PHẦN MỘT SỐNG
9. CON ĐƯỜNG TÂM LINH
Rumi, bậc thầy đạo Sufisme có viết:
- Bậc thầy nói, có một điều
duy nhất trên đời mà ta không bao giờ được quên. Nếu bạn quên hết mọi sự khác, mà không quên điều này, thì sẽ không có gì phải lo, nhưng nếu bạn nhớ
thực hành chu tất mọi sự khác mà lại quên
mất việc duy nhất này, thì quả thực bạn chưa làm được cái gì.
Ví như khi vua sai bạn đến một xứ nọ để làm một công việc
đặc biệt nào đó; khi đến, bạn làm cả trăm việc khác, nhưng quên làm cái
sứ mạng của mình được sai đi, thì cũng như là bạn chưa làm gì hết. Cũng vậy
con người xuất hiện trên đời vì một công việc
đặc biệt, đó là
mục đích của y. Nếu y không
hoàn tất, thì coi như y không làm gì cả.
Mọi bậc thầy
tâm linh của
nhân loại đều nói cho
chúng ta biết cùng một chuyện ấy, rằng
mục đích cuộc sống trên trái đất là để
thực hiện sự hợp nhất với cái
bản chất giác ngộ căn để của
chúng ta. “Công việc” mà “vua” đã gửi ta vào cái xứ sở
đen tối lạ lùng này là để
thực chứng và
thể hiện con người thật của ta. Có một cách
duy nhất để làm việc đó, là khởi sự cuộc
hành trình tâm linh, với tất cả hăng say và
trí tuệ,
can đảm và
cương quyết để chuyến hóa. Trong Katha Upanishad, thần chết bảo Nachiketas rằng:
- Có
con đường trí tuệ và
con đường vô minh. Hai
con đường dẫn đến những
mục đích hoàn toàn khác nhau.... Trú trong
vô minh, nghĩ mình khôn lanh
bác học, những kẻ ngu lang thang không
mục đích, như kẻ mù dắt người mù. Những gì nằm bên kia
cuộc đời không
hiển lộ cho những kẻ khờ khạo, bất cẩn, hoặc bị
của cải làm
mê hoặc.
TÌM ĐƯỜNG
Vào thời khác và trong những nền
văn minh khác,
con đường chuyển hóa tâm linh này chỉ
giới hạn cho một số ít người được chọn. Nhưng ngày nay, một tỉ lệ lớn trong
loài người cần phải tìm kiếm con đường trí tuệ nếu muốn
giữ gìn trái đất khỏi những mối nguy bên trong và bên ngoài đang
đe dọa nó. Trong
thời đại phân hóa và
bạo hành này,
tri kiến tâm linh không phải là
xa xỉ phẩm dành cho
thiểu số chọn lọc, mà là một cái gì
cấp thiết cho sự sống còn.
Việc
đi theo con đường tâm linh chưa bao giờ lại
cấp thiết và
gay go hơn bây giờ.
Xã hội chúng ta dành
hoàn toàn cho sự tôn vinh
bản ngã, tôn vinh chính những
sức mạnh của
tham lam và
vô minh đang tàn phá
quả địa cầu.
Chưa bao giờ khó hơn để nghe tiếng nói của
chân lý, và
chưa bao giờ khó hơn để
tuân theo tiếng nói ấy nếu nó được nghe đến. Bởi vì trong
thế giới quanh ta không có cái gì hỗ trợ cho sự chọn lựa của ta, và cái
xã hội ta sống dường như phủ nhận tất cả mọi
ý nghĩa thiêng liêng,
vĩnh cửu. Bởi vậy, vào
thời gian nguy ngập nhất của
chúng ta khi chính tương lai
chúng ta cũng thật khả nghi, thì
chúng ta, những
con người, lại thấy mình đang ở giai đoạn hoang mang nhất, và bị vướng vào một cơn
ác mộng do chính
chúng ta tạo nên.
Tuy thế vẫn có một nguồn
hy vọng đầy
ý nghĩa trong tình huống
bi đát này, đó là,
giáo lý tâm linh của mọi
truyền thống mật tông vĩ đại vẫn còn có thể xử dụng. Rủi thay, có rất ít bậc thầy
thể hiện được những
giáo lý ấy, và
hoàn toàn thiếu sự
biện biệt nơi những người tầm đạo. Phương tây đã
trở thành một
thiên đường cho những lang băm về
tâm linh. Nếu là lĩnh vực khoa học thì bạn có thể xác thực ai thực ai giả, vì có những nhà khoa học khác kiểm chứng
trình độ và những
tìm tòi phát minh của họ. Nhưng ở
Tây phương, vì không có
tiêu chuẩn của một nền
văn hóa trưởng thành về
trí tuệ, nên tính
trung thực của những người được gọi là “đạo sư”
hoàn toàn không thể
thiết lập được. Dường như bất cứ ai cũng có thể diễn hành tự xưng bậc thầy và
lôi cuốn một số
tín đồ.
Ở
Tây Tạng không có như vậy, nơi người ta
nhận thấy bảo đảm hơn nhiều nếu chọn cho đúng một
con đường và đúng thầy để theo. Những người đến
Tây Tạng lần đầu thường lấy làm
ngạc nhiên tại sao người ở đây đặt nặng dòng tu đến thế, đặt nặng sự
truyền thừa không
gián đoạn từ bậc thầy này đến bậc thầy khác. Dòng tu được dùng làm sự
bảo đảm cốt yếu: Nó
duy trì tính
chân thực và thuần tính của nền
giáo lý. Người ta biết được một bậc thầy qua bậc thầy của vị ấy. Đó không phải chuyện
giữ gìn một
tri thức đã xưa cũ, có
tính cách lễ tục, mà một
truyền thừa từ tâm sang tâm,
từ trí sang trí, một
trí tuệ sống và nguyên chất, cùng với những
phương pháp thiện xảo.
Nhận ra ai cũng là bậc thầy ai không, làm một công việc
tế nhị và đòi hỏi nhiều
điều kiện. Nhưng ở
thời đại như
chúng ta, ham
giải trí, ưa những câu
trả lời dễ dàng, những
giải pháp nhanh, thì những bậc thầy
tâm linh đạm bạc không làm bộ, có
thể không được ai
để ý. Những
ý tưởng ta nghĩ về sự
thánh thiện có thể làm ta không thấy được biểu hiện của
tâm giác ngộ đôi khi rất
linh động và lại có vẻ giỡn đùa. Patrul Rinpoche viết:
- Những đức tính
kỳ diệu của những vĩ nhân là giấu kín sự
thánh thiện của họ, làm cho những người thường như
chúng ta không thể thấy, dù ta có
nỗ lực xem xét. Ngược lại, ngay cả những lang băm cũng
lừa đảo rất
tài tình bằng
cách ăn nói như những bậc thánh.
Nếu Patrul Rinpoche có thể viết như vậy về thế kỷ trước tại
Tây Tạng, thì điều ấy lại càng đúng biết bao trong cảnh
hỗn loạn của cái siêu thị
tâm linh hiện thời?
Vậy,
chúng ta làm thế nào để trong
thời đại cực kỳ khả nghi này, có thể
tìm ra được
niềm tin cậy quá
cần thiết cho sự
tu tập tâm linh? Theo
tiêu chuẩn nào để biết một vị thầy là thực hay dỏm?
Tôi nhớ rõ
một lần ở bên vị thầy tôi biết, khi ấy ông hỏi các học trò cái gì đã
lôi cuốn họ đến ông, tại sao họ
tin cậy ông. Một
phụ nữ nói:
- Tôi đã
nhận ra rằng điều thầy thực sự muốn, hơn bất cứ gì khác, là muốn cho
chúng tôi hiểu và
áp dụng giáo lý, và thấy thầy hướng dẫn
chúng tôi thật khéo léo để
chúng tôi có thể hiểu được.
Một người đàn ông ngũ tuần bảo:
- Không phải những gì thầy biết làm tôi
cảm động, mà chính vì thầy thực sự có
lòng vị tha và tâm tốt.
Một
phụ nữ trung niên nói:
- Tôi đã cố coi thầy như mẹ tôi, cha tôi,
bác sĩ tâm thần của tôi, chồng tôi, người yêu tôi; thầy đã
lặng lẽ ngồi
chứng kiến tất cả tấn tuồng do tôi phóng chiếu ra đó, và không bao giờ
bỏ rơi tôi.
Một kỹ sư ngoài hai mươi tuổi nói:
- Điều tôi
tìm thấy nơi thầy rất khiêm cung, thầy thực sự mong muốn sự
tốt lành nhất cho tất cả
chúng tôi, và trong khi thầy làm thầy, thầy vẫn không bao giờ ngưng làm một
đệ tử của những bậc thầy.
Một
luật sư trẻ nói:
- Đối với thầy, chính nền
giáo lý mới là quan trọng nhất. Đôi khi tôi lại còn nghĩ rằng có lẽ cái
lý tưởng của thầy là, chính thầy
hoàn toàn biến mất, chỉ trao truyền lại những lời dạy càng
vô ngã càng tốt.
Một sinh viên khác
rụt rè nói:
-
Lúc đầu tôi sợ phải mở tôi ra trước thầy. Tôi vẫn quá thường khi bị
xúc phạm. Nhưng khi tôi khởi sự
thổ lộ tâm can, thì tôi
để ý những thay đổi thực sự trong tôi.
