Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
禪 之 花
QUYỂN TRUNG
Dịch giả: Dương Đình Hỷ
661. Lấy Đầu Làm Ghế.
Trong
thiền viện do Tiên Nhai trụ trì có một học tăng thường
lợi dụng đêm tối leo tường ra ngoài chơi.
Một
hôm, Tiên Nhai đi tuần trong chùa, phát hiện có một cái ghế
đẩu ở góc tường liền biết ngay có người đã leo tường
ra ngoài chơi. Ông không kinh động ai cả, tiện tay dời ghế
đẩu đi chỗ khác tự mình đứng ở chỗ ghế đó đợi học
tăng trở về. Đêm đã khuya học tăng đi chơi trở về, không
biết ghế đẩu đã bị dời chỗ, cứ đạp lên đầu thiền
sư mà nhẩy xuống. Xuống tới đất mới biết người mình
đạp lên đầu là Tiên Nhai thì kinh sợ, hoang mang không biết
làm sao cho phải, nhưng Tiên Nhai không có ý giận lại còn
an ủi:
-
Trời khuya, sương nhiều ngươi phải cẩn thận kẻo bị lạnh,
mau về phòng mặc thêm áo!
Sau
đó, tự viện không ai biết chuyện này. Tiên Nhai cũng không
đề cập đến, nhưng từ đó ban đêm không còn thấy ghế
đẩu đặt ở góc tường nữa.
(Nhất
Vị Thiền: Quyển Phong)
Ông
tăng đã được thiền sư dùng tâm từ cảm hóa.
662. Hoằng Nhẫn.
Đạo
Tín sau khi được Tăng Xán truyền tâm ấn, một hôm trên đường
đến Hoàng Mai gập một đứa nhỏ khoảng 7 tuổi nói năng
kỳ lạ, bèn hỏi:
-
Ngươi tánh gì? (tiếng trung Hoa tánh là Họ)
-
Tánh thì có mà chẳng phải tánh thường.
-
Là tánh gì?
-
Phật tánh.
-
Ngươi không có tánh sao?
-
Vì tánh vốn không.
Đạo
Tín nói với tả, hữu:
-
Đứa nhỏ này rất phi phàm, sau khi ta diệt độ hai mươi năm,
sẽ đại hưng Phật pháp.
(Tổ
Đường Tập)
Công
án này nói về Phật tánh, siêu việt thời gian và không gian.
Nó có thể biểu thị bằng một vòng tròn Thiền. Vòng tròn
này hở vì không có trong, ngoài. Phật tánh có trong tất cả
chúng ta: kẻ hành quyết, nạn nhân, anh hùng, thục nữ, kẻ
sát nhân…ở tất cả mọi người, không có ngoại lệ.
(Barragato)
663. Gạo Trắng Chưa?
Một
hôm, Hoằng Nhẫn đến nhà giã gạo hỏi Huệ Năng:
-
Gạo trắng chưa?
-
Trắng đã lâu, nhưng còn chưa sàng.
Hoằng
Nhẫn lấy gậy gõ vào cối ba cái rồi bỏ đi.
(Pháp
Bảo Đàn Kinh)
-
Gạo đã trắng chưa: gạo trong câu nói này chỉ tâm Huệ Năng.
Đã loại hết trấu và sạn chưa? Tâm ngươi đã thanh tịnh
chưa?
-
Trắng đã lâu nhưng còn chưa sàng: con đã ngộ rồi, nhưng
còn chờ thầy chứng cho thôi.
Hoằng
Nhẫn gõ vào cối ba cái là tỏ ý chấp nhận.
(Barragato)
664. Tâm Như Hư Không.
Thiền
sư Trí Hoàng, sau khi tham phỏng Ngũ tổ Hoằng Nhẫn tự xưng
đạt được tâm tưởng bặt, duyên lự mất của thiền định
tam muội. Do đó ở trong am tập thiền hơn 20 năm. Đệ tử
của Huệ Năng là Huyền Sách, vân du đến Hà Bắc nghe danh
Trí Hoàng bèn đến thăm, hỏi rằng:
-
Ông ở đây làm gì?
-
Nhập định.
-
Ông nói nhập định là hữu tâm hay vô tâm nhập? Nếu là
vô tâm nhập định thì tất cả loài không tình thức như
cây cỏ, ngói gạch đều được định. Nếu là hữu tâm nhập
định thì tất cả chúng sanh hữu tình, hàm thức đều được
định rồi.
-
Khi tôi nhập định không thấy có hữu tâm, vô tâm.
-
Không thấy hữu tâm, vô tâm thì là thường định làm gì
còn có nhập định, xuất định. Nếu có xuất, nhập thì
chẳng phải là Đại Định.
Dưới
tay tướng giỏi, không có binh hèn. Kiến địa của Huyền
Sách làm cho Trí Hoàng không lời nào đối lại. Một lúc sau
mới hỏi:
-
Ông kế thừa pháp của vị nào?
-
Thầy tôi là Tào Khê Lục tổ.
-
Lục tổ lấy gì làm thiền định?
-
Thầy tôi nói diệu trạm viên tịch, thể dụng như như, năm
uẩn vốn không, sáu trần chẳng có, chẳng ra chẳng vào, chẳng
định chẳng loạn, thiền tánh vô trụ lià "trụ thiền
tịch.” Thiền tánh vô sanh, lìa "sinh Thiền tưởng.” Tâm
như hư không cũng không có số lượng hư không có thể đạt
được.
Trí
Hoàng nghe lời này rồi liền tự đến bái kiến Lục tổ.
Lục tổ hỏi:
-
Ngươi từ đâu tới?
Trí
Hoàng mang chuyện gập Huyền Sách kể lại. Lục tổ nói:
-
Thật đúng như vậy, nếu tâm ngươi như hư không, không chấp
không kiến, ứng dụng vô ngại, tâm không động tịnh, phàm
thánh đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng là một,
chẳng có định và hết định.
Trí
Hoàng nghe rồi đại ngộ, cái tâm sở đắc từ 20 năm tiêu
diệt không còn dấu vết.
(Nhất
Vị Thiền: Quyển Nguyệt)
Chấp
có pháp để đắc, có ngộ để chứng là chưa thật ngộ.
Thiền không rơi vào nhị biên có, không. Cũng không chấp ở
giữa. Nhị biên đã không có thì làm gì có trung gian? Không
thọ một hạt bụi, cũng không xả một pháp, thâu phóng tự
như.
665. Bài Giảng Của Thiền Sư La Sơn.
Mân
Vương xây một tự viện cho thiền sư La Sơn và mời ông ban
cho một thời pháp vào ngày khánh thành. Ông lên giảng đàn,
khoác cà sa vào rồi cởi ra và nói:
-
Xin chào!
Nói
rồi xuống tòa giảng.
Mân
Vương lại gần ông và nói:
-
Bài giảng bữa nay của thầy cũng giống như bài giảng của
Thế Tôn ở núi Linh Thứu.
-
Tôi tưởng ngài không biết gì về giáo lý không ngờ ngài
cũng biết chút ít về thiền.
(Zen
Koans)
Bài
giảng được coi là hay nhất của đức Phật là bài giảng
ở núi Linh Thứu (sự tích niêm hoa vi tiếu). Bài giảng yên
lặng và sự truyền tâm ấn là sự khởi đầu của Thiền.
Mân Vương so sánh bài giảng của La Sơn và của đức Phật.
Nhưng thiền sư biết rằng người đi tìm chân lý sốt sắng
nhất luôn luôn đến với tâm không. Biết chút ít về Thiền
còn tệ hơn là không biết gì cả.
666. Thầy Tôi Không Có Lời Này!
Có
người hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Cây bách trước sân.
Lúc
đó vấn đáp này đã trở thành thoại đầu danh tiếng. Về
sau, Pháp Nhãn hỏi đệ tử trực truyền của Triệu Châu là
Giác Thiết Chủy:
-
Nghe nói Triệu Châu có câu "cây bách trước sân" có phải
không?
-
Thầy tôi không có lời này, xin đừng hủy báng ổng.
-
Ngươi thiệt là sư tử con, lời nói y hệt lão sư tử Triệu
Châu.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Cổ
nhân tán thưởng Giác Thiết Chủy rằng:"Con tốt không sài
tiền cha." Câu nói "Thầy tôi không có lời này" của Giác
Thiết Chủy cũng giống như câu nói của Triệu Châu "Cây bách
trước sân" đều rất sinh động.
667. Hoàng Long Tam Quan.
Hoàng
Long khi thấy người tới bèn duỗi tay ra hỏi:
-
Tay ta sao giống tay Phật?
Nếu
trả lời một câu thiền sư liền duỗi chân ra hỏi:
-
Chân ta sao giống chân lừa?
Sau
đó lại hỏi:
-
Cái nào là sinh duyên của thượng tọa?
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu
thứ nhất là so sánh người với Phật.
Câu
thứ hai là so sánh người với súc vật.
Tổng
hợp lại là Tâm, Phật, chúng sanh không có sai biệt.
Hai
câu đầu đề thị học nhân: chúng sanh đều có Phật tánh,
cho nên không thể coi thường mình và chúng sanh. Sau đó tham
câu thứ ba, coi khuôn mặt xưa nay của mình là cái gì? Đó
là cái trong Đàn Kinh, Lục tổ nói: chẳng nghĩ thiện (Phật),
chẳng nghĩ ác (lừa), lúc đó cái gì là khuôn mặt xưa nay
(sinh duyên).
668. Vạn Dậm Không Tấc Cỏ.
Động
Sơn bảo đại chúng rằng:
-
Đầu Thu, cuối Hạ các huynh đệ hoặc đi Đông hoặc đi Tây,
nên hướng thẳng vào nơi vạn lý không tấc cỏ mà đi.
Lại
nói:
-
Nơi vạn lý không tấc cỏ làm sao đi?
Về
sau có ông tăng đến Lưu Dương, kể lại cho Thạch Sương
nghe. Thạch Sương bảo:
-
Ra cửa liền là cỏ.
Ông
tăng trở về trình lên Động Sơn. Động Sơn nói:
-
Trong nước Đại Đường có được mấy người?
(Bình
Thường Tâm Thị Đạo)
Vạn
dậm không tấc cỏ mọc là chỉ sa mạc hay sao? Dĩ nhiên không
thể căn cứ vào chữ mà giải thích được. Đây là diễn
tả cảnh giới không tịch của tự tánh, rộng lớn vô biên,
siêu việt hình tượng. Lại sợ đại chúng kẹt vào câu nói
nên lại nói "làm sao đi?" là ý ở ngoài lời nói. Câu "Ra
cửa liền là cỏ" của Thạch Sương là nói ngoài "không giới"
là sắc giới, những người chưa ngộ đạo ra cửa liền gập
cỏ.
"Trong
nước Đại Đường có được mấy người" là lời Động
Sơn khen ngợi Thạch Sương đã hiểu ý mình.
669. Ngàn Mắt, Ngàn Tay.
Nhân
một ngày đến Hà Bắc, phủ chủ Vương Thường Thị mời
Lâm Tế thượng đường nói pháp. Ma Cốc bước ra hỏi:
-
Quán Thế Âm ngàn mắt, ngàn tay, mắt nào là chánh?
Lâm
Tế đáp:
-
Quán Thế Âm ngàn mắt, ngàn tay, mắt nào là chánh? Nói mau!
Nói mau!
Ma
Cốc kéo sư xuống ngồi vào chỗ của sư.
Sư
lại gần chào:
-
Ngươi mạnh chăng?
Ma
Cốc định nói , sư kéo Ma Cốc ra, ngồi vào chỗ cũ. Ma Cốc
đi ra, sư cũng hạ đường.
(Lâm
Tế Lục)
Tượng
bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho lòng từ bi, có một
ngàn tay, một ngàn mắt. Một ngàn mắt để nhìn thấy những
người đang cần cứu và một ngàn tay giơ ra để giúp. Một
vài tượng có mười một mặt để có thể nhìn khắp mọi
nơi. Lâm Tế lập lại câu hỏi của Ma Cốc, chỉ thêm vào
mấy chữ :"Nói mau! Nói Mau!"
Lâm
Tế lấy câu hỏi của Ma cốc, do đó Ma Cốc lấy chỗ ngồi
của Lâm Tế (chủ, khách đảo ngược). Sau đó Lâm Tế chiếm
lại chỗ ngồi (chủ khách không khác). Ngàn mắt của Quán
Thế Âm mắt nào cũng là chánh. Chúng ta có 2 mắt, mắt nào
cũng thật, không ai hỏi mắt nào là giả. Một câu hỏi như
vậy thật vô nghĩa.
(Kubose)
670. Lâm Tế Phỏng Vấn Tam Phong.
Lâm
Tế tới Tam Phong, Bình hoà thượng hỏi:
-
Từ đâu tới?
-
Từ Hoàng Bá.
-
Hoàng Bá nói gì? (1)
-
Hôm qua cho trâu vàng vào lò nấu chẩy không còn dấu vết.
-
Gió vàng thổi tiêu ngọc, ai là kẻ tri âm? (2)
-
Qua vạn cửa không ngừng ở thanh không.
-
Câu đối thoại của ngươi thực cao thâm! (3)
-
Rồng sanh phụng hoàng vàng, xung phá sóng nước xanh.
-
Mời uống trà!
Bình
hòa thượng lại hỏi:
-
Gần đây ngươi đi đâu?
-
Long Quang.
-
Long Quang thế nào rồi?
Lâm
Tế không đáp, đi ra.
(Lâm
Tế Lục)
Đoạn
vấn đáp (1):
Hoàng
Bá nói gì?
-
Hoàng Bá dạy ta chân lý tột cùng, nhị nguyên đối đãi biến
mất không còn dấu vết.
Đoạn
vấn đáp (2):
-
Dĩ nhiên giáo lý của Hoàng Bá cao siêu, nhưng ngươi có thực
sự hiểu không?
-
Không những ta hiểu mà còn vượt lên trên nữa kìa!
Đoạn
vấn đáp (3):
-
Ngươi đã rời khỏi tầm tay!
-
Con rồng Hoàng Bá sanh con phượng Lâm Tế, đã đạt tới cảnh
giới cao nhất.
Bình
hòa thượng ngưng tranh luận.
(Akizuki,
dẫn theo Watson)
671. Cây Gậy Lớn Của Cảnh Thanh.
Cảnh
Thanh hỏi một ông tăng mới đến, từ đâu lại. Ông tăng
đáp:
-
Từ ba núi.
-
Lần kết hạ cuối ở đâu?
-
Từ năm non.
-
Ta sẽ cho ngươi 30 gậy.
-
Sao lại đánh con?
-
Vì ngươi hết đi từ thiền viện này lại sang thiền viện
khác.
(Zen
Koans)
Có
lẽ ông tăng này chỉ đơn giản thích đi loanh quanh các thiền
viện. Mặt khác, có thể ông đang đi tìm một vị thầy tốt.
Một vị thầy tốt sẽ biết ngay phẩm chất của đồ đệ.
Kỷ luật thiền rất nghiêm ngặt, bất cứ chấp vào một
cái gì cũng đều bị đánh.
672. Giọt Nước Tào Khê.
Một
ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
-
Thế nào là giọt nước Tào Khê?
-
Là giọt nước Tào Khê!
(Zen
Koans)
Thiền
bắt đầu ở Trung Hoa với Bồ Đề Đạt Ma (năm 520) và đạt
đến sung mãn với Huệ Năng. Vì vậy, câu hỏi có nghĩa là
cốt tủy của thiền là gì? Ông tăng chờ đợi được nghe
những giảng dạy cao siêu, nhưng Pháp Nhãn chỉ lập lại câu
hỏi. Thường thường câu trả lời đã nằm sẵn trong câu
hỏi. Nước là nước dù ở đâu. Thiền ở khắp mọi nơi.
Tất cả mọi sự vật đều là thiền. Dầu ta có bỏ chữ
Thiền đi, Thiền vẫn ở đấy không cần phải dán nhãn Cồ
Đàm, Đạt Ma, chúng ta.
673. - Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đang thuyết pháp gì
vậy?
-
Chíp chíp (tiếng sẻ), meo meo (tiếng mèo) gâu gâu (tiếng chó).
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
trả lời nhấn mạnh ở đây, bây giờ.
674. - Hãy chỉ cho ta cái cây không lay động trong cơn gió mạnh.
Ông
tăng đứng dậy, thân ngả tới ngả lui, hai tay vung trong không
khí, miệng kêu vi vu.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Nếu
ngươi đứng yên , ngươi đã bị động (tâm ngươi động
vì có ý kháng cự lại với gió). Nếu ngươi động theo gió,
ngươi không động (vì tâm ngươi không động).
675. Văn Thù cưỡi sư tử, Phổ Hiền cưỡi voi trắng, còn Thích
Ca cưỡi gì?
-
Con ngồi thiền trên một cái nệm rách, bất động.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Ông
tăng không thèm để ý đến lịch sử và thần thoại, ông
chỉ biết Phật hiện tại (là ông và thiền sư).
676. Đã nghe được tiếng vỗ của một bàn tay, hãy đưa chứng cớ ra coi!
677. Nghe được tiếng vỗ của một bàn tay, khai ngộ thành Phật, xin hỏi làm sao làm Phật?
678. Khi ngươi đã biến thành tro, còn nghe được tiếng vỗ của
một bàn tay không?
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Trong
cả ba công án trên, ông tăng không nói chỉ giơ một bàn tay
ra phía trước.
Trong
công án 676, ông tăng không bị chứng cớ trói buộc, chỉ
ám thị là thế đó.
Trong
công án 677, ông tăng không bị mê, ngộ trói buộc, ám thị
ở đây, bây giờ.
Trong
công án 678, ông tăng không bị sanh, tử trói buộc. Khái niệm
sau khi chết chỉ có khi ta còn sống.
679. Bàn tay này (tức bàn tay cho tiếng vỗ) có bị xuy mao kiếm
chặt đứt không?
-
Không chặt được.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Ông
tăng vừa nói không chặt được vừa giơ một bàn tay
ra. Chặt không được vì chặt không ta lại được không.
680.
Thế nào là sáng tới Tây Thiên, chiều về Đông Độ?
Ông
tăng đi tới đi lui trong phòng và nhắc lại sáng tới Tây
Thiên, chiều về Đông Độ.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Ông
tăng không bị thời gian (sáng, chiều) và không gian (Tây Thiên,
Đông Độ) trói buộc, chỉ phản ứng lại với Đi và Về.
681.
Thế nào là tiếng không tiếng của một bàn tay?
Ông
tăng không nói, đứng dậy lạy rồi lại ngồi xuống.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Trong
nghi thức chào hỏi Nhật Bản, ngoài động tác còn kèm theo
lời chào hỏi. Ở đây ông tăng chỉ dùng động tác không
nói là để diễn tả tiếng không tiếng.
682. Cảnh Giới Giáp Sơn.
Có
ông tăng hỏi Giáp Sơn:
-
Thế nào là cảnh Giáp Sơn?
Giáp
Sơn trả lời bằng một câu kệ:
猿
抱 子 歸 青 嶂 後
Viên
bão tử quy thanh chướng hậu
鳥
啣 花 落 碧 巖 前
Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền
Vượn ẵm con về sau núi biếc
Chim tha hoa rụng trước non xanh.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Thiền
Ngộ)
Ông
tăng hỏi Cảnh giới giác ngộ của Giáp Sơn. Câu đáp của
Giáp Sơn cho biết Vô Tâm là giác ngộ, muốn vậy phải từ
bỏ Tâm phân biệt.
683. Vạn Dặm Không Một Cụm Mây.
(Thiền
Ngộ)
Vạn
dặm không một cụm mây chỉ cảnh giới giác ngộ. Mây chỉ
phiền não. Mặt trời, mặt trăng dụ cho Phật tánh, bị mây
che không nhìn thấy được. Muốn thấy được mặt trời,
mặt trăng chỉ cần gió thổi, mây tan. Gió ở đây là Bát
Chánh Đạo, trong đó Chánh Định là đại biểu.
684. Ngựa Trắng Vào Đám Hoa Lau.
(Thiền
Ngộ)
Hoa
lau mầu trắng, ngựa cũng mầu trắng. Khi ngựa vào khóm lau
ta khó phân biệt đâu là ngựa, đâu là hoa. Câu này cũng như
câu “Tuyết đầy chén bạc”, đều chỉ Thiên Địa vạn
vật khách quan và tự ngã chủ quan đều cùng một thể.
685.
Đè đầu trâu bắt ăn cỏ.
(Thiền Ngộ)
Đây
là chỉ cưỡng bức trâu no phải ăn cỏ. Ý là cơ duyên chưa
chín mùi, dù dụng công thế nào cũng không liễu ngộ được.
686. Thế Tôn Chẳng Nói, Ca Diếp Chẳng Nghe.
(Thiền
Ngộ)
Đây
là dẫn sự tích “niêm hoa vi tiếu.” Sự thực thì Thế
Tôn nói rất nhiều và Ca Diếp chú ý nghe. Nói cách khác, cảnh
giới chân chính giác ngộ không thể dùng lời mà thuyết minh
được; chỉ dùng tâm truyền tâm.
687. Vũ Trụ Không Hai Mặt Trời, Càn Khôn Chỉ Một Người.
(Thiền
Ngộ)
Vũ
chỉ không gian; trụ chỉ thời gian, càn chỉ trời, khôn chỉ
đất. Đây là cảnh giới sau khi lãnh ngộ rồi, câu này cũng
tương tự như câu “duy ngã độc tôn.”
688. Một Tiếng Sấm Động, Gió Mát Khởi.
(Thiền
Ngộ)
Sau
cơn mưa gió sấm chớp, phiền não và vọng tưởng đều bị
rửa sạch, tiến vào ngộ cảnh thanh tịnh.
689. Mộng.
Trạch
Am thiền sư sắp mất, chúng đệ tử xin ngài cho một bài
kệ phó pháp. Thiền sư bèn viết một chữ Mộng rất lớn,
bên cạnh đề hàng chữ nhỏ:
Thị là mộng , phi cũng là mộng
Di Lặc là mộng , Quán Âm cũng là mộng.
Phật nói nên quán như thế!
Sau
đó liền mất
(Thiền
Ngộ)
Ý
của Trạch Am là coi sự vật hữu hình và vô hình ở thế
gian là mộng, do đó thoát ly được những nhận thức tương
đối của thế gian và tiến vào cảnh giới giác ngộ.
690. Trúc Rậm Không Ngăn Nước Chẩy
Núi Cao Chẳng Cản Mây Bay.
(Thiền
Ngộ)
Nước,
trúc, núi, mây đều tự nhiên vô tâm; do đó không bị sự
vật gì làm trở ngại. Tâm Kinh có nói: “Cố tâm vô quái
ngại” là chỉ vô tâm thì không bị trở ngại. Chỉ khi nào
tự giác tất cả đều không thì mới đạt được tâm cảnh
“Trúc rậm không ngăn nước chẩy.”
691. Vân Cư.
Vân
Cư đến tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
-
Tên ngươi là gì?
-
Vân Cư.
-
Nói lên trên.
-
Nói lên trên thì chẳng phải là Vân Cư.
-
Lời nói của ngươi cũng giống như câu trả lời của
ta khi đến Vân Nham.
(Zen
Light)
Có
tên là có phân biệt. Chúng ta sống ở trong thế giới nhị
nguyên đối đãi, ở thế giới danh tướng. Chúng ta nên biết
rằng còn có thế giới không danh tướng. Danh tướng chỉ
là tương đối, luôn thay đổi và không thật. Chân lý không
có tên, không chỗ, không vật.
Khi
chúng ta ở trong một phòng sáng chúng ta không cần mở đèn.
692. Chuông Kêu.
Một
lần nghe gió thổi làm chuông kêu, Tăng Già Nan Đề hỏi Già
Da Xá Đa:
-
Chuông kêu hay gió kêu?
-
Chẳng phải chuông hay gió kêu mà là tâm con kêu.
-
Tâm như thế nào?
-
Thẩy đều im lặng.
-
Tốt, ngươi sẽ nối pháp ta!
(Zen
Light)
Công
án này có thể là nguồn gốc của công án gió động hay cờ
động trong Vô Môn Quan (xem Công án số 95). Khi ta nhìn một
sự vật bên ngoài chúng ta đã có sự phân biệt chủ thể
và đối tượng. Có phân biệt là có đối đãi: Chúng ta đang
sống trong thế giới hư vọng.
Samuel
Johnson đạp mạnh ngón chân cái trên một hòn đá và kêu lên
Ối! Làm thế ông đã chứng minh được sự hiện hữu của
ngón chân, hòn đá và sự đau đớn. Lúc đó không phải chỉ
có tiếng ối hay sao? Tiếng ối đó không phải là sự hợp
nhất của ngón chân, hòn đá và sự đau đớn hay sao? Tiếng
ối đó đã chứng minh sự không thể tách rời chủ thể và
đối tượng, tất cả là tiếng ối đó. Ối! là toàn
thể vũ trụ. Ối!
693. Vân Nham.
Vân
Nham tham học với Bách Trượng hai mươi năm, sau lại đến
học với Dược Sơn. Dược Sơn hỏi:
-
Bách Trượng dạy pháp gì?
-
Có lần, thiền sư thượng đường, đại chúng sắp thành
hàng, Bách Trượng cầm gậy sua mọi người đi hết sau đó
lại gọi: “Đại chúng!” Đại chúng xoay đầu lại, Bách
Trượng nói: “Là cái gì.”
Dược
Sơn bảo:
-
Sao ngươi không nói sớm, hôm nay nghe ngươi kể lại, ta được
thấy
Hải huynh.
Ngay
câu nói ấy, Vân Nham tỉnh ngộ.
(Zen
Light)
Mục
đích của thiền là ngộ. Thiền sư dùng đủ mọi cách để
thiền sinh đạt tới đích này. Đôi khi cách thức có vẻ
kỳ lạ nhưng chỉ là muốn thiền sinh vượt qua những lề
thói thông thường. Trong công án này, Bách Trượng không giảng
cho một thời pháp, dùng gậy đuổi đại chúng đi, sau đó
lại hỏi là cái gì? Ông ám chỉ phải buông bỏ tất cả
những thành tựu, học vấn . . . vì tất cả chỉ là
không, ngay cả cái không này cũng phải bỏ thì mới có thể
ngộ, Lúc đó Vân Nham còn chưa tỉnh chỉ sau khi nghe lời nói
của Dược Sơn ông mới thực sự giác ngộ.
694. Bảo Tích.
Bảo
Tích một hôm ra khỏi cửa thấy một đám tang, người hát
thuê rung chuông hát rằng:
Vầng hồng quyết định lặn về Tây
Chưa biết ủy hồn hướng về đâu?
Người
con hiếu ở dưới màn khóc hu hu, sư bỗng nhiên thân tâm vui
mừng, khai ngộ.
(Niêm
Hoa Vi Tiếu)
Chữ
bỗng nhiên này thật sinh động, diễn tả thiền sư trong tình
huống ngẫu nhiên mà ngộ. Trải bao thời gian tìm tòi, cuối
cùng trong lúc vô ý như một tia điện chớp lòe đạt tới
tâm phát sáng, chiếu cả mười phương. Các thiền sư không
thể nào giải thích tại sao tại lúc đó mà không tại lúc
khác, ở trong tình huống đó mà không ở trong tình huống
khác, mà bỗng nhiên khai ngộ, chỉ tự mình thể hội.
695. Đại Đường Đánh Trống Tân La Múa.
(Thiền
Ngộ)
Biểu
thị sự lãnh ngộ.Thiên địa nhất thể, siêu việt không
gian và thời gian. Cũng để chỉ 2 người bạn tuy xa cách nhau
trong không gian nhưng tâm ý tương thông.
696. Suối Sâu Dùng Gáo Cán Dài.
(Thiền
Ngộ)
Dùng
gáo để múc nước suối. Suối cạn dùng gáo cán ngắn, suối
sâu dùng gáo cán dài. Trong Phật giáo có câu: “Ứng cơ thuyết
pháp,” nghĩa là tùy theo căn cơ của người nghe mà thuyết
pháp. Đối với người ngu thì dùng lời lẽ thông thường,
còn người thông minh thì dùng lý lẽ cao siêu của Phật lý
mà giảng. Cũng tỷ như dùng dao mổ trâu mà làm gà hoặc ngược
lại dùng dao giết gà mà mổ trâu thì không thuận lợi.
697. Bên Ngọn Lửa Hồng Không Chủ Khách.
(Thiền
Ngộ)
Ý
là khi ngồi sưởi ấm bên ngọn lửa thì không phân biệt
ai là chủ, ai là khách. Chủ là chủ thể, khách là khách thể,
tuy có sai biệt nhưng vẫn tương đồng, cũng như con người
ai cũng có Phật tánh.
698. Trăng Mọc Trên Biển , Bao Người Lên Lầu.
Nếu
muốn ngắm trăng mọc trên biển thì phải lên lầu cao, ý
nói nếu có một người đức cao vọng trọng xuất hiện,
mọi người đều tôn kính và ngưỡng vọng.
699. Dép Cỏ Rách.
(Thiền
Ngộ)
Dép
cỏ dùng để đi đường cho khỏi đau chân, rách rồi thì
phải vứt bỏ nếu cứ khư khư giữ bên mình thì chỉ làm
trở ngại. Cũng vậy, văn tự, công án dùng để thức tỉnh,
ngộ rồi thì phải bỏ.
700. Mây Bay, Nước Chẩy.
(Thiền
Ngộ)
Mây
tự do bay lượn, gió cuốn tới đâu thì tới, không bị bó
buộc. Nước chẩy không ngừng. Câu này ý nói người tu hành
tự do, tự tại đi khắp nơi tìm thầy hay, bạn giỏi để
học hỏi. Do đó, người ta thường gọi các ông du tăng là
hành vân lưu thủy tăng hay vân thủy tăng.
701. Bài Kệ Phó Pháp Của Ma Noa La Tôn Giả:
心
隨 萬 境 轉
Tâm
tùy vạn cảnh chuyển
轉
處 實 能 幽
Chuyển
xứ thật năng u
隨
流 性 認 得
Tùy
lưu tánh nhận đắc
無
喜 亦 無 憂
Vô
hỷ diệc vô ưu
Tâm theo muôn cảnh chuyển
Chỗ chuyển thật kín sâu
Theo dòng nhận được tánh
Không mừng cũng không lo.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Thiền
Ngộ)
Thông
thường con người bị ngoại giới mê hoặc, có lúc cảm thấy
vui, có lúc cảm thấy buồn, đó đều là do nhân duyên cả.
Nếu như sống trong thế giới vô thường này mà có thể vô
tâm và vô ngã thì sẽ được tự do vô ngại.
702. Trực Tâm là Đạo trường.
Một
hôm Quang Nghiêm đồng tử lìa bỏ nơi náo nhiệt, tìm một
chỗ thanh tịnh để tu hành, ngẫu nhiên gập Duy Ma Cật, bèn
hỏi:
-
Cư sĩ từ đâu lại?
-
Ta từ đạo tràng lại.
-
Đạo trường ở đâu vậy?
-
Trực tâm là đạo trường.
(Thiền
Ngộ)
Người
thường khi đề cập đến tu hành phần lớn đều nghĩ đến
tìm một chỗ thanh tịnh, xa rời nhân quần để tu tập. Nhưng
nếu tâm còn phân biệt, vọng tưởng thì bất cứ đi đến
đâu cũng không thể nào tới được đạo trường. Đạo trường
ở đây không phải là chỉ cơ sở mà là chỉ tâm cảnh.
703. Bõm.
Phật
Đính hòa thượng đến thăm thi sĩ Ba Tiêu. Hòa thượng biết
Ba Tiêu đã khai ngộ, tới nơi bèn hỏi:
-
Gần đây có chuyện gì tốt chăng?
-
Mưa xuống rêu xanh tươi.
-
Khi rêu chưa mọc, Phật pháp thế nào?
Ba
Tiêu trả lời bằng một bài hài cú:
Mặt ao cũ yên lặng
Một con ếch nhẩy vào
Bõm!
(Đồ
Giải Thiền vấn đáp)
Trong
thế giới Thiền - thế giới của tự tánh- không có sự phân
biệt có hay không có giá trị; không quan trọng hay quan trọng.
Bất cứ sự việc gì dù tầm thường hay có vẻ vô ý nghĩa
cũng có thể làm thức dậy sự tỉnh thức đang ngủ. Con ếch
trong tâm Ba Tiêu, khi nhẩy xuống ao đã tạo nên những vòng
tròn lan ra mặt nước, vượt qua ao, qua mặt trăng, mặt trời,
qua những vì sao xa nhất, vượt lên không gian. Và nó cũng
chìm sâu hơn Ba Tiêu, Bồ Đề Đạt Ma, Thích Già Mâu Ni trong
cảnh giới không thời.
(Marian
Mountain)
704. Một bài thơ Xuân.
Một
vị tỳ khưu ni đời đường sau khi đi khắp nơi tham học,
khai ngộ rồi viết bài thơ sau:
盡
日 尋 春 不 見 春
Tận
nhật tầm xuân bất kiến xuân
芒
鞋 踏 破 嶺 頭 雲
Mang
hài đạp phá lãnh đầu vân
歸
來 偶 把 梅 花 嗅
Quy
lai ngẫu bả mai hoa khứu
春
在 枝 頭 已 十 分
Xuân
tại Chi đầu dĩ thập phần
某 尼
Mỗ Ni
Trọn buổi tìm Xuân chẳng thấy Xuân
Giầy cỏ dẫm khắp mây đầu non
Trở về bỗng qua dưới hoa mai
Xuân ở đầu cành đà mười phần.
(Đồ Nam dịch)
(Thanh
Tịnh lưu ly)
Chúng
ta cầu đạo cũng như đi tìm xuân. Cả ngày đi khắp sơn cùng,
thủy tận, mòn cả dép mà cũng chẳng thấy xuân ở đâu.
Đến khi trở về, ngửi thấy mùi thơm của hoa mai trong vườn
mới biết xuân đã tới rồi. Bài thơ này thuyết minh chúng
ta đi tìm chân lý, trí tuệ, tìm hoài mà vẫn không thấy vì
không biết hướng nội.
705. Chị dâu Mã Tổ.
Đời
Đường, thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất chứng đạo rồi trở
về quê cũ. Bà chị dâu ông rất kính trọng ông, coi như bậc
thầy và cầu đạo với ông. Mã Tổ bảo:
-
Tẩu tẩu hãy lấy một quả trứng gà, dùng dây treo giữa
khoảng không, hàng ngày chú ý lắng nghe, chỉ cần nghe thấy
quả trứng phát ra tiếng là ngộ đạo.
Bà
chị dâu tin đó là thực, hàng ngày chú ý lắng nghe không
hề trễ nải. Đã nhiều năm trôi qua rồi mà vẫn không nghe
được âm thanh nào của quả trứng phát ra cả. Dần dần,
sợi dây treo quả trứng bị mục nát; một hôm đứt ra, quả
trứng rớt bạch xuống đất. Bà chị dâu nghe rồi liền ngộ:
nguyên lai vật ngã là một.
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Tiếng
“bạch” đó giúp bà chị dâu Mã Tổ đả phá trong ngoài,
nhân ngã, đạt tới cảnh giới như như.
706. Kim Bích Phong.
Kim
Bích Phong tuy đã ngộ đạo, có thể buông bỏ tất cả tham
ái,
tuy
nhiên ông rất thích cái bát ngọc để ăn cơm.
Trước
khi nhập định, đều cất cái bát ngọc cẩn thận rồi mới
an tâm ngồi thiền.
Một
hôm, Diêm Vương thấy thọ mạng của ông đã dứt, bèn sai
vài tên tiểu quỷ đến bắt. Kim Bích Phong biết trước thời
đã tới, bèn nhập vào cảnh giới thiền định rất sâu.
Các tên tiểu quỷ đợi một hôm, hai hôm rồi đợi mãi mà
vẫn không thấy ông xuất định, không biết làm sao về tâu
với Diêm Vương bèn đi hỏi thổ địa lập kế nào để Kim
Bích Phong xuất định. Thổ Địa nói:
-
Kim Bích Phong rất thích cái bát ngọc, nếu các ngươi
lấy được bát ngọc, nhất định ông ta sẽ xuất định.
Lũ
tiểu quỷ vội đi lấy bát ngọc, dùng hết sức lay động
làm bát kêu keng keng.
Kim
Bích Phong nghe tiếng vội xuất định. Lũ tiểu quỷ vỗ tay
cười:
-
Được rồi! Bây giờ mời ông đi gặp Diêm Vương.
Kim
Bích Phong trong sát na đó đại ngộ, hiểu rằng chỉ vì một
chút tham ái mà hủy diệt thiên cổ tuệ mạng. Ông bèn ném
bát ngọc vỡ tan và lập tức nhập định vào cảnh giới
niết bàn.
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Nếu
còn một chút tham ái dù rất nhỏ cũng không thể vào niết
bàn thanh tịnh được.
707. Linh Quyển.
Linh
Quyển đến tham phỏng Quy Tông hỏi:
-
Phật là gì?
-
Không thể nói cho ngươi biết vì ngươi không tin. Nếu ngươi
tin thì lại gần đây ta bảo cho.
Linh
Quyển bước lại gần, quy Tông ghé tai thì thầm:
-
Chính là ngươi!
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Học
thiền cần có ngộ tánh linh xảo , lại cần phải có tính
khôi hài nữa.
708. Phật là ai?
Có
ông tăng hỏi Bách Trượng:
-
Phật là ai?
Bách
Trượng hỏi ngược lại:
-
Ngươi là ai?
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Câu
trả lời của Bách Trượng rõ ràng chỉ rằng mình là Phật
lại còn đi hỏi ai nữa?
709. Bài kệ của Bố Đại.
Bố
Đại hòa thượng có bài kệ:
手
把 青 苖 插 滿 田
Thủ
bả thanh miêu tráp mãn điền
低
頭 便 見 水 中 天
Đê
đầu tiện kiến thủy trung thiên
六
根 清 淨 方 為 道
Lục
căn thanh tịnh phương vi đạo
退
步 原 來 是 向 前
Thối
bộ nguyên lai thị hướng tiền
Tay cấy mạ non đầy cả đồng
Cúi đầu thấy trời trong vũng nước
Sáu căn thanh tịnh Đạo mới thông
Lùi về sau là tiến tới trước.
(Ngộ
Không dịch)
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Người
thường hay có khuynh hướng nhìn cao chẳng nhìn thấp, cầu
xa chẳng cầu gần. Bài kệ này nói cho chúng ta biết từ gần
có thể thấy xa, thối lui chính là tiến bước.
710. An Lạc.
Có
ông tăng đang ngồi thiền, một vị ngoại đạo đến hỏi:
-
Có phải ông tu để kiếp sau an lạc không?
-
Không, tôi tu để kiếp này an lạc!
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Sự
an lạc ở Niết Bàn không phải chết rồi mới được, mà
là dập tắt mọi phiền não.
711. Duy Khoan.
Có
ông tăng hỏi Duy Khoan:
-
Đạo ở đâu?
-
Chỉ ngay trước mắt.
-
Sao con không thấy?
-
Vì ngươi có “ngã” nên không thấy.
-
Con có “ngã” nên không thấy, còn hòa thượng có thấy không?
-
Có ta có ngươi thao thức nên không thấy.
-
Không con, không hòa thượng lại thấy chăng?
-
Không ta, không ngươi thì ai cầu thấy!
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Khi
ta có thể an trú ở vô nhân ngã, vô đối đãi thì ta và hư
không là một. Tâm, Phật, chúng sinh vốn không sai biệt. Phật,
chúng sinh, vạn vật đều ở trong tâm ta. Ngoài tâm nào có
chúng sinh. Nói là độ chúng sinh nhưng không có một chúng
sinh nào để độ.
712. Tiết Giản.
Tiết
Giản hỏi lục tổ:
-
Hiện ở kinh thành các đại đức tham thiền đều nói nếu
muốn giác ngộ phải tọa thiền, tập định. Xin hỏi đại
sư có cao kiến gì?
-
Đạo do tâm ngộ, há phải tại ngồi sao?
(Thanh
Tịnh Lưu Ly)
Đi,
đứng, nằm, ngồi, gánh nước , bửa củi, chau mày, chớp
mắt, nhất cử nhất động đều có thể làm đốn ngộ. Mài
gạch không thể thành gương, tọa thiền chẳng thể thành
Phật. Tham thiền cầu đạo điều quan trọng là giác ngộ
chân tâm, bản tánh.
713. Đốn, tiệm.
Đường
Tuyên Tông hỏi Hoàng Biện:
-
Thế nào là đốn, là tiệm?
-
Đốn là thấy rõ tự tánh, đồng thọ với Phật, nhưng từ
vô thủy tâm đã bị tập nhiễm nên phải dùng tiệm để
trị, thuận theo tánh mà khởi dụng như người ăn cơm chẳng
thể vừa và một miếng mà đã no bụng được.
(Thiền
Ngoại Thuyết Thiền)
Nhà
Phật lấy nghịch làm thuận. Trải qua khổ tu bỗng nhiên linh
cơ nhất động thấy rằng nghịch chính thực là thuận. Nhưng
ở thế tục lực lượng thuận rất mạnh muốn tránh khỏi
bị lôi cuốn vào vòng nguy hiểm thì không một giây phút nào
được buông lơi. Nghĩa là linh cơ nhất động (đốn) vẫn
phải liên tục tu hành (tiệm).
714. Thần Hội và Lục Tổ.
Thần
Hội lúc 13 tuổi từ chùa Ngọc Tuyền ở kinh Nam đến tham
kiến lục tổ. Tổ nói:
-
Thiện trí thức từ xa đến khó nhọc, có mang bản lai theo
không, nếu có thì nhận biết được chủ nhân ông, vậy hãy
nói thử coi?
-
Lấy vô trụ làm gốc, “thấy” là chủ nhân ông.
-
Gã tiểu sa di này sao dám khinh xuất nói vậy?
-
Hòa thượng ngồi thiền thấy hay chẳng thấy?
Lục
tổ hươi gậy đánh cho 3 cái rồi hỏi:
-
Khi ta đánh thì ngươi đau hay không đau?
-
Cũng đau, cũng chẳng đau.
-
Ta cũng thấy, cũng chẳng thấy.
-
Thế nào là cũng thấy, cũng chẳng thấy?
-
Ta thấy là thường thấy những sai lầm của nội tâm ta, nhưng
không thấy phải trái, tốt xấu của người khác. Vì vậy
mới nói cũng thấy, cũng chẳng thấy. Còn người nói cũng
đau, cũng chẳng đau là sao? Nếu ngươi chẳng đau thì
khác chi cỏ cây, sỏi đá? Nếu ngươi đau thì giống kẻ phàm
phu có lòng sân hận. Như ngươi hỏi thấy chẳng thấy là
chấp nhị biên; đau chẳng đau là chấp sinh diệt. Ngươi còn
chưa kiến tánh sao dám dỡn người?
Thần
Hội nghe rồi đảnh lễ sám hối.
(Nhất
Vị Thiền Quyển Nguyệt)
Lời
nói của lục tổ hợp “lý” hợp “cơ” khiến Thần Hội
á khẩu, tự biết mình vô tri do đó lạy tổ 100 lạy và theo
hầu một bên.
715. Trăng soi đáy hồ không lưu dấu
Bóng trúc quét thềm bụi chẳng động.
(Thiền
Ngộ)
Vô
Học Tổ Nguyên (người đời Tống, được Nhật Bản mời
sang truyền dạy Phật pháp, là tổ khai sơn của Viên Giác
tự). Lúc nhỏ nghe một ông tăng ngâm câu này, bèn quyết tâm
xuất gia. Bóng trăng, bóng trúc đều biểu thị tâm đã thoát
ly mọi phiền não, vọng tưởng, đạt tới cảnh giới đại
ngộ.
Muốn
bụi trúc chẳng động thì tâm phải trừ mê hoặc và vọng
tưởng. Thực ra nhất tâm vốn chẳng động. Ánh trăng chiếu
xuống bụi trúc tạo ra bóng trên thềm. Khi gió thổi, bụi
trúc lung lay, bóng trúc trên thềm cũng chuyển động qua lại
như quét thềm. Ánh trăng tuy soi suốt tới đáy hồ nhưng bóng
trăng không để lại một dấu vết nào trong nước. Cả hai
câu trên đều nhấn mạnh đến chẳng động. Chúng ta đều
bị 8 vạn bốn ngàn phiền não quấy nhiễu, vì vậy chúng
ta phải làm chủ lấy mình. Mê hoặc và vọng tưởng chỉ
là hình bóng là ảo tưởng chẳng có thực thể.
716. Để gió thành gió.
Thiền
sư Bảo Triệt ở núi Ma Cốc dùng quạt quạt gió. Lúc đó
có một ông tăng qua đó bèn hỏi:
-
Tánh gió thường trú, chẳng chỗ nào là không có, vì sao thầy
phải dùng quạt?
-
Ngươi tuy biết đạo lý tánh gió thường trú, nhưng chưa biết
chẳng chỗ nào là không có.
-
Vậy sao, thế nào là chẳng chỗ nào là không có?
Đại
sư chỉ phe phẩy quạt, ông tăng bỗng ngộ, vội lạy tạ.
(Thiền
Lý Dữ Nhân Sinh)
Do
áp lực không khí sai biệt mà gió được tạo thành, vì vậy
chỉ cần có không khí là lúc nào cũng có thể có gió. Nhưng
có gió ở một nơi nào cũng cần có điều kiện sai biệt
về áp xuất (duyên khởi). Bảo Triệt phẩy quạt là chỉ
cho ông tăng phải để ý đến cái điều kiện đó.
717. Vàng ròng không đổi sắc.
(Thiền
Ngộ)
Muốn
thử vàng, cho vào lò lửa nó lại càng sáng. Một người đã
tu đạt đến một trình độ nào đó thì sẽ không dễ dàng
bị biến tiết.
718. Sư tử lông vàng biến thành chó.
(Thiền
Ngộ)
Sư
tử là vua trong loài thú chỉ Phật, chó là loài thú nuôi trong
nhà chỉ chúng sinh. Phật vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng
sinh nên hạ sanh ở cõi người.
719. Trong điện Hàm Nguyên hỏi đường đến Trường An.
(Thiền
Ngộ)
Điện
Hàm Nguyên là tên một cung điện ở thành Trường An, đời
Đường. Tâm mình là Phật, đã không hướng vào trong lại
còn hướng ra ngoài mà tìm kiếm.
720. Hoa rụng, nước chẩy bát ngát.
(Thiền
Ngộ)
Hoa
và nước đều vô tâm, bát ngát chỉ sự rộng lớn vô cùng.
Khi làm một việc gì ta đem hết tâm sức mà làm, không loạn
tưởng, không khởi tạp niệm, trạng thái ấy gọi là tam
muội hay vô tâm.
721. Xuân đến, trăm hoa nở vì ai?
(Thiền
Ngộ)
Hoa
nở không phải để cho ngưởi nào thưởng thức, cũng không
phải vì hoa, mà là theo luật tự nhiên. Nếu con người có
thể bỏ được những mưu mô tính toán, cứ thuận theo tự
nhiên mà sống thì sẽ đạt được cảnh giới vô tâm.
722. Quang minh tịnh chiếu biến hà sa.
Có
ông tăng hỏi Vân Môn:
- Quang Minh tịch chiếu biến hà sa.
Ông
tăng chưa dứt lời Vân Môn hỏi lại:
-
Có phải đó là câu của tú tài Trương Chuyết chăng?
(Đó
chính là một câu trong bài kệ của Trương Chuyết học thiền
với Thạch Sương giác ngộ, làm ra).
Ông
Tăng đáp:
-
Dạ! Đúng vậy!
-
Ngươi nói sai rồi!
Về
sau Từ Tâm hòa thượng (1043- 1114) đem câu nói này ra
hỏi :
-
Ông tăng ấy sai ở chỗ nào?
(Vô Môn Quan)
Câu
thơ ấy chẳng phải là của Trương Chuyết sao? Nếu đúng
thì khi ông tăng đáp “Dạ, Đúng vậy” Sao lại nói là ông
ta sai? Nếu lúc đó ông đáp “Không phải! Đó là câu
của con thì có đúng không? Nếu ông tăng quả thực đạt
được cảnh giới giác ngộ, những gì ông ta nói ra đều
coi là của ông vì xuất phát từ tâm ra. Khi đối diện với
chân lý thì đâu còn kể câu nói là của mình hay của người
nữa.
723. Một cọng cỏ.
(Long
Mãn)
Triệu
Châu thiền sư lên pháp đường nói:
-
Tỷ như minh châu trong bàn tay, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến
Hán hiện. Lão tăng lấy một cọng cỏ làm gậy kim cương
sáu trượng, lấy gậy kim cương sáu trượng làm một cọng
cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật.
Có
ông tăng hỏi:
-
Phật là phiền não của nhà nào?
-
Là phiền não của tất cả mọi người.
-
Làm sao tránh phiền não?
-
Cần gì phải tránh!
(Thiền
Cơ)
Minh
châu chỉ tự tánh, vốn không một vật do đó không đi tìm
ở bên ngoài, cũng chẳng lưu hình bên trong; tùy thời, tùy
chỗ dung nhiếp vạn tượng, phản chiếu vạn vật; phàm thánh
biến thành một phiến. Cọng cỏ, phiền não là phàm, gậy
kim cương, Phật là thánh. Lấy phàm làm thánh, lấy thánh làm
phàm, phàm thánh vô ngại. Ông tăng hỏi làm sao tránh được
phiền não là còn phàm thánh sai biệt.
724. Thổi vào tai.
Một
hôm, Duy Kiện ngồi thiền ở pháp đường. Mã Tổ trông thấy
bèn lại bên thổi vào tai hai lượt. Duy Kiện mở mắt ra thấy
Mã Tổ lại nhắm mắt lại nhập định. Mã Tổ về phương
trượng sai thị giả mang một tách trà đến đưa cho Duy Kiện.
Duy Kiện không thăm hỏi, trở về tăng đường.
(Thiền
Cơ)
Đây
là Mã Tổ phá chấp ngồi thiền cho Duy Kiện.
725. Con chó ghẻ.
Thanh
Lương Sơn tương truyền là đạo trường của Văn Thù bồ
tát. Ngài thường thị hiện ở nơi này cưỡi trên sư tử
lông vàng. Có một ông tăng lập chí đến chiêm bái. Từ xa
xôi ngàn dậm, trải qua bao cay đắng khốn khổ cuối cùng
đã tới Ngũ Đài Sơn. Ở dưới chân núi ông gặp một con
chó ghẻ, quanh quẩn đi cùng với ông ba ngày đêm. Mới đầu
ông tăng không để ý, sau đó cảm thấy bị phiền nhiễu
bèn đá cho một đá đuổi đi. Ông cứ đi lên lên, xuống
xuống suốt ba ngày mà chẳng thấy bóng dáng Văn Thù đâu
cả. Thất vọng, ông xuống núi gặp một vị cao tăng và kể
lể tâm sự. Vị cao tăng đề tỉnh ông:
-
Ngươi đã gặp Văn Thù rồi, ngài chính là con chó ghẻ đó!
(Nhất
Vị Thiền, quyển Hoa)
Câu
chuyện này cảnh tỉnh chúng ta, một con chó ghẻ cũng có thể
là Văn Thù bồ tát; vậy đối với vạn sự vạn vật chúng
ta lại không nên có tâm cung kính hay sao?
726. Tổ Bát Nhã Đa La (tổ thứ 27 của Ấn Độ).
Quốc
vương Đông Ấn Độ thiết trai cung dưỡng tổ Đa La. Quốc
vương hỏi:
-
Thầy vì sao không tụng kinh?
-
Bần đạo thở vào không ở trong ấm giới, thở ra chẳng
tiếp chúng duyên, tùy thời tụng thứ kinh này, trăm ngàn vạn
ức quyển.
(Thiền
Lý Dữ Nhân Sinh)
Ấm
giới là chỉ ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), 12
xứ, 18 giới. Câu này ý nói: nếu vì thọ trai mà phải tụng
kinh thì chẳng phải là bị trói buộc ư? Cứ theo tâm không
bị tập quán ô nhiễm mà hành động thì đó là tụng kinh
vậy.
727. Tượng bẩy tấc.
Có
ông tăng người Tứ Xuyên tên là Phương Biện đến bái phỏng
Huệ Năng. Ông nói:
-
Con giỏi nắn tượng.
-
Ông làm thử coi.
Ông
tăng không hiểu, bèn nắn một tượng Huệ Năng cao 7 tấc
rất tinh xảo. Huệ Năng xem rồi bảo:
-
Ông chỉ hiểu cái tánh nắn hình mà chẳng hiểu cái tánh
Phật.
(Thiền
Cơ)
Nắn
hình chỉ hiện tượng giới, tánh Phật chỉ bản thể giới.
728. Nói khẽ chứ.
Pháp
Hội hỏi Mã Tổ:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Nói khẽ chứ! Đi ra đằng trước.
Pháp
Hội bước ra trước, Mã Tổ tát cho ông một bạt tai và nói:
-
Chẳng cùng lục căn thương lượng; ngày mai hãy đến!
Cách
một ngày Pháp Hội lại đến:
-
Thỉnh thiền sư chỉ thị.
-
Tạm thời hãy đi ra, đợi lão thượng đường sẽ chỉ thị
cho ngươi.
Pháp
Hội gật đầu:
-
Đa tạ đại chúng chỉ thị.
Nói
rồi, đi nhiễu quanh pháp đường một vòng, theo lối sau mà
ra.
(Thiền
Cơ)
Mã
Tổ bảo”Nói khẽ chứ”, “Đi ra đằng trước”, tát cho
một bạt tai đều là ám chỉ ông tăng còn có tâm tìm kiếm,
vọng cầu.
729. Xem nước.
Bảo
Triệt và Mã Tổ cùng đi đường, Bảo Triệt hỏi:
-
Đại Niết Bàn là gì?
-
Gấp.
-
Gấp cái gì?
-
Xem nước.
(Thiền
Cơ)
Đại
Niết Bàn chỉ tự tánh. Mã Tổ bảo ông tăng xem nước là
ám chỉ ông phải tự quan sát, tự thể nghiệm.
730. Đập vỡ nồi.
Cam
Chí đặt một chén cháo trên bàn nói:
-
Thỉnh thiền sư niệm kinh.
Nam
Tuyền quay lại chư tăng, bảo:
-
Cam Chí để một chén cháo trên bàn thỉnh đại chúng niệm
kinh A Di Đà.
Cam
Chí nghe rồi lạy mà lui ra.
Nam
Tuyền vào bếp đập vỡ nồi.
(Thiền
Cơ)
Cháo
có niêm tính, tượng trưng sự bị trói buộc. Nam Tuyền đập
vỡ nồi ám chỉ phá bỏ sự trói buộc.
731. Đức Sơn mắng Phật, mắng Tổ.
Đức
Sơn nói:
-
Nơi đây không có Phật, không có pháp, Đạt Ma là lão Hồ
hôi hám, thập địa bồ tát là gã gánh phẩn, đẳng diệu
nhị giác là phàm phu phá giới. Bồ Đề, Niết Bàn là cọc
buộc lừa, mười hai phần giáo là sách quỷ, là giấy lau
mụn mủ, tứ quả, tam hiền, sơ tâm, thập địa chỉ là quỷ
giữ mồ, tự cứu chẳng xong.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Ông
càng chửi càng ác độc, triệt để. Nhưng nếu ta đảo ngược
lại: lão Hồ hôi hám là Đạt Ma, gã gánh phẩn là bồ tát
thập địa. . . thì câu nói mắng Phật, mắng tổ đã
trở thành tán thán phàm phu. Cũng như các câu: Diêm Đề cũng
có Phật tánh, con chó cũng có Phật tánh. Phàm thánh đối
đãi, mắng chửi hay khen ngợi, vướng vào một mặt nào cũng
là chướng ngại. Lục tổ lấy 36 cách phản diện mà đáp,
hỏi thánh lấy phàm đối, hỏi phàm lấy thánh đối, dùng
phản diện mà thông qua phàm thánh, không bị chấp trước,
vượt lên phàm thánh. Đối với thế và xuất thế pháp đều
quán như vậy.
732. Phật là thế nào?
Trường
Khánh Đại An đến tham phỏng Bách Trượng, thi lễ rồi liền
hỏi:
-
Con muốn biết Phật, Phật là thế nào?
-
Giống như cưỡi trâu mà tìm trâu.
(Thiền
Ngoại Thuyết Thiền)
Tự
tánh thanh tịnh, không tìm ở bên ngoài.
733. Thiền là gì?
Có
ông tăng hỏi Nga Hồ Đại Nghĩa:
-
Thiền là gì?
-
Thiền sư lấy tay chỉ vào khoảng không.
(Thiền
Ngoại Thuyết Thiền)
Học
thiền phải như “không”, tức là không chấp gì cả.
734. Thiền là gì? (II)
Có
ông tăng hỏi Mục Châu Trần Tôn Túc:
-
Thiền là gì?
-
Đổ dầu vào lửa.
(Thiền
Ngoại Thuyết Thiền)
Học
thiền cần phải có nghị lực lớn để chống lại cảnh
gây rối.
735. Kẻ cướp không cướp của người nghèo.
Kỳ
Lâm thiền sư thường cầm kiếm gỗ tự xưng là trừ ma, mắng
chửi Văn Thù, Phổ Hiền đều là loài ma quỷ. Khi có ông
tăng nào đến tham phỏng thiền sư liền nói:
-
Ma đến rồi, ma đến rồi!!
Thiền
sư giơ kiếm gỗ múa loạn một hồi rồi trở về phòng phương
trượng. Cứ thế liên tiếp 12 năm, bỗng nhiên buông kiếm
không hò hét nữa. Có ông tăng hỏi:
-
12 năm trước vì sao trừ ma?
-
Kẻ cướp không cướp của người nghèo.
-
12 năm sau vì sao không trừ ma nữa?
-
Kẻ cướp không cướp của người nghèo.
(Thiền
Cơ)
Kỳ
Lâm hò hét và dùng kiếm gỗ để phá chấp về ngẫu
tượng cho chư tăng. Câu trả lời của thiền sư ám chỉ người
nghèo thì thủ phận (tự tánh) còn người giầu thì hay đuổi
theo vật chất bên ngoài đồng thời cũng chỉ ông tăng phải
tự kiến tánh.
736. Phật là thế nào?
Có
ông tăng hỏi Thủ Sơn:
-
Phật là thế nào?
-
Cô dâu mới cưỡi lừa, bà mẹ chồng dẫn đi.
(Thiền
Lý Dữ Nhân Sinh)
Phật
là bản chất của mọi sự việc được kiến lập nên bởi
duyên khởi, không, vô ngã, chưa ô nhiễm. Tuy mỗi sự kiện
tự độc lập, nhưng phải hỗ tương duy trì thì mới tồn
tại được.
Trong
câu nói của Thủ Sơn: cô dâu là vai chính, bà mẹ chồng chỉ
là vai phụ. Bà mẹ chồng tuy dắt lừa cho con dâu nhưng trong
lòng cảm thấy cao hứng, còn cô dâu trong lòng cũng cảm kích.
Qua một đoạn thời gian, đã quen với nếp sống nhà chồng,
cô dâu mới sẽ hầu hạ mẹ chồng, lúc đó mẹ chồng sẽ
lại là vai chính, cô dâu lại trở thành vai phụ. Thiền ngữ
có câu:”Chủ khách lịch nhiên”, ý là chủ và khách hỗ
tương duy trì thì mới có thể tồn tại được.
737. Thân tâm thoát lạc, thoát lạc thân tâm.
(Thiền
Ngộ)
Thoát
lạc có nghĩa là giải thoát. Thân tâm thoát lạc: không còn
một chấp trước nào; thân tâm thanh tịnh, tự do vô ngại,
đạt tới cảnh giới đại ngộ (tự giác hạnh). Tiến lên
bước nữa: thoát lạc thân tâm (giác tha hạnh). Đã đạt
tới cảnh giới giác ngộ tối cao rồi tất phải cứu độ
cho chúng sinh thoát khỏi phiền não.
738. Cá bơi nước đục, chim bay lông rụng.
(Thiền
Ngộ)
Cá
lội qua nước trong, nước trở thành đục. Chim bay trên trời
làm lông bị rụng. Cá và chim đều không cố ý nhưng vẫn
lưu dấu. Dù ta cố dấu những tình cảm (vui, buồn, nổi giận,
sợ hãi) vẫn lộ ra ở lời nói hay hành động. Khi vấn đáp
với đồ đệ dù đồ đệ ngụy trang thế nào sự phụ cũng
phân biệt được sự giác ngộ của đồ đệ là thật hay
giả. Câu nói trên có 2 cách giải thích:
1.
Cá lội làm nước đục, chim bay làm rớt lông: chưa thực
ngộ.
2.
Do nước đục tìm thấy cá, do lông rụng tìm thấy chim.
739. Sông đều chẩy về biển, trăng lặn chẳng lìa trời.
(Thiền
Ngộ)
Dù
sông chẩy theo phương hướng nào, cuối cùng cũng ra biển.
Trăng mọc đằng Đông, lặn đằng Tây nhưng cũng không lìa
bầu trời. Thế gian tuy có phân biệt nam nữ, già trẻ, hiền
ngu, giầu nghèo, nhưng tất cả đều có Phật tánh. Thế giới
tương đối sai biệt đồng thời cũng là thế giới tuyệt
đối vô sai biệt. Sông chẩy về biển, trăng lặn về trời,
người trở về tự tánh.
740. Sáng tối song song.
(Thiền
Ngộ)
Sáng
chỉ buổi sáng, lúc đó có thể phân biệt được hình dạng
mọi vật, chỉ hiện tượng giới sai biệt.
Tối
chỉ ban đêm, lúc đó không thể phân biệt được hình dạng
các vật, chỉ bản thể giới tuyệt đối.
Song
song là chỉ quan hệ hỗ tương, trong sáng có tối, trong tối
có sáng, bình đẳng và sai biệt, hiện tượng và bản thể,
sắc và không.
741. Ngồi Đạo trường trăng, nước; tu không hoa vạn hạnh.
(Thiền
Ngộ)
Đạo
trường là chỗ đức Phật giác ngộ, tức dưới gốc cây
bồ đề, nói chung là chỉ chỗ tu hành.
Tu
không hoa vạn hạnh: cắt đứt tất cả phiền não, vọng tưởng,
đạt được vô tâm. Câu này ý nói người ta phải tu sao cho
giống như nước hoặc trăng, đạt được tự do vô ngại
của cảnh giới vô tâm, triệt ngộ tất cả đều là không
thì mới thoát ly được tâm chấp trước.
742. Ngàn sông cùng một bóng trăng, Xuân đến khắp mọi nhà.
(Thiền
Ngộ)
Dù
là nước sông, nước giếng, ao, hồ, khe, lạch tất cả đều
được trăng soi bóng. Cũng vậy, xuân đến khắp mọi nhà
không kể giầu nghèo. Do đó, chúng ta thấy rằng đại tự
nhiên rất công bằng, vô tư. Lòng từ bi của nhà Phật đối
với chúng sinh cũng vậy: người thiện hay người ác đều
có Phật tánh, vì hành vi thiện hay ác đều cùng do một tâm
mà ra.
743. Vô Tận Tạng.
Một
ông tăng hỏi Hành Xung:
-
Vô tận tạng là thế nào?
Hành
Xung yên lặng không đáp, ông tăng ngây người ra. Hành Xung
bảo:
-
Lại gần đây!
Ông
tăng lại gần.
-
Đi ra!
(Thiền
Cơ)
Ông
tăng hỏi “Vô Tận tạng là thế nào?” là hỏi về tự
tánh; Hành Xung không đáp là ám chỉ hỏi là dư thừa.
744. Lồng đèn là tâm.
Một
ông tăng hỏi Truyền Ân:
-
Kiến sắc là kiến tâm, lồng đèn là sắc, cái nào là tâm?
-
Ngươi không hiểu ý người xưa.
-
Ý người xưa là gì?
-
Lồng đèn là tâm.
(Thiền
Cơ)
Câu
hỏi của ông tăng còn chấp 2 bên, câu đáp của thiền sư
là chỉ sắc tức là Tâm.
745. Đập nước cá sợ.
Có
ông tăng hỏi Chí Ân :
-
Thế nào là thổi lông trên kiếm?
-
Ta tiến, ngươi lùi.
-
Như vậy là đệ tử mất mạng sao?
-
Không đập nước, cá tự sợ.
(Thiền
Cơ)
Nước
chỉ hiện tượng giới, cá chỉ bản thể giới. Câu nói của
thiền sư ám chỉ ông tăng phải tự tu, tự chứng.
746. Cả ngày ăn cơm.
Bách
Trượng nói:
-
Có một người rất lâu không ăn nhưng không nói đói, có
một người cả ngày ăn cơm nhưng không nói no.
