PHẦN MỘT SỐNG
7. BARDO và NHỮNG THỰC TẠI KHÁC
Danh từ Bardo trong Tạng ngữ chỉ có nghĩa là một chuyển tiếp hay một khoảng hở giữa sự
hoàn tất một
trạng huống và sự bắt đầu một
trạng huống khác. Bar nghĩa là “ở giữa”, và do có nghĩa “bị
lơ lửng,” “bị ném vào.” Bardo là một danh từ
trở thành nổi tiếng do sự
nổi tiếng của cuốn
Tử thư Tây Tạng. Từ khi bản dịch
tác phẩm ấy ra đời đầu tiên năm 1927, quyển sách đã khơi dậy một sự chú ý lớn lao trong số những
nhà tâm lý học,
văn sĩ,
triết học ở
Tây phương, và đã bán ra hàng triệu bản.
Nhan đề
Tử thư Tây Tạng do dịch giả người Mỹ Evans-Wentz đặt ra, phỏng theo
tác phẩm danh tiếng (và cũng được đặt nhan đề
sai lạc như thế)
Tử thư Ai cập.
Tên thật của quyển sách là Bardo Todrol Chenmo, có nghĩa “Sự
Giải thoát lớn do Nghe trong cõi
Trung gian.”
Giáo lý về cõi
trung gian rất xưa cũ và được
tìm thấy trong Dzogchen Tantras (
Mật điển phái Dzogchen).
Giáo lý này có một
truyền thừa vượt ngoài những
đạo sư nhân loại từ đời Phật Nguyên ủy (
Phạn ngữ là Samantabhadra, và Tạng ngữ là Kuntuzangpo),
tiêu biểu tính thuần
tịnh nguyên sơ
tuyệt đối giống như bầu trời của
bản tâm ta. Nhưng Bardo Todrol Chenmo chính nó là một phần của một chu kỳ
giáo lý rộng lớn được truyền từ bậc
đạo sư Padmasambhava và được
hiển thị vào thế kỷ mười bốn nhờ
bậc thấu thị Tây Tạng Karma Lingpa.
“Sự
giải thoát lớn do Nghe trong cõi
Trung gian, Bardo Todrol”, là một quyển sách độc đáo về
tri kiến. Nó là một loại
sách dẫn, một sách chỉ lộ trình những
trạng thái sau khi chết, cốt để một bậc thầy hay
bạn đạo đọc cho một người sắp chết và
sau khi chết. Ở
Tây Tạng người ta tin rằng có “Năm
Phương Pháp để đạt
Giác Ngộ mà không cần Thiền”: Nhờ thấy một bậc thầy vĩ đại hay một vật
thiêng liêng; nhờ mặc những bức đồ hình
mật tông và
thần chú đã được làm phép
đặc biệt; nhờ nếm nước thiêng, được
chú nguyện bởi những bậc thầy trong
thời gian tu
nhập thất; nhờ nhớ lại sự
chuyển di tâm thức, gọi là phowa, vào lúc chết; và nhờ nghe một vài
giáo lý sâu xa, như “Giải thoát lớn do Nghe trong cõi
Trung gian.”
Quyển sách này,
Tử thư Tây Tạng, được dành cho một
hành giả hay người đã
quen thuộc với
giáo lý trong đó. Đối với một
độc giả tân tiến, thì thật
vô cùng khó để
thâm nhập, nó nêu lên rất nhiều
nghi vấn không thể
trả lời nếu không có vài
hiểu biết về
truyền thống đã phát sinh ra
Tử thư ấy. Nhất là vì quyển sách này không thể được
sử dụng và hiểu thấu đáo
nếu không biết được những
chỉ dẫn khẩu truyền mà một bậc thầy truyền cho
môn đệ làm chìa khóa để
thực hành.
Trong
tác phẩm này, tôi sẽ đặt những lời dạy – mà
Tây phương đã
quen thuộc qua quyển
Tử thư Tây Tạng – trong một bối cảnh rộng lớn hơn và
dễ hiểu hơn nhiều.
