chuyện sinh ra lần này.
Tôi thường hỏi: “Nếu ta đã từng sống trước đây, thì tại sao ta không nhớ?” Nhưng tại sao “ta không nhớ” lại có nghĩa rằng trước kia ta chưa từng sống? Chung quy, những
kinh nghiệm tuổi thơ, hay của hôm qua, hay cả đến những điều ta vừa nghĩ một giờ trước, rất
sống động khi chúng xảy ra, nhưng kí ức về chúng hầu như
hoàn toàn phai mờ, như thể chưa từng xảy đến. Nếu những gì
chúng ta làm hay nghĩ vào thứ hai tuần trước mà ta còn không nhớ được, thì làm sao ta nghĩ là có thể dễ dàng hay
bình thường, để nhớ những gì ta làm
trong đời trước?
Đôi khi tôi đùa người ta và hỏi:
- Cái gì làm bạn
cương quyết cho rằng không có
đời sau như vậy? Bạn có bằng chứng gì? Nếu bạn chết mà thấy quả thực có
đời sau thì bạn tính sao? Có phải là bạn phải tự
giới hạn mình, khi bạn tin rằng không có
đời sau nào cả? Có phải là có lý hơn nếu bạn cứ đặt một
nghi vấn về
đời sau, hay
ít nhất có
thái độ cởi mở về điều ấy, mặc dù không có cái mà bạn gọi là “bằng chứng cụ thể”? Cái gì sẽ làm bằng chứng
cụ thể là có đời sau?
Tôi lại muốn người ta hãy tự hỏi mình:
- Tại sao bạn thấy tất cả
tôn giáo lớn đều tin có
đời sau, tại sao hàng trăm triệu người suốt
lịch sử, kể cả những
triết gia lỗi lạc nhất,
thánh hiền và những
thiên tài của Á châu, đều sống
niềm tin này như một phần cốt yếu của đời họ?
Phải chăng họ đều ngu cả?
Ta hãy
trở lại vấn đề bằng chứng
cụ thể. Không phải chỉ vì ta
chưa bao giờ nghe về
Tây Tạng, hay chưa từng đến đấy, mà ta nói rằng không có xứ
Tây Tạng. Trước khi lục địa khổng lồ Mỹ châu được “tìm ra,” có ai ở châu Âu ngờ rằng nó có đấy? Ngay cả sau khi
tìm ra châu Mỹ, người ta còn tranh cãi về sự có mặt của nó. Tôi nghĩ chính cái
tri kiến hạn hẹp của ta về
cuộc đời đã
ngăn cản ta
chấp nhận hay khởi sự
tư duy nghiêm chỉnh về khả tính của
tái sinh.
May thay, chuyện chưa hết. Những người nào trong
chúng ta có
tu tập tâm linh, như
tu thiền chẳng hạn, sẽ
khám phá nhiều chuyện về
tâm thức chúng ta, mà từ trước ta chưa biết đến. Vì khi tâm ta càng mở ra cho
kinh nghiệm kỳ lạ,
bao la về
hiện hữu của
tự tính tâm, thì ta bắt đầu thấy một chiều
không gian khác hẳn, trong đó mọi quyết đoán của
chúng ta về lai lịch mình và về
thực tại, mà ta tưởng mình biết thật rõ, bây giờ khởi sự tan rã, và trong đó ta thấy
đời sau ít nhất cũng là một chuyện có thể xảy đến. Ta khởi sự hiểu rằng mọi sự mà các bậc thầy nói về
sống chết và
đời sau, quả là thực có.
VÀI “BẰNG CHỨNG” VỀ TÁI SINH
Hiện nay đã có rất nhiều sách nói về những chứng cứ của những người
tuyên bố họ có thể nhớ lại đời trước. Tôi đề nghị nếu bạn
thực tình muốn hiểu về
tái sinh, thì hãy điều nghiên việc này với tâm trạng cởi mở, và càng nhiều
tinh thần phân tích càng tốt.
Trong số hàng trăm
câu chuyện về
tái sinh có thể kể ra đây, có một chuyện làm tôi
thích thú đặc biệt. Đó là
câu chuyện của một người đàn ông trung niên ở Norfolk, Anh quốc, tên Arthur Flowerdew. Năm mười hai tuổi ông ta có
kinh nghiệm về những
tâm ảnh sống động của một
đô thị lớn nào đó ở giữa một sa mạc. Một trong những
hình ảnh xuất hiện nhiều lần trong trí ông là một ngôi đền chạm trổ từ một mỏm đá. Những
hình ảnh lạ lùng này cứ
trở lại trong trí ông, nhất là khi ông nhặt những hòn sỏi màu hồng và màu cam trên bờ biển cạnh nhà. Khi lớn lên, những
chi tiết về
đô thị trong
tâm trí càng rõ hơn, ông thấy thêm nhiều tòa nhà, đường sá, lính, và đường đến
đô thị xuyên qua một con kênh hẹp.
Mãi lâu về sau,
hoàn toàn tình cờ, ông xem một phim
tài liệu về
đô thị Petra cổ của Jordan. Ông rất
ngạc nhiên khi trông thấy lần đầu tiên,
hình ảnh mà ông đã thấy nhiều lần trong trí qua nhiều năm. Ông
cho biết ông chưa hề đọc sách vở gì về Petra. Những linh kiến của ông
trở thành nổi tiếng, và sự
xuất hiện của ông trên truyền hình của đài BBC làm chính phủ Jordan lư ý, đề nghị đưa ông bằng phi cơ đến Jordan cùng với một phóng viên quay phim của BBC.
Trước khi
phái đoàn xuất hành, Arthur Flowerdew được
giới thiệu với một nhà khảo cổ chuyên về Petra, đã viết một quyển sách về thành phố này. Nhà khảo cổ lấy làm lạ lùng trước sự
hiểu biết rành mạch của ông ta, một vài điều ông nói ra chỉ có một chuyên gia khảo cổ về vùng ấy mới biết được. Đài BBC ghi lại sự
mô tả của Arthur Flowerdew về Petra trước khi đi, để
so sánh. Flowerdew nêu lên ba địa điểm trong linh kiến của mình về Petra: Một mỏm đá hình núi lửa ở ngoài
đô thị, một ngôi đền nhỏ ở đấy ông tin rằng ông đã
bị giết vào thế kỷ thứ
nhất trước Thiên chúa, và một xây cất bất thường trong thành phố, mà các nhà khảo cổ rất
quen thuộc, nhưng họ không biết để làm gì.
Chuyên gia khảo cổ không nhớ có mỏm đá nào như vậy, và tỏ vẻ
hoài nghi. Khi ông ta đưa cho Flowerdew xem một bức ảnh chụp
đô thị Petra, ông lấy làm
kinh ngạc vì Flowerdew chỉ đúng cái nơi có
di tích ngôi đền. Rồi người đàn ông trung niên này
thản nhiên giải thích,
mục đích của cái cấu trúc kỳ lạ kia là cái vọng gác trong đó ông ta đã làm lính canh, cách hai ngàn năm về trước.