Đại
chúng không ai đáp được.
(Thiền
Cơ)
Một
người chỉ tự tánh.
747. Tiếng trống báo giờ ăn.
Đại
chúng đang cuốc đất, bỗng nghe tiếng trống báo giờ ăn.
Một ông tăng vác cuốc lên vai, cười khanh khách trở về
tăng đường. Bách Trượng bảo:
-
Tốt lắm, đó chính là Quán Âm vào cửa.
Thiền
sư về phòng phương trượng cho người gọi ông tăng đó đến,
hỏi:
-
Vừa rồi ngươi thấy đạo lý gì?
-
Vừa rồi con chỉ nghe thấy tiếng trống báo giờ ăn, cho nên
về tăng phòng ăn.
Bách
Trượng ha hả cười lớn.
(Thiền
Cơ)
Quán
Âm vào cửa là do phàm nhập thánh, ông tăng đã thể nghiệm
được cảnh giới này, được Bách Trượng mặc nhiên công
nhận.
748. Một quả hồng.
Một
hôm, Quy Sơn dẫn Ngưỡng Sơn đi chơi núi. Một con chim bay
ngang làm rớt một quả hồng trước mặt 2 người. Quy Sơn
nhặt lên đưa cho Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn dùng nước
rửa sạch rồi trao lại Quy Sơn. Quy Sơn hỏi:
-
Ngươi lấy được từ đâu vậy?
-
Đó là do đạo đức của hòa thượng làm cảm động.
-
Ngươi cũng không thể tay không.
Nói
rồi bẻ quả hồng làm 2, chia cho Ngưỡng Sơn một nửa.
(Thiền
Cơ)
Quả
hồng chỉ tự tánh, dùng nước rửa là trừ bỏ những ô
nhiễm của ngoại duyên.
749. Đập vỡ gương.
Ngưỡng
Sơn lên pháp đường giơ một cái gương Quy Sơn vừa cho, hỏi
đại chúng:
-
Hãy nói coi: là gương Quy Sơn hay là gương Ngưỡng Sơn, nếu
có ai đáp trúng thì gương sẽ không bị đập.
Đại
chúng không ai đáp được, Ngưỡng Sơn bèn đập gương vỡ
tan.
(Thiền
Cơ)
Gương
chỉ tự tánh, làm gì có sai biệt giữa tự tánh của Quy Sơn
và Ngưỡng Sơn, do đó gương phải bị đập vỡ.
750. Đỉnh núi không có người.
Động
Sơn hỏi ông tăng đến tham phỏng:
-
Ngươi từ đâu đến?
-
Đi chơi núi xong, tới.
-
Có lên đỉnh núi không?
-
Có.
-
Đỉnh núi có người không?
-
Không có người.
-
Vậy
là ngươi không lên tới đỉnh.
-
Nếu không lên tới đỉnh làm sao biết không có người?
-
Ngươi vì sao không ở lại đó?
-
Con không ở vì Tây Thiên có người không chịu.
(Thiền
Cơ)
Câu
đáp của ông tăng ám chỉ ông đã vượt qua sự phân biệt
phàm thánh.
751. Khổ nhất .
Động
Sơn hỏi một ông tăng:
-
Ở thế gian này chuyện gì là khổ nhất?
-
Địa ngục.
-
Không đúng.
-
Ý thầy là thế nào?
-
Dưới cái áo này không rõ việc lớn là khổ nhất.
(Thiền
Cơ)
Dưới
áo: chỉ chúng sinh; việc lớn: chỉ tự tánh.
Địa
ngục tuy khổ, nhưng biển khổ của chúng sinh lại còn khổ
hơn.
752. Đắp chăn bông.
Một
ông tăng nằm ngủ, Đạo Ngộ đến đắp chăn bông cho ông.
Ông tăng hỏi:
-
Thầy làm gì đó?
-
Đắp chăn bông.
-
Nằm tốt hay ngồi tốt?
-
Không ở hai chỗ ấy.
-
Vậy sao lại đắp chăn bông?
-
Đừng nói bậy!
(Thiền
Cơ)
Ông
tăng còn chấp tướng nằm, ngồi. Đạo Ngô bảo “Không ở
hai chỗ ấy” và “đừng nói bậy” là ám chỉ ông tăng
phải cởi bỏ sự trói buộc của danh tướng.
753. Đừng bước sai.
Tăng
Mật cùng Động Sơn qua suối. Động Sơn bảo:
-
Đừng bước sai!
-
Nếu sai thì không qua được.
-
Nếu không sai thì sao?
-
Cùng thầy qua suối.
(Thiền
Cơ)
Không
sai chỉ tự tánh, qua suối chỉ sự vượt qua bể khổ.
754. Rồng bị rắn cắn.
Vân
Cư khi ở Long Môn, một hôm có ông tăng bị rắn cắn chân.
Phật
Nhãn hỏi Vân Cư:
-
Đã là Long Môn sao chân lại bị rắn cắn?
-
Quả nhiên hiện đại nhân tướng.
Về
sau Viên Ngộ nghe được chuyện này phê bình:
-
Long Môn có ông tăng này thì Đông Sơn pháp môn chưa bị mất.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Phật
Nhãn ám chỉ “Nếu đã là Long Môn” (người đã giác ngộ)
sao lại bị nhân quả trói buộc (bị rắn cắn chân).
Vân Cư không bị mắc bẫy nên nói “Quả nhiên hiện đại
nhân tướng” là người giác ngộ không phải là được miễn
trừ thống khổ, thoát khỏi trật tự tự nhiên.
755. Hành giả thanh tịnh.
Văn
Thù sở thuyết Bát Nhã kinh nói:
-
Hành giả thanh tịnh chẳng vào Niết Bàn, phá giới tỳ kheo
chẳng đọa địa ngục.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Tiểu
thừa Phật giáo phân biệt có Niết Bàn tự tại và cõi Ta
Bà chướng ngại; còn Đại thừa Phật giáo, nhất là Thiền
tông thì coi sinh tử và Niết Bàn không hai. Do đó phàm thánh,
chân tục, nhiễm tịnh đều bị xóa bỏ. Chúng ta không phải
lìa bỏ, khi loại trừ sự sai biệt và giá trị thì thế giới
trở thành thanh tịnh bản nhiên, gọi là Niết Bàn hay địa
ngục thì cũng là Phật giới, trong đó con gà, con chó, chim
chóc, nghệ nhân, kẻ trộm, nhà buôn, mùa đông mùa
xuân,
tất cả đều hoàn chỉnh viên mãn, tự túc.
756. Lần này gã đã hiểu.
Giáp
Sơn mới đầu trú ở Kinh Khẩu tự, nhân có ông tăng hỏi:
-
Thế nào là pháp thân?
Giáp
Sơn đáp:
-
Pháp thân vô tướng.
-
Thế nào là pháp nhãn?
-
Pháp nhãn không tỳ vết .
Đạo
Ngộ ngồi dưới bật cười, Sơn thỉnh ý, rồi đi tham học
Thuyền
Tử. Và giác ngộ trở về. Đạo Ngô sai một ông tăng đến
hỏi:
-
Thế nào là pháp thân?
-
Pháp thân vô tướng.
-
Thế nào là pháp nhãn?
-
Pháp nhãn không tỳ vết.
Ông
tăng trở về thuật lại cho Đạo Ngộ. Đạo Ngộ nói:
-
Lần này gã đã hiểu rồi.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Cùng
một câu nói nhưng trước khi ngộ và sau khi ngộ có sức nặng
khác nhau. Thế giới “vô tướng” và “không tỳ vết”
là thế giới “pháp nhĩ như nhiên”.
757. Chính tà.
Triệu
Châu có bài kệ:
正
人 說 邪 法
Chính
nhân thuyết tà pháp
邪
法 亦 隨 正
Tà
pháp diệc tùy chính
邪
人 說 正 法
Tà
nhân thuyết chính pháp
正
法 亦 隨 邪
Chính
pháp diệc tùy tà
Người ngay nói pháp tà
Tà pháp liền thành chánh
Người tà nói pháp chánh
Chánh pháp liền thành tà.
(Hương
Thủy Hải)
Người
đã giác ngộ có thể phá tà hiển chánh; tà pháp mà ông xử
dụng chỉ là một thủ đoạn để dẫn tà về chánh.
758. Tuyết phủ ngàn núi.
Có
ông tăng hỏi Tào Sơn:
-
Tuyết phủ ngàn núi, tại sao cô phong lại không trắng?
-
Ngươi nên biết khác lạ trong khác lạ.
-
Khác lạ trong khác lạ là gì?
-
Cô phong có mầu khác với các núi khác.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Con
người phải tuân theo luật tự nhiên (tuyết phủ ngàn núi);
tại sao người giác ngộ lại khác (cô phong lại không trắng).
Tào Sơn thừa nhận có sự sai biệt ấy (Cô phong có mầu khác
với các núi khác).
759. Tỳ Bà Thi Phật.
Tỳ
Bà Thi Phật sớm đã lưu tâm, nhưng cho đến nay vẫn chưa
“đắc diệu”.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
“Đắc
diệu” là chỉ nhận thức được sự vật như chính nó (pháp
nhĩ như nhiên). Còn cách hiểu khác nữa là lời nói của Tỳ
Bà Thi Phật có nghĩa là dù dụng công tu hành thế nào, dù
dùng bao thời gian cũng khó mà đạt tới cảnh giới tuyệt
đối viên mãn, ám chỉ Đạo có nhiều mặt hoặc nhiều giai
đoạn.
760. Nam Tuyền Di Hóa.
Tam
Thánh sai Tú thủ tọa đến hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
-
Nam Tuyền mất rồi, đi về đâu?
-
Thạch Đầu khi còn là sa di có đến tham lục tổ.
-
Không hỏi thời còn là sa di, chỉ hỏi Nam Tuyền mất rồi
đi đâu?
-
Đi mà hỏi Nam Tuyền.
-
Hòa thượng tuy có hàn tùng ngàn trượng, nhưng chẳng có mụt
măng đá nào.
Trường
Sa im lặng.
-
Tạ ơn câu đáp của hòa thượng.
Thiền
sư vẫn im lặng. Tú thủ tọa về thuật lại cho Tam Thánh
nghe. Tam Thánh bảo:
-
Nếu quả như vậy, Trường Sa còn hơn Lâm Tế đến 7 bước.
Đợi ngày mai ta sẽ tới coi.
Hôm
sau tới , hỏi:
-
Nghe hòa thượng hôm qua đáp câu hỏi về Nam Tuyền di
hóa
thật là vô tiền khoáng hậu, cổ kim hiếm có.
Trường
Sa vẫn im lặng.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
hỏi của Tam Thánh là một cái bẫy huyền học; câu đáp của
Trường Sa dẫn một sự kiện có thật trong quá khứ nhưng
chẳng liên quan gì đến câu hỏi cũng như Tú thủ tọa đề
cập đến một sự kiện có thật trong quá khứ nhưng
chẳng có quan hệ gì đến tình huống hiện tại. Tú thủ
tọa không hiểu câu trả lời của Trường sa nên truy vấn
về vấn đề Nam Tuyền di hóa, do đó Trường Sa chỉ cho ông
chỗ mà ông phải đến mà hỏi. Câu nói của Tú thủ tọa
đề cập đến Hàn tùng và măng đá không được rõ ràng.
Có thể ông ám chỉ Thiền của Trường Sa không thể lay chuyển
nhưng vẫn chưa đủ vi diệu hoặc thiền của Trường Sa đã
hoàn toàn nhưng chưa đủ rõ ràng. Đối với lời nói của
Tú thủ tọa và Tam Thánh, Trường sa chỉ im lặng. Cái im lặng
này là lối trả lời khôn ngoan cho cái bẫy huyền học “sau
khi mất”.
761. Thọ Tháp của Sơ Sơn.
Ông
tăng chủ sự xây thọ tháp cho Sơ Sơn xong bạch với thiền
sư; Sơ Sơn hỏi:
-
Ngươi định trả thợ bao nhiêu tiền?
-
Toàn do thầy định đoạt.
-
Cho ba đồng, hai đồng hay một đồng hơn? Nếu ngươi không
trả lời được ta tự xây tháp.
Chủ
sự tăng kinh ngạc. Có ông tăng đem chuyện trên kể lại cho
La Sơn đang trú ở Đại Dữu Lãnh (ở giáp giới 2 tỉnh Quảng
Đông và Giang Tây) nghe. La Sơn hỏi:
-
Có người nào trả lời được không?
-
Chưa có ai trả lời được.
-
Hãy về bảo Sơ Sơn: Nếu thầy cho 3 đồng thì kiếp này thầy
không có tháp; nếu thầy cho 2 đồng thì thầy và thợ đều
giơ một tay ra, nếu thầy cho một đồng thì thầy và thợ
đều rụng lông mày và râu.
Ông
tăng về kể cho Sơ Sơn nghe. Sơ Sơn hướng về Đại Dữu
Lãnh lạy và nói:
-
Tưởng rằng không người, ai ngờ có cổ Phật ở Đại Dữu
Lãnh
phóng
quang đến tận đây. Tuy nhiên đó là hoa sen nở vào tháng
chạp.
La
Sơn nghe được câu nói này , bèn bảo:
-
Khi ta nói thế, lông rùa sớm đã mọc dài vài thước.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
hỏi của Sơ Sơn “Ngươi định trả thợ bao nhiêu tiền?”
là lượng định để trả công thợ, ông tăng không chú trọng
đến việc xây cất chỉ tỏ vẻ kính trọng lão sư. Sơ Sơn
làm ông tăng điên đầu với câu hỏi: 3, 2, 1 đồng. Câu nói
của La Sơn chỉ rằng ông đã hiểu ý Sơ Sơn. Trong việc giao
tiếp hàng ngày, chúng ta phải đối diện với sự phân biệt
và lượng giá, điều đó không có nghĩa là chúng ta phải
suy tư, phân tích vượt lên trên tình trạng thực sự xẩy
ra. Phải trả bao nhiêu tiền thì trả bấy nhiêu, không cần
dụng tâm.
Sơ
Sơn rất thưởng thức câu đáp của La Sơn, do đó rất khen
ngợi. Nhưng câu “Đó là hoa sen nở vào tháng chạp” (quá
thời), ám chỉ câu đáp hay tuy nhiên nên có câu đáp đúng
lúc và tất cả câu chuyện trên nên xếp vào quá khứ. La
Sơn nghe được câu nói tỷ dụ “hoa sen nở vào tháng chạp”
nên đáp lại bằng câu “Lông rùa sớm đã dài vài thước”
chỉ rằng chuyện đã lỗi thời mà lại còn dư thừa nữa.
762. Vào rừng không lay cỏ
Vào nước chẳng tạo sóng.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Nếu
tiến được vào tam muội, đạt được cảnh giới tuyệt
đối thì có thể siêu việt được thế giới hiện tượng.
763. Mười phương không ảnh tượng
Ba giới tuyệt hành tung.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Khi
tâm đã triệt ngộ thì không còn hình ảnh, không lưu lại
một dấu vết nào.
764. Hổ đá nuốt dê gỗ.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Người
đạt ngộ vượt lên sự suy nghĩ và phân biệt của thế gian.
765. Hoa đàm dễ thấy.
Tri thức khó gập.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Gập
được thiện tri thức thì phải cố gắng học hỏi. Đó là
cơ hội hiếm có, còn khó hơn cả xem hoa ưu đàm mà 3 ngàn
năm mới nở một lần.
766. Sắc Xuân không cao thấp
Cành hoa có ngắn dài.
(Thiền
Lâm Tuệ Ngữ)
Trong
bình đẳng có sự sai biệt.
767. Trong bầu, ngày tháng dài.
(Thiền
Ngộ)
Đây
là chỉ ngộ cảnh siêu việt cả thời không; dẫn từ một
tích của Đạo giáo. Phí Trường Phòng khi ở Nhữ Nam, ở
trên một căn gác ở chợ thấy một ông lão bán thuốc khi
chợ tan, nhẩy vào quả bầu treo ở đầu gậy. Phí làm quen
và được ông lão mời vào bầu, thấy trong đó đền đài
tráng lệ, được ông lão tiếp đón nồng hậu. Khi trở về
thì thời gian đã quá mấy năm rồi.
768. Hoa tàn cây không bóng.
(Thiền
Ngộ)
Mùa
thu tới, hoa lá đều tàn rụng. Cây xanh biến thành cây khô
không còn hoa lá, cũng không cho bóng râm nữa. Trong Thiền học
hoa, lá thường dùng để chỉ phiền não, vọng tưởng. Câu
này chỉ sự giác ngộ thực sự.
769. Cá nhẩy ba bậc biến thành rồng.
(Thiền
Ngộ)
Vua
Thuấn sai Cổn trị lụt, Cổn thất bại bị giết. Con của
Cổn là Vũ nối tiếp công việc của cha và thành công. Ở
Long Môn Sơn, miền thượng lưu của Hoàng Hà nước chẩy siết,
Vũ ngăn sông thành 3 đoạn để điều khiển sức nước. Vào
tháng ba mùa Hoa Đào, cá tụ tập ở Long Môn Sơn rất nhiều.
Theo truyền thuyết con nào vượt được 3 cấp sẽ hóa thành
rồng hô phong hoán vũ mà bay lên trời. Câu này ý nói tự
nỗ lực tu hành sẽ đạt được giác ngộ.
770. Một hạt bụi vào mắt, không hoa rơi loạn
(Thiền
Ngộ)
Hạt
bụi chỉ phiền não; không hoa chỉ vọng tưởng (ngước mắt
nhìn lâu lên trên không hoặc lấy tay ấn vào mắt ta thấy
những đốm sáng gọi là không hoa). Nếu tâm còn tạp niệm
hoặc một chấp trước nào dù rất nhỏ cũng làm cho vọng
tưởng nổi dậy.
771. Chánh Pháp mật phó.
Phong
Huyệt khi làm viên đầu ở thiền viện Nam Viện, một hôm
đang làm ruộng, Nam Viện tới nơi hỏi:
-
Ngươi từ phương Nam lại, phương Nam dùng gậy làm sao thương
lượng?
-
Thương lượng tốt.
Rồi
Phong Huyệt hỏi ngược lại:
-
Nơi đây thì sao?
Nam
Viện nắm chặt gậy bảo:
-
Dưới gậy không sinh nhẫn, gập cơ hội chẳng nhường thầy.
Lại
bảo thêm:
-
Ngươi đã thâm giải Phật pháp, đó không phải là ngẫu nhiên
mà là ngươi đã ngộ. Ngươi có nghe chuyện Lâm Tế lúc lâm
chung không?
-
Có nghe.
-
Đại sư nói:”Không ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị
con lừa
này
mà tiêu diệt.” Bình thường đại sư là một con sư tử
hung ác sao lúc lâm chung lại khuất tất như vậy?
-
Chánh pháp mật phó.
-
Vậy tại sao Tam Thánh lại yên lặng?
-
Vì ông ta đã có thể kế thừa mật phó.
(Phật
Dữ Thiền)
Chánh
pháp nhãn tạng là thanh tịnh pháp nhãn, thiền gia dùng để
ấn tâm.
772. Giá gạo ở Lô Lăng.
Có
ông tăng hỏi Thanh Nguyên Hành Tư:
-
Thế nào là đại ý của Phật pháp?
-
Ở Lô Lăng, giá gạo là bao nhiêu?
(Thiền
Tông Dật Sự)
Lô
Lăng là nơi sản xuất gạo nổi tiếng, cũng có thể là ông
tăng từ Lô Lăng tới. Câu trả lời của Hành Tư dường như
chỉ là câu chuyện trong sinh hoạt hàng ngày. Ông không thích
nói những lý lẽ cao thâm, cũng không ưa tranh cãi ồn ào.
Nếu Phật pháp ly khai khỏi sinh hoạt thường ngày thì không
còn ý nghĩa nữa.
773. Thạch Đầu Hy Thiên.
Có
một lần, Hoài Nhượng sai một ông tăng đến hỏi Hy Thiên:
-
Khi nói thoát ly phiền não, vậy thế nào là trói buộc?
-
Ai trói buộc ngươi?
-
Thế giới Phật thanh tịnh là gì?
-
Ai làm ngươi ô nhiễm?
-
Ngộ là thế nào?
-
Ai làm ngươi mê hoặc?
(Thiền
Tông Dật Sự)
Ai
trói buộc mình, ai làm mình ô nhiễm, ai làm mình mê hoặc?
Kỳ thực tất cả đều do tâm mình.
774. Đầu bếp.
Quy
Sơn đang gõ mõ, hỏa đầu phu đặt que cời bếp xuống, vỗ
tay cười lớn. Quy Sơn lấy làm lạ tự hỏi sao trong đại
chúng lại có người như vậy, bèn kêu hỏa đầu phu lại
hỏi:
-
Ngươi có ý gì vậy?
-
Con không ăn cháo, bụng đói, thấy vui như vậy.
Quy
Sơn chỉ im lặng gật đầu.
(Thiền
Cơ)
Tương
tự công án 767, hỏa đầu phu nghe tiếng mõ đã tiến vào
thánh cảnh.
775. Ý Tổ Sư.
Một
ông tăng hỏi Già Trí:
-
Ý tổ sư từ Tây qua là gì?
-
Đợi ngươi từ bên ấy qua, ta sẽ bảo.
(Thiền
Cơ)
Thiền
sư ám chỉ ông tăng tự thể nghiệm tự tánh.
776. Nhất Tự Thiền.
Có
ông tăng hỏi Hiển Giáo:
-
Thế nào là cắt đứt một đường (nhất lộ)?
-
Cắt.
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
-
Khổ.
-
Thế nào là tự kỷ của con?
-
Mất.
(Thiền
Cơ)
Trong
Nhất Tự Thiền, thiền sư chỉ trả lời bằng một chữ,
có tác dụng như một tiếng hét, cắt đứt nghi vấn, suy luận
của người hỏi. Nếu cứ theo thường lý mà phân tích thì
là chấp mê vậy.
777. Giống cây khổ luyện.
Có
ông tăng hỏi Chân Giác:
-
Dưới gốc bồ đề, cứu độ chúng sanh, thế nào là cây
bồ đề?
-
Giống như cây khổ luyện.
-
Tại sao lại giống cây khổ luyện?
-
Không phải ngựa tốt thì tất là phải dùng roi.
(Thiền
Cơ)
Nếu
là ngựa hay, thì không phải dùng roi ngựa cũng tự chạy,
ám chỉ ông tăng phải tự tham, tự chứng.
778. Mời vào lồng đèn.
Ngưỡng
Sơn hỏi Linh Thông:
-
Ngươi tên gì?
-
Linh Thông.
-
Mời vào lồng đèn.
-
Đã vào rồi.
(Thiền
Cơ)
Lồng
đèn chỉ tự tánh.
779. Tên bán muối rong.
Triệu
Châu hỏi một ông tăng mới đến:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Từ phương Nam tới.
-
Còn biết Triệu Châu quan không?
-
Còn biết có người không qua Triệu Châu quan.
-
Tên bán muối rong này!
(Thiền
Cơ)
Triệu
Châu quan chỉ 3 quan của Thiền tông là: sơ quan, trùng quan
và lao quan. Ông tăng tự tham, tự ngộ cần phải có một thiền
sư có kiến địa ấn chứng nếu không thì sẽ giống một
tên bán muối rong.
780. Xách bình.
Quy
Sơn giao cho Ngưỡng Sơn một tịnh bình, Ngưỡng Sơn giơ tay
ra nhận, Quy Sơn rụt tay lại hỏi:
-
Là cái gì?
-
Thầy còn thấy cái gì?
-
Vậy, sao còn cầu ta?
-
Tuy vậy, xách bình múc nước là bản phận sự của con.
Quy
Sơn liền giao tịnh bình cho Ngưỡng Sơn.
(Thiền
Cơ)
Tịnh
bình chỉ tự tánh. Đây là Quy Sơn ấn chứng cho Ngưỡng Sơn
theo ý nghĩa truyền đăng.
781. Ta không bao giờ nói.
Một
ông tăng hỏi Giáp Sơn:
-
Nghe nói thầy có câu: “Ta trú ở núi này 20 năm chưa hề
đề cập đến chuyện tông môn.” Có phải không?
-
Phải.
Ông
tăng liền lật thiền sàng; Giáp Sơn bỏ đi.
Hôm
sau phổ thỉnh đào một cái huyệt, sai thị giả mời ông
tăng đặt câu hỏi hôm trước ra. Giáp Sơn bảo ông:
-
Lão tăng 20 năm qua chỉ nói “Không” nay thỉnh ông đập
chết lão tăng và vùi xuống huyệt này; nếu không ông hãy
tự đập chết mình và chôn ở đây.
Ông
tăng vội thu xếp hành trang và bỏ đi.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
nói của Giáp Sơn có nghĩa là: Ta chưa hề nói về Thiền.
Ông tăng lật thiền sàng có ý là câu nói “Chưa nói về
Thiền” là đã nói về Thiền rồi. Cũng có thể hiểu là
ông tăng trách Giáp Sơn không dạy Thiền. Dĩ nhiên Giáp Sơn
không có ý nói là không dạy Thiền mà là chỉ không nói về
Thiền. Khi lật đổ thiền sàng ông tăng nhấn mạnh Giáp Sơn
không xứng đáng làm thầy. Giáp Sơn cảm thấy mình không
đáng bị chỉ trích nặng như thế nên khai chiến với ông
tăng. Ông tăng không có đủ lý do để giết Giáp Sơn, cũng
không đủ cơ trí để thoát chết nếu không giết Giáp Sơn
chỉ còn cách bỏ đi.
782. Thế nào là:
Một sợi lông nuốt biển lớn
Một hạt cải đựng núi Tu Di.
(Chích Thủ Chi Thanh)
Công
án này diễn tả triết lý của kinh Hoa Nghiêm: Tất cả là
Một.
783. Người sáng mắt rơi xuống giếng.
Một
ông tăng hỏi Ba lăng:
-
Thế nào là Đạo?
-
Người sáng mắt rơi xuống giếng.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Ông
tăng hỏi Đạo, tâm còn chấp trong việc cầu Đạo có một
phương pháp có thể phân biệt rõ ràng thế nào là Chánh Đạo
và Tà Đạo. Ba Lăng ám chỉ nếu dùng phương thức có ý thức
(người sáng mắt) để cầu Đạo thì không được Đạo (rơi
xuống giếng).
784. Cẩn thận!
Hàn
Sơn nói:
-
Cẩn thận, cẩn thận: ba giới luân hồi!
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Hàn
Sơn ám chỉ lúc nào cũng phải cẩn thận mọi hành vi của
mình sợ bị nhân quả báo ứng.
785. Ba bệnh của Pháp Thân.
Càn
Phong thượng đường nói:
-
Pháp Thân có 3 loại bệnh, 2 loại ánh sáng cần phải thông
qua trước khi giác ngộ.
Vân
Môn bước ra thưa:
-
Người trong am vì sao không biết việc ngoài am?
Càn
Phong cười ha hả; Vân Môn nói:
-
Học nhân vẫn còn nghi.
-
Tâm hạnh ngươi là sao?
-
Xin thầy chỉ cho biết.
-
Phải quan sát tỉ mỉ mới tỏ ngộ được.
-
Dạ! Dạ!
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Càn
Phong nói về tự kỷ (pháp thân) quá lý thuyết. Vân Môn bất
mãn với phương thức ấy nên ám chỉ: thay vì biện luận
về giáo lý thì nên biết một chút về thực tướng của
thế giới (chuyện ngoài am). Càn Phong cười là đồng ý và
khen ngợi Vân Môn. Vân Môn chấp nhận lời khen và uyển chuyển
khen ngợi kiến thức của Càn Phong.
786. Tặc cơ của Quan Sơn.
Quan
Sơn nói:
-
Chuyện cây bách có tặc cơ.
(Chích
Thủ chi Thanh)
Câu
nói của Quan Sơn khen ngợi sự thấu triệt và hiệu quả nhanh
chóng của công án “cây bách trước sân” của Triệu Châu.
787. Núi Đông đi trên nước.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Chỗ xuất thân của chư Phật là thế nào?
-
Núi Đông đi trên nước.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Nếu
câu nói đề cập đến xuất xứ của Đức Phật lịch sử
thì không liên quan gì với chúng ta và cũng không quan trọng.
Nhưng nếu ông tăng hỏi Phật tánh hay pháp thân Phật thì
đó là một cái bẫy huyền hoặc. Vân Môn dùng một câu nói
phi lý để trả lời là chọc quê ông tăng và bác bỏ cả
hai ý của câu hỏi.
788. Chẳng rời đương niệm.
Vô
biên sát thổ ta, người chẳng cách một sợi lông; mười
đời xưa nay đầu cuối chẳng rời đương niệm.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Câu
này diễn tả triết lý Nhất nguyên của tông Hoa nghiêm, đem
quan niệm “Viên mãn tự túc” diễn thành lời.
789. Rùa là ba ba.
Một
ông tăng hỏi Hương Lâm Viễn thiền sư:
-
Thế nào là ngọn đèn trong thất?
-
Ba người làm chứng con rùa là con ba ba.
(Chích
Thủ chi Thanh)
Câu
hỏi của ông tăng là hỏi về thật tướng tuyệt đối (chân
lý). Câu đáp của Hương Nghiêm ám chỉ không có chuyện đó.
790. Sám hối.
Một
tín đồ hỏi Phổ Giao:
-
Tu sám hối pháp môn là vì mình mà sám hối hay vì người
mà sám hối? Nếu vì mình, thì tội lỗi mình từ đâu tới?
Nếu vì người thì người không phải là mình vì sao mình
có thể sám hối cho họ?
Phổ
Giao không trả lời được, bèn vân du tham phỏng, hy vọng
tìm được giải đáp cho vấn đề này. Một hôm đến Lặc
Đàm. Chân vừa bước vào cửa, Lặc Đàm liền hét lớn: “A!”
Phổ
Giao không hiểu ý nghĩa của tiếng hét, nhưng nghĩ mình đến
hỏi Đạo nên định mở miệng hỏi thì Lặc Đàm dùng gậy
đánh. Phổ Giao không hiểu sao chỉ đành nhẫn nại. Vài ngày
sau
Lặc
Đàm bảo Phổ Giao:
- Ta có công án của cổ đức muốn cùng ông thương lượng.
Phổ
Giao định mở miệng nói “Được” thì Lặc Đàm lại hét
“A!” Phổ Giao ngay đó giác ngộ bèn cười ha hả. Lặc Đàm
bước xuống thiền sàng nắm tay Phổ Giao hỏi:
-
Ông hiểu Phật pháp không?
Phổ
Giao hét lên “A!” và rụt tay lại. Lặc Đàm ha hả cười
lớn.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Nói
về pháp môn sám hối thì có tầng lớp nông, sâu: tác pháp
sám, công đức sám, vô sinh sám. . .
Có
bài kệ:
Tội khởi từ tâm, nếu diệt tâm, thì tội sẽ mất;
Tâm, tội đều không thì đó mới là chân sám hối.
Vì
mình sám hối cũng vì người sám hối. Vì người sám hối
cũng vì mình sám hối. Ta người không hai, sự lý là một;
hà tất phải ly khai mình và chúng sanh? Nếu nói về tội nghiệp,
thì ở sự tướng đương nhiên có tội, có nghiệp. Có nghiệp
thì có báo. Nhưng ở bản thể giới thì làm gì có giả danh
tội nghiệp? Tiếng “A!” là thiện hay ác? là thường hay
đoạn? là mình hay người? Sự phân biệt của chúng sanh ở
trong chân lý là không phân biệt.
791. Việc dưới áo nạp.
Một
ông tăng hỏi Vân Môn Hải Yến:
-
Thế nào là sự dưới áo nạp?
-
Như nhai đá cứng.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
Xuất
gia cầu giải thoát không phải là chuyện dễ dàng, cần kiên
trì không lười biếng.
792. Thế nào là Đạo.
Một
ông tăng hỏi Quy Sơn Linh Hựu:
-
Thế nào là Đạo?
-
Vô tâm là Đạo.
-
Con không hiểu.
-
Hiểu cái không hiểu là tốt.
-
Thế nào là cái không hiểu?
-
Chính là ngươi không là ai khác.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
Điều
cốt yếu là minh bạch tự tánh.
793. Khay vỡ.
Một
thiền sư sống 30 năm trong một am nhỏ. Ông dùng 1 cái khay
làm bằng đất sét nung. Một hôm, một đệ tử vô ý làm
bể. Sau đó, mỗi ngày thiền sư đều đòi khay, nhưng mổi
khi đồ đệ đưa một cái khay mới ra ông đều ném đi và
bảo:
-
Không phải! Hãy trả cái cũ lại cho ta.
(Zen
Koans)
Cái
khay tượng trưng cho cái gì? Có lẽ là cái tâm thanh tịnh
của thiền sư. Người đệ tử nhiều lần mang cái khay mới
ra, nhưng sư phụ đều ném đi. Ông không muốn cái khay; ông
muốn đệ tử mang trả ông cái tâm thanh tịnh. Người đệ
tử chấp vào cái khay nhưng ông thầy già thì không.
794. Khâm Sơn ăn gậy.
Khâm
Sơn cùng Nham Đầu, Tuyết Phong đến Đức Sơn, hỏi:
-
Thiên Hoàng nói thế, Long Đàm cũng nói thế; không biết Đức
Sơn nói thế nào?
(Thiên
Hoàng là sư phụ của Long Đàm, Long Đàm là sư phụ của Đức
Sơn)
-
Cho ta biết Thiên Hoàng và Long Đàm nói thế nào?
Khâm
Sơn định nói, Đức Sơn bèn đánh.
Khâm
Sơn trở về Diên Thọ đường phàn nàn:
-
Phải thì phải, nhưng đánh ta thì hơi quá.
Nham
Đầu bảo ông:
-
Nếu như vậy thì đừng nói đã gặp Đức Sơn.
(Chích
Thủ Chi Thanh)
Khâm
Sơn đưa ra cái bẫy cho Đức Sơn biểu thị sư phụ và sư
công của Đức Sơn đều cùng nói thiền một phương cách;
do đó ông hỏi Đức Sơn làm sao nói? Đức Sơn không những
từ chối nói thiền của mình mà còn đòi Khâm Sơn nói. Bất
luận Khâm Sơn nói thế nào đều bị ăn gậy, vì sao? Vì ở
đây là nói về Thiền chứ không phải là Thiền. Nham Đầu
đã hiểu đạo lý của Đức Sơn, còn Khâm Sơn thì chưa.
795. Lỗ Tổ xoay mặt vào vách.
Khi
có ông tăng hoặc cư sĩ nào đến tham học, Lỗ Tổ đều
xoay
mặt
vào vách. Bạn đồng môn là Nam Tuyền chỉ trích phương pháp
này:
-
Ta bảo chư tăng hãy đặt mình vào thời trước khi Đức Phật
ra đời, nhưng ít người thực sự hiểu Thiền ý; chỉ cho
họ xoay mặt vào vách như Lỗ Tổ chả mang lại lợi ích gì.
(Zen
Koans)
Xưa
nay truyền thông là một vấn đề lớn của đời sống, trong
thế giới thương mại cũng như trong Thiền. Có 2 loại truyền
thông: một là ở mức độ dữ kiện, (thí dụ: Tôi sẽ đến
vào 10 giờ sáng mai), hai là ở mức độ cảm giác. Nam Tuyền
chỉ trích phương pháp của Lỗ Tổ, bởi ngay cả khi ông giảng
thì cũng chỉ một số ít đệ tử lãnh ngộ được chân lý,
vì vậy phương pháp của Lỗ Tổ không tốt chút nào. Nhưng
con người càng ngày càng trở nên lười suy nghĩ, ít sáng
tạo vì vậy phương pháp của Lỗ Tổ có lẽ tốt hơn. Khi
một đệ tử đến tham học thiền sư lập tức xoay mặt vào
vách, đệ tử không thể làm gì khác ngoài ngồi yên lặng.
Ông có cơ hội thiền ngay đó vì thầy đang thiền. Do đó
người đệ tử có thể nội quán và tự làm sáng tâm mình
thay vì nhận những lời giải thích từ bên ngoài.
796. Niệm Phật.
Có
tọa chủ ngồi niệm “Nam Mô A Di Đà Phật.” Một chú tiểu
gọi “Hòa thượng.” Tọa chủ ngoảnh đầu lại, chú tiểu
không nói năng gì. Cứ thế 3, 4 lần, hòa thượng gắt:
-
Ngươi kêu 3, 4 lần có chuyện gì vậy?
-
Hòa thượng gọi Phật 3, 4 năm thì được, con chỉ gọi thầy
có 3, 4 lần đã bị mắng rồi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Câu
truyện cười trên hoài nghi việc niệm Phật hiệu, khiến
người ta phát tâm đi tìm Phật chân chánh, do đó được coi
là có thiền ý.
797. Soi bóng mặt hồ.
Một
ông tăng hỏi Đơn Hà:
-
Phật là gì?
-
Soi bóng mặt hồ trong, chẳng phải Phật thì là ai?
(Niêm
hoa vi tiếu)
Đơn
Hà thường dùng những lời đơn giản nhất để giải thích
những mê vọng của người đời.
798. Nghi.
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Khi con nghi thì sao?
-
Nghi lớn hay nghi nhỏ?
-
Nghi lớn.
-
Nghi lớn thì đến Bắc giác, nghi nhỏ thì ra sau tăng đường.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Ông
tăng nói mình nghi lớn là ám chỉ mình đã đại ngộ, nhưng
Triệu Châu thấy ông chỉ là con vẹt nói tiếng người. Do
đó Triệu Châu lợi dụng tiếng đồng âm nghi là nghi ngờ
với Nghi là tiện nghi, ám chỉ ngươi chỉ là tên tục tử
tạo cứt, tạo đái, vì người chân chánh giác ngộ ngay lúc
đại nghi liền vô nghi.
799. Tiếng hét nặng bao nhiêu?
Hàn
Lâm học sĩ Tô Đông Pha rất thích Thiền học. Nhân bàn về
tình và vô tình cùng viên chủng trí rồi, tự giác có chỗ
ngộ. Do đó, làm 3 bài kệ diễn tả cảnh giới lúc chưa tham
thiền, lúc tham thiền và lúc ngộ đạo.
Bài
1:
橫
看 成 嶺 側 成 峯
Hoành
khán thành lãnh trắc thành phong
遠
近 高 低 皆 不 同
Viễn
cận cao đê giai bất đồng
不
識 廬 山 真 面 目
Bất
thức lư sơn chân diện mục
只
緣 身 在 此 山 中
Chỉ
duyên thân tại thử sơn trung
Ngó ngay thành dẫy, xéo thành chỏm
Cao thấp gần xa mỗi chẳng đồng
Chẳng rõ Lô Sơn mày mặt thật
Muốn biết chỉ cần vô núi trông.
(Hân
Mẫn dịch)
Bài
2:
廬
山 煙 雨 浙 江 潮
Lư
sơn yên vũ Chiết giang triều
未
到 千 般 恨 不 消
Vị
đáo thiên bàn hận bất tiêu
到
得 原 來 無 別 事
Đáo
đắc nguyên lai vô biệt sự
廬
山 煙 雨 浙 江 潮
Lư
sơn yên vũ Chiết giang triều
Khói ngút non Lô, sóng Chiết Giang
Khi chưa đến đó luống mơ màng
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non Lô, sóng Chiết Giang.
(Trúc
Thiên dịch)
Bài
3: Xem bài kệ chữ Hán ở công án 440.
Suối reo vẫn pháp âm bất tuyệt
Mầu non kia chân thể Như Lai
Đêm đó tám vạn, bốn nghìn kệ
Ngày sau nói lại làm sao đây?
(Tuệ
Sĩ dịch)
Tô
Đông Pha từ sau khi có thiền ngộ đó rồi, đối với thiền
học tự cho là mình cao thâm. Một hôm nghe nói ở chùa Ngọc
Tuyền, Kinh Nam có thiền sư Thừa Hạo thiền phong sắc bén,
cơ phong thâm diệu khôn lường; trong lòng không phục, bèn
thay áo đến thử thiền công của Thừa Hạo. Vừa gặp mặt
liền hỏi:
-
Nghe nói thiền ngộ của thiền sư rất cao; xin hỏi thiền
ngộ là gì?
Thừa
Hạo không đáp, hỏi ngược lại:
-
Xin hỏi tánh danh tôn quan?
-
Tánh cân, cân hết thảy các cân của trưởng lão trong thiên
hạ.
Tô
Đông Pha cho là câu trả lời của mình cao minh, đắc ý không
cùng. Thừa Hạo hét một tiếng lớn rồi hỏi:
-
Xin hỏi, tiếng hét này nặng bao nhiêu?
Tô
Đông Pha không trả lời được, khâm phục, lạy rồi đi.
(Nhất
vị Thiền: quyển Phong)
Bài
kệ 1: là lúc chưa tham thiền, còn bị giả tướng mê hoặc.
Từ chỗ đứng khác nhau mà nhìn thì thấy Lô Sơn khác nhau.
Vậy chỉ nương vào vào thấy nghe thì không thể đạt tới
chân tướng của sự vật. Từ quan điểm sai biệt mà nhìn
vạn vật thì sự vật đều tồn tại độc lập nhưng nếu
nhìn từ quan điểm bình đẳng thì vạn vật với ta chỉ là
một.
(Nhật
chủng Nhượng sơn)
Bài
kệ 2: là đã tham thiền nhưng chưa ngộ, còn bị mây núi che
mờ lối đi. Suy đi tính lại, không cam tâm, quay đầu lại
mới biết Lô sơn ở trong đám sương mù đó, trừ bỏ suy
nghĩ mới biết ăn là ăn, ngủ là ngủ.
(Tinh
Vân đại sư)
Bài
kệ 3: là đã ngộ, nghe tiếng suối reo cũng như tiếng Phật,
tướng lưỡi rộng dài là 1 trong 32 tướng của Phật, là
chỉ lúc Phật thuyết pháp. Mầu núi là thanh tịnh thân tức
Pháp Thân. Nếu tưởng như vậy thì 4 vạn, 8 ngàn phiền não
đều là Phật ngữ.
(Bình
Điền Tinh Canh)
800. Phật Thủ.
Phật
Thủ hành nhân thiền sư, một hôm bảo đại chúng:
-
Đúng ngọ hôm nay ta sẽ đi.
Đến
trưa, một ông tăng vào thưa:
-
Đúng ngọ rồi!
Thiền
sư xuống giường, đi vài bước rồi đứng mà hóa.
(Cao
tăng truyện)
801. Kinh Triệu.
Kinh
Triệu Trí Huy thiền sư là bạn cũ của tiết độ sứ
Vương Ngạn Siêu. Một hôm, đến từ biệt. Lúc sắp đi dặn
dò phải hộ trì Phật pháp. Tiết độ sứ không nỡ rời.
Sư cười nói:
-
Dù có lưu lại ngàn năm thì cũng có lúc phải ly biệt.
Nói
rồi, ngồi kiết già mà hóa.
(Cao
tăng truyện)
802. Ngưỡng Sơn.
Ngưỡng
Sơn sắp thị tịch, đọc bài kệ:
年
滿 七 十 七
Niên
mãn thất thập thất
無
常 在 今 日
Vô
thường tại kim nhật
日
輪 正 當 午
Nhật
luân chính đương ngọ
兩
手 攀 屈 膝
Lưỡng
thủ phan khuất tất
Tuổi đã bẩy mươi bẩy
Vô thường tại hôm nay
Mặt trời đang chính ngọ
Ôm gối với hai tay.
(Cao
tăng truyện)
Sau
đó hai tay ôm gối mà mất.
803. Động Lão.
Động
Lão thiền sư đến từ biệt Vương Ngạn Bác. Bác hỏi:
-
Lão sư đã già rồi, còn định đi đâu?
-
Nhập diệt.
Bác
cho là nói đùa, về kể chuyện lại với mọi người:
-
Động Lão tu hành cao thâm, đã khế hợp với Đạo, du hí
nhân sinh.
Lại
sai người đi dò tin tức; quả nhiên Động Lão đã nhập diệt.
Bác tán thán không cùng.
(Cao
tăng truyện)
804. Quan Sơn.
Có
ông tăng bạch với Quan Sơn:
-
Đệ tử đến đây mong giải quyết vấn đề sinh tử, xin
thầy chỉ thị.
Thiền
sư hét lớn rồi bảo:
-
Nơi đây, Huệ Huyền không có sinh tử (Huệ Huyền là pháp
danh của Quan Sơn).
Sư
phụ của Quan Sơn là Đại Đăng quốc sư khi tu hành ở Ngũ
Điền Thụ gia nhập nhóm ăn mày; sống với họ nhiều năm
nên bị cố tật. Khi ngộ đạo rồi vì chân bị tật nên
không thể ngồi kiết già được. Khi sắp mất nói:
-
Lúc trước ta đều phải nghe ngươi, lần này ngươi phải
nghe ta!
Nói
rồi tự chặt chân, ngồi thiền mà mất.
Một
hôm, Quan Sơn xếp đặt hành trang, kêu đệ tử Thọ Ông bảo:
-
Ta muốn ra ngoài vân du ít ngày.
Nói
rồi 2 người cùng đi ra Phong Thủy Tuyền, Quan Sơn đứng nghỉ
dưới gốc cây, an nhiên mà hóa; ấn chứng câu thường nói:”Nơi
đây Huệ Huyền không có sinh tử.”
(Nhất
nhật nhất thiền ngữ)
805. Đạo Khải.
Phù
Dung Đạo Khải làm bài kệ phó pháp trao lại cho thị giả
rồi mất:
吾
年 七 十 六
Ngô
niên thất thập lục
世
緣 今 已 足
Thế
duyên kim dĩ túc
生
不 愛 天 堂
Sinh
bất ái thiên đường
死
不 怕 地 獄
Tử
bất phạ địa ngục
撒
手 橫 身 三 界 外
Tát
thủ hoành thân tam giới ngoại
騰
騰 任 運 何 拘 束
Đằng
đằng nhậm vận hà câu thúc.
Đã
bẩy sáu năm trường
Thế duyên cũng tạm được
Sống chẳng thích thiên đường
Chết chẳng sợ địa ngục.
Buông tay, ngoài tam giới
Chẳng gì có thể trói.
(Thiền
ngoại thuyết thiền)
806. Khoái Xuyên.
Khoái
Xuyên (? – 1582) đức hạnh kiêm bị, được võ tướng Võ
Điền Tín Huyền mời về trụ trì ở Huệ Lâm Tự, lấy sư
lễ mà đãi. Chức Điền Tín Trưởng chinh phạt họ Võ rồi,
do kính mộ Khoái Xuyên đã lâu, dùng hậu lễ đối đãi nhưng
hòa thượng quật cường không khuất phục. Lòng tự tôn của
Tín trưởng bị tổn thương, trong lòng rất bất mãn. Chính
lúc đó lại biết cừu địch của mình là Tả tả Đại Nghĩa
Bật trốn ở Huệ Lâm tự và sau đó đào thoát. Tín Trưởng
nổi giận hạ lịnh bao vây Huệ Lâm Tự, bức chư tăng thối
lui lên lầu, dùng lửa thiêu đốt. Khoái Xuyên ngồi đối
mặt với đại chúng, trước tiên bảo mọi người nói lời
sau cùng, sau đó tự nói:
An thiền chẳng cần tu sơn thủy
Diệt hết tâm đầu, lửa tự mát.
Nói
rồi tiến vào hỏa định.
(Nhất
nhật nhất thiền ngữ)
807. Huệ Xuân.
Một
hôm, ngoài cửa Tiểu Điền Nguyên Tối Thừa Tự xuất hiện
một thiếu nữ, yêu cầu xuất gia. Cô vào khoảng hai mươi
mấy tuổi , xinh đẹp, cao quý. Trụ trì là Liễu Am hòa thượng
ra coi thì ra chính là cô em gái mình, bèn nói:
-
Cửa thiền chẳng thích hợp với đàn bà, con gái. Tuy không
thiếu gì đàn bà, con gái đi tu, nhưng cũng không thiếu gì
trường hợp làm ô uế cửa Thiền. Huống chi cô lại xinh
đẹp hơn người, đương nhiên không thích hợp xuất gia.
Thiếu
nữ nghe xong đi ra dùng kìm lửa phá hủy dung nhan, sau đó lại
yêu cầu xuất gia. Liễu Am cuối cùng phải chấp nhận cho
cô xuống tóc, đặt pháp danh là Huệ Xuân.
Vào
lúc vãn niên, Huệ Xuân sống ở trước cửa chùa, nấu trà
đãi khách đến viếng chùa. Mọi người đều biết cô là
một ni cô từ bi hoàn hảo. Một hôm, cô xếp một đống củi
trước cửa chùa ngồi vào trong đó, tự châm lửa đốt và
tiến vào hỏa định. Liễu Am chạy ra hỏi:
-
Ni cô, có nóng không?
Huệ
Xuân ngồi yên đáp:
-
Nóng lạnh chỉ người triệt ngộ mới biết.
(Nhất
nhật nhất thiền ngữ)
Từ
802 – 809:
Ham
sống sợ chết là thường tình của con người. Khi chết không
tự làm chủ mà phải do Diêm Vương xếp đặt. người đắc
đạo thì không thế, muốn sống là sống, muốn chết là chết.
Thực ra nói sống chết là đối với người phàm mà thôi.
Dùng con mắt thánh mà nhìn thì không có gì gọi là sống,
là chết. Gọi sống, chết là y theo tục đế, tạm thời
giả lập các pháp vốn không sinh diệt, không đến đi, không
một không khác, chẳng đoạn chẳng thường làm sao có sinh
tử? Chẳng những không có sinh tử mà cả đến Niết Bàn
cũng không nữa. Nói có sinh tử chẳng qua là để thị hiện
mà thôi. Do đó du hí sinh tử, đi ở tự do không phải là
làm sự kỳ lạ để hoặc chúng mà là phương tiện hóa độ.
(Hùng
Uyển)
808. Không thè lưỡi.
Một
ông tăng hỏi Lợi Sơn:
-
Các hiện tượng ngoại tại đều trở về không, còn không
thì trở về đâu?
-
Không thè lưỡi.
-
Vì sao?
-
Trong ngoài một dạng.
(Thiền
cơ)
Câu
đáp “Trong ngoài một dạng” ám chỉ phàm thánh là một.
809. Không có tâm đạo.
Văn
Đạo là một vân thủy tăng vì ngưỡng mộ đạo phong của
Huệ Huân, trèo núi băng rừng từ ngàn dặm tới tham phỏng.
Văn Đạo tới trước động Huệ Huân cư trú thưa:
-
Mạt học Văn Đạo thường ngưỡng mộ cao phong của thầy,
nay đến thân cận, mong thầy từ bi khai thị.
-
Trời đã tối rồi, hãy tá túc một đêm đã.
Hôm
sau, Văn Đạo tỉnh dậy thấy Huệ Huân đã dậy từ lâu,
nấu cháo đã xong. Khi dùng bữa sáng vì trong động không dư
bát, Huệ Huân bèn ra ngoài động, thuận tay nhặt một mảnh
xương sọ vào múc cháo đưa cho Văn Đạo. Văn Đạo còn do
dự không biết có nên nhận hay không, Huệ Huân bảo:
-
Ngươi không có đạo tâm, không phải vì pháp mà lại.Ngươi
lấy sạch bẩn, yêu ghét mà xử sự tiếp vật, làm sao đắc
đạo được?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đạo
đích thực không thiện ác, không sạch bẩn. Văn Đạo có
niệm yêu ghét là có tâm phân biệt, đương nhiên là phải
bị mắng rồi!
810. Giết người sao?
Một
ông tăng tóm chặt lấy Đồng Phong. Đồng Phong hét lên:
-
Định giết người sao?
Ông
tăng buông thiền sư ra và hỏi:
-
Kêu cái gì?
-
Ai kêu đó?
Ông
tăng hét lên, thiền sư quơ gậy đánh, ông tăng bỏ chạy,
ngoảnh đầu lại nói:
-
Đợi chút nữa rồi hãy đánh.
Thiền
sư cả cười.
(Thiền
cơ)
Ông
tăng ‘tóm chặt” lấy Đồng Phong, nên Đồng Phong bảo “Định
giết người sao?” là ám chỉ ông tăng đừng chấp hãy “buông
tay.”
811. Không giảng nữa.
Một
ông tăng hỏi Sam Dương:
-
Thiền sư được đạo lý gì mà trụ trì ngọn núi này?
-
Vốn định nói nguyên do nhưng lại sợ gập chuyện tào lao
của người khác nên không giảng nữa.
-
Không giảng coi sao được?
Thiền
sư hét lớn, ông tăng thưa:
-
Thì ra là vậy!
Thiền
sư quơ gậy đánh, ông tăng cười lớn bỏ đi.
(Thiền
cơ)
Đạo
lý là chỉ Phật pháp, giảng chỉ là giải thích về Phật
pháp không phải là bản thân Phật pháp, không giảng là ám
chỉ phải tự ngộ.
812. Ý tổ sư từ Tây sang.
Có
tới hơn 230 công án về câu hỏi này, ở đây chúng tôi chỉ
nêu ra 10 câu trả lời tiêu biểu:
1/.
Hương Lâm: Ngồi lâu sanh mệt.
(Bích
Nham lục)
2/.
Triệu Châu: Răng mọc lông
(Không
Tốc tập)
3/.
Cửu Phong : Một tấc lông rùa nặng 9 cân.
(Không
Tốc tập)
4/.
Thạch Sương : Nếu có người rơi xuống giếng sâu ngàn thước,
ngươi có thể cứu hắn ra mà không dùng dây thì ta sẽ bảo.
(Bích
Nham lục)
5/. Đại Hải : Tây sang không ý.
(Ngũ
đăng hội nguyên)
6/. Phúc Thuyền : Tốt nhất là đừng mắng chửi tổ sư.
(Ngũ
đăng hội nguyên)
7/. U Khuê : Trâu bùn từng bước, từng bước đi trước người.
(Ngũ
đăng hội nguyên)
8/. Long Vân : Tối qua, trong chuồng mất trâu.
(Ngũ
đăng hội nguyên)
9/. Ô Thạch : Người thích đến, đi là ai?
(Ngũ
đăng hội nguyên)
10/. Lạc Phố : Trả lời bằng một bài kệ:
深
嵐 覆 處
Thâm
lam phú xứ
出
聚 藏 峯
Xuất
tụ tàng phong
白
日 輝. 時
Bạch
nhật huy thời
碧
潭 無 影
Bích
đàm vô ảnh.
Sơn lam mờ trời đất
Từ hang bay phủ non
Lúc vầng dương chói lọi
Đầm biếc bóng hình không.
(Hân
Mẫn dịch, Hư Đường lục)
Đối
với câu hỏi trên, có nhiều câu đáp khác nhau. Có câu chẳng
ăn nhập gì đến câu hỏi cả, khiến ta bị mê hoặc. Sự
thực thì Thiền môn lấy câu “Chỉ thẳng tâm người, thấy
tánh thành Phật” là tông chỉ cho nên không chấp vào văn
tự, ngôn ngữ, kinh điển, tranh, tượng; nếu không thì là
bỏ gốc mà tìm ngọn. Trang Tử nói:” Được cá quên nơm,
được thỏ bỏ bẫy”, Lão Tử:”Đạo có thể nói thì không
phải là Đạo thường, tên có thể gọi thì không phải là
tên thường.” Tất cả đều cùng một ý “Được ý quên
lời” Kinh Kim Cương nói: “Chánh pháp còn nên xả huống
hồ là phi pháp.” Lời nói chỉ thẳng chỉ là một phương
tiện thôi, dù nói dọc, nói ngang, phải, trái, thiên biến
vạn hóa cũng là dao sắc chặt đứt những dây leo mê chấp
mà lãnh ngộ tự tánh.
(Hùng
Uyển)
813. Đại Đăng quốc sư.
Một
ông tăng hỏi Đại Đăng quốc sư:
-
Đối với những câu hỏi khó, đại sư đều tự do trả lời
được là tại sao?
-
Vì 12 thời lão tăng đều dùng.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Ở
đây dùng 2 chữ tự do của Thiền sư là như vậy sao? Tức
là xử dụng 12 thời? Trong 12 thời, tất cả các vấn đề
khởi diệt đều không trói buộc được tâm, tâm vẫn tự
chủ xử lý. Một công án khác cũng tương tự như công án
trên chúng tôi cũng xin chép ra đây:
Một
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Làm sao làm chủ trong 12 thời?
-
Ngươi bị 12 thời chuyển, còn ta chuyển 12 thời.
814. Bắc Dã.
Bắc
Dã đến nhà tù thuyết pháp. Ông đưa mắt nhìn mấy trăm
tù nhân, chắp 2 tay lại:
-
Các người đều là Phật, đều có tâm Phật, chỉ vì nhân
duyên không tốt nên ra nông nỗi này, thực khiến lão tăng
đau lòng.
Nói
rồi bật khóc. Các tù nhân đều cảm động, cúi đầu rơi
lệ.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Thân
mình chính là Phật, chỗ này chính là liên hoa quốc, sum la
vạn tượng đều phóng quang minh.
815. Nhà ở đâu?
Nga
Sơn ở Thiên Long Tự là một vị Thiền sư Nhật Bản nổi
danh cận đại. Lúc 5 tuổi được người nhà cõng đến Nga
Sơn xin làm đệ tử của Nghĩa Đường hòa thượng. Vừa gặp
mặt, Nghĩa Đường hỏi:
-
Nhà ở đâu?
-
Con quên rồi.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Câu
đáp “Con quên rồi” rất có thiền cơ. Thiền cần quên
hết, chỉ luận chuyện ngay trước mắt.
816. Lục Hằng khóc cười.
Lục
Hằng thường đến tham phỏng Nam Tuyền. Khi Nam Tuyền mất,
Lục Hằng đến chùa phúng viếng. Ông đến trước quan tài
cười ha hả. Chấp sự tăng trách:
-
Ông là đệ tử sao chẳng khóc mà lại cười?
-
Được Đạo chẳng khóc, thầy hãy nói một câu coi!
Chấp
sự tăng là một ông tăng không mắt (không hiểu Đạo) nên
không trả lời được. Lục Hằng than:
-
Trời xanh! Trời Xanh! Tiên sư qua đời đã xa rồi.
Nói
rồi buông lời khóc lớn.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Trường
Khánh nghe truyện này bình phẩm: “Hiểu Đạo nên cười,
chẳng nên khóc.” Ông hy vọng được cười như Lục Hằng.
817. Vô Tam.
Vô
Tam hòa thượng trụ trì ở Phúc Xương Tự, vốn xuất thân
là bần nông; được các Vương công quý tộc quy y. Một võ
sĩ thường coi nhẹ ông, nhân ngày hội định làm ông mất
mặt trước công chúng. Võ sĩ rót một chén rượu, bưng đến
trước mặt ông:
-
Tôi xin kính rượu vị nông dân này.
Các
tọa khách đều thất kinh, nhưng hòa thượng vẫn mỉm cười
đáp:
-
Đó chính là hoa sen trong bùn.
Các
vương công quý tộc không ai là không khen ngợi. Đây là một
công án hữu danh.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Hoa
sen không mọc trên núi cao, trên mặt đất, mà mọc trong bùn.
Sen nỡ hoa và đồng thời kết quả, không giống như các loại
hoa khác: hoa rụng rồi mới kết quả. Đại thừa Phật giáo
cũng tương tự như vậy, cũng từ bùn phiền não mà nở hoa
Bồ Đề. Hoa quả đồng thời, tức phàm thánh là một. Chúng
sanh vốn là Phật, chưa thành Phật đã là Phật rồi.
818. Hoàng Long.
Một
ông tăng đến thăm Hoàng Long, hỏi:
-
Từng nghe tiếng Hoàng Long, đến nơi chỉ thấy con rắn khoang
đỏ.
-
Ngươi chỉ thấy con rắn khoang đỏ mà chưa thấy Hoàng Long?
-
Hoàng Long thực ra thế nào?
-
Cong queo, khuất khúc.
-
Bỗng nhiên kim xí điểu giang rộng cánh xuất hiện thì sao?
-
Thật đáng sợ!
-
Vậy là bị nó ăn sao?
-
Phải không? Cho ta một miếng, ăn ngon lắm!
Ông
tăng quay đầu lại làm bộ đang ăn.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Tương
tự như công án cầu đá Triệu Châu, nhưng ở đây 2 người
đối
đáp chan chát không ai nhường ai.
819. Phương tiện chỉ dạy.
Quảng
Châu Ngưỡng Sơn Huệ Tịch tham học tại Phúc Châu Quy Sơn
Linh Hựu, ngộ đạo rồi, ở đó 15 năm, được truyền tâm
ấn. Năm 35 tuổi lãnh chúng hoằng pháp. Đương thời thiền
giới xưng tụng là Tiểu Thích Ca.
Một
hôm, Ngưỡng Sơn hỏi một ông tăng đi ngang qua trước mặt:
-
Ngươi từ đâu đến tham học?
-
Phương Nam.
Ngưỡng
Sơn giơ gậy lên quơ quơ hỏi:
-
Các trưởng lão ở phương Nam có nói cái này không?
-
Không nói.
Ngưỡng
Sơn vung vẩy cây gậy, hét lớn:
-
Đại đức!
-
Dạ!
-
Vào thiền đường!
Ông
tăng đi về phía thiền đường, Ngưỡng Sơn ở phía sau hét:
-
Đại đức!
Ông
tăng xoay đầu lại, Ngưỡng Sơn ra lệnh:
-
Đến trước mặt ta.
Ông
tăng đi đến trước mặt Ngưỡng Sơn, Ngưỡng Sơn lấy gậy
gõ vào đầu ông và bảo:
-
Đi!
Ông
tăng ngay đó đại ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Ngưỡng
Sơn chỉ cho ông tăng không có phân biệt Nam, Bắc, Đông, Tây;
không có phân biệt bên này, bên kia. Bảo ông đi vào thiền
đường là chỉ nơi nơi đều là Đạo, chốn chốn đều là
Thiền. Lại kêu ông ra trước mặt là chỉ Đạo ở ngay trước
mắt, rồi lại bảo ông đi là chỉ Phật pháp không đến
không đi, ở khắp 10 phương, tràn đầy pháp giới. Ngưỡng
Sơn phương tiện chỉ dạy như vậy, học tăng không ngộ sao
được?
820. Điểm tâm nào?
Đức
Sơn mới đầu theo Luật tông. Coi Thiền tông như cừu địch.
Ông
hạ quyết tâm Nam du kiếm thiền tăng để tranh luận. Ông
nghiên cứu kinh Kim Cương rất thâm, vác sách chú thích kinh
trên vai mà đi. Tới Hồ Nam ông dừng lại một quán bên đường
định điểm tâm trước khi đi tiếp. Bà già chủ quán hỏi
ông vác gì trên vai. Đức Sơn ưỡn ngực kiêu ngạo đáp là
sách chú giải kinh Kim Cương của mình. Bà già liền bảo:
-
Vậy sao? Ta có một câu hỏi nếu thầy đáp được thì được
điểm tâm miễn phí, nếu đáp không được thì hãy đi quán
khác.
Đức
Sơn cười, bằng lòng.
Bà
già hỏi:
-
Kinh Kim Cương nói: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại
tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”, thầy muốn
điểm tâm là điểm tâm nào?
Đức
Sơn vốn không nghĩ đến vấn đề này, do đó không trả lời
được.
Bà
già chỉ điểm:
-
Nếu thầy chưa cam lòng hãy tìm Long Đàm mà hỏi.
(Thiền
tông dật sự)
Tâm
không có thực thái, chỉ bất quá xuất hiện trong một thời
gian ngắn ngủi rồi biến mất. Tâm quá khứ đã qua rồi,
tâm hiện tại thì trong sát na, tâm vị lai thì còn chưa xuất
hiện, như vậy đều không nắm được.
821. Biện đạo là gì?
Đạo
Nguyên khi đi tham học ở Trung Hoa, gập một vị Hỏa đầu
tăng ở núi A Dục Vương, ông hỏi:
-
Cái gì gọi là văn tự?
-
1, 2, 3, 4, 5.
-
Thế nào là biện đạo?
-
Không có cái gì ẩn dấu được.
(Thiền tông dật sự)
Văn
tự không giới hạn ở kinh văn, tổ lục. Biện đạo (nỗ
lực tinh tấn) không giới hạn ở khắc khổ tu hành. Vạn
vật đều đang nói Phật pháp, vạn sự đều liên quan đến
tu hành.
822. Đạo Nguyên giác ngộ.
Một
lần Đạo Nguyên ngồi thiền cạnh một ông tăng đang ngủ
gục. Thiền sư Như Tĩnh dùng dép cỏ đánh vào đầu ông tăng:
-
Tọa thiền là thoát lạc tâm trần, chỉ lo ngủ thì có ích
gì?