BARDO HAY CÕI BARDO
Vì
tính cách phổ thông của cuốn
Tử thư Tây Tạng, nên người ta thường
liên kết danh từ Bardo với sự chết. Quả thực danh từ ấy, trong
ngôn từ thường ngày ở
Tây Tạng, được dùng để chỉ
trạng thái trung gian giữa chết và
tái sinh, nhưng nó có một
ý nghĩa rộng lớn
sâu xa hơn nhiều. Chính trong
giáo lý này có lẽ hơn bất cứ chỗ nào khác, mà ta có thể thấy
tri kiến của
đức Phật về
sống chết thực
sâu xa và bao quát đến mức nào, và thực sự cái mà ta gọi chết kỳ thực bất khả phân ly, khi được nhìn và
hiểu rõ từ nhãn quan của
giác ngộ.
Chúng ta có thể chia
toàn thể hiện hữu ta thành bốn
thực tại: Sống, hấp hối và chết,
sau khi chết, và
tái sinh. Đấy là bốn Bardo hay Giai đoạn trung quan:
Bardo
tự nhiên của đời này.
· Bardo
đau đớn của sự chết.
· Bardo
quang minh của
pháp tánh.
· Bardo nghiệp của sự
trở thành hay
tái sinh.
1. Bardo
tự nhiên của đời này trải dài suốt
thời gian từ lúc sinh ra đến lúc chết. Trong
tình trạng hiểu biết của ta
hiện tại, giai đoạn này có vẻ như một cái gì to tát hơn là một chuyển tiếp. Nhưng nếu xét kỹ, ta sẽ thấy rõ rằng, so với chiều dài
vô tận của
lịch sử nghiệp của ta, thì
thời gian ta sống
trong đời này thực
tương đối ngắn.
Giáo lý nhấn mạnh với ta rằng,
bạt đô đời này là
thời gian duy nhất và tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết: Bằng cách làm quen với
giáo lý này và ổn định sự
tu tập.
2. Bardo
đau đớn khi chết kéo dài từ khi hấp hối
cho đến khi
chấm dứt cái được biết là “hơi thở bên trong”; giai đoạn này lên cao độ ở sự ló dạng của
tự tính tâm, cái ta gọi là “Ánh sáng căn bản” vào lúc chết.
3. Bardo
quang minh của
pháp giới là
kinh nghiệm ngay sau khi chết về ánh sáng của
tự tính tâm, quang sắc hay “Linh quang,”
xuất hiện dưới dạng
âm thanh, màu sắc và ánh sáng.
4. Bardo nghiệp của
hiện hữu hay
trở thành, là cái mà ta thường gọi là cõi Bardo hay
trung gian kéo dài cho tới khi ta
tái sinh.
Điều
phân biệt, định
ranh giới mỗi Bardo là, chúng đều là những khoảng hở, những giai đoạn trong đó khả tính
tỉnh thức hiện diện một cách rõ rệt. Những cơ hội để
giải thoát đang xảy ra
liên tục suốt cuộc
sống chết, và
giáo lý Bardo là chìa khóa, là khí cụ giúp ta
khám phá và
nhận diện được những cơ hội ấy, và tận dụng chúng tối đa.
BẤT TRẮC VÀ CƠ HỘI
Một trong những
đặc tính chính yếu của những Bardo (Giai đoạn
trung gian) là, đấy là những
thời kỳ vô cùng bất định.
Cuộc đời này là một ví dụ rõ nhất.
Thế giới quanh ta càng ngày càng
quay cuồng, nên
cuộc đời ta cũng càng phân tán thành nhiều mảnh. Vì bị mất
liên lạc, không
tiếp xúc được với chính mình,
chúng ta thường
lo âu,
bất an, và gần như bị chứng
thần kinh loạn. Một khủng hoảng nhỏ cũng đủ chọc thủng cái
bong bóng của những
kế hoạch ta
dự tính. Một phút giây
kinh hoàng cũng đủ cho ta thấy mọi
sự thật bấp bênh làm sao. Sống trong
thế giới ngày nay là sống trong một cảnh
rõ ràng là cõi Bardo, bạn không
cần phải chết mới kinh quá một cõi như thế.
Tính cách bất định này, mà
hiện tại đang
thấm nhuần khắp mọi sự vật, càng trở nên mãnh liệt hơn, rõ nét hơn, sau khi ta chết, khi mà tính
sáng suốt hay mê mờ của
chúng ta, theo lời những bậc thầy, “được nhân lên bảy lần.”