Một số lớn những tiên đoán của ông
chứng tỏ rất
chính xác. Khi đoàn
đến gần thành Petra, Arthur Flowerdew chỉ chỗ mỏm đá kỳ bí, và khi vào thành, ông đến ngay vọng gác, không cần nhìn bản đồ, và
chứng minh cái cách lạ lùng mà
thời xưa đã
sử dụng để điểm danh lính gác.
Cuối cùng ông đi đến nơi mà ông bảo ông đã bị một mủi kiếm của
kẻ thù đâm chết vào thế kỉ thứ
nhất trước Tây lịch, và lại chỉ ra những địa điểm,
mục đích của những cấu trúc chưa khai quật được tại
đô thị này.
Làm sao
giải thích được sự
hiểu biết lạ lùng của Arthur Flowerdew ngoại trừ sự
tái sinh luân hồi?
Rồi lại có
trường hợp những trẻ em nhớ lại một cách
tự nhiên những
chi tiết về đời trước. Nhiều
trường hợp như vậy đã được
tiến sĩ Ian Stevenson thuộc
đại học Virginia sưu tập. Một tường thuật về những kí ức của một trẻ em về đời
quá khứ đã gây sự chú ý của đức Dalai Lama. Ngài đã gửi một
đại diện đến
phỏng vấn và xác chứng những kí ức của em.
Tên em bé là Kamaljit Kor, con một thầy giáo sống trong một
gia đình theo đạo Sikh ở tỉnh Punjab ở Ấn. Một ngày kia, khi đi coi hội chợ với cha tại một khu làng,
tình cờ cô bé bảo cha đưa đến một làng khác cách đó không xa. Cha cô rất
ngạc nhiên, hỏi tại sao. Cô bảo:
- Con không có gì ở đây. Đây không phải nhà của con. Cha hãy đưa con đến làng ấy. Một đứa bạn học và con đang cỡi xe đạp thì chúng con bị xe buýt đụng. Bạn con chết ngay, con
bị thương ở đầu, tai, mũi. Con được đưa đi khỏi chỗ xảy ra
tai nạn và đến nằm trên một ghế dài trước một tòa án nhỏ gần đấy. Rồi người ta đưa con đến bệnh viện làng. Những vết thương của con chảy máu thật nhiều,
cha mẹ bà con đều theo con đến đấy. Vì bệnh viện làng không đủ
phương tiện, họ tính đưa con đi Ambala. Khi các
bác sĩ nói không cứu con được nữa, con đã
yêu cầu đưa con về nhà.
Cha cô bé lấy làm
kinh ngạc, nhưng vì cô bé
năn nỉ, ông phải đưa cô đến khu làng cô muốn. Khi
đến gần, cô bé
nhận ra ngay, chỉ chỗ đụng xe, và gọi một chiếc xích lô.
Cô bảo xe ngừng khi họ đến một cụm nhà mà cô bảo đã từng ở đó. Người cha vẫn không tin cô, nên hỏi những người ở đấy xem họ có biết
gia đình mà cô Kamaljit Kour đã
mô tả. Họ
xác nhận quả có việc như thế, và bảo người cha cô bé rằng Rishma, tên cô gái trước kia, khi chết đã được mười sáu tuổi, chết trong xe trên đường từ bệnh viện về nhà. Người cha
hết sức bực bội, bảo cô bé họ nên
trở về, song cô đi ngay tới nhà cũ, đòi bức ảnh cô chụp ở trường, và
ngắm nhìn thích thú. Khi ông nội và chú của cô Rishma đến, thì cô bé
nhận ra ngay,
nói đúng tên họ. Cô chỉ cái phòng riêng của cô, và đưa cha cô đi xem những phòng khác trong nhà. Rồi cô đòi những quyển sách học cũ, đôi vòng bạc và những cái nơ cùng với bộ áo quần mới màu marông. Cô của Rishma
giải thích, đấy là những vật
sở hữu cũ Rishma
ngày xưa. Hôm sau cô gặp tất cả những
bà con cũ, và khi tới giờ lên xe buýt
trở về, cô bé không chịu, bảo cha rằng cô sẽ ở lại. Nhưng
cuối cùng ông đã
năn nỉ cô bé cùng về.
Gia đình khởi sự ráp
câu chuyện lại. Kamalljit Kour đã ra đời mười tháng sau khi Rishma chết. Mặc dù chưa đi học, em bé vẫn thường làm bộ đọc sách, và nhớ được tất cả tên bạn trong tấm ảnh trường học. Kamaljit cũng thường đòi mặc áo marông.
Cha mẹ cô bé
khám phá ra rằng Rishma đã được tặng một bộ quần áo màu ấy mà em rất thích, nhưng chưa được mặc. Điều
cuối cùng mà em bé nhớ về đời trước của mình là những ánh sáng trên chiếc xe hơi bỗng vụt tắt trên đường từ bệnh viện về nhà; có lẽ đấy là lúc em chết.
Ai muốn khảo sát nghiêm túc khả tính về
đời sau, tôi đề nghị họ xem những chứng cứ
cảm động về
kinh nghiệm cận-tử. Rất nhiều người
sống lại đã phát sinh một niềm xác tín rằng
cuộc đời vẫn
tiếp tục sau khi chết; nhiều người trong đó không có
tín ngưỡng cũng chưa từng có
kinh nghiệm tâm linh nào:
Bây giờ,
suốt đời tôi
hoàn toàn tin chắc có
đời sau, không một chút
nghi ngờ gì. Và tôi không
sợ chết nữa, không. Nhiều người tôi biết rất
sợ chết, sợ quá. Tôi luôn luôn cười thầm khi nghe người ta
hoài nghi về
đời sau, hay bảo, “Chết là hết.” Tôi tự nhủ: “Họ thực sự không biết gì cả.”
“Cái điều xảy đến cho tôi lúc đó là
kinh nghiệm lạ lùng nhất tôi chưa từng thấy. Nó làm cho tôi
nhận ra rằng có
đời sau.”
“Tôi biết là có
đời sau. Không ai có thể lay chuyển
lòng tin của tôi. Tôi không
hoài nghi gì nữa. Chết thật
an ổn, không có gì phải sợ. Tôi không biết còn gì
ngoài ra cái mà tôi đã
kinh nghiệm, nhưng với tôi, đã là
tràn trề hạnh phúc...”.
“Nó cho tôi một
giải đáp cho cái điều mà tôi nghĩ sẽ làm
mọi người ngạc nhiên vào lúc này hay khác
trong đời. Vâng, có đời sau! Đẹp hơn bất cứ gì ta có thể tưởng tượng! Khi bạn đã biết, thì không có một cái gì có thể
sánh bằng nó. Bạn chỉ biết thế!”
Những khảo cứu về đề tài ấy cũng
chứng tỏ những người đã
chết hụt sau đó thường cởi mở hơn và có khuynh hướng
chấp nhận tái sinh luân hồi.
Và
phải chăng những
thiên tài đặc biệt về
âm nhạc hoặc toán nơi một số trẻ em có thể suy từ sự phát triển của chúng trong những đời trước? Như Mozart năm tuổi đã soạn những đoản khúc, và xuất bản những khúc sonatas vào năm tám tuổi.