Dần dần tôi càng
biết ơn thầy, vì tôi
nhận ra thầy đã giúp tôi nhiều quá. Và rồi tôi
khám phá trong tôi một
niềm tin cậy
sâu xa đối với thầy, sâu hơn tôi có thể tưởng tượng.
Cuối cùng, một chuyên viên điện toán tuổi ngoại tứ tuần, bảo:
- Thầy đã là một tấm gương
kỳ diệu cho tôi soi vào, và thầy chỉ cho tôi hai điều: Khía cạnh
tương đối về tôi là ai, và khía cạnh
tuyệt đối tôi là ai. Tôi có thể nhìn vào thầy và thấy – không phải vì thầy là ai, mà vì những gì thầy
phản chiếu lại nơi tôi - tất cả sự
rối ren tương đối của tôi, rất
rõ ràng. Nhưng tôi cũng có thể nhìn vào thầy và thấy
phản ảnh nơi thầy cái
tự tánh của tâm, từ đấy mọi sự đang
sinh khởi, từng giây phút.
Những câu
trả lời trên đây cho ta thấy rằng những bậc thầy thực sự thì tử tế, bi mẫn, không biết mệt trong ước muốn san sẻ bất cứ
trí tuệ nào họ có được từ những bậc thầy của họ, không bao giờ
lợi dụng hay điều động các
đệ tử dưới bất cứ
hoàn cảnh nào, không bao giờ
bỏ rơi họ,
phụng sự cho nền
giáo lý vĩ đại hơn là cho
mục đích riêng tư, và luôn luôn khiêm hạ. Sự
tin cậy chân thực có thể phát triển, và chỉ nên phát triển đối với một người nào bạn biết được, qua
thời gian, hội đủ tất cả những đức tính ấy. Bạn sẽ thấy
niềm tin ấy
trở thành nền tảng của đời bạn, nó vẫn ở đấy để
nâng đỡ bạn qua những gian khổ của
sống chết.
Trong
Phật giáo chúng ta xác định một bậc thầy là
chân thực hay không
tùy theo sự hướng dẫn của họ có
phù hợp với
giáo lý Phật dạy hay không. Ta phải luôn luôn
nhấn mạnh rằng chính
sự thật của
giáo lý mới là tất cả tầm quan trọng, chứ không bao giờ quan trọng
cá nhân của bậc thầy. Bởi vậy
đức Phật đã nhắc nhở
chúng ta nguyên tắc Bốn chỗ
y cứ (
tứ y) là:
·
Y pháp bất y nhân:
Dựa trên thông điệp của bậc thầy, không phải trên nhân cách của ông;
·
Ý nghĩa bất y ngữ:
Dựa trên ý nghĩa, không chỉ
dựa trên lời;
· Y
liễu nghĩa, bất y
bất liễu nghĩa:
Dựa trên ý nghĩa chân thực, không
dựa trên ý nghĩa tạm thời;
· Y trí bất y thức:
Dựa trên tâm trí tuệ của bạn, không
dựa trên tâm
phân biệt thường ngày của bạn.
Bởi thế thật quan trọng để nhớ rằng vị thầy
chân thực, như ta sẽ thấy, là phát ngôn viên của
chân lý. Quả thế, tất cả chư Phật,
đạo sư, nhà
tiên tri, đều là những biểu hiện của
chân lý ấy,
hóa hiện bằng
vô số hình dạng khéo léo đầy
từ bi để dắt dẫn
chúng ta trở về chân tánh của ta qua lời giảng dạy của họ. Bởi vậy,
lúc đầu, việc quan trọng hơn việc tìm thầy, là
tìm thấy sự thật của
giáo lý và sống theo nó. Bởi vì, nhờ bắt
liên lạc được với
sự thật của
giáo lý mà bạn sẽ tìm được
liên lạc với một bậc thầy.
THEO MỘT CON ĐƯỜNG
Tất cả
chúng ta đều có cái nghiệp gặp phải môt
con đường tâm linh này hay khác, và tôi sẽ khuyên bạn, tự đáy tim tôi, hãy
đi theo với sự
chân thành trọn vẹn,
con đường nào gợi
cảm hứng cho bạn nhiều nhất. Hãy
đọc kinh sách của tất cả các
truyền thống,
tìm hiểu các bậc thầy muốn nói gì khi nói
giải thoát giác ngộ, và tìm
con đường chân lý nào thực sự
lôi cuốn bạn nhất. Hãy vận dụng khả năng
phân biệt của bạn;
con đường tâm linh đòi hỏi nhiều
thông minh, nhiều khả năng
phân biệt tinh tế hơn bất cứ đường nào khác, vì đó là việc quan hệ đến
chân lý tối thượng. Hãy xử dụng
lương tri bạn trong mọi lúc. Đến với
con đường ấy và biết rõ
hành lý bạn
mang theo: những
thiếu sót, tưởng tượng,
yếu đuối, phóng chiếu của
tâm thức. Trong khi tự thức được
bản tính chân thực của bạn là như thế nào, bạn hãy
hòa hợp sự khiêm hạ
sát đất với một sự thấm định
rõ ràng bạn đang ở đâu trên
con đường tâm linh, và những gì còn phải được thấu hiểu và
thực chứng.
Điều quan trọng nhất là đừng để vướng vào cái mà tôi thấy khắp nơi ở phương tây, một kiểu “đi chợ tâm linh”: Chạy quanh từ thầy này đến thầy khác,
giáo lý này đến
giáo lý khác, mà không có một sự dấn mình thực sự vào bất cứ nên
giới luật nào. Gần hết mọi bậc thầy
tâm linh thuộc mọi
truyền thống đều
đồng ý rằng điều cốt yếu là phải làm chủ, nắm vững lấy một đường
lối tu tập, một
con đường đưa đến
chân lý, bằng cách
tuân theo một
truyền thống với tất cả tim óc bạn, đi
cho đến cuối cuộc
hành trình tâm linh, trong khi vẫn giữ
thái độ cởi mở
kính trọng đối với
tri kiến của các
truyền thống khác. Ở
Tây Tạng chúng tôi thường nói: “Khi biết rõ một chuyện thì ta có thể
thành tựu được tất cả.”
Tư tưởng đặc biệt thời nay là, ta có thể luôn luôn mở ra cho mọi chọn lựa và bởi thế không bao giờ dấn mình vào một cái nào. Nhưng đấy là một trong những
ảo tưởng lừa dối nhất trong nền
văn hóa hiện nay, một trong những kiểu
hiệu nghiệm nhất của
bản ngã để phá hỏng sự
tu tập của
chúng ta.
Khi bạn cứ
tiếp tục tìm kiếm mãi, thì chính sự
tìm kiếm trở thành một căn bệnh
ám ảnh bạn. Bạn
trở thành một khách du lịch về
tâm linh, đi khắp nơi chốn mà không bao giờ tới một chỗ nào. Như Patrul Rinpoche nói:
- Bạn để con voi của bạn ở nhà mà đi tìm
dấu chân của nó ở trong rừng.
Theo một
con đường không phải là một kiểu tự giam giữ bạn hay để
con đường ấy chiếm
độc quyền đối với bạn. Mà
con đường ấy là một
phương tiện thiện xảo đầy bi mẫn để giữ cho bạn tập trung luôn luôn vào đấy, dù có bao nhiêu trở ngại mà chính bạn và
cuộc đời của bạn
chắc chắn sẽ
xen vào.
Bởi thế, khi bạn đã
thăm dò những
truyền thống mật tông, hãy chọn một vị thầy và theo sự hướng dẫn của vị ấy.
Khởi hành lên đường tu tập là một chuyện, mà có được
kiên nhẫn,
trì chí,
tuệ giác,
can đảm và sự khiêm hạ để theo
cho đến cùng, là một chuyện khác. Bạn có thể có
duyên nghiệp để
tìm ra một vị thầy, nhưng khi ấy chính bạn phải tạo ra cái nghiệp để theo vị thầy ấy. Vì rất ít người trong
chúng ta biết được làm cách nào để theo thầy, đó là cả một nghệ thuật. Cho nên dù
giáo lý có vĩ đại đến đâu, bậc thầy vĩ đại đến đâu, điều cốt yếu vẫn là, bạn phải tìm trong chính bạn cái
tuệ giác và
thiện xảo trong sự
tu tập làm sao để yêu mến và
tuân theo bậc thầy và
giáo lý.
Điều ấy không dễ. Sự việc không bao giờ toàn hảo. Làm sao mà
toàn vẹn được, khi
chúng ta đang còn ở trong
thế giới tương đối của
sinh tử. Ngay cả khi bạn đã chọn được một vị thầy và rất
chân thành theo
giáo lý, bạn vẫn thường gặp phải những
rắc rối và
bất mãn,
mâu thuẫn và bất toàn. Đừng ngã quị trước những
chướng ngại nhỏ nhen ấy. Đấy chỉ là những
cảm xúc trẻ con của
bản ngã. Đừng để chúng làm bạn đui mù trước
giá trị bền bỉ và
tinh túy mà bạn đã chọn được. Đừng để cho sự mất
kiên nhẫn của bạn lôi bạn đi xa khỏi sự dấn mình tìm
chân lý của bạn. Đã bao nhiêu lần tôi lấy làm buồn khi thấy nhiều người chọn được một
giáo lý và bậc thầy, theo học với một niềm hăng say đầy hứa hẹn, mà sau đó lại mất
niềm tin khi xảy đến những
chướng ngại nhỏ không thể tránh. Họ rơi
trở lại vào
con đường luân hồi sinh tử, vào những tập quán cũ, và để
lãng phí nhiều năm tháng, có lẽ cả
cuộc đời họ.