Bất cứ ai nhìn
cuộc đời một cách
trung thực, cũng sẽ thấy rằng
chúng ta đang sống trong một
tình trạng miên viễn của
hồi hộp và
bất định.
Tâm thức ta luôn luôn
di chuyển từ
trạng thái sáng suốt đi vào mê mờ, và từ mê mờ ra
sáng suốt. Nếu mê mờ luôn, thì
ít nhất nó cũng sẽ đưa đến một thứ
sáng suốt nào đó. Một điều đáng buồn cười của
cuộc đời này là đôi khi, nhìn chung thì ta ngu thực, song ta cũng có thể
sáng suốt đột xuất! Điều này
chứng tỏ cho ta thấy Bardo là gì: Một sự chập chờn giữa
sáng suốt và mê mờ, giữa hoang mang và
tuệ giác,
chắc chắn và không chắc, khi tỉnh khi điên. Trong tâm ta
hiện tại,
tuệ giác và mê mờ khởi lên
cùng lúc, đồng khởi. Điều này có nghĩa rằng
chúng ta phải luôn luôn
đối diện với một
tình trạng chọn lựa giữa hai
trường hợp, và mọi sự
tùy thuộc ở chỗ ta sẽ chọn
trường hợp nào.
Tính bất trắc
miên viễn này có thể làm cho mọi sự có vẻ đáng chán và hầu như
vô vọng, nhưng nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy rằng tự
bản chất nó đã tạo ra những khe hở, những khoảng không trong đó những cơ hội,
dịp may để
chuyển hóa luôn luôn phát sinh – nghĩa là, nếu
chúng ta có thể thấy được và tóm lấy chúng.
Vì
cuộc đời chỉ là một sự tuôn chảy bất tận giữa sống, chết và chuyển tiếp, nên những
kinh nghiệm Bardo đang xảy đến cho
chúng ta luôn luôn, và là một phần căn để làm nên
toàn thể tâm thức ta.
Tuy nhiên,
bình thường chúng ta quên mất những bardo và khoảng hở giữa chúng, vì tâm ta đi từ một tình huống “chắc ăn” này tới một tình huống
chắc chắn khác, ta quen bỏ qua những chuyển tiếp luôn luôn xảy ra. Kỳ thực, như
giáo lý có thể giúp ta hiểu, từng mỗi lúc trong
kinh nghiệm của
chúng ta là một Bardo, vì mỗi
ý tưởng, mỗi
cảm xúc sinh khởi từ
tự tính tâm và chìm trở vào trong
tự tính ấy.
Giáo lý cho ta biết rằng, chính vào những lúc thay đổi và chuyển tiếp
đặc biệt quan trọng, mà
tự tính tâm nguyên ủy giống như bầu trời của
chúng ta mới có cơ hội
xuất hiện.
Tôi xin lấy một ví dụ. Tưởng tượng một ngày làm việc bạn
trở về nhà và thấy cửa nhà bạn đã bị phá tung, cánh cửa
lơ lửng treo nơi bản lề. Bạn đã bị
kẻ cướp viếng nhà. Bạn
đi vào trong, và thấy mọi thứ bạn
sở hữu đều đã biến mất. Trong một lúc, bạn
điếng người vì cú sốc, và đầy
tuyệt vọng bạn
quay cuồng trải qua một tiến trình
tâm thức cố làm sao tạo lại những gì đã mất.
Tai nạn đã tới: Bạn đã mất hết mọi thứ.
Tâm thức đầy
bất an giao động của bạn khi ấy bỗng choáng váng, và những
ý tưởng lắng lại. Bỗng dưng có một sự
vắng lặng sâu xa đột ngột, hầu như một
kinh nghiệm hạnh phúc. Không còn phải phấn đấu, không cần gì
nỗ lực nữa, vì cả hai chuyện đều
vô vọng. Bạn chỉ có
buông bỏ, vì không có chọn lựa nào khác.