Đạo
Nguyên đột nhiên lãnh ngộ vội hướng Như Tĩnh vái lạy,
thưa:
-
Thân, tâm con đã thoát lạc rồi!
(Thiền
tông dật sự)
Thân,
tâm thoát lạc là thoát ra khỏi những trói buộc của thân
tâm. Đoạn trừ được những phiền não trong tâm, siêu việt
ý thức đạt tới cảnh giới giác ngộ.
823. Rồng kêu trong cây khô.
Một
ông tăng hỏi Trí Nhàn:
-
Thế nào là Phật?
-
Rồng kêu trong cây khô.
-
Đệ tử không hiểu.
-
Con mắt trong đầu lâu.
(Thiền
cơ)
Ông
tăng hỏi thế nào là tự tánh. Các câu đáp “Rồng kêu trong
cây khô” và “con mắt trong đầu lâu”, ám chỉ phải chết
đi sống lại, tự nhiên sẽ thấy Phật.
824.
Ta đánh ngươi vô lý.
Một
ông tăng hỏi Cảnh Thông:
-
Thế nào là Phật?
Thiền
sư đánh ông, và ông đánh trả. Thiền sư bảo:
-
Ngươi đánh ta có lý, ta đánh ngươi vô lý.
Ông
tăng không đáp được, thiền sư lại đánh.
(Thiền
cơ)
Nói
được hay không đều bị đánh, ám chỉ ông tăng không được
ngưng trệ, phải tinh tấn tham cứu.
825. Đức Sơn mất sớm.
Đức
Sơn sắp viên tịch, ngồi ngay ngắn bảo chúng đệ tử:
-
Nắm bắt hư không, đuổi theo âm vang chỉ làm loạn tâm các
ngươi.
Khi tỉnh mộng mới biết là sai lầm, kết cục được cái
gì đâu?
(Thiền
tâm dật sự)
Cái
gì cũng không có. Có hoặc không chỉ là do ý thức phán đoán.
Siêu việt được có, không thì mới tránh khỏi ăn gậy của
Đức Sơn.
826. Ba chuyển ngữ của Ba Lăng.
Ba Lăng người huyện Ba Lăng, tỉnh Hồ
Nam, là học trò của Vân Môn. Những lời ông nói ra đều
thi vị, đẹp đẽ. Vân Môn rất thưởng thức ông và đã
từng khen ngợi, bảo chúng đệ tử:
-
Khi ta chết không cần phải tụng kinh, chỉ cần đọc 3 chuyển
ngữ của Ba Lăng là đủ.
(Thiền
đích cố sự hựu nhất tập)
Ba
chuyển ngữ của Ba Lăng là:
Có
ông tăng hỏi:
-
Thế nào là Đạo?
-
Người sáng mắt rớt xuống giếng (1)
(Xem
công án 8ỏ)
-
Thế nào là thổi lông trên kiếm?
-
San hô từng cành chống dưới trăng (2)
(Xem
công án 174)
-
Thế nào là Đề Bà tông?
-
Tuyết đầy chén bạc (3)
(Xem
công án 117)
827. Đạt Ma tổ sư đến Trung quốc độ ai?
Đối
với câu hỏi này có thiền sư đáp:
-
Đến độ lừa, ngựa, chó, dê nhưng không độ các ngươi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Vì
sao độ súc sanh mà không độ con người? Thực ra câu đáp
này hàm ý thiền sư đã thể nghiệm “Tất cả chúng sanh
đều có Phật tánh”; mặt khác phát huy phải tự mình thể
nghiệm. Không độ các ngươi vì các ngươi phải tự độ.
828. Sai một ly.
Một
lần Pháp Nhãn hỏi Tu Sơn Chủ:
-
Sai một ly, đất trời ngăn cách, ngươi làm sao thể hội?
-
Sai một ly, đất trời ngăn cách.
-
Nếu nói vậy, sao gọi là đã thể hội?
Tu
Sơn Chủ không hiểu hỏi lại, Pháp Nhãn bảo:
-
Sai một ly, đất trời ngăn cách.
Tu
Sơn Chủ bỗng nhiên tỉnh ngộ.
(Thiền
tông dật sự)
Sai
một ly, đất trời ngăn cách (tương tự như: sai một ly đi
ngàn dặm) là hiểu sai một chút thì xa chân lý như đất xa
trời. Do lý giải chúng ta tưởng mình đã ngộ, kỳ thực
lý giải và ngộ là hai chuyện khác nhau.
829. Vinh Tây.
Một
hôm, có một người đàn ông đói khát đến Kiến Nhân Tự
khóc lóc, kể lể cảnh khốn khổ của vợ con. Vinh Tây rất
thương xót nhưng tự mình cũng chẳng có vật gì quý để
cho. Lúc đó Vinh Tây bỗng nghĩ đến vòng hào quang bằng đồng
của tượng Dược sư Như Lai bèn đem ra cho người đàn ông
đó. Người đàn ông vui mừng tiếp nhận. Chúng đệ tử kinh
ngạc hỏi:
-
Đem cho vòng hào quang của Phật có tội không?
-
Có thể, nhưng nếu Phật gập tình cảnh này, thì ngay huyết
nhục ngài còn đem cho xá gì vòng hào quang của tượng. Ngay
cả tượng Phật ta cũng sẽ đem cho, nếu có tội ta sẽ vui
lòng đón nhận.
(Thiền
tông dật sự)
Vinh
Tây đã đem lòng từ mà độ dân.
830. Vất bỏ gia tài.
Bàng
Uẩn xuất thân từ một gia đình giàu có. Ông mang hết của
cải chất lên thuyền, chở đến Động Đình Hồ vất bỏ;
đoạn tuyệt mọi chấp trước của thế gian.
Có
ông tăng khuyên ông nên đem tiền của mà lập đền, chùa.
Bàng Uẩn cự tuyệt:
-
Ta đã biết đây là vật chẳng lành, sao lại tặng cho người?
Dù bỏ dưới hình thức nào, tiền tài nhất định tạo nên
lòng tham muốn.
Chẳng
còn một phân tiền, Bàng Uẩn và con gái là Linh Chiếu đan
giỏ tre đem bán để duy trì sinh hoạt.
(Thiền
tông dật sự)
Xả
bỏ lợi danh, không còn mê hoặc thì những công việc hàng
ngày như gánh nước, bửa củi đều là Phật sự. (Xem công
án 494)
831. Một cũng chẳng giữ.
二
由 一 有 一 亦 莫 守
Nhị
do nhất hữu nhất diệc mạc thủ
Hai do một mà có
Một cũng chẳng giữ.
(Tăng Xán, Tín Tâm Minh)
Hai
là chỉ thế giới đối đãi, yêu ghét. Một là chỉ thế
giới tuyệt đối, hư vô hoặc không. Nhưng một cũng phải
bỏ vì nếu không thì là chấp trước. Nếu chấp một thì
trước hết rơi vào hư vô chủ nghĩa; nhận rằng mọi sự
đều không thường còn, đều vô nghĩa. Đó là bi quan của
những người thất bại. Hơn nữa, lại tạo nên giả bình
đẳng, coi mọi việc đều không có sai biệt. con người sống
trong xã hội, tài năng, hoàn cảnh đều khác nhau. Nếu coi
như đồng đẳng là ảo tưởng, phủ nhận những nỗ lực
tinh tiến của con người.
(Thích
Dĩ Nhiên)
832. Bảo Tích.
Bàn
Sơn Bảo Tích sắp mất, bảo đại chúng:
-
Có ai tả chân được ta không?
Chư
tăng vẽ hình trình lên đều không hợp ý sư. Phổ Hóa thưa:
-
Con tả được.
-
Sao không trình ra cho lão tăng coi?
Phổ
Hòa lộn tùng phèo mà ra.
Bảo
Tích nói:
-
Gã này về sau tiếp người như khùng điên.
Nói
rồi mất.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Bảo
Tích bảo chư tăng tả chân, không phải là bảo vẽ hình mình
mà là tả “chân” tự tánh. Làm sao giấy, bút, mực chết,
giới hạn, trừu tượng, cùng những ký hiệu phiến diện
có thể diễn tả được tự tánh? Phổ Hóa dùng toàn thân,
chân thật, cụ thể, sống động mà trình ra cho lão sư. Thật
là một họa sĩ thiên tài.
833. Ngưỡng Sơn.
Một
ông tăng hỏi Ngưỡng sơn:
-
Hòa thượng còn giữ giới không?
-
Không giữ giới.
-
Còn tọa thiền không?
-
Không tọa thiền.
Rất
lâu, Ngưỡng Sơn hỏi:
-
Hiểu không?
-
Con không hiểu.
-
Hãy nghe bài kệ của ta:
滔
滔 不 持 戒
Thao
thao bất trì giới
兀
兀 不 坐 禪
Ngột
ngột bất tọa thiền
釅
茶 三 兩 碗
Nghiệm
trà tam lưỡng oản
意
在 矍 頭 邊
Ý
tại quắc đầu Biên
仰 山 蕙 寂
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
Hỗn loạn, giới chẳng giữ
Hôn trầm, chẳng tọa thiền
Trà nồng hai ba cữ
Ý nghĩ tại điền viên.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Ngưỡng
Sơn rất đại từ, đại bi chỉ điểm cho ông tăng, không
giữ giới, không tọa thiền thì làm gì? Uống trà, làm ruộng
là bản lai diện mục. Do đó, “Bình thường tâm là Đạo
là thiền định, là giới luật, là Đạo.
834. Thiên Vương.
Chùa
Trung Hoa nào cũng có tượng Thiên Vương. Thiên Vương là thần
hộ trì Phật pháp. Lục Hằng hỏi Nam Tuyền:
-
Thiên Vương có địa vị gì?
-
Thiên Vương chẳng có địa vị gì.
-
Như con được nghe thì Thiên Vương ở sơ vị Bồ Tát có phải
không?
-
Thành Thiên Vương là để cứu người, thuyết pháp.
(Thiền
tông dật sự)
Nếu
hạn chế Thiên Vương ở địa vị Thiên Vương thì Thiên Vương
không phải là Thiên Vương nữa. Thiên Vương chân chính phải
tự tại, vô ngại.
835. Thiết Chu đoạn sắc.
Thiết
Chu thuở trẻ tinh thông kiếm thuật, do đó thân thể cường
tráng. Ông lại là thị tùng của Hoàng thái tử, hưởng đủ
vinh hoa phú quý bao gồm ái dục. Một hôm nhân đứng bên đường
ngắm bông hoa đẹp lập tức khai ngộ; từ đó đoạn trừ
ái dục phiền não.
(Hiện
đại thiền nhập môn)
Giống
như gương sáng phản chiếu vạn vật. Gái đẹp đến phản
chiếu gái đẹp; ác ma đến phản chiếu ác ma. Gương phản
chiếu vô niệm, không vì người soi gương mà gương bị ô
nhiễm. Đó là tâm cảnh gương sáng nước lặng. Tâm cảnh
Thiết Chu khi xem hoa là tâm cảnh đó.
836. Sông thiền sâu nông.
Định
thượng tọa thụ trai ở Trấn Châu về ngồi nghỉ trên cầu
gập 3 vị tọa chủ. Một vị hỏi:
-
Sông thiền sâu nông phải dò tận đáy là sao?
Định
thượng tọa nắm lấy ông định ném xuống cầu. Hai vị kia
lại gần năn nỉ:
-
Xin thượng tọa từ bi tha thứ.
-
Nếu không nể hai vị, ta đã cho hắn xuống đáy sông rồi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Muốn
biết đáy sông nông sâu chỉ có cách là xuống nước.
837. Trời lạnh, người lạnh?
Quy
Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
-
Trời lạnh, người lạnh?
-
Mọi người đều ở đây.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Câu
trả lời của Ngưỡng Sơn quả không hổ là là người sáng
lập ra dòng Quy Ngưỡng. Ông không bắt chước Huệ Năng ‘trong
công án cờ động hay gió động” mà đáp “không phải trời
lạnh, cũng không phải người lạnh mà là tâm lạnh”, cũng
không bắt chước Tổ Già Da Xá Đa trong công án ‘gió kêu
hay chuông kêu” mà đáp “pháp vốn không có lạnh và không
lạnh.” Giả sử nếu đáp vậy cũng đúng nhưng nhất định
có người sẽ bảo Ngưỡng Sơn chỉ là con vẹt. Trong Thiền
học sự thể nghiệm phải là độc sáng không cần bắt chước
người. Trời lạnh rồi người lạnh, lạnh rồi lại không
lạnh, tất cả phải tự mình thể nghiệm. Tôi lạnh là cảm
giác của tôi, anh lạnh là cảm giác của anh.. Không ai thay
thế cho ai được. Sự thể nghiệm thành Phật cũng chính như
thế.
838. Giáo dục.
Xưa
có một vị tôn túc nuôi một đứa trẻ chẳng biết phép
tắc gì. Có
một
vị hành cước tăng ghé qua, dạy đứa trẻ lễ nghi. Buổi
chiều khi lão túc từ ngoài về, đứa trẻ ra đón, chào hỏi
lễ phép. Lão túc lấy làm lạ hỏi:
-
Ai dạy ngươi vậy?
-
Là vị thượng tọa ở trong nhà.
Lão
túc kêu ông tăng ra, bảo:
-
Thượng tọa là người có tâm hạnh gì? Đứa trẻ này ta
nuôi đã 2, 3 năm rồi, tình trạng đáng thương sao ông lại
dạy hư nó? mau đi đi!
Trời
chiều mưa rơi tầm tã, ông tăng vẫn bị đuổi đi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Trong
Thiền học “Tâm bình thường là Đạo”, “Đói ăn, mệt
ngủ”
giảng đến cùng là yêu cầu người học từ bỏ xã hội
tính trở lại “chân diện mục” tự nhiên.
839. Một câu.
Một
ông tăng hỏi La hán:
-
Thế nào là một câu của La Hán?
-
Nếu ta trả lời thì đã là hai câu rồi!
-
Thế nào là đệ nhất nghĩa?
-
Nếu ta trả lời thì đã là đệ nhị nghĩa rồi.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Cái
gọi là “một câu”, “đệ nhất nghĩa” là chỉ nội chứng
chân như viên mãn. Nếu nói ra thì nội tại trở thành phù
hiệu biểu đạt, chính thể thành cục bộ, toàn diện thành
phiến diện.
840. Tự độ.
Huệ
Năng được Ngũ tổ truyền y pháp rồi, đương đêm rời khỏi
Hoàng Mai. Ngũ tổ đưa tiễn đến bờ Cửu Giang; có một chiếc
thuyền đậu sẵn ở đó. Ngũ tổ bảo Huệ Năng lên thuyền
để mình chèo. Huệ Năng thưa:
-
Thỉnh hòa thượng ngồi để con chèo.
-
Ta độ ngươi mới phải, sao ngươi độ ta được.
-
Khi con mê thì thầy độ, nay con ngộ rồi thì tự độ.
“Độ”
danh tuy một mà chỗ dùng chẳng đồng. Huệ Năng sinh ra ở
nơi biên cương lời nói cũng chẳng đúng, nhờ thầy dạy
dỗ nay được ngộ phải lấy tự tánh tự độ.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Đàn
kinh, từ đầu đến cuối toàn là chữ “tự”; kiến tự
tánh tự tĩnh, tự tu tự tác pháp thân; tự hành Phật tánh;
tự tác, tự thành Phật đạo. người đời vì mê nên không
thấy tự tánh ở ngay chính sắc thân mình cứ mải đi tìm
tam thân Như Lai ở bên ngoài.
841. Lưỡng kiến.
Để
trả lời thư hỏi Đạo của Hướng cư sĩ, Huệ Khả viết:
-
Vô minh tức trí tuệ, phiền não tức Bồ Đề. Nhận rằng
vô
minh
và trí tuệ không tương đồng, mình và Phật sai biệt là
có tâm phân biệt, là chấp lưỡng kiến.
(Trung
Quốc thiền tông)
Cái
gọi là lưỡng kiến là nhận rằng sinh và tử, vô minh và
trí tuệ, phiền não và Bồ Đề, Phật và chúng sanh hỗ tương
đối lập, do đó có kiến giải sai biệt. Chấp vào lưỡng
kiến thì không thấy được chân lý, vì Huệ Khả cũng từng
nói: “Vạn pháp tức chân như.”
842. Duy Chính.
Hàng
Châu Duy Chính thiền sư không nói về Thiền. Có người hỏi
duyên cớ, ông nói:
-
Vì sao phải phí lời? Ta lười lắm, cũng không thích loại
phương pháp cơ xảo; chỉ cần thuận theo vạn tượng biến
hóa là được. Ngôn ngữ có giới hạn, loại đối phó của
ta thì vô cùng vì tạo vật cũng vô cùng.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Ta
thấy thiền sư để tùy duyên cũng như Lão tử gọi là đạo
pháp tự nhiên vậy.
843. Tháo chuông vàng.
Một
hôm, Pháp Nhãn hỏi đại chúng:
-
Ai tháo được cái chuông vàng ở cổ con hổ?
Pháp
Đăng đáp:
-
Người buộc nó, tháo được.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Chuông
buộc vào cổ hổ dụ cho phiền não; chỉ người buộc nó
mới tháo được. Đoạn tập không phải là cắt đứt ngoại
duyên mà là phải
trừ
bỏ gốc rễ của phiền não trong tâm.
844. Kỳ Vực.
Thiên
Trúc tăng Kỳ Vực đến Lạc Dương. Trúc Pháp Hạnh thỉnh
nói pháp. Kỳ Vực đọc bài kệ:
Giữ miệng, nhiếp tâm ý
Chớ phạm các việc ác
Tu hành mọi việc lành
Như vậy, được giải thoát.
Sau
đó im, Pháp Hạnh lại thưa:
-
Mong thượng nhân cho nghe những gì chưa được nghe, chớ như
nghĩa lý của bài kệ này trẻ lên tám cũng tụng rõ.
Kỳ
Vực cười đáp:
-
Tuy trẻ lên tám cũng tụng rõ, nhưng trăm tuổi không hành
thì tụng có ích gì?
Người
đời đều kính người đắc Đạo mà không biết tự hành,
tự đắc.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Ý
nghĩa của công án này cũng giống với công án thi sĩ Bạch
Cư Dị và Điểu Sào thiền sư.
(Công
án số 75)
845. Giọt thủy ngân.
Hoàng
Bá bảo:
-
Trong vạn loại, con người ai cũng là Phật, tỷ như một giọt
thủy ngân phân tán ra, mỗi hạt đều là hạt tròn.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Không
những chúng sanh là Phật, vật vô hình cũng có Phật tánh
cho nên mới nói “hữu tình, vô tình cùng viên cảnh trí.”
Tâm bao hàm vạn vật, vật vô hình cũng không thể ở ngoài
tâm.
846. Tứ tổ và Pháp Dung.
Tứ
tổ bảo Pháp Dung:
-
Ngươi cứ tùy tâm tự tại, chẳng quán hạnh, chẳng lắng
tâm, chẳng khởi sân si, chẳng buồn lo, bình thường vô ngại,
tùy ý tung hoành, chẳng làm thiện, chẳng làm ác, đi đứng
nằm ngồi xúc mục ngộ duyên,tất cả đều là diệu dụng
của Phật.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Phật
vốn bình thường, chỉ vì người học Phật đi những con
đường không bình thường. Lúc trước Pháp Dung thấy hổ,
lang nhiễu quanh am, chim chóc hiến hoa là bất bình thường.
sau khi được Tứ tổ chỉ điểm rồi mới trở lại sinh hoạt
bình thường, đó mới là triệt ngộ.
847. Tâm, Phật, Đạo.
Giác
hòa thượng nói:
-
Nếu muốn cầu Phật thì tâm là Phật; nếu muốn cầu Đạo
thì vô tâm là Đạo. Vì vô tâm nên phi pháp, vì tức tâm nên
trải qua muôn kiếp vẫn thường kiên cố.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Tâm
là Phật và vô tâm là Đạo dường như mâu thuẫn? Thực ra
cái tâm trên chỉ tâm thanh tịnh, cái tâm dưới chỉ thức
tâm. Khi hiểu vô tâm là Đạo thì gập sự không sinh tâm.
Khi hiểu tâm là Phật thì có thể hồi quang phản chiếu tùy
duyên bất biến, chính như lời Lục tổ “Vô là không một
hạt bụi trong tâm, niệm là niệm chân như.” Vô Túc thiền
sư thì nói: “Không nhớ gọi là giới, không niệm gọi là
không, không vọng gọi là Huệ.” Do đó một tâm chẳng sanh
thì đủ cả Giới, Định, Huệ.
848. Đoạn Kiều Diệu Luân thiền sư.
Đoạn
Kiều Diệu Luân thiền sư đọc bài kệ của Phó đại sĩ
(xem công án 263) bèn làm một bài kệ bình xướng (để phê
bình, khen ngợi, hoặc đưa ra một quan điểm khác) như sau:
狗
走 抖 擻 口
Cẩu
tẩu đẩu tẩu khẩu
猴
愁 摟 摟 頭
Hầu
sầu lâu lâu đầu
瑞
嚴 門 外 水
Đoan
Nghiêm môn ngoại thủy
自
古 向 西 流
Tự
cổ hướng tây lưu
Chó chạy há mõm
Khỉ buồn ôm đầu
Sông ngoài Đoan Tự
Hướng Tây từ lâu.
(Sinh
hoạt Thiền)
Con
chó khi chạy đầu lắc lư, há mõm, thè lưỡi; con khỉ cổ
ngắn, khi buồn so vai rụt cổ, chỉ thấy đầu; con sông ngoài
chùa Đoan Nghiêm từ cổ vẫn chẩy về hướng tây. Tất cả
những sự kiện mô tả trên đều là sự thật không biến
đổi, là chân lý. Ông đồng ý với những gì Phó đại sĩ
kể “Tay không cầm cuốc . . . “Nói cách khác là
mô tả cảnh giới Thiền “tất cả đều không” của triết
lý kinh Kim Cương. Để miêu tả cảnh giới vốn không thể
nói được này chỉ còn cách dùng phương thức mâu thuẫn
như nói lông rùa, sừng thỏ. Nói lông rùa đen là sai, nói
xanh, đỏ tím, vàng cũng sai nốt vì rùa vốn không có lông.
Vì vậy kinh điển thường nói “không thể nói.” Nhưng nếu
không nói thì làm sao giảng Đạo cho chúng sanh? Vì vậy nhà
Thiền thường dùng 3 loại phương pháp:
1/
dùng sự mâu thuẫn
2/
không trả lời vào câu hỏi
3/
dùng thể ngữ.
849. Vẽ bát quái.
Lâm
Tế thường dùng gậy để khai ngộ thiền sinh (xem công án
554) Kinh Sơn Cảo thiền sư làm một bài kệ ca tụng:
五
月 五 日 午 時 書
Ngũ
nguyệt ngũ nhật ngọ thời thư
赤
口 毒 吞 盡 消 除
Xích
khẩu độc thôn tận tiêu trừ
更
饒 急 急 如 律 令
Cánh
nhiêu cấp cấp như luật lịnh
不
須 門 上 畫 蜘 蛛
Bất
tu môn thượng họa tri thù
Muốn
trừ được mọi bịnh
Tết Đoan Ngọ đúng trưa
Nuốt
vào bụng lá bùa
Cấp, cấp như luật lịnh
Từ nay chẳng vẽ nữa
Mạng nhện trên cánh cửa.
(Sinh
hoạt Thiền)
Theo
tục lệ thì 12 giờ trưa tết Đoan Ngọ là giờ rất linh,
vẽ bùa nuốt vào bụng sẽ trừ hết mọi bịnh tật, tai nạn,
phiền não. Cấp cấp như luật lịnh! (mau mau làm theo lịnh):
đây là câu thường nói của các thầy phù thủy khi sai bảo
quỷ thần, sau đó không phải vẽ hình bát quái (giống như
mạng nhện) lên cửa nữa. Bùa ở đây là chỉ phương pháp
dùng gậy của Lâm Tế đả phá tất cả mọi phiền não, chấp
trước. Trong công án số 554 gọi ông tăng vái lạy là Giáp;
ông tăng không vái lạy là Phi Giáp. Theo thường lý nếu Giáp
không đúng thì Phi Giáp phải đúng; nếu Phi Giáp không đúng
thì Giáp phải đúng. Nhưng ở đây Giáp và Phi Giáp đều không
đúng vì đều bị đánh. Đó là dùng phương thức mâu thuẫn
để diễn tả triết lý: tất cả đều không vậy. Nếu tất
cả đều không thì làm gì còn ma quỷ mà phải vẽ bát quái
lên cửa để trừ nữa?
850. Sám hối với ai?
Một
ông tăng hỏi Vân Môn:
-
Giết cha, giết mẹ thì sám hối trước Phật; giết Phật,
giết tổ thì sám hối với ai?
-
Lộ.
(Thiền
ngộ)
Lâm
Tế lấy vô minh là cha, tham ái là mẹ để trả lời. Vì vậy
nửa câu trên là phải bỏ hết phiền não (giết cha) là chấp
trước (giết mẹ). Nửa câu dưới là cũng không chấp thánh
cảnh (giết Phật, giết tổ). Câu trả lời của Vân Môn “Lộ”,
nghĩa là hiển lộ. Đối với ông những gì tai nghe, mắt thấy
đều là Phật tánh hiển lộ.
851. Tống Thái Tông.
Một
hôm, Tống thái tông giơ một cái bát lên hỏi thừa tướng
Vương Tùy:
-
Tại sao ở Đại dữu lãnh Minh thượng tọa giơ lên không
nổi mà nay quả nhân lại giơ lên được?
Vương
Tùy không trả lời được.
(Chích
thủ chi thanh)
Trong
công án này Tống thái tông (hay người đặt ra công án)
đã
coi nhẹ tính cách siêu nhiên của các hiện tượng.
852. Bàn luận về Phật pháp.
Nam
Tuyền bảo đại chúng:
-
Canh ba tối qua Văn Thù và Phổ Hiền bàn luận về Phật pháp;
ta đánh họ 30 gậy và đuổi đi Nhị Thiết Vi Sơn.
Triệu
Châu bước ra khỏi chúng thưa:
-
Ai ăn gậy của hòa thượng?
-
Vương lão sư (Nam Tuyền tự xưng) sai chỗ nào?
Triệu
Châu vái lạy.
(Chích
thủ chi thanh)
Nam
Tuyền ám chỉ bàn luận về Phật pháp là thừa. Triệu Châu
ám chỉ Nam Tuyền cũng phải ăn gậy vì bàn về sự thừa
của sự bàn luận cũng là thừa. Cũng còn một ý nữa là
nếu dùng gậy có thể giải quyết được mọi vấn đề thì
chúng con chẳng nên đánh cho hòa thượng vài gậy sao?
853. Buồm cũ chưa treo.
Một
ông tăng hỏi Nham Đầu:
-
Khi buồm cũ chưa treo thì sao?
-
Cá nhỏ nuốt cá lớn.
-
Treo rồi thì sao?
-
Con lừa ăn cỏ ở sân sau.
Hư
Đường hỏi Nam Phố:
-
Buồm cũ chưa treo thì sao?
-
Núi Tu Di trong mắt côn trùng.
-
Treo rồi thì sao?
-
Hoàng Hà chảy về hướng Bắc.
(Chích
thủ chi thanh)
Buồm
cũ chưa treo chỉ chưa ngộ; treo rồi chỉ đã ngộ. Đối thoại
lập lại 2 lần nhưng ý nghĩa không khác. Khi cố gắng cầu
“ngộ” thì “ngộ” được coi như cái gì siêu phàm, nhưng
khi ngộ rồi thì thấy vạn vật vẫn chỉ bình thường.
854. Pháp Vân thị chúng.
Hòa
thượng Pháp Vân bảo đại chúng:
-
Vào năm Hy Ninh thứ 2 lão tăng coi việc sổ sách ở phủ
Phụng
Tường. Năm đó núi Hoa Sơn bị xụp, nhà cửa trong vòng 80
dặm đều bị vùi lấp. Bọn hậu bối các ngươi làm sao biết
được việc này.
(Chích
thủ chi thanh)
Ở
đây chúng ta chỉ nên xét giá trị bề mặt của công án,
thiền sư chỉ là một vị thầy theo đúng nghĩa của chữ
thầy; nhưng nếu chúng ta coi nhẹ công án này thì có lẽ chúng
ta đã quá giác ngộ.
855. Hoàng Long Hối Cơ.
Hoàng
Long Hối Cơ hỏi Nham Đầu:
-
Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Ngươi có biết làm sao rửa tay nhớp không?
-
Dạ biết!
-
Vậy đi rửa đi!
Hoàng
Long nghĩ toát mồ hôi cũng chẳng hiểu gì; sau lại gập Huyền
Tuyền và đặt cùng câu hỏi. Huyền Tuyền giơ trùy đập
quần áo lên; Hoàng Long vẫn không hiểu. Huyền Tuyền lại
giơ trùy lên một lần nữa. Hoàng Long liền ngộ.
(Nhất
vị thiền, quyển Nguyệt)
Đi
rửa tay, giơ trùy đập quần áo lên đều chỉ phải trừ
bỏ những dính dấp, bụi bậm trói buộc. Mục đích của
Thiền là chỉ cho người tu biết tự mình có trí tuệ Bát
Nhã. Nếu đem câu đáp mà bảo cho thì dù người tu có tham
cứu đến năm lừa cũng không khai ngộ được (Trong 12 con
giáp không có con lừa, ý nói chẳng bao giờ ngộ).
856. Cối xay tám góc bay trong không.
Ở
Nhật Bản vào cuối thời Liêm Thương, Lâm Tế tông phát triển
rất mạnh, lấn áp vào địa bàn của cựu Phật giáo. Cựu
Phật giáo thấy cơ nguy bèn thượng tố lên Hậu Đề Hồ
Đế. Kết quả quyết định một cuộc pháp chiến ở điện
Thanh Lương. Đại biểu cho cựu Phật giáo là Huyền Huệ,
Hư Thánh; đại biểu cho tông Lâm tế là Đại Quang quốc sư
và đồ đệ là Tông Phong. Vì Đại Quang bị cảm nên chỉ
có một mình Tông Phong tham gia Pháp chiến.
Huệ
Huyền hỏi:
-
Thế nào là ngoài giáo truyền riêng?
Tông
Phong đáp:
-
Cối xay tám góc bay trong không.
Huệ
Huyền không hiểu hàm ý của câu nói chịu thua, thối lui.
Sau
đó liên tục 7 ngày đêm tranh luận, cuối cùng Thiền tông
đạt được thắng lợi.
(Thiền
ngộ)
Đối
với người ngày nay, cối xay 8 góc bay trong không cũng như
hỏa tiễn bắn lên mặt trăng, chẳng có gì là ly kỳ. Nhưng
ở thời xưa đây là một chuyện không thể nghĩ bàn. Những
chuyện siêu việt thường lý đều do tự giác căn nguyên của
nhất tâm rồi liền sản sinh công năng diệu dụng vô cùng
của tâm.
857. Hoằng Nhất.
Có
một lần, Hoằng Nhất pháp sư hướng về vị trụ trì thô
lỗ, ngạo mạn của một chùa quê, hành lễ ngũ thể đầu
địa, một nghi thức dùng lễ Phật, Bồ tát. Ông lạy
rất cung kính, hoan hỉ. Người tùy tùng rất ngạc nhiên và
bất mãn, hỏi ông lý do, ông trả lời:
-
Ta lạy Phật tánh của ông ta.
(Nhất
vị Thiền , quyển Hoa)
Tất
cả mọi sự vật đều là Phật tánh hiển lộ, huống hồ
là ông tăng nhà quê đó.
858. Viễn Bá.
Viễn
Bá có nhiều đệ tử, chúng tăng từ xa đến tham phỏng cũng
đông. Một hôm ông dẫn một thiếu nữ về phòng, đóng cửa
lại , rất lâu mà không thấy ra. Đệ tử bàn cãi xôn xao,
sư phụ dẫn gái vào phòng thật đáng nghi, lại sợ tín chúng
biết được đồn đãi khắp nơi. Một đệ tử nhịn không
được chạy đến phòng sư phụ, nhìn qua cửa sổ thấy thiếu
nữ lộ bán thân, lưng trần nõn nà, tóc huyền xõa ngang vai,
sư phụ đang xoa lưng nàng. Người đệ tử nổi giận, đạp
cửa xông vào hét lớn:
-
Sư phụ, sao dám làm chuyện này?
Thiếu
nữ bị tiếng hét thất kinh ngoảnh mặt lại nhìn. Người
đệ tử đứng xững, nói không ra lời. Thì ra thiếu nữ bị
cùi, mặt mũi không còn nhân dạng, sư phụ đang thoa thuốc
cho nàng.
-
Chuyện này ngươi làm lại càng tốt.
Vừa
nói thiền sư vừa đưa lọ thuốc cho đồ đệ. người đệ
tử hổ thẹn, hối hận quỳ ngay xuống tạ tội.
(Nhất
vị Thiền, quyển Hoa)
Chính
mắt nhìn thấy cũng chưa chắc đã là sự thật.
859. Xem kinh.
Triệu
Châu hỏi một ông tăng:
-
Một ngày xà lê xem bao nhiêu kinh?
-
Bẩy, tám hoặc mười quyển.
-
Xà lê chẳng biết xem kinh.
-
Hòa thượng một ngày xem bao nhiêu kinh?
-
Lão tăng một ngày chỉ xem một chữ.
(Niêm
hoa vi tiếu)
Xem
kinh không phải là xem nội dung văn tự, đuổi theo mặt chữ;
xem kinh là xem đại ý Phật pháp. Do đó xem một chữ là đủ
vậy.
860. Người trong nhà.
Già
Da Xá Đa tôn giả (tổ 18 Thiền tông Ấn Độ) muốn vào phòng
Cưu Ma Đa La (tổ 19 Thiền tông Ấn Độ). Đa La đóng cửa
lại, Xá Đa đứng đợi rất lâu mà cửa không mở, bèn gõ
cửa. Đa La trả lời:
-
Trong nhà không có người.
-
Người nói: trong nhà không có người, là ai?
Đa
La bèn mở cửa.
(Nhất
vị Thiền, quyển Nguyệt)
Trong
nhà không có người chỉ là lời nói thác. nếu là người
thường thì sẽ hỏi “Nếu ngươi không phải là người thì
là giống gì?” Xá Đa chỉ dùng một câu hỏi đủ khiến
Đa La phải đi ra. Trong Thiền tông “người trong nhà” có
ý nghĩa thâm sâu như câu nói của Đại Huệ “Thiền không
ở chỗ tĩnh, không ở chỗ động, không ở chỗ phân biệt,
không ở chỗ ứng duyên hàng ngày. Tuy nhiên như vậy nhưng
không được xả bỏ chỗ tĩnh, chỗ động, chỗ phân biệt,
chỗ ứng duyên hàng ngày, bỗng nhiên mở mắt tất cả đều
là việc trong nhà.” Đối với người giác ngộ, trong nhà
ngoài nhà đều là cảnh tốt, vì trong ngoài đều là một.
861. U Thê.
Chư
tăng xây thọ tháp cho sư xong, sư dẫn chúng đến xem tháp,
vào tháp ngồi và nói:
-
Một tháp không phiền hai chủ.
Rồi
cáo tịch.
Chúng
tăng gọi:
-
Hòa thượng trụ thế nhiều năm, không thể ra đi tùy tiện
như thế!
Sư
bèn theo chúng trở lại. Chủ sự bèn biện trai; sư lại thượng
đường bảo chúng:
-
Không được gọi là có, cũng không được gọi là không;
không biết gọi là gì?
Có
ông tăng bước ra thưa:
-
Nghe nói hòa thượng có câu: Không được gọi là có, cũng
không được gọi là không, không biết hòa thượng gọi là
gì?
Sư
trân trọng cáo tịch.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Pháp
sinh diệt không thể nói là có, cũng không thể nói là không.
Sư khi lâm chung đề ra vấn đề này hy vọng tăng chúng thể
ngộ sự siêu việt sinh diệt. Chư tăng không ngộ, sư chỉ
còn cách trân trọng cáo tịch; do đó tất cả thị phi đều
im bặt.
862. Trúc biếc hoa vàng.
Hoa
Nghiêm tọa chủ hỏi Đại Châu:
-
Thiền sư vì sao không chấp nhận “Xanh xanh tạp trúc đều
là pháp thân, xum xuê hoa vàng thẩy đều bát nhã”?
-
Pháp thân không tượng, đáp lại tạp trúc mà thành hình.
Bát nhã vô tri đối hoa vàng mà hiển tướng. Không phải vì
có hoa vàng tạp trúc mà có bát nhã, pháp thân; cho nên kinh
nói “Pháp thân Phật như hư không, ứng vật hiện hình như
trăng trong nước. Hoa vàng nếu là bát nhã thì bát nhã cũng
như vô tình. Nếu tạp trúc là pháp thân thì tạp trúc có
thể ứng dụng, tọa chủ hiểu không?
-
Không hiểu ý này.
-
Đối với người kiến tánh nói được, không được đều
được, tùy dụng mà nói. Đối với người chưa kiến tánh
nói tạp trúc liền chấp tạp trúc; nói hoa vàng liền chấp
hoa vàng.; nói pháp thân liền chấp pháp thân, nói bát nhã
mà không biết bát nhã. Do đó, khởi nên tranh biện.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Pháp
thân và bát nhã đều ở khắp nơi. Huệ Trung (trong công án
866) đứng trên lập trường tự tánh (Thể); Đại Châu đứng
trên lập trường thể tướng (Dụng). Nói về Thể thì mọi
pháp đều thuộc Tánh tông, nói về Dụng thì mọi pháp đều
thuộc Tướng tông; quan sát dưới góc độ khác nhưng tánh
siêu việt chỉ là một. Do đó Diệu Hỷ nói “Một người
được Thể, một người được Dụng. người được Dụng
kiến lập trên sự, người được Thể đứng trên lý mà
tảo trừ, không thọ một hạt bụi.” Thiền sư tùy nghi nói
pháp, không chấp thị phi không quản nói tánh, nói tướng,
tùy cơ ứng biến.
863. Phổ Ân.
Phù
Phong Phổ Ân thượng tọa có bài kệ:
返
本 還 源 便 到 家
Phản
bản hoàn nguyên tiện đáo gia
亦
無 玄 妙 可 稱 誇
Diệc
vô huyền diệu khả xưng khoa
湛
然 一 片 眞 如 性
Trạm
nhiên nhất phiến chân như tánh
迷
失 皆 因 一 念 差
Mê
thất giai nhân nhất niệm sai.
Thấy được tánh là về nguồn cội
Lại không huyền diệu để khoe khoang
Rõ ràng một phiến chân như ấy
Một niệm sai thôi đủ lạc đường.
Sư tham Thiên Ninh trình sở kiến, Thiên Ninh chấp nhận; lại đến
tham Vạn Tùng. Tùng hỏi:
-
Từ đâu tới?
-
Thiên Ninh.
-
Thiên Ninh có lời gì?
Phổ
Ân thuật lại, Tùng bảo:
-
Không phải! Không phải!
-
Thiên Ninh bảo phải sao hòa thượng lại bảo không phải?
-
Thiên Ninh phải còn ta không phải.
Phù
Ân nghi ngờ không quyết; sau tham Ngọc Chi Tụ thiền sư, kể
lại chuyện trên. Tụ bảo:
-
Phải, không phải chưa ra khỏi thường tình, cả hai đều
phải ăn gậy.
-
Thế nào là ra khỏi thường tình?
Tụ
giơ một tay lên. Sư ngay đó giác ngộ. Tụ nói:
-
Ngươi đã như vậy, hãy khá hộ trì!
Lại
đọc cho bài kệ:
莫
學 支 流 辦 濁 清
Mạc
học chi lưu biện trọc thanh
是
非 盡 處 出 常 情
Thị
phi tận xứ xuất thường tình
鐵
鞭 擊 碎 珊 瑚 月
Thiết
tiên kích toái san hô nguyệt
會
看 東 山 水 上 行
Hội
khán Đông Sơn thủy thượng hành.
Chớ lấy nước sông mà phân trong đục
Phải ra khỏi thường tình mọi thị phi
Trăng san hô bị roi sắt đập thì
Mới thấy ngọn Đông Sơn đi trên nước.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Công
án này thuyết minh tự tánh siêu việt quan niệm thị phi. Câu
cuối của bài kệ nếu cứ theo thường lý thì không thể
giải thích được.
864. Trúc biếc hoa vàng.
Một
ông tăng hỏi Huệ Trung quốc sư:
-
Cổ đức nói:
青
青 雜 竹
Thanh
thanh tạp trúc
盡
是 法 身
Tận
thị pháp thân
鬱
鬱 黄 花
Uất
uất hoàng hoa
無
非 般 若
Vô
phi bát nhã
“Xanh xanh tạp trúc đều là pháp thân
Xum xuê hoa vàng thẩy đều bát nhã.”
Người
không tin cho là tà thuyết; người tin cho là không thể nghĩ
bàn. Không biết ý kiến của sư phụ thế nào?
-
Đây là cảnh giới của Phổ Hiền và Văn Thù, không phải
cảnh giới mà phàm phu và tiểu thừa tin nhận được.
(Minh
tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Lý
này hợp với kinh điển đại thừa như kinh Hoa Nghiêm nói:
“Pháp thân tràn đầy pháp giới, phổ hiện ở ngay trước
mặt chúng sanh.” Tạp trúc không ra khỏi pháp giới sao lại
không phải là Pháp thân? Kinh Bát Nhã nói:“Sắc vô biên,
bát nhã cũng vô biên. Hoa vàng đã không ra ngoài sắc vậy
sao lại không là bát nhã? Lời nói cao xa, nếu không tĩnh thì
không nắm được ý. Pháp thân là thể của tự tánh; bát
nhã là giác tánh của tự tánh. Thể đã phổ hiện quần sinh,
thì giác tánh cũng phổ biến pháp giới. Do đó không ở chỗ
nào mà không là một thể, làm sao còn phân biệt chủ khách?
865. Ngọc trong áo rách.
Có
một lần tướng quốc Bùi Hưu đến chùa Đại An, hỏi chư
tăng:
-
Mười đại đệ tử của Đức Phật, người nào cũng đứng
đầu một môn, xin hỏi La Hầu La đứng đầu môn nào?
Chư
tăng nhận rằng câu hỏi quá dễ nên đồng thanh đáp:
-
Mật hạnh đệ nhất.
Bùi
Hưu không hài lòng về câu đáp, liền hỏi:
-
Nơi đây có thiền sư không?
May
sao lúc đó Long Nha đang trồng rau ở sau vườn, chư tăng mời
ông ra. Bùi Hưu lập lại câu hỏi. Long Nha không do dự trả
lời ngay:
-
Không biết.
Bùi
Hưu nghe rồi vui mừng lạy tạ và tán thán rằng:
-
Thật đúng là ngọc quý trong áo rách!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Chúng
ta đều biết La Hầu La là mật hạnh đệ nhất. Đã là mật
hạnh thì không thể nói ra. Do đó, Bùi Hưu nhận rằng câu
đáp của Long Nha mới là đúng.
866. Chân, giả.
Đạo
Quang hỏi Đại Châu:
-
Thiền sư bình thường dụng công là dùng tâm nào để tu Đạo?
-
Lão tăng không có tâm nào để dùng, Đạo nào để tu.
-
Vậy sao mỗi ngày đều họp chúng, khuyên người tham thiền,
tu Đạo?
-
Lão tăng trên không mái ngói, dưới không đất cắm dùi, làm
gì có chỗ nào để tụ chúng.
-
Sự thực thì thiền sư hàng ngày họp chúng luận Đạo, chẳng
lẽ không phải là thuyết pháp, độ chúng sao?
-
Xin đừng đổ oan cho ta, một lời ta cũng không biết nói,
làm sao luận Đạo? Cũng không hề gập một người làm sao
độ chúng?
-
Vậy là thiền sư vọng ngữ rồi!
-
Lão tăng ngay cả lưỡi cũng không có làm sao vọng ngữ?
-
Chẳng lẽ khí thế gian, hữu tình thế gian, sự tồn tại
của thiền sư và đệ tử, tham thiền, thuyết pháp đều là
giả cả sao?
-
Đều là thật.
-
Nếu là thật thì tại sao thiền sư lại phủ nhận.
-
Giả cũng phủ nhận, thật cũng phủ nhận.
Đại
Quang đại ngộ ngay lời nói đó.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Nhận
thức chân lý có khi dùng khẳng định, có khi dùng phủ định.
Tâm kinh nói: “Sắc tức là không, không tức là sắc, thọ,
tưởng, hành, thức đều như vậy.” Đó là dùng khẵng định
để nhận thức thế gian và con người. Kinh cũng nói: “Không
mắt, tai, lưỡi, thân, ý, không sắc, thanh, hương, vị, xúc”
đó là dùng phủ định để nhận thức thế gian và con người.
Lời của Đại Châu không phải là vọng ngữ vì phủ định
tất cả cũng là khẳng định tất cả.
867. Bảo Phúc.
Thời
Hậu Đường, Bảo Phúc sắp thị tịch bảo đại chúng:
-
Gần đây khí lực ta chẳng liên tục, đại khái thế duyên
gần đứt rồi.
Chúng
đệ tử nghe vậy nhao nhao thưa:
-
Sư phụ pháp thể hãy còn mạnh lắm!
-
Đệ tử chúng con còn cần thầy chỉ Đạo.
-
Yêu cầu sư phụ thường trú thế gian vì chúng sanh thuyết
pháp.
Đại
chúng nghị luận bất nhất, có một đệ tử hỏi:
-
Thời hạn đến, sư phụ đi tốt hay ở lại tốt?
-
Ngươi nghĩ làm sao mới tốt?
-
Sinh cũng tốt, tử cũng tốt; tất cả đều tùy duyên.
Bảo
Phúc cười ha hả nói:
-
Không ngờ điều ta định nói đã bị ngươi nghe trộm rồi.
Nói
xong kết phu già thị tịch.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
đời coi sinh là vui, tử là buồn; nhưng dưới mắt người
ngộ đạo thì sinh cũng chẳng vui, tử cũng chẳng buồn. Sinh
và tử là một thể, hai mặt. Sinh tử tuần hoàn là luật
tự nhiên. Không thiếu gì thiền sư nói sinh tử đối với
họ vô can như Tông Diễn nói: “Sinh tử của con người ví
như bọt nước sinh diệt đều trở về nước.”
868. Đi ra.
Hoàng
Long Huệ Nam hỏi một ông tăng đứng bên:
-
Trăm ngàn tam muội, vô lượng pháp môn, tóm lại thành một
câu rồi bảo cho ngươi, ngươi có tin không?
-
Lời sư phụ chân thành sao con lại không tin.
Hoàng
Long chỉ về phía trái bảo:
-
Ngươi đi sang bên này.
Ông
tăng đi sang phía trái, Hoàng Long mắng:
-
Theo tiếng rượt sắc, biết bao giờ mới xong, đi ra!
Một
ông tăng khác biết được chuyện liền chạy vào.Hoàng Long
cũng dùng câu hỏi trước hỏi ông, ông tăng này đáp:
-
Sao dám không tin.
Hoàng
Long chỉ tay về phía phải nói:
-
Đi sang bên này.
Ông
tăng vẫn đứng yên. Hoàng Long mắng:
-
Ngươi đến thân cận ta mà không nghe lời ta, đi ra!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đối
với người chưa ngộ thì bên này không đúng, bên kia cũng
không đúng; nhưng đối với người ngộ đạo thì sơn hà
đại địa đều là Phật pháp. Bảo đi sang bên này, bên này
không đúng. Bảo đi sang bên kia, bên kia cũng sai. Bên
này, bên kia đều phải đi ra vì học tăng chưa khế tâm. Giả
như học tăng đi sang trái rồi đi sang phải, sau đó đứng
yên ở chỗ cũ không biết Hoàng Long còn có cao chiêu gì nữa?
869. Không có một pháp nào để được.
Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch hỏi Song Phong:
-
Sư đệ, gần đây ngươi có kiến địa gì?
-
Như chỗ đệ biết thì không có một pháp nào để được.
-
Vậy là ngươi còn ở trần cảnh.
-
Vì sao?
-
Ngươi nói không một pháp có thể được là còn một pháp
có thể được.
-
Đệ chỉ làm được thế, căn chẳng theo trần, tâm chẳng
ở cảnh, sư huynh thấy thế nào?
-
Sao sư đệ không truy cứu không một pháp có thể được?
Lão
sư Quy Sơn đứng bên nghe lời nói đó vui mừng khen:
-
Huệ Tịch, câu nói này của ngươi có thể nghi hoặc người
thiên hạ.
Song
Phong không hiểu nếu đã không một pháp để được làm sao
còn truy cứu. Quy Sơn biết tâm ý Song Phong bèn bảo:
-
Ngươi chính là người thiên hạ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Sự
tu hành của thiền giả là tu hành pháp môn không tu, là chứng
quả vị không chứng, bởi vì không tu là chân tu, không chứng
là thật chứng.
870. Phiền não của Phật.
Một
tín đồ hỏi Triệu Châu:
-
Phật có phiền não không?
-
Có.
-
Làm sao hiểu được đây? Phật là người đã giải thoát
làm sao còn có phiền não?
-
Là vì người còn chưa được độ.
-
Giả như con tu hành được độ, Phật có phiền não không?
-
Có.
-
Con đã được độ rồi sao Phật còn phiền não?
-
Vì còn tất cả chúng sanh.
-
Đương nhiên không thể độ được tất cả chúng sanh vậy
Phật vĩnh viễn ở trong phiền não không thể siêu việt?
-
Đã siêu việt, thì không phiền não.
-
Chúng sanh không được độ hết vì sao Phật lại không phiền
não?
-
Vì tự tánh của chúng sanh đã độ hết.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phiền
não của phàm phu là do vô minh vọng tưởng sinh ra; phiền não
của Phật là do tâm từ bi mà ra, từ bát nhã mà nói thì Phật
không phiền não.
871.
Tâm và tánh.
Một
ông tăng đến tham học Nam Dương Huệ Trung quốc sư, hỏi:
-
Thiền là biệt danh của tâm. Tâm ở Phật không tăng, ở phàm
không giảm, chân như thiệt tánh. Chư tổ Thiền tông gọi
tâm này là tánh. Xin hỏi tâm và tánh sai biệt thế nào?
-
Khi mê thì có sai biệt, ngộ rồi thì không sai biệt.
-
Kinh nói Phật tánh thường còn, tâm thì vô thường sao thầy
nói không sai biệt?
-
Ngươi chỉ theo lời mà không theo ý. Nước khi lạnh đóng
thành băng, khi nóng băng chẩy thành nước. Mê thì kết tánh
thành tâm, ngộ thì tâm tan thành tánh.
Học
tăng cuối cùng đã hiểu.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Trong
Phật giáo tâm tánh có rất nhiều tên như: bản lai diện mục,
như lai tạng, pháp thân, thật tướng, tự tánh, chân như,
bản thể, chân tâm, bát nhã, thiền. . . mê ngộ tuy có sai
biệt, bản tánh thì không khác như dùng vàng chế các đồ
trang sức: bông tai, nhẫn, vòng . . . Các đồ trang sức tuy
khác nhau nhưng đều cùng là vàng. Tâm và tánh danh tuy khác
nhưng đều là bản thể của chúng ta.
872. Không phải lời ngươi nói.
Văn
Yển mới đầu đến tham Tuyết Phong, đến Tuyết Phong trang
gập
một học tăng liền hỏi:
-
Hôm nay ông định lên núi có phải không?
-
Phải.
-
Nhờ ông chuyển giùm một câu cho Tuyết Phong nhưng đừng bảo
là ta nói.
-
Được.
Ông
lên núi, khi phương trượng thượng đường, đại chúng tập
họp, ông bước ra nắm lấy tay phương trượng nói: “Lão
đầu tử, cổ mang gông sắt sao không cổi ra?”
Ông
tăng làm đúng như lời dặn của Văn Yển. Tuyết Phong nghe
rồi nắm ngực ông tăng bảo:
-
Đây không phải lời ngươi nói.
-
Là của con.
Tuyết
Phong hét lớn:
-
Thị giả! Mang dây thừng và gậy ra đây.
Ông
tăng hoảng sợ vội nói lại:
-
Không phải lời của con mà là của Văn Yển từ Triết Giang
tới bảo con nói thế.
Tuyết
Phong bảo đại chúng:
-
Các ngươi mau nghênh tiếp vị đại sư của 500 chúng.
Hôm
sau Văn Yển đến gập Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
-
Ông sao được cảnh giới này?
Văn
Yển cúi đầu. Từ đó thầy trò tâm tâm khế hợp. Văn Yển
lưu lại nơi Tuyết Phong và được Tuyết Phong truyền cho thiền
pháp.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Trong
thiền giới, chân không thể giả, giả không thể chân. Ngộ
đạo cân lượng bao nhiêu người sáng mắt nhìn là biết ngay.
873. Chữ suôi ngược.
Một
chú sa di tâm đầy nghi vấn, hỏi Vô Danh:
-
Thiền sư, thầy nói người học Phật phải phát tâm phổ
độ chúng sanh nay nếu có người ác mất hết cả nhân tính,
thì có độ hắn không?
Thiền
sư không trả lời ngay mà cầm bút viết một chữ “ngã”
ngược trên giấy rồi hỏi:
-
Đây là gì?
-
Đó là một chữ viết ngược.
-
Chữ gì?
-
Chữ ngã.
-
“Ngã” viết ngược có phải là chữ không?
-
Không phải.
-
Nếu không phải sao ngươi nói là chữ “ngã”?
-
Phải.
-
Nếu là phải sao ngươi nói là ngược?
Tiểu
sa di không biết đáp làm sao.
-
Viết suôi là chữ, viết ngược cũng là chữ. Ngươi nói đó
là chữ “ngã”, lại nhận biết là viết ngược. Chủ yếu
là ngươi nhận được chữ “ngã.” Trái lại, nếu ngươi
không biết chữ thì ta có viết ngược ngươi cũng không biết.
Cũng như vậy, người tốt là người, người xấu cũng là
người; tối trọng yếu là ngươi nên biết bản tánh của
người. Khi gập người ác ngươi có thể nhìn thấy thiện
ác của hắn, liền gọi bản tánh hắn ra. Bản tánh đã sáng
thì độ không khó.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
thiện nên độ, người ác lại càng nên độ. Đất bùn càng
bẩn thì càng dễ cho hoa sen thanh tịnh; buông dao đồ tể lập
tức thành Phật. Cái gọi là thiện ác, suôi ngược chỉ trong
một niệm. Thiện, ác là pháp, pháp không thiện ác. Từ bản
tánh mà nhìn thì không có người nào là không độ được.
874. Địa ngục và thiên đường II.
Một
tín đồ hỏi Vô Đức:
-
Thiền sư, con học thiền nhiều năm nhưng vẫn không khai ngộ,
đối với các kinh điển nói địa ngục, thiên đường rất
hoài nghi, ngoài thế gian ra còn chỗ nào là địa ngục, thiên
đường nữa?
Vô
Đức không trả lời ngay chỉ bảo tín đồ ra bờ sông múc
một thùng nước về. Khi tín đồ mang thùng nước đến trước
mặt Vô Đức. Vô Đức bảo:
-
Ngươi hãy nhìn kỹ mặt nước, có thể phát giác được địa
ngục và thiên đường.
Tín
đồ lấy làm kỳ quái, tập trung tinh thần xem mặt nước.
xem một lúc chẳng thấy gì. Vô Đức đột nhiên dìm đầu
ông xuống nước. Ông khổ sở vùng vẫy tưởng chừng sắp
hết hơi, thiền sư liền buông tay ra. Tín đồ vừa thở dốc
vừa mắng chửi:
-
Thầy thiệt thô lỗ, dìm đầu con xuống nước, thầy có biết
là con
khổ
sở như đang ở địa ngục không?
-
Hiện tại ngươi thấy thế nào?
-
Bây giờ có thể hít thở tự do, con thấy sướng như ở thiên
đường.
-
Chỉ một tý công phu thiên đường, địa ngục ngươi đều
đi qua, sao ngươi còn chưa tin có địa ngục, thiên đường.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
chưa đi Âu Châu, không tin có Âu Châu. Đó là vô tri. Nhưng
không thể vì vô tri mà phủ nhận sự tồn tại của Âu Châu.
Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Người thông minh không cần
thấy nghe nhưng có thể cảm thọ.
875. Im lặng không lời.
Khi
Hoàng Long trú tại Tĩnh Giới Tự, có một lần cùng Động
Sơn Viên thiền sư tương kiến. Hoàng Long im lặng, hai người
đốt hương ngồi đối mặt từ quá ngọ cho tới thâu đêm.
Động Sơn Viên thiền sư đứng dậy nói:
-
Đêm khuya rồi, làm phiền thầy nghỉ ngơi.
Nói
rồi đi.
Hôm
sau, Hoàng Long hỏi thủ tòa:
-
Khi ông ở Lư Sơn có biết Động Sơn Viên trưởng lão không?
-
Không biết chỉ nghe danh.
Ngừng
một lát thủ tòa hỏi:
-
Lão sư lần này gập mặt thấy trưởng lão thế nào?
-
Kỳ nhân.
Thủ
tòa thối lui hỏi thị giả:
-
Khi lão sư và ông gập Động Sơn hai người bàn chuyện gì
trong đêm?
Thị
giả thuật lại hai người ngồi đối mặt không nói gì cả.
Thủ tòa hít một hơi dài rồi kêu lớn:
-
Thật là nghi giết người thiên hạ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Giữa
người với người, dùng lời nói để trao đổi ý kiến.
Có nhiều khi càng nói càng hỗn loạn. Thiền bất lập văn
tự, thiền sư truyền đạo có lúc nhăn mày, chớp mắt, có
khi dùng gậy hét, đánh, cười, mắng đều là dạy trực tiếp
như Hoàng Long và Động sơn, hai người tuy không nói nhưng
tâm tâm tương ứng, lão thủ tòa hà tất đa nghi, chẳng qua do đa nghi mới vào được thiền.
876. Ngươi hãy bảo trọng.
Linh
Huấn tham học ở Lư Sơn với Quy Tông.Một hôm động niệm
muốn xuống núi bèn cáo từ Quy Tông. Quy Tông hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Về Lãnh Trung.
Quy
Tông từ bi quan tâm:
-
Ngươi tham học ở đây 13 năm, hôm nay muốn đi; ta nên vì
ngươi mà chỉ thị một chút tâm yếu của Phật pháp, ngươi
thu xếp hành lý xong hãy đến gập ta.
Linh
Huấn sửa soạn hành lý xong để ở ngoài cửa, vào gập Quy
Tông. Quy Tông gọi:
-
Hãy đến trước mặt ta.
Linh
Huấn bước lại gần. Quy Tông nhỏ nhẹ:
-
Trời lạnh lắm, ngươi đi đường phải tự bảo trọng.
Linh
Huấn ngay câu nói đó hốt nhiên triệt ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Tâm
yếu Phật pháp của Quy Tông là gì? Là từ bi tâm, bồ đề
tâm, bát nhã tâm. Nói tóm lại một lời là thiền tâm. Tu
học Phật pháp chưa thành mà đã bỏ cuộc là không chịu
trách nhiệm đối với chính mình. “Trời lạnh lắm” là
một câu quan tâm; “Ngươi hãy tự bảo trọng” là lời khích
lệ. Mọi người đều quan tâm đến mình, sao ngươi không
tự quan tâm? Linh Huấn cuối cùng đã về nhà nhận thức chính
mình. Thiền có khi nói hết thiên kinh vạn luận mà chưa tới
bờ bến; có lúc chỉ sơ sài một câu, một động tác mà
vào đến tận xương tủy của bản lai diện mục. Lòng từ
bi, quan tâm của Quy Tông cũng là do 13 năm tu học và quán chiếu
của Linh Huấn. Linh Huấn triệt ngộ là do cơ duyên đã chín
mùi. Cơm chưa chín đừng mở vung, trứng chưa thành đừng
mổ. Thật không phải là chuyện hư giả.
877. Nước mắt thiền sư.
Một
lần, Không Dã đi hoằng pháp qua một con đường núi. Bỗng
nhiên có nhiều thổ phỉ xuất hiện, giơ dao đòi tiền mãi
lộ. Không Dã nhìn thấy bỗng nhiên rơi lệ. Bọn thổ phỉ
thấy Không Dã khóc thì cười ha hả:
-
Lão xuất gia này mật nhỏ!
Không
Dã nói:
-
Đừng tưởng ta sợ các ngươi mà rơi lệ. Sinh tử ta sớm
đã gác qua một bên rồi. Ta chỉ nghĩ các ngươi là những
người tuổi trẻ, khỏe mạnh không làm việc gì ích lợi
cho xã hội mà lại tụ tập ở đây để ăn cướp. Dĩ nhiên
pháp luật và đạo đức xã hội đã không dung tha các ngươi,
tương lai các ngươi còn bị sa địa ngục chịu khổ tam đồ.
Vì thương các ngươi cho nên ta mới rơi lệ.
Bọn
cướp nghe lời, cuối cùng xả bỏ lòng tham dục, sân hận
quy y với Không Dã.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Có
nước mắt bi thương, hoan hỉ, cảm động, cũng có nước
mắt từ bi. Nước mắt của Không Dã là nước mắt từ bi,
là do tâm từ bi chẩy ra. Bọn cường đạo đã bị những
giọt nước mắt từ bi của Không Dã dập tắt lòng sân hận,
tà niệm. Người có thiền tâm lấy lòng từ bi, nước mắt
từ bi mà rửa sạch tội nghiệp thế gian.
878. Vả vào mồm.
Có
ông tăng gõ cửa. Trần Tôn Túc hỏi:
-
Làm gì đó?
-
Việc lớn chưa rõ, cần thầy chỉ thị.
-
Nơi đây chỉ có gậy.
Sư
vừa mở cửa, ông tăng định mở miệng hỏi, sư liền vả
vào mồm.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
“Sự
lớn chưa rõ” là chỉ ông tăng tự mình triệt để quán
chiếu mà chưa thấy bản lai diện mục, do đó cần thầy chỉ
điểm. Tự tánh là phải tự mình thể nghiệm, không ai có
thể thay thế cho mình. Cái mà ông thầy có thể giúp được
là bảo cho đồ đệ đem tất cả những gì kinh nghiệm, tri
thức, quan niệm trong quá khứ trừ bỏ đi, ngay cả hy vọng
được vào thiền cảnh cũng bỏ luôn thì mới có thể tương
ưng được với tự tánh. Khi ông tăng chưa kịp mở miệng,
Trần Tôn Túc đã cho ông một vả mạnh. Trong sát na kinh ngạc
ấy có thể ông tăng đã bỏ được tất cả vọng tưởng
mà tiến vào ngộ cảnh. Hoặc ít ra cũng giúp ông tăng không
nói ra những vọng niệm. Công án này không ghi lại phản ứng
của ông tăng cho nên chúng ta không biết được kết quả
của cái vả miệng đó thế nào!
879. Đốn tiệm.
Có
ông tăng hỏi Ngưỡng Sơn Tây Tháp:
-
Thế nào là đốn?
Sư
vẽ vòng tròn chỉ thị.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Đốn
giáo là Đạo pháp chỉ thẳng khiến cho người thượng căn
trí đốn ngộ Phật quả. Vì vậy đốn giáo không dùng ngôn
ngữ giải thích, chỉ có thể tự chứng. Nếu dùng ngôn ngữ
thuyết minh sẽ rơi vào tiệm giáo. Trong công án trên nếu
ông tăng suy nghĩ về vòng tròn thì không thể nào tìm ra lời
đáp vì một niệm động tức càng xa lìa Đạo. Ngược lại,
nếu ông tăng bỏ hết vọng tưởng, ngay cả tâm tìm lời
đáp cũng vất bỏ thì mới vượt được thế giới nhị nguyên
phân biệt của hiện tượng giới, vào thẳng thế giới tuyệt
đối bình đẳng của cảnh giới giác ngộ tương ưng cùng
với kinh ngiệm nội chứng của lão sư. Lúc đó đáp án sẽ
trình hiện: đốn chính là tự tánh tròn đầy vô ngại.
880. Chết đi sống lại.
Có
một lần, Nam Tuyền đang ngồi thiền bỗng hét lên một tiếng
lớn khiến thị giả giật mình vội chạy lại bên. Nam Tuyền
bảo:
-
Ngươi hãy đến Nát Bàn Đường xem có phải có người vừa
mất không?
Thị
giả vừa đi được nửa đường thì gập Nát Bàn đường
chủ, do đó cùng đi báo cáo Nam Tuyền:
-
Vừa có một ông tăng viên tịch
Thị
giả và Nát Bàn đường chủ vừa nói dứt thì thấy tri khách
tăng hốt hoảng chạy tới hướng Nam Tuyền thưa:
-
Ông tăng vừa mất đã sống lại rồi.