Bạn có thể đặt câu hỏi:
- Nếu có
đời sau, thì tại sao quá khó để nhớ lại đời trước của mình như vậy?
Trong
tác phẩm “Myth of Er” (Huyền thoại về Er) Platon gợi ý một
giải thích cho sự thiếu
trí nhớ này.
Er là một quân nhân được xem đã chết trận, và dường như đã
trải qua một
kinh nghiệm cận tử rồi
sống lại. Y thấy nhiều chuyện trong khi “chết,” và được bảo phải
trở về lại
cuộc đời để kể cho người khác nghe
trạng thái sau khi chết ra thế nào. Ngay trước khi
trở về, y thấy những người đang được chuẩn bị để
tái sinh phải
di chuyển trong hơi nóng ngột ngạt ghê gớm qua “Cánh đồng quên lãng”, một sa mạc không có cây cối. Khi chiều đến, họ cắm trại gần Con Sông
Thất Niệm, mà nước của nó không thể múc được. Tất cả đều được bảo uống một ít nước này, và một số người không có được cái
trí tuệ để ngăn họ uống nhiều. Mỗi người khi uống thì quên hết mọi sự.
Er không được phép uống nước, và khi
thức dậy y thấy mình đang nằm trên giàn hỏa, và có thể nhớ lại tất cả những gì y đã thấy nghe.
Có chăng một
định luật chung để làm cho ta hầu như quên hết mọi sự về
thời gian và nơi chốn ta đã sống trước kia? Hay chỉ vì quá nhiều
kinh nghiệm,
phạm vi và cường độ của chúng quá lớn, đã xóa hết những kí ức
chúng ta về những đời quá khứ?
Đôi khi tôi tự hỏi, chúng sẽ giúp ta được bao nhiêu nếu ta nhớ được? Hay lại còn làm cho
chúng ta rối ren thêm?
TÍNH TƯƠNG TỤC CỦA TÂM THỨC
Theo
quan điểm Phật giáo, luận cứ
chính xác nhận có
tái sinh là
dựa trên một
hiểu biết sâu xa về tâm
tương tục.
Tâm thức từ đâu đến? Nó không
thể không từ đâu mà khởi lên. Mỗi
sát na tâm không thể khởi
nếu không có
sát na tâm
đi trước nó. Đứa Dalai Lama
giải thích tiến trình
phức tạp này như sau.
-
Căn bản trên đó
Phật giáo chấp nhận có
tái sinh,
chính yếu là sự
tương tục của
tâm thức. Hãy lấy
thế giới vật chất làm ví dụ: tất cả
yếu tố trong
vũ trụ hiện tại của
chúng ta,
cho đến mức
vi tế nhất, có thể tìm về một nguồn gốc, một khởi điểm ở đấy
mọi vật thể của
thế giới vật chất được cô đọng lại thành cái mà khoa học gọi là “lượng tử”. Những phân tử này lại là kết quả sự phân hóa của một
vũ trụ có trước nó. Bởi thế có một chu kỳ
miên viễn trong đó
vũ trụ thành và hoại, rồi lại
tái sinh.
Tâm cũng
tương tự như thế.
Sự kiện ta có một cái gọi là “tâm hay thức” thật
rõ ràng, vì
kinh nghiệm chúng ta chứng tỏ sự
hiện hữu của nó. Rồi
kinh nghiệm cũng cho thấy rõ rằng cái mà ta gọi là “tâm hay thức” luôn luôn thay đổi theo
hoàn cảnh,
điều kiện. Điều này cho ta thấy
bản chất liên tục và thay đổi của
tâm thức.
Một
sự kiện khác nữa cũng
rõ ràng, là những tầng lớp thô của
tâm thức liên lạc mật thiết với những
trạng thái vật lý của cơ thể, và kỳ thực
tùy thuộc vào chúng. Nhưng phải có một
căn bản nào đó, một
năng lực, nguồn gốc, khiến cho
tâm thức, khi
tác động hỗ tương với những phân tử
vật chất, có thể sản xuất những
hữu tình chúng sinh.
Cũng như bình diện
vật chất, tâm cũng phải có sự
tương tục từ
quá khứ. Bởi thế nếu bạn
theo dấu tâm
trở về quá khứ, thì bạn sẽ thấy bạn đang tìm về nguồn gốc của tâm
tương tục - hệt như của
thế giới vật chất – là một chiều
không gian vô biên; bạn sẽ thấy nó không có khởi thủy.
Bởi thế, phải có những đời
tái sinh tương tục thì
dòng tâm thức tương tục mới có ở đấy.
Bởi thế, phải có những đời
tái sinh tương tục thì
dòng tâm thức tương tục mới có ở đấy.
Phật giáo tin ở lý
duyên sinh theo đó mọi sự đều
biến đổi, và đều có
nguyên nhân và
điều kiện. Bởi thế không có chỗ cho một thần
sáng tạo, hay những
thực thể tự-sinh. Đúng hơn, mọi sự phát sinh do kết quả của những nhân và duyên hay
điều kiện. Bởi vậy tâm hay thức cũng
xuất hiện kể như
hậu quả của những tâm
đi trước nó.
Khi nói về nhân và duyên, có hai loại: những
nguyên nhân thực thụ, chất liệu từ đó một vật được sinh ra; và những
yếu tố hợp tác góp phần vào
sự tạo nên vật ấy, hay
pháp duyên sinh ấy. Trong
trường hợp tâm và thân, mặc dù cái này có thể
ảnh hưởng cái kia, songc ái này không thể là chất liệu của cái kia... Tâm và vật, mặc dù
lệ thuộc lẫn nhau, song không phải là những
nguyên nhân thực thụ thuộc loại “chất liệu” cho nhau.
Đây là cơ sở trên đó
Phật giáo chấp nhận có
tái sinh. (*)
Phần đông người hiểu
từ ngữ “tái sinh” như một “vật” sinh
trở lại,
du hành từ đời này sang đời khác. Nhưng trong
Phật giáo,
chúng tôi không tin có một
thực thể độc lập bất biến như một
linh hồn hay cái ngã
tồn tại sau khi thân
xác chết đi. Cái
yếu tố đem lại sự
tiếp nối những
đời sống, theo
Phật giáo, không phải là một
thực thể, mà là tầng lớp
vi tế sâu xa tối hậu của
tâm thức. Đức Dalai Lama
giải thích:
- Theo lối
giải thích Phật giáo, nguyên lý
sáng tạo tối hậu là tâm. Có nhiều tầng lớp của tâm. Cái mà ta gọi là
bản tâm sâu xa nhất vẫn luôn luôn
hiện diện ở đấy. Sự
tương tục của
bản tâm ấy hầu như là một cái gì
trường cửu, như những lượng tử
không gian. Trong địa hạt
vật chất, đấy là lượng tử (phân tử
không gian); trong địa hạt
tâm thức, đấy là Ánh sáng
Căn bản, điểm
Linh Quang... Điểm
Linh Quang, với
năng lực đặc biệt của nó, tạo nên sự móc nối với tâm.