Thế là một phút trước, bạn mất một cái gì
quý báu, và ngay sau đó, bạn
cảm thấy tâm bạn đang ở trong một
trạng thái an tĩnh sâu xa. Khi loại
kinh nghiệm ấy xảy đến, thì đừng vội bủa đi tìm một
giải pháp ngay. Hãy ở lại một lúc trong
trạng thái an tĩnh đó. Hãy cứ để nó là một khoảng hở. Và nếu bạn thực sự
an trú trong khoảng trống ấy, nhìn vào tâm bạn, bạn sẽ
thoáng thấy được
bản chất bất tử của
tâm giác ngộ. Ta càng có tính cảm thụ
sâu xa và
tỉnh giác bén nhạy đối với những khoảng trống, những giai đoạn chuyển tiếp trong
cuộc đời như trên (đó là những cơ hội lạ lùng đưa ta đến
tuệ giác căn để), thì
nội tâm ta càng được chuẩn bị khi chúng xảy đến một cách vô vàn mãnh liệt hơn, và không được
kiểm soát, vào lúc ta chết.
Điều này tối quan trọng, vì
giáo lý về Bardo cho ta biết có những lúc mà
tâm thức tự do hơn
bình thường rất nhiều, những thời điểm mãnh liệt hơn những thời khác rất nhiều, những giây phút
mang theo gánh nặng và hàm ẩn của nghiệp mạnh mẽ hơn nhiều lúc khác. Vì
lúc ấy cơ thể bị bỏ lại, và ta được
cống hiến cái cơ hội ngàn năm một thuở để
giải thoát.
Dù ta có làm chủ được tâm một cách
thuần thục đến bao nhiêu, ta vẫn bị
giới hạn bởi thân xác và nghiệp của nó. Nhưng với cái chết – sự phóng thích xác thân
vật lý – ta có được cái cơ hội
kỳ diệu nhất để
hoàn tất những gì ta đã
nỗ lực theo đuổi trong suốt cuộc đời tu tập của ta. Ngay cả một bậc thầy
tối thượng đã
đạt đến sự
chứng ngộ cao nhất, thì sự
giải phóng cuối cùng cũng chỉ xảy đến vào lúc chết, gọi là Parinirvana,
đại niết bàn. Đấy là
lý do ở
Tây Tạng,
chúng tôi không mừng sinh nhật những bậc thầy, mà mừng Ngày chết của họ, cái giây phút họ đạt
giác ngộ tối hậu.
Lúc tôi còn bé ở
Tây Tạng, và nhiều năm về sau, tôi đã nghe nhiều chuyện kể về các bậc
hành giả mật tông vĩ đại và ngay cả những
cư sĩ tu yoga có vẻ
bình thường, đã chết một cách lạ lùng gây nhiều cảm kích. Chỉ đến lúc chết họ mới phô diễn chiều sâu của sự
thực chứng nơi họ, và
năng lực của nền
giáo lý mà họ đã
thể hiện.
Giáo lý Dzogchen cổ xưa - từ đó phát
sinh Tử thư
Tây Tạng – có nói về một giống chim
thần thoại, chim Garuda (
kim sí điểu), mới sinh ra đã đủ lông cánh.
Hình ảnh ấy
tượng trưng cho
bản tính sơ nguyên của ta, đã
hoàn hảo từ khởi thủy. Con chim con Garuda đã phát triển lông cánh đầy đủ ở trong trứng, nhưng không thể bay trước khi trứng nở ra. Chỉ vào lúc vỏ trứng nứt ra, nó mới tung cánh bay lên bầu trời. Cũng vậy, theo lời các bậc thầy, những đức tính của Phật bị che mờ bởi cái thể xác, nên khi rũ bỏ được xác thân, những đức tính ấy sẽ
hiển lộ một cách sáng chói.
Lý do tại sao thời điểm chết lại là cơ hội đầy tiềm năng như thế, là vì chính lúc đó
bản chất căn để của tâm, Ánh sáng
Căn bản hay
Linh Quang, sẽ
tự nhiên hiển bày một cách rộng lớn và
tráng lệ huy hoàng. Theo
giáo lý Bardo, nếu vào
lúc ấy ta có thể nhận chân được Ánh sáng
Căn bản, thì ta sẽ đạt
giải thoát.