Nam
Tuyền hỏi:
-
Ông ta hiện thế nào rồi?
-
Ông ta muốn gặp sư phụ, nhưng đó là ông tăng không chịu
tu phúc cũng không chịu kết duyên.
Do
đó, Nam Tuyền đến gặp ông tăng bệnh, hỏi:
-
Vừa rồi ngươi đi đâu?
-
Con tới âm gian.
-
Tình hình âm gian thế nào?
-
Con đi được chừng 100 dậm thì chân tay bủn rủn không đi
được nữa, miệng rất khát. Bỗng có một người kêu vào
tòa lâu đài. Lúc đó, con rất mệt muốn vào đó nghỉ ngơi.
Vừa bước vào thì thấy một vị lão tăng hét lớn ngăn không
cho con vào. Tiếng hét lớn khiến con ngã bật ra đằng sau;
do đó mà con còn thấy được lão sư.
Nam
Tuyền bảo ông tăng:
-
Đó là một tòa lâu đài tráng lệ; nhưng nếu không tích phúc
thì làm sao vào được. Nếu như ngươi không gập lão tăng
thì ngươi đã sa địa ngục, chịu khổ rồi!
Từ
đó về sau ông tăng bệnh không ngừng tích đức tu phúc sống
đến ngoài 70 tuổi mới an nhiên tọa hóa.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Nam
Tuyền trong cơn đại định có thể lên trời, xuống đất,
có thể hét lớn khiến một người đã chết có thể trở
lại dương gian. Người ta thường nói các thiền sư hay đi
nguợc lại nhân tình, nhưng Nam Tuyền thì rất quan tâm và
thương mến đệ tử. Đệ tử đã sa địa ngục rồi còn
cứu sống lại để ông ta có một cơ hội “Lãng tử hồi
đầu, vàng cũng không chuyển.” Do đó, thiền cũng có khi
khổ tâm thuận theo nhân tình.
881. Phật nay ở đâu?
Đường
Thuận Tông có một lần hỏi Như Mãn:
-
Phật từ phương nào tới, nhập diệt đi về đâu? Nói Phật
thường trụ thế, nay Phật ở đâu?
-
Phật từ vô vi tới, nhập diệt về vô vi, pháp thân ngang
hư không, thường trú ở nơi vô tâm, hữu niệm trở về vô
niệm, có trú trở về vô trú; đến vì chúng sanh đến, đi
vì chúng sanh đi, thể thanh tịnh trong sáng thường trú, người
trí biết suy nghĩ thì không bị nghi hoặc.
-
Phật sanh ở hoàng cung, diệt ở Sa La song thụ, giảng pháp
49 năm lại nói không nói một lời, sơn hà đại địa, mặt
trời, mặt trăng đến kỳ cũng tận, ai nói không sinh diệt?
Người trí là người giỏi phân biệt.
-
Phật thể vốn vô vi, mê tình vọng phân biệt, pháp thân ngang
hư không, chưa từng sanh diệt, hiểu được chỗ vô tâm thì
tự nhiên thấy không có pháp nào để nói cả.
Thuận
Tông nghe rồi vui vẻ, càng coi trọng Như Mãn.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Có
người hỏi A Di Đà Phật ở Tây Phương Tịnh Độ, Dược
Sư Phật
ở
Đông Phương thế giới, còn Thích Ca Phật nay ở đâu? Kỳ
thật Phật Thích Ca ở Thường Tịch Quang Độ, nhưng Thường
Tịch Quang Độ ở đâu? Vấn đề này thiền giả trả lời
rất hoạt bát: Hữu tâm nhìn thế giới thấy có sinh diệt,
có Ứng thân Phật; vô tâm nhìn thế giới vô sinh diệt, có
Pháp thân Phật. Vô tâm chính là Thiền tâm. Chỉ có dùng Thiền
tâm mới biết Phật ở đâu. “Có duyên Phật xuất thế,
vô duyên Phật nhập diệt.” Chữ diệt ở đây không có nghĩa
sinh diệt mà là cảnh giới Niết Bàn. Tại Thường Tịch Quang
Độ, diệt trừ mọi phiền não, sai biệt, đối đãi, là thế
giới tuyệt đối, tịch diệt giải thoát.
882. Cầu Phật và hỏi Đạo.
Đời
Đường, Dương Đình Quang gập Bản Tĩnh ở núi Tư Không hỏi:
-
Sanh tử là việc lớn, vô thường đến mau, con một lòng một
dạ cầu Đạo, xin thầy từ bi khai thị.
-
Ông từ kinh đô đến, nơi đó có nhiều thiền giả ông hỏi
các vị đó là hơn, đối với Đạo ông vừa hỏi, ta chẳng
biết gì cả.
Dương
Đình Quang năn nỉ xin chỉ dạy, Bản Tĩnh bảo:
-
Ông muốn cầu Phật hay hỏi Đạo? Nếu cầu Phật thì tâm
là Phật; nếu hỏi Đạo thì vô tâm là Đạo.
Dương
Đình Quang vẫn chưa hiểu rõ, nên Bản Tĩnh lại giảng thêm:
-
Tâm là Phật vì Phật là do tâm mà được, nếu ngộ vô tâm
thì ngay cả Phật cũng không có. Do đó vô tâm là Đạo.
-
Các Đại đức ở kinh thành đều nói phải bố thí, trì giới
để cầu Phật, nay thầy nói trí huệ Bát Nhã vốn tự đầy
đủ không phải do tu mà được; như vậy những gì con bố
thí, trì giới lúc trước đều là phí công?
Bản
Tĩnh nói chắc như đinh đóng cột:
-
Phí công rồi!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Giống
như Đạt Ma khi Lương Võ Đế hỏi về công đức đã trả
lời “Chẳng có công đức gì cả.” Tự tánh ai ai cũng có,
không thể cầu được, do đó nói vô công đức. nhưng làm
sao kiến tánh thành Phật? Bờ bên kia tuy có, nhưng nếu không
có bè thật thì làm sao qua?
Cho
nên công đức bố thì, trì giới làm được càng nhiều càng
tốt.
883. Không hổ là thị giả.
Một
lần Thạch Thê thấy thị giả bưng bát đi về phía trai đường
bèn gọi lại hỏi:
-
Ngươi đi đâu?
-
Đến trai đường.
-
Thấy ngươi bưng bát sao ta lại không biết là ngươi đến
trai đường?
-
Đã biết sao còn bắt con trả lời?
-
Đó là ta muốn hỏi bản phận sự của ngươi.
-
Nếu thầy hỏi bản phận sự của con thì con thực muốn đến
trai đường.
Thạch
Thê vỗ tay khen:
-
Ngươi thật không hổ là thị giả của ta.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Bản
phận sự là gì? là minh tâm kiến tánh, là thoát khỏi sanh
tử, là về nhà, là nhận rõ bản tánh, an trú thân tâm, từ
bi nhẫn nại phát tâm làm việc. Trong sinh hoạt của nhà Thiền
không đâu không là thiền: ăn là thiền, ngủ là thiền, đi
đứng nằm ngồi, xách nước bửa củi không việc nào không
là thiền. Thiền không những bao hàm sinh hoạt lại bao hàm
cả vũ trụ. Nếu chúng ta làm việc cho tốt, không vọng cầu,
đó là bản phận sự, cũng là thiền tâm vậy.
884. Tuyết Phong và Tây Sơn.
Một
ông tăng hỏi Tây Sơn:
-
Ý tồ sư từ Tây sang là gì?
Tây
Sơn giơ phất trần lên, ông tăng không hiểu lại đến gặp
Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
-
Ngươi từ đâu đến?
-
Hạ này từ Tô Châu Tây Sơn đến.
-
Tây Sơn có mạnh không?
-
Khi con tới, tất cả đều an lành.
-
Vì sao ngươi không ở lại học với người?
-
Vì Tây Sơn không hiểu tổ sư thiền.
-
Sao ngươi biết?
-
Khi con hỏi “Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?” Tây Sơn
chỉ giơ
phất
trần lên, không đáp được một lời nào.
-
Ngươi có thấy nam nữ ở Tô Châu không?
-
Có thấy.
-
Vậy là đúng rồi! Ngươi thấy nam nữ, biết là nam nữ khác
nhau; ngươi thấy cây cỏ hoa lá, biết chúng đều có tên gọi
và công dụng khác nhau. Sơn hà đại địa, cỏ cây hoa lá
chưa nói pháp với ngươi, nhưng ngươi vẫn rõ ý chúng phải
không?
-
Phải.
-
Tây Sơn giơ phất trần lên là chỉ Phật pháp sao ngươi lại
không hiểu.
Ông
tăng nghe lời, có chỗ tỉnh ngộ liền lạy và thưa:
-
Con thốt lời bất cẩn, thỉnh thầy từ bi cho con trở lại
Tây Sơn
sám
hối.
-
Cả càn khôn là một con mắt, ngươi hướng chỗ nào để
lạy?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Mắt
thịt không thấy phất trần, nhưng mắt huệ thấy cả càn
khôn, đâu đâu cũng là Phật pháp. Do đó ông tăng cuối cùng
đã hiểu giơ phất trần lên là ý gì.
885. Buông bỏ.
Kim
Đại rất thích hoa lan. Bên sân chùa trồng cả trăm chậu
lan, đủ mầu đủ loại. Ngoài giảng kinh, thuyết pháp ông
để hết tâm trí săn sóc hoa. Mọi người đều nói hoa Lan
là sinh mạng của thiền sư. Một hôm, ông có việc phải ra
ngoài, dặn một đệ tử tưới cho hoa. Người đệ tử này
sơ ý làm đổ giàn hoa khiến các bồn lan đều bị đổ vỡ.
Người đệ tử nghĩ sư phụ về chắc sẽ tức giận lắm.
Ông bàn với các huynh đệ sẽ dũng cảm nhận tội, chịu
bất cứ hình phạt nào. Khi Kim Đại về, nhìn thấy cảnh
tượng này, không một chút tức giận, tâm bình khí hòa bảo
đồ đệ:
-
Ta sở dĩ yêu hoa lan là để dùng hương cúng Phật, lại còn
làm đẹp cảnh chùa nữa, chứ không phải trồng để nổi
giận. Tất cả mọi sự việc ở thế gian đều vô thường,
không nên chấp vào sự vật ưa thích mà không buông bỏ được
vì đó không phải là đường lối của người tu Thiền.
Người
đệ tử nghe rồi hết thấp thỏm, càng tinh tấn trên đường
tu học.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Ở
đời việc khó nhất là có thể buông bỏ. Những gì mình
ưa thích không thể bỏ xuống được. Cả những gì mình không
ưa thích cũng không bỏ được. Đó là vì ái và hận. Vậy
làm sao có được cái vui tự chủ? Phải làm sao để được
không ái, không hận như Tâm Kinh nói: “viễn ly điên đảo
mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.” Câu nói của Kim Đại
“trồng hoa không phải để nổi giận” thật là thiền công
rất cao vậy.
886. Vân thủy tùy duyên.
Pháp
Nhãn tham học với Khánh Huy mãi vẫn không khế ngộ, bèn từ
biệt đi vân du. Một hôm, trên đường gập mưa, tạm
trú ở một tòa Địa Tạng Viện. Tri khách tăng hỏi:
-
Thiền sư định đi đâu?
-
Không mục đích, chỉ tùy tiện thôi.
-
Thầy đối với phương thức vân du tứ phương có cảm thọ
gì?
-
Vân thủy tùy duyên.
-
Câu nói này thật là tiêu dao tự tại.
Pháp
Nhãn nghe rồi đối tiêu dao tự tại bỗng có sở cảm.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
ta sống ở trên đời đi Đông, đi Tây, mấy ai có thể vân
thủy tùy duyên, huống chi lại còn tiêu dao tự tại.
887. Diệu dụng của Thiền.
Tiên
Nhai trên đường hoằng pháp gập một cặp vợ chồng đang
cãi lộn.
Vợ:
-
Ông không phải là trượng phu, không có một điểm nào là
đàn ông.
Chồng:
-
Bà mắng tôi? Nếu còn nói thế nữa tôi sẽ đánh bà.
Vợ:
-
Tôi cứ mắng! Ông thật không giống đàn ông.
Tiên
Nhai kêu gọi người qua đường:
-
Mọi người mau tới xem! Xem đấu bò, chọi dế, đá gà đều
phải mua vé, hiện đấu người không phải mua vé, lại xem
mau!
Hai
vợ chồng vẫn tiếp tục cãi lộn.
Chồng:
-
Bà mà nói tôi không phải là đàn ông một lần nữa tôi sẽ
giết bà.
Vợ:
-
Ông cứ giết đi, tôi vẫn cứ nói ông không phải là đàn
ông.
Tiên
Nhai:
-
Bây giờ lại muốn giết nhau, mau lại xem.
Người
đi đường:
-
Hòa thượng, thầy làm gì mà kêu loạn lên thế? Vợ chồng
người ta cãi lộn, quan hệ gì đến thầy?
Tiên
Nhai:
-
Sao lại không? Ngươi không nghe họ nói giết người sao? Có
người chết thì cần phải có hòa thượng tụng kinh, có tụng
kinh thì ta lại có phong bao.
Người
đi đường:
-
Chuyện lạ, vì phong bao mà hy vọng có người bị giết sao?
Tiên
Nhai:
-
Hy vọng không bị giết cũng được, vậy thì ta sẽ thuyết
pháp.
Lúc
đó hai vợ chồng đang cãi nhau cũng ngưng lại xem Tiên Nhai
và người đi đường tranh luận cái gì.
Tiên
Nhai hướng về cặp vợ chồng vừa cãi nhau nói:
-
Trời lạnh, băng tuyết dù dầy khi mặt trời lên cũng bị
tan, rau dưa tuy lạnh, củi lửa nấu cũng chín. Vợ chồng vì
có duyên mới được cùng chung sống. Ta muốn được là mặt
trời sưởi ấm mọi người, làm củi lửa đun rau cho chín,
hy vọng hai vợ chồng hãy thương yêu và kính trọng lẫn nhau.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Tiên
Nhai ứng dụng Thiền một cách thật linh động.
888. Một khối củi.
Thạch
Đầu Hi Thiên trú ở Hồ Nam, một lần hỏi một ông tăng
mới đến:
-
Ngươi từ đâu lại?
-
Từ Giang Tây.
-
Vậy ngươi có tới Mã đại sư không?
-
Dạ có.
Thạch
Đầu thuận tay chỉ đống củi hỏi:
-
Mã Tổ có giống đống củi này không?
Ông
tăng không trả lời được, ở nơi Thạch Đầu không khế
hợp
được,
lại quay lại Giang Tây, thuật cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ cười
hỏi:
-
Ngươi thấy đống củi đó nặng bao nhiêu?
-
Con không xem kỹ.
-
Ngươi thật rất khỏe!
-
Vì sao vậy?
-
Ngươi từ Nam Nhạc xa xôi, vác một đống củi về đây chẳng
là mạnh lắm sao?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đời
Đường, các thanh niên tăng không đến Giang Tây tham học Mã
Tổ thì đến Hồ Nam tham học Thạch Đầu. Đó là căn nguyên
của từ ngữ giang hồ, chỉ sự tham học. Về sau từ ngữ
này biến nghĩa thành lão luyện, thậm chí còn chỉ những
người bán cao đơn, hoàn tán. Ông tăng trên chạy tới chạy
lui cũng tỷ như các tín đồ ngày nay hết đi chùa nọ tới
chùa kia, vác một đống củi tới, lui mà chẳng biết nặng
bao nhiêu!
889. Đi tham mùi khai.
Đời
Tống, Giang Tây Tòng Duyệt tham phỏng Vân Cái, nói chưa được
vài câu, Vân Cái bảo:
-
Tuy ngươi là thủ tọa Trường Sa Đạo Ngô Sơn, nhưng ngươi
nói như người say ruợu.
Tòng
Duyệt đỏ mặt thưa:
-
Xin hòa thượng từ bi khai thị cho.
-
Ngươi có tham Xương thiền sư không?
-
Học nhân có xem ngữ lục của ngài, đã dung hội tại tâm
nên không đến tham phỏng.
-
Vậy ngươi có tham Động Sơn Khắc Văn không?
Tòng
Duyệt khinh thường trả lời:
-
Động Sơn Khắc Văn ư? Cả ngày khùng khùng điên điên, mặc
hoài một cái quần vải khai nồng mùi nước tiểu, thật chẳng
giống một vị thiền giả.
Vân
Cái nghiêm trang bảo:
-
Thiền chính tại nơi đó, ngươi hãy đi tham phỏng vị nước
tiểu khai nồng đó.
Tòng
Duyệt thấy Vân Cái dặn dò cẩn thận như thế bèn y lời;
sau
khi
thâm lãnh áo chỉ về tạ ơn Vân Cái. Vân Cái hỏi:
-
Ngươi tham Động Sơn Khắc Văn thế nào?
-
Nếu không được thiền sư chỉ thị, học tăng đã uổng
phí kiếp này, vì vậy đến lạy tạ.
-
Tạ cái gì, tạ mùi nước tiểu khai là được!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Trông
mặt mà bắt hình dong là thông bệnh của người đời. Thiền
ở đâu? Thiền không ở tướng mạo trang nghiêm, cũng không
ở quần áo đẹp, một quần vải khai mùi nước tiểu chỉ
con mắt tuệ mới nhìn thấy chân cảnh, là hoa sen mọc trong
bùn nhơ, là châu ngọc trong đất đá.
890. Chỉ trộm một lần.
Thạch
Thất đi du phương gập một người, họ mải nói chuyện không
biết trời đã tối. Hai người do đó cùng vào một quán trọ
qua đêm. Nửa đêm, Thạch Thất nghe có tiếng động bèn hỏi:
-
Trời sáng rồi sao?
-
Chưa, hãy còn tối.
Thạch
Thất nghĩ một người đêm tối mà đã thức chắc phải là
một người tu Đạo cao hoặc có thể là một vị La Hán không
chừng, bèn hỏi:
-
Ngươi là ai?
-
Kẻ trộm.
-
A! Thì ra là kẻ trộm, ngươi trộm bao nhiêu lần rồi?
-
Nhiều không đếm hết.
-
Mỗi lần trộm vui được bao lâu?
-
Tùy theo vật trộm có giá nhiều ít.
-
Lần vui nhất được bao lâu?
-
Chỉ được vài ngày, sau đó hết vui.
-
Chỉ là trộm nhỏ, sao không làm một vố thiệt lớn?
-
Ông có kinh nghiệm không? Trộm bao nhiêu lần rồi?
-
Chỉ một lần.
-
Một lần có đủ không?
-
Chỉ một lần dùng cả đời không hết.
-
Vật trộm ở đâu? Ông dạy tôi được không?
Thạch
Thất nắm lấy ngực tên trộm bảo:
-
Cái này là bảo tàng vô cùng tận, ngươi chân chính phụng
sự sự nghiệp này thì dùng hoài không hết, ngươi hiểu không?
-
Dường như hiểu, dường như không hiểu, nhưng cái cảm giác
thọ nhận này khiến cho rất khoan khoái.
Tên
trộm sau đó sám hối hành vi trộm cắp và xin quy y với Thạch
Thất.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Kỳ
quái! Kỳ quái! Con người ta vì sao ham chiếm đoạt tài vật
ngoài thân, còn bảo tàng của mình thì lại không muốn?
891. Ai tội?
Một
cư sĩ đang tản bộ bên bờ sông, thấy ông lái đò chống
sào
đẩy
thuyền rời bến. Vừa vặn một thiền sư cũng có mặt ở
đó, cư sĩ chạy lại hỏi:
-
Thiền sư vừa rồi ông lái đò chống sào làm cho các sò,
hến nhiều con bị chết. Xin hỏi đó là tội ông lái đò
hay là tội người đi đò?
-
Không phải là tội ông lái đò, cũng không phải là tội người
đi đò.
-
Vậy là tội của ai?
-
Là tội của ngươi.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phật
giáo tuy giảng lục đạo chúng sanh nhưng mà lấy con người
làm gốc; đứng trên lập trường con người. Chân lý không
thể nói toạc ra, sự tướng có lúc cũng không thể nói toạc
ra. Ông lái đò vì kiếm tiền để sống, người đi đò vì
có việc phải qua sông, sò hến vì ở dưới đất mà bị
ép chết, đó là tội của ai? Không của ai cả vì tất cả
đều vô tâm. Tội nghiệp vốn do tâm tạo, nếu tâm không
thì tội cũng không. Vô tâm làm sao tạo tội? Nếu có tội
cũng là vô tâm tội. Cư sĩ vì từ không sinh có, vọng tự
phân biệt, do đó thiền sư bảo tội ở ông.
892. Tụng kinh tám lạng.
Một
Phật tử đến chùa thỉnh Phật Quang tụng kinh siêu độ cho
phụ thân. Phật Quang thắp hương, bầy hoa quả lên bàn thờ,
sửa soạn tụng kinh. Vị hiếu tử này cứ thắc mắc về
phí dụng của lễ cầu siêu, không ngớt hỏi Phật Quang:
-
Tụng một bộ kinh A Di Đà phải tốn bao nhiêu tiền?
Phật
Quang không chịu được thái độ này nên không nể nang đáp:
-
Phải 10 lạng.
-
Mười lạng quá nhiều đi, thầy có thể bớt 2 lạng được
không?
Phật
Quang tụng:
-
Thập vạn chư Phật, Bồ tát, nguyện công đức tụng kinh
này xin hồi hướng về người chết, mong hương linh được
vãng sanh Đông Phương thế giới.
Hiếu
tử liền phản đối:
-
Không đúng! Con thường nghe người ta tụng vãng sanh Tây
phương
Cực Lạc thế giới chứ không phải Đông Phương thế giới.
-
Vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới phải 10 lạng, ngươi
đòi bớt 2 lạng thì chỉ có thể đi về Đông Phương thế
giới.
Hiếu
tử bất đắc dĩ nói:
-
Con xin đưa thêm 2 lạng, thầy hãy tụng cho phụ thân con về
Tây Phương.
Lúc
đó người chết trong quan tài mắng con:
-
Thằng bất hiếu, chỉ vì ngươi bớt 2 lạng khiến ta phải
nhọc sức chạy Đông, chạy Tây.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phật
pháp không phải là món hàng nên không thể trả giá.Kinh Phật
nói: “Tâm Điền sự bất đồng, công đức phân thắng, liệt.”
Cùng một số tiền (sự) đem bố thí, nhân vì người nhận
(điền) không đồng thậm chí có ý nghĩ (tâm) to nhỏ, kết
quả thiên sai vạn biệt. Công đức to nhỏ là do tâm chân,
vọng chứ không phải là do số tiền nhiều ít.
893. Tướng quân sám hối.
Một
lần, Mộng Song quốc sư đi đò. Thuyền vừa rời bến, bỗng
có một vị tướng quân vai đeo kiếm, tay cầm roi, gọi lớn:
-
Ông lái, chờ một chút cho ta đi với!
Cả
thuyền đều nói thuyền đã rời bến rồi không thể quay
lại, ông lái đò cũng nói to:
-
Xin chờ lần sau đi.
Lúc
đó Mộng Song bảo ông lái:
-
Ông lái, thuyền chưa đi xa, hãy ghé lại cho ông ta lên.
Ông
lái đò thấy vị xuất gia nói vậy bèn quay thuyền lại cho
vị tướng quân lên. Vị tướng quân lên thuyền đứng bên
cạnh Mộng Song, giơ roi lên quất vào đầu Mộng Song và hét:
-
Hòa thượng, xê ra nhường chỗ cho ta ngồi!
Roi
đánh trúng đầu làm phun máu, Mộng Song im lặng xích ra nhường
chỗ cho tướng quân. Mọi người đều sợ hãi không dám nói
lớn chỉ thầm thì bàn tán, làm ơn mắc oán. Tướng quân
biết mình sai, nhưng cũng không chịu thừa nhận. Thuyền cập
bến, Mộng Song theo mọi người lên bờ, ra ven sông im lặng
rửa vết thương. Tướng quân cuối cùng thấy mình không phải,
lại quỳ trước mặt Mộng Song sám hối:
-
Thiền sư, con xin lỗi!
Mộng
Song tâm bình, khí hòa đáp:
-
Không sao đâu, người ta đi ra ngoài tâm tình thường không
được tốt.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Ở
thế gian này sức mạnh nào là lớn nhất? Chính là sự nhịn
nhục. Phật nói:
-Người
tu đạo nhịn được sự mắng chửi, coi đó như được uống
đề hồ thì mới là người có đại lực.
Dùng
đao thương uy hiếp chỉ làm cho người ta sợ chứ không phục,
chỉ có sự nhẫn nhục mới cảm hóa được ngoan cường.
894. Nhất Hưu phơi kinh.
Nhất
Hưu ở trong làng dưới chân núi Tỷ Duệ. Một hôm thấy các
tín đồ kéo nhau từng đoàn lên núi. Hỏi ra mới biết chùa
trên núi phơi kinh. Theo truyền thuyết khi phơi kinh, có cơn
gió nào thổi qua kinh, người nào đón được gió ấy thì
có thể trừ được tai ách và trí tuệ tăng trưởng. Nhất
Hưu liền nói:
-
Ta cũng phơi kinh.
Nói
rồi, Nhất Hưu cởi trần nằm trên bãi cỏ phơi nắng. Các
tín đồ lên núi trông thấy lấy làm bất nhã. Pháp sư ở
trên chùa vội chạy xuống khuyên Nhất Hưu đừng làm mất
uy nghi. Nhất Hưu giải thích:
-
Các ngươi phơi là phơi kinh chết, còn ta phơi kinh sống, có
thể thuyết pháp, làm lụng, ăn cơm, có trí tuệ, tạng kinh
đó lại không đáng quý sao?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Hành
động đùa nghịch của Nhất Hưu thực ra rất chí lý không
gì không từ tự tâm hiển lộ. Tu hành sợ nhất là bỏ gốc
theo ngọn. Kinh chỉ là chữ in trên giấy, chân tâm mới là
pháp. tại sao chỉ chú ý đến kinh mà không chú ý đến tự
tâm? Huệ tăng trưởng là do đọc kinh, tham thiền nhập Phật
là phải biết cơ yếu, tất cả đều do tâm tạo. Quý trọng
kinh không phải là do chữ in trên giấy, mà là in trên tâm.
Tạng kinh in trên tâm mới có thể sinh vạn pháp.
895. Bánh ngọt.
Một
ông tăng đến tham học Mục Châu Đạo Minh. Đạo Minh hỏi:
-
Ngươi bình thường học Phật là học pháp môn nào?
-
Duy thức.
-
Ngươi có thể giảng Duy Thức luận không?
-
Không dám.
Thiền
sư bẻ một cái bánh ngọt ra làm đôi và hỏi:
-
Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, ngươi làm sao thuyết
pháp?
Ông
tăng không trả lời được; thiền sư lại hỏi:
-
Cái bánh này gọi là bánh ngọt đúng hay không gọi là bánh
ngọt đúng?
Ông
tăng nghĩ toát mồ hôi, trả lời:
-
Không thể không gọi là bánh ngọt.
Thiền
sư nhìn quanh, tùy tiện chỉ một sa di hỏi:
-
Cái bánh chia làm hai, ngươi làm sao thuyết pháp?
Sa
di không do dự đáp:
-
Hai mảnh lưu lại nhất tâm.
-
Ngươi gọi nó là gì?
-
Bánh ngọt.
Mục
Châu Đạo Minh cười ha hả:
-
Ngươi cũng biết giảng Duy Thức luận.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Duy
Thức và Thiền tông phương pháp và phương hướng khác nhau.
Duy Thức trọng trí giải và phân tích, muốn người học nhận
rõ Duy Thức nghĩa; còn Thiền tông thì không trọng trí giải
và phân tích. Thiền là trực tiếp bản tâm, kiến tánh thành
Phật. Câu nói của các thiền sư đầy khôi hài, thái độ
thân thiết. Khi họ nói Đông là để chỉ Tây; có lúc
đánh mắng thực ra là thương yêu và giúp đỡ.
896. Ta không phải là Phật.
Có
một vị tú tài trú ở chùa để học, tự phụ thông minh
thường lấy thiền cơ tranh luận với Triệu Châu.
Một
hôm hỏi Triệu châu:
-
Phật từ bi phổ độ chúng sanh là do tâm nguyện, không trái
với những gì chúng sanh mong cầu không biết có phải thế
không?
-
Phải.
-
Nay con muốn thiền trượng trong tay thầy, không biết có được
thỏa mãn không?
Triệu
Châu cự tuyệt:
-
Người quân tử không đoạt của người, ngươi có hiểu đạo
lý này không?
-
Con không phải là quân tử.
-
Ta cũng không phải là Phật.
Tú
tài không đáp được nhưng không chịu thua. Một hôm tú tài
ngồi thiền Triệu Châu đi ngang qua. Tú tài trông thấy nhưng
lờ đi. Triệu Châu trách:
-
Người trẻ thấy bậc trưởng giả tới sao không đứng dậy
nghênh đón?
-
Con ngồi đón thầy cũng như đứng dậy đón thầy.
Triệu
Châu bèn cho ông một tát tai. Tú tài nổi giận:
-
Thầy vì sao đánh con.
-
Ta đánh ngươi cũng như không đánh ngươi!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Vị
tú tài là phần tử trí thức; Triệu Châu là thiền giả đã
thể ngộ; trí thức không phải là đối thủ của bậc thể
ngộ, huống hồ lại là Triệu Châu mà thiền phong rất hoạt
bát. Triệu Châu không cho thiền trượng không phải là hẹp
lượng mà là không thích lối cưỡng lời đoạt lý của tú
tài, lại cho ông một tát tai là để huấn giới ông chỉ
học thiền mà không ngộ thiền.
897. Con cũng có miệng lưỡi.
Quảng
Huệ Nguyên Liễn lúc mới học đạo, tham thiền ở nơi Chân
Giác thiền sư. Buổi sáng phụ trách nhà bếp, buổi chiều
tụng kinh coi đó là công khóa. Một hôm Chân Giác hỏi ông:
-
Ngươi xem kinh gì?
-
Kinh Duy Ma.
-
Kinh ở đây còn cư sĩ Duy Ma ở đâu?
Nguyên
Liễn không biết làm sao trả lời, tự thẹn tri thức có hạn,
bèn
hỏi lại:
-
Cư sĩ Duy Ma nay ở đâu?
-
Ta biết cũng được, không biết cũng được, nhưng không thể
bảo cho ngươi biết.
Nguyên
Liễn rất mắc cỡ, từ biệt Chân Giác đi vân du, thân cận
hơn 50 vị thiện tri thức, nhưng vẫn chưa khế ngộ. Một
hôm tham phỏng Thủ Sơn Tĩnh Niệm ở Hà Nam, hỏi:
-
Học nhân đến Bảo Sơn, khi tay không trở về thì thế nào?
-
Bỏ giữ kho báu nhà mình.
Nguyên
Liễn ngộ ngay lúc đó, bèn nói:
-
Con sẽ không nghi miệng lưỡi của các thiền sư nữa.
-
Tại sao?
-
Vì con cũng có miệng luỡi.
Thủ
Sơn cao hứng bảo:
-
Ngươi đã ngộ tâm yếu của Thiền rồi!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Miệng
lưỡi ai cũng có, nhưng thực sự hiểu được diệu dụng
của nó thì có mấy ai. Một câu nói có thể làm đất nước
hưng vượng, cũng có thể làm mất nước. Có người dùng
miệng lưỡi làm công đức; có người tạo tội nghiệp. Đó
là có biết cách xử dụng miệng lưỡi hay không.
898.
Tâm yếu của Thiền.
Thi
sĩ Bạch cư Dị có một lần hỏi Duy Khoan:
-
Thân, khẩu, ý làm sao tự tu?
-
Người vô thượng bồ đề ở thân là luật, nói ra miệng
là pháp, hành ở tâm là Thiền. Ứng dụng có 3 nhưng chỉ
là một, như sông Hoài sông Hán do nơi chảy qua mà có tên
khác nhau, nhưng tánh nước thì không hai. Luật tức là pháp,
pháp chẳng lìa Thiền. Lấy thân, khẩu, ý hợp nhất mà tu.
Vì thân, khẩu, ý đều là tên gọi của tâm, vì vọng nên
khởi phân biệt.
-
Nếu đã không phân biệt, làm sao tu tâm?
-
Tâm vốn không tổn thương, sao cần tu. Nên biết bất luận
là tịnh là trần không nên khởi niệm.
-
Trần (bụi) có thể dùng phất trần quét khiến không khởi
niệm;
Tịnh
trong sạch thì làm sao còn có niệm?
-
Cũng như mắt người không để vật gì bám vào, ví như mạt
vàng tuy quý nhưng vào mắt sẽ sinh bệnh. Mây đen, mây trắng
đều che phủ bầu trời.
-
Không tu không niệm thì khác gì phàm phu?
-
Phàm phu nuôi dưỡng vô minh, nhị thừa nuôi dưỡng chấp trước.
Lìa bỏ hai bệnh vô minh và chấp trước là chân tu. Người
chân tu không cầu, không vọng. Cầu gần chấp, vọng thì rơi
vào vô minh. Đó là tâm yếu.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Thế
gian có tốt, có xấu, có lớn, có nhỏ. Thí dụ như bố thí
nhiều, ít thì công đức nhiều ít; tất cả đều có phân
biệt. Tu thân thì không được sát, đạo, dâm. Tu khẩu thì
không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu. Tu ý
thì không tham dục, không sân si, không tà kiến. Tu thân, khẩu,
ý dĩ nhiên có phân biệt. Nhưng chân tâm tự tánh vốn thanh
tịnh đầy đủ cần gì tu chứng, sao có cầu, vọng. Do vậy,
Duy Khoan cho đó là tâm yếu của Thiền.
899. Hóa duyên độ chúng.
Chiêu
Dẫn vân du khắp nơi, có tín đồ hỏi:
-
Con thường nổi giận làm sao sửa đổi?
-
Nổi giận là do tâm sân mà ra; được rồi để ta hóa duyên,
ngươi hãy đem tâm sân và sự nổi giận cho ta có được không?
Con của tín đồ ham ngủ, cha mẹ không biết phải làm sao. Chiêu
Dẫn đến nhà lay tỉnh đứa con:
-
Ta đến hóa duyên mê ngủ của con; hãy đem mê ngủ cho ta!
Nghe
vợ chồng tín đồ cãi nhau, Chiêu Dẫn bèn hóa duyên sự cãi
lộn. Tín đồ uống rượu, Chiêu Dẫn liền hóa duyên uống
ruợu.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Chiêu
Dẫn suốt đời hóa duyên độ chúng. Các ác tập của người
đời đều được ông hóa duyên mà thay đổi.
900. Chẳng hứa làm thầy.
Tòng
Duyệt tham phỏng Thanh Tố; có một lần đang ăn trái vải
đi ngang qua cửa sổ phòng Thanh Tố, cung kính thưa:
-
Đây là trái vải ở Giang Tây quê con, mời trưởng lão ăn
vài trái.
Thanh
Tố hoan hỉ tiếp nhận, cảm khái bảo:
-
Từ ngày tiên sư viên tịch, lâu lắm không ăn thứ này.
-
Tiên sư của trường lão là ai?
-
Từ Minh thiền sư, ta làm quản lý 13 năm cho ngài.
-
Mười ba năm kham nhẫn, không đắc đạo sao được?
Nói
rồi cung kính dâng hết vải trong tay cho Thanh Tố. Thanh Tố
cảm kích:
-
Ta vì phúc bạc, tiên sư thọ ký không nhận truyền nhân, nay
thấy ngươi thành kính, hãy nói tâm đắc của ngươi cho ta
nghe.
Tòng
Duyệt bèn nói sở kiến, Thanh Tố khai thị:
-
Thế giới có Phật, có ma, phải bỏ xuống hết, nên nhập
Phật, chẳng nên nhập ma.
Tòng
Duyệt được ấn khả rồi, Thanh Tố lại bảo:
-
Nay ta vì ngươi chỉ điểm khiến ngươi được đại tự tại
nhưng không thể nói ngươi truyền thừa ta; Chân Tĩnh Khắc
Văn mới là thầy ngươi.
(Tinh
Vân thiến thoại)
Muốn
học Phật đạo trước hết phải kết nhân duyên, cầu đạo
phải cung kính mà cầu. Tòng Duyệt cung kính đối với tiền
bối nên đã được đạo. Câu nói “Chân Tĩnh Khắc Văn mới
là thầy ngươi” biểu thị trong Thiền môn thầy trò tương
trợ, tương tín.
901. Tâm của cổ Phật.
Động
Sơn hỏi Hưng Bình hòa thượng:
-
Thế nào là tâm của cổ Phật?
-
Là tâm ngươi.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
của Động Sơn có nghĩa là: “thế nào là tâm yếu của chư
Phật quá khứ?” Chư Phật cho đến tất cả chúng sanh đều
có Phật tánh quang minh, thanh tịnh. Phật tánh không vì Phật
(giác)và chúng sanh (chưa giác) mà tăng hay giảm. Vì vậy, Hưng
Bình mới nói “là tâm ngươi.”
902. Tháp vô phùng.
Một
ông tăng hỏi Pháp Chân:
-
Thế nào là tháp vô phùng? (Xem công án 172)
-
Cao 5 thước.
Lại
mắng:
-
Hồ đồ!
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Tháp
vô phùng là tháp không vá; các tháp ở thế gian đều dùng
gạch xếp lên nhau, dùng vữa mà dính lại, không thể không
vá, Như vậy là ở đây tháp vô phùng không chỉ thế giới
hiện tượng mà chỉ cảnh giới vô lậu, không còn phiền
não, là lý cứu cánh là chân tướng của sinh mạng. Lão sư
đáp “cao 5 thước” có vẻ mâu thuẫn với quốc sư Huệ
Trung. Có cao độ là có hình thể. Có hình thể thì không phải
là cảnh giới tuyệt đối; 5 thước ở đây là thiền sư
chỉ ông tăng cao 5 thước (thước Tầu).
903. Tìm linh dương.
Có
6 học tăng cùng đến Hoàng Bá tham học. Khi mới gập mặt,
năm người thành kính vái lạy, chỉ có một ông tăng tỏ
ra mình là một thiền giả, giơ tọa cụ lên vẽ một vòng
tròn, không nói một câu, đứng tại một bên. Hoàng Bá bảo
ông tăng đó:
-
Ta nghe nói có một chó săn rất hung dữ.
Ông
tăng dùng Thiền ngữ trả lời:
-
Chắc là nghe tiếng linh dương mà tới.
-
Ngươi có nghe được tiếng linh dương không?
-
Vậy nhất định là do dấu chân mà tới.
-
Ngươi có thấy dấu chân linh dương không?
-
Vậy thì nhìn sau lưng linh dương mà tới.
-
Ngươi có thấy sau lưng linh dương không?
-
Chỉ là xác một con linh dương.
Hoàng
Bá bèn thối lui. Hôm sau ở Pháp đường nói lại chuyện cũ:
-
Mời ông tăng nói chuyện linh dương hôm qua bước ra.
Ông
tăng bước ra vài bước.
-
Công án hôm qua còn chưa xong, ngươi giải thích thế nào?
Ông
tăng không trả lời được.
-
Tưởng ngươi là một thiền giả đã tới nhà; nguyên lai chỉ
là một ông tăng nghĩa học, tông đồ trí giả.
Đại
chúng nhận rằng ông tăng này mạo nhận thiền giả, liền
mời ông ra khỏi cửa.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Thiền
là ngộ, không phải là học. Tri thức có thể học, Thiền
không thể học. Tự cổ, các thiền tăng cử chỉ, lời nói
quái dị, nhưng trong sự quái dị ấy có chân thật, thường
lý. Nếu không phải là thiền giả, chỉ cần mở miệng ra
là người ta biết ngay là giả; còn thiền ngộ tự nhiên hiển
lộ ra.
904. Bốn chín năm trước.
Một
ông tăng hỏi Tuyết Phong Nghĩa Tồn:
-
Chuyện 49 năm sau không hỏi, còn chuyện 49 năm trước thì
sao?
Thiền
sư bỗng dùng phất tử đánh vào mồm ông tăng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Thích
Ca Mâu Ni thành Đạo rồi thuyết pháp 49 năm, sau đó nhập
Niết Bàn. Chuyện 49 năm sau chỉ Phật đã nhập Niết Bàn;
chuyện 49 năm trước chỉ Phật chưa thành Đạo thì cũng tu
trì cầu Đạo, nỗ lực chứng Phật tánh vốn tự đầy đủ.
Đây là ông tăng mượn cổ dụ kim. Dụ rằng mình cũng như
Phật Thích Ca lúc chưa thành Phật, cũng nỗ lực tầm Đạo,
cần lão sư chỉ dẫn. Tự tánh vốn tự quang minh do con người
ta tự vọng tâm khởi phân biệt do đó có sáng tối, mê ngộ.
Chính câu hỏi của ông tăng đã là một loại ý thức phân
biệt rồi. Thiền sư bỗng đánh làm cho ông tăng hoảng sợ
mà bỏ được vọng niệm. Nếu ông tăng tâm lực tập trung
đến trình độ đại ngã thì nhân đó có thể siêu việt
tất cả phân biệt, vào thẳng tự tánh quang minh.
905. Pháp thân.
Một
ông tăng hỏi Ngưỡng Sơn Huệ Tịch:
-
Pháp thân còn nói pháp không?
-
Ta không nói được, nhưng có một người nói được.
-
Người nói ở đâu?
Thiền
sư đưa cái gối đầu ra.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Pháp
thân không phải là một vật cụ thể mà vô hình, vô tướng,
vô sinh, vô diệt của cảnh giới tuyệt đối, đã vượt qua
đối lập của hiện tượng giới. Do đó không nói pháp. Chỉ
có người đã ngộ mới biết lý này, còn không thì cứ xoay
quanh múa lộn ở trong vòng danh tướng. Vì vậy thiền sư mới
bảo mình không nói được, nhưng có một người có thể nói
được, ông tăng hỏi người nói được ở đâu? Thiền sư
bèn đưa cái gối đầu ra. Vì hiện tượng và bản thể là
một không hai cho nên bất cứ vật gì cũng là pháp thân, không
đâu không có pháp thân nói pháp. Nếu ngộ thì cái gối đầu
là một pháp thân, còn chưa ngộ thì đó chỉ là một đồ
vật ở hiện tượng giới.
906. Quý mến hiện tại.
Thân
Loan Thượng Nhân của Nhật Bản, mới 9 tuổi đã quyết tâm
đi tu; xin Từ Trấn xuống tóc cho ông. Từ Trấn nói:
-
Ngươi còn nhỏ như vầy, vì sao muốn xuất gia?
-
Con tuy mới 9 tuổi, nhưng cha mẹ đều mất cả. Con không biết
vì sao người ta phải chết, vì sao con nhất định phải lìa
xa cha mẹ? Vì muốn hiểu đạo lý này nên con nhất định
xuất gia.
-
Được! Ta biết rồi! Ta chấp nhận thâu ngươi làm đệ tử;
hôm nay trời đã muộn rồi, sớm mai sẽ xuống tóc cho ngươi.
-
Sư phụ, tuy thầy hứa sáng mai sẽ xuống tóc cho con, nhưng
con còn trẻ vô tư, không biết ngày mai còn giữ được quyết
tâm xuất gia hay không? Hơn nữa, thầy niên kỷ đã cao không
biết sáng mai còn sống không?
Từ
Trấn nghe lời vỗ tay khen:
-
Được lắm! Ngươi nói không sai, bây giờ ta xuống tóc cho
ngươi.
Đời
Đường, Huyền Trang cũng 12 tuổi xuất gia. Bấy giờ muốn
xuất gia phải qua một kỳ khảo hạch. Huyền Trang vì quá
nhỏ không được thâu nhận. Huyền Trang thương tâm khóc lớn.
Chủ khảo Thiện Quả hỏi:
-
Vì sao nhất định xuất gia?
-
Vì muốn làm sáng di giáo của Như Lai, giới thiệu hạt giống
bồ đề của Phật.
Nhận
thấy lời nguyện rộng lớn nên chủ khảo đặc biệt chấp
nhận.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Gương
của hai vị cao tăng trên đã trở thành giai thoại trong Phật
giáo.
907. Bịt tai.
Một
ông
tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch:
-
Lỗ Tổ xoay mặt vào vách là biểu thị chuyện gì?
Sư
bịt tai lại.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Lỗ
Tổ xoay mặt vào vách là một thủ đoạn để tiếp dẫn thiền
sinh (Xem công án 796); thủ đoạn ấy không ngoài tác dụng
của tự tánh là xúc, mục. Tào Sơn bịt tai chỉ không nghe,
vì câu hỏi của ông tăng trái ngược với dụng ý của Lỗ
Tổ. Động tác này làm cho ông tăng rõ câu hỏi của ông là
thừa, muốn ông bỏ vọng tưởng.
908. Một đường Nát Bàn.
Một
ông tăng hỏi Như Bảo:
-
Thế nào là một đường Nát Bàn?
Sư
khẩy ngón tay rồi mở rộng hai tay ra.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
hỏi của ông tăng là hỏi về tự tánh. Động tác của thiền
sư là chỉ diệu dụng của tự tánh. nếu ông tăng quay về
tự thể nghiệm động tác của chính mình thì có thể thấy
một đường Nát bàn, hiểu được câu trả lời của thiền
sư.
909. Cổ đức vì sao mà thôi?
Một
ông tăng hỏi Cát chân Tư Phúc;
-
Hòa thượng, cổ nhân được ý chỉ gì mà thôi?
Sư
vẽ vòng tròn chỉ thị.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
hỏi của ông tăng có nghĩa là cổ đức được tâm yếu gì
mà giác ngộ? Tâm yếu chỉ có thể thể ngộ, không thể dùng
lời mà giải thích; do đó thiền sư vẽ vòng tròn để trả
lời (Xem công án 881).
910. Cái nào không là Phật.
Một
ông tăng hỏi Đại Châu Huệ Hải:
-
Tức tâm, tức Phật, cái nào là Phật?
-
Ngươi nghi cái nào không là Phật, chỉ ra cho ta coi!
Ông
tăng không trả lời được, sư bảo:
-
Nếu đạt thì mọi cảnh đều là Phật, còn không thì vĩnh
viễn trái ngược.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Thiền
sư hỏi ngược lại, ông tăng không trả lời được, sư đành
phải
thuyết
minh: Nếu ngươi chứng được tự tánh thì mọi cảnh đều
là Phật. Còn như ngươi dùng lý trí để phân tích thì những
gì ngươi kiến thức được chỉ là tương đối, không phải
là cảnh giới tuyệt đối.
911. Không được, không biết.
Đạo
Ngô hỏi Thạch Đầu:
-
Đại ý của Phật pháp là gì?
-
Không được, không biết.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
đáp của Thạch Đầu có hai ý:
1/
Phật pháp không thể dùng trí mà biết được.
2/
Ta không phải là người đắc pháp. Do đó, đả phá vọng
tâm của Đạo Ngộ muốn nhờ thầy chỉ cho đáp án, phải
tự mình thể nghiệm tự tánh.
912. Ý tổ sư.
Một
ông tăng hỏi Ngưỡng Sơn:
-
Thế nào là ý tổ sư?
Sư
vẽ vòng tròn, ở trong viết chữ Phật. Ông tăng không nói
được một lời.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ý
tổ sư là ý chỉ của Tổ Đạt Ma vượt biển tới Trung thổ.
Ý chỉ này thực là tinh tủy của Thiền: “Chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật.” Ngưỡng Sơn dùng vòng tròn
và chữ Phật để khai ngộ cho ông tăng. Nếu ông tăng chấp
vào vòng tròn và chữ Phật, dùng đường lối suy luận mà
tìm ý nghĩa thì vĩnh viễn không khai ngộ được.
913. Thế nào là Thiền, là Đạo?
Một
ông tăng hỏi Thạch Đầu:
-
Thế nào là Thiền?
-
Đá, gạch.
-
Thế nào là Đạo?
-
Khúc gỗ.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Gạch
đá là gạch đá, khúc gỗ là khúc gỗ. Đối thoại trong công
án này nếu cố giải thích thì có thể nói Thiền, Đạo không
lìa hiện tượng giới mà tồn tại trong mọi sự, mọi vật.
Lời giải thích này là dùng lý trí phân tích. Ở đây thiền
sư dùng một vật không liên quan để làm đứt đoạn suy nghĩ
của thiền sinh. Nếu thiền sinh còn cố giải thích thì có
đúng không? Trong quá trình dạy dỗ thiền sư không giảng
lý Đạo, mục đích là giúp thiền sinh lần lượt trừ bỏ
những chấp trước của nội tâm mà đạt tới mục đích
minh tâm kiến tánh. Những lời nói của các thiền sư không
có hàm ý rõ ràng, do đó chúng ta đứng ở góc độ nào mà
giải thích thì cũng được. Như câu hỏi: Đạo là gì? Chúng
ta có thể giải thích lúc đó thiền sư chạm mắt vào khúc
gỗ nên tự nhiên đáp là khúc gỗ, biểu thị Đạo ở khúc
gỗ, ở tất cả mọi vật. Cũng có thể giải thích cách khác
là Đạo không lìa tự thân. Ông tăng vì chưa thể hội tự
thân là Đạo nên bị thiền sư mắng “Ngươi sống như một
người chết, không khác gì khúc gỗ.”
Cả
hai lối giải thích trên không giúp ích gì cho ông tăng cả
nếu ông không tự thể nghiệm.
914. Tây sang không ý.
Một
ông tăng hỏi Đại Mai:
-
Thế nào là ý của tổ sư từ Tây sang?
-
Tây sang không ý.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ông
tăng hỏi tinh yếu của Thiền là gì? Câu hỏi của ông chỉ
rằng ông có vọng tưởng chấp rằng có tự tánh có thể
cầu được. Do đó, Đại Mai phủ định để phá chấp cho
ông, khiến ông bỏ ý niệm mong cầu giải thoát mà vào thẳng
ngộ cảnh.
915. Giơ phất tử.
Hương
Nghiêm Trí Nhàn hỏi ông tăng đến tham phỏng:
-
Từ đâu tới?
-
Từ Quy Sơn.
-
Hòa thượng gần đây có lời gì?
-
Có người hỏi ý Tây sang, Quy Sơn giơ phất tử lên.
-
Huynh đệ nơi đó hiểu ý hòa thượng thế nào?
-
Họ cho rằng hòa thượng lấy sắc minh tâm, nương vật hiển
lý.
-
Hiểu liền hiểu ngay, không hiểu thì gấp làm gì?
-
Ý thầy thì sao?
Hương
Nghiêm giơ phất tử lên.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Do
đối thoại chúng ta thấy đáp án không phải ở phất tử,
cũng không phải ở động tác giơ lên. Các đệ tử của Quy
Sơn cho rằng thầy giơ phất tử lên là lấy săc minh tâm,
nương vật hiển lý. Do lý mà nói thì suy luận này là đúng,
nhưng ở lão sư là thực tiễn, còn ở đồ đệ chỉ là khái
niệm, sai biệt như trời và đất. Thiền sư dùng thủ đoạn
này (nương vật hiển lý) mục đích là muốn đồ đệ khế
nhập không tánh; thấy được tự tánh. Do đó Hương Nghiêm
phê bình đồ đệ Hương Nghiêm “Hiểu liền hiểu ngay, không
hiểu thì gấp làm gì.” Ông tăng bèn thỉnh thị Hương Nghiêm,
Hương Nghiêm giơ phất tử lên. Cử chỉ và lời nói của
Hương Nghiêm xuất từ cảnh giới vô ngã, chỉ là động tác,
không nương tựa vào đó để thuyết minh cái gì. Nói theo
nhà Phật thì đó là cảnh giới diệu hữu, một thể không
hai như nước và sóng không phân biệt được. Động tác của
thiền sư là diệu hữu cũng là duyên khởi. Do đó giơ phất
tử lên bản thân là hiện tượng, nhưng cũng là tánh không.
Nếu thiền sinh bỏ được các quan niệm mà coi động tác
của thiền sư thì có thể thoát khỏi sự trói buộc của
khái niệm mà vào thẳng bản nguyên của nội tâm. Đó gọi
là kiến tánh.
916. Đà La Ni.
Một
ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
-
Đà La Ni là thế nào?
Sư
chỉ thiền sàng bên phải:
-
Sư tăng này không tụng được.
-
Người khác tụng được không?
Sư
chỉ thiền sàng bên trái:
-
Sư tăng này tụng được.
-
Sao con không nghe?
-
Đại đức không biết tụng thật không tiếng, nghe thật không
nghe.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Đà
la ni ý dịch là tổng trì. Có bốn loại đà la ni là: pháp,
nghĩa, chú, dẫn. Ngày nay thường dùng Đà La Ni để chỉ chú
Đà La Ni. Chú chỉ Phật, Bồ tát từ trong thiền định ra
bảo cho biết những lời bí mật, là tự tánh dùng âm
thanh để lưu lộ. Tự tánh không thể dùng ngôn ngữ để
chỉ rõ, chỉ có thể dùng Dụng để hiển thể. Vì vậy Trường
Sa chỉ thiền sàng bảo nó có thể tụng Đà La Ni. Nếu ông
tăng có thể trừ bỏ ý thức phân biệt, vào thẳng thế giới
tuyệt đối thì không đâu không là diệu tâm của Đa La Ni.
Ngược lại, nếu ông còn chấp khái niệm thiền sàng là một
cá thể thì còn có phân biệt ta, người; miệng tuy đọc chú
nhưng đó không phải là Đà la ni. Do đó, thiền sư lại chỉ
cho ông tụng thật không tiếng, nghe thật không nghe. Có tiếng,
có nghe là có chủ thể và đối tượng không phải là cảnh
giới tuyệt đối. Phải trừ bỏ sự phân biệt tiếng cho
đến tất cả mọi sự phân biệt; thì đó mới là tụng Đà
la ni.
917. Cá chép trên núi, cỏ bồng dưới sông.
Một
ông tăng hỏi Đạo Khâm:
-
Thế nào là Đạo?
-
Cá chép trên núi, cỏ bồng đáy sông.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Cá
chép là sinh vật sống trong sông, cỏ bồng là loại cỏ mọc
ở lục địa. Câu nói của Đạo Khâm rõ ràng là trái với
thường lý. Nếu nghĩ rằng có thể căn cứ vào câu đáp của
thiền sư để tìm vết tích của Đạo thì khó chẳng khác
gì lên trời. Thiền sư không giảng lý luận. Khi huấn luyện
có lúc dùng những câu đáp phản thường, mục đích là để
cắt đứt những niệm đầu của vọng tâm. Nếu ông tăng
còn dùng suy luận thì câu nói này hoàn toàn vô ý nghĩa.
918. Thế nào là Phật.
Một
ông tăng hỏi Đạo Minh:
-
Thế nào là Phật?
-
Là không thể nói cho ngươi biết.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Người
đã hiểu thì không đặt câu hỏi này; do đó thiền sư phủ
định là đối với tâm cảnh đặt câu hỏi của ông tăng
lúc đó, chứ không phải là phủ định Phật tánh sẵn có
nơi ông.
919. Tự độ.
Một
Phật tử đứng tránh mưa ở dưới mái hiên thấy một thiền
sư cầm dù đi qua bèn gọi lớn:
-
Thiền sư phổ độ chúng sanh, hãy cho con đi ké dù một quãng.
-
Ta đi dưới mưa, ngươi đứng ở dưới mái hiên. Ở dưới
mái hiên không mưa, ngươi không cần ta độ.
Phật
tử chạy ra:
-
Hiện con cũng ở dưới mưa, thầy có độ không?
-
Ngươi và ta đều ở dưới mưa, ta không bị ướt vì có dù
che, ngươi bị ướt vì không có dù che. Do đó dù độ ta,
ta không độ ngươi. Ngươi muốn được độ thì tìm dù, đừng
tìm ta.
Nói
rồi đi thẳng.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Mình
có dù thì không bị ướt; kiến tự tánh thì không bị mê.
Trời mưa không mang dù muốn người khác giúp giống như không
chịu kiến tánh mà muốn người khác độ mình. Dùng dù mình
mà che mưa, dùng tự tánh mình mà tự độ. Thiền sư không
cho mượn dù là do lòng đại từ bi vậy.
920. Là một, là ba.
Huyền
Sa hỏi Tuyết Phong:
-
Thầy có thiền trượng không, cho con hóa duyên một cái.
-
Ta có ba cái, ngươi hãy lấy một cái đi.
-
Mỗi người chỉ có một cái, vì sao thầy có 3 cái?
-
Mỗi cái đều có dụng xứ.
-
Phải là phải, con không có dụng pháp đó.
-
Ngươi dụng thế nào?
-
Là ba, là một.
-
Ba là ba, một là một, ba không phải là một, một không phải
là ba, là ba là một, là một là ba; chuyện này giống mảnh
ruộng mặc chúng trồng cấy, mọi người không nhờ đó mà
sống. Là một, là ba, sao ngươi chỉ nói là ba là một?
-
Thầy căn cứ vào đâu mà nói một mảnh ruộng?
Tuyết
Phong vạch một vạch trong không:
-
Nhìn coi! Đây là một mảnh ruộng.
-
Đúng thì đúng; con không nói thế.
-
Ngươi vì sao không nói thế.
-
Người nào sanh, người đó chết; người nào ăn người đó
no.
-
Dĩ nhiên là mọi người đều vậy; sao ngươi không dùng gậy
của mình mà đi mượn gậy của người khác?
-Đạt
Ma chẳng tới Đông thổ, Nhị tổ chẳng tới Tây phương.
Đến thì đến, đi thì đi; dùng gậy để giúp người, không
dùng để khốn người.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Gậy
ở đây chỉ bản tánh mà mọi người đều có. Không thể
nói có, không thể nói không; không thể nói một sao có thể
nói ba. Ngươi không có gậy ta đoạt đi, ngươi có gậy ta
lại cho ngươi. Giữa các thiền sư chỉ là một đến, một
đi hà tất phân biệt hai, ba.
921. Thân này ở đâu?
Một
ông tăng hỏi Thảo Đường:
-
Khi chưa có một pháp thì thân này ở đâu?
Sư
vẽ vòng tròn, trong viết chữ thân.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
“Chưa
có một pháp” chỉ tự tánh không thể nghĩ bàn. Người ngộ
nhập tự tánh thì thấy bản thể và hiện tượng là một;
rời hiện tượng thì không thể có bản thể có thể cầu
được. Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là ở thế giới tuyệt
đối còn thân này (hiện tượng) không? Cách hay nhất để
trả lời câu hỏi này là dẫn ông tăng ngộ nhập tự tánh. Nếu ông tăng dùng lý luận mà cho rằng tác động của thiền
sư chỉ rằng thân này và tự tánh viên dung vô ngại thì đã
sai rồi.
922. Tổ sư chưa tới.
Một
ông tăng hỏi Sùng Huệ:
-
Đạt Ma chưa tới Trung quốc, Trung Quốc có Phật pháp không?
-
Chuyện chưa tới gãy gác lại, còn chuyện ngày nay thì sao?
-
Con không hiểu, xin thầy chỉ thị.
-Vạn
cổ trường không, một sáng gió trăng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Vạn
cổ chỉ thời gian vô cùng; trường không chỉ không gian vô
tận. Cả câu có nghĩa là Đạo vô biên giới, vượt lên thời,
không gian, là chân không. Một sáng gió trăng là chỉ bất
cứ sự việc gì trong trời đất đều đương thể tồn tại;
đó là diệu hữu, là cảnh giới giác ngộ tuyệt đối, không
còn ta, người vì chân không là diệu hữu, diệu hữu là chân
không. Vạn cổ là một buổi sáng, một buổi sáng là vạn
cổ. Vì vậy thiền sư không bàn chuyện “chưa đến” mà
chỉ bàn chuyện “ngày nay.” Nếu chuyện ngày nay đã rõ
thì đâu cần biết Đạt Ma tới hay không tới. Phật pháp
không đâu không có, không bị giới hạn bởi không gian và
thời gian. Do đó, Đạt Ma không mang Phật pháp tới Trung Quốc,
mà tới giúp người Trung Hoa thể hội tự tánh.
923. Hồng!
1/
Có ông tăng hỏi Toàn Hoát:
-
Giếng sâu làm sao tới đáy?
-
Hồng!
2/Có
ông tăng hỏi An Phi:
-
Thế nào là tháp vô phùng?
-
Hồng!
-
3/Có
ông tăng hỏi Hưng Thánh quốc sư:
-
Thế nào là sự trong tông môn?
-
Hồng!
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Cả
3 câu hỏi đều hỏi tự tánh là gì? Các thiền sư đều
dùng chữ “Hồng” mà đáp. Tiếng Hồng này cũng tương tự
như tiếng hét khiến thiền sinh giật mình; trong khoảng khắc
kinh ngạc ấy đoạn trừ tất cả mọi vọng tưởng, có cơ
hội tương ứng với Đạo.
924. Bùa hộ mạng.
Đam
Nguyên hỏi quốc sư Huệ Trung:
-
Trăm năm sau, có người hỏi con sự cực tắc, con phải trả
lời làm sao?
-
Thật đáng thương! Còn muốn bùa hộ mạng để làm gì?
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Tự
tánh lìa ngôn ngữ, vĩnh viễn không có một đáp án chính
xác, bùa hộ mạng chân chính cho Đam Nguyên là ông tự mình
thật chứng tự tánh.
925. Một và hai.
Trong
lịch sử Phật giáo Trung Hoa, đạo sĩ của Đạo giáo thường
tranh luận, đấu pháp với các thiền sư. Có một đạo sĩ
hỏi Pháp Ấn:
-
Phật giáo các người dù dưới dạng thức nào so với Đạo
giáo cũng thua cả; bởi vì cảnh giới tối cao của Phật giáo
là nhất tâm, nhất thừa, nhất chân pháp giới, nhất Phật,
nhất Như Lai, đều là một cả. Trong khi đó Đạo giáo chúng
tôi cái gì cũng là hai như càn khôn, âm dương . . . Hai
thắng một, hai cao minh hơn một.
-
Có thật không? Có thật hai của các ngươi thắng một không?
-
Chỉ cần người nói một, chúng tôi sẽ nói hai, nhất định
thắng các người.
Pháp
Ấn liền nhấc một chân lên hỏi:
-
Bây giờ ta nhấc một chân lên, ngươi có nhấc được hai
chân lên không?
Đạo
sĩ không trả lời được.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phật
giáo Trung Hoa có 3 võ, 1 tông pháp nạn đều là do đạo sĩ
đố kỵ. Phật giáo chuộng hòa bình mà cũng không tránh khỏi,
ngay cả 1, 2 cũng là đề tài để tranh luận. Cách đối phó
của Pháp Ấn là ứng dụng xảo diệu của Thiền vậy.
926. Ném gậy.
Một
ông tăng hỏi Nghĩa Đoan:
-
Thế nào là trực tiếp cắt đứt căn nguyên?
Thiền
sư ném gậy xuống đất, trở về phòng phương trượng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
hỏi của ông tăng dẫn từ câu: “Trực tiệt căn nguyên Phật
sở ấn” của Vĩnh Gia Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca (Thẳng
tận đầu nguồn phăng dấu Phật. Trúc Thiên dịch) là chỉ
trực tiếp cắt đứt căn nguyên của sanh tử. Sanh tử là
khái niệm của thế giới nhị nguyên, thuộc hiện tượng
giới. Nếu cắt đứt được căn nguyên của sanh tử thì thể
ngộ được tự tánh. Vì vậy câu hỏi: cắt đứt được
căn nguyên là thế nào, có nghĩa tự tánh là thế nào? Tự
tánh là cảnh giới không một sự việc, làm sao có sự tiếp
dẫn; do đó thiền sư ném gậy và về phòng. Nhìn về bề
ngoài thì là thiền sư từ chối không trả lời câu hỏi,
nhưng thật ra đó là cách dạy rất sinh động, bảo thiền
sinh phải nỗ lực để giác ngộ.
927. Nhà điêu khắc.
Thanh
niên Quang Tạng lúc chưa học Phật, quyết tâm thành một
nhà
điêu khắc tượng Phật. Ông đặc biệt đến bái phỏng Đông
Vân, mong được thiền sư chỉ bảo cho những điều thường
thức về tượng Phật. Đông Vân gập mặt rồi, bảo ông
ra giếng múc nước. Đông Vân xem Quang Tạng múc nước xong,
to tiếng mắng chửi và đuổi đi. Lúc đó trời đã tối,
các đệ tử thấy tình cảnh ấy năn nỉ sư phụ cho Quang
Tạng lưu lại một đêm, sáng mai sẽ đi. Đông Vân đồng
ý. Đến nửa đêm Quang Tạng đang ngủ bị gọi dậy đến
gập Đông Vân. Thiền sư ôn tồn bảo:
-
Chắc ngươi không hiểu lý do chiều qua tại sao ta lại mắng
ngươi; nay ta bảo cho ngươi biết. Tượng Phật được mọi
người cúng lễ do đó tượng phải do người có tâm thành
kính tạc thì mới thành tượng Phật trang nghiêm. Ta thấy
ngươi múc nước để nước đổ ra ngoài thùng, tuy là chút
nước nhưng đó là phúc đức nhân duyên; nhưng ngươi không
thèm để ý, cái cách lãng phí không biết tiếc phúc ấy làm
sao có thể điêu khắc tượng Phật được?