Cách
tái sinh xảy ra đã được minh họa
rõ ràng trong ví dụ sau.
- Những
hiện hữu liên tiếp trong một chuỗi
tái sinh không giống như những
hạt ngọc trong một
chuỗi ngọc, được xâu lại
với nhau bằng một sợi dây gọi là “linh hồn,”
xuyên qua tất cả hột châu; đúng hơn chúng như những con xúc xắc chồng lên nhau, mỗi con xúc xắc là riêng biệt, nhưng nó
chống đỡ con ở trên nó, tự căn để có
liên hệ với nhau. Giữa những con xúc xắc không có sự giống nhau nhưng có
điều kiện tính.
Kinh điển Phật giáo nói rất rõ về tiến trình
duyên sinh hay
điều kiện tính này. Bậc
thánh tăng Nagasena
giải thích cho vua Milinda trong một loạt những
giải đáp nghi vấn mà nhà vua đã hỏi ngài.
Vua hỏi:
- Khi một người nào
tái sinh, thì y là một với người vừa chết, hay là khác?
Nagasena
trả lời:
- Không phải một cũng không phải khác... Nếu một người đốt một
ngọn đèn, có thể nó cho ánh
sáng suốt đêm không?
- Có thể.
-
Ngọn đèn cháy trong canh một có phải là một với
ngọn đèn cháy trong canh hai... hay canh cuối?
- Không.
- Như vậy có phải nghĩa là
ngọn đèn canh một khác,
ngọn đèn canh hai khác,
ngọn đèn canh ba khác?
- Không, vì cũng chính
ngọn đèn ấy cháy suốt cả đêm.
-
Tái sinh cũng giống như vậy: Một
hiện tượng này khởi lên và
hiện tượng kia
chấm dứt, hai cái
đồng thời. Bởi thế tâm đầu tiên khởi lên
trong đời sống mới không phải một cũng không phải khác với tâm
cuối cùng trong đời trước.
Nhà vua xin một ví dụ khác để
giải thích rõ
bản chất của tương quan này, và Nagasena đã
so sánh với sữa:
- Ván sữa, bơ, hay gia ua làm ra từ sữa không phải là một với sữa, nhưng cũng không phải khác, vì
hoàn toàn tùy thuộc vào sữa.
Khi ấy vua hỏi:
-
Nếu không có
thực thể nào
di chuyển từ thân xác này qua thân xác khác, thì có phải là ta sẽ
thoát khỏi những nghiệp xấu mà ta đã làm trong các đời trước?
Nagasena cho tỉ dụ sau đây:
- Một người
ăn trộm xoài người khác. Xoài y lấy không phải xoài người chủ đã trồng, làm sao lại phạt y được? Lí do y
bị phạt là, những trái xoài y
ăn trộm chỉ có được nhờ
trước tiên người chủ có trồng ra.
Cũng thế, chính vì những nghiệp của ta trong
quá khứ,
thanh tịnh hay không
thanh tịnh, mà ta được nối liền với
một đời khác, và không thể
thoát khỏi hậu quả.
NGHIỆP
Vào canh hai, khi Phật đạt
giác ngộ, ngài chứng một loại
hiểu biết hay minh thứ hai, bổ túc cho trí biết về
tái sinh hay
túc mạng trí, đó là trí biết về nghiệp,
định luật tự nhiên của nhân và quả.
“Với
thiên nhãn thuần tịnh
siêu nhân, Ta thấy
hữu tình chết và
tái sinh, người
hạ liệt kẻ cao sang, người
may mắn kẻ
bất hạnh tùy theo hạnh nghiệp của chúng.”
(Tùy nghiệp thú trí,
liên hệ đến
thiên nhãn. Dịch giả)
Sự thật và
năng lực điều động
tái sinh là cái mà ta gọi nghiệp. Người ta
thường hiểu lầm nghiệp với
định mệnh hay
tiền định. Tốt nhất nên hiểu nghiệp là
luật nhân quả tất yếu điều khiển
vũ trụ. Danh từ karma, nghiệp, có nghĩa là “hành động,” và karma vừa là
năng lực tiềm tàng trong hành động vừa là
hậu quả mà hành động đem lại.
Có nhiều loại nghiệp: Nghiệp quốc tế, nghiệp
quốc gia, nghiệp
đô thị, và nghiệp
cá nhân. Tất cả đều tương quan
mật thiết với nhau, và chỉ có một người đã
giác ngộ mới hiểu được sự
phức tạp của chúng.
Nói giản dị thì nghiệp là gì? Nó có nghĩa là bất cứ gì ta làm, qua thân, lời hay ý, đều sẽ có một
hậu quả tương ứng. Mỗi
hành vi, dù nhỏ nhất, đều mang nặng những kết quả của nó. Những bậc thầy nói rằng chỉ một chút
độc dược cũng có thể gây ra cái chết, một hột nhỏ có thể
trở thành một cây khổng lồ. Và
đức Phật cũng dạy:
- Đừng khinh việc ác nhỏ chỉ vì nó nhỏ; một đóm lửa nhỏ cũng có thể đốt cháy một đống cỏ khô lớn như ngọn núi.
Ngài còn dạy:
- Đừng
xem thường việc lành nhỏ, nghĩ rằng không
lợi lạc; những giọt nước tuy nhỏ cũng có thể làm đầy hồ.
Nghiệp không hư hoại như những vật thể ở ngòai hay
trở thành vô hiệu lực. Nó không thể bị
thời gian, lửa hay nước
phá hoại.
Năng lực của nghiệp sẽ không bao giờ biến mất
cho đến khi nó chín mùi. Mặc dù những
hậu quả của nghiệp
chúng ta có thể chưa chín, nhưng chúng
chắc chắn sẽ chín, khi gặp
điều kiện thích hợp.
Thường
chúng ta quên những gì mình làm, và thực lâu về sau những
hậu quả mới đến đuổi kịp
chúng ta. Khi ấy ta không thể nào
liên hệ chúng với những nhân, sinh ra chúng. Jigmé Lingpa nói:
- Hãy tưởng tượng, một con đại bàng đang bay cao trên bầu trời, không có bóng, không có gì
chứng tỏ nó có ở đấy. Rồi
thình lình nó rình mồi, lặn xuống, và sà xuống đất. Và khi nó rớt xuống, thì cái bóng
đe dọa của nó
xuất hiện.
Những
hậu quả hành động
chúng ta thường bị
triển hạn, ngay cả vào những
đời sau;
chúng ta không thế gán một
nguyên nhân duy nhất, vì bất cứ
biến cố nào cũng có thể là một pha trộn
vô cùng phức tạp của nhiều nghiệp chín cùng một lúc. Bởi thế
chúng ta có khuynh hướng cho rằng mọi sự “tình cờ” xảy đến cho
chúng ta, và khi mọi sự tiến hành
tốt đẹp, ta chỉ gọi đấy là “may mắn.”