Tuy nhiên điều này không thể xảy ra nếu bạn chưa làm quen và thực sự
quen thuộc với
bản chất của tâm
trong đời sống, qua sự
thực hành thiền định. Và đấy là
lý do tại sao một người
giải thoát vào lúc chết được xem là
giải thoát trong đời này, chứ không phải trong
trạng thái trung gian sau khi chết. Vì chính trong lúc sống mà sự trực ngộ ánh
Linh Quang đã xảy và được
an trú. Đây là điểm tối quan trọng
cần thiết.
NHỮNG THỰC TẠI KHÁC
Tôi đã nói rằng những Bardo là những cơ hội, nhưng cái gì thực sự ở trong những
bạt đô làm cho ta có thể tóm lấy cơ hội mà chúng cống hiến? Câu
trả lời rất
đơn giản: Chúng đều là những
trạng thái khác nhau, những
thực tại khác của tâm.
Trong sự
thực hành Phật giáo, qua
thiền định,
chúng ta chuẩn bị để
khám phá những khía cạnh tương quan của tâm, và khéo léo
đi vào những mức độ khác nhau của
ý thức. Có một tương quan
chính xác và rõ rệt giữa những
trạng thái trung gian và những tầng lớp
tâm thức mà ta
kinh nghiệm qua chu kỳ
sống chết. Bởi thế khi ta
di chuyển từ một Bardo này tới Bardo khác, cả trong lúc sống lẫn lúc chết, thì có một thay đổi tương đương trong
tâm thức; và nhờ
thực tập thiền,
chúng ta có thể làm quen,
thân thiết với nó, và
cuối cùng có thể
hoàn toàn hiểu rõ nó.
Vì cái tiến
trình diễn ra trong cõi
trung gian sau khi chết đã nằm sẵn trong những tầng sâu của
tâm thức chúng ta, nên nó cũng
thể hiện trong đời sống với nhiều từng bực. Chẳng hạn, có một tương đương rõ rệt giữa những mức độ
tinh tế của
tâm thức mà
chúng ta trải qua trong giấc ngủ và mộng mị, với ba Bardo
liên hệ tới cái chết:
· Đi ngủ là giống như Bardo chết, trong đó
tứ đại và tiến trình
tư duy tan rã, mở vào
kinh nghiệm Ánh sáng
căn bản.
·
Chiêm bao là giống như Bardo
tái sinh,
trạng thái trung gian trong đó bạn có một “ý sanh thân” (thân bằng
tư tưởng) rất
hoạt động và
sáng suốt,
trải qua đủ thứ
kinh nghiệm. Trong
trạng thái mộng mị,
chúng ta cũng có một loại thân như thế, thân trong mộng, trong đó
chúng ta trải qua mọi
kinh nghiệm của
đời sống trong mộng.
· Khoảng giữa Bardo chết và Bardo
tái sinh, có một
trạng thái rất
đặc biệt của quang sắc hay Ánh sáng
căn bản, được gọi là “Bardo
pháp tánh.” Đấy là một
kinh nghiệm xảy đến với tất cả
mọi người, nhưng rất ít người có thể chú ý đến nó, huống
hồ kinh nghiệm nó một cách
toàn vẹn, vì nó chỉ được nhận chân bởi một
hành giả đã
tu tập. Bardo
pháp tánh này tương đương với giai đoạn sau khi ngủ và trước khi bắt đầu
chiêm bao.
Dĩ nhiên những giai đoạn tâm
mờ mịt (tức những Bardo) trong khi chết là những
trạng thái tâm thức sâu xa hơn và mãnh liệt hơn nhiều so với
trạng thái ngủ và mộng, nhưng chúng cũng có từng mức độ
tinh tế như vậy. Những bậc thầy thường
sử dụng sự
so sánh đặc biệt này để chỉ cho ta thấy thật khó như thế nào để
duy trì sự
tỉnh giác suốt trong những
trạng thái Bardo. Có bao nhiêu người trong
chúng ta ý thức được sự thay đổi trong tâm ta trong khi ngủ? Hay
ý thức được cái lúc những
giấc mộng bắt đầu? Có bao nhiêu người trong
chúng ta ý thức được ngay khi mộng, rằng mình đang nằm mộng? Vậy, hãy tưởng tượng
duy trì được sự
tỉnh giác trong giây phút
kinh hoàng của những giai đoạn
trung gian sau khi chết là khó đến mức nào.