Quang
Tạng nghe lời chỉ dạy cảm động, phản tỉnh, cuối cùng
xin nhập môn làm đệ tử, trở thành một nhà điêu khắc
nổi tiếng.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Tâm
thành kính không phải chỉ để điêu khắc tượng Phật, bất
cứ làm gì cũng nên thành kính.
928. Cắn không?
Thời
Đức Phật còn tại thế, có một vị tỳ khưu ni tên là Ưu
bà tiên na, một hôm đang ngồi thiền trong sơn động bỗng
lớn tiếng kêu gọi tôn giả Xá lợi phất ngồi thiền ở
động đối diện.
Khi
Xá lợi phất tới , bà nói:
-
Tôn giả Xá lợi phất! vừa rồi tôi ngồi thiền có vật
gì bò qua người, mới đầu không chú ý, sau nhìn lại thì
là một con rắn độc. Tôi bị nó cắn một miếng; tôi chắc
sắp chết rồi! Thừa lúc độc khí còn chưa phát xin ngài
từ bi chiêu tập đại chúng lân cận, tôi muốn cáo biệt
họ.
Xá
lợi phất nghe xong, nhìn kỹ Ưu bà tiên na nghi hoặc hỏi:
-
Có chuyện đó thật sao? Bị rắn cắn sao sắc mặt bà vẫn
bình thường vậy?
-
Tôn giả! Cái thân này là do tứ đại, ngũ uẩn tạo thành,
vốn không có chủ tể, vốn vô thường, do nhân duyên tụ
hội nên là không. Tôi đã hiểu đạo lý đó do vậy rắn
độc có thể cắn xác thân tôi, nhưng làm sao có thể cắn
không tuệ được?
Xá
lợi phất nghe rồi, tán thán:
-
Bà nói đúng lắm! Bà đã đạt đến bực giải thoát. Dù
sắc thân có bị đau đớn cũng có thể dùng huệ kiến chân
tâm bất biến. Người tu đạo phải điều tâm tiến vào Niết
Bàn bất sinh, bất diệt.
Chết
là chết đi sắc thân, không phải là chết đi chân ngã.
Đó
là dùng mắt trí tuệ mà nhìn thể tướng, ra khỏi nhà lửa,thật
tốt quá.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Con
người vì sanh tử mà phiền não, sợ hãi. Nếu chứng được
thiền quán, hoặc khế nhập không huệ thì sẽ tiến vào cảnh
giới không sợ nữa. Như Ưu bà tiên na nói rắn độc có thể
cắn sắc thân nhưng làm sao có thể cắn không tuệ được?
Bậc
thánh sống trong cảnh giới chân thiện mỹ không phải là
lìa bỏ thế giới ta bà này mà tới cảnh giới tịnh độ,
chủ yếu là không tuệ thiền quán một khi chuyển thì một
sát na sẽ thành vĩnh viễn, ô uế thành thanh tịnh, phiền
não thành bồ đề, sanh tử thành niết bàn.
929. Không gập được.
Tào
Sơn Bản Tịch lúc mới tới tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Từ Tây Viện tới.
-
Xà lê tên gì?
-
Mỗ, giáp.
-
Nói rõ hơn một chút.
-
Không nói!
-
Vì sao không nói?
-
Vì tên con không là mỗ, giáp.
Động
Sơn vừa lòng, nhận Tào Sơn ở lại tham học, thường chỉ
thị pháp yếu cho ông. Một hôm Tào Sơn đến cáo biệt. Động
Sơn hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Đi đến nơi không biến dịch.
-
Nơi không biến dịch lại có đi sao?
-
Không đi thì không biến.
Tào
Sơn thọ pháp rồi, đi giang hồ; chúng thỉnh trụ trì ở Vũ
Châu Cát Thủy sơn, sư cải tên là Tào Sơn, pháp độ ngày
càng thạnh, đồ chúng không dưới hai ngàn người. Nam Bình
Chung Lăng Vương nghe danh, 3 lần mời mà không đáp ứng do
đó Vương nổi giận bảo chuyên sứ:
-
Ngươi không mời được Tào Sơn đại sư đến, thì đừng
gập mặt ta!
Chuyên
sứ khổ sở xin đại sư;
-
Thiền sư! Thầy không tuân vương chỉ, đệ tử thật không
còn mạng.
-
Chuyên sứ đừng lo, cứ trình bài kệ này, bảo đảm không
sao.
Sư
đọc bài kệ (của Đại Mai):
摧
殘 枯 木 倚 寒 林
Tồi
tàn khô mộc ỷ hàn lâm
幾
度 逢 春 不 變 心
Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm
樵
客 貝 之 犹 不 顧
Tiều khách bối chi du bất cố
郢
人 何 得 苦 追 尋
Dĩnh
nhân hà đắc khổ truy tầm
Cây khô gẫy mục tựa rừng xanh
Mấy độ xuân về tâm chẳng sanh
Lão tiều trông thấy nào đoái nghĩ
Dĩnh khách thôi thì chớ hỏi phanh.
(Thích
Thanh Từ dịch)
Nam
Bình Chung Lăng Vương đọc bài kệ hướng về núi Cát thủy
Sơn đảnh lễ:
-
Đệ tử kiếp này không dám vọng cầu gập Tào Sơn đại
sư nữa.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Có
người chỉ sợ người ta không biết đến mình; có người
lại sợ người ta biết đến mình. Như Tào Sơn, chỉ ở ẩn
núi sâu mà thanh danh ảnh hưởng đến thế đạo, khiến người
ta cung kính ngưỡng mộ. Đó là đạo phong của Thiền môn
vậy.
930. Sự cấp thiết.
Một
ông tăng hỏi Thiệu Châu:
-
Thế nào là sự cấp thiết?
-
Đồ ngu!
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Sự
cấp thiết là liễu ngộ tự tánh. Ông tăng còn hướng ngoại
tìm cầu thì không phải là sự cấp thiết nữa. Do đó, thiền
sư mắng ông để ông lìa bỏ ngôn cú, phản hướng tự tâm
mà tìm.
931. Ý Tây sang.
Một
ông tăng hỏi Đạo Thường:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Sư
giơ thiền trượng lên hỏi:
-
Hiểu không?
-
Không hiểu!
Sư
hét lớn, đuổi đi.
(
Thiền sư khải ngộ pháp)
Thiên
địa vạn vật, cho đến tất cả mọi hiện tượng nhà Phật
đều gọi chung là “tướng.” Tướng là do nhiều điều
kiện mà thành. Danh là phù hiệu của tướng. Kinh Kim Cương
nói: “Phàm có tướng đều là hư vọng.” Tướng đều không
thiệt, huống hồ là danh do tướng mà có, nhưng mà người
thường dùng trí phân biệt mà nhận thức hiện tượng cho
nên: hồng không thể đồng thời là lục, trắng không thể
đồng thời là đen. Nếu có thể bỏ được sự phân biệt
ta người, không còn phân biệt có không thì có thể tiến
vào cảnh giới tuyệt đối. Cho nên kinh Kim Cương nói:
“Nếu thấy các tướng không tướng thì thấy Như Lai.”
Thiền sư giơ gậy lên hỏi hiểu không? Ông tăng đứng trên
quan điểm người thường thấy gậy và mình không thể cùng
một thể, nhưng đứng trên quan điểm của cảnh giới tuyệt
đối thì gậy không phải là gậy mà là giả danh do con người
gán cho; kỳ thực nó cùng vạn vật một thể đều là tự
tánh hiển lộ. Ông tăng không lìa danh tướng đương nhiên
không thể ngộ tự tánh nên bị thiền sư đuổi đi.
932. Huyền Chỉ.
Một
ông tăng hỏi Trí Thường:
-
Thế nào là Huyền Chỉ?
-
Không ai hiểu được.
-
Người hướng về thì sao?
-
Có hướng liền sai.
-
Người không hướng về thì sao?
-
Ai cần Huyền Chỉ?
Sư
lại nói thêm:
-
Đi đi, không phải là chỗ dụng tâm của ngươi.
-
Thầy không có pháp phương tiện cho đệ tử vào được sao?
-
Quán âm diệu trí lực có thể cứu khổ thế gian.
-
Thế nào là quán âm diệu trí lực?
Sư
gõ vào đỉnh 3 lần hỏi:
-
Ngươi nghe không?
-
Nghe.
-
Sao ta lại không nghe?
Ông
tăng không đáp được, sư giơ gậy đuổi đi.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Huyền
Chỉ là chỉ tự tánh. Tự tánh không thể dùng trí mà biết
được. Do đó thiền sư bảo không ai hiểu được, đồng
thời cũng chỉ ta không hiểu, sao ngươi không tự mình hướng
nội mà tìm? Ông tăng lại lấy hướng và không hướng để
hỏi đều bị thiền sư chặn lại. Vì ông tăng chưa bỏ được
suy nghĩ nên thiền sư bảo “Đi đi, không phải là chỗ dụng
tâm của ngươi.” Xét bề ngoài thì là đuổi ông tăng đi,
không cho hỏi nhưng sự thực thì nếu ông tăng đã nỗ lực
tu tập đến trình độ đại ngã thì chỗ không dụng tâm
tức là chỗ dụng tâm. Bỏ đi tất cả mọi phân biệt đó
là dụng tâm. Ông tăng không hiểu lại hỏi phương tiện để
vào cảnh giới tuyệt đối. Thiền sư lấy câu kệ trong kinh
Pháp Hoa để trả lời. Quán âm diệu trí lực không phải
là trí phân biệt của người phàm mà là trí huệ bát nhã.
Ngài Quán Thế Âm ngồi thiền bên bờ bể nghe hải triều
âm lên xuống, nghe tiếng ở trong sát na sinh diệt, không vĩnh
viễn, không thực có. Vọng tưởng phiền não của con người
đều do chấp thanh âm mà ra. Quán Âm dùng phương pháp ‘nhập
lưu vong sở” khiến âm thanh không còn là căn nguyên của
phiền não. “Nhập lưu vong sở” là không dừng lại ở âm
thanh vào tai mà khiến âm thanh đó như dòng nước trôi đi
không ngừng, đồng thời quên hẳn âm thanh đối tượng, khiến
nó không sản sanh ra được hiện tượng. Thiền sư gõ vào
đỉnh 3 lần, hỏi ông tăng có nghe không? Nếu là người thường
thì sẽ để ý đến âm thanh vào tai, họp thành lời, thành
câu có ý nghĩa, vọng tưởng phiền não đều do đó mà sanh.
Thiền sư lại hỏi ngược lại “Sao ta không nghe?” là chỉ
người đã ngộ không phân biệt chủ thể và đối tượng.
Thiền sư không phải là điếc mà là không còn phân biệt
tiếng và người nghe nữa. Đã giảng nhiều lần như vậy,
ông tăng vẫn không hiểu, thiền sư dùng gậy đuổi đi là
để ông tăng không khởi vọng tưởng phân biệt nữa.
933. Im lặng hồi lâu.
Một
ông tăng hỏi Thủ Sơn Tĩnh Niệm:
-
Thỉnh thầy khẩy đàn không dây.
Sư
im lặng hồi lâu rồi bảo:
-
Nghe không?
-
Không nghe.
-
Sao không hỏi to lên?
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ông
tăng muốn thiền sư khẩy đàn không dây. Chuyện này ở hiện
tượng giới không thể làm được. Đó là cảnh giới của
tự tánh. Thiền sư trực nhập thể nghiệm, nhưng ông tăng
thì không; cho nên ông đã không hiểu dụng ý “im lặng hồi
lâu” của thiền sư. Thiền sư thấy ông tăng không ngộ nhập
được, lại sợ ông chấp vào “Im lặng hồi lâu” mà sinh
vọng niệm cho nên nói là mình chưa nghe rõ câu hỏi để phá
cái chấp này cho ông.
934. Ứng vật hiện hình.
Một
ông tăng hỏi Nghiêm Dương:
-
Thế nào là ứng vật hiện hình?
-
Mang thiền sàng lại đây!
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ứng
vật hiện hình xuất xứ từ Kim Quang Minh Kinh :”Phật chân
pháp thân, do như hư không, ứng vật hiện hình, như trăng
trong nước.” Ý nói pháp thân Phật tùy theo căn cơ bất đồng
của chúng sanh mà hóa hiện cứu độ. Câu hỏi của ông tăng
có nghĩa là: Thế nào là dụng của pháp thân? Câu đáp của
thiền sư nhìn bề ngoài thì chả có gì liên quan đến câu
hỏi. Khi chưa mở tâm nhãn thì hiện tượng và tự tánh là
hai, nhưng đối với người giác ngộ thì cái gì mà không
phải là tự tánh hiển lộ. Do đó, dưới mắt thiền sư đi
đứng, nằm ngồi, nói năng, im lặng, động tĩnh đều là
pháp thân
hiển
hiện, đều là ứng vật hiện hình.
935. Quỷ tàn phế.
Một
lần, Huệ Khôi ngồi thiền trong sơn động, bỗng thấy quỷ
không đầu tới. Nếu là người thường thì đã sợ chết
khiếp, nhưng Huệ Khôi mặt không đổi sắc, bảo:
-
Ngươi không có đầu, không bị cái khổ nhức đầu! Thực
tốt quá!
Quỷ
nghe rồi biến mất.
Một
lần khác, lại có quỷ không có thân mình chỉ có tay, chân
tới.
Huệ Khôi bảo:
-
Ngươi không có thân mình, không phải chịu những đau khổ
do bịnh tật của lục phủ ngũ tạng gây ra; thật là hạnh
phúc!
Quỷ
lại biến mất.
Quỷ
không mồm xuất hiện, Huệ Khôi bảo:
-
Ngươi không có mồm không sợ bị tội ác khẩu, lưỡng thiệt.
Quỷ
không mắt xuất hiện, Huệ Khôi bảo:
-
Ngươi không mắt, không phải nhìn những hỗn loạn làm bận
tâm.
Quỷ
không tay xuất hiện Huệ Khôi bảo:
-
Ngươi không tay, không bị tội cướp giật, đánh người!
Bất
cứ quỷ nào tới, Huệ Khôi cũng dùng cách đối phó trên,
các quỷ đều biến mất không tăm tích.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đối
với người thường, không đầu, không thân thật đáng sợ.
Không mắt, không mồm thật xấu xí, nhưng đối với Huệ
Khôi thì không đầu, không thân là rất tốt, không mắt, không
mồm, không tay thật hạnh phúc. Do đó chuyển mê thành ngộ,
chuyển uế thành tĩnh.
936. Cầu người chẳng bằng cầu mình.
Phật
Ấn và Tô Đông Pha cùng đi tản bộ ở vùng ngoại thành bỗng
gập một pho tượng đá Quán Thế Âm. Phật Ấn liền chắp
tay lạy. Tô Đông Pha hỏi:
-
Chúng ta niệm Quán Thế Âm, còn tượng ngài tay cầm niệm
châu không biết niệm ai?
-
Ngươi tự hỏi mình.
-
Đệ tử làm sao biết Quán Âm niệm ai?
-
Cầu người chẳng bằng cầu mình.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Học
Phật thực ra là học chính mình, hoàn chỉnh chính mình. Người
học Thiền có tự tôn tuyệt đối nên mới có câu tự tu
tự ngộ. Chúng ta không biết tự mình có kho tàng đầy đủ,
không tự cầu mình mà đi cầu người; hy vọng người giúp
đỡ, dẫn dắt.
937. Quốc sư gọi thị giả.
Một
ông tăng hỏi Tuyết Phong:
-
Quốc sư gọi thị giả 3 lần là ý gì? (Xem công án 198)
Sư
đứng dậy, đi về phòng phương trượng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ông
tăng dẫn công án quốc sư gọi thị giả 3 lần để hỏi
dụng ý quốc sư ở đâu. Bất cứ người nào đọc công án
này đều biết là quốc sư muốn tiếp dẫn thị giả ngộ
nhập tự tánh. Ông tăng không muốn biết đáp án do suy luận
mà là thật chứng lấy tâm ấn tâm. Nói cách khác ông xin
Tuyết Phong truyền thọ “ý chỉ.” Hành động của Tuyết
Phong không phải là đáp án. Dùng lý luận phân tích có thể
nói là Tuyết Phong ám chỉ Thiền tồn tại ở sinh hoạt của thân tâm, muốn ông tăng tự thể hội ở ngay thân mình,
đừng tìm kiếm bên ngoài. Cũng có thể nói đó là biểu hiện
nội chứng của Tuyết Phong. Nội chứng không thể dùng ý
mà hiểu được, chỉ có thể đạt được bằng kinh nghiệm.
Ông tăng chưa vượt lên được nhị nguyên tương đối thì
không thể nào hiểu được, ông cũng giống như thị giả
của quốc sư, phụ mình và cũng phụ luôn lão sư nữa.
938. Hợp Đạo.
Một
ông tăng hỏi Đạo Nhất:
-
Làm sao hợp Đạo?
-
Ta sớm đã không hợp Đạo.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
trả lời của thiền sư khiến ông tăng không còn chỗ nào
mà tìm cầu nữa.
939. Há mồm.
Hân
Châu đả địa hòa thượng hễ có ông tăng nào đến hỏi,
ông đều dùng gậy đánh xuống đất mà chỉ thị. Do đó,
người đương thời gọi là “đả địa hòa thượng.” Có
ông tăng dấu thiền trượng của sư đi rồi mới hỏi. Sư
há mồm chỉ thị.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Chí
Đạo không lời, nếu dùng lời e rơi vào nguy cơ tư duy. Để
tránh cho thiền sinh khỏi suy luận do lời đáp nên thiền sư
chỉ dùng động tác để chỉ thị. Ông tăng dấu gậy đi
rồi mới hỏi để xem phản ứng của thầy ra sao. Vì Đạo
không thể nói nên thiền sư chỉ há mồm.
940. Thè lưỡi.
Một
ông tăng hỏi Linh Quan:
-
Phật là thế nào?
Sư
thè lưỡi ra, ông tăng lạy tạ.
-
Ngưng! Ngươi thấy gì mà lạy?
-
Tạ ơn hòa thượng từ bi, dùng tướng lưỡi chỉ thị.
-
Gần đây lưỡi ta mọc mụn.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Tự
tánh không thể dùng lời để diễn tả. Nếu bất đắc dĩ
phải nói các thiền sư liền từ sinh hoạt hàng ngày dùng
bất cứ sự vật gì cụ thể ngay trước mắt mà có thể
cảm giác được để tượng trưng cho tự tánh không thể
cảm giác, không thể nghĩ bàn. Trong công án này thiền sư
lè lưỡi để đáp đương nhiên là ý ở ngoài lời, không
phải chỉ lưỡi là Phật; ý là sao chỉ có người cùng thể
nghiệm mới rõ. Ông tăng lạy tạ thiền sư lè lưỡi để
chỉ tự tánh là do suy luận, không phải là thể nghiệm, là
đã chấp tướng. Thiền sư bảo lưỡi mình mọc mụn là để
phá cái chấp này cho ông.
941. Tóm chặt lấy.
Thần
Án một hôm đến tham Tuyết Phong. Phong biết cơ duyên của
ông đã chín mùi, bỗng đứng dậy tóm chặt lấy ông hỏi:
-
Là cái gì?
Thần
Án hốt nhiên liễu ngộ.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Thần
Án tuy chưa mở miệng hỏi Đạo, nhưng mục đích ông đến
tham Tuyết Phong là để hỏi Đạo. Tuyết Phong đã có kinh
nghiệm chứng ngộ nên biết Thần Án đã đến trình độ
đứng trước cửa Thiền rồi, do đó đột nhiên đứng dậy
tóm chặt lấy ông và hỏi: “Là cái gì?.” Cái hành động
đột ngột, mãnh liệt này giúp cho Thần Án bước vào Thiền
Cảnh mà khai ngộ.
942. Dang hai tay.
1/.
Có một ông tăng hỏi Như Mẫn:
-
Phật pháp chí lý là sao?
Sư
dang hai tay ra.
2/.
Có ông tăng hỏi Nghĩa Sơ:
-
Thế nào là Đạo?
Sư
dang hai tay ra.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Phật
pháp chí lý và Đạo đều chỉ bản thể giới tuyệt đối,
hoặc tự tánh, Phật tánh. Đó là cái mà ngôn ngữ không thể
diễn tả rõ ràng được, do đó thiền sư dang hai tay ra để
trả lời. Đương nhiên tay và động tác dang ra không phải
là đáp án, đây chỉ là phương tiện để thiền sinh thể
ngộ tự tánh.
943. Túm ngực.
Một
ông tăng hỏi Quy Bản:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Sư
túm ngực ông, ông tăng biến sắc. Sư bảo:
-
Nơi đây ta không có cái đó.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Đột
nhiên túm lấy ngực ông tăng, động tác này để cắt đứt
ý thức suy luận của ông, khiến ông ngộ nhập tự tánh.
Nhưng ông tăng này chưa vứt bỏ được thế giới nhị nguyên
đối đãi nên đã không bắt được tia lửa tự tánh do hai
hòn đá đập vào nhau. Ông đã đánh mất cơ hội; lại không
rõ ý của thiền sư nên sợ hãi biến sắc mặt. Thiền sư
biết ông rơi vào tướng bên ngoài của động tác, vọng niệm
suy tư về ý nghĩa của động tác cho nên lại bảo thêm: “Nơi
đây ta không có cái đó.” Cái đó là chỉ tự tánh. Câu
nói này dùng lý luận phân tích có thể có 2 ý. Một là, ta
không có tự tánh mà ngươi muốn, vậy đừng cầu ta. Hai là,
ta không có tự tánh, do vậy động tác vừa rồi là vô nghĩa
ngươi đừng suy luận làm gì. Dù ở trong trường hợp nào
thì cũng là để giúp ông tăng đừng khởi vọng niệm.
944. Đạp cho một cái.
1/.
Thủy Lão đến thăm Mã Tổ , hỏi:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
-
Ngươi lạy đi!
Thủy
Lão bèn lạy, Mã Tổ đạp cho một cái. Sư đại ngộ, đứng
dậy vỗ tay cười ha hả.
2/. Kim Luân đến tham Tuyết Phong, Tuyết Phong bảo:
-
Lại gần đây!
Sư
lại gần, Tuyết Phong đạp cho một cái. Sư hốt nhiên khế
ngộ.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Mã
Tổ bảo Thủy Lão lạy, Tuyết Phong bảo Kim Luân lại gần.
Cả hai nhân lúc thiền sinh lạy mà đạp cho một cái. Ở đây
phải hiểu là các thiền sư đang ngồi ở mé thiền sàng.
Nếu thiền sinh đứng thì cái đạp không mạnh mẽ, nếu thiền
sư cũng đứng thì sức đạp cũng không đi đến đâu. Chỉ
có lúc thiền sinh cúi mình lạy, không ngờ lão sư lại ra
tay lúc đó, cái đạp mới có tác dụng.
945. Im lặng.
Một
ông tăng hỏi Bảo Triệt:
-
Thế nào là đại ý Phật pháp?
Sư
ngồi im lặng.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Đại
ý Phật pháp, khuôn mặt xưa nay…đều chỉ tự tánh. Phương
pháp hay nhất để trả lời câu hỏi này là để ông tăng
tự thể ngộ tự tánh; do đó thiền sư dùng sự im lặng để
khai ngộ cho ông.
946. Đánh.
Một
ông tăng hỏi Tuệ Giác:
-
Cổ nhân xoay mặt vào vách là ý gì?
Sư
liền đánh.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ông
tăng dẫn chuyện Lỗ Tổ xoay mặt vào vách (Xem công án 797).
Câu hỏi có nghĩa là: “Đạo là gì?.” Thiền sư đánh để
khai ngộ cho ông. Công án không nói rõ là dùng vật gì để
đánh nhưng thường là thiền sư xử dụng những gì thấy
ngay trước mắt như thiền trượng hoặc phất trần. (Xem công
án 909).
947. Hét.
Một
ông tăng hỏi Thủy Lục:
-
Thế nào là một câu tối sơ?
Sư
hét lên.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
tối sơ hoặc đệ nhất nghĩa đều chỉ cứu cánh của chân
lý tức tự tánh. Tự tánh không thể dùng lời mà chỉ, do
đó Thủy Lục bèn hét lên. Tiếng hét này có thể có 2 tác
dụng: một là đoạn trừ tình giải; hai là dùng âm thanh của
tiếng hét vào thẳng nội tâm sâu thẳm của ông tăng. Nếu
cơ duyên đã đầy đủ thì ông tăng nhân đó mà tiến vào
thiền cảnh, chân chính thể ngộ câu tối sơ.
948. Thầy của Văn Thù.
Một
ông tăng hỏi:
-
Văn Thù là thầy của 7 vị Phật, còn Văn Thù có thầy không?
Thiền
sư giơ phất trần lên, ông tăng lại hỏi:
-
Là cái đó sao?
Thiền
sư vất phất trần xuống, khoanh tay lại.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Văn
Thù là thầy của 7 vị Phật, là chỉ lúc 7 vị chưa thành
Phật chứ không phải là chỉ lúc thành Phật rồi. Lúc
chưa ngộ đạo còn là phàm phu thì cũng cần thầy dạy bảo,
Văn Thù cũng vậy. Đứng ở góc độ tự tánh mà nói thì
ai cũng có Phật tánh đầy đủ không tăng, không giảm, không
cần ai giáo huấn. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng kiến
tánh vì bị vô minh chướng ngại. Bởi vậy mới cần thầy
khai thị. Từ tánh không mà nói Văn Thù, 7 vị Phật, cho đến
tất cả chúng sanh vốn tự tròn đầy không có phân biệt
thầy trò. Nhưng từ duyên khởi mà nói thì có Phật, có chúng
sanh, có người giác, kẻ chưa giác do đó mà Văn Thù gập
duyên liền có thầy. Hoa nở, hoa tàn, hòn gạch văng vào thân
tre cho đến tất cả người, sự vật. . . đều là thầy của
Văn Thù. tất cả những cái này đều là hiện tượng, có
thể dẫn Văn Thù ngộ nhập Không Tánh. Do đó thầy của Văn
Thù không phải là chỉ tướng mạo mà là chỉ tâm yếu. Vì
thế thiền sư giơ phất trần lên để chỉ thị. Ông tăng
lại hỏi “Là cái đó sao?” Không biết ông tăng chỉ “cái
đó” là cái gì, đều tỏ ông tăng có sở kiến, chấp trước.
Tự tánh không hình tướng do đó thiền sư vất phất trần xuống đất.
949. Pháp yếu của chư Phật.
Một
ông tăng hỏi Pháp Chân:
-
Thế nào là pháp yếu của chư Phật?
Sư
giơ phất trần lên hỏi:
-
Hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Phất trần đuôi nai.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Dưới
mắt người thường tự tánh và hiện tượng là hai, nhưng
với người giác thì chỉ là một. Phất trần và ngã, người
thường thấy là 2 cá thể không có quan hệ gì, nhưng thiền
sư thì thấy nó là một bộ phận của tự tánh. Đó là cảnh
giới của thiền sư. Ông tăng nếu phá bỏ được khái niệm
phất trần, vào thẳng thế giới bản thể thì mới hiểu
được điều thiền sư chỉ. Ngược lại thì dù cướp được
phất trần trên tay thiền sư cũng không sao đạt được pháp
yếu của chư Phật.
950. Thế nào là Thiền?
Có
pháp sư hỏi Nga Hồ:
-
Dục giới không Thiền, Thiền ở sắc giới; nơi này dựa
vào đâu mà lập Thiền?
-
Pháp sư chỉ biết dục giới không Thiền mà không biết Thiền
giới không dục.
-
Thế nào là Thiền?
Sư
lấy tay chỉ không, pháp sư không nói gì được.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Câu
Xá luận, phẩm thế gian nói phàm phu sinh tử qua lại trong
dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Dục giới có tình dục,
thực dục, là 2 dục vọng của loài hữu tình. Sắc giới
không có 2 dục này, chỉ nương vào thiền định nông sâu
mà phân làm 4 thiền thiên. Bốn thiền thiên này cũng dịch
là tư duy hoặc tĩnh lự, ý là thân nhiếp tâm tán loạn vào
một cảnh, không bị dao động, tiến vào cảnh giới tam muội.
Thiền không phải chỉ đơn thuần chỉ thiền định mà chủ
yếu là phá trừ vô minh, phiền não mà đạt tới diệu dụng
của tâm là trí huệ. Pháp sư chỉ hiểu Thiền là Thiền định.
Sự thực thì con người trong dục giới hoặc dị loại của
chúng sanh có thể tu trì mà đạt được 4 thiền thiên. Nhục
thể tuy tại dục giới, nhưng tinh thần có thể đạt tới
4 thiền thiên. Câu hỏi của pháp sư cho thấy ông chấp vào
văn tự. Thiền không hữu, vô; không hình tướng đương nhiên
không dục. Pháp sư không hiểu nên lại hỏi “Thế nào là
Thiền?” Thiền lìa tất cả ngôn ngữ văn tự, nhưng vì tiếp
dẫn thiền sinh nên thiền sư phải dùng nhiều phương pháp
để khai thị. Ở đây Nga Hồ chỉ không,rất tiếc pháp sư
vẫn chưa được ngộ.
951. Nhớ đóng cửa lại.
Một
tên trộm lẻn vào một ngôi chùa tính làm một mẻ. Hắn lục
lọi khắp nơi mà chẳng thấy một vật gì đáng giá để
trộm cả, tính bỏ đi. Lúc đó đang nằm ngủ trên giường,
Vô Tướng bảo:
-
Này ông bạn, khi nào đi ra nhớ đóng cửa hộ.
Tên
trộm mới đầu kinh ngạc, rồi tùy tiện trả lời:
-
Thật là lười hết nói, ngay cả cửa cũng nhờ người khác
đóng hộ, chả trách trong chùa không có một vật gì đáng
tiền.
-
Ông bạn quá trớn rồi, muốn ta ngày ngày khổ sở kiếm tiền
mua đồ để ngươi trộm sao?
Tên
trộm cảm thấy gập loại hòa thượng này thực không có
cách nào đối phó.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Thiền
không phải là không có gì cả. Cái mà thiền sư có là một
bảo tàng mà người khác không thể nào lấy trộm được.
952. Ta về tây phương.
Đời
Nam Tống, Đạo Duyệt trụ trì Giang Thiên Tự là vị thiền
sư được Nhạc Phi rất tôn kính. Khi Nhạc Phi bị Tần Cối
dùng 12 đạo Kim bài triệu hồi, đi ngang qua Kim Sơn Giang Thiên
Tự, Đạo Duyệt khuyên ông xuất gia đừng về kinh. Nhưng
Nhạc Phi vì lòng trung dù biết bất lợi vẫn cương quyết
về Nam. Lúc chia tay Nhạc Phi xin chỉ thị, Đạo Duyệt bảo:
歲
底 不 足
Tuế
để bất túc
謹
防 天 哭
Thận
phòng thiên khốc
奉
下 兩 點
Phụng
hạ lưỡng điểm
將
人 害 毒
Tương
nhân hại độc.
Năm cùng chẳng đủ
Nên phòng trời khóc
Dưới phụng hai điểm
Bị người hạ độc.
Nhạc
Phi lúc đó không hiểu là ý gì. Cho đến khi bị vu cáo hạ
ngục, bị ngộ độc rồi mới hiểu. Năm đó tháng 12 là tháng
thiếu, chỉ có 29 ngày. Đêm đó trời lại mưa. Nghe tiếng
mưa rơi ở ngoài Nhạc Phi biết đại họa đã tới. Chữ phụng
thêm 2 nét ở dưới thành chữ Tần, chỉ gian thần Tần Cối.
Quả nhiên tối đó bị Tần Cối hại chết ở Phong Ba Đình.
Tần
Cối giết Nhạc Phi rồi tra hỏi Khoái tử thủ, Nhạc Phi lúc
sắp chết nói gì, Khoái tử thủ thưa:
-
Nhạc Phi chỉ nói hối không nghe lời Đạo Duyệt.
Tần
Cối bèn sai kẻ thân tín là Hà Lập dẫn binh đến Kim Sơn
bắt Đạo Duyệt. Nhưng một ngày trước khi Hà Lập đến
Giang Thiên Tự, Đạo Duyệt tụ chúng thuyết pháp, sau đó
đọc 4 câu kệ:
何
立 自 南 來
Hà
lập tự nam lai
我
往 西 方 走
Ngã
vãng Tây phương tẩu
不
是 法 力 大
Bất
thị pháp lực đại
幾
乎 落 佗 手
Cơ
hồ lạc tha thủ
Hà Lập từ Nam tới
Còn ta đi về Tây
Chẳng phải pháp lực lớn
Sa vào tay hắn rồi!
Đọc
xong, tọa hóa. Lúc đó đại chúng nghi hoặc thương cảm. Hôm
sau Hà Lập dẫn binh tới, bấy giờ đại chúng mới rõ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đạo
Duyệt biết sự sanh tử của Nhạc Phi, đương nhiên cũng rõ
sự sanh tử của mình. Nhưng tại sao không tiếc sống, tránh
chết? Bởi vì sanh tử nghiệp lực không thể tránh được.
Nhạc Phi không tránh được, đương nhiên Đạo Duyệt cũng
không tránh được. Thiền sư tuy không tránh được nghiệp
báo, nhưng ngộ đạo rồi không sợ chết nữa. Sanh cũng tốt,
tử cũng đẹp!
953. Vào núi sâu.
Động
Sơn đến tham vấn Long Sơn. Long Sơn hỏi:
-
Không có đường vào núi sâu, ngươi làm sao tới?
-
Chuyện không có đường vào và làm sao đệ tử vào được
hãy tạm gác lại, giờ xin hỏi thầy làm sao vào?
-
Ta không phải từ mây trời tới, cũng không phải do dòng sông
đưa lại.
-
Xin hỏi thầy trú ở núi này bao năm rồi?
-
Ngày tháng xoay vần với ta vô can.
-
Vậy xin hỏi thầy ở đây trước hay núi này ở đây trước?
-
Không biết.
-
Vì sao?
-
Ta không phải là người phàm, cũng không phải là tiên trời,
làm sao biết?
-
Đã không phải là người phàm, cũng không phải là tiên chẳng
lẽ đã thành Phật?
-
Không phải là Phật.
-
Vậy là gì?
-
Nói giống một vật là không đúng.
-
Thầy vì duyên cớ gì mà vào núi này?
-
Vì lúc trước ta thấy 2 con trâu bùn vừa đánh nhau vừa cùng
tiến vào biển lớn cho đến bây giờ vẫn chưa thấy tung
tích.
Động
Sơn nghe lời này cung kính lạy tạ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Núi
sâu ở đây chỉ ngũ uẩn. Chúng ta làm sao vào tòa núi này?
Đương nhiên là không thể do một đường đi nào mà vào,
cũng không thể từ trời rơi xuống mà phải do nghiệp duyên
mà vào. Do thân ngũ uẩn mà tu là mượn giả tu thật, do đó
mà Động Sơn cung kính lạy tạ.
954. Mười điều về sau hối hận.
Một
học tăng hỏi Vân Cư:
-
Đệ tử cứ làm xong một chuyện, sau lại hối hận là vì
sao?
-
Ngươi hãy nghe ta kể 10 điều về sau hối hận:
1/.
Là gập thầy chẳng học.
2/.
Là gập bạn hiền chẳng kết giao.
3/.
Là thờ cha mẹ bất hiếu.
4/.
Là đối với chủ bất trung.
5/.
Là thấy việc nghĩa chẳng làm.
6/.
Là thấy nguy chẳng cứu.
7/.
Là có tiền của chẳng bố thí.
8/.
Là đối với đất nước chẳng trung.
9/.
Là đối với nhân quả chẳng tin.
10/.
Là đối với Phật đạo chẳng tu.
Đối
với 10 loại hậu hối trên ngươi thuộc loại nào?
Ông
tăng gãi đầu thưa:
-
Xem ra đều là bệnh của con.
-
Đã biết đó là bệnh sao không sớm trị đi?
-
Con không biết cách trị, xin thầy từ bi khai thị.
-
Trong 10 hậu hối, ngươi hãy thay chữ chẳng bằng chữ nên
là được. Thí dụ gập thầy nên học.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Ác
tập của con người, chẳng đến Hoàng Hà chẳng từ tâm,
không thấy quan tài không đổ lệ. Kinh nói bồ tát sợ nhân,
chúng sanh sợ quả. Chúng sanh khi thấy quả báo hiện tiền
rồi mới hối hận, giả như ngay từ đầu đối với sự
tốt khẳng định, đối với sự xấu phủ định thì về
sau sẽ không bị hối hận.
955. Rễ cây.
Có
một Phật tử đọc kinh, gập câu “Kim cương không cứng
rắn nhất mà nguyện lực mới cứng rắn nhất”, không hiểu
ý nghĩa là sao, bèn đến hỏi Vô Tướng. Vô Tướng giảng:
-
Người học Phật không bị ma nghiệp, cơ duyên, . . . chướng ngại khiến tâm bồ đề bị thối chuyển thì phải
nhờ nguyện lực duy trì. Lịch đại tổ sư, đạo nghiệp
hoàn thành không người nào là không nhờ nguyện lực; thí
dụ như bồ tát Phổ Hiền có 10 đại nguyện, bồ tát Quán
Thế Âm có 12 đại nguyện, Phật A Di Đà có 48 đại nguyện,
bồ tát Địa Tạng có đại nguyện “Nếu địa ngục còn
có một người thì ta thề không thành Phật.”
-
Tại sao muốn thành Phật lại phải lập nguyện phổ độ
chúng sanh?
-
Lấy một cái cây làm thí dụ: chúng sanh là rễ, bồ tát là
hoa, Phật là quả. Muốn cây đơm hoa kết quả thì phải săn
sóc tưới bón cho rễ, tránh cho rễ bị tổn hại nếu không
làm sao cây trổ hoa, kết quả? Vì vậy kinh Hoa Nghiêm nói:
“Muốn thành Phật, trước phải làm trâu, ngựa chúng sanh.”
-
Nguyện lực của thầy là gì?
-
Không thể bảo cho ngươi biết.
-
Vì sao?
-
Nguyện lực của ta là của ta, sao ngươi không tự phát nguyện
lực?
Phật
tử cuối cùng tâm khai, ý giải lạy tạ mà đi.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Mỗi
người đều có nguyện lực của mình hà tất hỏi nguyện
lực của người. Trước hết hãy tự hỏi ta sẽ làm gì cho
chúng sanh, tỷ dụ muốn làm một chiếc thuyền để độ người
qua sông, làm một con đường để người đi, làm một cây
to cho bóng mát mọi người...
956. Xô.
Một
ông tăng hỏi Chỉ Quán:
-
Thế nào là thầy của Tỳ Lô?
Sư
xô vào ngực ông một cái.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Tỳ
Lô là viết tắt của Tỳ Lô Giá Na Phật tức Pháp Thân Phật.
Nhà Phật nhận rằng tất cả mọi sinh linh đều có Phật
tánh đầy đủ, chỉ vì vô minh làm chướng ngại nên người
phàm không thấy Phật tánh, phải nhờ người có trí huệ
(thầy) khai thị. Câu hỏi có nghĩa là:”thế nào là tâm yếu”, chứ không phải là hỏi tướng mạo. Tâm yếu của chư Phật
không ngoài tự tánh. Do đó thiền sư xô cho ông tăng một
cái, là dùng động tác thô bạo cắt đứt vọng tưởng của
ông tăng, dẫn ông tăng ngộ nhập tự tánh.
957. Tâm tịnh quốc thổ tịnh.
Có
một nữ Phật tử mỗi ngày đều hái hoa ở vườn nhà đem
đến chùa cúng Phật. Một hôm gập Vô Đức từ pháp đường
đi ra, Vô Đức rất hoan hỉ bảo:
-
Nữ thí chủ mỗi ngày đều thành kính hương hoa cúng Phật,
theo kinh điển thì kiếp sau sẽ được tướng mạo trang nghiêm.
-
Chuyện này nên làm lắm, mỗi lần con đến chùa cúng Phật
đều cảm thấy tâm hồn mát mẻ, nhưng khi về nhà thì lại
bị phiền não. Những kẻ nội trợ như con làm sao trong phiền
não có thể giữ được tâm thanh tịnh, thuần khiết?
-
Thí chủ thường dâng hoa cúng Phật, chắc là biết nhiều
về hoa, xin hỏi làm sao giữ cho hoa được tươi?
-
Muốn hoa được tươi thì mỗi ngày phải thay nước và tỉa
bớt cành phía dưới, vì ngâm nước nó dễ bị ủng thối,
không hút được nước khiến hoa mau tàn.
-
Giữ cho tâm thanh khiết cũng dùng đạo lý đó. Hoàn cảnh
sinh hoạt của chúng ta cũng giống như nước trong bình, chúng
ta là hoa, chúng ta phải tĩnh hóa thân tâm, không ngừng sám
hối cải tiến ác tập, khuyết điểm, mới hấp thụ được
những thực phẩm của đại tự nhiên.
-
Cám ơn sư phụ chỉ thị. Mong rằng con sẽ có cơ hội sống
ít lâu ở chùa hưởng thụ những tiếng chuông mõ ban mai,
những tiếng kinh kệ ban tối.
-
Tiếng thở là tiếng niệm kinh, nhịp tim đập là tiếng trống,
thân thể là chùa chiền, 2 tai là bồ đề. Không chỗ nào
là không thanh tịnh, việc gì phải đợi cơ hội sống ở
chùa?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
xưa nói dùng nơi ồn ào làm đạo trường. Chỉ cần dứt
bỏ vọng duyên, tạp niệm thì chỗ nào chả an tĩnh. Dù ở
núi sâu, cổ tự, nếu không bỏ được vọng tưởng thì cũng
không có cách nào mà tu được. Nhà Thiền đề cao tức khắc
đâu chờ ngày mai.
958. Một mớ rau tươi.
Tuyết
Phong, Nham Đầu, Khâm Sơn ba người kết bạn đi khắp nơi
tham phỏng, hoằng pháp. Một hôm đang định tìm nơi xin ăn
thì gập một con sông, nhìn thấy một mớ rau tươi trôi theo
dòng nước.
Khâm
Sơn:
-
Coi kìa, trên dòng nước có mớ rau, chúng ta hãy đi lên phía
trên, nhất định có nhà ở.
Nham
Đầu:
-
Mớ rau còn tươi, thật phí của trời!
Tuyết
Phong:
-
Thôn dân không biết tiếc phúc, không thể giáo hóa được,
chúng ta hãy tìm nơi khác khất thực.
Ba
người còn đang bàn luận thì thấy một người từ mạn trên
chạy xuống hỏi:
-
Các thầy có thấy một bó rau trôi ngang đây không? Con rửa
rau vô ý nên rau bị nước cuốn đi, nay con chạy đi vớt lại
để khỏi phí của trời!
Ba
người nghe xong cười lớn bảo nhau:
-
Chúng ta hãy đến nhà ông này tá túc.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Tiếc
vật gọi là tiếc phúc. Chỉ có người tiếc phúc mới được
phúc.
959. Đứng lại.
Một
hôm Vô Học đang đi ở pháp đường, Đầu Tử bước tới
lạy, hỏi:
-
Mật ý từ Tây sang, hòa thượng làm sao bảo người?
Sư
dừng bước.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Sự
đứng lại của Vô Học cũng có tác dụng tương tự như “im
lặng hồi lâu.” Đang đi bỗng đứng lại là chuyển từ
động sang tĩnh. Thiền sư không nói gì cả, trực tiếp dùng
sinh mạng thể nghiệm trình ra.
960. Vung tay.
Một
ông tăng hỏi Đại Lịch:
-
Vô vi là thế nào?
Sư
vung vẩy tay.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Vi
là làm, vô vi là không nhân duyên tạo tác, do đó không có
4 tướng: sinh, trụ, hoại, diệt. Niết bàn, pháp tánh, thật
tướng, pháp giới, tự tánh tuy khác tên nhưng đều chỉ chân
lý. Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là “tự tánh là thế
nào?” Động tác trực tiếp diễn tả tác dụng của tự
tánh, do đó thiền sư vung tay để đáp. Ở thiền sư thể
và dụng là một, nhưng đối với học tăng nếu chưa ngộ
thì lại là hai.
961. Cái chùa.
Một
hôm Bảo Phúc dạy đệ tử:
-
Nếu tới phía sau chùa thì gập ông Trương hoặc ông Lý, nhưng
nếu tới phía trước thì chẳng gập ai cả. Tại sao vậy?
Trong hai đường, đường nào tốt hơn?
Một
ông tăng thưa:
-
Chắc là lầm cảnh, nếu không thấy gì thì có lợi gì đâu!
-
Đồ ngu, chùa vẫn luôn như vậy.
-
Nếu không thấy chùa thì phải thấy một cái gì chứ?
-
Ta chỉ nói cái chùa chứ không nói về cái gì khác.
(Zen
Koans)
Chùa
ở đây tượng trưng cho thế giới thực tại. Sau chùa là
chỉ hiện tượng giới, trước chùa là chỉ cốt tủy và
thực tại của pháp. Khi tới sau chùa thì gập ông Trương,
ông Lý, núi, sông; khi tới phía trước thì không thấy gì
đặc biệt cả. Ông tăng phản đối nếu không nhìn thấy
gì thì chẳng có lợi gì. Nhiều người ngày nay cũng nói:
“Chỉ thấy mới tin.” Bảo Phúc mắng ông tăng chỉ nhìn
bề ngoài mà không thấy cốt tủy, thực tại. Chùa vẫn luôn
luôn là chùa chứ không là gì khác. Trong Phật giáo không có
được hay mất.
962. Phía Nam, phía Bắc.
Thạch
Sương trú ở phía Nam còn Quán Khê trú ở phía Bắc một ngọn
núi. Một hôm, một ông tăng từ tự viện phía Bắc tới tự
viện phía Nam để tham học. Thạch Sương bảo ông:
-
Tự viện phía Nam cũng không tốt hơn tự viện phía Bắc.
Ông
tăng không biết làm sao trả lời, về thuật lại cho thầy
nghe. Quán Khê bảo:
-
Sao ngươi không nói là thầy tôi đã sẵn sàng nhập diệt?
(Zen
Koans)
Như
câu nói “Cỏ nhà hàng xóm bao giờ cũng xanh hơn”; một người
sống trong thế giới so đo luôn luôn tìm một bãi cỏ xanh
hơn, như ông tăng trong chuyện này. Thạch Sương chỉ cho ông
biết tự viện mà ông vừa rời bỏ là một nơi để tham
học rất tốt. Thối chí vì thái độ không cạnh tranh này,
ông tăng không biết làm sao trả lời. Thầy ông phản ứng
với lời khen bằng câu “Ta sẵn sàng nhập diệt.” Cả hai
vị thầy đều gắng chỉ cho ông tăng chân lý ở bên trong
chứ không ở nơi nào khác.
963. Giáo lý cao hơn.
Động
Sơn bảo đại chúng:
-
Các ngươi nên biết còn có giáo lý cao hơn Phật giáo.
Một
ông tăng bước ra hỏi:
-
Giáo lý cao hơn Phật giáo là gì?
-
Không phải là Phật.
(Zen
Koans)
Động
Sơn sống dưới đời nhà Đường, thời hoàng kim của Phật
giáo, và học hỏi với nhiều thiền sư như Quy Sơn, Nam Tuyền,
Vân Nham. về sau, ông thiết lập dòng thiền Tào Động. Vài
vị thiền sư rất thô bạo, hoặc đánh hoặc đuổi thiền
sinh ra khỏi thiền viện; còn Động Sơn thì hiền từ và hiểu
biết. Câu nói của ông là để chống lại sự ngưng trệ.
Nhiều người nghe những câu như “Thiền là một cách sống,” “Nhìn sự vật như chính nó”, “Ta bà là Niết Bàn”. .
. nghĩ rằng mình đã hiểu Thiền và không học hay tìm kiếm
gì nữa. Câu “Không phải là Phật” là Động Sơn chỉ cho
những thiền sinh tìm kiếm giác ngộ. Nhưng với những người
nhập môn Động Sơn sẽ nói là Phật. Luôn luôn có 2 cách
học hỏi: Một là tiến về trước, một là quay trở lại.
Chúng ta tìm giác ngộ, Phật giới bình đẳng, cái một, nhưng
chúng ta cũng luôn quay lại thế giới nhân loại cụ thể này.
Chúng ta tìm thấy Phật trong con người, phổ quát trong riêng
biệt, bình đẳng trong bất bình đẳng, hòa hợp trong bất
hòa hợp, một trong tất cả. Chúng là 2 nhưng cũng là một.
Đừng chỉ chấp vào Phật hay người, đó là lời dạy của
Động Sơn.
964. Thiền trượng của Phần Dương.
Phần
Dương chỉ cây thiền trượng bảo đại chúng:
-
Ai hiểu cây thiền trượng này thì hiểu mục đích của Thiền.
(Zen
Koans)
Thường
lệ một thiền sinh đi thăm nhiều thiền sư để học hỏi
và thử nghiệm trình độ hiểu biết nông sâu của mình. Đối
với những thiền sinh du phương này cây thiền trượng đã
trở thành biểu tượng cho sự đi tìm chân lý. Phần Dương
là một người rất sốt sắng, ông đã đi tham học hơn 70
vị tôn túc. Tới thăm một vị thiền sư không phải là để
nhận một cái gì mà là một cơ hội để tự đào sâu vào
chính mình. Đạo Nguyên có nói: “Học Thiền là học chính
mình.”
965. Thuyền sắt.
Khi
Huyền Sa học với Tuyết Phong, một bạn đồng học tên Quang
nói:
-
Nếu thầy đạt được một cái gì đó, tôi sẽ đóng một
cái thuyền sắt và dong ra biển lớn.
Nhiều
năm sau, Huyền Sa trở thành một thiền sư, và ông tăng Quang
trở thành thị giả.
Một
hôm, Huyền Sa hỏi ông:
-
Ngươi đã đóng cái thuyền sắt chưa?
Quang
yên lặng.
(Zen
Koans)
Huyền
Sa học Thiền năm 30 tuổi với Tuyết Phong; bạn đồng học
nhỏ tuổi hơn tên Quang đưa ra câu nói về cái thuyền sắt
ở thế kỷ 8 và 9, khi người Trung Hoa chưa bao giờ mơ rằng
có tầu bằng sắt như chúng ta có ngày nay. Tuy ông tăng Quang
học thiền sớm hơn Huyền Sa, học hỏi và giữ gìn giới
luật chặt chẽ nhiều năm nhưng sự giác ngộ hãy còn xa vời.
Nhiều năm sau khi Huyền Sa đã là thiền sư và ông tăng trở
thành thị giả của mình, ông hỏi về cái thuyền sắt không
phải là để châm biếm hay trả thù Quang. Đó là câu nói
hiền từ nhất mà ông có thể cho Quang để đánh thức Quang
dậy. Ngộ không thể đạt được bằng thời gian thực hành
và giữ giới, cũng không bằng sự thu lượm kiến thức.
966. Chém rắn.
Một
ông tăng đến tham học với Trí Thường, gập lúc Trí Thường
đương
cuốc đất. Trong đám cỏ bỗng có một con rắn bò ra, thiền
sư giơ cuốc lên bổ. Ông tăng nói:
-
Từ lâu ngưỡng mộ đạo phong, đến nơi chỉ thấy một gã
tục nhân thô lỗ.
-
Như lời ngươi thì ta thô hay ngươi thô?
-
Thế nào là thô?
Trí
Thường hạ cuốc xuống.
-
Thế nào là tế?
Trí
Thường giơ cuốc lên làm bộ chém rắn.
Ông
tăng không hiểu ý, phàn nàn:
-
Thầy nói thô, tế làm người ta chẳng hiểu gì cả.
-
Vậy đừng nói thô, tế; xin hỏi ngươi thấy ta chém rắn
ở đâu?
-
Ngay đây!
-
Ngay đây ngươi đã không kiến tự kỷ, còn xem chém rắn làm
gì?
Ông
tăng cuối cùng tỉnh ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Cấm
sát sanh là một đại giới. Trong Thiền sử đã có chuyện
Nam Tuyền chém mèo, hành động đó là đại cơ, đại dụng
là để chặt đứt vật dục và chấp trước cho đại chúng.
Trong công án này, Trí Thường giơ cuốc lên làm bộ chém rắn,
ông tăng thấy gió nghĩ đến mưa nên phê bình thiền sư là
thô lỗ, không có lòng từ bi. Trí Thường dạy ông tăng không
nên ngưng lại ở kiến văn giác tri (biết do thấy, nghe). Thiền
phải cắt đứt cái thường tình, thường thức. Tại sao cứ
nhất định phải theo ngoại cảnh phân biệt mà không lập
tức quan tâm đến chính mình?
967. Thuận buồm suôi gió.
Một
tối Động Sơn thuyết pháp nhưng không thắp đèn, có ông
tăng Năng Nhẫn hỏi Động Sơn vì sao không thắp đèn. Động
Sơn kêu thị giả thắp đèn rồi bảo Năng Nhẫn:
-
Ngươi lại đây.
Năng
Nhẫn bước ra trước; Động Sơn bảo thị giả:
-
Ngươi đi lấy 3 cân dầu tặng vị thượng tọa này.
Năng
Nhẫn phất tay áo ra khỏi giảng đường. Qua một đêm tham
cứu Năng Nhẫn có chỗ ngộ, liền mang hết tiền ra biện
trai cúng dường đại chúng. Sau đó ông theo chúng sinh hoạt.
3 năm sau, ông đến từ biệt Động Sơn. Động Sơn cũng không
giữ lại chỉ nói:
-
Chúc ngươi thuận buồm suôi gió.
Lúc
đó, Tuyết Phong đứng bên cạnh Động Sơn; khi Năng Nhẫn
bước ra ngoài rồi, bèn hỏi:
-
Ông tăng này đi rồi, không biết bao giờ trở lại?
-
Ông ta biết ông ta có thể đi, nhưng không biết bao giờ có
thể về. Nếu ngươi không ngại, hãy đến tăng đường coi
thử.
Tuyết
Phong đến tăng đường mới biết Năng Nhẫn ngồi thiền mà
tọa hóa rồi. Tuyết Phong chạy đi báo cáo cho Động Sơn.
Động Sơn bảo:
-
Ông ta tuy chết rồi, nhưng so với ta đã chậm 30 năm.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Thiền
tăng Năng Nhẫn trách Động Sơn thuyết pháp mà không thắp
đèn; trong tối cần ánh sáng đó là thường tình. Động Sơn
sai thị giả thắp đèn đó là thuận theo thường tình, nhưng
lại sai thị giả tặng Năng Nhẫn 3 cân dầu đó là bất
bình thường. Có thể nói đây là Động Sơn rất từ bi; cũng
có thể nói là Động Sơn bóng gió chỉ trích Năng Nhẫn tham
cầu. Dù thế nào, Năng Nhẫn ngộ đạo rồi, thí tài thiết
trai là hiển thị xả bỏ tham cầu. Năng Nhẫn ngộ đạo rồi
còn trú 3 năm, khi thế duyên đã dứt mới cáo từ nhập diệt
Động Sơn chúc ông thuận buồm suôi gió. Dưới mắt nhà Thiền,
chết là về nhà. Nhưng Động Sơn sống mà nói Năng Nhẫn
chậm hơn ông 30 năm tức là nói Động Sơn 30 năm trước đã
sớm biết pháp thân không có sanh tử vậy.
968. Tất cả đều là Thiền.
Một
ông vân thủy tăng nghe nói Vô Tướng thiền sư Thiền đạo
cao diệu, liền tìm đến tranh biện. Chú sa di thị giả ra
tiếp đãi:
-
Thầy tôi đi vắng, có chuyện gì xin cứ cho biết, tôi có
thể thay thế.
-
Chú còn nhỏ quá, không được đâu!
-
Tuổi tuy nhỏ nhưng trí tuệ không nhỏ.
Vân
thủy tăng nghe có lý, bèn dùng ngón tay vẽ một vòng tròn
nhỏ rồi chỉ ra phía trước. Thị giả dùng cả 2 tay vẽ
vòng tròn lớn. Ông tăng giơ ngón tay lên, thị giả giơ 5 ngón
tay. Ông tăng lại giơ 3 ngón lên, thị giả lấy tay chỉ vào
mắt. Ông tăng hoảng sợ lạy 3 lạy rồi đi. Ông tăng nghĩ
bụng ta vẽ vòng tròn nhỏ rồi chỉ ra phía trước là hỏi
tâm ngươi lớn nhỏ thế nào? Hắn dùng 2 tay vẽ vòng tròn
lớn ý nói to như biển lớn. Ta giơ một ngón tay lên là hỏi
coi thân ngươi thế nào? Hắn giơ 5 ngón tay là chỉ thân thọ
ngũ giới. Ta lại giơ 3 ngón tay hỏi 3 giới thì sao? Hắn chỉ
vào mắt nói 3 giới chỉ ở trong mắt. Thị giả đã cao minh
như vậy thì thầy hắn phải cao thâm vào bậc nào, 36 kế
chỉ có chạy là hơn cả.
Khi
Vô Tướng về thị giả thuật lại cho thiền sư nghe:
-
Bạch thầy, không biết ông tăng đó làm sao biết nhà con bán
bánh nên giơ 1 ngón tay lên vẽ vòng tròn nhỏ, là bảo bánh
của nhà ngươi làm chỉ to thế này là cùng. Con vung 2 tay vẽ
vòng tròn lớn để bảo lớn như thế này cơ. Ông ta giơ một
ngón tay lên hỏi có phải bán 1 đồng một cái không? Con giơ
5 ngón tay trả lời 5 đồng chỉ mua được một cái thôi.
Ông ta lại giơ 3 ngón tay lên mặc cả 3 đồng một cái có
được không? Con giơ tay chỉ vào mắt là mắng ông đồ vô
lương tâm có mắt không tròng, bánh ngon và rẻ như vậy mà
còn trả giá. Ông ta sợ quá chạy mất.
Vô
Tướng nghe rồi dạy:
-
Tất cả đều là Pháp, tất cả đều là Thiền, chú hiểu
không?
(Tinh
Vân thiền thoại)
Phật
pháp giảng cơ duyên, Thiền là cơ duyên. Nếu hiểu thì bất
cứ ở đâu, lúc nào, người nào, việc nào đều là Thiền.
Nếu không hiểu thì có nói đến hoa trời rơi loạn, đối
với Thiền cũng vô can. Trong Thiền sử có trà Triệu Châu,
có bánh Vân Môn đều là Thiền. Tục ngữ có câu “Người
giảng vô tâm, người nghe hữu ý.”, cho nên Vô Tướng nói
tất cả đều là pháp, là Thiền vậy.
969. Ý Tây sang.
Hồng
Châu Pháp Hội hỏi Mã Tổ:
-
Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
-
Ngươi lại gần đây ta bảo nhỏ cho nghe.
Sư
bước lại gần, tổ cho một tát tai, và bảo:
-
Sáu tai chẳng đồng mưu, ngày mai hãy tới.
Hôm
sau sư đến vừa vào pháp đường thưa:
-
Thỉnh hòa thượng nói.
-
Đi đi, đợi lão hán thượng đường sẽ chứng minh cho ngươi.
Sư
bèn ngộ, thưa:
-
Tạ ơn đại chúng chứng minh.
Sư
đi nhiễu pháp đường một vòng rồi đi.
(Thiền
sư khải ngộ pháp)
Ý
Tây sang là chỉ Đạt Ma từ Tây thổ sang truyền ý chỉ gì?
Câu này giống như câu “Đại ý Phật pháp là gì?” đều
là hỏi về tự tánh. Để trả lời Mã Tổ cho một bạt tai
lại nói sáu tai chẳng đồng mưu, và ra lệnh ông ngày mai
tới. Người không có 6 tai, vì vậy 6 tai ở đây là chỉ 6
căn là sáu khí quan của con người. Khi sáu căn gập sáu trần
thì sinh ra chủng chủng kiến văn giác tri. Tác dụng này khiến
tâm phân biệt cho hiện tượng và tự tánh là 2. Nếu muốn
nắm lấy tự tánh thì phải không cho sáu căn nương vào ngoại
duyên, mà phải luyện cho thân tâm là một, do đó Mã Tổ mới
nói sáu căn chẳng đồng mưu, cũng là chỉ Pháp Hội hãy còn
vọng tâm. Mã Tổ cho ông một tát tai là để giúp ông rời
bỏ vọng tâm mong cầu. Pháp Hội vẫn chưa hiểu khổ tâm
của Mã Tổ, hôm sau lại đến. Mã Tổ lại nói thác là đợi
mình thượng đường sẽ chứng minh cho ông. Cuối cùng Pháp
Hội đã hiểu mình còn vọng tâm mong cầu.
970. Gương cổ chưa lau.
Hữu
Đạo lúc mới đi hành cước, trên đường gập một quán
trà, nhân đang khát bèn vào quán. Chủ quán thấy là một vị
vân thủy tăng bèn ra chào hỏi:
-
Thiền sư, thật là khổ! Mời vào uống trà.
Chỉ
thấy Hữu Đạo mắt bình đạm nhìn trà bầy trên giá, im
lặng gật đầu. Chủ quán có vẻ là một cao thủ về Thiền,
thận trọng nói:
-
Chắc thầy là một vị thiền sư cao thâm, tôi có một vấn
đề xin thỉnh giáo, nếu thầy đáp được tôi xin cúng dường,
có được không?
-
Ông hỏi đi.!
-
Khi gương cổ chưa lau thì sao?
-
Đen như sơn.
-
Lau rồi thì sao?
-
Chiếu trời, chiếu đất.
-
Thật xin lỗi, tôi không cúng dường!
Nói
rồi, chủ quán xoay mình đi vào. Hữu Đạo ngạc nhiên nghĩ
thầm: Chẳng lẽ 10 năm tham thiền của ta cũng không bằng
chủ quán trà? Do đó, ông quyết tâm bế môn thâm tu. Ba năm
sau, Hữu
Đạo
lại đến quán trà. Chủ quán thân thiết chào hỏi:
-
A! Ba năm không gập, xin nhắc lại câu hỏi cũ: gương cổ
chưa lau thì sao?
Hữu
Đạo thuận miệng đáp:
-
Chỗ này cách xa Hán Dương không xa.
-
Gương cổ lau rồi thì sao?
-
Lầu Hoàng Hạc ở trước Hoàng Hạc châu.
-
Thỉnh thầy tiếp thọ cúng dường của chúng tôi.
Chủ
quán quay vào trong gọi:
-
Tiểu nhị, mang trà ngon ra đây!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Gương
cổ ở đây là chỉ tự tánh. Tự tánh vốn thanh tĩnh không
sanh diệt, tự chiếu sáng làm gì có chưa lau với lau rồi.
Do đó, lần đầu Hữu Đạo không được uống trà. Lần thứ
hai ông tùy tiện đáp, tức là nhận biết tự tánh ngay đó,
vì vậy đã được uống trà.
971. Bay vượt sanh tử.
Đạo
Tụ chuyên cần tu hành nhưng vẫn không khế ngộ. Nhìn quanh
các bạn đồng tu không thiếu người có thể ngộ. Tự nghĩ
mình không có tư cách học Thiền. Đã không có óc khôi hài,
lại không linh xảo, có lẽ nên làm một vị hành cước tăng
thì hơn. Do đó, thu xếp hành lý đến pháp đường từ biệt
sư phụ:
-
Lão sư, con đành hạnh phụ từ tâm của thầy. Con theo thầy
tu học đã 10 năm rồi mà chẳng đạt được gì cả; con không
có căn cơ học Thiền, nay đến từ biệt, vân du nơi khác.
Quảng
Ngữ kinh ngạc:
-
A! Vì sao chưa ngộ lại muốn đi? Chẳng lẽ đi nơi khác lại
có thể ngộ sao?
-
Con trừ ăn, ngủ ra đều tinh tiến tu trì, có dụng công nhưng
nhân duyên chẳng hợp. Nhìn các bạn đồng tu người nào cũng
khế cơ hồi quy căn nguyên cả. Con nghĩ nên làm một vị khổ
hạnh hành cước tăng là hơn.
Quảng
Ngữ nghe rồi bèn khai thị:
-
Ngộ là một loại nội tại lưu lộ, vốn không thể hình
dung, cũng vô pháp truyền đạt cho người khác, không thể
học, cũng không thể gấp. Cảnh giới của người khác là
cảnh giới của họ, ngươi tu Thiền là cảnh giới của ngươi.