Tuy nhiên, cái gì khác ngoài nghiệp, có thể thực sự
giải thích thỏa đáng những sai khác kỳ lạ giữa chúng ta? Dù
chúng ta có thể sinh ra trong cùng một
gia đình hay xứ sở, hay trong những
hoàn cảnh giống nhau,
chúng ta đều có
tính tình khác nhau, gặp những sự việc
hoàn toàn khác nhau, có
tài năng khác nhau, khuynh hướng và số phận khác nhau.
Như
lời Phật dạy:
-
Hiện tại ta là những gì trong
quá khứ ta đã từng là, và tương lai ta sẽ là gì
tùy thuộc vào
hiện tại ta làm gì.
Padmasambhava cũng nói:
- Muốn biết đời
quá khứ, hãy nhìn
tình trạng hiện tại của bạn; muốn biết đời
vị lai, hãy nhìn những hành động
hiện tại.
THIỆN TÂM
Như vậy, loại
tái sinh mà ta sẽ có
trong đời vị lai được
định đoạt bởi
bản chất của những hành động ta
trong đời hiện tại. Và điều thật quan trọng là đừng bao giờ quên rằng
hậu quả của hành động
chúng ta hoàn toàn tùy thuộc vào
ý định hay động cơ đằng sau những họat động ấy, chứ không phải
tùy theo phạm vi tầm mức của chúng.
Vào thời Phật, có một bà lão ăn xin tên gọi là “Nương tựa Niềm Vui.” Bà thường ngắm những vua chúa và
mọi người cúng dường Phật và
đệ tử của Ngài. Và không có gì bà thích hơn là được làm như họ. Bởi thế bà đi xin suốt ngày, và được một
đồng tiền nhỏ. Bà đem
đồng tiền ấy đi mua một ít dầu. Người bán dầu bảo bà không mua gì được với
đồng tiền ít ỏi ấy, nhưng khi nghe bà muốn
cúng Phật, anh ta
thương hại, cho bà một ít dầu bà cần. Bà đem đến chùa đốt một cây đèn, và
phát nguyện:
- Con không có gì cúng dâng Phật, ngoại trừ cây đèn nhỏ này. Nhưng do sự
cúng dường này, mong cho con
đời sau có
trí tuệ. Mong cho con
giải thoát tất cả
hữu tình ra khỏi bóng tối
ngu si. Mong cho con tịnh hóa tất cả những
cấu uế chướng ngại của họ, và đưa họ đến
giải thoát.
Đêm ấy tất cả các
ngọn đèn đều cháy hết cả dầu. Nhưng vào lúc bình minh,
ngọn đèn của bà lão vẫn
tiếp tục cháy, khi
tôn giả Mục kiền liên đi thâu lại những cây đèn. Khi trông thấy
ngọn đèn còn cháy sáng, đầy dầu và bấc mới, ngài nghĩ: “Không lý gì để cho cây đèn này vẫn cháy vào ban ngày,” và ngài cố thổi tắt. Nhưng cây đèn vẫn cháy. Ngài lấy tay bóp, lấy y chụp lên cho nó tắt, mà nó vẫn
tiếp tục cháy sáng.
Đức Phật vẫn nhìn ngài từ
lúc đầu, và bảo:
-
Mục kiền liên, có phải ông muốn
dập tắt ngọn đèn ấy không? Ông không làm được đâu. Ông không
di chuyển được nó, chứ đừng nói là dập cho nó tắt. Nếu ông đem được bốn biển mà tưới lên cây đèn này, nó vẫn không tắt được, tại sao? Vì cây đèn này đã được đốt lên để dâng cúng với tất cả niềm
sùng kính, và với
tâm trí thanh tịnh. Chính động cơ ấy đã làm cho nó có
công đức vô cùng.
Khi
đức Phật nói lời này, thì bà lão ăn xin đi đến ngài, và ngài nói lời thọ kí cho bà trong tương lai sẽ
thành Phật, hiệu là “Ánh sáng
ngọn đèn.”
Như vậy chính
động lực tốt hay xấu của
chúng ta đã
định đoạt kết quả hành động
chúng ta. Shantideva nói:
- Tất cả niềm vui có được trên đời
Đều do muốn
an lạc cho kẻ khác,
Tất cả
đau khổ trên đời này
Đều do muốn
hạnh phúc cho chính mình.
Vì
luật nhân quả là không
lầm lẫn và không thể tránh, mỗi khi ta hại người khác, là ta đang tự hại mình; mỗi khi ta đem lại
hạnh phúc cho người khác, là ta đang đem lại cho chính
chúng ta hạnh phúc tương lai. Bởi thế Đức Dalai Lama nói:
- Nếu bạn cố
hàng phục những
động lực ích kỉ,
giận dữ vân vân... và phát triển
lòng từ bi đối với người khác, thì
cuối cùng bạn sẽ được
lợi lạc hơn nhiều, cho chính bạn. Bởi thế tôi thường bảo những người ích kỉ khôn ngoan nên
thực hành kiểu đó. Những kẻ ích kỉ
dại dột thì luôn luôn nghĩ về chính mình, và kết quả là không được cái gì. Người ích kỉ khôn ngoan thì nghĩ tới người khác, giúp đỡ người khác càng nhiều càng tốt, và được kết quả là chính họ cũng nhận được
lợi lạc.
Niềm tin vào
tái sinh cho ta thấy có một thứ
công bằng tối hậu hay
thiện tính trong
vũ trụ. Chính
thiện tính ấy mà tất cả
chúng ta đang cố phơi bày, làm cho
hiển lộ. Bất cứ khi nào
chúng ta có hành động
tích cực, là ta đang tiến về phía nó; khi ta hành động
tiêu cực, là ta bít lấp nó. Và khi ta không thể
biểu lộ nó
trong đời sống và hành động của ta, thì ta
cảm thấy đau khổ,
bất mãn.
Vậy nếu bạn muốn rút ra một
thông điệp từ
sự kiện tái sinh, thì đó sẽ là:
- Phát triển
thiện tâm, mong muốn người khác được
hạnh phúc lâu dài, và hành động để có được
hạnh phúc ấy.
Đức Dalai Lama nói:
- Không cần xây chùa; không cần triết lý
rắc rối.
Trí não ta, trái tim ta là ngôi chùa của ta. Triết lý của tôi là
lòng tốt.
TÍNH SÁNG TẠO
Nghiệp như vậy không có
tính cách định mệnh hay
tiền định. Nghiệp là khả năng của
chúng ta có thể
định đoạt cách thức và
lý do chúng ta hành động.
Chúng ta có thể thay đổi. Tương lai nằm trong tay ta, và trong tay của trái tim ta. Phật dạy:
- Nghiệp tạo tất cả, như một họa sĩ.
Nghiệp
sáng tác như một vũ công.
Vì mọi sự là
vô thường, tuôn chảy, và
hỗ tương lệ thuộc, nên cách làm và nghĩ của ta đương nhiên thay đổi tương lai. Không có
hoàn cảnh nào dù có vẻ ghê gớm
vô vọng tới đâu, - như một cơn bệnh tới
thời kỳ chót – mà
chúng ta không có thể
sử dụng để
tiến hóa. Và không có
tội ác hay sự tàn bạo nào mà không được tịnh hóa nhờ
sự sám hối
chân thành và
tu tâm thực sự.