Tâm bạn như thế nào trong giấc ngủ và trong
trạng thái mộng, chỉ cho bạn biết tâm bạn sẽ như thế nào trong những
trạng thái chết và
tái sinh; ví dụ, cái cách bạn
phản ứng đối với
chiêm bao,
ác mộng, và những khó khăn
hiện tại,
chứng tỏ bạn sẽ
phản ứng như thế nào sau khi bạn chết.
Đấy là
lý do pháp yoga về ngủ và mộng đóng
vai trò quan trọng trong sự chuẩn bị cho cái chết. Điều mà một
hành giả thực thụ
tìm cách làm là giữ cho sự
tỉnh giác về
tự tánh tâm luôn luôn
liên tục không
gián đoạn ngày và đêm, và dùng ngay những giai đoạn khác nhau của giấc ngủ và mộng để
trực nhận và
quen thuộc với những gì sẽ xảy ra trong các giai đoạn
bạt đô sau khi chết.
Bởi thế
chúng ta tìm thấy hai Bardo khác cũng gồm trong Bardo
tự nhiên của đời này: Bardo ngủ và mộng, và Bardo của
thiền định.
Thiền định là hành thiền ban ngày, còn yoga ngủ và mộng là
thực hành về đêm. Trong
truyền thống mà
Tử thư Tây Tạng thuộc vào, có thêm hai Bardo này vào bốn Bardo nói trên, làm thành sáu Bardo.
SỐNG CHẾT TRONG LÒNG BÀN TAY
Mỗi Bardo có một loạt
chỉ dẫn và hành thiền riêng của nó, được hướng dẫn đúng vào những
thực tại và tâm trạng
đặc biệt của từng Bardo. Đây là cách làm thế nào những
thực tập và huấn luyện
tâm linh dành cho mỗi
trạng thái Bardo có thể giúp
chúng ta tận dụng những
trạng thái ấy, và những cơ hội do chúng đem lại, để
giải thoát. Điểm cốt yếu cần hiểu về Bardo là: Nhờ
tuân theo sự luyện tập này, ta có thể thực sự
trực nhận được những
trạng thái tâm ấy trong lúc ta còn sống.
Chúng ta có thể thực sự
kinh nghiệm chúng ngay bây giờ ở đây.
Sự
hoàn toàn làm chủ những chiều
không gian khác nhau của
tâm thức có thể khó hiểu đối với người
tây phương, nhưng không phải là không
thể đạt được.
Kunu Lama Tenzin Gyaltsen là một bậc thầy đã
thành tựu tâm linh,
xuất thân từ vùng núi tuyết thuộc miền Bắc Ấn. Khi còn trẻ, ngài gặp một vị Lama ở Sikkim, ông khuyên ngài đi
Tây Tạng để học Phật. Bởi thế ngài đi đến tỉnh Kham miền đông
Tây Tạng, ở đấy ngài
hấp thụ giáo lý từ một vài
Lạt ma vĩ đại, trong đó có Jamyang Khientse, thầy tôi.
Kiến thức về
Phạn ngữ của Kunu Lama làm cho ngài được kính nể và mở ra cho ngài nhiều cánh cửa. Những bậc thầy
hăng hái dạy ngài với
hy vọng ngài sẽ đem những
giáo lý ấy về
truyền bá ở
Ấn Độ, nơi mà
giáo lý Phật hầu như đã biến mất. Trong
thời gian ngài ở
Tây Tạng, Kunu Lama
trở thành một bậc
đa văn và có
thực chứng.
Cuối cùng ngài cũng
trở về Ấn Độ, ở đấy ngài sống như một nhà
khổ hạnh chân chính. Khi thầy tôi và tôi đến
hành hương xứ Ấn sau khi rời
Tây Tạng,
chúng tôi đi
tìm kiếm ngài khắp nơi ở Benares.