Đức Phật đã dạy trong
bài Pháp đầu tiên của ngài, căn nguyên của mọi khổ đau
chúng ta trong
sinh tử là
vô minh.
Vô minh có vẻ như là bất tận, khi ta chưa
giải thoát khỏi nó. Ngay cả khi ta đã
lên đường tu tập, sự
tìm kiếm của ta cũng vẫn còn bị sương mù
vô minh vây phủ.
Tuy nhiên, nếu bạn nhớ điều này, và luôn giữ
lời Phật dạy trong tâm bạn, thì
dần dần bạn sẽ phát triển được
trí phân biệt để
nhận ra được những
mê muội của
vô minh, và nhờ vậy chúng không
tác hại được sự
tu hành của bạn hay làm bạn mất
mục tiêu nhắm tới.
Đức Phật dạy,
cuộc đời ngắn ngủi như một làn chớp;
tuy nhiên, như Wordsworth nói:
-
Cuộc đời này thực quá nặng nề: Làm ra tiền và xài tiền cũng đủ làm cho
chúng ta tiêu ma hết
năng lực.
Chính sự
tiêu ma năng lức ấy có lẽ là cái sự nát lòng nhất về
đời người: Nó phản bội lại
tinh túy của ta, nó để lỡ mất
cơ hội quý báu mà
cuộc đời này – cõi Bardo
tự nhiên – đem lại cho ta, để hiểu được và
thể hiện được
tự tính giác của ta. Điều mà những bậc
đạo sư cốt nói cho ta biết là, ta hãy
chấm dứt tự làm cho ta
mê muội: Ta đã học được điều gì, nếu vào lúc chết ta không
biết mình thực sự là ai?
Tử thư Tây Tạng nói:
Tâm nghĩ xa xôi, không nghĩ cái chết sắp đến,
Làm những
hoạt động vô nghĩa này,
Rồi
trở về hai bàn tay trắng
Thực là
mê muội hoàn toàn;
Điều cần là
trực nhận bản tâm và
giáo lýTại sao không
tu tập đạo lộ
trí tuệ ngay lúc này?
Những lời này từ
kim khẩu bậc thánh nói ra:
Nếu bạn không ghi nhớ lời thầy vào tâm khảm
Thì có phải bạn đã tự lừa dối mình?
BẬC THẦY
Đức Phật dạy trong một
mật điển:
- Trong tất cả chư Phật đã đạt
giác ngộ, không có một vị nào
thành tựu việc này mà không nhờ một bậc thầy, và trong tất cả ngàn vị Phật sẽ
xuất hiện trong
đại kiếp này, không một vị nào sẽ đạt
giác ngộ mà không nương tựa vào một bậc thầy.
Vào năm 1987, sau khi bậc thầy
thân yêu Dudjom của tôi từ trần ở Pháp thì tôi đang ngồi trong xe lửa từ miền Nam nước Pháp nơi ngài ở, để
trở về Paris. Trong trí tôi
hiện ra muôn ngàn
hành vi độ lượng,
hiền lành và
từ ái của ngài, tôi rưng nước mắt tự nhủ với mình nhiều lần:
-
Nếu không nhờ thầy, thì làm sao con hiểu được?
Tôi nhận chân một cách tha thiết cái điều trước đấy tôi
chưa bao giờ biết đến, đó là tại sao
truyền thống chúng tôi lại đặt tầm quan trọng
thiêng liêng như vậy vào
liên hệ thầy trò, và mối
liên hệ ấy là thiết yếu như thế nào đối với việc
truyền thừa chân lý từ trí sang trí,
từ tâm sang tâm.
Nếu không có những bậc thầy tôi, thì tôi đã không thể
trực nhận chân lý của lời dạy, tôi đã không
thể đạt đến tầm mức
hiểu biết khiêm tốn mà tôi có được.
Nhiều người
Tây phương nghi ngờ thầy, thông thường
bất hạnh thay, lại là vì những
lý do chính đáng. Tôi không
cần phải kể ra đây
vô số trường hợp ghê gớm, đáng chán, về sự điên rồi,
tham lam, và lường gạt đã xảy ra trong
thế giới hiện nay, kể từ khi
tây phương mở cửa đón nhận nền minh triết
đông phương vào những thập niên 1950 và 1960.
Tuy nhiên, tất cả
truyền thống trí tuệ lớn, dù là Ki-tô, Sufi,
Phật giáo hay Ấn giáo, muốn có
năng lực đều phải
dựa vào quan hệ thầy trò. Bởi thế điều mà
thế giới cấn một cách
cấp thiết hiện nay, là sự
hiểu biết rõ ràng càng
minh bạch càng tốt, một bậc thầy
chân thực là gì, và một
môn đệ chân thực là gì, và gì là
thực chất của sự
chuyển hóa xảy ra nhờ
lòng tin đối với thầy.
Có lẽ sự
mô tả cảm động và chân xác nhất về
bản chất chân thực của bậc thầy mà tôi từng nghe, là cách
mô tả của thầy Jamyang tôi. Ngài nói rằng mặc dù
bản tính chân thực của
chúng ta là Phật, song từ vô thỉ nó đã bị che mờ bởi một
đám mây đen
vô minh mê lầm.
Tuy thế,
bản tính chân thực ấy,
Phật tính của ta, không bao giờ
hoàn toàn đầu hàng sự chuyên chế của
vô minh, ở
đâu đó Phật tính ấy luôn luôn
chống lại sự
thống trị của
vô minh.
Như thế
Phật tính của
chúng ta có một khía cạnh
tích cực, đó là “bậc thầy nội tâm” của
chúng ta. Ngay khi
chúng ta trở nên
mờ mịt, là bậc thầy
nội tâm ấy đã làm việc cho
chúng ta không biết mỏi mệt, cố đưa
chúng ta trở về sự sáng sủa, khoáng đạt của
bản thể chân thực chúng ta. Bậc thầy ấy không
bỏ rơi ta giây phút nào. Trong
lòng từ bi vô lượng như của chư Phật và của các
đấng giác ngộ,
Phật tính ấy không ngừng
hoạt động cho sự
tiến hóa của ta - không những đời này mà tất
cả đời quá khứ của ta – dùng đủ
phương tiện thiện xảo, đủ loại
hoàn cảnh để
giáo hóa,
thức tỉnh chúng ta, và để dẫn
chúng ta trở về chân lý.
Khi
chúng ta đã
cầu nguyện,
khát ngưỡng chân lý trong một
thời gian dài, qua nhiều đời kiếp, và khi nghiệp ta đã được thanh lọc khá đủ, thì một thứ
phép lạ xảy ra. Và nếu ta có thể hiểu và xử dụng
phép lạ này, thì nó có thể đưa đến sự
vĩnh viễn chấm dứt vô minh: Vị thầy
nội tâm, người luôn luôn theo sát
chúng ta,
xuất hiện dưới hình dạng một “vị thầy bên ngoài”, người mà gần như do một huyễn thuật, ta đã gặp được trong
thực tế. Sự gặp gỡ này là quan trọng nhất trong tất
cả đời kiếp.
Ai là vị thầy bên ngoài? Không ai khác hơn là
hiện thân, là tiếng nói và
đại diện của vị thầy bên trong. Vị thầy mà
hình dáng con người, tiếng nói
con người, và
trí tuệ của ông, đã khiến ta
thương mến hơn bất cứ người nào khác trong các đời kiếp của ta, người ấy không ai khác hơn là biểu hiện của
sự thật huyền bí
nội tâm ta.
Nếu không thì làm sao
giải thích được tại sao
cảm thấy liên hệ mãnh liệt đến vị thầy ấy như thế?
Ở tầng mức cao sâu nhất, thầy và trò không thể có sự ngăn cách, vì công việc của thầy là dạy cho ta nhận được
thông điệp rõ ràng của vị thầy bên trong tâm ta, và làm cho ta nhận chân được sự
hiện diện liên tục của bậc thầy
tối hậu ấy ở trong tâm. Tôi cầu cho quý vị có thể
thưởng thức được
trong đời này, niềm hỉ lạc của mối tương
giao hoàn hảo nhất đó.
Không những vị thầy là phát ngôn
chính thức của
chính vị thầy trong tâm bạn, mà ông còn là người chuyên chở,
truyền đạt tất cả những ân phước của các
đấng giác ngộ. Đấy là điều làm cho vị thầy của bạn có khả năng
phi thường để
soi sáng tâm trí bạn. Vị thầy không khác gì
hiện thân của cái
tuyệt đối, đấy là đường dây điện thoại qua đó tất cả chư Phật và các bậc
giác ngộ có thể
liên lạc với bạn. Vị thầy là kết tinh của
trí tuệ tất cả chư Phật, và
hiện thân của
lòng từ bi của các ngài luôn luôn hướng về bạn: Ánh sáng của chư Phật nhắm thẳng vào tim óc bạn để
giải thoát bạn.