Đó là 2 chuyện sao lại gom vào làm một?
-
Sư phụ! thầy không biết con so với bạn đồng học như chim
sẻ nhỏ so với đại bàng lớn.
-
Thế nào là lớn, là nhỏ?
-
Đại bàng dương cánh là có thể bay hàng trăm dậm trời,
chim sẻ nhỏ chỉ bay quanh sân vài trượng thôi.
-
Đại bàng bay trăm dậm, nhưng có vượt qua sanh tử không?
Đạo
Tụ không đáp, dường như đã ngộ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
So
sánh là căn nguyên của phiền não. Thông minh, cơ trí như đại
bàng có thể bay trăm dậm, nhưng cũng không thể vượt bể
sanh tử. Chim sẻ nhỏ và đại bàng so sánh thì có nhanh chậm,
nhưng Thiền là bình đẳng. Đạo Tụ khi lìa bỏ so sánh liền
ngộ.
972. Bài học thứ nhất.
Đại
Niên là một ông tăng rất ham tạc tượng Phật. Nhưng vì
không được chuyên gia chỉ bảo nên những tượng ông tạc
không được như ý. Do vậy, ông quyết tâm đi tham học.Ông
đến tham Vô Đức hy vọng học được những kiến thức và
kỹ xảo về tạc tượng. Mỗi ngày Đại Niên đến pháp đường,
Vô Đức đều đưa cho ông một viên đá quý bảo ông cầm,
sau đó cùng ông nói chuyện trên trời, dưới biển, chuyện
gì cũng nói nhưng tuyệt nhiên không nói gì về tạc tượng
cả. Cứ như vậy, một giờ sau đòi lại viên đá quý và
bảo Đại Niên về tăng đường. Năm tháng liên tục như vậy,
Đại Niên rất phiền muộn nhưng không dám hỏi, cũng không
dám đề cập đến việc bảo mình cầm viên đá quý để
làm gì. Một hôm theo thường lệ Vô Đức đưa viên đá cho
Đại Niên, sắp sửa nói chuyện trên trời, dưới biển. Đại
Niên chạm tay vào viên đá thấy không đúng viên đá mọi
khi bèn hỏi:
-
Lão sư, hôm nay thầy không đưa viên đá quý cho con.
-
Vậy là gì?
Đại
Niên không nhìn, đáp ngay:
-
Chỉ là một hòn đá thường.
Vô
Đức vui vẻ cười, đáp:
-
Đúng rồi! Tạc tượng nhờ công phu bàn tay. Ngươi đã qua
bài học thứ nhất rồi.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
đời khi học một kỹ thuật là muốn thành tựu ngay, thậm
chí người học Phật cũng muốn thành Phật ngay. Ngộ tu chỉ
trong một sát na, nhưng các thiền sư đã phải trải qua một
thời gian dài tu trì, khảo nghiệm. Nhẫn nại là bài học
đầu tiên phải học.
973. Quốc sư là báu vật.
Huệ
Trung quốc sư, người Chiết Giang, tên tục là Nhiễm hiệu
Quang Trạch, là đệ tử của Lục tổ. Năm 26 tuổi vào Hà
Nam Đảng tử Cốc tu hành trải 40 năm, sau đó trú ở Nam Dương
Long Hưng Tự. Huyền Tông, Tang Tông, Đại Tông đều mời vào
cung thuyết pháp. Một hôm Đại Tông triệu kiến, chỉ một
vị nhân sĩ là Thái Bạch Sơn Nhân, không rõ tên tuổi, quê
quán bảo Huệ Trung:
-
Vị này tự nhận là kỳ nhân, thỉnh quốc sư khảo nghiệm.
Quốc
sư nhìn Thái Bạch Sơn Nhân rồi hỏi:
-
Bệ hạ nói ông là dị sĩ, xin hỏi sở trường của ông là
gì?
-
Trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, làm văn, nhận
chữ
không
gì không biết, lại giỏi toán mạng.
-
Xin hỏi Sơn nhân, núi Thái Bạch ông trú là núi đực hay cái?
Thái
Bạch không đáp được. Huệ Trung lại chỉ đất hỏi:
-
Xin hỏi đây là đất gì?
-
Toán một quẻ liền biết.
Huệ
Trung vạch một vạch trên đất hỏi:
-
Đây là chữ gì?
-
Chữ nhất.
-
Trên đất (thổ) thêm một vạch là chữ vương.
Lại
hỏi:
-
Ba bẩy là bao nhiêu?
-
Ba bẩy là hai mốt, ai chả biết?
-
Ba bẩy là mười, sao nhất định phải là hai mốt?
Đại
Tông đứng bên vui vẻ nói:
-
Trẫm có quốc vị chưa kể là quý; trẫm có quốc sư mới
thiệt là quý vậy!
(Tinh
Vân thiền thoại)
Bọn
giang hồ thuật sĩ hoặc thông thiên văn, địa lý, hoặc giỏi
xem quẻ, xem tướng tự cho là thần kỳ, dị sĩ nhưng trước
Phật Đạo họ chỉ là bàng môn, tả đạo. Nhân vì đạo
do bên ngoài mà giải nên gọi là ngoại đạo. Thiền sư nội
tu, nội chứng cho nên Phật pháp còn gọi là nội học. Huệ
Trung khảo nghiệm sơn nhân tuy không phải là Phật pháp, nhưng
những lời nói từ thiền huệ mà ra nên ngoại đạo làm sao
ứng phó được.
974. Chặt ngón tay cầu pháp.
Đời
Đường, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch là người Quảng Châu, họ
Diệp. Lúc 9 tuổi, cha mẹ đưa đến Quảng Châu Hòa An Tự
xuất gia. Đến năm 16 tuổi đón ông về nhà, khiến ông hoàn
tục, lập gia đình. Huệ Tịch kinh sợ hỏi:
-
Tại sao lại như vậy?
Bố
Huệ Tịch bảo:
-
Lúc trước ta và mẹ ngươi đưa ngươi vào chùa, vì có một
ông thầy bói nói mạng ngươi bị nguy phải đầu cửa Phật,
cầu Bồ Tát bảo hộ, nếu không thì không thể nào ngươi
lớn lên được. Bây giờ ngươi đã qua khỏi vận nguy rồi,
có thể hoàn tục, kế thừa hương hỏa nhà họ Diệp. Ta và
mẹ ngươi đã xếp đặt một cuộc hôn nhân tốt đẹp, ngươi
bất tất phải về chùa sống khổ hạnh nữa.
Huệ
Tịch nghe rồi bi thống vạn phần. Một mặt thấy cha mẹ
dụng tâm rất khổ, ân tình thâm trọng, một mặt lại thấy
cha mẹ lợi dụng cửa Phật để bảo toàn tính mệnh cho con,
bây giờ vận nguy đã qua lại bỏ cửa Phật. Đây là loại
hành vi giả thiện, giả tín tự tư, tự lợi thật là tội
lỗi. Suy đi tính lại, Huệ Tịch quyết không tạo nghiệt
duyên, không theo lời cha mẹ mà thành hôn, nhưng dùng lời
mà cãi lại không được. Vì vậy thừa lúc người nhà không
để ý, dùng dao chặt đứt ngón tay út và ngón vô danh, quỳ
trước mặt cha mẹ thưa:
-
Con đã vào cửa Phật, chính là đệ tử, kiếp này nguyện
được chính đẳng, chính giác. Đại ân, đại đức của
cha mẹ con xin nguyện sẽ hồi hướng. Con không muốn hoàn
tục, nay chặt 2 ngón tay này để tỏ quyết tâm. Xin cha mẹ
thành toàn tâm nguyện cho con.
Cha
mẹ thấy máu chẩy đầm đìa từ 2 ngón tay, biết ý ông đã
quyết, đành phải cho phép ông về chùa. Về sau, lúc 18 tuổi
ông đến Giang Tây Cát Châu bái phỏng Đam Nguyên, được truyền
cho 96 loại viên tướng. Năm 26 tuổi đến tham học Quy Sơn
Linh Hựu, theo hầu 15 năm. Năm 35 tuổi lãnh chúng xuất thế,
thành đại đệ tử của Linh Hựu, sáng lập tông Quy Ngưỡng,
73 tuổi thị tịch. Người đời tôn xưng là Tiểu Thích Ca.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Người
đời đối với kẻ xuất gia thường không có nhận thức
đúng đắn. Có người cho là vì nghèo khổ mà phải xuất
gia, có người lại cho là vì thất tình mà xuất gia . . . Ngưỡng
Sơn nếu không có đại tâm, đại nguyện không thể vào cửa
Phật, làm sao có thể thành bậc tôn sư của một thời?
975. Chân chính trả lời.
Vân
Nham là đệ tử của Dược Sơn, là sư phụ của Động Sơn.
Một hôm ông bảo đại chúng:
-
Có một người, hỏi câu nào hắn cũng đáp được.
Động
Sơn hỏi:
-
Trong nhà ông ta chắc có nhiều sách lắm?
-
Một chữ cũng không.
-
Vậy sao ông ta biết nhiều vậy?
-
Ông ta ngày đêm không ngủ.
-
Con có thể hỏi một câu không?
-
Câu trả lời của ông ta là không trả lời.
-
Nếu câu hỏi nào cũng trả lời được, tại sao lại không
trả lời?
-
Vì không trả lời chính là chân chính trả lời.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Nghi
vấn của Thiền là tâm trí nở hoa. Câu đáp của thiền sư
quả là thần bí. Thần bí vì không nói toạc ra. Không nói
toạc ra là dụng ý của thiền giả. “Nhà chứa vạn quyển
sách”, đó chỉ là mê, là trí thức sách vở. Ngày đêm
không ngủ là chỉ lúc đã ngộ, không ngủ là chỉ chân như
Phật tánh, lại còn muốn trả lời cái gì nữa? Do đó, không
trả lời là trả lời chân chính.
976. Làm sao thấy đạo?
Mã
Tổ lúc còn trẻ đến gập Hoài Nhượng hỏi:
-
Dụng tâm làm sao để có thể khế hợp với vô tướng tam
muội?
-
Ngươi học tâm địa pháp môn giống như gieo hạt; ta nói pháp
giống như trời mưa. Chỉ cần duyên hợp là có thể thấy
Đạo.
-
Thầy nói thấy Đạo là thấy Đạo gì? Đạo vốn không hình
tướng làm sao thấy?
-
Tâm địa pháp nhãn có thể thấy Đạo. Đạo vốn là vô tướng
tam muội, từ tâm địa pháp môn có thể thấy Đạo.
Thấy
Mã Tổ còn chưa rõ, Hoài Nhượng nói thêm:
-
Muốn khế hợp Đạo, thì Đạo vốn không đến, không đi;
không đầu, không cuối; không thành, không hoại; không trụ,
không tán; không dài không ngắn; không tịch, không náo; không
nhanh, không chậm. Nếu hiểu rõ vậy thì đó là hợp đạo.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đạo
là gì? Đạo không thời gian: không đầu, không cuối; Đạo
không không gian: không trong, không ngoài. Làm sao thấy Đạo?
Chỉ có rõ tự mình thường trú chân tâm mới thấy Đạo.
977. Chẳng thiếu tương.
Bách
Trượng là đồ đệ của Mã Tổ trú ở Đại Hùng Sơn, Mã
Tổ sai thị giả mang cho 3 vò tương. Bách Trượng nhận 3 vò
tương rồi sai đánh chuông tập chúng, giơ gậy lên bảo:
-
Đây là 3 vò tương Đạo Nhất cho. Nếu có ai trong các ngươi
nói được thì 3 vò tương không bị đập, ngược lại thì
sẽ bị đập.
Đại
chúng không ai đáp được. Bách Trượng dùng gậy đập vỡ
cả 3 vò tương.
Khi
thị giả trở về, Mã Tổ hỏi:
-
Ngươi đã đem 3 vò tương tới chưa?
-
Đem tới rồi!
-
Bách Trượng nhận tương rồi có biểu thị gì? nói gì?
-
Bách Trượng nhận tương rồi tập họp đại chúng; vì đại
chúng không ai nói được, liền dùng gậy đập vỡ hết.
Mã
Tổ nghe rồi cười ha hả, rất cao hứng khen rằng:
-
Thằng nhỏ này không sai!
Sau
đó Mã Tổ sai truyền lời đến Bách Trượng bảo ông viết
thư cho biết tình huống tu hành lúc ấy thế nào?
Bách
Trượng hồi đáp:
-
Lão sư, cám ơn thầy quan tâm. Từ khi đập vỡ vò tương,
30 năm đồ đệ chưa hề thiếu tương ăn.
Mã
Tổ rất bằng lòng lại viết cho Bách Trượng:
-
Nếu đã không thiếu thì hãy mang lại cho người.
Về
sau Bách Trượng sáng lập Bách Trượng thanh quy.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Các
vị thiền sư qua lại cũng có lúc theo nhân tình thế thái;
nhưng đều có hàm ý. Tương là đồ chấm không thể thiếu
của người tu. Mã Tổ cho tương ngụ ý không thể ly khai sinh
hoạt hàng ngày, tu luyện mù quáng. Bách Trượng đập vỡ
vò tương ngụ ý Thiền Đạo cái gì cũng có không cần lão
sư phải phiền tâm.
978. Phật Ấn và Tô Đông Pha.
Một
hôm Phật Ấn đăng đàn thuyết pháp. Tô Đông Pha đến tham
gia. Mọi người ngồi chật hết phòng, chẳng còn một chỗ
trống. Phật Ấn bảo:
-
Chật hết rồi, không còn chỗ cho học sĩ!
-
Nếu phòng này hết chỗ, tôi lấy thân tứ đại, ngũ uẩn
của thầy làm chỗ ngồi.
Phật
Ấn thấy Tô Đông Pha muốn luận Thiền liền nói:
-
Học sĩ! Ta có một vấn đề hỏi ông, nếu ông trả lời
được thì thân ta sẽ là chỗ ngồi cho ông, bằng không thì
ông phải để thắt lưng ngọc lại bản tự làm vật kỷ
niệm.
Tô
Đông Pha vốn tự phụ bèn đáp ứng. Phật Ấn hỏi:
-
Bốn đại vốn không, năm uẩn cũng chẳng có, xin hỏi học
sĩ ngồi ở chỗ nào?
Tô
Đông Pha không trả lời được, đành phải cởi thắt lưng
ngọc trao cho Phật Ấn. Thắt lưng này ngày nay vẫn còn
lưu giữ ở Kim Sơn Tự.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Sắc
thân chúng ta là do tứ đại: đất, nước, gió lửa giả hợp
mà thành, không phải là thực tại.
979. Nhặt nhiều một chút.
Đỉnh
Chân cùng một chú tiểu đi kinh hành trong sân chùa. Bỗng nhiên
có một cơn gió, lá từ cây rụng rào rào. Thiền sư khom lưng
nhặt từng chiếc lá bỏ vào túi. Chú tiểu đứng bên thưa:
-
Xin thầy đừng nhặt nữa, sáng mai chúng con sẽ quét.
Đỉnh
Chân không cho là phải:
-
Đừng nói thế, chẳng lẽ cứ quét là sạch hết sao? Ta nhặt
nhiều một chút thì đất sạch thêm một chút.
-
Lá rụng nhiều như thế, thầy nhặt phía trước, phía sau
lại rơi, thầy nhặt làm sao cho xuể?
Đỉnh
Chân vừa nhặt vừa trả lời:
-
Lá rụng không nhặt thì còn trên mặt đất, lá rụng ở tâm
địa chúng ta, ta nhặt nhất định có lúc phải hết.
Chú
tiểu nghe xong đã hiểu sinh hoạt của thiền giả như thế
nào. (Tinh Vân thiền thoại)
Khi
Đức Phật còn tại thế, có một đệ tử là Chu Lợi Bàn
Gia rất ngu xuẩn. Dạy ông một bài kệ, đọc câu trước
quên câu sau, đọc câu sau quên câu trước. Bất đắc dĩ Phật
hỏi ông hiểu cái gì? Ông thưa chỉ biết quét nhà. Phật
dạy ông khi quét nhà thì niệm quét sạch bụi bẩn. Lâu dần
ông nghĩ: bên ngoài bụi bẩn thì quét, trong tâm ô uế thì
phải làm sao quét? Cứ thế cuối cùng Chu Lợi Bàn Gia khai
ngộ. Đỉnh Chân nhặt lá là kiểm điểm những vọng tưởng
phiền não của tâm. Đại địa sơn hà có bao nhiêu lá rụng
không cần biết. Trong tâm có lá rụng nhặt một cái là ít
đi một cái. Chỉ cần tâm được an, lập tức có cả đại
thiên thế giới.
980. Là tà, là chánh?
Tiệm
Nguyên khi làm thị giả cho Đạo Ngô, có một lần bưng một
tách trà đến cho thầy, Đạo Ngô chỉ tách trà hỏi:
-
Là tà, là chánh?
Tiệm
Nguyên đến trước mặt Đạo Ngô, không nói một tiếng. Đạo
Ngô bảo:
-
Tà thì luôn tà, chánh thì luôn chánh.
Tiệm
Nguyên lắc đầu phản đối:
-
Con không nghĩ vậy.
-
Vậy ý ngươi thế nào?
Tiệm
Nguyên đoạt chén trà trong tay Đạo Ngô, hỏi ngược lại:
-
Là tà, là chánh?
Đạo
Ngô vỗ tay cười lớn:
-
Ngươi không hổ là thị giả của ta.
Tiệm
Nguyên lạy tạ.
(Tinh
Vân thiền thoại)
Đạo
Ngô khai thị cho đồ đệ “là tà, là chánh?” là diễn tả
đạo lý người tà nói chánh pháp, chánh pháp liền thành tà,
người chánh nói tà pháp,tà pháp liền thành chánh. Có người
nói pháp làm mất tín tâm của người ta, có người thích
đánh, chửi lại làm cho người ta nhập Đạo. Người thầy
thuốc giỏi thì chất độc như thạch tín cũng trở thành
thuốc hay. Tiệm Nguyên nhận rằng trong vũ trụ các pháp đều
do nhân duyên mà sanh, diệt. Nếu hiểu rối thì chẳng chấp
thường, chấp đoạn là chánh, còn nếu cho vật nắm trong
tay là có là không thì là tà. Tiệm Nguyên đem đạo lý này
hỏi lại Đạo Ngô. Đạo Ngô hoan hỉ khích lệ Tiệm Nguyên,
hai thầy trò đã ăn ý với nhau.
981. Nơi mát mẻ.
Có
ông tăng hỏi Động Sơn:
-
Khi trời lạnh, nóng đệ tử đến nơi nào để tránh?
Động
Sơn đáp:
-
Sao không đến chỗ nào không lạnh, không nóng?
Ông
tăng hỏi:
-
Đó là chỗ nào vậy?
-
Đó là chỗ khi lạnh làm ngươi chết cóng, khi nóng làm ngươi
chết thiêu.
(Thiền
Chi Hoa)
Sợ
nóng, lạnh là vì có thân thể. Nếu như chứng được tự
tánh (pháp thân) vượt lên hình tướng thì chỗ nào cũng mát
mẻ, không chỗ nào là không tiêu dao, còn sợ gì nóng lạnh
nữa.
982. Ngày nào cũng tốt.
Vân
Môn có lần hỏi đồ chúng:
-
Ta không hỏi các ngươi: trước ngày rằm như thế nào mà
chỉ hỏi sau ngày rằm như thế nào?
Đồ
chúng không ai đáp được, Vân Môn bèn nói:
-
Ngày nào cũng tốt cả.
(Thiền
Chi Hoa)
Ngày
rằm trỏ sự khai ngộ, khi khai ngộ rồi thì tiêu dao, tự
tại, có thể tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Tác
giả Vô Môn Quan tán thưởng cái “tâm bình thường là đạo”
của Nam Tuyền làm một bài kệ như sau:
春
有 百 花 秋 有 月
Xuân
hữu bách hoa thu hữu nguyệt
夏
有 凉 風 冬 有 雪
Hạ hữu lương phong đông hữu tuyết
若 無 閒 事 掛 心 頭
Nhược vô nhàn sự quải tâm đầu
便
是 人 間 好 時 節
Tiện
thị nhân gian hảo thời tiết.
Hoa Xuân muôn đoá bóng trăng Thu.
Hạ có gió vàng, Đông tuyết rơi.
Tuyết nguyệt phong ba, lòng chẳng chấp.
Mỗi mùa, mỗi thú mặc tình chơi.
(Trúc
Thiên dịch)
“Lòng
chẳng chấp” chỉ tâm không nhiễm trần, không bị trói buộc,
cũng tương tự như câu trong Tâm Kinh: “Tâm vô quái ngại,
vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố viễn ly điên đảo mộng
tưởng.”
Nếu
được như thế thì ngày nào cũng là ngày tốt vậy.
983. Nước trong, trăng hiện.
Có
một lần Nham Đầu, Tuyết Phong và Khâm Sơn đương nói chuyện,
Tuyết Phong bỗng chỉ vào bồn nước trong.
Khâm
Sơn nói:
-
Nước trong, trăng tự hiện.
Tuyết
Phong bảo:
-
Nước trong, trăng chẳng hiện!
Nham
Đầu không nói, đạp đổ bồn nước đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Khâm Sơn: “Nước trong, trăng tự hiện” là khẳng định,
câu của Tuyết Phong: “Nước trong, trăng chẳng hiện” là
phủ định. Còn Nham Đầu không nói mà đạp đổ bồn nước
tỏ rằng mình đã vượt trên cả khẳng và phủ định. Vì
sao? Vì khi đạp đổ bồn nước đi rồi thì không còn nước,
cũng không còn trăng, ly khai sự chấp trong và đục (nước)
hiện và không hiện (trăng) tất cả đều tịch tĩnh, vọng
niệm chẳng sinh; đó chính là tự tánh chân chánh vậy.
984. Không chỉ một đường.
Có
ông tăng hỏi:
-
Triệu Châu là gì?
Triệu
Châu ngoảnh nhìn xung quanh rồi đáp:
-
Cửa Đông, cửa Tây, cửa Nam, cửa Bắc!
(Thiền
Chi Hoa)
Ông
tăng hỏi: “Triệu Châu là gì?” là có ý hỏi thiền phong
của Triệu Châu như thế nào? Triệu Châu có ý coi Triệu Châu
là một địa danh. Đó là thành Triệu Châu có bốn cửa Đông,
Tây, Nam Bắc; gián tiếp thuyết minh thiền phong của mình khai
phóng, không chỉ một đường mà tứ thông bát đạt vậy.
Cửa chân chính của thiền là không cửa. Lão Tử có nói đại
tượng vô hình, có hình là tiểu tượng. Nhà là tiểu tượng,
chân lý là đại tượng. Đại tượng hình còn không có lại
còn có cửa sao?
985. Hạt cải đựng núi Tu Di.
Thích
Sử Giang Châu Lý Bột hỏi Trí Thường:
-
Phật lý có giảng Tu Di đựng hạt cải, điều đó là tự
nhiên, đệ tử không thắc mắc; nhưng đối với câu hạt
cải đựng Tu Di thì cái hạt cải nhỏ xíu đó làm sao đựng
được cả một tòa núi to lớn kia, đó chẳng phải là dối
người hay sao?
Trí
Thường hỏi lại:
-
Nghe nói ông đọc qua thiên kinh, vạn quyển có hay không?
-
Có.
-
Đầu ông chỉ to bằng trái dừa, xin hỏi “Cái vạn quyển
ấy của ông làm sao mà xem được?”
(Thiền
Chi Hoa)
Tâm
sinh thì các pháp đều sinh, tâm diệt thì các pháp đều diệt.
Vạn pháp đều do tâm. Công án này thuyết minh tự tánh lớn
không ngoài, nhỏ không trong, không bị hạn chế; cũng như
không gian thì vô tận, hạn chế chỉ là do tâm của chúng
ta mà thôi.
986. Phật mặt trời, phật mặt trăng.
Mã
Tổ lúc sắp mất, viện chủ hỏi rằng:
-
Gần đây, Hòa thượng tâm cảnh ra sao?
Mã
Tổ đáp:
-
Phật mặt trời, Phật mặt trăng.
(Thiền
Chi Hoa)
Phật
mặt trời là chỉ trường kỳ (dụ cho Pháp thân), Phật mặt
trăng là chỉ đoản kỳ (dụ cho Sắc thân). Ý của Mã Tổ
là: ở trên đời này, sống lâu hay chết yểu không có gì
là quan hệ cả; tối cần yếu là sống làm sao cho có ý nghĩa,
làm sao phát hiện được chân ngã. Khổng Tử có nói: “Sáng
đuợc nghe đạo, chiều chết cũng cam!” Kinh Nát Bàn cũng
có nói: “Phật tánh không thường, không vô thường mà là
không gián đoạn!” Đời sống của chúng ta có ý nghĩa khi
thể nghiệm đuợc cái bất đoạn ấy của tự tánh.
987. Phó Đại Sĩ giảng kinh.
Thiện
Huệ bồ tát có danh là Phó Đại Sĩ sinh năm 497 dương lịch
là một vị thiền sư tiên phong xuất sắc. Có lần Lương
Võ Đế mời giảng kinh Kim Cương. Ngài lên giảng đàn, đánh
vào mõ một cái rồi đi xuống làm Lương Võ Đế rất ngạc
nhiên.
Thiện
Huệ hỏi Lương Võ Đế:
-
Bệ Hạ hiểu không?
Lương
Võ Đế trả lời:
-
Trẫm không hiểu gì cả!
Thiện
Huệ nói:
-
Đã giảng xong bộ kinh rồi!
(Thiền
Chi Hoa)
Kinh
Phật là sự miêu tả cảnh giới giải thoát của chư Phật.
Nếu chúng ta muốn giải thoát thì phải thực tu, thực chứng.
Giảng kinh chẳng qua chỉ là một phương tiện thôi. Khi không
giảng kinh thì cái đạo lý của kinh vẫn tồn tại trong vũ
trụ, nếu giảng ra thì khó mà không bị sơ xuất. Do đó phương
pháp giảng kinh hay nhất là không giảng. Phó Đại Sĩ không
giảng kinh là để chỉ cái Thể của Đạo tròn đầy, thông
suốt không thể dùng lời mà nói được.
988. Hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang.
Cư
sĩ Bàng Uẩn lần đầu gặp Thạch Đầu hỏi rằng:
-
Ai là người không cùng vạn pháp là bạn?
Thạch
Đầu lấy tay bụm miệng cư sĩ lại. Cư sĩ phảng phất khai
ngộ, lại tìm Mã Tổ mà đặt cùng câu hỏi.
Mã
Tổ nói:
-
Đợi ngươi, hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang ta sẽ
bảo!
Nghe
lời nói đó Bàng Uẩn đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
hỏi của Bàng cư sĩ: “Ai là người không cùng với vạn
pháp là bạn?” là hỏi về tự tánh. Thạch Đầu bụm miệng
cư sĩ không cho nói. Và câu đáp của Mã Tổ: “Hớp một
ngụm cạn hết nước Tây Giang” là một việc không thể
làm được; cả hai
đều
ngụ ý: không thể dùng lời mà diễn tả tự tánh được.
989. Đầu con mèo chết là quý nhất.
Có
ông tăng hỏi Tào Sơn:
-
Ở thế gian này, cái gì là quý nhất?
-
Đầu con mèo chết là quý nhất.
-
Tại sao đầu con mèo chết lại quý nhất?
Tào
Sơn đáp:
-
Vì không có người ra giá.
(Thiền
Chi Hoa)
Tào
Sơn dùng đầu con mèo chết để đả phá sự bó buộc của
tánh lý luận và tánh tương đối khiến cho tự tánh tuyệt
đối hiển lộ. Cái tự tánh này ở trong vạn vật và không
thể ly khai ra được.
990. Trị bệnh.
Có
ông tăng bạch với Tào Sơn:
-
Đệ tử biết mình có bệnh, mong lão sư trị cho.
Tào
Sơn đáp:
-
Không trị.
Ông
tăng kinh ngạc hỏi:
-
Tại sao không trị?
-
Muốn bảo ngươi cầu sanh chẳng được, cầu chết chẳng
xong.
(Thiền
Chi Hoa)
Sanh
và tử là tương đối, vì có chấp sanh tử nên mới cầu
trị bệnh. Giả như hiểu được vạn vật trong thế gian này
đều là do nhân duyên giả hợp. Duyên tụ thì thành, duyên
tán thì diệt; hỗ tương mà tồn tại, không có độc lập
tính và chủ thể tính. Nếu hiểu được như vậy thì chứng
nhập được cảnh giới chân không. Lúc đó, sanh tử không
làm động tâm thì hà tất phải cầu trị bệnh. Dĩ nhiên,
đây chỉ là một công án thiền, trong đó thiền sư lợi dụng
những sinh hoạt thường ngày để khai ngộ cho thiền sinh chớ
không phải kêu người có bệnh không trị, nằm mà chờ chết.
991. Chân dung Triệu Châu.
Có
một ông tăng vẽ một bức chân dung Triệu Châu, bức họa
sinh động như thực, mang tặng Triệu Châu.
Triệu
Châu không cám ơn, còn nói rằng:
-
Giả như bức họa này chính là ta, thì là giết ta đó, còn
không thì đem mà thiêu nó đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Bức
chân dung của Triệu Châu chỉ là do những duyên hư ảo hòa
hợp mà thành, chớ không phải là Triệu Châu chân chính. Giả
sử bức chân dung có thể đại biểu cho Triệu Châu thì ta
có hai Triệu Châu. Vậy Triệu Châu nào là thực, Triệu Châu
nào là giả? Câu nói của Triệu Châu hàm ý phá trừ ngẫu
tượng (tượng thần), muốn chúng ta không bị hình tướng
không thực bên ngoài làm mê hoặc tự tánh.
992. Trừ danh.
Động
Sơn biết mình không còn sống được bao lâu nữa chiêu tập
môn đệ lại, nói rằng:
-
Ta tại thế gian có lưu lại một chút hư danh, ai vì ta mà
bỏ nó đi?
Mọi
người không lời đáp lại.
Lúc
đó, có một sa di chạy ra nói:
-
Xin hỏi Hòa thượng pháp hiệu là gì?
Động
Sơn hoan hỉ :
-
Cái hư danh của ta đã bỏ được rồi!
(Thiền
Chi Hoa)
Động
Sơn nhận rằng muốn minh tâm kiến tánh trước hết phải
quên danh. Nếu không muốn quên danh mà muốn thành Phật thì
chẳng khác nào xây lâu đài trên bãi cát. Sa di hỏi pháp hiệu
tỏ rằng không biết có Động Sơn, cũng chỉ Động Sơn chẳng
có danh tiếng gì lưu lại ở đời. Danh lợi, tư dục làm
che mất tự tánh vậy.
993. Kêu tự ngã ra.
Đại
phu Lục Hằng hỏi Nam Tuyền:
-
Người xưa nuôi một con ngỗng nhỏ ở trong bình, dần dần
con ngỗng nhỏ lớn lên không có cách nào ra khỏi bình. Giờ
xin hỏi, làm sao cho con ngỗng ra mà không phải phá bình, cũng
không làm con ngỗng bị thương.
Nam
Tuyền gọi lớn:
-
Đại phu.
Lục
Hằng thưa:
-
Dạ!
Nam
Tuyền nói:
-
Đã ra rồi!
(Thiền
Chi Hoa)
Nam
Tuyền không trả lời thẳng vào vấn đề vì loại vấn đề
này không có lời giải. Giả như động niệm trả lời tức
là tự mình làm cho mình mắc lưới vậy. Nam Tuyền cố ý
kêu lớn tiếng để thức tỉnh Lục Hằng. Chỉ cần tâm không
bị ràng buộc, tự tánh tự nhiên hiển lộ. Tìm kiếm bên
ngoài chẳng khác gì vấn đề trên, càng tìm kiếm càng mê
man, vĩnh viễn không thấy được tự tánh. Nam Nhạc Huệ Tư
đại sư đã nói: “Đạo vốn không xa, bể tánh không động,
hướng ngoại tìm, cầu chẳng bao giờ thấy!” là cũng ý
đó vậy.
994. Uống rượu, ăn thịt.
Hồng
Châu Liêm Sứ hỏi Mã Tổ:
-
Nên hay không nên uống rượu , ăn thịt?
-
Uống rượu, ăn thịt là duyên phận, không uống rượu, ăn
thịt là phúc khí!
(Thiền
Chi Hoa)
Theo
thuyết Luân Hồi của nhà Phật, gieo nhân thì gặt quả, “Muốn
biết đời trước tạo nhân gì, hãy xem đời này chịu quả
nào. Muốn biết đời sau chịu quả gì, hãy xem đời nay tạo
nhân gì.” Quả báo đối với người như bóng theo hình, do
đó nếu một người có phúc báo uống rượu, ăn thịt thì
đó là những chủng tử từ đời trước đã chín mùi nay
hiện thành. Do đó mới nói vinh hoa phú quý là duyên phận.
Nhưng nếu có phúc báo mà không hưởng thụ lại giữ giới
tu thiền thì đó là phúc khí. Vì phúc báo đã hưởng hết
rồi thì cũng bị đọa lạc lại; cũng như bắn một mũi tên
lên trên không, khi lực tận thì tên phải rơi xuống. Bậc
trời mà phúc báo hết cũng phải quay lại luân hồi huống
hồ chúng ta là người phàm, do đó chẳng nên giữ giới làm
lành ư? Đây là Mã Tổ khuyên chúng ta nên tiếc phúc, bồi
phúc, tu phúc vậy.
995. Lạc vào giai cấp nào?
Hành
Tư tham bái Lục Tổ hỏi rằng:
-
Phải làm thế nào để khỏi rơi vào giai cấp?
Lục
Tổ hỏi:
-
Từ trước đến giờ ngươi làm gì?
-
Thánh đế cũng chẳng làm!
-
Vậy ngươi rơi vào giai cấp nào?
-
Thánh đế cũng chẳng làm thì còn rơi vào giai cấp nào nữa?
Lục
Tổ nghe rồi, cho là bậc pháp khí.
(Thiền
Chi Hoa)
Phật
giáo có bốn thừa, mười địa, bốn thiền, tám định đều
là những giai đoạn của sự tiệm tu. Thiền tông chủ trương
đốn ngộ, kiến tánh thành Phật đương nhiên không dùng những
phương pháp này. Nguyên lai, Hành Tư đã khai ngộ đến bái
phỏng Lục Tổ là để cầu chứng mà thôi. Lục Tổ đem những
phương pháp tu trì phổ thông để khảo nghiệm, ông đều
phủ nhận. Đã phủ nhận Thánh đế tức cũng phủ nhận Tục
đế đều là danh tướng đối đãi. Lục Tổ thấy Hành Tư
đã vượt lên cả hai cảnh giới phàm thánh do đó mà hoan
hỉ.
996. Mai đã chín rồi.
Đại
Mai lần thứ nhất đến gặp Mã Tổ hỏi rằng:
-
Thế nào là Phật?
Mã
Tổ đáp:
-
Tức tâm, tức Phật.
Ngay
chính lúc đó Đại Mai khai ngộ, về sau lên tu ở trên núi.
Mã Tổ phái một Hòa thượng đến khảo nghiệm Đại Mai.
Vị
Hòa thượng này hỏi Đại Mai:
-
Khi ông ở với Mã Tổ học được những gì?
-
Mã Tổ dạy tôi, “Tức tâm, tức Phật”.
Vị
Hòa thượng này lại nói:
-
Hiện nay Mã Tổ đã cải biến pháp rồi, ngài nói “Phi tâm,
phi Phật!” Ông thấy thế nào?
Đại
Mai quát lên:
-
Cái lão Hòa thượng già này chỉ giỏi trêu người, ai cần
biết phi tâm, phi Phật là cái quái gì, ta chỉ biết tức tâm,
tức Phật.
Vị
Hòa thượng này về thuật lại cho Mã Tổ nghe, Mã Tổ cao
hứng nói:
-
Mai đã chín rồi!
(Thiền
Chi Hoa)
“Mai
đã chín rồi”, chỉ Đại Mai đã khai ngộ. “Tức tâm, tức
Phật”, chỉ sự khẳng định. “Phi tâm, phi Phật” chỉ
sự phủ định. Mặc dầu Mã Tổ đã cải biến thuyết pháp
nhưng tín niệm của Đại Mai vẫn không bị dao động, không
tin theo thầy một cách mù quáng; vì vậy mà được Mã Tổ
khen ngợi.
997. Câu chuyện cái bánh.
Long
Đàm thuở chưa xuất gia rất nghèo túng, Đạo Ngộ ngăn phòng
cho ở căn nhà nhỏ cạnh chùa. Cảm kích sự trợ giúp của
Đạo Ngộ, mỗi ngày Long Đàm mang biếu thiền sư mười cái
bánh. Đạo Ngộ mỗi lần nhận bánh đều giao hoàn lại một
cái cho Long Đàm và nói:
-
Đây là ta cho ngươi, hy vọng con cháu ngươi sẽ sung túc!
Long
Đàm lấy làm lạ nghĩ thầm bánh là của mình, giao trả lại
một cái sao lại nói là cho? Bèn hỏi Đạo Ngộ.
Đạo
Ngộ nói:
-
Đúng là do ngươi mang tới, cho lại ngươi thì có gì là sai
quấy đâu?
Long
Đàm nghe rồi có chỗ lãnh ngộ, bèn quyết tâm xuất gia.
(Thiền
Chi Hoa)
Đạo
Ngộ ngăn phòng cho Long Đàm ở là chỉ của ta là của người.
Lấy bánh của Long Đàm rồi cho lại Long Đàm là chỉ của
người là của ta. Đó là Năng Sở chẳng hai., ta người một
thể; (Năng là chủ thể, Sở là khách thể) nghĩa là không
có tự tha, vật ngã. Tương tự như Mạnh Tử trên dưới cùng
trời đất luân chuyển và Trang Tử, “Trời đất và ta cùng
sinh, vạn vật với ta là một.” Nhà Phật đặc biệt nhấn
mạnh đến ngã không và pháp không. Ngã không là không chấp
tự tha; pháp không là không chấp vật ngã. Vượt ngoài tự
tha, vật ngã là vượt ngoài chủ thể và khách thể chứng
nhập chân như bản tánh. Có lẽ Long Đàm đã hiểu được
ý đó nên mới quyết tâm xuất gia.
998. Con chó ở Tử Hồ.
Để
khảo nghiệm ngộ tánh của đại chúng Nam Tuyền nói:
-
Tử Hồ có một con chó rất lợi hại; có thể ở trên cắn
đầu, ở giữa cắn tim, ở dưới cắn chân. Giả sử các
ngươi gặp con chó đó thì phải làm thế nào?
Mọi
người xôn xao bàn tán mà chẳng đi đến đâu.
Sau
có Tang Sinh hỏi thiền sư:
-
Con chó ở Tử Hồ như thế nào?
Nam
Tuyền sủa ra ba tiếng.
(Thiền
Chi Hoa)
Tử
Hồ là tên núi nơi Nam Tuyền cư trú. Ở đây, con chó là trỏ
Nam Tuyền, ám chỉ ý tưởng vật ngã bình đẳng vì chúng
sinh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật.
Cái Phật tánh ấy ở bậc thánh nhân không tăng thêm, ở kẻ
phàm không giảm đi. Tiếng sủa là thanh trần không phải là
con chó; nhưng muốn tìm con chó thì ta có thể nương theo tiếng
sủa của nó mà tìm thấy được. Công án này cho ta thấy
sự liên quan của Thể, Tướng, Dụng vậy.
999. Có và không.
Có
vị cư sĩ hỏi Trí Tạng:
-
Có thiên đàng, địa ngục không?
-
Có.
-
Có Phật, Pháp, Tăng tam bảo không?
-
Có.
Cư
sĩ hỏi liên miên qua nhiều vấn đề khác, Trí Tạng đều
trả lời “Có.”
Cư
sĩ không nhẫn nại được nữa tức giận nói:
-
Sao cái gì thiền sư cũng đáp có, không nói khác được sao?
Đệ tử đã từng đem những vấn đề trên ra hỏi Hòa thượng
Kinh Sơn, cái gì ngài cũng đáp là không. Tại sao thiền sư
và hòa thượng Kinh Sơn lại tương phản như thế?
Trí
Tạng hỏi cư sĩ:
-
Ngươi có vợ con không?
-
Có.
-
Hòa thượng Kinh Sơn có vợ con không?
Cư
sĩ cười đáp:
-
Không có.
-
Cứ thế mà nói, hòa thượng Kinh Sơn đáp không lại chẳng
đúng sao?
Cư
sĩ nghe rồi tức khắc đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Dùng
“Có” là để chỉ thế gian pháp, “không” là để chỉ
xuất thế gian pháp. Không phải cứ ly gia cắt ái mới là
học Phật; người Phật tử tại gia trong những sinh hoạt
hàng ngày cũng đều có hòan cảnh để tu học. Vì thế, không
cần phải xả thế gian pháp, trốn tránh trách nhiệm làm người
mà chỉ cần phát bồ đề tâm, hành bồ tát đạo, lấy tinh
thần xuất thế mà nhập thế, lập nên đại nghiệp.
1000. Mời uống trà.
Có
lần Triệu Châu hỏi một ông tăng mới đến tham học:
-
Ngươi đã từng đến đây chưa?
-
Đã.
-
Ủa, vậy đã đến đây rồi, mời uống trà.
Sau
đó lại có một ông tăng khác tới, Triệu Châu lại hỏi:
-
Ngươi đã từng đến đây chưa?
Ông
này đáp:
-
Dạ, chưa. Đây là lần đầu tiên đệ tử đệ tử tới tham
học.
Câu
trả lời này với câu trả lời trên hoàn toàn tương phản,
nhưng câu nói của Triệu Châu thì vẫn vậy:
-
Ủa, chưa từng đến đây hả? Mời uống trà!
Viện
chủ hỏi Triệu Châu:
-
Thiền sư đối với ông tăng đến rồi và ông tăng mới đến
lần đầu tiên đều mời uống trà là có ý gì?
Lúc
đó Triệu Châu gọi:
-
Viện Chủ!
Viện
chủ lập tức trả lời:
-
Dạ.
Triệu
Châu nói:
-
Ủa, thì ra là viện chủ, mời uống trà!
(Thiền
Chi Hoa)
Cả
ba trường hợp trên đều mời uống trà; dù hoàn cảnh bất
đồng, nhưng cùng nêu lên một vấn đề “Ai uống trà?”
Cái động tác uống trà này phải chính mình thể hội chứ
không ai có thể thay thế cho mình được. Tâm bình thường
là Đạo, mỗi động tác bình thường đều là biểu thị
của Đạo vậy.
1001.
Pháp chẳng hai.
Duy
Ma Cật hỏi Văn Thù Sư Lợi:
-
Bồ Tát nhập pháp chẳng hai là thế nào?
-
Cứ ý ta thì đối với mọi pháp không lời, không nói, không
biết, không biểu lộ, xa lìa mọi hỏi đáp. Đó là nhập
pháp chẳng hai.
Lúc
đó, Văn Thù lại dùng đúng câu hỏi trên hỏi lại Duy Ma
Cật. Duy Ma Cật yên lặng không nói.
Văn
Thù bồ tát tán thán rằng:
-
Lành thay! Lành thay! ngay cả ngôn ngữ văn tự cũng chẳng có,
đúng là nhập pháp chẳng hai.
(Thiền
Chi Hoa)
Pháp
chẳng hai, dùng lời không tới, dùng ý chẳng đặng. Do đó
trong những công án thiền có người hỏi tới tự tánh tuyệt
đối hoặc bản thể. Nếu người bị hỏi đã giác ngộ thì
yên lặng không nói, dùng sự yên lặng mà trả lời. Đó là
không nói mà nói vậy.
1002. Người câm ăn mật.
Có
ông tăng hỏi Huệ Lâm Từ Ái:
-
Người tỏ ngộ nhưng không nói ra được thì giống gì?
-
Giống người câm ăn mật.
-
Người không tỏ ngộ mà nói ra thinh sắc thì giống gì?
-
Giống con vẹt kêu người.
(Thiền
Chi Hoa)
Công
án này diễn tả rất đúng câu, “Người biết chẳng nói,
người nói chẳng biết.” (Lão Tử- Đạo Đức Kinh) chỉ
rằng sự tỏ ngộ tự tánh không thể nói được, nếu nói
ra thì đã sai rồi. Người tu thiền trong quá trình tu tập
dù đạt tới cảnh giới nào cũng không tỏ lộ cho người
khác biết huống chi bản thân không có tu chứng mà nói ra
thì khác gì con vẹt học nói tiếng người, tâm không sở
đắc mà chỉ loạn ngôn. Vì vậy mới có văn tự thiền và
khẩu đầu thiền (thiền ngoài miệng).
1003. Động tĩnh là một.
Ẩn
Phong khi còn tham học với Mã Tổ có một lần đang đẩy xe
gập lúc Mã Tổ cũng đang ngồi duỗi chân trên đường. Ẩn
Phong thỉnh Mã Tổ co chân lại để mình đẩy xe qua.
Mã
Tổ nói:
-
Ta chỉ duỗi chứ không co.
Ẩn
Phong không chịu lùi:
-
Đệ tử chỉ tiến chứ không lui.
Hai người không ai nhường ai. Về sau, Ẩn Phong tức giận cứ đẩy xe qua làm chân Mã Tổ bị thương. Mã Tổ nhịn đau, về pháp đường, cầm lấy một cái búa giơ lên mà hét lớn rằng:
- Ai đả thương chân ta, mau ra đây.
Ẩn Phong chạy tới trước mặt Mã Tổ, vươn cổ ra cho chém. Mã Tổ chỉ còn cách ném búa xuống.
(Thiền Chi Hoa)
Yếu chỉ của sự học Phật là phá chấp. Đối với vạn pháp không khởi một niệm chấp trước. Như kinh Kim Cương nói rằng: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.” Câu của Mã Tổ: “Chỉ duỗi không co.” là có ý chấp tịnh; còn câu của Ẩn Phong:”Chỉ tiến không lui.” là chấp động. Cứ như câu truyện trên cả hai dường như đều có chấp. Thực ra, đây chỉ là Mã Tổ muốn khảo nghiệm Ẩn Phong mà thôi, và cả hai người đều đã vượt qua quan niệm về động tĩnh. Vì vậy muốn làm là làm không bị động tĩnh bó buộc. Đó là tác phong của những vị thiền sư đã khai ngộ, không thể bắt chước một cách khinh xuất được.
1004. Xuất thế, nhập thế.
Có
một lần, Ngưỡng Sơn từ ruộng về, Quy Sơn hỏi:
-
Ngươi từ đâu về?
-
Ở ruộng về.
-
Ngoài ruộng có nhiều người không?
Ngưỡng
Sơn chống gậy mà đứng.
Quy
Sơn lại nói:
-
Hôm nay tại Nam Sơn, có nhiều người cắt cỏ lắm.
Ngưỡng
Sơn lập tức nhổ gậy mà đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
“Ngươi từ đâu về?” là hỏi Ngưỡng Sơn đã khai ngộ
chưa. Câu đáp, “Ở ruộng về” là nói đã ngộ rồi,
còn đang trong cảnh giới tiệm tu. Câu “Ở Nam Sơn có nhiều
người cắt cỏ lắm!” là bảo cứ y thể khởi dụng, phát
bồ đề tâm, hành bồ tát đạo mà phổ độ chúng sinh. Ngưỡng
Sơn hiểu ý đó nhổ gậy mà đi. Động tác này biểu tỏ
Ngưỡng Sơn vào hiện tượng giới vì người mà phục vụ,
lấy tinh thần xả thế mà nhập thế lập đại nghiệp.
1005. Con trâu đực.
Quy
Sơn tại giảng đường, khai thị đại chúng:
-
Một trăm năm sau lão tăng xuống núi làm một con trâu đực,
tại sườn bên trái có viết năm chữ “Quy Sơn tăng mỗ giáp.”
Lúc đó, nếu kêu ta là Quy Sơn tăng thì ta không phải là con
trâu đực, nếu kêu ta là con trâu đực thì ta không phải
là Quy Sơn tăng. Vậy ta hỏi các ngươi phải kêu ta làm sao?
Ngưỡng
Sơn từ đại chúng bước ra, cảm kích lạy tạ mà lui.
(Thiền
Chi Hoa)
Quy
Sơn nói đến cái tự tánh chân như, tự tánh của Quy Sơn
và con trâu đực không hề sai biệt. Một người nếu không
còn tâm phân biệt năng sở thì sẽ vượt trên tự tha, vật
ngã. Cũng như câu của Trang Tử, “Trời đất và ta cùng sinh,
vạn vật với ta là một.” Quy Sơn vì đại chúng khai thị
cảnh giới đó, do đó Ngưỡng Sơn cảm kích lạy tạ cũng
không phải là lạ vậy.
1006. Làm giống khác.
Có
lần Nam Tuyền nói với Triệu Châu:
-
Nay chính là lúc tốt nhất để chúng ta lìa nhân loại mà
gia nhập dị loại.
Triệu
Châu không chịu bèn trả lời:
-
Trước chẳng nói dị, xin hỏi loại là gì?
Nam
Tuyền chống hai tay xuống đất bắt chước thú bốn chân.
Triệu Châu chạy ra đằng sau đạp cho Nam Tuyền một đạp.
Sau
đó chạy vào Nát Bàn Đường kêu lớn: “Tiếc quá! Tiếc
quá!”
Nam
Tuyền rất hân thưởng cái đạp của Triệu Châu, nhưng không
biết vì sao Triệu Châu kêu tiếc quá. Nhân đó sai người
vào hỏi Triệu Châu tiếc cái gì?
Triệu
Châu trả lời:
-
Ta tiếc không đạp cho sư phụ vài cái nữa!
Nghe
câu nói đó Nam Tuyền lại càng coi trọng Triệu Châu hơn.
(Thiền
Chi Hoa)
Tự
tánh là tuyệt đối, do đó nếu có phân biệt dị loại và
đồng loại là có tư tưởng dị đồng, là có đối đãi.
Chẳng hạn vì dài nên có ngắn, vì lớn nên có nhỏ, vì ta
nên có người. Nam Tuyền nói là lìa nhân loại mà gia nhập
dị loại là để khảo nghiệm xem Triệu Châu có ngộ thật
không. Triệu Châu thâm hiểu ý của Nam Tuyền nên hỏi ngược
lại thế nào là loại. Nam Tuyền biết Triệu Châu đã giác
ngộ tự tánh, không dùng ngôn ngữ mà diễn tả được nên
dùng hình ảnh mà hình dung; do đó giả làm dã thú. Nhưng vì
bản thể chân như, một pháp chẳng lập lại có thể dùng
ảnh tượng mà tỏ ra được sao? Do đó Triệu Châu đạp cho
Nam Tuyền một cái để đả phá quan niệm ảnh tượng của
sư phụ. Nam Tuyền tưởng khảo nghiệm đệ tử không ngờ
mình lại chưa vượt qua quan niệm về hình tượng nên bị
đạp một đạp. Vì vậy không mừng sao được!
1007. Cứu hỏa.
Triệu
Châu thường tại nhà bếp làm hỏa phu. Có lần thiền sư
đóng cửa và đốt lửa; đốt đến phòng bếp lửa cháy ngút
trời. Sau đó kêu lớn, “Cứu hỏa, cứu hỏa!” Cho đến
khi mọi người lại, thiền sư từ trong phòng nói:
-
Các ngươi nói đúng thì ta mới mở cửa.
Mọi
người nhìn nhau không biết ý gì. Lúc đó Nam Tuyền lấy chìa
khóa, không nói một tiếng, giao qua cửa sổ cho Triệu Châu.
Triệu Châu nhận chìa khóa, nhìn Nam Tuyền cười rồi mở
cửa chạy ra.
(Thiền
Chi Hoa)
Tự
mình không chịu mở cửa, làm sao kêu người ngoài đến cứu
hỏa. Đó là hướng ngoại mà tìm Phật thì sao mà thấy được.
Nam Tuyền đưa chìa khóa cho Triệu Châu là chỉ cửa của tự
tánh phải do mình mở, không thể nhờ người khác giúp. Triệu
Châu đã sớm hiểu điều đó nên mới nói, “Nói đúng sẽ
mở cửa”. Đó chỉ là để khảo nghiệm ngộ tánh của đại
chúng.
1008. Tâm đệ tử chẳng an.
Nhị
tổ Huệ Khả có lần hỏi Đạt Ma tổ sư:
-
Tâm đệ tử chẳng an, thỉnh lão sư an cho.
-
Người đem tâm ra đây, ta vì ngươi mà an cho.
Qua
một lúc, Huệ Khả đáp:
-
Đệ tử tìm đã lâu mà không thấy tâm đâu cả.
-
Tốt, ta đã an tâm cho ngươi rồi đó!
(Thiền
Chi Hoa)
Tâm
mà Huệ Khả muốn an không phải là chân tâm mà là vọng tâm.
Chân tâm là chủ thể của tư tưởng, như như bất động,
thường an định. Nếu chúng ta nghĩ tới nó hay tìm kiếm nó
thì không phải là chủ thể mà là khách thể. Đạt Ma bảo
Huệ Khả đưa tâm ra là muốn Huệ Khả tự mình phát hiện
tâm mà mình nói đó là hư ảo và do lời nói bất ngờ của
tổ sư khiến Huệ Khả khởi chân quán, do đó mà liễu ngộ
đuợc chân tâm.
1009. Ngươi còn cái đó sao?
Có
một sớm mai, một vị ni cô hỏi Triệu Châu:
-
Thế nào là ý mật?
Triệu
Châu lấy tay chộp vào ngực ni cô. Ni cô thấy cử động của
Triệu Châu có vẻ nông nổi bèn nói:
-
Ngươi còn cái đó sao?
Triệu
Châu lập tức đáp lại ngay:
-
Thì ra, ngươi còn cái đó!
(Thiền
Chi Hoa)
“Ý
mật” là vấn đề tối căn bản của đạo lý, nó chính
là bản thể tự tánh. Cử động của Triệu Châu có ý bảo
ni cô là tự tánh chính ở ngay cô. Khi ni cô nói, “Ngươi
còn cái đó sao?” (ám chỉ dục tánh) cho thấy ni cô hãy còn
chấp tướng nam nữ. Một người đã siêu việt thì không
còn chấp tướng nữa; do đó Triệu Châu mới nói, “Thì ra,
ngươi còn cái đó!” ám chỉ ni cô còn chấp tướng nam nữ
thì làm sao có thể hiểu được mật ý là cái gì?
1010. Tác dụng của mật.
Thản
Nhiên khi tham học với quốc sư Huệ An hỏi rằng:
-
Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Sao không hỏi ý của mình?
-
Ý của mình là gì?
-
Đương quán tác dụng của mật.
-
Tác dụng của mật là gì?
Huệ
An nháy mắt ra hiệu. Thản Nhiên bỗng khai ngộ, lạy tạ mà lui.
(Thiền
Chi Hoa)
Ý
của tổ sư từ Tây sang, tức ý của mình cũng tương tự
như “tức tâm, tức Phật.” Chân tâm không có hình tướng
nên không dùng lời mà tả được, cũng như ý niệm “mật”
không thể thấy được (nên được dùng để chỉ bản thể)
nhưng tác dụng của nó thì quan sát được. Huệ An dạy Thản
Nhiên quan sát tác dụng của “mật” nhưng Thản Nhiên vẫn
chưa ngộ nên Huệ An dùng động tác nháy mắt để diễn tả
tác động của “mật” bởi vì tác dụng của lục căn (nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, khẩu, ý) không cái nào là không do
tâm làm chủ. Vì vậy do dụng mà có thể thấy thể. Đó là
lý do tại sao Thản Nhiên thấy Huệ An nháy mắt mà tỏ ngộ.
1011. Như bò kéo xe.
Mã
Tổ là người Tứ Xuyên, lúc nhỏ thường vào chùa chơi. Đến
năm 12 tuổi xuất gia làm sa di, đến học thiền ở Nam Nhạc.
Lúc đó Hoài Nhượng là vị trụ trì chùa Bát Nhã. Hoài Nhượng
thấy Mã Tổ có tài bèn hỏi:
-
Ngươi học tọa thiền để làm gì?
-
Để thành Phật.
Hoài
Nhượng lấy một viên ngói mài ngay trước mặt Mã Tổ.
Mã
Tổ háo kỳ hỏi:
-
Thiền sư mài viên ngói làm gì?
-
Để làm gương.
Mã
Tổ kinh dị hỏi:
-
Mài gạch sao thành gương được?
-
Mài gạch không thành gương được, vậy ngươi ngồi thiền
lại thành Phật sao?
-
Vậy làm sao mới thành Phật?
-
Đạo lý này như bò kéo xe, nếu xe không đi ta hỏi ngươi
đánh xe hay đánh bò?
Mã
Tổ bị hỏi không lời đáp được.
Hoài
Nhượng lại hỏi:
-
Ngươi học tọa thiền hay học tọa Phật? Như ngươi học
tọa thiền, thì thiền không phải ở ngồi hay nằm, như ngươi
học tọa Phật, thì Phật không có hình tướng nhất định.
Pháp không có chỗ trú do đó chúng ta cầu pháp không nên có
thủ, xả, chấp trước, như ngươi học tọa Phật chẳng khác
gì giết Phật. Nếu ngươi chấp tướng ngồi thì vĩnh viễn
không thấy được đại đạo.
Nghe
lời dạy ấy Mã Tổ như người đương khát mà được uống
đề hồ, do đó bái Hoài Nhượng làm thầy.
(Thiền
Chi Hoa)
Ý
của Hoài Nhượng là ngồi thiền không phải là thiền. ngồi
thiền chỉ là một phương pháp không phải là bản thân của
thiền. Nếu chỉ có ngồi thiền không thì chẳng khác gì ngón
tay trỏ mặt trăng. Nếu không làm phát xuất được trí huệ
Bát Nhã thì chỉ là khô tọa, không cách chi mà kiến tánh
thành Phật được.
1012. Gập hổ không?
Hoàng
Bá từ ngoài về, Bách Trượng hỏi:
-
Ngươi đi đâu về?
-
Hái nấm ở chân núi Đại Hùng về.
-
Có thấy hổ không?
Hoàng
Bá giả làm tiếng hổ gầm. Bách Trượng lấy tay giả bộ
cầm búa chém hổ. Hoàng Bá hươi tay đánh cho Bách Trượng
một chưởng. Bách Trượng lớn tiếng cả cười.
Ngày
hôm sau, Bách Trượng thượng đường bảo với đại chúng
rằng:
-
Dưới núi Đại Hùng có một con hổ, các ngươi phải cẩn
thận đề phòng, lão tăng đã bị nó ngoạm một miếng đấy.
(Thiền
ChiHoa)
Con
hổ của Bách Trượng là để chỉ tự tánh. Hoàng Bá đã
hiểu ý Bách Trượng nên không trực tiếp trả lời (Vì tự
tánh không thể dùng lời mà tả được), mà giả tiếng hổ
gầm hàm ý đã ngộ tự tánh. Bách Trượng giả vờ đánh,
Hoàng Bá giả vờ đỡ đều là biểu lộ chấp nhận hành
động của đối phương. Cái cười của Bách Trượng mới
bao hàm nhiều ý nghĩa làm sao!
1013. Cán dao có công dụng gì?
Có
một ngày, Thạch Thất theo Thạch Đầu lên núi chơi. Thạch
Đầu nói:
-
Đằng trước có cái cây ngăn cản không nhìn được, mau giúp
ta chặt đi.
-
Đưa dao đây.
Thạch
Đầu rút dao ra hướng lưỡi dao về phía Thạch Thất.
-
Không phải đầu này, đầu có cán kia.
-
Cán có ích gì?
Ngay
lúc đó Thạch Thất đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Thạch
Đầu kêu Thạch Thất chặt cây ngăn thị tuyến, ám chỉ trừ
bỏ những ràng buộc của Tâm thì tâm sẽ trở lại thanh tịnh.
Khi Thạch Thất yêu cầu đưa phía cán dao, Thạch Đầu hỏi,
“Cán có ích gì?” ám chỉ bản thể giới. Lời cùng, ý
tuyệt, còn chấp “cán” thì làm sao đạt tới cảnh giới
này được?
1014. Ai ở trong giếng?
Có
ông tăng hỏi Thạch Sương:
-
Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
-
Giả như có người rớt xuống giếng sâu ngàn thước, ngươi
không dùng giây mà cứu được hắn ra thì ta sẽ bảo cho ngươi
biết ý của tổ sư từ Tây sang là gì!
-
Gần đây ở Hồ Nam có Xướng hòa thượng cũng hệt như thiền
sư, giảng Đông, giảng Tây.
Thạch
Sương kêu Ngưỡng Sơn đuổi ông tăng ra.
Ngưỡng
Sơn hỏi Đam Nguyên:
-
Cứ ý thiền sư thì làm sao cứu được người ở trong giếng?
-
Đồ ngốc, ai ở trong giếng?
Ngưỡng
Sơn lại hỏi Quy Sơn:
-
Làm sao để cứu được người ở trong giếng?
Quy
Sơn lớn tiếng gọi:
-
Huệ Tịch.
-
Dạ.
Quy
Sơn nói:
-
Đã ra rồi!
Về
sau Ngưỡng Sơn kể lại câu chuyện này cho đại chúng nghe
và nói:
-
Ta tại Đam Nguyên đắc danh, tại Quy Sơn đắc địa!
(Thiền
Chi Hoa)
“Ta
tại Đam Nguyên đắc danh” là chỉ lý ngộ. Câu của Đam
Nguyên, “Ai ở trong giếng?” đả phá sự chấp trước của
Ngưỡng Sơn làm cho Ngưỡng Sơn hiểu rằng tự tánh không
bị trói buộc bởi không, thời gian. “Tại Quy Sơn đắc địa”
là chỉ sự chứng ngộ. Khi nghe Quy Sơn kêu tên mình bèn lên
tiếng dạ, lập tức hiểu rằng cái tâm ấy đã ra khỏi giếng.
Chân Tâm là như như bất động ở khắp nơi, không bị ra
vào, trong, ngoài, cùng những quan niệm về thời, không gian
giới hạn. Chính là “Mười đời xưa nay, đầu cuối chẳng
rời đương niệm, vô biên sát thổ, ta người chẳng cách
một sợi lông.”
1015. Biện luận về ngón tay và mặt trăng.
Có
ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
-
Đệ tử không hỏi ngón tay mà muốn hỏi mặt trăng là cái
gì?
-
Ngươi không hỏi ngón tay, vậy ngón tay là gì?
Lúc
đó, có một ông tăng khác hỏi:
-
Đệ tử không hỏi mặt trăng mà muốn hỏi ngón tay là cái
gì?
-
Mặt trăng.
Ông
tăng phản đối:
-
Đệ tử hỏi ngón tay sao sư phụ lại đáp mặt trăng?
-
Đó là vì ngươi hỏi ngón tay.
(Thiền
Chi Hoa)
Nhân
lúc trước có người hỏi Pháp Nhãn, “Thế nào là tâm của
cổ Phật?” Pháp Nhãn đáp, “Có lòng từ bi hỉ xả là tâm
của cổ Phật.” Lời đáp tâm của cổ Phật và lời đáp
ngón tay và mặt trăng đều là lấy dụng làm thể. Hỏi mặt
trăng đáp ngón tay, ngón tay chỉ là để chỉ phương hướng
mà thôi, không phải là tự tánh chân thật vì tự tánh chân
thật không có sở tại. Hiện tượng thấu xứ tức bản thể,
bản thể hiện xứ tức hiện tượng. Thể không ly dụng,
dụng không ly thể, thể dụng chẳng hai. Hỏi ngón tay đáp
mặt trăng giả như hỏi mặt trăng nhất định đáp ngón tay.
Ngón tay và mặt trăng đều là thế pháp, giả danh mà an lập;
nhưng ở tự tánh thì lại không có sự phân biệt.
1016. Một mình trên núi.
Có
một ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Khi một mình ở trên núi thì cảm thấy thế nào?
-
Ta không trả lời ngươi.
-
Tại sao vậy?
-
Vì sợ ngã lăn trên đất.
(Thiền
Chi Hoa)
Núi
(cô phong) là chỉ bản thể giới vượt trên năng sở đối
đãi không thể dùng lời mà nói! “Ngã lăn trên đất” là
chỉ hiện tượng giới. Ta không thể dùng ngôn ngữ để nói
về bản thể giới đuợc, vì ngôn ngữ đã có sai biệt, năng
sở tương đối, do đó Triệu Châu mới nói, “Sợ ngã lăn
trên đất” để chỉ rằng ở bản thể giới phải quên
lời, tuyệt ý vậy.
1017. Tự tánh thần châu.
Có
một lần đức Thế Tôn lấy một viên “tùy sắc ma ni châu”
cho năm thiên vương xem và hỏi rằng:
-
Viên bảo châu này mầu gì?