Cuối cùng chúng tôi gặp ngài đang ở trong một ngôi đến Ấn giáo. Không ai biết ngài là ai, lại còn không biết ngài là một người theo
Phật giáo, đừng nói gì biết ngài là một bậc thầy. Người ta chỉ biết ngài là một thầy tu yoga
thánh thiện dễ mến, và
cúng dường ngài
thực phẩm. Mỗi khi nghĩ về ngài, tôi luôn tự nghĩ:
- Có lẽ thánh Francis of Assisi cũng như thế đấy.
Khi những
tu sĩ Tây Tạng mới đến Ấn trong cuộc
lưu đày, Kunu Lama được chọn để dạy
văn phạm và
Phạn ngữ ở một ngôi trường do Dalai Lama
sáng lập. Nhiều Lamas
uyên bác theo học với ngài, và đều xem ngài là một vị thầy
tuyệt hảo về
ngôn ngữ. Nhưng một ngày nọ, có người
tình cờ hỏi ngài về
Phật pháp. Câu
trả lời của ngài
vô cùng sâu sắc. Bởi vậy họ
tiếp tục hỏi ngài nhiều câu, và thấy rằng ngài có thể
giải đáp bất cứ câu hỏi nào họ đặt ra.
Danh tiếng ngài lan rộng, và chẳng bao lâu ngài giảng dạy cho những
tu sĩ thuộc các trường phái khác nhau, những
giáo lý thuộc
truyền thống riêng của họ.
Đức Dalai Lama
lúc ấy đã nhận ngài làm vị hướng
đạo tâm linh. Ngài
công nhận Kunu Lama là nguồn
cảm hứng cho ngài giảng dạy và
thực hành từ bi. Quả thế, Kunu Lama là một điển hình
sống động của
từ bi. Mặc dù ngài rất
nổi tiếng, ngài không hề thay đổi. Ngài vẫn vận những
y phục đơn giản như cũ, và sống trong một gian phòng nhỏ. Khi ai đến
cúng dường ngài một thứ gì, ngài liền đem làm quà cho người khác
kế tiếp. Ai nấu cho ngài, ngài sẽ ăn,
nếu không ai nấu, ngài nhịn.
Một hôm một bậc thầy mà tôi
quen biết tới viếng Kunu Lama để hỏi ngài vài câu hỏi về những
trạng thái Bardo. Vị thầy này là một giáo sư rất
uyên bác trong
truyền thống Tử thư, và có
kinh nghiệm về những sự
hành trì liên hệ đến Bardo. Ông ta kể lại cho tôi nghe ông đã
ngạc nhiên mê mẩn như thế nào khi lắng nghe Kunu Lama
trả lời. Ông chưa từng nghe những điều hay như thế bao giờ. Khi ngài
mô tả những
trạng thái Bardo, thực quá
sống động và khúc chiết đến nỗi ta có
cảm tưởng ngài đang
chỉ dẫn đường đi đến Kensington High Street, hay Công viên trung ương, hay điện Elysées. Nó dường như thể ngài đã từng thực sự sống trong những
trạng thái ấy.
Kunu Lama
chỉ dẫn những Bardo
bằng kinh nghiệm trực tiếp của chính ngài. Một
hành giả tầm cỡ như ngài thường
du hành qua tất cả chiều
không gian khác nhau của
thực tại. Và vì những
trạng thái Bardo đều chứa sẵn trong tâm
chúng ta, nên chúng có thể được khơi mở, phóng thích, nhờ những
thực hành thiền quán.
Những
giáo lý ấy
xuất phát từ trí tuệ của chư Phật, những người có thể thấy suốt
sinh tử như nhìn vào lòng bàn tay.
Chúng ta cũng là những vị Phật. Bởi thế nếu ta có thể
thực hành trong cõi
trung gian là
cuộc đời này, tập đi sâu vào
tự tính tâm
chúng ta, ta có thể
khám phá tri kiến về những cõi
trung gian hay Bardo khác.
Sự thật của những
giáo lý về cõi
trung gian tự nó sẽ mở ra trong ta. Bởi thế, giai đoạn
trung gian tự nhiên của đời này là giai đoạn quan trọng nhất. Chính ngay bây giờ và ở đây, ta phải chuẩn bị cho tất cả những giai đoạn Bardo khác:
- Cách
tối thượng để chuẩn bị là ngay bây giờ, đạt
giác ngộ ngay
trong đời này.