Trong
truyền thống chúng tôi xem vị thấy còn
tốt hơn cả những vị Phật. Mặc dù
lòng từ bi và
năng lực chư Phật luôn luôn
hiện hữu, song những mê mờ đã ngăn che
chúng ta không gặp được chư Phật một cách trực tiếp. Nhưng vị thầy của
chúng ta có thể gặp; vị thầy đang ở đó, sống, thở, nói, làm việc. Vị thầy luôn ở
trước mắt ta để chỉ cho ta bằng mọi cách có thể,
con đường của chư Phật:
Con đường giải thoát. Với tôi, những bậc thầy của tôi là
hiện thân của
chân lý sống, là những dấu hiệu
ám chỉ rằng sự
giác ngộ có
thể đạt được khi còn thân xác, ngay
trong đời này, trong
thế giới này, ngay bây giờ và tại đây. Các ngài là những nguồn
cảm hứng tối thượng trong việc
tu tập của tôi, trong công việc,
đời sống của tôi, và trong cuộc
hành trình của tôi tiến đến
giải thoát. Những bậc thầy đối với tôi là
hiện thân của
lời nguyện thiêng liêng đặt
giác ngộ lên trên hết,
cho đến khi tôi
thực hiện được nguyện ấy. Tôi biết rằng chỉ khi đạt
giác ngộ tôi mới
hiểu biết hoàn toàn những vị ấy thực sự là ai, và biết được
trọn vẹn lòng
độ lượng,
từ bi và trí tuê
vô biên của các vị.
Tôi muốn san sẻ với các bạn lời
cầu nguyện đẹp đẽ sau đây, mà ở
Tây Tạng chúng tôi đọc để
triệu thỉnh vị thầy trong tâm ta:
Từ đóa sen lòng
sùng kính trong tim con
Hỡi Thầy
từ bi, chỗ nương cậy
duy nhất của con;
Hãy
xuất hiện che chở con trong cơn khốn đốn
Bởi các nghiệp
quá khứ và
cảm xúc hỗn loạn.
Như viên ngọc
an trú trên đầu con, mandala của
đại lạcKhơi dậy
tỉnh giác và
sáng suốt trong con, xin Thầy!
NĂNG LỰC CỦA LÒNG SÙNG KÍNH
Như Phật đã dạy về các vị Phật đã
giác ngộ, không ai là không nương vào một bậc thầy, Ngài còn dạy:
- Chỉ nhờ lòng
sùng kính mà thôi, ta có thể
thực chứng chân lý tuyệt đối.
Chân lý tuyệt đối không thể
thực chứng được trong
phạm vi cái tâm thường ngày. Và tất cả
truyền thống trí tuệ lớn, đều dạy
con đường để vượt ngoài tâm thường ngày là trái tim.
Con đường của trái tim là sự
sùng kính.
Dilgo Khientse Rinpoche nói:
- Chỉ có một cách
duy nhất để đạt
giải thoát giác ngộ, đó là theo một bậc thầy
chân thực. Thầy là vị hướng đạo giúp ta vượt biển
sinh tử.
Như
mặt trời, trăng
phản chiếu trên mặt nước lặng trong, ân phước chư Phật cũng luôn luôn
hiện diện cho những người có
lòng tin tuyệt đối. Ánh sáng
mặt trời rơi khắp, nhưng chỉ nơi nào có kính hội tụ thì mới đốt được cỏ khô. Khi những
tia sáng bao la của
tâm Phật từ bi được hội tụ vào tấm gương lớn của
lòng tin và sự
sùng kính, thì ngọn lửa ân phước sẽ cháy bùng trong
bản thể bạn.
Vậy thì điều cốt yếu là biết được
sùng kính thực sự có nghĩa gì. Đấy không phải là sự tôn thờ
vô ý thức, không phải là bỏ hết
trách nhiệm đối với chính bạn,
tuân theo một cách
mù quáng sự bốc đồng của một người khác.
Sùng kính chân thực là một sự luôn sẵn sàng đón nhận
chân lý không
gián đoạn. Sự
sùng kính ấy có gốc rễ trong niềm
tri ân kính phục, nhưng
sáng suốt và có
trí tuệ, có căn cứ.
Khi bậc thầy có thể khơi mở cái tâm
sâu xa của bạn, làm cho bạn thấy được
tự tính của tâm, thì trong bạn nổi lên một niềm
tri ân hoan hỉ đối với người đã giúp bạn thấy được. Vì
sự thật mà bạn thấy là những gì mà bậc thầy
thể hiện trong
con người, trong
giáo lý và trong
trí tuệ của thầy.
Cảm giác chân thực tự nhiên ấy luôn luôn có gốc rễ trong
kinh nghiệm nội tâm, và chỉ điều này mới được gọi là
sùng kính, Tạng ngữ là Mogu. Mogu nghĩa là “khát khao và kính trọng”:
Kính trọng thầy, niềm
kính trọng càng tăng khi bạn càng hiểu bậc thầy là ai, và khao khát những gì mà thầy có thể khai thị cho bạn, vì bạn đã biết thầy chính là gạch nối của tâm bạn với
chân lý tuyệt đối,
hiện thân của
tự tính chân thực trong bạn.
Dilgo Rinpoche nói:
-
Lúc đầu sự
sùng kính này có thể chưa
tự nhiên, nên ta phải dùng một số kỹ thuật để giúp ta có được sự
sùng kính. Điều
chính yếu là phải luôn luôn nhớ những đức tính
tuyệt hảo của vị thầy, nhất là lòng tử tế của vị ấy đối với ta. Nhờ
liên tục phát sinh
niềm tin tưởng,
tán thán vị thầy, tận tụy với thầy, mà sẽ có ngày chỉ cần nhớ tên hay nghĩ đến vị ấy cũng đủ dừng lại mọi
vọng tưởng của ta, và ta sẽ thấy vị ấy như chính là
đức Phật.
Thấy thầy không phải như một
con người, mà như chính
đức Phật, đó là nguồn gốc của ân phước lớn nhất. Padmasambhava nói:
-
Sùng kính tuyệt đối đem lại ân phước lớn lao; không
hoài nghi đem lại
thành công mỹ mãn,
Những người
Tây Tạng biết nếu bạn xem thầy như Phật, thì bạn sẽ nhận được phước của Phật, nhưng nếu bạn xem thầy như một
con người mà bạn chỉ được phước của
con người. Vậy nếu muốn nhận được
năng lực chuyển hóa trọn vẹn của lời dạy của bậc thầy, thì bạn phải khơi mở trong chính mình lòng
sùng kính lớn lao nhất. Chỉ khi bạn xem thầy như Phật thì một nền
giáo lý như-của-Phật mới đến với bạn
từ tâm giác ngộ của bậc thầy. Nếu bạn không thể xem thầy như Phật, mà chỉ
xem như người, thì không bao giờ có được ân phước
trọn vẹn, và ngay cả nền
giáo lý vĩ đại nhất bạn cũng không thể đón nhận được.
Càng
tư duy về sự
sùng kính và
vai trò của nó trong
tri kiến về
giáo lý, tôi càng nhận
sâu xa rằng đấy cốt yếu là một
phương tiện thiện xảo để làm cho
chúng ta dễ
hấp thụ chân lý mà thầy truyền dạy. Những bậc thầy không cần sự tôn thờ của
chúng ta, nhưng có xem thầy như Phật sống thì ta mới có thể lắng nghe
thông điệp của
giáo lý và
nhất nhất tuân theo những chỉ giáo của họ. Như vậy, có thể nói sự
sùng kính là cách
thực tiễn nhất để có niềm
tôn trọng tuyệt đối và do đó
mở lòng ra để đón nhận
giáo lý mà bậc thầy
truyền đạt và
thể hiện qua
con người của họ. Càng
sùng kính, bạn càng
mở lòng ra đối với lời giảng dạy, và bạn càng
mở lòng ra thì
giáo lý càng có nhiều cơ hội để thấm vào tim óc bạn, và nhờ vậy phát sinh một sự
chuyển hóa tâm linh toàn diện.
Vậy, chỉ nhờ xem thầy như Phật sống, mà tiến trình “thành Phật” của bạn có thể thực sự bắt đầu và
hoàn tất. Khi
tâm trí bạn đã
hoàn toàn mở ra trong niềm
hân hoan,
ngạc nhiên,
biết ơn đối với sự
mầu nhiệm là
hiện diện của bậc thầy,
hiện thân của
giác ngộ, thì khi ấy, dần dà trải nhiều năm, có thể xảy ra sự
truyền thừa từ tâm trí tuệ của bậc thầy sang tâm của bạn, mở cho bạn thấy ánh
quang vinh của
Phật tính nơi chính bạn, và cùng với
Phật tính ấy là ánh
quang vinh của toàn
vũ trụ.
Tình
sư đệ thân thiết sâu xa nhất ấy
trở thành một tấm gương
phản chiếu mối tương quan của người
đệ tử đối với
cuộc đời và
thế giới nói chung. Bậc thầy
trở thành hình ảnh cốt cán trong sự
thực hành “tri kiến thuần tịnh,” cao điểm của nó là khi
hành giả thấy một cách trực tiếp không còn chút
nghi ngờ nào: Thầy là Phật sống, lời thầy là Phật ngôn, tâm thầy là
tâm giác ngộ của tất cả chư Phật, mỗi hành động của thầy là một biểu hiện của Phật hạnh, chỗ thầy ở là
cảnh giới Phật, và ngay cả những người
xung quanh thầy là ánh sáng do
trí tuệ của thầy chiếu ra.