Năm
vị thiên vương, mỗi người đều nói một mầu khác nhau.
Đức Phật thâu viên bảo châu lại và giơ bàn tay ra hỏi
rằng:
-
Viên bảo châu này có mầu gì?
Các
thiên vương đáp:
-
Bạch đức Thế Tôn, trong tay người không có châu thì làm
sao có mầu gì?
Đức
Thế Tôn bèn nói rằng:
-
Các ngươi thực là mê muội, khi ta lấy viên bảo châu cho
các ngươi xem, các ngươi mỗi người đều nói khác nhau: Xanh,
vàng, trắng, đỏ. . . không người nào nói giống nhau. Nhưng
lúc ta lấy viên chân bảo châu triển thị ra thì các ngươi
lại không biết, Ngộ đạo lại khó như vậy sao?
Ngay
chính lúc đó năm vị thiên vương đều giác ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Chân
bảo châu dụ cho tự tánh. Tự tánh thần châu có tánh quang
minh, thanh tịnh bất động… nhưng có dạng thức nào? Nói
giống một vật nào là cũng không trúng. Đó là chỗ khó khăn
vậy! Bởi vì nếu có thể trình hiện thì chỉ làm cho rối
mắt. Không phải là bản thân của tự tánh thần châu vì
tự nó không có pháp nào trình hiện cũng không thể nào trình
hiện được. Đó mới thật là tự tánh thần châu.
1018. Sa di có chủ.
Ngưỡng
Sơn tham phỏng Quy Sơn.
Quy
Sơn hỏi:
-
Ngươi là sa di có chủ hay là sa di vô chủ?
-
Có chủ.
-
Chủ ở đâu?
Ngưỡng
Sơn từ tây chạy sang Đông, sau đó đứng yên. Quy Sơn rất
tán thưởng.
(Thiền
Chi Hoa)
“Chủ”
đây là chỉ tự tánh. Quy Sơn biết Ngưỡng Sơn đã hiểu
nhưng muốn cho chắc nên hỏi thêm,” Chủ ở đâu?” Ngưỡng
Sơn biết ở đâu là trỏ không gian, không diễn tả được
bản chất của tự tánh, do đó, không mở miệng mà đi từ
Tây sang Đông, rồi đứng yên, tỏ rằng tự tánh ở khắp
nơi và động tĩnh là một, không dùng lời mà nói được.
Kinh Duy Ma Cật có nói, “Đến chẳng đến, đi chẳng đi!
Vì sao? Vì đến chẳng biết từ đâu đến, đi chẳng
biết đi về đâu.” Chính là miêu tả rất đúng tính
chất của tự tánh.
1019. Đường Thạch Đầu trơn lắm.
Ẩn
Phong đến từ biệt Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
Ẩn
Phong đáp:
-
Đệ tử định đến thăm Thạch Đầu.
Mã
Tổ nói:
-
Cẩn thận đường Thạch Đầu trơn lắm đấy!
-
Sư phụ đừng ngại, đệ tử có mang theo gậy trúc, phùng
trường tác hí, ứng phó được mà!
Đến
nơi, đi diễu quanh thiền sàng một vòng, chống gậy đứng
mà hỏi tông chỉ của Thạch Đầu là gì? Thạch Đầu không
nhìn Ẩn Phong ngẩng đầu lên mà than dài:
-
Trời xanh! Trời xanh!
Ẩn
Phong không lời đối lại, về thuật cho Mã Tổ nghe.Mã Tổ
nói:
-
Ngươi đến hỏi lại, đợi Thạch Đầu trả lời thì ngươi
hứ hai tiếng.
Ẩn
Phong quay lại và cũng làm như cũ nhưng khi hỏi lại thì Thạch
Đầu không nói nữa mà chỉ hứ hai tiếng. Ẩn Phong lại không
lời đối được về kể cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ nói:
-
Ta đã chẳng bảo ngươi trước là gì: “Đường Thạch Đầu
trơn lắm!”
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Mã Tổ, “Đường Thạch Đầu trơn lắm” là chỉ cơ
phong của Thạch Đầu rất lợi hại, không dễ đối phó.
Ẩn Phong tự thị thông minh, có mang theo gậy trúc không sợ
đường trơn. Khi hỏi tông chỉ của Thạch Đầu, Thạch Đầu
trả lời, “Trời xanh!” có thể giải thích là hư không
(thiền gia thường lấy trời, đất để trỏ hư không), là
chỉ tự tánh; có ý nói tông chỉ, mục đích của người
tu là chứng ngộ chân như bản tánh. Hiển nhiên là Ẩn Phong
không hiểu ý của Thạch Đầu nên khi Thạch Đầu nói, “Trời
Xanh!” là dùng ngôn ngữ, là chấp tướng do đó Mã Tổ dạy
Ẩn Phong dùng tiếng hứ mà đáp, có ý bảo còn chấp. Đồng
thời, tiếng hứ đồng thanh với tiếng hư vừa đại biểu
hư không mà cũng không phải là ngôn ngữ. Chẳng ngờ Thạch
Đầu biết đối phương có chuẩn bị bèn chiếm tiên cơ hứ
trước hai tiếng. Ẩn Phong vô pháp mở miệng. Quả nhiên,
câu nói của Mã Tổ đã ứng nghiệm, “Đường Thạch Đầu
trơn lắm!”
1020. Con chó không có Phật tánh.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Con chó có Phật tánh không?
-
Không!
-
Những loài xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, tại sao
con chó lại không có?
-
Vì có nghiệp thức.
Lại
có ông tăng khác hỏi:
-
Con chó có Phật tánh không?
-
Có.
-
Tại sao phải làm thú?
-
Biết mà cứ làm!
(Thiền
Chi Hoa)
Với
cùng một câu hỏi, cách trả lời của Triệu Châu lúc nói
có, lúc nói không theo lẽ đương nhiên là đầy mâu thuẫn.
Nhưng tại sao lại có sự mâu thuẫn khó hiểu ấy? Đứng
trên lập trường của Triệu Châu thì lại chẳng có gì là
mâu thuẫn cả. Vì đây là tùy cơ mà đáp, không cốt trả
lời mà là làm cho khởi nghi tình rồi do giải được nghi
tình mà ngộ. Nếu lấy chữ “không” của Triệu Châu mà
giải là không tứ đức (thường, lạc, ngã, tịnh) và chữ
“có” là tất cả đều có Phật tánh thì cũng được vì
con chó có nghiệp thức thành ra bốn đức không hiện; tuy
chó có Phật tánh nhưng mà vì “biết mà cứ làm” tạo ra
những ác nghiệp cho nên phải làm kiếp chó. Chữ “không”
này của Triệu Châu quả là độc sáng, nó chính là sinh mạng,
là tông chỉ của thiền sư vậy.
1021. Mây trên trời xanh, nước trong bình.
Lý
Cao rất ngưỡng mộ phong thái và trí tuệ của Dược Sơn
bèn tìm vào núi bái phỏng. Tới nơi chỉ thấy Dược Sơn
cầm sách đứng dưới tùng cây chăm chú đọc hầu như không
thèm để mắt tới Lý Cao. Lý Cao thấy Dược Sơn mục hạ
vô nhân, nổi giận nói rằng:
-
A! Gập mặt chẳng như nghe danh.
Nói
rồi phất tay áo định đi. Chính lúc đó, Dược Sơn bỏ sách
xuống, mỉm cười mà rằng:
-
Xin hỏi tiên sinh vì sao trọng tai mà khinh mắt vậy?
Lý
Cao không hiểu lời nói bóng gió của Dược Sơn, bèn hỏi:
-
Xin hỏi đại sư thế nào là Đạo?
Dược
Sơn giơ tay chỉ lên trời, rồi lại chỉ xuống đất hỏi:
-
Ngươi hiểu không?
-
Không hiểu.
Dược
Sơn nói:
-
Mây trên trời xanh, nước trong bình.
Lý
Cao nghe rồi lập tức đại ngộ, bỏ ngay thái độ khinh mạn,
cung kính bái tạ Dược Sơn, và làm ngay một bài kệ dâng
lên Dược Sơn đại ý, “Đại sư tu luyện thân hình như
con hạc, đọc sách dưới gốc tùng, khi tôi đến hỏi Đạo
ngài, đại sư chỉ đơn giản đáp, “Mây trên trời xanh,
nước trong bình.”
Bài
kệ của Lý Cao:
練
得 身 形 似 鶴 形
Luyện
đắc thân hình tự hạc hình
千
株 松 下 兩 函 經
Thiên
châu tùng hạ lưỡng hàm kinh
我
來 問 道 無 餘 說
Ngã
lai vấn đạo vô dư thuyết
雲
在 青 天 水 在 瓶
Vân tại thanh thiên thủy tại bình
Luyện được thân hình giống nhạn hình
Dưới tùng ngàn gốc hai hòm kinh
Ta tìm hỏi Đạo không lời khác
Mây
ở trời xanh, nước trong bình.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Thiền
Chi Hoa)
Mây
trên trời xanh không biết có trời. Nước ở trong bình không
biết có bình tự do, tự tại chẳng bị trói buộc. Đó chính
là bản chất của Đạo. Vạn vật trong vũ trụ cũng đều
thế cả không phân biệt cao hay thấp giống như câu của Lục
Tượng Sơn:” Đạo ở khắp thiên hạ, không chỗ nào là
thiếu cả.”
1022. Muỗi đốt trâu sắt.
Dược
Sơn hỏi Thạch Đầu:
-
Đệ tử đối với tam thừa thập nhị phân giáo có chỗ hiểu
được, nhưng đối nam phương,”Chỉ thẳng tâm người, thấy
tánh thành Phật” thì vẫn chưa hiểu, mong sư phụ lượng
cả từ bi giảng giải cho.
Thạch
Đầu trả lời:
-
Khẳng định không trúng, phủ định cũng không trúng; khẳng
định và phủ định đều chẳng trúng, lúc đó ngươi phải
làm sao?
Dược
Sơn hoang mang chẳng biết đáp làm sao.
Qua
một lúc, Thạch Đầu lại nói:
-
Nhân duyên của ngươi chẳng phải tại đây, mau đi kiếm Mã
Tổ đại sư.
Dược
Sơn nghe lời đi kiếm Mã Tổ và cũng nêu lên cùng câu hỏi.
Mã
Tổ đáp:
-
Ta có lúc kêu hắn nhướng mày chớp mắt, có lúc không kêu
hắn nhướng mày chớp mắt. Có lúc hắn tự nhướng mày chớp
mắt, có lúc không. Ngươi giải thích thế nào?
Dược
Sơn nghe tới đó liền giác ngộ hướng về Mã Tổ mà lạy
tạ.Mã Tổ hỏi:
-
Ngươi hiểu thế nào mà lạy ta?
-
Đệ tử ở nơi Thạch Đầu giống như con muỗi mà đốt trâu
sắt vậy!
(Thiền
Chi Hoa)
Lời
nói của Thạch Đầu và Mã Tổ tuy khác nhau nhưng cùng một
ý nghĩa. Câu của Mã Tổ:”Ta có lúc kêu hắn nhướng mày
chớp mắt” là khẳng định không trúng của Thạch Đầu;
“Có lúc không kêu hắn nhướng mày chớp mắt” là phủ
định không trúng của Thạch Đầu; “Có lúc hắn tự nhướng
mày chớp mắt, có lúc không” là khẳng định và phủ định
đều không trúng của Thạch Đầu.
Hắn
chính là tự tánh. “Muỗi đốt trâu sắt” là chỉ Dược
Sơn tại Thạch Đầu không liễu giải được mà chỉ đốn
ngộ được nhờ nghe Mã Tổ.
1023. Mặt mũi lúc chưa sanh.
Hương
Nghiêm tham phỏng Quy Sơn. Quy Sơn nói:
-
Ta nghe nói lúc ngươi ở với Bách Trượng, hỏi một đáp
mười, hỏi mười đáp trăm, vì ngươi thông minh lanh lợi.
Nay sinh tử là việc lớn, ta hỏi ngươi lúc cha mẹ chưa sanh
ra thì mặt mũi ngươi như thế nào?
Câu
hỏi này làm Hương Nghiêm không biết đâu mà đáp. Về phòng,
đem những sách vở thường đọc, giở xem từng quyển hy vọng
tìm lời giải đáp mà không thấy. Nhân đó cảm khái mà nói
rằng, “Bánh vẽ trong sách không làm thỏa mãn cơn đói của
ta”.
Do
đó, yêu cầu Quy Sơn giải thích bí mật.
Quy
Sơn từ chối:
-
Giả sử nay ta giải thích cho ngươi, tương lai ngươi sẽ mắng
chửi ta; vả lại những kiến giải của ta không quan hệ gì
đến ngươi cả.
Hương
Nghiêm cực kỳ thất vọng đem hết sách vở ra đốt, phẫn
hận mà rằng:
-
Ta là gã chẳng ra gì, học Phật chẳng nổi chỉ nên làm một
vị tăng hóa duyên khất thực mà thôi!
Bèn
từ biệt Quy Sơn, vân du khắp nước. Khi tới Nam Dương bèn
đi tham bái di tích của Huệ Trung quốc sư và tạm trú ở
đó. Một ngày kia, chính lúc đang rẫy cỏ, bẩy một hòn gạch
văng lên, chạm vào cây tre kêu thành tiếng. Tiếng động ấy
bỗng nhiên đưa Hương Nghiêm vào ngộ cảnh. Hương Nghiêm
bèn về phòng tắm gội sạch sẽ, đốt hương hướng vào
quãng không và nói:
-
Sư phụ, ơn huệ của người còn lớn hơn ơn cha mẹ sinh thành,
nếu sư phụ giảng cho con lúc đó thì con đâu có ngày nay.
Hương
Nghiêm cảm kích làm một bài kệ dâng Quy Sơn như sau:
一
擊 忘 所 知
Nhất
kích vong sở tri
更
不 假 修 持
Cánh
bất giả tu trì
動
容 揚 古 路
Động
dung dương cổ lộ
不
墮 悄 然 機
Bất
đọa tiễu nhiên cơ
處
處 無 蹤 跡
Xứ
xứ vô tung tích
聲
色 外 威 儀
Thanh
sắc ngoại uy nghi
諸
方 達 道 者
Chư
phương đạt đạo giả
咸
言 上 上 機
Hàm
ngôn thượng thượng cơ
香 嚴 智 閑
Hương Nghiêm Trí Nhàn
Tiếng dội lùm tre quên sở tri
Có gì đối trị giả tu trì
Đổi thay thần sắc nêu đường cổ
Nếp cũ tiêu điều chẳng trệ si
Chốn chốn dạo qua không dấu vết
Sắc thanh nào nhiễm được uy nghi
Mười phương đạt giả đều như vậy
Tối thượng là đây biết nói gì?
(Trúc
Thiên dịch)
(Thiền
Chi Hoa)
Ngôn
ngữ là công cụ để chuyển đạt ý thức, nhưng dùng ngôn
ngữ để diễn đạt tự tánh thì không thể được. Do đó,
thiền gia không dùng ngôn ngữ để giải thích, chỉ cố làm
sao cho người ta khởi nghi tình, thâm nhập tham cứu. Mục đích
là xóa bỏ mọi chấp trước (bao quát tất cả những kinh
nghiệm nghe, thấy) mà có thể chứng được tự tánh. Cũng
như trường hợp của Hương Nghiêm nghe tiếng động của hòn
gạch va vào cây tre mà giác ngộ tự tánh không bị câu thúc
bởi hình thể, không, thời gian. Quy Sơn không chịu giảng
ra, không phải là không giảng ra được mà là sợ làm dứt
đoạn huệ mạng của Hương Nghiêm, muốn để tự Hương Nghiêm theo thiền cơ mà ngộ chân như tự tánh. Do đó, Hương Nghiêm
tắm gội sạch sẽ, đốt hương mà lạy tạ sư phụ cũng
chẳng phải là lạ.
1024. Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác.
Lục
tổ Huệ Năng tiếp thu y bát từ Ngũ tổ bí mật rời bỏ
Đông Sơn, sợ đồ chúng của Thần Tú đuổi theo. Trần Huệ
Minh là quân nhân xuất thân, cước bộ rất mau, tánh tình
rất thô bạo, đuổi kịp Huệ Năng. Thấy Huệ Minh tới, Huệ
Năng đưa y bát cho Huệ Minh.
Huệ
Minh không nhận nói:
-
Tôi tới đây không phải vì y bát mà là cầu pháp.
-
Nếu ông muốn cầu pháp thì trước hết hãy dẹp hết ngoại
duyên tư niệm, ta sẽ vì ông mà nói pháp.
Huệ
Minh lạy tạ. Lúc đó Huệ Năng nói:
-
Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính ngay khi ấy thế nào
là bản lai diện mục của Minh thượng tọa?
Huệ
Minh nghe rồi đại ngộ bèn quay trở lui.
(Thiền
Chi Hoa)
Quan
niệm thiện ác là quan niệm thị phi (phải, trái). Loại quan
niệm này là do thức tâm sinh ra. Lục tổ bảo Huệ Minh không
nghĩ thiện và ác là để trừ thức tâm mà đạt tới tự
tánh. Vì tự tánh vượt trên tất cả hiện tượng nên không
dùng khẳng định mà hình dung vì như vậy là chấp có, cũng
không dùng phủ định vì như vậy là chấp không, rơi vào
đoạn diệt.
1025. Chẳng có thánh gì cả.
Đạt
Ma tổ sư năm 527 đến miền nam Trung Quốc nhận lời mời
của Lương Võ Đế ghé qua Nam Kinh.Lương Võ Đế hỏi:
-
Từ khi trẫm lên ngôi, lập nhiều chùa chiền, in nhiều kinh
sách, cấp dưỡng tăng ni, vậy có công đức gì không?
-
Không.
-
Tại sao không?
-
Vì những việc bệ hạ làm đó, chỉ là quả báo nhỏ của
thế tục không phải là chân công đức.
-
Vậy sao, còn chân công đức là thế nào?
-
Chân công đức là trí tuệ tối viên mãn, tối dung thông;
bản thể của nó là không tịch, bệ hạ không thể dùng phương
pháp thế tục mà đạt được.
-
Thế nào là thánh?
-
Là hoàn toàn không, trong cái thế giới không đó, không có
cái gì là thánh cả!
-
Không có thánh sao, vậy người là ai?
-
Không biết.
(Thiền
Chi Hoa)
Căn
bản của công án này là câu “Chẳng có thánh gì cả” (quách
nhiên vô thánh). Phật pháp phân làm chân, tục nhị đế. Lương
Võ Đế hỏi là hỏi nghĩa của Chân đế. Đạt Ma đáp là
tự chứng cảnh giới, vượt trên cả Chân Tục nhị đế
là cảnh giới niết bàn tuyệt đối. Do đó, Lương Võ Đế
không hiểu cũng chẳng có gì là lạ, vì trong cảnh giới “quách
nhiên vô thánh” vượt ngoài tất cả phàm thánh, mê ngộ,
phải trái; được mất là cảnh giới tự tại vô ngại. Do
đó, căn bản của thiền là truyền ngoài giáo lý, không thể
dùng lời mà giảng cho hiểu thế nào là thánh đế được.
1026. Tất cả hiện thành.
Có
lần La Hán hỏi Pháp Nhãn:
-
Người từng nói tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức; giờ
xin hỏi hòn đá ở trước sân kia là ở trong tâm hay ở ngoài
tâm?
-
Ở trong tâm.
-
Tại sao ngươi lại đem khối đá lớn kia ném vào trong tâm
vậy?
Câu
nói này làm cho Pháp Nhãn khốn quẫn, quyết tâm nhờ La Hán
giải đáp. Mỗi ngày đều đưa những lời đáp mới, La Hán
đều nói:
-
Phật pháp chẳng phải như vậy.
Cuối
cùng Pháp Nhãn chỉ còn cách thưa với La Hán rằng:
-
Đệ tử đã cùng lời, tuyệt lý rồi.
-
Nếu lấy Phật pháp mà nói tất cả đều hiện thành vậy!
Nghe
câu nói đó Pháp Nhãn hoát nhiên đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
“Tất
cả hiện thành” là chỉ chúng sinh đều có Phật tánh hay
“Phiền não tức Bồ Đề.” “Sinh tử tức Niết Bàn”
dụng tức là thể. Phật tánh vốn không trong ngoài, hòn đá
là Phật tánh hiển lộ sao lại phân biệt trong tâm, ngoài
tâm? Tinh thần của thiền là vượt ngoài cả Dụng lẫn Thể.
Về sau Pháp Nhãn làm phương trượng thường nói với đệ
tử rằng, “Xưa nay thực thể vốn hiện thành ngay trước
mắt chỉ vì bị các ngươi biến thành danh tướng vậy.”
1027. Xả thức, dụng căn.
Có
ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
-
Dùng phương pháp nào để phát lộ tự kỷ mà cùng với Đạo
hợp nhất?
Pháp
Nhãn hỏi lại:
-
Ngươi lúc nào phát lộ tự kỷ mà không cùng với Đạo hợp
nhất?
Ông
tăng lại hỏi:
-
Lúc sáu thức không ngộ âm của chân lý thì làm sao?
Pháp
Nhãn đáp:
-
Đó chẳng qua như bầy gia thuộc của ngươi thôi!
Và
hỏi lại:
-
Ngươi nói sáu thức không thể tri âm là nói tai hay nói mắt?
Nếu quả có chân lý thì đâu có thể vì sáu thức không biết
mà không có chân lý đâu? Cổ nhân từng nói “Lìa thanh sắc
chấp thanh sắc, lìa danh tự chấp danh tự” là ý đó.
(Thiền
Chi Hoa)
Công
án này nêu lên hai vấn đề:
Vấn
đề một: Người ngộ đạo có sinh hoạt khác thường không?
Câu trả lời của Pháp Nhãn nhận định rằng, “Thấy núi
vẫn là núi, sông vẫn là sông” đều là Đạo, Đạo không
ngoài sinh hoạt hàng ngày.
Vấn
đề hai: Thức tâm sinh diệt và tự tánh vô sinh diệt không
khế hợp thì sao? Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày vọng tưởng
quá nhiều nên tự tánh bị mê mờ nên có thể “tu” nhưng
không thể “ngộ.” Đức Phật lúc giác ngộ dưới gốc
Bồ Đề có nói rằng, “Kỳ thay! Kỳ thay! Đại địa chúng
sinh đều có như lai trí tuệ đức tướng nhưng vì vọng tưởng
chấp trước nên không chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng
thì nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô sư trí, tự nhiên hiện
tiền.” “Bầy gia thuộc” là chỉ lục căn, nếu biết dùng
lục căn thì lục thức sẽ giúp chúng ta liễu giải tự tánh.
(Kinh Lăng Nghiêm: Xả thức dụng căn) Vì lục thức phải nghe
lệnh của chủ nhân tự tánh. Chỉ cần không sinh niệm phân
biệt tùy duyên mà hành động thì tất cả đều là Đạo
không có gì gọi là Thể, là Dụng nữa.
1028. Diệu dụng của chữ vô.
Đạo
Thụ là môn đồ của Thần Tú, cùng vài vị học tăng trú
ở trên núi. Có một vị quái nhân thường xuất hiện, có
thể tùy ý hóa thành Phật, Bồ Tát, La Hán, hoặc phóng thần
quang hoặc thanh âm làm cho đồ đệ của Đạo Thụ rất kinh
khủng, không biết vị quái nhân ở đâu đến mà có quyền
phép như vậy? Vị quái nhân tác quái mười năm rồi bỗng
nhiên một hôm biến mất, không thấy xuất hiện nữa.
Đạo
Thụ bảo môn đồ rằng:
-
Vị thuật sĩ này dùng trăm kế, ngàn phương mà lừa dối
người; phương pháp đối phó của ta là chỉ không nghe, không
thấy nên hắn đã dùng hết cách mà cũng chẳng ăn thua gì!
(Thiền
Chi Hoa)
Thuật
sĩ dùng hình tướng lừa dối đại chúng, giả như Đạo Thụ
cũng dùng hình tướng ứng phó thì không thể thắng được
vì cảnh chẳng bao giờ ngưng. Phương pháp của Đạo Thụ
là không nghe, không thấy nên vượt cả hình tướng khiến
cho thuật sĩ cùng đường mà phải đi. Đạo Thụ chỉ dùng
chữ “Vô” mà chế chữ “Hữu”. Bởi vì bất luận chữ
hữu rộng lớn như thế nào, bền vững như thế nào cũng
còn giới hạn, còn chữ vô thì lớn không ngoài, nhỏ không
trong, giải trừ mọi chấp trước, vi diệu vô cùng, đó chính
là ứng dụng chữ “không” của nhà Phật đối cảnh không
chấp nên không bị vướng mắc vào cảnh mà thắng được
cảnh vậy.
1029. Rửa bát.
Có
ông tăng bạch với Triệu Châu:
-
Đệ tử mới đến thiền viện, xin sư phụ chỉ điểm.
Triệu
Châu hỏi:
-
Ăn cháo chưa?
-
Ăn rồi!
-
Vậy, rửa bát đi.
Ông
tăng lập tức lạy tạ.
(Thiền
Chi Hoa)
“Bát”
chỉ tự tánh, tự tánh không để vật nào dính vào. Câu hỏi
của Triệu Châu, “Ăn cháo rồi chưa?” “Rồi” và “Chưa”
đều là biên kiến, phải trừ bỏ biên kiến đối đãi thì
mới chứng được tự tánh. Vì vậy Triệu Châu mới khuyên
đi rửa bát.
1030. Vô vị chân nhân.
Một
lần tại pháp hội, Lâm Tế nói với đại chúng rằng:
-
Trong thịt đỏ của các ngươi có một vị vô vị Chân Nhân
thường ra vào, mà các ngươi chẳng biết. Kẻ chứng hãy thử
coi.
Lúc
đó có một ông tăng bước ra hỏi:
-
Vô vị chân nhân là gì?
Lâm
Tế từ thiền sàng nhẩy xuống túm lấy ông tăng:
-
Nói đi, nói đi!
Chính
lúc ông tăng này mở miệng định nói, Lâm Tế đẩy ông ra
và nói:
-
Cái que cứt khô có phải là vô vị chân nhân không?
(Thiền
Chi Hoa)
Vô
vị chân nhân là chỉ Phật tánh, là cái chân ngã không đầu,
không cuối, chẳng sanh, chẳng diệt, vượt cả thời, không gian cùng với Đạo hợp nhất. Tự tánh chân như không thể
nói ra được. Lâm Tế vì muốn tiếp dẫn học nhân dùng “Vô
vị chân nhân” để biểu thị. Ông tăng đã hiểu rõ ý.
Lâm Tế biết vậy nhân cơ hội trắc nghiệm ngộ cảnh của
ông, muốn ông tự giải đáp. Khi ông tăng mở miệng định
nói, Lâm Tế sợ ông lạc vào tâm thức nói ra cái không thể
nói, nên đẩy ông ra ngăn không cho nói. Động tác này là
tác phong nhất quán của thiền gia. Sau, Lâm Tế lại lấy que
cứt khô mà dụ cho “vô vị chân nhân” , chỉ phàm thánh
bình đẳng, chúng sinh đều có Phật tánh. Thật là một mũi
tên mà bắn hai chim vậy.
1031. Vô Tình thuyết pháp.
Động
Sơn khi mới gập Vân Nham hỏi rằng:
-
Vô tình thuyết pháp ai nghe được?
Vân
Nham lập tức trả lời:
-
Vô tình nghe được.
-
Thiền sư nghe được chăng?
-
Giả sử ta nghe được, ta đã được pháp thân, lúc đó ta
thuyết pháp ngươi không nghe được.
Động
Sơn không hiểu hỏi lại:
-
Vì sao đệ tử không nghe được?
Vân
Nham đưa phất trần lên hỏi:
-
Ngươi nghe không?
-
Không nghe.
-
Ta thuyết pháp ngươi còn không nghe ra, nói chi đến vô tình
thuyết pháp?
-
Vô tình thuyết pháp là do đâu?
-
Trong kinh A Di Đà chẳng có nói: “Nước, chim, cây rừng đều
niệm Phật, niệm pháp sao? “
Nghe
lời đó Động Sơn khai ngộ bèn làm bài kệ sau:
也
大 奇 也 大 奇
Dã
đại kỳ dã đại kỳ
無
情 說 法 不 思 議
Vô
tình thuyết pháp bất tư nghì
若
蔣 耳 聽 終 難 會
Nhược
tương nhĩ thính chung nan hội
眼
處 聞 聲 方 得 知
Nhãn
xứ văn thanh phương đắc tri.
Thật cũng lạ thay, thật cũng lạ!
Vô tình nói pháp, nghĩ không ra
Dùng đến tai nghe càng chẳng rõ
Lấy mắt mà nghe mới hiểu a!
(Thiền Chi Hoa)
Tai
thì nghe được thanh trần, mắt thì nhìn được sắc trần;
ở đây mắt nghe được thì thanh này không phải là thanh trần
mà là tự tánh. Mắt này không phải mắt thịt mà là mắt
Đạo.Tự tánh ở khắp mọi nơi, có mắt Đạo thì có thể
nghe thanh của tự tánh. Người khác vật vì có ngôn ngữ để
diễn đạt tư tưởng. Vật vô tình không có ngôn ngữ, dĩ
nhiên không có tư tưởng làm sao có thể thuyết pháp? Nhân
vì hữu tình và vô tình đều có cùng một thể tự tánh.
Chỉ cần nhìn thấu suốt tự tánh của sự vật là có thể
xúc động linh cơ mà khai ngộ. Tô Đông Pha có thơ rằng:”Tiếng
suối reo chính là tướng lưỡi rộng dài, Mầu sắc núi chẳng
phải là không thân thanh tịnh.” Do đó, vô tình thuyết
pháp không phải là vọng ngữ vậy.
1032.
Tâm là Phật.
Vô
Nghiệp bình thời nghiên cứu luật tạng rất thâm sâu. Lúc
mới gập Mã Tổ, Mã Tổ thấy tướng mạo mạnh mẽ, to lớn
bèn nói:
-
Bên ngoài đường đường mà bên trong chẳng có Phật!
Vô
Nghiệp cung kính quỳ xuống thưa rằng:
-
Con từng nghiên cứu tam thừa có chỗ sở đắc, nhưng đối
với chủ trương của thiền tông, “Tức tâm. Tức Phật”
thì vẫn chưa hiểu.
-
Ta bảo cho ngươi biết chính cái tâm chưa hiểu được đó
là Phật chứ không có cái gì khác.
Vô
Nghiệp vẫn không hiểu, bèn hỏi tiếp:
-
Xin hỏi ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
Mã
Tổ trợn mắt:
-
Vị đại đức này thực mê mờ quá, mau đi đi, lúc khác lại.
Chính
lúc Vô Nghiệp định đi, Mã Tổ ở phía sau lưng quát lớn:
-
Đại đức!
Vô
Nghiệp quay đầu lại. Mã Tổ bèn hỏi:
-
Là cái gì?
Nghe
lời nói đó Vô Nghiệp bèn lạy tạ.
(Thiền
Chi Hoa)
Tâm,
Phật, chúng sinh không sai khác. Vô Nghiệp không hiểu rõ ý
đó. Vì tự tánh không thể nói, chỉ có thể dùng cơ duyên
xảo diệu mà tiếp dẫn. Mã Tổ kêu lớn, “Đại Đức!”
Vô Nghiệp ngoảnh đầu lại. Ai nghe tiếng kêu? Ai ngoảnh đầu
lại? Đó chẳng phải hoàn toàn do tự tánh của Vô Nghiệp
đó sao? Chỉ một tiếng quát của Mã Tổ đã làm Vô Nghiệp
ngộ được cái diệu dụng của tâm vậy.
1033. Chuột thuyết pháp.
Thị
lang Vương Công Tông Mộc nói với Liên Trì rằng:
-
Nửa đêm, chuột kêu chít chít không ngừng, giảng hết cả
bộ kinh Hoa Nghiêm.
Liên
Trì nói:
-
Ngay chính lúc đó, con mèo đột nhiên xuất hiện, biết phải
làm sao?
Tông
Mộc im lặng. Liên Trì bèn tự trả lời:
-
Pháp sư chạy đi, lưu lại giảng án.
Sau
đó lại làm một bài kệ như sau:
老
鼠 喞 喞 華 嚴 歷 歷
Lão thử tức tức hoa nghiêm lịch lịch
奇
哉 王 侍 郞 卻 被 畜
Kỳ
tai Vương thị lang khước bị súc
生
惑
sanh
hoặc
猫
兒 突 出 畫 堂 前
Miêu
nhi đột xuất hoạch đường tiền
床
頭 說 法 無 消 息
Sàng
đầu thuyết pháp vô tiêu tức
無
消 息 大 方 廣 佛 華
Vô
tiêu tức đại phương quảng Phật hoa
嚴
經
Nghiêm
kinh
世
主 妙 嚴 品 第 一
Thế
chủ diệu nghiêm phẩm đệ nhất
Giảng Hoa Nghiêm chuột kêu chút chít
Đã làm mê hoặc Vương thị lang
Một chú mèo bỗng nhiên xuất hiện
Đâu người nói pháp nơi đầu giường
Và đâu phẩm thế chú diệu nghiêm
Của Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm.
(Ngộ
Không dịch)
(Thiền
Chi Hoa)
Do
tiếng kêu, “Chít, chít” của con chuột, có thể thể hội
một bộ kinh Hoa Nghiêm; Tông Mộc tâm theo vật mà chuyển bị
súc sinh sở hoặc. Người tu nếu đạt đến “tùy duyên bất
biến, bất biến tùy duyên” thì đạt được tâm cảnh vật
ngã là một. Nếu tùy duyên mà biến thì tâm có sở trụ không
đạt được “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” của cảnh
giới giác ngộ. Tâm trụ thì không linh, các pháp theo đó mà
diệt. Như chuột thuyết pháp, con mèo xuất hiện, chuột bèn
lẩn trốn. Tâm bị vật mà động, trí bị thức mà mê như
vậy làm sao khai mở được Phật tri kiến? Vì vậy, muốn
thành Phật, phải tu tâm kiến tánh, tu thiền cũng vậy, mà
tu tịnh cũng vậy. Vương thị lang đêm nghe chuột thuyết pháp
không phản hồi nghe tự tánh vì vậy không kiến tánh, do đó
ngày càng rời xa Đạo. Chuyện nghe chuột thuyết pháp chỉ
thành hý luận. Nếu có thể ngộ, một niệm phản tỉnh thì
một mầu sắc, một mùi hương đều là trung Đạo, tiếng
gió, tiếng mưa chẳng phải là không diệu đế.
1034. Thế nào là Chánh Nhãn.
Có
lần Triệu Châu định lên Ngũ Đài sơn thăm chùa Thanh Lương
là đạo trường của Bồ Tát Văn Thù. Có ông tăng nghe Triệu
Châu định đi chùa Thanh Lương bèn làm bài kệ sau, trao cho
Triệu Châu:
何
處 清 山 不 道 場
Hà
xứ thanh sơn bất đạo tràng
何
須 策 杖 禮 清 凉
Hà
tu sách trượng lễ thanh lương
雲
中 縱 有 金 毛 現
Vân
trung túng hữu kim mao hiện
正
眼 觀 時 非 吉 祥
Chánh
nhãn quán thời phi cát tường
Chỗ nào núi xanh chẳng đạo trường
Việc gì chống gậy lễ Thanh Lương
Trong mây dầu có Kim Mao hiện
Chánh Nhãn nhìn xem chẳng cát tường.
Triệu
Châu bèn hỏi lại một câu:
-
Thế nào là Chánh Nhãn?
Ông
tăng không lời đáp lại. Do đó Triệu Châu vẫn cứ đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Ông
tăng làm bài kệ cho rằng Triệu Châu chưa lìa được quan
niệm về Không Gian và Ảnh Tượng. Vì pháp thân Phật ở
khắp nơi, chỉ cần tâm niệm chúng ta thanh tịnh thì có thể
cảm ứng được; việc gì phải chấp tượng Phật do bùn
đắp nên mà phải đi Ngũ Đài Sơn để lễ bái? Triệu Châu
biết ông tăng có tri kiến như vậy mà vị tất đã có ngộ
cảnh; còn ông tăng không biết Triệu Châu chính là người
có Chánh Nhãn. Một người có Chánh Nhãn đương nhiên không
bị thời, không gian và ảnh tượng ngăn trở, nhưng cũng không
phủ định sự tồn tại của mọi tướng. Ông tăng làm bài
kệ trước hết đã có quan niệm về Thanh Sơn, đạo trường
Kim Mao (viết tắt của Kim Mao Sư Tử: chỉ trí tuệ), Cát Tường
(viết tắt của Diệu Cát Tường, chỉ Bồ Tát Văn Thù), Chánh
Nhãn. Như vậy là đã chấp tướng rồi, làm sao kiến tánh
được? Kinh Kim Cương có nói, “Nếu thấy các tướng là
không tướng thì thấy Như Lai.” Do đó, ông tăng bị Triệu
Châu hỏi lại một câu đã không lời đáp lại. Nhìn bánh
vẽ không làm cho no. Chỉ những người đã vào được bể
trí tuệ chân như thì đối với bản thân mới có thọ dụng
chân chính vậy.
1035. Đỉnh núi không mây vờn
Lòng sóng, bóng trăng rơi.
Từ
Minh hỏi Thúy Nham:
-
Đại ý Phật pháp là gì?
Thuý
Nham đáp:
Đỉnh núi không mây vờn
Lòng sóng, bóng trăng rơi.
-
Đầu tóc bạc trắng, răng rụng cũng nhiều rồi mà còn kiến
giải như vậy, ngươi làm sao mà phá vòng sinh tử?
Thúy
Nham kinh sợ, khẩn khoản cầu Từ Minh chỉ bảo. Từ Minh nói:
-
Ngươi hỏi lại đi.
Thúy
Nham hỏi lại:
-
Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Từ
Minh đáp:
Đỉnh núi không mây vờn,
Lòng sóng, bóng trăng rơi.
(Thiền
Chi Hoac)
“Đỉnh
núi không mây vờn” là chỉ chân không, là lý pháp giới.
“Lòng sóng, bóng trăng rơi” là chỉ diệu hữu, là lý sự
pháp giới. Toàn câu là để chỉ Chân Không Diệu Hữu. Cũng
tương tự như Tâm Kinh có nói, “Sắc tức thị không, không
tức thị sắc.” Nếu có người trần thuật ngộ cảnh của
mình cho thiền sư, thiền sư sẽ khảo nghiệm xem có ngộ thật
không. Nếu học nhân nói đúng, thiền sư sẽ cố ý nói là
không đúng khiến học nhân nghi ngờ; sau đó mới bảo học
nhân hỏi lại. Rồi sau đó trả lời bằng chính câu nói của
học nhân làm cho học nhân hết nghi hoặc mà thêm lòng tự
tín.
1036. Ly khai hai bên.
Để
khảo nghiệm tăng đồ, Hương Nghiêm Trí Nhàn nêu ra vấn đề
như sau:
-
Người cầu Đạo giống như một người dùng răng cắn vào
cành cây, mình lơ lửng giữa trời. Bên dưới có người đặt
câu hỏi, “Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?” Nếu không
đáp là không biết, nếu mở miệng đáp thì sẽ rơi xuống
mà chết. Xin hỏi phải làm sao?
Lúc
đó Hổ Đầu Chiêu hòa thượng cũng có mặt bèn đứng dậy
thưa:
-
Không hỏi lúc đã ở trên cây, xin hỏi lúc chưa trèo lên
cây thì thế nào?
Hương
Nghiêm nghe rồi ha hả cười lớn.
(Thiền
Chi Hoa)
Phàm
nhân chúng ta tâm động thì niệm sanh, Vọng tưởng chấp trước
nên bị lạc vào biên kiến. Yếu chỉ của thiền là trừ
khử biên kiến. Chúng ta vỉ sao không chứng được trí tuệ
Như Lai? Chỉ bởi vì Vọng và Chấp vậy. Mà Vọng và Chấp
là do tâm động mà sanh. Hương Nghiêm có ý giúp đồ
đệ tự phá biên kiến. Trong công án trên trả lời hay không
trả lời đều là biên kiến; chẳng bằng hỏi lúc chưa trèo
lên cây thì sao? Đó chính là đã chứng được bản lai diện
mục. Phương pháp này đi thẳng vào tâm trách chi Hương Nghiêm
chẳng cười lớn sao được.
1037. Thể hội đại Đạo.
Có
người hỏi Mã Tổ:
-
Vì sao thiền sư nói: “Tức tâm, tức Phật.”?
-
Để dỗ con nít khỏi khóc!
-
Đứa trẻ ngưng khóc rồi làm sao?
-
Bảo nó: “Phi tâm, phi Phật.”
-
Ngoài hai phương pháp trên còn phương pháp nào để tiếp dẫn
người tu chăng?
-
Bảo cho hắn biết hắn không phải là “vật.”
-
Còn người đã giác ngộ thì sao?
-
Cứ theo tự tâm mà thể hội đại Đạo.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
đáp thứ nhất là đối với những người chấp không, dùng
khẳng định mà khai thị.
Câu
đáp thứ hai là đối với những người chấp có dùng phủ
định mà khai thị.
Câu
đáp thứ ba là đối với những người chấp không và có.
Phải loại trừ mọi chấp trước.
Câu
thứ tư là đối với những người đã ngộ rằng không và
có không phải là hai, giúp cho ngưòi này giữ được ngộ
cảnh.
Nói
một cách tổng quát, Phật pháp không có một pháp nhất định,
mục đích là làm sao cho chúng sinh khai thị mà ngộ được
cái “Phật tri kiến” vậy.
1038. Không ra không vào.
Có
vị giảng sư đến hỏi Mã Tổ:
-
Không biết Thiền tông chuyên tu pháp nào?
Mã
Tổ không trực tiếp trả lời mà hỏi ngược lại:
-
Ngươi chuyên tu pháp nào?
-
Nói ra thì hổ thẹn, bần tăng đã giảng ngoài hai chục bộ
kinh.
-
Thật là sư tử hống.
-
Không giám!
Mã
Tổ bèn giả tiếng sư tử gầm lên. Hòa thượng nói:
-
Đó cũng là pháp.
-
Pháp gì vậy?
-
Sư tử ra khỏi hang.
Mã
Tổ lại im lặng không nói. Hòa thượng nói:
-
Đó cũng là pháp.
-
Pháp gì vậy?
-
Sư tử ở trong hang.
Mã
Tổ hỏi:
-
Không ra, không vào là pháp gì vậy?
Hòa
thượng không có lời nào đáp lại được.
(Thiền
Chi Hoa)
Tiếng
gầm là một pháp sinh diệt. Khi gầm lên chỉ sư tử ra khỏi
hang, khi im lặng chỉ sư tử vào trong hang. Cả hai (ra, vào)
đều là loại tướng động. Nếu tâm có khởi cầu tĩnh thì
tức là đã động rồi. Câu Mã Tổ hỏi: “Không ra, không
vào là pháp gì?” chỉ cảnh giới vượt ngoài cả động
lẫn tĩnh. Nhưng vì hoà thượng chỉ hiểu có một mặt
động không hiểu rằng chân tâm thì động tĩnh là một cho
nên không đáp được. “Động tĩnh là một” không thể
dùng lý mà ngộ được, lại càng không thể dùng lời mà
giảng ra được, chỉ có thực chứng.
1039. Ai là người sau?
Đạo
Ngộ hỏi Thạch Đầu:
-
Nếu siêu thoát định, tuệ. Xin hỏi sẽ bảo kẻ khác cái
gì nữa?
-
Ta vốn không có nô lệ, nói gì đến siêu thoát.
Đạo
Ngộ buồn phiền hỏi:
-
Nói như vậy, ai mà hiểu nổi?
Thạch
Đầu không trực tiếp trả lời mà hỏi lại:
-
Ngươi hiểu chữ “Không” chăng?
-
Đối với chữ “Không” đệ tử cũng có chỗ tâm đắc!
-
A!Không ngờ ngươi là “Người phía bên kia”.
Đạo
Ngộ phản đối:
-
Đệ tử không phải là “Người phía bên kia.”
Thạch
Đầu cười mà rằng:
-
Ta đã sớm biết cư xứ của ngươi.
Đạo
Ngộ phẫn nộ:
-
Sư phụ lấy chứng cứ gì mà vu khống cho đệ tử?
-
Thân thể ngươi là chứng cứ.
-
Cứ nói như vậy thì làm sao người sau hiểu đạo được?
Thạch
Đầu hét lên:
-
Ai là người sau?
Đạo
Ngộ hoát nhiên đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Không
có “nô lệ” đương nhiên đều là chủ nhân như vậy đương
nhiên không phân biệt tự tha (ta, người). Đó là để đối
lại với” kẻ khác” của Đạo Ngộ. Khi Đạo Ngộ nói,
“Đệ tử không phải là ‘người phía bên kia’ ý nói mình
không phải là tiểu thừa “không tông.” Đạo Ngộ đã không
hiểu chữ “Không” của Thạch Đầu là một pháp chẳng
lập, trong chữ không đó không có phân biệt tự tha. “Thân
thể ngươi là chứng cứ” vì thân thể là do ảo mà có,
cuối cùng cũng quay về không. Vì có thân thể nên có tự
tha, thân thể diệt thì hoàn không, tự tha cũng không nốt.
Vì người không có tự tha, đều là một thể tự tánh, tự
giác tức giác tha, làm gì còn có người sau? Do đó Đạo Ngộ
hoát nhiên khai ngộ.
1040. Một trở về đâu?
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Vạn pháp trở về một, một trở về đâu?
Triệu
Châu đáp:
-
Ta tại Thanh Châu may một cái áo bông nặng bẩy cân rưỡi.
(Thiền
Chi Hoa)
Kinh
Phật thường dùng một và nhiều để trỏ Thể và Dụng.
Một là Thể và nhiều là Dụng. Vì bản thể chỉ có một
cái tuyệt đối không tánh, mà Dụng thì có thiên biến vạn
hóa. Câu đáp của Triệu Châu không phải là câu trả lời.
Một cái áo bông là cái một, nặng bẩy cân rưỡi là cái
nhiều. Một không lìa bẩy rưỡi, bẩy rưỡi không lìa một
tức diễn cái ý một là tất cả, tất cả là một nếu theo
câu hỏi của ông tăng thì câu đáp sẽ là, “Vạn pháp trở
về một, một trở về vạn pháp”.
1041. Con vịt trời của Bách Trượng.
Có
lần Bách Trượng và sư phụ là Mã Tổ ra ngoài, thấy con
vịt trời đang bay. Mã Tổ hỏi:
-
Con gì vậy?
-
Con vịt trời.
Mã
Tổ hỏi:
-
Bay đi đâu vậy?
-
Đã bay đi rồi!
Mã
Tổ đột nhiên lấy tay bóp mũi Bách Trượng.
Bách
Trượng bị đau kêu lớn:
-
Ái!
Mã
Tổ nói:
-
Ngươi nói đã bay đi rồi, nhưng cho tới giờ tất cả đều
chả ở đây là gì?
Bách
Trượng nghe câu nói đó, toàn thân xuất mồ hôi lạnh khai
ngộ ngay chính lúc đó.
(Thiền
Chi Hoa)
Đối
với thiền gia thì mắt nhìn, tai nghe toàn là do tự kỷ. Vịt
trời đang bay hay đã bay đi rồi đều là do mình. Mã Tổ nói:
“Con gì” trực tiếp trỏ pháp không ẩn mật mà hiển lộ
ngay trước mắt. Câu đáp của Bách Trượng “là con vịt”
làm mất đi chân sinh mạng của “pháp.” Nếu do tự thể
của Pháp mà nói con vịt trời là con vịt trời, hoặc ‘núi
tự cao, biển tự sâu’ thì mới đúng. Còn nếu lấy con vịt
trời làm cảnh thì ta đã phân ra chủ khách, trong ngoài. Nếu
hiểu được rằng vạn cảnh đều do chân như thể hiện thì
tâm cảnh chỉ là một. Mã Tổ muốn Bách Trượng hiểu đạo
lý đó nên bóp mũi Bách Trượng làm Bách Trượng hiểu rằng
tất cả khách quan đều do chủ quan triển khai, tất cả khách
thể đều do chủ thể mà thành do đó chứng được thánh
cảnh, “Một là tất cả, tất cả là một”. Nếu có chứng
được cảnh giới này thì mới có thể tùy xứ mà phát triển
tánh sáng tạo của mình được.
1042. Hạt gạo này từ đâu tới?
Thạch
Sương đang đong gạo tại kho, Quy Sơn đến nơi và nói:
-
Cẩn thận, đừng làm hao gạo của thí chủ.
Thạch
Sương hiểu nghĩa bóng, bèn trả lời:
-
Không làm hao đâu!
Quy
Sơn nhặt một hạt gạo rơi trên đất và nói:
-
Ngươi nói không, vậy hạt gạo này từ đâu ra?
Thạch
Sương không lời đáp lại. Quy Sơn lại nói:
-
Đừng coi thường hạt gạo này, hàng trăm ngàn hạt gạo từ
hạt này mà ra đó!
Thạch
Sương hỏi:
-
Hàng trăm ngàn hạt từ hạt này mà ra, nhưng chẳng biết hạt
này từ đâu ra?
Quy
Sơn ha hả cười lớn, trở về phương trượng thất.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Quy Sơn, “hàng trăm ngàn hạt từ hạt này mà ra” ý
nói vạn pháp đều do tự tánh sinh ra. Câu của Thạch Sương,
“Chẳng biết hạt này từ đâu ta?” là hỏi “Tự tánh
từ đâu mà ra?” Quy Sơn biết Thạch Sương đã ngộ tự tánh
là đệ nhất nguyên lý nên ha hả cười lớn. Quy Sơn không
dùng phương pháp át (hét), bổng (đánh), từ những sự việc
tầm thường Quy Sơn đã nhìn thấy những chỗ mà người thường
không thể thấy, tuy là những lời bình thường nhưng mỗi
lời đều là chân lý, thấm sâu vào tận xương tủy vậy.
1043. Đầu Tạng trắng, đầu Hải đen.
Có
ông tăng hỏi Mã Tổ:
-
Ly Tứ Cú, Tuyệt Bách Phi, xin hỏi” Ý của Tổ sư từ Tây
sang là gì?”
-
Hôm nay ta mệt lắm, không giải thích cho ngươi được, ngươi
đi mà hỏi Trí Tạng.
Ông
tăng đi hỏi Trí Tạng, Trí Tạng hỏi lại:
-
Sao ngươi không đi hỏi sư phụ?
-
Chính sư phụ bảo đệ đi hỏi sư huynh.
-
Ta hôm nay nhức đầu lắm, không giải thích cho ngươi được,
ngươi kiếm Hoài Hải mà hỏi.
Ông
tăng này lại đi hỏi Hoài Hải. Hoài Hải đáp:
-
Ta cũng chẳng biết.
Ông
tăng này trở về thưa với Mã Tổ. Mã Tổ bèn nói:
-
Đầu Tạng trắng, đầu Hải đen.
(Thiền
Chi Hoa)
Trắng
là “Minh Đầu Hợp”, đen là “Ám Đầu Hợp” đều là
thuật ngữ của thiền gia. “Minh Đầu Hợp” chỉ Dụng,
“Ám Đầu Hợp” chỉ Thể. Trí Tạng là Minh Đầu Hợp,
vì nhức đầu nên không giải thích được, giả như nếu
không bệnh thì sẽ trả lời, đó là thế pháp, là Dụng.
Hoài Hải là “Ám Đầu Hợp, “Ta cũng chẳng hiểu” là
chỉ tự tánh là Thể. Cứ như cách thấy của Hoài Hải thì
“Ý của tổ sư từ Tây sang” vượt ngoài cả khẳng định
và phủ định, không thể dùng ngôn ngữ mà diễn tả được,
cũng như Lão Tử quan niệm “Đạo có thể gọi, thì không
phải là Đạo thường, tên có thể gọi, thì không phải là
tên thường” hoặc cảnh giới “được ý, quên lời” của
Trang Tử.
1044. Phật tánh ở mọi nơi.
Vân
Môn khai thị đại chúng:
-
Người niệm Phật nhiều như cát sông Hằng, nhưng có ai hiểu
được Phật tánh ở đâu?
Rất
lâu, đại chúng không ai đáp được, thiền sư vì đại chúng
mà tự đáp:
-
Đều khắp.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
đáp của Vân Môn có ý là Đạo không trụ tại một nơi nào
nhất định mà ở khắp mọi nơi, cũng như Trang Tử cũng đã
nói Đạo ở loài giun dế, ở cả cứt đái.
1045. Cây trà.
Có
một lần, Ngưỡng Sơn theo Quy Sơn lên núi hái trà.
Quy
Sơn nói với Ngưỡng Sơn:
-
Chúng ta hái trà cả ngày mà chỉ phảng phất nghe thấy tiếng
chứ không nhìn thấy hình thể.
Ngưỡng
Sơn nghe rồi, dùng sức mà lay cây.
Quy
Sơn thấy vậy nói:
-
Ngươi chỉ thấy Dụng chứ không thấy Thể.
Ngưỡng
Sơn hỏi:
-
Sư phụ muốn thế nào?
Quy
Sơn yên lặng không nói.
Ngưỡng
Sơn lại nói:
-
Sư phụ chỉ biết Thể chứ không biết Dụng.
Quy
Sơn bèn nói:
-
Ta đánh cho ngươi ba mươi gậy.
-
Sư phụ đánh con, còn con thì đánh ai đây?
-
Ta lại đánh ngươi ba mươi gậy nữa!
(Thiền
Chi Hoa)
Ngưỡng
Sơn lay cây để chỉ cái Động của Dụng. Quy Sơn yên lặng
để chỉ cái Tịch Tĩnh của Thể. Ngưỡng Sơn vì Quy Sơn
mà phá Thể, nhưng vì tự tánh không thể dùng lời mà nói,
vì nói ra là chấp tướng. Do đó Quy Sơn đánh Ngưỡng Sơn
ba mươi gậy. Ngưỡng Sơn nghĩ sư phụ đã nói ra Dụng thì
sao mình lại không thể nói ra Thể. Già sử nói không trúng
thì sư phụ cũng bị ăn gậy. Nhưng Ngưỡng Sơn không biết
rằng Động mà nói ra thì không sai, nhưng Tịnh mà nói ra thì
lại sai. Vì vậy Quy Sơn lại đánh cho Ngưỡng Sơn ba mươi
gậy nữa.
1046. Do sinh hoạt hàng ngày mà ngộ Đạo.
Long
Đàm nói với Đạo Ngộ rằng:
-
Từ ngày đệ tử đến đây chưa hề được nghe sư phụ chỉ
dạy tâm yếu.
-
Từ ngày ngươi đến đây không có lúc nào là ta không chỉ
cho ngươi tâm yếu?
Long
Đàm chẳng chịu lại hỏi:
-
Sư phụ có chỉ cho con cái gì đâu?
Đạo
ngộ đáp:
-
Ngươi thử nghĩ lại mà xem: khi ngươi bưng trà lại, ta uống;
khi ngươi bưng cơm lại, ta ăn; khi ngươi hành lễ, ta gật
đầu. Đó không phải đều là chỉ thị tâm yếu cho ngươi
sao? Tại sao lại bảo ta không chỉ?
Long
Đàm cúi đầu suy nghĩ rất lâu, lúc đó Đạo Ngộ lại nói:
-
“Ngộ tức chân ngộ, suy tưởng là sai.”
Nghe
câu nói đó Long Đàm liền khai ngộ.
Lại
hỏi:
-
Làm sao giữ được ngộ cảnh này?
-
Dễ dàng thôi, chỉ cần ngươi thuận theo tự tánh, giữ tâm
bình thường, không phân phàm thánh là được.
(Thiền
Chi Hoa)
Tu
đạo không cần người khác, chỉ cần trong sinh hoạt hàng
ngày mà luyện tâm, lâu dần có thể tự ngộ. Khai ngộ cũng
vậy, bảo trì ngộ cảnh cũng vậy. Đạo rất bình thường,
không hề kinh thế hãi tục. Kinh Kim Cương có chép rằng: “Tới
giờ độ thực, Đức Thế Tôn, sửa y, trì bát vào thành xá
Vệ khất thực, khất thực rồi về chỗ ở độ thực, sau
đó thâu y bát, rửa chân, ngồi thiền.” Cho chúng ta thấy
rằng sinh hoạt của Phật tổ so với thường nhân cũng không
khác. Sách Trung Dung có nói rằng: “Đạo không xa người,
người vì Đạo mà xa người, không thể gọi là vì Đạo.”
Cũng chính là ý này vậy.
1047. Lễ Phật.
Có
lần Hoàng Bá đến bái phỏng Diêm Quan thiền sư, vào chùa
hướng về tượng Phật hành lễ. Lúc đó Đường Tuyên Tông
đang làm sa di ở chùa, hỏi thiền sư rằng:
-
Người cầu Đạo không chấp Phật, Pháp, Tăng, xin hỏi vì
sao người lại hành lễ?
Hoàng
Bá đáp:
-
Ta vốn không chấp Phật, Pháp, Tăng, hành lễ chỉ là do tùy
duyên mà thôi.
Tuyên
Tông lại hỏi:
-
Hành lễ có ích gì?
Hoàng
Bá tiện tay tát cho Tuyên Tông một cái. Tuyên Tông kêu lên:
-
Cái người này, sao lại thô lỗ như vậy?
Hoàng
Bá lại hét lên:
-
Đây là đâu ngươi biết không? Lại còn kêu thô với tế?
(Thiền
Chi Hoa)
Thiền
tông không sùng bái ngẫu tượng, lại còn phá trừ quan niệm
về ngẫu tượng, không thiếu những câu truyện thiền trong
đó các thiền sư mắng Phật, mắng Tổ, đốt tượng . v.
v. Nhưng những hành động đó đều là phương tiện để phá
chấp cho học nhân, còn bình thường gập tượng Phật thì
cũng cung kính lễ bái. Hoàng Bá tát cho Tuyên Tông một
cái là để giải trừ cái chấp của Tuyên Tông. “Ta là Hoàng
Tử” nhưng Tuyên Tông không hiểu còn nói Hoàng Bá thô lỗ.
Không biết rằng ở tự tánh làm gì có thô với tế, hơn
nữa tu viện không phải là triều đình, sa di chẳng phải
là Hoàng tử.
1048. Tổ sư thiền.
Một
hôm Ngưỡng Sơn khảo nghiệm sư đệ là Hương Nghiêm Trí
Nhàn, hỏi sư đệ gần đây tâm đắc như thế nào? Hương
Nghiêm làm một bài kệ rằng:
去
年 貧 未 是 貧
Khứ
niên bần vị thị bần
今
年 貧 始 是 貧
Kim
niên bần thủy thị bần
去
年 貧 猶 有 卓 錐 之 地
Khứ
niên bần do hữu trác trùy chi địa
今
年 貧 錐 也 無
Kim
niên bần trùy dã vô.
Năm ngoái, nghèo chưa là nghèo
Năm nay, nghèo mới là nghèo.
Năm ngoái nghèo, còn đất để cắm
Năm nay nghèo, không cả dùi cắm.
Ngưỡng
Sơn nghe rồi cười ha hả:
-
Sư đệ, ta thừa nhận ngươi đã qua Như Lai Thiền, còn như
Tổ Sư Thiền tưởng ngươi nằm mộng cũng chưa tới được.
Do
đó Hương Nghiêm lại làm một bài kệ nữa:
我
有 一 機
Ngã
hữu nhất cơ
瞬
目 是 伊
Thuấn
mục thị y
若
人 不 會
Nhược
nhân bất hội
別
喚 沙 彌
Biệt
hoán sa di.
Ta có một cơ
Chớp mắt là y
Nếu ngươi chẳng hiểu
Đừng gọi sa di.
Nghe
xong bài kệ, Ngưỡng Sơn rất cao hứng bèn đi báo cáo với
Quy Sơn:
-
Sư đệ đã đắc Tổ Sư Thiền.
(Thiền
Chi Hoa)
Như
Lai Thiền là chỉ tiệm tu, Tổ Sư Thiền là chỉ đốn ngộ.
Bài kệ thứ nhất diễn tả cảnh giới Như Lai Thiền. Nghèo
chỉ là Không. Năm ngoái đã tu tập được Nhân Không, vì
vậy nói, “Năm ngoái nghèo, chưa là nghèo”, chưa đạt được
chữ Không triệt để.Năm nay tu tập đến Pháp Không nên viết
“Năm nay nghèo mới là nghèo”. Muốn tới cảnh giới này
chỉ cần tu tập Giới, Định, Tuệ. Bài kệ thứ nhì cho thấy
đã ngộ nhập Chân Ngã vượt ngoài tất cả những quan niệm
về lý tính. “Cơ” là chỉ tự kỷ tâm linh, “Y” là chỉ
chân ngã. “Chớp mắt là y” là trọng tâm của bài kệ,
diễn tả sự đốn ngộ cảnh giới Chân Ngã, tức Tổ Sư
Thiền.
1049. Thì là cái đó.
Động
Sơn, sau khi ngộ đạo, đến bái biệt lão sư Vân Nham, đề
ra câu hỏi đã thắc mắc từ lâu:
-
Sư phụ, giả sử trăm năm sau có người hỏi con có còn nhớ
Chân Diện Mục của Thầy không thì phải đáp làm sao?
Vân
Nham mỉm cười, nhìn Động Sơn, qua một lúc rồi nói:
-
Thì là cái đó.
(Thiền
Chi Hoa)
Cái
đó, chính là cái Lục tổ Huệ Năng trong Pháp Bảo Đàn Kinh
có nói qua:
Nào ngờ tự tánh vốn không sinh diệt,
Nào ngờ tự tánh vốn trọn vẹn,
Nào ngờ tự tánh vốn không dao động,
Nào ngờ tự tánh có thể sinh ra vạn pháp!
“Cái
đó” là tự tánh vượt ngoài cả phủ định và khẳng định,
không có đối đãi chấp trước, là cái một, hễ nói ra là
sai, chỉ dùng trực giác mà thể ngộ.
1050. Hư không mất tiêu.
Thượng
tọa Ngạn Minh là vị học thức quảng bác, có ký ức tốt,
lại giỏi biện bác, nên có ý tự phụ. Một hôm đến bái
phỏng Bảo An Huệ Minh thiền sư; thiền sư hỏi rằng:
-
Càng nói nhiều lại càng xa Đạo, nay ta có một câu hỏi:
‘Lúc trước các Thánh nhân và các Tiên Đức còn có vị
nào không ngộ chăng?’
Ngạn
Minh đáp:
-
Đã gọi là Thánh Nhân, Tiên Đức thì sao lại không ngộ được?
Huệ
Minh nói:
-
Một người trở về nguồn chân, thì mười phương hư không
đều tiêu mất, nay Thiên Đài Sơn vẫn tồn tại, vậy là
sao?
Ngạn
Minh không sao đáp được.
(Thiền
Chi Hoa)
“Một
người trở về nguồn chân, mười phương hư không đều tiêu
mất”, đây là lời kinh Lăng Nghiêm giảng giải tự chứng
cảnh giới của tâm, không phải là chỉ ngoại cảnh của
hiện tượng giới. Thiền là tự tu tâm tánh mình không phải
là tu cho tha nhân, lại càng không phải là tu sơn hà đại
địa của ngoại cảnh. Thiền tâm là vô tâm, không chấp một
pháp. Nếu còn có một vi trần tại tâm thì không thể nào
kiến tánh được. Khi đã đạt được tới cảnh giới một
niệm chẳng sanh thì tâm đã vượt lên trên quan niệm về
thời không, vật ngã năng sở. Mười phương hư không còn
chẳng có, nói gì đến Thiên Đài sơn? Minh thượng tọa vì
không thực ngộ, nên làm sao hiểu được điều đó.
1051. Bặt đường suy nghĩ.
Chấn
Lãng hỏi Thạch Đầu rằng:
-
Tổ sư Đạt Ma từ Tây sang là có ý gì?
-
Đi mà hỏi cây cột (lộ trụ)
-
Đệ tử chẳng hiểu một tý gì?
-
Ta cũng chẳng hiểu gì cả!
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Thạch Đầu “Đi mà hỏi cây cột” là muốn đả phá
sự hướng ngoại tìm cầu của Chấn Lãng, mà phải quay về
quán chiếu tự tánh. Còn nếu cố chấp cứ theo cây cột mà
cố giải thích thì càng chấp thêm không sao ngộ Đạo được.
Mục đích của tổ Đạt Ma từ tây phương sang Trung thổ sợ
rằng ngay chính ngài cũng chẳng rõ. Có thể là do nhiều nguyên
nhân tụ họp mà thành, có thể là do lòng từ bi của Phật,
có thể là do lòng từ bi của tổ Đạt Ma, hoặc do nhiều
nguyên nhân khác nữa, tóm lại là điều không thể nghĩ bàn:
nếu cố giải thì sai lầm vì vậy khi gập câu hỏi trên,
các thiền sư đều tùy tiện dùng ngoại cảnh mà làm cho đứt
đoạn sự suy nghĩ của đối phương.