Milarepa được
xem như vị đạo sư
Du già vĩ đại nhất ở
Tây Tạng, một nhà thơ, một bậc thánh. Tôi còn nhớ hồi nhỏ tôi đã ớn lạnh như thế nào khi đọc
câu chuyện đời ngài, và
nghiền ngẫm những bức minh họa trong cuốn tập chép tay của tôi về
cuộc đời ngài. Khi còn trẻ, Milapera đã được huấn luyện làm phù thủy, và với tà thuật ngài đã giết và tàn hại
vô số người. Thế nhưng nhờ
ăn năn sám hối, và những nỗi
đau khổ nhọc nhằn mà ngài đã phải
chịu đựng với vị thầy vĩ đại Marpa, ngài đã có thể lọc sạch tất cả
ác nghiệp. Ngài tiến lên đến sự
giác ngộ,
trở thành một nguồn
cảm hứng cho hàng triệu người sau qua nhiều thế kỉ.
Ở
Tây Tạng chúng tôi nói: “Ác nghiệp có một điều hay, đó là nó có thể được tịnh hóa.” Bởi vậy luôn luôn còn có
hy vọng. Ngay cả những kẻ sát nhân và những kẻ
trọng tội ghê gớm nhất cũng có thể thay đổi và
vượt qua cái
hoàn cảnh đưa họ đến
tội lỗi.
Hoàn cảnh hiện tại của
chúng ta, nếu biết
sử dụng khéo léo, có
trí tuệ, có thể gợi hứng cho ta
thoát khỏi dây trói của
đau khổ.
Những gì đang xảy ra cho ta
hiện tại phản ảnh nghiệp
quá khứ của ta. Nếu ta
biết điều ấy, và biết thực sự, thì mỗi khi
đau khổ hay khó khăn giáng xuống cho ta, ta sẽ không xem chúng
đặc biệt như một thất bại hay
tai họa, hay xem
đau khổ như một sự
trừng phạt nào đó.
Chúng ta cũng không trách kẻ khác, hay tự ghét mình.
Chúng ta xem
đau khổ mà ta đang
trải qua cũng như sự
hoàn tất của những
kết quả của nghiệp quá khứ. Người
Tây Tạng nói rằng
đau khổ là “một cái chổi
quét sạch những
nghiệp ác của ta.”
Chúng ta lại còn nên cám ơn (sự
đau khổ) vì đấy là một cái nghiệp ta đang đi đến
kết thúc.
Chúng ta biết rằng “sự may mắn” một kết quả tốt của nghiệp, có thể
trôi qua nếu ta không khéo
sử dụng, nhưng “rủi ro” kết quả của
ác nghiệp, quả có thể đem cho
chúng ta một cơ hội
tuyệt diệu để
tiến hóa.
Với những người
Tây Tạng, nghiệp có một
ý nghĩa thiết thực sống động trong đời sống hàng ngày. Họ sống những nguyên lý của nghiệp, trong sự
hiểu biết sự thật của nó, và đây là
căn bản của
đạo đức Phật giáo. Họ hiểu nghiệp là một tiến trình
tự nhiên và
công bằng. Bởi thế nghiệp gợi cho họ có được một
ý thức trách nhiệm cá nhân trong bất cứ việc gì họ làm.
Hồi tôi còn bé,
gia đình tôi có một
nô bộc kỳ diệu tên là A pé Dorje thương tôi rất mực. Ông ta thực là một người
thánh thiện,
suốt đời không bao giờ hại ai. Mỗi khi tôi nói hay làm điều gì có hại, ông liền nhẹ nhàng nói: “Ồ, thế là không phải.” bằng cách ấy ông gieo cho tôi một
ý thức sâu xa về sự có mặt khắp nơi của nghiệp, và hầu như một
thói quen máy móc để
chuyển hóa những
phản ứng của tôi, nếu tôi có một
ý tưởng tai hại.
Có phải thực sự khó thấy
vận hành của nghiệp không? Há chẳng phải ta chỉ cần nhìn lại đời mình, để thấy những
hậu quả của một vài nghiệp
chúng ta đã làm? Khi
chúng ta làm
tổn thương một người nào, có phải là nó dội lại trên chính ta? Có phải
chúng ta còn lại một
hoài niệm đen tối đắng cay, và bóng đen của sự tự ghét?
Hoài niệm và bóng đen đó chính là nghiệp. Những
thói quen và những nỗi sợ của
chúng ta cũng thế, là do nghiệp,
hậu quả những hành động,
lời nói,
tư tưởng ta đã làm trong
quá khứ. Nếu ta
xem xét những hành động của ta, và thực sự
ý thức về chúng, ta sẽ thấy rằng có một mẫu mực luôn luôn
trở lại trong những hành động của ta.
Bất cứ lúc nào ta có hành động xấu, nó liền đưa đến
đau khổ; khi ta có hành động tốt,
cuối cùng sẽ có kết quả là
hạnh phúc.
TRÁCH NHIỆM
Tôi vẫn thường xúc đông về sự
xác nhận của những
báo cáo về
kinh nghiệm cận tử, vì nó cho thấy
rõ ràng sự thật về nghiệp. Một trong những
yếu tố chúng của
kinh nghiệm cận tử - một
yếu tố đã gợi nhiều
suy nghĩ – là “sự thấy lại toàn cảnh
cuộc đời.” Hình như rằng những người
trải qua kinh nghiệm này không những thấy lại những
chi tiết sống động nhất của
cuộc đời đã qua, mà còn có thể
chứng kiến những
ẩn ý trọn vẹn nhất của những gì họ đã làm. Quả thế, họ kinh quá
toàn thể những
hậu quả hành động của họ trên người khác, và tất cả những
cảm giác mà họ đã khơi dậy trong người khác, có thể là rất
kinh khủng.
“Mọi sự
trong suốt cuộc đời trải ra
trước mắt tôi. Tôi
hổ thẹn vì nhiều chuyện tôi đã kinh quá, vì lúc đó dường như tôi có một cái biết khác... Không những tôi thấy lại những gì tôi đã làm, mà còn thấy
ảnh hưởng việc làm ấy trên người khác... Tôi
nhận ra rằng ngay những
ý tưởng của ta cũng không mất.
“Cuộc đời tôi trải ra
trước mắt tôi... mọi
cảm xúc tôi đã từng có
trong đời, tôi đều
cảm thấy. Và mắt tôi chỉ cho tôi thấy cái
căn bản là những
cảm xúc ấy đã
ảnh hưởng đến đời tôi như thế nào. Đời tôi đã làm gì bấy nay để
ảnh hưởng đến những
cuộc đời người khác...
“Tôi chính là những người mà tôi làm
thương tổn, và tôi chính là người mà tôi làm
sung sướng.