Khi những
nhận thức như vậy càng ngày càng
hiện thực và
vững chắc, thì
phép lạ trong tâm mà
hành giả đã trông ngóng từ bao đời kiếp có thể
dần dần xuất hiện:
Hành giả khởi sự thấy một cách
tự nhiên rằng mình,
vũ trụ và tất cả
hữu tình trong đó đều
trong sáng toàn hảo một cách
tự nhiên: Thế là
cuối cùng hành giả đang nhìn vào
Thực tại với chính con mắt của mình. Bậc thầy, như vậy, là
con đường, là phiến đá thử vàng
mầu nhiệm để phát sinh một
chuyển hóa toàn diện của mọi
nhận thức nơi người
đệ tử.
Sự
sùng kính trở thành phương thức nhanh nhất, giản dị nhất và thuần tịnh nhất để trực ngộ
bản tâm và
vạn pháp trong
vũ trụ. Càng tiến trên
con đường này, ta thấy tiến trình ấy
hỗ tương duyên sinh một cách
kỳ diệu: Khi
chúng ta cố
liên tục phát sinh lòng
sùng kính, sự
sùng kính ta có được ấy lại phát sinh ra ánh sáng của
tự tâm ta; sự thấy được ánh sáng
tự tâm lại làm cho ta tăng lòng
sùng kính đối với bậc thầy đã khơi niềm
cảm hứng cho ta. Như thế là
sùng kính tuôn phát
từ trí tuệ:
Sùng kính và
kinh nghiệm về
bản tâm trở thành một
thực thể bất khả phân, và gợi
cảm hứng lẫn nhau.
Thầy của Patrul Rinpoche là Jikmé Gyalwé Nyugu. Trong nhiều năm ngài
nhập thất trong một hang động. Một ngày kia khi ngài ra ngoài,
mặt trời đang đổ xuống; ngài nhìn lên trời thấy một
đám mây đang
di chuyển về hướng mà Jikmé Lingpa, bậc thầy ngài đang cư trú. Ngài nghĩ trong tâm, “Thầy ta đang ở nơi kia,” và một niềm
khát ngưỡng và
sùng kính dâng trào trong tâm ngài, mãnh liệt tới nỗi ngài ngã quị. Khi ngài
tỉnh dậy,
toàn thể tâm giác ngộ của bậc thầy đã được truyền sang cho ngài, và ngài
đạt đến trình độ chứng nhập cao nhất, gọi là “Diệt tận định.”
DÒNG ÂN SỦNG
Những
câu chuyện về
năng lực của lòng
sùng kính và ân phước của bậc thầy không phải là những chuyện chỉ có trong
quá khứ. Trong một
con người như Khandro Tsering Chodron, bậc nữ
đạo sư của
thời đại chúng ta, ta có thể thấy được kết quả sự
tu tập và sự
sùng kính sâu xa đối với bậc thầy là như thế nào. Tính khiêm hạ, giản dị của bà,
trí tuệ trong sáng của bà được
mọi người Tây Tạng tôn kính, mặc dù bà cố
hết sức ở lại trong bóng tối, không bao giờ
xuất đầu lộ diện. Bà sống
cuộc đời khổ hạnh ẩn cư của một
hành giả tu thiền quán
ngày xưa.
Tôi thường nghe Khandro
nói nhiều lần rằng nếu
liên hệ của bạn với thầy bạn được giữ thực sự
trong sáng, thì mọi sự
trong đời bạn sẽ
tốt đẹp.
Cuộc đời bà là điển hình
cảm động nhất về điều này. Sự
sùng kính đã làm cho bà
thể hiện được
tinh hoa của
giáo lý, và tỏa chiếu cho người khác ánh sáng ấm áp của
tinh hoa ấy. Khandro không giảng dạy một cách
trịnh trọng, kỳ thực bà không
nói nhiều; nhưng điều gì bà nói thường rõ rệt một cách
sâu xa đến nỗi nó
trở thành lời tiên tri. Lắng nghe bà tụng lên những lời kinh, hay
thực tập thiền định với bà, bạn được
cảm hứng sâu xa tận tâm để. Ngay cả khi đi dạo với bà, hay chỉ ngồi với bà, ta cũng thấy như được tấm trong niềm hỉ lạc mãnh liệt của sự
hiện diện ấy.
Vì Khandro rất dè dặt, và vì sự vĩ đại của bà nằm ở tính
bình dị, nên chỉ có người nào thực sự
trí tuệ mới thấy được bà là ai.
Chúng ta sống trong một
thời đại mà chỉ những người phô trương mình ra lại thường được
thán phục nhiều nhất. Nhưng chính trong những người khiêm cung như Khandro, mà
chân lý đang sống thực sự. Nếu Khandro có bao giờ đến giảng dạy ở
Tây phương, bà sẽ là một bậc thầy toàn hảo, bậc nữ
đạo sư vĩ đại nhất, người nhập thể được một cách huyền nhiệm toàn triệt, đức
từ bi và
trí tuệ của Tara –
tâm bi mẫn có
tuệ giác được
thể hiện qua
thân hình một
nữ nhân – có
năng lực chữa trị
tâm linh. Nếu tôi phải chết, mà có Khandro
tiếp nối, thì tôi sẽ
cảm thấy tin tưởng và
an tâm hơn bất cứ bậc thầy nào khác.
Tất cả những gì tôi
thực hiện được đều là nhờ
sùng kính các bậc thầy. Càng ngày tôi càng
ý thức rõ với niềm úy phục rằng những
ân sủng của các bậc thầy đang làm việc qua tôi. Tôi không là gì
nếu không có sự ban ân của thầy, và nếu có điều gì tôi làm được, thì đấy là làm một nhịp cầu giữa bạn và các bậc thầy. Nhiều lần, tôi đã
nhận thấy rằng khi tôi nói về các thầy tôi trong các buổi giảng dạy, thì lòng
sùng kính của tôi gợi
cảm hứng nơi những người nghe, và trong những giây phút
kỳ diệu ấy tôi
cảm thấy các thầy tôi đang
hiện diện, đang ban ân phước và mở những trái tim các học trò tôi, cho họ thấy được
chân lý.
Tôi nhớ ở Sikkim vào
thập niệm 1960, sau khi thầy Jamyang tôi chết không bao lâu, Dilgo Khientse Rinpoche đang làm một loạt dài những
lễ quán đảnh thuộc
giáo lý của Padmasambhava, có thể kéo dài nhiều tháng. Nhiều bậc thầy đang ở trong một
tu viện trên ngọn đồi phía sau thủ đô Gangtok, và tôi đang ngồi với Khandro Tsering Chodron và Lama Chokden,
phụ tá của thầy Jamyang Khientse và là một thầy
nghi lễ.
Chính vào
lúc ấy tôi
kinh nghiệm được
sự thật về cách làm thế nào một bậc thầy có thể truyền
phúc lạc của
tâm giác ngộ cho
đệ tử (
truyền tâm ấn). Một ngày, Dilgo Khientse Rinpoche giảng dạy về sự
sùng kính và nói về thầy Jamyang Khientse, tuôn ra
từ tâm ngài như dòng thác hùng hồn và đầy thi vị
tâm linh. Khi nhìn thấy Dilgo Khientse Rinpoche và lắng nghe thầy nói, một cách
mầu nhiệm tôi nhớ lại phong thái của chính thầy Jamyang Khientse những lúc thầy giảng
giáo lý tuyệt vời một cách
thao thao bất tuyệt, như từ một suối nguồn bất tận. Từ từ tôi
kinh ngạc nhận thấy cái gì đã xảy đến: Đó là
ân sủng tuệ giác của thầy Jamyang Khientse đã được trao truyền
trọn vẹn cho
pháp tử của ngài, Dilgo Khientse Rinpoche, và giờ đây ở trước
chúng tôi,
ân sủng tuệ giác ấy đang phát ngôn một cách lưu loát không cần
nỗ lực, qua thầy Dilgo Rinpoche.
Sau buổi giảng, khi quay lại Khandro và Chokden, tôi thấy mặt họ đang
ràn rụa nước mắt, và bảo:
-
Chúng tôi biết Dilgo Khientse là một bậc thầy vĩ đại, và
chúng tôi cũng biết người ta thường bảo một vị thầy có thể truyền hết
ân sủng tuệ giác cho
pháp tử của mình. Nhưng chỉ mới hôm nay, bây giờ và tại đây, tôi mới
thực chứng được
sự thật ấy có nghĩa gì.
Khi
nghĩ lại cái ngày
kỳ diệu ấy ở Sikkim, và nghĩ đến những bậc thầy vĩ đại mà tôi đã biết, thì tôi lại nhớ đến những lời này của một bậc thánh
Tây Tạng:
- Khi
mặt trời sùng kính chói chang (của
môn đệ) chiếu trên đỉnh núi tuyết là bậc thầy, thì dòng thác
ân sủng của thầy sẽ tuôn xuống.
Tôi lại nhớ đoạn văn của chính Dilgo Khientse Rinpoche đã
diễn tả những đức tính cao quí
vô biên của bậc thầy một cách hùng hồn hơn bất cứ đoạn văn nào khác:
- Thầy như một con thuyền lớn cho
chúng sinh vượt qua đại dương hiểm nghèo của
sinh tử, thầy là thuyền trưởng
vững vàng hướng dẫn chúng
tới bến bờ khô ráo của
giải thoát; thầy là cơn mưa
dập tắt ngọn lửa não phiền, là ánh
nhật nguyệt chói lọi xua tan bóng tối
vô minh, là đất
kiên cố có thể chuyên chở sức nặng của ác và thiện, một Cây ước ban bố niềm vui tạm thời và
hạnh phúc vĩnh cửu, là kho tàng
giáo lý thâm diệu bao la, là ngọc châu
như ý đem lại tất cả đức tính của
chứng ngộ, là cha là mẹ trải lòng thương
bình đẳng lên tất cả
hữu tình, là con sông lớn của
lòng từ, là ngọn núi vươn lên trên mọi lo phiền
thế tục, không lay chuyển trước những gió bão của
cảm xúc; thầy là vừng mây lớn đem mưa rưới mát những dằn xé của
dục vọng.
Tóm lại, thầy ngang với tất cả chư Phật. Chỉ cần
liên lạc với bậc thầy bằng bất cứ cách nào, hoặc trông thấy thầy, hoặc nghe giọng nói của thầy, hoặc được thầy lấy tay sờ đầu, hoặc nhớ đến thầy, cũng sẽ đưa ta đến
giải thoát.
Hoàn toàn đặt
tin tưởng nơi bậc thầy, đó là cách
bảo đảm nhất để có
tiến bộ trên đường
chứng đắc tuệ giác. Sự ấm áp của
trí tuệ và
từ bi của thầy sẽ làm tan những
cấu uế trong người ta và giải tỏa được chất
vàng ròng của
Phật tính trong ta.
Tôi đã
ý thức được niềm
ân sủng mà các bậc thầy tôi rót vào tâm tôi mà tôi hầu
như không hay biết. Từ ngày Dudjom Rinpoche chết, những học trò tôi bảo rằng những lời giảng dạy của tôi trở nên lưu loát
rõ ràng hơn. Cách đây không lâu, sau khi nghe Dilgo Khientse Rinpoche giảng một bài pháp hay
đặc biệt, tôi đã bày tỏ lòng
thán phục của tôi và nói:
- Thật như là một
phép lạ, khi những lời giảng tuôn ra
từ tâm trí tuệ của ngài một cách
tự nhiên không
nỗ lực.
Thầy nhẹ nhàng ngả về phía tôi và nói, với một ánh mắt trêu chọc:
- Và mong sao những lời dạy của con bằng tiếng Anh cũng tuôn ra dễ dàng
trôi chảy như vậy.
Từ đấy trở đi,
tự nhiên tôi có
cảm giác cái khả năng
diễn đạt giáo lý nơi tôi trở nên
tự nhiên hơn,
hoàn toàn không do luyện tập. Tôi xem quyển sách này như một biểu hiện của niềm
ân sủng từ những vị thầy tôi, được truyền
từ tâm trí tuệ của bậc thầy và
vị đạo sư
tối hậu là Padmasambhava. Vậy, quyển sách này là tặng phẩm của các ngài đến cho bạn.
Chính niềm
sùng kính đối với những bậc thầy đã đem lại cho tôi
sức mạnh để giảng dạy, và
tâm hồn rộng mở, tính cảm thụ
sâu xa để
học hỏi và luôn luôn
học hỏi. Chính thầy Dilgo Khientse Rinpoche cũng không bao giờ ngưng
học hỏi một cách khiêm hạ từ những bậc thầy khác, phần lớn là từ chính những
đệ tử của ngài. Bởi thế, niềm
sùng kính gợi
cảm hứng cho sự giảng dạy cũng là sự
sùng kính đem cho ta tính khiêm hạ để
tiếp tục học hỏi. Vị
đại đệ tử của Milapera là Gampopa đã hỏi thầy mình lúc chia tay:
- Khi nào thì
đúng lúc con nên khởi sự
dìu dắt đệ tử?
Milapera
trả lời:
- Khi con không phải như con bây giờ, khi
toàn thể nhận thức của con đã được
chuyển hóa, và con có thể thấy, thực sự thấy, cái ông già
trước mặt con không ai khác hơn là chính
đức Phật. Khi lòng
sùng kính đã đem lại cho con giây phút
nhận thức được như thế, cái
lúc ấy sẽ là dấu hiệu
chứng tỏ thời gian ra
giáo hóa của con đã đến.
Giáo lý này đã đến với bạn
từ tâm giác ngộ của Padmasambhava
xuyên qua hàng bao thế kỷ, trên ngàn năm, qua một
dòng truyền thừa không
gián đoạn gồm những bậc thầy mà mỗi vị đều
trở thành bậc thầy chỉ nhờ đã biết khiêm hạ làm
đệ tử, và vẫn luôn luôn, trong
ý nghĩa sâu xa nhất, là
đệ tử của những bậc thầy họ suốt
cả đời. Ngay cả vào lúc ngài đã tám mươi hai tuổi, mỗi khi Dilgo Khientse Rinpoche nói về Thầy mình là Jamyang Khientse Rinpoche, mắt ngài đều rướm lệ, những giọt nước mắt của niềm
tri ân và
sùng kính. Trong bức thư
cuối cùng gửi cho tôi trước khi chết, ngài đã ký tên là “Đệ tử đệ nhất.” Điều ấy
chứng tỏ cho tôi thấy thực
vô tận thay lòng
sùng kính chân thực, và cùng với sự
chứng ngộ cao nhất cũng phát sinh niềm
sùng kính lớn nhất và niềm
tri ân toàn vẹn nhất, vì nó đầy cả đức khiêm cung.
PHÉP ĐẠO SƯ DU GIÀ; HÒA VỚI TÂM TRÍ TUỆ CỦA BẬC THẦY
Tất cả chư Phật,
Bồ tát và những bậc
giác ngộ luôn luôn
hiện diện để giúp
chúng ta, và chính nhờ
hiện diện của bậc thầy mà tất cả
ân sủng của Phật,
Bồ tát được tập trung trực tiếp trên ta. Những người đã biết Padmasambhava thì biết
sự thật của
lời hứa mà ngài đã lập trên ngàn năm trước:
- Tôi không bao giờ xa các người có
đức tin, hay cả đến những người không có
đức tin, mặc dù họ không trông thấy tôi. Những người con của ta sẽ luôn luôn được
lòng từ bi của tôi
che chở.
Chúng ta chỉ cần xin cầu nếu muốn được giúp đỡ trực tiếp. Há không phải Ki-tô cũng nói:
- Hãy xin, ngươi sẽ được cho; hãy tìm kiến, ngươi sẽ gặp; hãy gõ, và cửa sẽ được mở cho ngươi. Ai xin đều nhận được, ai tìm đều gặp được.
Tuy thế, hỏi xin là điều khó khăn nhất đối với
chúng ta. Tôi nghĩ nhiều người trong
chúng ta hoàn toàn không biết làm thế nào để hỏi. Đôi khi vì ta
kiêu căng, đôi khi vì ta không muốn được giúp đỡ, đôi khi vì ta
biếng nhác, đôi khi vì tâm ta bận rộn đủ thứ
vấn đề, lo ra, và
mờ mịt đến nỗi ta không bao giờ nghĩ đến chuyện giản dị là hỏi. Khúc quanh quan trọng trong bất
cứ sự cai rượu hay cai nghiện nào, là khi những người nghiện
chấp nhận họ có bệnh và xin được giúp đỡ. Có thể nói
chúng ta đều là những kẻ nghiện
sinh tử; cái lúc sự giúp đỡ có thể đến với ta là lúc ta
công nhận mình có bệnh nghiện và chỉ có việc xin cầu giúp đỡ.
Điều ta cần hơn bất cứ gì, là tính
can đảm và khiêm hạ thực sự để
cầu xin sự giúp đỡ, từ đáy tim ta
cầu xin lòng từ bi của các bậc
giác ngộ, cầu sự
gạn lọc và chữa lành, cầu được khả năng hiểu thấu
ý nghĩa của khổ đau và
chuyển hóa nó;
cầu xin trên bình diện
tương đối, được
tăng trưởng sự
sáng suốt,
bình an, khả năng
phân biệt, và cầu được
chứng ngộ bản chất tuyệt đối của tâm, nhờ tan hòa vào cái
tâm giác ngộ
bất tử của bậc thầy.
Để có được sự giúp đỡ của chư Phật, để khơi dậy lòng
sùng kính và
trực nhận bản tính tự tâm, không có
pháp môn nào nhanh hơn,
cảm động hơn và
hiệu lực hơn
pháp môn Đạo sư Du già. Dilgo Khientse Rinpoche viết:
- Danh từ Guru Yoya có nghĩa là “hợp nhất với đấng
đạo sư,” và trong sự
thực tập này,
chúng ta được cho những
phương pháp để hòa
nhập tâm mình với
tâm giác ngộ của bậc thầy.
Hãy nhớ rằng bậc thầy -
đạo sư -
thể hiện sự kết tinh của những
ân sủng của tất cả chư Phật, tất cả bậc thầy, và các bậc đã
giác ngộ. Bởi thế
triệu thỉnh bậc thầy cũng là
triệu thỉnh tất cả; và hòa nhập tim óc bạn với
chân lý và với chính
hiện thân của
giác ngộ.