“Đấy là một sự
sống lại mọi
ý nghĩ tôi đã nghĩ, mọi lời tôi đã nói,
mọi việc tôi đã làm; cùng với
hậu quả của từng
ý nghĩ,
lời nói,
hành vi của tôi đối với
mọi người và bất cứ người nào ở trong tầm
ảnh hưởng tôi, dù tôi có biết họ hay không...;
cộng thêm hậu quả của mỗi
ý nghĩ,
lời nói, và hành động tôi đối với
thời tiết, cây cối, loài vật, đất, nước, lửa, gió.”
Tôi nghĩ rằng những chứng cứ này đáng được
xem xét thực nghiêm túc. Chúng sẽ giúp tất cả
chúng ta nhận chân được những hành ẩn của hành động,
lời nói và
ý nghĩ của
chúng ta, và buộc
chúng ta trở nên có
trách nhiệm. Tôi đã
để ý rằng nhiều người
cảm thấy bị
đe dọa trước
thực tại về nghiệp, vì họ bắt đầu hiểu được họ không thể
thoát khỏi định luât
tự nhiên của nó. Có nhiều người
tuyên bố họ
coi thường nghiệp, nhưng
tận tâm để, họ
vẫn có những
hoài nghi sâu xa về sự phủ nhận của họ. Ban ngày họ có thể hành động
hoàn toàn coi khinh
đạo đức, nhưng khi
một mình ban đêm, tâm họ thường
u ám và
giao động.
Cả Đông lẫn Tây đều có những lối
đặc biệt đưa cái cách họ hiểu về “nghiệp” ra để tránh né
trách nhiệm. Ở phương đông người ta dùng nghiệp để làm cái cớ khỏi giúp đỡ người khác, bảo rằng, người nào khổ là do cái “nghiệp” của họ. Trong
thế giới “tư tưởng tự do” ở phương tây, thì ngược lại, những người
Tây phương tin vào nghiệp có thể
nhạy cảm và
cẩn thận quá lố, và bảo rằng thực sự nếu ta giúp người nào tức là
can thiệp vào cái nghiệp của họ, một cái gì họ phải tự
lo liệu lấy cho mình. Thật là một cách né tránh phản lại
lòng nhân đạo! Có lẽ ta nên cho rằng cái nghiệp của
chúng ta là
tìm cách giúp đỡ họ. Tôi biết nhiều người
giàu có:
Tài sản họ có thể tàn phá họ, khi họ làm tăng thêm thói ích kỉ và lười biếng; nhưng họ cũng có thể tóm lấy cơ hội mà
tài sản đem lại để giúp đỡ người khác, và khi làm thế, giúp đỡ chính họ.
Đừng bao giờ quên rằng chính qua hành động,
lời nói và
ý nghĩ, mà ta có quyền chọn lựa. Và nếu ta chọn lựa, ta có thể
chấm dứt đau khổ và
nguyên nhân đau khổ, và giúp cho tiềm năng
chân thực của ta,
Phật tính,
thức dậy trong ta.
Chừng nào Phật tính này
hoàn toàn tỉnh thức,
chừng nào chúng ta được giải thoát khỏi
vô minh và hòa nhập với
tâm giác ngộ
bất tử, thì ta mới có thể
chấm dứt vòng
sống chết. Như vậy,
giáo lý dạy ta, nếu ta không chịu
đảm nhận toàn
trách nhiệm cho chính mình
trong đời hiện tại, thì sự
đau khổ của
chúng ta sẽ
tiếp tục dài dài không những một vài đời mà hàng ngàn đời.
Chính
nhận thức nghiêm trọng này đã làm cho những người theo Phật xem những
đời sau còn quan trọng hơn
cuộc đời này, vì còn có nhiều điều chờ đợi
chúng ta trong tương lai. Cái thấy trường-kì ấy chủ động
lối sống của họ. Họ biết rằng nếu
chúng ta vì
một đời này mà không nghĩ gì đến tương lai
vô tận thì cũng giống như điên rồ đem tất cả tiền
dành dụm được
cả đời vào một cuộc rượu
duy nhất, không cần biết
hậu quả.
Nhưng nếu
chúng ta tuân theo luật nhân quả và
đánh thức thiện tâm,
lòng từ bi trong ta, nếu
chúng ta thanh lọc
dòng tâm thức và
dần dần khơi dậy
trí tuệ của
tự tính, thì
chúng ta có thể thành một
con người đúng nghĩa, và
cuối cùng sẽ
giác ngộ.
Albert Einstein nói:
- Một
con người là một phần của
toàn thể vũ trụ, một phần được
giới hạn trong thời-không. Nó tự xem mình, những
tư tưởng cảm giác của mình, như là cái gì tách biệt với
toàn thể - đấy là một loại
ảo tưởng của
tâm thức.
Ảo tưởng này là một nhà tù giam giữ
chúng ta,
giới hạn chúng ta vào những
dục vọng riêng, và chỉ yêu mến vài người gần
chúng ta nhất.
Nhiệm vụ chúng ta là phải giái thoát mình khỏi ngục tù ấy bằng cách
nới rộng vòng bi mẫn để
bao gồm tất cả sinh loài và tất cả
thiên nhiên trong vẻ đẹp của nó.(1)
TÁI SINH TẠI TÂY TẠNG
Những người nắm vững
định luật về nghiệp và đã
chứng ngộ, có thể chọn
tái sinh nhiều lần để giúp đỡ những người khác. Ở
Tây Tạng một
truyền thống nhận chân những
tái sinh (gọi là tulkus) như thế, được bắt đầu từ thế kỉ mười ba và
tiếp tục đến ngày nay. Khi một bậc thầy
đắc đạo chết, vị ấy có thể để lại những
chỉ dẫn rõ ràng về nơi chốn sẽ
tái sinh. Một trong những
đệ tử thân tín nhất của vị ấy hay
bạn đạo của vị ấy sau đó có thể có một linh kiến hay
chiêm bao,
nói trước sự
tái sanh sắp đến. Trong vài
trường hợp, những
đệ tử có thể đến một bậc thầy
nổi tiếng về tài
nhận ra những tulkus, và bậc thầy này có thể có một
giấc mộng hay linh kiến giúp ông
chỉ đạo sư
tìm kiếm. Khi một đứa bé được
tìm ra, thì chính bậc thầy này là người
xem xét có phải thật hay không.
Mục đích của
truyền thống này là nó
bảo đảm kí ức
tuệ giác của những bậc thầy đã
chứng ngộ khỏi tan mất. Điều quan trọng nhất về đời một vị
tái sinh là, trong quá trình huấn luyện,
bản lai diện mục -
thức dậy, và đấy là dấu hiệu
chứng tỏ “thứ thiệt”. Chẳng hạn đức Dalai Lama
thừa nhận ngài có thể hiểu dễ dàng từ lúc tuổi còn rất nhỏ, những khía cạnh thâm ảo của
giáo lý Phật mà người ta
cần phải nhiều năm mới hiểu được.
Nuôi dưỡng những vị
tái sinh cần sự
cẩn thận tối đa. Ngay cả trước khi sự huấn luyện bắt đầu,
cha mẹ được
chỉ dẫn phải
đặc biệt chăm sóc những vị ấy. Sư huấn luyện những vị
tái sanh còn
gắt gao hơn huấn luyện
tu sĩ thường, vì những triễn vọng mà người ta chờ đợi ở các vị ấy.
Đôi khi họ nhớ những đời trước, hoặc
chứng tỏ những khả năng lạ lùng. Như Đức Dalai Lama đã nói:
- Chuyện thông thường là những trẻ
tái sanh nhớ được những vật và người từ những đời trước. Một vài trẻ còn có thể thuộc những kinh chưa được ai dạy.
Một vài người chỉ cần học qua đã thuộc, như
trường hợp thầy Jamyang Khientse tôi. Khi còn bé, thầy có một vị dạy kèm rất khó tín. Thầy tôi phải sống với ông trong am cốc trên núi. Một buổi sáng ông bận đi làm lễ cho một người mới chết ở làng
lân cận, và trước khi ra đi ông dặn thầy tôi đến chiều phải thuộc một quyển kinh nhan đề là “Tụng những
danh hiệu của
Văn thù,” một
bài kinh rất khó dài năm chục trang, mà thường phải mất nhiều tháng mới thuộc được.[1]
Như mọi chú bé khác, ông vừa đi khỏi là thầy tôi bắt đầu chơi. Những người
xung quanh lo ngại và bảo thầy tôi nên khởi sự học kẻo sẽ bị đòn, vì họ biết ông thầy dạy kèm rất
nghiêm khắc và
nóng tính. Thầy tôi vẫn chơi đùa
cho đến xế chiều, biết ông ta sắp về, mới chịu đọc qua
bài kinh một lần. Khi vị thầy dạy kèm
trở về hỏi bài, thì thầy tôi đã thuộc lòng không sót một chữ.
Thông thường, thì không bậc thầy nào lại bắt một đứa trẻ làm một việc như vậy. Nhưng trong
thâm tâm, vị này biết thầy tôi là một
hóa thân của ngài
Văn thù, vị Phật của
đại trí huệ, và gần như là ông muốn dụ cho ngài phải
tự chứng minh. Chú bé - tức thầy Jamyang Khientse – khi nhận một công việc khó khăn như thế mà không
phản đối, cũng đã
mặc nhiên tự nhận mình là ai. Về sau thầy Khientse viết trong tự truyện của ngài rằng vị thầy của ngài rất
thán phục mặc dù không nói ra.
Cái gì
tiếp tục nơi một vị tái sinh? Có phải vị ấy là một người với
tiền thân vị ấy?
Vừa phải vừa không phải. Động cơ và sự
phát nguyện giúp đỡ mọi
hữu tình thì giống, nhưng không phải cũng một người ấy.
Yếu tố tiếp nối đời này sang đời khác là một ân phước. Sự
truyền thừa ân phước này hòa điệu và
thích hợp với mỗi
thời đại kế tiếp, và vị
tái sinh xuất hiện một cách
thích nghi nhất với nghiệp của người
đồng thời đại, để có thể
hoàn toàn giúp đỡ họ.
Có lẽ ví dụ
cảm động nhất về sự
phong phú,
hiệu quả, và
tinh vi của
hệ thống này là Đức Dalai Lama. Ngài được
tôn sùng bởi tất cả
Phật tử như là nhập thể của Phật
Quan Âm, vị Phật của
lòng bi mẫn bao la.
Lớn lên ở
Tây Tạng, làm vị Phật-Vương, đức Dalai Lama
hấp thụ tất cả sự huấn luyện
cổ truyền và những
giáo lý chính thống của mọi hệ phái, và
trở thành một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của
Tây Tạng hiện nay. Nhưng
thế giới thì chỉ biết đến ngài như là một người có
đức bình dị
thẳng thắn và cái nhìn rất
thực tiễn. Ngài có một
quan tâm nhạy bén đối với nhiều khoa học đương thời:
Vật lý,
Thần kinh học,
Tâm lý học, và Chính trị.
Quan điểm và
thông điệp của ngài về
trách nhiệm đại đồng không những được
Phật tử nghe theo
mà cả những người thuộc đủ mọi
tôn giáo trên
thế giới. Sự dấn thân của ngài trong
phong trào bất bạo động trong cuộc
tranh đấu dành
độc lập cho
Tây Tạng trải qua bốn mươi năm đã đem lại cho ngài giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1989. Trong một
thời đại bạo động, tấm gương của ngài đã khởi hứng cho nhiều dân tộc trên khắp địa cầu, trong khát vọng
tự do của họ. Đức Dalai Lama đã
trở thành một trong những người
lên tiếng bảo vệ sinh môi trên
thế giới, không mỏi mệt trong
nỗ lực thức tỉnh con người trước hiểm họa của một nền triết lý ích kỉ
duy vật. Ngài được những
nhà trí thức và lãnh tụ khắp nơi ngưỡng mộ,
tuy thế tôi đã biết hàng trăm người
thường dân đủ loại và ở khắp các
quốc gia, mà
cuộc đời họ đã
biến đổi nhờ niềm vui được thấy vẻ đẹp, tính hài hước và sự
hiện diện thánh thiện của ngài. Đức Dalai Lama, tôi
tin tưởng, chính là gương mặt của
Đức Phật Từ Bi đang hướng về một
nhân loại lâm nguy; ngài là
hiện thân của
Quán Âm không những cho
Tây Tạng hay cho
Phật tử, mà cho toàn
thế giới đang cần hơn bao giờ hết, đức bi mẫn và tấm gương của ngài,
hoàn toàn phụng sự cho hòa bình.
Người
Tây phương sẽ
ngạc nhiên khi biết được rằng ở
Tây Tạng đã có bao nhiêu
tái sinh, bao nhiêu vị đã từng là
đạo sư,
học giả,
tác giả, bậc thánh, đã có những đóng góp
nổi bật cả về
giáo lý lẫn về
xã hội. Những vị này đóng một vài trò cốt yếu
trong lịch sử Tây Tạng. Tôi tin rằng tiến trình
tái sinh này
không giới hạn ở
Tây Tạng, mà có thể xảy ra trong mọi nước vào mọi thời.
Trong lịch sử đã có nhiều
thiên tài về nghệ thuật,
sức mạnh tâm linh,
nhân bản, đã giúp
loài người tiến hóa. Tôi nghĩ đến Gandhi, Einstein, AbLincoln, Mẹ Theresa, đến Shakespeare, đến thánh Francis, đến Beethoven, đến Michelangelo. Khi người
Tây Tạng nghe đến những vị ấy, họ liền bảo ngay đấy là những
Bồ tát. Và mỗi khi tôi nghe về họ, về
tác phẩm,
tri kiến của họ, tôi rất
xúc động trước sự vĩ đại của tiến trình rộng lớn mà chư Phật và các bậc thầy đã
tỏa ra để
giải thoát hữu tình và
cải thiện thế giới.
--------------------------------------------------------------------------------
(*)
Tư tưởng và
quan niệm, N. Y. 1954.