Bậc thầy bên ngoài trực chỉ cho bạn
chân lý về bậc thầy bên trong bạn.
Chân lý ấy càng được khải thị qua lời dạy bậc thầy, qua
cảm hứng từ bậc thầy, thì bạn càng
nhận ra rằng bậc thầy bên ngoài và bên trong bạn là bất khả phân. Khi bạn
dần dần khám phá ra
chân lý này cho chính bạn, qua
phương pháp triệu thỉnh trong lối
thực hành phép
Đạo sư Du già, thì một
niềm tin tưởng,
tri ân, hỉ lạc và
sùng kính phát sinh trong bạn, qua đó tâm bạn và
tâm giác ngộ của bậc thầy thực sự
trở thành bất khả phân. Dilgo Khientse Rinpoche có soạn theo
yêu cầu của tôi trong một
thời thực tập
Đạo sư Du già như sau:
Cái gì
hoàn tất sự thanh lọc lớn lao của
nhận thứcChính là sự
sùng kính, ánh sáng của
Tự tâm chiếu ra
Nhận chân, và nhớ rằng
tự tâm ta chính là bậc thầy –
Qua điều này, mong rằng tâm con và ta hòa làm một.
Đó là
lý do tất cả
truyền thống trí tuệ của
Tây Tạng đều đặt tầm quan trọng vào phép
thực hành Đạo sư Du già, và tất cả những bậc thầy đều xem đấy là
pháp môn tâm đắc nhất của họ. Dudjom Rinpoche viết:
- Điều cốt yếu là đặt tất cả
nghị lực của bạn vào
Đạo sư Du già, bám lấy pháp này
xem như sự sống, như trái tim của sự
tu luyện.
Nếu không vậy, thì
thiền định của bạn sẽ
cùn nhụt, và dù bạn có làm được chút
tiến bộ, cũng không
chấm dứt được những
chướng ngại, và sẽ không có khả năng để sự
chứng ngộ chân thực phát sinh trong tâm bạn. Bởi thế, nhờ tha thiết
cầu nguyện với sự
sùng kính không giả tạo, mà sau một
thời gian ân sủng trực tiếp
từ tâm giác ngộ của bậc thầy sẽ truyền vào bạn,
gia trì cho bạn sự
thực chứng vượt ngoài
mô tả, phát sinh từ trong tâm khảm của bạn.
Điều mà tôi sẽ đem lại cho bạn bây giờ là một phép
đơn giản để
thực hành Đạo sư Du già mà người theo
tôn giáo nào cũng có thể tập. Đây là pháp
tu chính yếu của tôi, là trái tim và
cảm hứng của
cả đời tôi. Mỗi khi tôi
thực hành pháp này, thì Padmasambhava chính là người mà tôi tập trung vào. Khi
đức Phật nhập niết bàn, ngài có tiên đoán rằng Padmasambhava sẽ ra đời để
gieo rắc giáo lý mật tông. Như tôi đã nói, chính Padmasambhava là người
thiết lập đạo Phật ở
Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám. Đối với người
Tây Tạng chúng tôi, thì Padmasambhava, Bậc thầy yêu quý, là
hiện thân của một nguyên lý rộng lớn không có
thời gian. Ngài là bậc thầy của tất cả. Ngài đã
xuất hiện vô số lần cho các bậc thầy của
Tây Tạng thấy. Những linh kiến này, những cuộc gặp gỡ này đã được ghi chép rõ ngày tháng, nơi chốn và cách
xuất hiện, cùng với những
giáo lý và
lời tiên tri mà ngài
cho biết. Ngài cũng đã để lại hàng ngàn
giáo lý cho
đời sau, được
hiển thị nhiều lần bởi nhiều bậc thầy vĩ đại
hậu thân của ngài. Một trong những
giáo lý ngài để lại ấy là
Tử thư Tây Tạng.
Tôi luôn luôn cầu Padmasambhava trong những lúc gặp khó khăn khủng hoảng, và ngài không bao giờ không ban
ân sủng và
năng lực cho tôi. Khi tôi nghĩ về ngài, thì các bậc thầy của tôi đều là
hiện thân của ngài. Đối với tôi thì ngài
hoàn toàn sống động vào mọi lúc, và lúc nào toàn
vũ trụ cũng chiếu sáng với vẻ đẹp,
năng lực và
hiện diện của ngài.
Ôi hỡi
Đạo sư, Bậc thầy tôn quý,
Ngài là
hiện thân của
từ bivà
ân sủng của tất cả chư Phật,
Là đấng
che chở tất cả
hữu tìnhThân con,
tài sản con, tim con,
linh hồn con
Tất cả, con xin dâng lên ngài
Từ giờ phút này đến khi con đạt
giác ngộ,
Trong
hạnh phúc hay đau buồn,
Trong
hoàn cảnh tốt hay xấu, lên cao hay xuống thấp
Con
hoàn toàn nương tựa vào ngài, hỡi đấng
Liên Hoa Sanh,
Người biết con: hãy thương tưởng,
dìu dắt con, làm cho con
trở thành một với ngài.
Tôi xem Padmasambhava như là nhập thể của tất cả bậc thầy tôi, bởi thế khi tôi hòa
nhập tâm tôi với Ngài trong phép
Đạo sư Du già, thì tất cả bậc thầy của tôi đều bao hàm trong đó.
Tuy nhiên, bạn có thể dùng bất cứ một vị đã
giác ngộ nào, bậc thánh, hay bậc thầy từ bất cứ
tôn giáo nào hay
truyền thống nào mà bạn
cảm thấy sùng kính, dù họ còn sống hay đã chết.
Pháp Đạo sư
Du già này có bốn giai đoạn chính:
Triệu thỉnh; hòa
nhập tâm bạn với bậc thầy qua
tinh túy của vị ấy là
thần chú; nhận sự
gia trì hay
ân sủng; hòa
nhập tâm bạn với bậc thầy và
an trú trong
bản tính tự nhiên Rigpa.
1.
Triệu thỉnh.
Ngồi yên lặng. Từ đáy sâu của tim bạn, hãy gợi ra những bầu trời
trước mặt bạn
hiện thân của
chân lý dưới
hình thức của bậc thầy bạn, hay một vị thánh, hay một người đã
giác ngộ.
Cố
quán tưởng bậc thầy hay
đức Phật ấy đang sống, tỏa chiếu ánh sáng
trong suốt như cầu vồng. Hãy
tin tưởng, với
niềm tin tuyệt đối, rằng tất cả niềm
ân sủng và đức tính của
trí tuệ,
từ bi, và
năng lực của tất cả chư Phật đều được nhập thể trong vị ấy.
Nếu bạn thấy khó mà
quán tưởng bậc thầy, thì hãy tưởng tượng
hiện thân của
chân lý như là một
thực thể thuần ánh sáng, hoặc
cảm thấy sự
hiện diện toàn vẹn của bậc thầy ở đấy trong bầu trời
trước mặt bạn; đó là
hiện diện của tất cả chư Phật và các bậc thầy. Hãy để cho nguồn
cảm hứng, hỉ lạc, úy phục mà bạn
cảm thấy lúc đó thay cho
sự quán tưởng. Chỉ cần
tin tưởng rằng sự
hiện diện mà bạn
triệu thỉnh đã thực sự ở đấy. Chính
đức Phật cũng đã nói:
- Kẻ nào nghĩ đến ta, là ta đã ở
trước mặt kẻ ấy.
Thầy tôi Dudjom Rinpoche thường nói không hề gì nếu
lúc đầu bạn không thể
quán tưởng; điều quan trọng là
cảm thấy sự
hiện diện trong tim bạn, và biết rằng
hiện diện ấy là
hiện thân của
ân sủng,
từ bi,
năng lực và
trí tuệ của tất cả chư Phật.
Rồi, khi thư dãn và để tim bạn tràn đầy
hiện diện bậc thầy, bạn hãy
triệu thỉnh vị ấy một cách tha
thiết thành khẩn trong tâm:
- Xin giúp con, làm cho con
thanh tịnh tất cả
phiền não nghiệp chướng, để
chứng ngộ bản tâm.
Đoạn với niềm
sùng kính sâu xa, hãy hòa
nhập tâm bạn với bậc thầy, và
an trú tâm bạn trong
tâm giác ngộ của thầy. Và khi bạn làm như thế, bạn hãy
hoàn toàn quy phục nơi thầy, tự nhủ:
- Xin giúp con,
săn sóc con. Cho con tràn ngập niềm vui và
năng lực của ngài,
trí tuệ của ngài. Hãy thâu tóm con vào trong
tâm giác ngộ của ngài. Hãy
ban cho con
ân sủng và
trí tuệ.
Khi ấy thì “chắc chắn sự
gia trì sẽ được rót vào tâm bạn,” Dilgo Khientse Rinpoche nói.
Khi
chúng ta khởi
sự pháp tu này, thì đấy là một cách trực tiếp,
thiện xảo và
hiệu nghiệm để mang
ta ra khỏi tâm
phàm phu và nhập vào lĩnh vực
thanh tịnh của trí giác Rigpa, ở đấy
chúng ta sẽ
khám phá rằng tất cả chư Phật đều
hiện diện.
Bởi thế,
pháp môn này thực sự
chuyển hóa được tâm bạn. Khi bạn
triệu thỉnh Phật, thì
Phật tính của
tự tâm bạn có thể được
đánh thức và
khai ngộ,
tự nhiên như một đóa hoa dưới
ánh mặt trời.
2.
Đào sâu và làm chín mùi
ân sủng.
Khi đến giai đoạn này của sự
tu tập, hòa lẫn tâm tôi với bậc thầy qua câu
thần chú, tôi đọc câu chú:
- OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM.
Mà tôi tưởng như là Padmasambhava thực sự, và là
ân sủng của tất cả những bậc thầy, dưới
hình thức âm thanh. Tôi tưởng tượng
toàn thân tôi tràn ngập
hiện diện của ngài, và câu
thần chú tinh túy của ngài, đang ngân vang và thấm khắp người tôi, như thể hàng trăm Padmasambhava dưới dạng
âm thanh đang
lưu hành trong tôi,
chuyển hóa toàn
bản thể tôi.
Vậy, dùng câu chú, dâng hiến tim và hồn của bạn trong niềm
sùng kính nhất tâm, hòa tâm bạn với Padmasambhava hay bậc thầy của bạn. Dần dà bạn sẽ thấy mình
đến gần Padmasambhava hơn, và lấp khoảng trống ngăn cách tâm bạn với
tâm giác ngộ của ngài.
Dần dần, nhờ
năng lực của
thực tập này, bạn sẽ thực sự
kinh nghiệm tâm mình được
chuyển hóa thành tâm giác ngộ của Padmasambhava và bậc thầy; bạn bắt đầu nhận chân được tính bất khả phân của hai tâm ấy. Như khi thọc ngón tay vào nước thì ướt, vào lửa thì nóng, cũng vậy nếu bạn
để tâm bạn vào
tâm giác ngộ của chư Phật, thì tâm bạn sẽ chuyển thành
bản chất giác ngộ của chư Phật.
Dần dần tâm bạn tự thấy mình ở trong
trạng thái tự tính tâm, Rigpa, vì
tự tính tâm
sâu xa nhất, không khác gì
tâm giác ngộ của tất cả chư Phật. Nó giống như thể tâm
phàm phu của bạn
dần dần tan biến, và sự
tỉnh giác thuần tịnh,
Phật tính của bạn, bậc thầy bên trong,
hiển lộ. Đây là
ý nghĩa chân thực của “ân sủng”, một sự
chuyển hóa trong đó tâm bạn
siêu việt vào
trạng thái tuyệt đối.
Sự chín mùi của
ân sủng này là
trọng tâm, phần chính của sự
tu luyện, phần mà bạn cần dành nhiều
thì giờ nhất, khi bạn
thực hành pháp Đạo sư Du già.
3.
Gia trì.
Bây giờ, bạn hãy tưởng tượng, từ nơi bậc thầy, hàng ngàn ánh sáng
rực rỡ tuôn tràn về phía bạn,
thâm nhập vào người bạn, tịnh hóa, chữa lành, ban
ân sủng,
gia trì cho bạn và gieo vào tâm bạn những
hạt giống giác ngộ. Để cho sự
tu tập này càng thêm
phong phú, bạn có thể tưởng tượng nó mở ra trong ba giai đoạn:
Trước hết, ánh sáng chói chang như
pha lê màu trắng tuôn ra từ trán của vị thầy và
đi vào luân xa ở trán bạn, tràn ngập
toàn thân bạn. Ánh sáng trắng này
tượng trưng ân sủng của thân Phật: Nó thanh lọc tất cả những
ác nghiệp mà bạn đã
tích lũy do thân
ác hành; nó tịnh hóa những huyệt đạo
vi tế của
hệ thống tâm-vật-lý của bạn; nó đem lại cho bạn
phúc lạc của
Phật thân, nó
gia trì năng lực cho bạn
thực hành quán tưởng; và nó mở ra cho bạn sự
chứng ngộ năng lực từ bi của
tự tánh tâm,
hiển lộ nơi mọi sự vật.
Kế đến, một luồng ánh sáng màu đỏ chiếu ra từ yết hầu của vị thầy,
đi vào luân xa yết hầu của bạn, tràn ngập
thân thể bạn. Ánh sáng đỏ này
tượng trưng ân sủng của Lời chư Phật: Nó lọc sạch tất cả
ác nghiệp bạn đã
tích lũy qua ngữ
ác hành; nó thanh lọc nội khí của
hệ thống tâm-vật-lý bạn; nó đem lại cho bạn
ân sủng ngữ nghiệp của chư Phật; nó
gia trì năng lực cho bạn
thực hành thần chú; và mở ra cho bạn
chứng ngộ ánh sáng của
tự tánh Rigpa.
Thứ ba, một luồng ánh sáng màu xanh như ngọc
lưu ly tuôn phát từ tim của bậc thầy vào luân xa ở tim bạn và tràn ngập người bạn. Ánh sáng xanh này
tượng trưng cho
ân sủng từ tim của chư Phật. Nó lọc sạch tất cả
ác nghiệp bạn đã
tích lũy qua ý
ác hành; nó tịnh hóa khí lực trong cơ thể tâm
vật lý của bạn; nó đem lại cho bạn
ân sủng của
tâm Phật; nó
gia trì cho bạn trong các
thực tập yoga cao cấp; và mở ra cho bạn
chứng ngộ sự
thanh tịnh nguyên ủy của
tự tính tâm Rigpa.
Bây giờ, bạn hãy
nhận biết rằng bạn đã được
gia trì qua sự ban
ân sủng, bằng thân, lời, ý không thể
phá hoại của Padmasambhava, của tất cả chư Phật.
4.
An trú trong Rigpa.
Bây giờ, hãy để cho vị thầy tan thành ánh sáng và nhập làm một với bạn, trong
tự tính tâm bạn. Hãy nhận
chân không nghi ngờ rằng
bản tính như bầu trời của bạn chính là vị thầy
tuyệt đối. Tất cả chư Phật ở đâu,
nếu không phải ở trong Rigpa,
tự tính tâm bạn?
Được
bảo đảm trong
nhận thức ấy, trong một
trạng thái thoải mái khoáng đạt, bạn
an trú trong sự ấm áp
quang vinh và
phúc lạc của
bản thể tuyệt đối trong bạn. Bạn đã
đạt đến nền tảng
nguyên thủy: Sự
trong sáng nguyên ủy và tính giản dị
tự nhiên. Khi bạn
an trú trong
trạng thái Rigpa ấy, bạn sẽ nhận chân
sự thật của lời dạy Padmasambhava:
- Tâm chính là Padmasambhava; không có
thực hành thiền định nào ngoài tâm ấy.
Tôi đã trình bày pháp tu ấy ở đây, như một
thành phần của cõi
trung gian tự nhiên của đời này, bởi vì đấy là
thực tập quan trọng nhất
trong đời, và bởi thế quan trọng nhất vào lúc chết. Phép
Đạo sư Du già, như bạn sẽ thấy ở chương mười ba, “Giúp đỡ
tinh thần cho người hấp hối,” là nền tảng của phép
Chuyển di tâm thức, phowa, vào lúc chết. Vì nếu vào lúc chết, bạn có thể đầy
tin tưởng, hợp
nhất tâm bạn với
tâm giác ngộ của bậc thầy, và chết trong niềm
bình an ấy, thì tôi xin hứa và
bảo đảm với bạn là mọi sự sẽ
tốt đẹp.
Vậy công việc của ta
trong đời là
thực tập nhiều lần, sự hòa nhập với
tâm giác ngộ của bậc thầy, làm sao để nó
trở thành một việc
tự nhiên đến nỗi mọi
hoạt động hàng ngày - ngồi, đi, đứng, ăn, uống, ngủ, mộng – càng lúc càng
thấm nhuần sự
hiện diện sống động của bậc thầy.
Dần dần, sau nhiều năm tập trung
sùng kính, bạn bắt đầu biết và
trực nhận được rằng tất cả tướng
thế gian đều
hiển bày trí giác của bậc thầy. Mọi
hoàn cảnh trong đời – ngay cả những
hoàn cảnh đã từng có vẻ
bi thương,
vô nghĩa,
hãi hùng – bây giờ càng ngày càng tỏ lộ cho bạn thấy chính là
sự giáo hóa trực tiếp và là
ân sủng của bậc thầy, và thầy
nội tâm. Như Dilgo Khientse Rinpoche nói:
-
Sùng kính là
tinh túy của
con đường tu tập, và nếu trong tâm ta không có gì ngoài bậc thầy, không
cảm thấy gì ngoài sự
sùng kính nhiệt tâm, thì bất cứ gì xảy đến đều được
xem như ân sủng của thầy. Nếu
chúng ta chỉ
thực hành với sự
sùng kính luôn luôn
hiện diện này, thì đây chính là sự
cầu nguyện.
Khi tất cả mọi
ý nghĩa đều
thấm nhuần sự
sùng kính đối với bậc
đạo sư, thì có một
niềm tin tưởng
tự nhiên rằng, không
cần phải lo bất cứ gì xảy đến. Mọi
sắc tướng đều là bậc
đạo sư, mọi
âm thanh đều là lời
cầu nguyện, và mọi
ý tưởng thô hoặc tế đều là sự
sùng kính. Mọi sự vật khi ấy được
giải phóng một cách
tự nhiên vào
bản chất tuyệt đối.