1052. Đại ý của Phật pháp.
Đạo
Ngộ hỏi:
-
Thế nào là là đại ý của Phật pháp?
Thạch
Đầu đáp:
-
Không đuợc, không biết.
-
Trên đó còn gì nữa không?
-
Trời cao chẳng ngăn ngại mây trắng bay.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
trả lời thứ nhất: Bác bỏ sự hướng ngoại tìm cầu.
Câu
trả lời thứ hai: Phật pháp là viên dung vô ngại, tới đi
tự như, tiêu dao tự tại.
1053. Chém mèo.
Có
một lần các tăng sĩ ở Đông đường và Tây đường vì
một con mèo mà khởi sự tranh chấp. Khi Nam Tuyền biết chuyện
túm lấy con mèo, nói với mọi người rằng:
-
Các ngươi nói đúng, thì con mèo đuợc cứu, bằng không ta
sẽ chém nó.
Mọi
người yên lặng, không nói được lời nào. Do đó, Nam Tuyền
chém con mèo thành hai đoạn. Khi Triệu Châu trở về, Nam Tuyền
thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Triệu Châu không nói một
tiếng, tháo dép đội lên đầu đi ra. Nam tuyền bèn nói:
-
Giả như lúc đó ngươi có mặt thì đã cứu được con mèo
rồi.
(Thiền
Chi Hoa)
Từ
bi vốn là căn bản của nhà Phật. Nam Tuyền lấy dao chém
mèo thành hai đoạn khiến cho mọi người kinh hãi. Nam Tuyền
bất mãn vì chư tăng là những người đã xuất gia mà lại
tranh chấp một con mèo, do đó chém mèo chỉ dạy người xuất
gia chân chính phải đoạn tuyệt trần thế. Chỉ có dùng phương
pháp độc đáo ấy mới làm cho người ta chân chính hướng
về tự do siêu nhiên. Triệu Châu đội dép lên đầu mà đi
ra để chỉ không chấp thường lý là dép thì phải mang ở
dưới chân. Nếu muốn siêu thoát thì phải bỏ hết mọi thị
phi của trần thế.
1054. Phá cả ba cửa.
Thắng
Quang dùng cưa, cưa đôi một con giun đất hỏi thiền sư rằng:
-
Hôm nay đệ tử cưa một con giun đất thành hai đoạn, hai
đầu của nó đều động đậy, không biết tánh mạng của
nó ở đầu nào?
Thần
Lực cầm cưa lên hướng về đầu phía phải đập một cái,
đầu phía trái đập một cái, vào khoảng giữa đập một
cái, rồi ném cưa mà đi.
(Thiền
Chi Hoa)
Công
án này cho thấy thiền sư đả phá cả ba quan niệm không,
hữu và trung.
Đập
phải và trái đả phá không và hữu.
Đập
giữa đả phá trung.
Ném
cưa mà đi đả phá xong cả ba quan niệm.
1055. Cốt tủy đạo Phật.
Hàn
Dũ, bận rộn công vụ không thể đến tham phỏng thiền sư
Đại Điên luôn. Một hôm gập thiền sư, thưa rằng:
-
Đệ tử việc công bận rộn, xin lão sư chỉ điểm cho những
điểm cốt yếu của Phật đạo.
Rất
lâu, Đại Điên không nói. Hàn Dũ không biết là ý gì. Lúc
đó Tâm Bình là thị giả của thiền sư, gõ xuống thiền
sàng ba lần. Thiền sư hỏi:
-
Làm gì vậy?
Tâm
Bình đáp:
-
Trước lấy định chế động, sau dùng trí nhổ lên.
Hàn
Dũ nghe rồi hốt nhiên đại ngộ, cảm động nói:
-
Thiền sư môn phong cao thâm, đến cả thị giả cũng đã nhập
thủ.
(Thiền
Chi Hoa)
Chúng
sinh do chấp vọng tưởng, tạo nghiệp nên thọ khổ. Vô tận
phiền não chướng ngại tự tánh làm cho chúng sinh không thể
lìa khổ mà được vui. Làm sao để phá những chướng
ngại này mà tỏ ngộ đó là công phu tu trì. Tu trì là tu Giới,
Định, Huệ để diệt Tham, Sân, Si. Hàn Dũ là văn nhân không
thiếu Huệ, nhưng thiếu Định. Tâm Bình theo kinh Niết Bàn,
tùy chứng mà cho thuốc. Do đó, muốn trừ tâm danh lợi của
Hàn Dũ thì phải dùng Định Lực, sau đó dùng trí Huệ mà
nhổ nó lên.
1056. Triệu Châu cổ Phật.
Có
ông tăng từ phương Nam lại bái phỏng Triệu Châu; kể lại
đối thoại giữa Tuyết Phong và đệ tử. Đệ tử:
-
Xin hỏi thế nào là hồ cũ, suối lạnh?
Tuyết
Phong nói:
-
Như ngươi trợn mắt nhìn mà không thấy đáy.
Đệ
tử hỏi:
-
Người uống nước thì sao?
Tuyết
Phong đáp:
-
Hắn không dùng miệng uống.
Triệu
Châu nghe rồi, bèn có ý khôi hài mà rằng:
-
Nếu không dùng miệng mà uống thì dùng mũi chăng?
Ông
tăng không phục nói rằng:
-
Vậy sao? Thiền sư thử nói xem thế nào là hồ cũ, suối lạnh?
Triệu
Châu đáp:
-
Vị đạo rất khổ.
Ông
tăng lại hỏi:
-
Người uống nước thì sao?
Triệu
Châu đáp:
-
Chết cho rồi!
Tuyết
Phong nghe đoạn đối thoại trên tán thán rằng:
-
Thật là cổ Phật! Cổ Phật!
Danh
xưng “Triệu Châu cổ Phật” chính là do công án này.
(Thiền
Chi Hoa)
“Hồ
cũ, suối lạnh” là muốn hỏi thế nào là Đạo?
“Vị
Đạo rất khổ”: nếu như ngươi muốn cầu Đạo thì phải
trải qua nhiều rèn luyện nghiêm khắc để đạt tới cảnh
giới quên vật, quên mình, phải chịu khổ trong khổ, chết
đi sống lại.
1057. Truyền y bát.
Đạt
Ma có lần chiêu tập đệ tử lại, bảo họ tự mình phát
biểu sự thể hội ngộ cảnh. Đạo Phó thưa rằng:
-
Như chỗ con thấy thì văn tự không nên chấp trước hay xả
bỏ mà nên coi như một công cụ để cầu Đạo.
Đạt
Ma nói:
-
Ngươi được phần da của ta.
Có
một nữ ni nói:
-
Như chỗ con hiểu thì giống như ngài Khánh Hỷ thấy quốc
độ của Phật A Xúc một lần rồi không thấy nữa.
Đạt
Ma nói:
-
Ngươi được phần thịt của ta.
Lại
có một vị tên là Đạo Dục nói:
-
Tứ đại (đất, nước, gió, lửa) là không, ngũ uẩn (sắc,
thọ, tưởng, hành, thức) cũng là không, cứ chỗ con thấy
thì chính cái thế giới này, một pháp cũng chẳng có.
Đạt
Ma nói:
-
Ngươi được phần xương của ta.
Sau
cùng Huệ Khả bước ra Hành lễ rồi đứng yên không động.
Đạt
Ma nói:
-
Ngươi được phần tủy của ta.
Do
đó, mang y bát truyền cho Huệ Khả.
(Thiền
Chi Hoa)
Tự
tánh không thể nói ra lời được; vì dùng lời nói tức là
có đối đãi là thế pháp không phải là tự tánh. Kinh Pháp
Hoa nói rằng: “Chư pháp tịch diệt tướng, bất khả dĩ
ngôn tuyên.” Huệ Khả sau khi hành lễ đứng bất động tỏ
ý Thể Dụng chẳng hai, là cảnh giới tối cao vì vậy mà
được truyền y bát.
1058. Đổ nước trong bình.
Có
một lần Ẩn Phong đến bái phỏng Nam Tuyền, gập đúng lúc
mọi người đang tham thiền. Nam Tuyền chỉ cái bình nước
nói với đại chúng rằng:
-
Bình đồng là cảnh, trong bình có nước, ai có thể không
làm động cảnh mà mang nước ra cho lão tăng?
Ẩn
Phong không nói một tiếng, dốc ngược bình nước ngay trước
mặt Nam Tuyền. Nam Tuyền chỉ còn cách ngăn lại.
(Thiền
Chi Hoa)
Bình
là cảnh, nước cũng là cảnh. Nếu đã không động đến
cảnh (bình) thì cũng không thể động đến cảnh (nước).
Nam Tuyền cố ý dùng mâu thuẫn này để khảo nghiệm đại
chúng. Hành động của Ẩn Phong tỏ rằng Ẩn Phong đã vượt
lên cả động lẫn tịnh cho nên không bị động tướng mê
hoặc.
1059. Hai hổ cắn nhau.
Hàn
lâm học sĩ Dương Đại Niên đáo nhiệm Nhữ Châu đến bái
phỏng Hữu Liễn thiền sư. Hai người nói chuyện cho tới
tối mịt. Hữu Liễn hỏi:
-
Đạo hữu có tranh luận về Phật pháp với ai không?
-
Đệ tử có hỏi thiền sư Vân Môn : “ Lúc hai hổ cắn
nhau thì thế nào? ” Vân Môn đáp “Hợp thành một tướng”.
Còn đệ tử thì đáp “Tôi chỉ xem thôi”. Không biết thiền
sư có diệu pháp gì khác chăng?
-
Lão tăng không giống các vị.
Đại
Niên nói:
-
Xin thử nói xem.
Hữu
Liễn lấy hai tay bịt mũi:
-
Súc sinh này càng lúc càng nồng.
Dương
Đại Niên tức thời khai ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Hai
hổ tượng trưng cho nhị biên đối đãi. Câu của Vân Môn
là để phá nhị biên. Câu của Đại Niên tuy không lạc vào
hai bên nhưng không phản hồi tự tâm để thân thiết thể
nghiệm. Câu của Hữu Liễn chỉ sự thể hội tự kỷ tâm
tánh hoạt bát tự tại, tức là đạt tới cảnh giới “Tri
vọng tức ly, ly tức Bồ Đề” vậy.
1060. Nhiệm vụ của thiền sư.
Thạch
Đầu lúc mới đến gặp Thanh Nguyên, Thanh Nguyên hỏi rằng:
-
Phải ngươi từ Tào Khê (chỉ Huệ Năng) đến không?
Sau
đó lại hỏi:
-
Lúc ngươi chưa đến Tào Khê, ngươi mang gì theo?
-
Lúc con chưa đến Tào Khê, con cũng chẳng thiếu gì!
-
Đương nhiên là vậy, nhưng sao ngươi lại đến Tào Khê?
-
Nếu con không đến Tào Khê làm sao con biết là con không thiếu
gì.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
đáp cuối của Thạch Đầu cho chúng ta biết thiền sư đã
thấy được bản lai diện mục do sự chỉ điểm của Huệ
Năng. Do công án này chúng ta biết được một điều, đó
là thiền sư không cung cấp cho chúng ta một cái gì, mà chỉ
trợ giúp chúng ta quan sát nội tâm. Những giáo huấn chí diệu
của các ngài là môi giới giúp cho chúng ta khai ngộ.
1061. Bí mật công khai.
Hoàng
Long thiền sư và thi sĩ Hoàng Sơn Cốc giao du rất thân. Hoàng
Sơn Cốc hỏi Hoàng Long có mật pháp gì trao truyền không?
Hoàng Long đáp:
-
Khổng Tử đã chẳng nói qua “Một chữ, ta cũng chẳng dấu
ngươi” sao?
Đúng
lúc Hoàng Sơn Cốc định trả lời, Hoàng Long nói:
-
Không phải, không phải.
Làm
cho Hoàng Sơn Cốc chẳng hiểu gì cả.
Lại
một hôm, Sơn Cốc theo Hoàng Long đi lên núi chơi, thấy hoa
Quế nở đầy, Hoàng Long bèn hỏi:
-
Ngươi thấy mùi hoa quế không?
Sơn
Cốc đáp:
-
Có.
Hoàng
Long lại nói:
-
Ngươi thấy đó, ta chẳng có điểm nào dấu ngươi cả!
Sơn
Cốc liền đại ngộ nói:
-
Thiền sư thật là lão bà tâm thiết.
Hoàng
Long cười mà rằng:
-
Ta chỉ hy vọng ngươi mau về nhà.
(Thiền
Chi Hoa)
“Nhà”
là chỉ bản lai diện mục, kinh Lăng Nghiêm gọi là tánh “diệu
chân như”. Kinh Hoa Nghiêm gọi là “nhất chân pháp giới”.
Thiền gia gọi là “chủ nhân ông” hoặc “chánh pháp nhãn
tạng.” Danh xưng tuy khác nhau nhưng bản chất thì đồng.
Trăng thu, hoa xuân, thanh sơn, lục thủy, tất cả đều hiện
thành ngay trước mặt, Đạo ở ngay đó, không đâu không có,
làm gì có bí mật? Sơn Cốc không hiểu, bỏ gốc tìm ngọn,
tìm cầu pháp môn bí mật, cho nên Hoàng Long muốn Hoàng Sơn
Cốc ở trong bản tánh của hương hoa quế mà lãnh ngộ “đạo
pháp tự nhiên” của Lão Tử phát hiện tự tánh chân ngã
mà về “nhà.”
1062. Mượn chuyện để dạy Đạo.
Có
một lần Quy Sơn đang đứng hầu sư phụ là Bách trượng.
Bách Trượng bảo Quy Sơn bới trong lò xem có lửa không? Quy
Sơn bới rồi thưa rằng không có. Bách Trượng thân đến
lò bới sâu tìm được một điểm lửa nhỏ, bèn thổi cho
cháy bùng lên rồi nói với Quy Sơn rằng:
-
Đây chẳng phải là lửa sao?
Quy
Sơn nghe câu nói đó hốt nhiên đại ngộ. Muốn làm một vị
thiền sư thì phải quan sát kỹ lưỡng.
(Thiền
Chi Hoa)
Bách
Trượng mượn một điểm lửa nhỏ để thuyết minh chúng
sinh đều có Phật tánh linh minh bất muội. Phật tánh này
chúng ta phải tự mình thể nghiệm, thực chứng mới thấy
được. Công phu càng thâm thì ngộ càng sâu. Huống hồ hiện
tượng giới và bản thể giới tuyệt đối đều là một,
cũng như “diệu” và “kiếu” của Lão Tử đều là “Huyền
Đồng nhất thể”.
1063. Phúc Thuyền.
Có
ông tăng đến tham phỏng Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Phúc Thuyền.
-
Bề sinh tử còn chưa vượt, đến Phúc Thuyền làm gì?
Ông
tăng không hiểu ý Tuyết Phong trở về thuật lại cho Phúc
Thuyền. Phúc Thuyền nói:
-
Sao ngươi không nói: “Đệ tử đã vượt qua sinh tử rồi!”
Do
đó ông tăng đem lời chỉ dẫn của Phúc Thuyền mà trả lời
Tuyết Phong. Tuyết Phong bèn nói:
-
Đây nhất định không phải là ngươi nói, mà là chính sư
phụ ngươi bảo ngươi nói thế!Đây ta có 20 gậy nhờ ngươi
chuyển cho Phúc Thuyền. Ngoài ra còn 20 gậy dành riêng cho ta.
Chuyện này không liên can gì đến ngươi cả.!
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
của Tuyết Phong có ý “Cầu sinh thoát tử” là hãy còn biên
kiến, phải làm sao vượt lên sinh tử, sinh tức vô sinh chính
như kinh Duy Ma Cật nói “Bồ Tát bất tận hữu vi, bất trụ
vô vi”. Câu của Phúc Thuyền đương nhiên siêu thoát nhưng
đệ nhất nghĩa đế không thể dùng lời mà nói ra; vì vậy
Tuyết Phong và Phúc Thuyền đều phải ăn gậy.
1064. Chính là thế đó.
Có
ông tăng hỏi Đạo Thông:
-
Thế nào là gió đen thổi vào buồm, đưa thuyền đến La sát
quỷ quốc?
-
Bá ngọ! Hỏi chuyện này làm gì?
-
Ông tăng biến sắc. Thiền sư chỉ vào ông và nói:
-
Là thế đó!
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
hỏi của ông Tăng xuất phát từ kinh Pháp Hoa. “Gió đen”
là chỉ sự nóng giận. “Thuyền” chỉ con người. Có người
nổi nóng giết người, đốt nhà, tự mình làm cho mình sa
địa ngục. Đạo Thông không trả lời ngay vào câu hỏi mà
dùng câu chửi khiến ông tăng nổi giận mà tự tỉnh ngộ.
“Tâm khởi một niệm sân, thì trăm vạn chướng ngại tới!”
và cũng là để giải đáp cho câu hỏi của ông tăng. Thật
là kỳ diệu vậy!
1065. Ba loại cảnh giới
Lỗ
Tổ nâng ly trà lên nói rằng:
-
Lúc thế giới chưa thành thì đã có cái này.
Nam
Tuyền:
-
Ngày nay, người ta chỉ biết có cái này mà không biết thế
giới.
Quy
Tông:
-
Đúng vậy.
Nam
Tuyền:
-
Sư huynh không tán đồng lối kiến giải đó sao?
Quy
Tông nâng ly trà lên:
-
Lúc thế giới chưa thành nói có cái này sao?
Nam
Tuyền lấy tay vả vào miệng cười mà đi ra. Quy Tông đứng
bên giơ tay làm như tiếp chưởng của Nam Tuyền coi bộ rất
mãn ý.
(Thiền
Chi Hoa)
“Cái
này” là chỉ tự tánh. Câu của Lỗ Tổ chỉ rằng còn chấp
tự tánh. Câu thứ nhất của Nam Tuyền dùng hiện tượng giới
diệu hữu để phá cái chấp bản thể (chân không) của Lỗ
Tổ. Câu thứ nhất của Quy Tông đồng ý với Nam Tuyền tức
là khẳng định cảnh giới diệu hữu, như vậy là cũng chấp
diệu hữu, chẳng khác gì sai lầm của Lỗ Tổ. Câu thứ nhì
của Nam Tuyền đề tỉnh Quy Tông không nên chấp vào hiện
tượng giới. Quy Tông lãnh hội rất mau, nên câu thứ nhì
của Quy Tông phủ nhận diệu hữu mà tiến vào cảnh giới
Trung Đạo. Nam Tuyền dùng tay vả vào miệng ám chỉ bản thể
tuyệt đối không thể dùng lời mà diễn tả mà chỉ tự
mình thể ngộ. Quy Tông hiểu ý của Nam Tuyền nên giơ tay
tiếp chưởng.
1066. Dùng đây, lìa đây.
Bách
Trượng đến tham phỏng Mã Tổ, Mã Tổ đưa mắt nhìn cây
phất tử treo ở góc thiền sàng. Bách Trượng nói:
-
Dùng đây, lià đây (ngay lúc dùng, ly khai dùng).
Mã
Tổ nói:
-
Về sau ngươi mở miệng lấy gì bảo người?
Bách
Trượng nắm lấy phất tử dựng đứng lên. Mã Tổ nói:
-
Dùng đây, lìa đây.
Bách
Trượng treo phất tử về chỗ cũ. Mã Tổ hét lên một tiếng
lớn, Bách Trượng bị ù tai đến ba ngày.
(Thiền
Chi Hoac)
Câu
Mã Tổ, “Về sau ngươi mở miệng lấy gì bảo người?”
là chỉ thể dụng hai bên làm sao dạy người. Bách Trương
dựng phất tử lên chỉ Thể, Dụng là một. Mã Tổ dùng đúng
câu của Bách Trượng để đáp là để trắc nghiệm Bách
Trượng. Bách Trượng treo phất tử về chỗ cũ chỉ ly Dụng
tức Thể. Mã Tổ biết Bách Trượng tuy có tri kiến vuợt
lên Thể Dụng, nhưng thức tâm chưa hết, chưa đạt được
cảnh giới vượt ngoài Thể Dụng cho nên hét lớn một tiếng,
cắt đứt đường suy nghĩ của Bách Trượng. Quả nhiên tiếng
hét này là kim cương vương bảo kiếm đã làm Bách Trượng
đại ngộ.
1067. Tâm có thể chuyển cảnh thì là Như Lai.
Bạch
Vân Thủ Đoan là học trò Dương Kỳ, ông rất dụng công học
tập, nhưng thiếu tính khôi hài.
Có
một lần Dương Kỳ hỏi ông lúc trước bái ai làm thầy,
Thủ Đoan đáp:
-
Hòa thượng Trà Lăng Úc.
Dương
Kỳ lại hỏi tiếp:
-
Ta nghe Úc hòa thượng có một lần qua cầu không để ý bị
ngã, nhân đó mà ngộ, có viết một bài kệ, ngươi có nhớ
bài kệ đó không?
Thủ
Đoan nói mình còn nhớ và đọc lầu lầu như sau:
我
有 明 珠 一 顆
Ngã
hữu minh châu nhất khỏa
久
被 塵 勞 關 銷
Cửu
bị trần lao quan toả
今
朝 塵 盡 光 生
Kim
triêu trần tận quang sinh
照
破 山 河 萬 朵
Chiếu
phá sơn hà vạn đóa
Ta có ngọc quý minh châu
Bụi đời vùi lấp bấy lâu
Bụi hết hôm nay sáng lại
Thế gian chiếu phá lầu lầu.
(Trúc
Thiên dịch)
Dương
Kỳ nghe rồi, cười mà bỏ đi. Thủ Đoan thấy thầy cử động
như vậy, suy nghĩ mãi cả đêm không ngủ.
Ngay
sáng hôm sau chạy ngay đến hỏi, Dương Kỳ nói:
-
Hôm qua ngươi có coi tên hề nhỏ không?
-
Có.
-
Ngươi biết không, ngươi ở phương diện ấy không bằng tên
hề nhỏ.
Thủ
Đoan không hiểu:
-
Thầy định nói gì?
Dương
Kỳ đáp:
-
Tên hề nhỏ thích làm cho người ta cười, còn ngươi, ngươi
sợ người ta cười.
Thủ
Đoan nhân đó đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Dương
Kỳ cười Thủ Đoan vì thiền sư cho rằng tự tánh vốn “tự
nhiên” trời sanh. Thủ Đoan chỉ thuật tri kiến của người
khác đối với chính mình không có một lợi ích nào, do đó
Dương Kỳ cười mà bỏ đi hy vọng Thủ Đoan khởi nghi tình,
hạ công phu mà nghiên cứu một phen. Quả nhiên Thủ Đoan khổ
công suy nghĩ không ra. Rồi do Dương Kỳ lấy thằng hề nhỏ
làm tỷ dụ mà khai ngộ. Đạo lý thật ra rất đơn giản.
Ý của Dương Kỳ là muốn Thủ Đoan hiểu rằng tự mình làm
chủ không để cho cảnh chuyển Tâm mà Tâm có thể chuyển
cảnh làm cho bản tánh hiển lộ ra. Nếu thật hiểu đạo
lý đó thì cười hay chửi là do người đối với mình nào
có tổn thương gì?
1068. Tuyển chọn.
Trong
một pháp hội, Triệu Châu khai thị đại chúng nói rằng:
-
Có một lời nói, là một loại tuyển chọn, là để tỏ rõ,
lão tăng này không rõ, các ngươi hãy trân trọng nó, ghi nhớ
vào lòng.
Lúc
đó có một ông sư hỏi rằng:
-
Thầy đã không rõ lại muốn chúng con trân trọng cái gì?
-
Ta cũng không rõ.
-
Thầy đã không rõ, tại sao lại biết mình không rõ?
Triệu
Châu tránh vấn đề này nói:
-
Các ngươi hãy tự thể hội đi.
Do
đó mọi người lễ tạ, lui ra.
(Thiền
Chi Hoa)
Đoạn
vấn đáp này chủ yếu thuyết minh tự tánh vượt lên hiện
tượng giới, chỉ có thể cảm chứ không thể tưởng tượng
được, như người uống nước, nóng lạnh tự hay; nếu dùng
tri kiến để phân biệt đều không phải là tự tánh. Ông
sư không phải là người sơ học, ông muốn buộc sư phụ
phải nói ra quan điểm triết học của mình, khiến ông rơi
vào bẫy mà Lão Tử đã nói” Tri bất tri thượng, bất tri
tri bệnh.” Nhưng Triệu Châu đã ly khai vấn đề này, muốn
ông trực tiếp thể ngộ vì thiền là phải tự mình chứng
ngộ không phải do người ngoài truyền thọ gì cho mình, khiến
mình có trí giải, theo đó mà tu hành, mà muốn người học
tự mình giác ngộ; nếu do thức tâm mà tìm ra đường thì
đó chỉ là tử lộ.
1069. Một sợi cũng không.
Tĩnh
cư ni Huyền Cơ thường trong hang đá Đại Nhật Sơn ngồi
thiền học đạo. Một hôm, bỗng nhiên khởi một niệm đầu:
-
Pháp tánh thậm nhiên thâm diệu không có tướng đến đi,
ta chỉ ngồi thiền là rơi vào tịch định, sao gọi là thông
đạt pháp tánh?
Do
đó thân đến tham phỏng Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
-
Từ nơi nào đến?
-
Đại Nhật Sơn.
-
Thái Dương đã mọc chưa?
-
Giả như đã mọc rồi sẽ làm tuyết núi tan.
-
Tên chi vậy?
-
Huyền Cơ.
-
Một ngày dệt được bao nhiêu?
-
Một sợi cũng không.
Huyền
Cơ bái rồi lui, đi được bốn, năm bước Tuyết Phong nói:
-
Cà sa lê đất kìa!
Tĩnh
cư ni quay đầu lại xem vạt cà sa. Tuyết Phong nói:
-
Một sợi cũng không.
(Thiền
Chi Hoa)
Thiền
tông từ trung kỳ trở về sau biến cơ phong ngữ thành khẩu
đầu thiền. Bản thân công phu chưa tới mà chỉ lợi khẩu,
dĩ chí gần như xa hẳn tôn chỉ của thiền. Tĩnh cư ni tự
nhận đã làm tan tuyết núi ám chỉ công phu cao hơn Tuyết
Phong. “Một sợi cũng không”, ám chỉ ni cô đã ngộ không.
Thanh thanh tịnh tịnh, tâm không chỗ nhiễm nhưng mà loại
khẩu đầu thiền này không phải tự chân như bản tánh lưu
lộ mà là do tâm phân biệt sinh ra; do đó không qua được
sự giảo nghiệm của Tuyết Phong. Vì vậy nghe cà sa lê đất,
không ngăn được ngoảnh đầu lại nhìn, đã bị Tuyết Phong
biết rõ công phu thô thiển.
1070. Là phàm hay là thánh.
Nham
Đầu có một ngày đến thăm Đức Sơn, vừa vào đến cửa
liền hỏi:
-
Là thánh, là phàm?
Đức
Sơn hét to lên một tiếng, Nham Đầu lạy tạ mà lui. Có người
đem chuyện này kể lại với Động Sơn. Động Sơn nói:
-
Trừ Nham Đầu ra, không ai đủ sức đảm đương việc này!
Nham
Đầu nghe được lời bình này liền mắng rằng:
-
Lão hòa thượng Động Sơn này xấu quá, hạ giá ta, không
biết rằng lúc đó ta một tay nâng hắn lên (chỉ Đức Sơn),
một tay đè hắn xuống.
(Thiền
Chi Hoa)
Tiếng
hét của Đức Sơn cắt đứt sự phân biệt phàm thánh của
tâm thức Nham Đầu, Nham Đầu hướng Đức Sơn lễ tạ là
“nâng lên” là hàm ý tôn sư trọng Đạo. Nhưng vì phàm
thánh bình đẳng không nên lễ, nếu nhận lễ là chưa đạt
được cảnh giới phàm thánh bình đẳng đó là “đè xuống”.
Nham Đầu lễ tạ có vẻ khéo quá thành vụng, chưa được
tiêu dao tự tại.
1071. Chẳng lầm nhân quả.
Mỗi
lần Bách Trượng thượng đường thuyết pháp, đều có một
cụ già theo chư sư vào pháp đường nghe giảng. Có một hôm
đại chúng đã đi hết chỉ còn lại cụ già. Bách Trượng
bèn hỏi cụ là ai, cụ già đáp:
-
Lão không phải là người, lúc trước khi tôn giả Ca Diếp
tại thế lão là phương trượng ở chính núi này; có một
đồ đệ hỏi lão bậc đạo hạnh cao thâm có bị luật nhân
quả chi phối không? Lão trả lời không? Vì câu trả lời
đó lão bị biến thành chồn, luân hồi đã 500 kiếp rồi,
bây giờ xin thầy chỉ điểm cho lão để thoát thân chồn
này.
Bách
Trượng hỏi:
-
Lão trượng muốn hỏi gì?
Cụ
già lập lại câu hỏi của đồ đệ.
Bách
Trượng đáp:
-
Chẳng lầm nhân quả.
Cụ
già nghe rồi lập lức tỉnh ngộ lễ tạ Bách Trượng và
xin ngài làm lễ mai táng cho mình như một tăng sĩ.
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
chuyện này chủ yếu để thuyết minh luật nhân quả. Chịu
chi phối bởi nhân quả là khẳng định; không chịu chi phôi
bởi nhân quả là phủ định; do đó đều sai. “Chẳng lầm
nhân quả” vượt cả khẳng định và phủ định. Nên thấy
được tự tánh chân chánh. Người đắc đạo thấy được
hiện tượng giới biến ảo, siêu việt giới vĩnh hằng; và
đạo là vượt lên cả hai giới đó, tương tự Tâm Kinh nói:
“Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức
là không, không tức là sắc.”
1072. Làm trâu.
Triệu
Châu hỏi Nam Tuyền:
-
Người biết hữu sẽ về đâu?
-
Xuống núi, vào thôn trang làm trâu.
Nghe
lời đáp kỳ lạ của Nam Tuyền, Triệu Châu không những không
lấy làm kỳ lại hướng Nam Tuyền lạy tạ. Nam Tuyền bèn
nói:
-
Canh ba đêm qua, trăng lọt vào song cửa.
(Thiền
Chi Hoa)
“Biết
hữu” ám chỉ biết được bản thể, cũng có nghĩa là biết
được Đạo thể và hợp với Đạo Thể làm một. Câu hỏi
của Triệu Châu có nghĩa là đi đâu để có thể cùng Đạo
Thể hợp nhất. Như cách nhìn của Trang Tử thì Đạo không
đâu là không có. Nam Tuyền biểu hiện một cách chân thật
tánh chất nội tại của Đạo, bảo Triệu Châu đi làm trâu,
giống như câu nói của Trang Tử, “Đạo ở cả trong cứt
đái.”
1073. Rửa bát.
Có
một ông tăng hỏi Triệu Châu:
-
Đệ tử mới vào tùng lâm mong sư phụ chỉ điểm.
Triệu
Châu hỏi:
-
Ngươi đã ăn cháo chưa?
-
Đã ăn rồi.
-
Vậy sao. Đi rửa bát đi!
Ông
tăng đó, do vậy đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Triệu
Châu dạy ta không nên lìa hiện thực, đã ăn cháo rồi thì
phải đi rửa bát. Con người ta khi làm một việc gì, không
chịu chú ý làm, chỉ lo hướng ngoại. Những người bên cạnh
Triệu Châu như vậy, chúng ta cũng vậy. Thí dụ đi đường,
đi đường là đi đường, Triệu Châu không lấy sự kiện
đi đường là một sự kiện đặc biệt trừu tượng để
suy tưởng, chỉ y theo tâm chân thật mà đi đường. Nếu là
người đi đường chân chánh, thì đường là cái gì? Không
dùng lời cũng biết, không cần thí dụ cũng hiểu. Nếu đi
hỏi người là thừa vậy. Đạo là phải tự mình đi,
đi đến khi đủ để vô tâm là được.
1074. Đánh cuộc.
Triệu
Châu nói với đệ tử Văn Viễn rằng:
-
Văn Viễn chúng ta hãy đánh cuộc, xem ai làm mình thấp hèn
nhất là được.
Văn
Viễn bằng lòng, hai người thương lượng ai thắng thì được
một miếng bánh. Triệu Châu nói:
-
Ta là đầu lừa.
-
Đệ tử là đít lừa.
-
Ta là cứt lừa.
-
Đệ tử là con nhặng trong cứt đó.
Triệu
Châu nghĩ một lúc không ra hỏi:
-
Ngươi ở trong đó làm gì?
-
Ở đó nghỉ hè.
Triệu
Châu gật đầu:
-
Được, coi là ngươi thấp hèn nhất.
Vừa
nói vừa cầm lấy bánh ăn.
(Thiền
Chi Hoa).
Chủ
yếu của công án này là để biểu minh vật, ngã là một:
hữu tình và vô tình đều có Phật tánh. Hơn nữa, “nhặng
trong cứt” và “nghỉ hè” cũng như sen mọc trong bùn nhơ
mà không bị ô uế; kinh Bát Đại Nhân Giác nói, “Tuy là
tục nhân mà không nhiễm thế lạc” cũng là ý đó.
1075.
Từ Hàng phổ độ.
Dược
Sơn theo hầu Mã Tổ ba năm, một hôm Mã Tổ hỏi:
-
Gần đây ngươi có tâm đắc gì?
-
Da đã rụng rồi, chỉ còn chân thật.
Mã
Tổ nói:
-
Kiến giải của ngươi hoàn toàn phù hợp với tâm, ngươi
có thể lên núi nào trú cũng được.
-
Con là người chi mà dám lên núi làm phương trượng.
Mã
Tổ nói:
-
Không vĩnh viễn đi không trú, không vĩnh viễn trú không đi;
cầu ích ở chỗ không ích, làm ở chỗ không làm, phải như
Từ Hàng phổ độ không nên vĩnh viễn trú ở đây.
(Thiền
Chi Hoa)
Mã
Tổ dùng sự đi và trú của Dược Sơn để ám chỉ động
tĩnh của tự tánh.
“Đi
mà không trú” chỉ sự chạy theo trần cảnh không thấy được
tự tánh.
“Trú
mà không đi” chỉ sự chìm đắm vào không tịch không y thể
khởi dụng.
Hai
loại hành vi đó đều không phải là hành vi của thiền gia.
Do đó Mã Tổ khuyên Dược Sơn tại chỗ không ích cầu ích,
tại chỗ không làm thì làm hy vọng Dược Sơn trong tịnh tìm
được dụng động, trong động tìm được thể tĩnh. Tức
là có thể bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến mà đi
cứu độ chúng sinh.
1076. Làm sao hoằng dương.
Bàng
cư sĩ có một lần đến bái phỏng Ngưỡng Sơn:
-
Đã lâu nghe danh Ngưỡng Sơn, đến nơi lại chỉ là phủ phục!
Ngưỡng
Sơn đưa phất tử lên. Bàng cư sĩ nói:
-
Vừa vặn.
Ngưỡng
Sơn hỏi:
-
Là ngưỡng hay phủ?
Bàng
cư sĩ đánh vào cột gỗ nói rằng:
-
Tuy không người, nhưng có cột gỗ chứng minh!
Ngưỡng
Sơn ném phất tử đi nói:
-
Đi mọi nơi làm sao hoằng dương?
(Thiền
Chi Hoa)
Tự
tánh là thanh tịnh không nhiễm làm gì có ngưỡng, phủ (ngẩng
lên, phục xuống). Ngưỡng Sơn giơ phất tử lên là dùng cách
vô tình thuyết pháp. Bàng cư sĩ lấy cột gỗ chứng minh để
ám chỉ vô tình nghe pháp đều là dùng vật để hiển hiện
tự tánh, phủ định sự đối đãi của danh tướng. “Đi
mọi nơi làm sao hoằng dương?” là hỏi nếu dùng phương
pháp vô tình thuyết pháp sau này làm sao khai thị học nhân?
Con người là giống hữu tình, dùng vô tình thuyết pháp vượt
lên vật ngã vậy làm sao mà hoằng dương Phật pháp? Đó cũng
là nguyên nhân về sau Thiền tông bị suy thoái.
1077. Cá vàng.
Tam
Thánh hỏi Tuyết Phong:
-
Dùng lưới cũng không bắt được cá vàng, không biết dùng
mồi gì để bắt được?
-
Đợi ngươi ra khỏi lưới ta sẽ bảo.
-
Không ngờ rằng một vị lão sư có 1500 đệ tử mà thoại
đầu cũng không biết!
Tuyết
Phong đỏ mặt xin lỗi:
-
Nhân vì làm phương trượng công việc thật quá bận đi!
(Thiền
Chi Hoa)
Tam
Thánh nói cá vàng là để chỉ tự tánh, câu hỏi có ý là
làm thế nào để tự tánh hiển lộ. Ông biết tự tánh không
thể giới hạn trong tiểu thiên địa, nhưng ông vẫn còn quan
niệm về không gian, nhận rằng ngoài tự tánh còn có một
cái lưới, không biết rằng tự tánh ở khắp nơi, làm gì
còn có lưới? Tự tánh là tuyệt đối, do đó không thể ở
ngoài tự tánh mà an lập danh tướng. Do đó khi Tuyết Phong
trả lời , “Đợi ngươi ra khỏi lưới ta sẽ bảo” là
cũng rơi vào ảnh tượng, không trách Tam Thánh cười ông.
Kinh Hoa Nghiêm nói, “Ở một sợi lông, rũ màn vua, ngồi trong
hạt bụi, chuyển đại pháp luân” là để đả phá những
quan niệm to, nhỏ, trong, ngoài làm chướng ngại sự giải
thoát. Cũng là để cho chúng ta biết chỉ có vượt ngoài không,
thời gian mới thể ngộ được tự tánh.
1078. Một ngón tay thiền.
Câu
Chi lúc đầu sống trong am, có một vị tỳ kheo ni tên
là Thật Tế đến thăm. Ni cô đến am, không thông báo cũng
không bỏ nón, chống trượng đi quanh thiền sàng của Câu
Chi ba vòng nói:
-
Nếu thầy nói có đạo lý tôi sẽ dở nón.
Ni
cô hỏi liền ba lần, Câu Chi không đáp được một câu. Thật
Tế giận phất áo định đi, Câu Chi nói:
-
Trời gần tối rồi, xin hãy lưu lại một đêm.
-
Nếu thầy nói có đạo lý, tôi sẽ lưu lại một đêm.
Câu
Chi lại không đáp được. Khi ni cô đi rồi Câu Chi than rằng:
-
Ta là nam tử mà không có khí khái trượng phu!
Về
sau khi Thiên Long đến đó, Câu Chi mời vào thuật lại chuyện
ni cô đến thăm, Thiên Long giơ một ngón tay lên khai thị,
Câu Chi tức khắc đại ngộ. Về sau, hễ có ai đến hỏi
pháp Câu Chi đều chỉ giơ một ngón tay lên.
Có
một đồng tử khi ai hỏi chuyện gì đều giơ một ngón tay
lên. Có người mách Câu Chi, Câu Chi nghe rồi dấu dao trong
tay áo, gọi đồng tử đến hỏi rằng:
-
Ngươi cũng hiểu Phật pháp rồi phải không?
-
Dạ!
Câu
Chi lại hỏi:
-
Phật là gì?
Đồng
tử giơ một ngón tay lên, Câu Chi liền vung dao lên chặt đứt.
Đồng tử đau quá vừa khóc, vừa chạy. Câu Chi hét lớn bảo
đứng lại, đồng tử quay đầu lại.
Câu
Chi hỏi:
-
Phật là gì?
Theo
tập quán đồng tử giơ tay lên, không thấy ngón tay đâu,
bỗng nhiên đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Khi
Câu Chi mới gập ni cô, theo lời than của ông chúng ta thấy
ông còn chấp tướng nam nữ. Do đó ông không trả lời ni
cô được. Thiên Long giơ một ngón tay lên biểu thị tự tánh
bình đẳng, không có tướng nam nữ, một ngón tay chỉ sự
tuyệt đối. Do đó Câu Chi liễu ngộ. Về sau, dùng một ngón
tay để tiếp dẫn người học. Đồng tử không hiểu ý nghĩa
chân chính của một ngón tay, chỉ chấp hình tướng giơ tay,
nghĩ rằng giơ tay là Phật pháp. Cho đến khi bị Câu Chi chặt
đứt, không có ngón tay để giơ lên mới hiểu rằng Phật
pháp không tồn tại ở hình tướng.
1079. Lại là cái đó.
Có
một ông sư hỏi Động Sơn:
-
Tiên sư Vân Nham có từng nói qua “Lại là cái đó” không?
Động
Sơn đáp:
-
Có nói qua.
-
Thiền sư có rõ ý tưởng của người không?
-
Lúc đó suýt chút nữa ta đã hiểu sai.
-
Không biết tiên sư có tự mình biết “có” “cái đó”
không?
-
Giả sử người không biết “có” làm sao người lại nói
như vậy? Giả sử người biết “có” làm sao người lại
khẳng định như vậy?
(Thiền
Chi Hoa)
“Cái
đó” là chỉ chân ngã, “có” là chỉ thực hữu. Chân ngã
và thực hữu không thể dùng ngôn ngữ mà diễn tả. “Người
không biết ‘có’ làm sao người lại nói như vậy” là
dùng quan điểm tục đế mà xét Vân Nham. “Người biết ‘có’
làm sao người lại khẵng định như vậy” là dùng quan điểm
chân đế mà xét Vân Nham. Vì khi một người đã thể ngộ
được chân ngã và thực hữu thì sẽ hiểu rằng không thể
dùng ngôn ngữ mà diễn tả được.
1080. Cây khô và cây tươi.
Lúc
Dược Sơn làm phương trượng, một hôm tản bộ trong sân;
môn đồ là Đạo Ngộ và Vân Nham theo hầu một bên. Dược
Sơn chỉ hai cây khô, tươi và hỏi Đạo Ngộ:
-
Khô đúng hay tươi đúng?
Đạo
Ngộ đáp:
-
Tươi đúng.
Dược
Sơn nói:
-
Sáng rõ tất cả mọi nơi, quang minh sáng lạng đi!
Lại
hỏi Vân Nham:
-
Khô đúng hay tươi đúng?
Vân
Nham đáp:
-
Khô đúng.
Dược
Sơn nói:
-
Sáng rõ tất cả mọi nơi, bỏ khô lạt đi?
Chính
lúc đó bỗng Cao sa di đến, Dược Sơn hỏi:
-
Khô đúng hay tươi đúng?
Cao
sa di đáp:
-
Khô từ khô khác, tươi từ tươi khác.
Dược
Sơn hướng về Đạo Ngộ và Vân Nham nói:
-
Không phải, không phải.
(Thiền
Chi Hoa)
“Tươi”
là chỉ hữu, “Khô” là chỉ không. Đạo Ngộ chấp hữu
là khẳng định, do đó Dược Sơn bảo, “Quang minh sáng lạng
đi.” Vân Nham chấp không là phủ định nên Dược Sơn nói,
“Bỏ khô lạt đi”. Cao sa di không thiên “hữu” hay “không”
nhưng vẫn còn quan niệm đối đãi về “hữu” và “không”,
chưa thoát khỏi vòng nên Dược Sơn bảo, “Không phải, không
phải” để sửa ông.
1081. Tướng nam nữ.
Có
một vị ni cô thỉnh giáo Long Đàm, cô phải tu hành thế nào
để trong kiếp sau có thể biến thành hòa thượng. Long Đàm
hỏi cô:
-
Ngươi làm ni cô đã bao lâu rồi?
Ni
cô nói:
-
Úy, thầy đừng làm loạn thoại đầu! Vấn đề là đệ tử
một ngày nào đó có thể thành hòa thượng không?
Long
Đàm lại hỏi:
-
Hiện nay ngươi là gì?
-
Hiện tại đệ tử là ni cô, ai lại chẳng biết?
Long
Đàm nói:
-
Ai biết ngươi?
(Thiền
Chi Hoa)
Câu
đáp của Long Đàm: “Ai biết ngươi” thật là kim chích một
cái là ra máu, bởi vì ngay cả biết cũng không biết. Đó
là vượt ngoài quan niệm về ảnh tượng nam nữ. Tâm ai ai
cũng có, ở thánh không thêm, ở phàm không bớt, đồng thời
lớn không ngoài, nhỏ không trong, ở khắp hư không, tràn đầy
pháp giới. Tất cả sự vật hữu hình, vô hình đều do tâm
mà hiển hiện. Nó sáng tạo sâm la vạn tượng của vũ trụ,
sáng tạo lục đạo luân hồi của chúng sanh, sáng tạo thánh
hiền tiên Phật. Đó chính là “tam giới duy tâm, vạn pháp
duy thức.” Giả như biết đó là ni cô, trong tâm liền có
phân biệt tướng Nam Nữ. Dĩ nhiên là có tướng Nam Nữ hiển
hiện. Kinh Kim Cương nói rằng: “Phàm sở hữu tướng, giai
thị hư vọng”. Cũng giống như vị ni cô này chấp tướng
Nam Nữ, hư vọng làm sao mà ngộ đạo được.
1082. Hãy còn cái đó.
Tứ
tổ Đạo Tín đến Ngưu Đầu Sơn thăm Pháp Dung, đến nơi
thấy hổ lang đi nhiễu quanh hang, bách điểu hiến hoa. Tứ
tổ giơ tay làm vẻ rất hoảng sợ.
Pháp
Dung liền nói:
-
Thầy còn cái đó sao?
Ám
chỉ Tứ tổ còn tâm phân biệt. Đợi một lúc khi Pháp Dung
vào trong, tứ tổ viết một chữ Phật lên thạch toạ mà
Pháp Dung thường ngồi. Pháp Dung trở ra, định ngồi, nhưng
thấy có chữ Phật, không dám ngồi xuống. Tứ tổ cười
rằng:
-
A! Nguyên lai ngươi hãy còn cái đó!
Pháp
Dung lập tức đại ngộ.
(Thiền
Chi Hoa)
Khi Pháp Dung chưa gập Tứ tổ đã đắc “Nhân Không”, cắt đứt được ngã chấp vì vậy điểu thú đối với ông không có tâm hoảng sợ. Nhưng ông chưa chứng được “Pháp không”. Do đó những ảnh tượng, điểu thú, hoa, Phật chưa trừ bỏ được, do câu điểm tỉnh của Tứ tổ mới chân chính đạt được vật, ngã lưỡng không vượt ngoài ảnh tượng. Tất cả hình tướng đều do tâm tạo, tâm không thì cảnh cũng không, hình tượng do đó cũng không còn nữa.
1083. Nơi nơi đều thấy chân Phật.
Động
Sơn, họ Du, người Hội kê tỉnh Triết Giang đầu tiên đi
tham bái Nam Tuyền là đệ tử của Mã Tổ, lần thứ nhì đi
tham bái Quy Sơn là đệ tử của Bách Trượng, về sau làm
môn hạ của Vân Nham. Tuy tham học đã lâu nhưng vẫn chưa
khai ngộ, cho đến một ngày, khi đi qua sông nhìn bóng mình
dưới nước hoát nhiên đại ngộ. Do đó làm một bài kệ
rằng:
Thiết kỵ tòng tha mích
Điều điều dữ ngã sơ
Ngã kim độc tự trú
Xứ xứ đắc phùng cừ
Cừ
kim chính thị ngã
Ngã
kim bất thị cừ
Ứng tu nhậm ma hội
Phương đắc khế như như.
Rất kỵ tìm nơi khác
Xa xôi bỏ lãng ta
Ta nay riêng tự đến
Chỗ chỗ đều gập va
Va nay chính là ta
Ta nay chẳng phải va
Phải nên như thế hội
Mới mong hợp như như.
(Thích
Thanh Từ dịch)
(Thiền
Chi Hoa)
“Như như” chỉ tự tánh, là cái mà Đạo Đức kinh gọi là thường hằng. Đại ý của bài kệ này là tự tánh chính ở nơi mình không cần phải hướng ngoại tìm cầu, càng tìm càng xa lìa; khi phản hồi tự thân thì thấy nơi nơi tự tánh đều hiển lộ. Đến câu”Va nay chính là ta, Ta nay chẳng phải va” sao trước sau mâu thuẫn vậy? Nói một cách đơn giản Động Sơn nhìn thấy bóng mình ở dưới sông(vì bóng đó cũng là ngã) do đó nhìn thấy bản lai diện mục của mình mà đại ngộ. Nhưng mà cái bóng này không thường trụ cho nên ta phải xả bỏ.Nếu ta cứ khư khư giữ lấy thì mắc vào ngã chấp cho nên mới nói “Va nay chính là ta, Ta nay chẳng phải va.” Bài kệ này ở trong Phật học đã khác lạ, mà ở trong thế giới văn học cũng đáng coi là vật báu. Nó mở mắt chúng ta, cho chúng ta thấy một kinh nghiệm sống thâm ảo giống như câu thơ của Đỗ Phủ “Nước thu trong không đáy.”
1084. Rơi này, vỡ này.
Tung
Nhạc Phá Táo Đọa hòa thượng ngôn hành cao thâm khôn lường,
không ai biết tên thật của ông là gì, ông ẩn cư trên núi
Tung Nhạc. Trên núi có một tòa miếu cổ thờ một vị Táo
thần rất linh. Người xa gần đến cúng lễ không dứt, hưởng
đồ sát sinh cũng nhiều. Một hôm, hòa thượng dẫn chư tăng
vào miếu dùng gậy gõ vào tượng ba lần nói:
-
Táo chỉ do đất bùn tạo ra. Thánh từ đâu đến? Linh từ
đâu ra? Sao dám hưởng thụ đồ sát sanh?
Lại
dùng gậy đập ba cái nữa, Táo liền rơi vỡ. Không lâu, có
một vị mặc áo xanh, đội mũ đến lạy hòa thượng. Hòa
thượng hỏi:
-
Ngươi là ai?
-
Đệ tử là Táo thần trong miếu, đã lâu bị nghiệp báo thọ
đồ sát sanh, nay mong ơn sư phụ nói pháp đã thoát ly được
chốn này và lên trời, cho nên đến để tạ ơn.
-
Đó là do tánh ngươi vốn có, không phải công lao của ta.
Nhưng
vị thần vẫn lễ ba lần rồi đi. Thị tăng hỏi rằng:
-
Chúng con theo hầu sư phụ đã lâu, chưa được thọ huấn,
vị thần này được bí quyết gì mà được lên trời?
-
Ta chỉ nói hắn do đất bùn tạo nên, cũng không có đạo
lý gì đặc biệt để bảo các ngươi.
Chúng
tăng im lặng, Hòa thượng nói:
-
Hiểu không?
Chúng
tăng đáp:
-
Không hiểu.
-
Tánh vốn có vì sao không hiểu?
Chúng
tăng bỗng nhiên đại ngộ, bèn lễ tạ.
Hòa
thượng cao hứng nói:
-
Rơi này, vỡ này!
(Thiền
Chi Hoa)
Táo
thần là do đất bùn tạo nên, khi bị đập vỡ dễ dàng hiểu
được đạo lý vật, ngã là một. Chúng sanh cũng tương tự
như vậy do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) và thần thức
gá vào mà thành. Hòa thượng nói “Rơi này, vỡ này!” chính
là xác nhận chư tăng đã hiểu “tứ đại không có, ngũ
uẩn đều không” vậy.
1085. Tâm bình thường là đạo.
Một
hôm Triệu Châu thỉnh giáo Nam Tuyền:
-
Thế nào là Đạo?
-
Tâm bình thường là Đạo.
-
Có phương pháp nào để cầu được?
-
Khi ngươi có niệm đầu “Cầu được” là đã sai rồi!
Triệu
Châu lại hỏi:
-
Nếu phong kín tất cả tâm niệm, làm sao đệ tử thấy được
Đạo?
-
Đạo không ở biết hay không biết; biết là vọng giác, không
biết là thằng ngốc. Nếu như ngươi chứng được Đại Đạo
thì thấy giống như Thái không làm sao thọ những quan niệm
ngoại tại, thị phi bó buộc?
Triệu
Châu nghe lời này lãnh ngộ được đạo lý “phi tri, phi bất
tri” hốt nhiên quán thông, chứng nhập thái hư tâm cảnh.
(Thiền
Chi Hoa)
Tâm
bình thường chính là vô tâm. Tâm bình thường không liên
quan gì đến sinh hoạt ý thức, nó thuần phác. Tâm bình thường
chính là trọng tâm của Thiền. Nhưng Nam Tuyền không cho chúng
ta biết làm thế nào để đạt Đạo. Ông chỉ cho biết khi
ngộ đạo rồi thì như thái không vô ngại. Chúng ta đều
có Phật tánh đầy khắp hư không pháp giới, chỉ vì nhất
thời bị mê hoặc điên đảo làm trở ngại Phật tánh hiển
lộ. Nếu y pháp tu học đuợc “vô tâm” thì sẽ chứng nhập
cảnh giới hư không.
1086. Ngồi 40 năm.
Phật
Quật Duy Tắc thiền sư người Trường An, sanh dưới triều
nhà Tống. Xuất gia từ nhỏ, tu hành ở Thiên Đài Sơn, Chiết
Giang. Nhặt lá lợp mái tạo một thảo am. Đói thì hái quả
rừng, khát thì uống nước suối. Một hôm có một ông tiều
đi ngang qua am thấy một vị lão tăng, lấy làm lạ hỏi:
-
Thầy sống ở đây bao lâu rồi?
-
Đại khái cũng 40 mùa đông rồi!
-
Thầy chỉ tu hành một mình sao?
Phật
Quật gật đầu:
-
Trong rừng sâu, một người cũng đã là nhiều, còn muốn nhiều
nữa làm gì?
-
Thầy còn có bằng hữu không?
Phật
Quật vỗ tay, có nhiều hổ báo từ sau am chạy ra. Tiều
phu hoảng sợ. Phật Quật nói đừng sợ, rồi bảo hổ
báo thối lui.
Phật
Quật bảo tiều phu:
-
Bạn hữu thì nhiều, sơn hà đại địa, cây cỏ hoa lá, dã
thú đều là bạn đạo.
Tiều
phu rất là cảm động, xin làm đệ tử.
-
Ngươi nay tuy là phàm phu nhưng là phi phàm phu, tuy là phi phàm
phu nhưng không làm hỏng pháp phàm phu.
Tiều
phu nghe rồi khế nhập. Từ đó những người mộ đạo
dần dần tìm đến, tạo thành phái thiền Phật Quật.
(Tinh
Vân Thiền Thọai)
Theo
thường thức thì 40 năm là một khoảng thời gian dài nhưng
đối vời Duy Tắc, người đã chứng ngộ thời gian vô tận
thì đó chỉ là một khoảng khắc. Người ngộ đạo
không thấy có sự sai biệt về thời không, ta người, động
tĩnh, chúng sanh Phật. Tuy là phàm phu nhưng lại phi phàm
phu. Ai ai cũng có Phật tánh, trong chân lý không có giả
danh Phật và chúng sanh thì làm gì có phân biệt phàm phu và
phi phàm phu? Tuy là phàm phu nhưng không làm hỏng pháp
phàm phu: người ngộ đạo không phá hoại vạn pháp mà
vượt lên vạn pháp.
1087. Tâm không được đậu.
Có
một lão thiền tăng, tham thiền hàng 60 năm mà vẫn chưa khai
ngộ; một hôm gập một vị pháp sư trẻ. Hai người nói chuyện
về Tứ thánh đế. Lão thiền tăng rất khâm phục pháp sư,
khẩn khoản xin pháp sư khai thị.
-
Chỉ cần thầy ngày ngày cung dưỡng thực phẩm ngon lành.
Ta nhất định chỉ cho thầy pháp môn chứng ngộ.
Lão
thiền sư lòng tha thiết cầu đạo nên hàng ngày đều cung
dưỡng pháp sư những thực phẩm ngon nhất.
Ít
lâu sau, lão thiền sư yêu cầu pháp sư chỉ thị vì tuổi
mình đã cao không còn thì giờ để chờ đợi nữa. Vị pháp
sư trẻ định đùa một phen bèn nói:
-
Được, thầy hãy theo ta!
Pháp
sư dẫn lão thiền tăng đến một căn phòng trống, chỉ một
góc phòng bảo lão thiền tăng quỳ xuống, lấy nhành dương
phẩy vào đầu:
-
Đây là quả Tu Đà Hoàn.
Lão
thiền tăng thành tâm, một niệm chẳng loạn ngay đó chứng
được sơ quả.
Pháp
sư lại bảo:
-
Tuy thầy được sơ quả nhưng hãy còn phải sanh tử 7 kiếp,
hãy đứng dậy đi ra góc khác.Lão thiền tăng ra góc khác qùy
xuống.
Pháp
sư lại lấy nhành dương phẩy vào đầu:
-
Đây là quả Tư Đà Hàm, hãy còn sanh tử; đứng dậy ra góc
khác.
Lão
thiền tăng lại ra góc khác quỳ xuống. Pháp sư lại lấy
nhành dương phẩy vào đầu:
-
Đây là quả A Na Hàm, quả không thối chuyển, nhưng ở sắc,
vô sắc giới còn thân hữu lậu, niệm niệm đều khổ. Hãy
đứng dậy đi ra góc khác.
Lão
thiền tăng lại đi ra góc khác quỳ xuống.Pháp sư lại lấy
nhành dương phẩy vào đầu:
-
Đây là quả A La Hán, đã tuyệt sanh tử. Tốt lắm!
Lão
thiền tăng lúc đó đã đắc quả A La Hán, vui vẻ vô cùng
hướng pháp sư đảnh lễ.
Pháp
sư mắc cỡ:
-
Ta chỉ rỡn thôi, thầy đừng cho là thật.
Lão
thiền tăng thành thật:
-
Lão tăng thực đã chứng quả A La Hán, không phải rỡn đâu!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Lão
thiền tăng thiền 60 năm chưa thể khai ngộ vì cơ duyên chưa
hợp. Pháp sư trẻ đùa rỡn là không phải, nhưng lại giúp
được cho lão thiền tăng. Thực là:
Cố ý trồng hoa, hoa chẳng nở.
Vô tâm cắm liễu, liễu xum xuê.
Lão
thiền tăng kiên trì tọa thiền 60 năm, có thể nói hành hữu
dư, lại đối với pháp sư cung kính cúng dường coi trọng
tuệ giải. Đó là hành, giải đều đều trọng nên sự khai
ngộ, chứng quả dễ như trở bàn tay.
1088. Sống vui.
Có
ba tín đồ mặt buồn rầu đến thỉnh giáo Vô Đức làm sao
sống vui.
-
Các ngươi trước hết hãy cho ta biết vì sao mà sống?
Tín
đồ 1:
-
Vì con không muốn chết.
Tín
đồ 2:
-
Vì con mong sau này con cháu đầy nhà.
Tín
đồ 3:
-
Già trẻ nhà con đều trông vào một tay con nuôi dưỡng.
Vô
Đức bảo:
-
Đương nhiên các ngươi không thấy vui chỉ vì sợ chết, do
bất đắc dĩ chịu trách nhiệm. Con người sống không trách
nhiệm, không lý tưởng không thể vui được.
-
Vậy chúng con phải làm sao mới sống vui?
-
Các ngươi nghĩ thế nào là sống vui?
Tín
đồ 1:
-
Con nghĩ có nhiều tiền là vui.
Tín
đồ 2:
-
Con nghĩ có tình yêu là vui.
Tín
đồ 3:
-
Con nghĩ có danh vọng là vui.
Vô
Đức không cho là phải:
-
Nếu các ngươi nghĩ như vậy thì vĩnh viễn không thấy sống
vui. Khi các ngươi có tiền bạc, tình yêu, danh vọng thì phiền
não, lo âu sẽ đến theo.
-
Vậy phải làm sao?
-
Các ngươi nên cải biến quan niệm. Có tiền nên bố thí;
có tình yêu nên dâng hiến, có danh vọng nên phục vụ đại
chúng thì sẽ thấy sống vui.
Các
tín đồ cuối cùng đã hiểu cách sống vui.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Cảnh
giới của Thiền là tự chủ, giải thoát, an tĩnh, vui vẻ.
1089. Bị người mượn mất rồi.
Hai
học tăng cùng sống ở một am, nhưng ít khi gập nhau. Một
hôm gập mặt, ông tăng trên gác hỏi ông tăng dưới nhà:
-
Nhiều ngày không gập, không biết ông bận gì?
-
Tôi bận tạo một tháp vô phùng.
Ông
tăng trên gác nghe rồi cả mừng:
-
Tôi đang định tạo tháp vô phùng, ông có thể cho coi hình
dạng ra sao không?
-
Thật không may, sao ông không nói sớm, tháp vô phùng của tôi
bị người ta mượn mất rồi.
-
Không quan hệ, chỉ cho tôi nhìn một cái!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Bản
tánh của chúng sanh là tháp vô phùng; trừ pháp tánh viên mãn
ra, làm gì còn vô phùng tháp nữa? Ông tăng dưới nhà biết
pháp thân là vô biên, do đó tạo một tháp vô phùng để cung
dưỡng pháp thân. Nhưng loại ngộ tánh này không mô phỏng
được, chỉ có thể chứng thôi. Do đó không cho mượn được,
học cũng không được, vì thế từ chối nói là bị người
mượn mất rồi. Nhưng mà bản tánh vốn không thể cho mượn
được, ông tăng trên gác liền hiểu ngay, tu hành chỉ
nhờ vào chính mình tự tu, tự tham; bắt chước chỉ giống
như con vẹt nhắc lại lời nói mà chẳng hiểu gì.
1090. Leo núi.
Động
Sơn hỏi Vân Cư:
-
Ngươi không ở thiền đường tu tập còn đi đâu?
-
Đi leo núi.
-
Leo núi nào?
-
Chẳng có ngọn nào để leo.
-
Ý ngươi là tất cả các núi đều bị ngươi leo hết sao?
-
Không phải vậy.
-
Vậy ngươi hãy tìm lối ra.
-
Không có lối ra!
-
Giả như không có lối ra làm sao cùng ta gập mặt?
-
Như quả có lối ra, vậy con cùng lão sư ở cách núi sao?
Không
lâu Động Sơn lại hỏi:
-
Ngươi đi đâu?
-
Đi leo núi.
-
Có leo tới đỉnh không?
-
Có.
-
Đỉnh núi có người không?
-
Không có!
Động
Sơn cười:
-
Cho thấy ngươi thật không leo núi.
-
Nếu con không leo, sao biết đỉnh núi không người?
-
Ngươi vì sao không tạm trú ở đó?
-
Con không định ở vì có người không cho.
Động
Sơn cười ha hả:
-
Ta từ sớm đã nghi ngươi leo núi đó.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Lời
đáp của Vân Cư rõ là mâu thuẫn: lúc thì nói là đỉnh núi
không người, lúc thì lại nói người ở đó không cho ở.
Sự thực là không mâu thuẫn. Đỉnh ngũ uẩn sơn có chân
ngã thường tại không? Dưới con mắt người thường Hữu
và Vô là 2 nhưng dưới mắt thiền giả thì chỉ là 1 thể
2 mặt. Có thể điều hoà Hữu và Vô để nhận thức Trung
Đạo thì đó là trí tuệ của nhà Thiền vậy.
1091. Nhổ đàm.
Mã
Tổ Đạo Nhất có một lần ngồi thiền, nhịn không được
nhổ một bãi đàm trên tượng Phật. Thị giả thấy vậy
cho là không đúng vội hỏi:
-
Lão sư, sao thầy lại nhổ đàm lên tượng Phật?
Đạo
Nhất húng hắng 2 tiếng hỏi lại thị giả:
-
Trong hư không, chỗ nào cũng là pháp thân Phật, ta hiện đang
muốn nhổ, ngươi hãy bảo ta nhổ vào đâu?
Thị
giả không biết trả lời làm sao.
Một
lần khác Đạo Nhất vẻ mặt khó coi, nhổ đàm vào khoảng
không. Thị giả lại thắc mắc:
-
Lão sư, sao nhổ đàm mà lại giận dữ vậy?
-
Ta ngồi thiền tại đây, trong hư không sơn hà đại địa,
sâm la vạn tượng đều hiển hiện trước mắt làm phiền
ta; do đó ta nhịn không được phải nhổ.
-
Đó là cảnh giới tu chứng, có thể coi là chuyện tốt đẹp,
sao thầy lại cảm thấy phiền?
-
Như ngươi nói cố nhiên là chuyện tốt, nhưng đối với ta
lại là phiền.
-
Đó là cảnh giới gì vậy?
-
Cảnh giới bồ tát.
Thị
giả nhíu mày lắc đầu:
-
Loại cảnh giới này thực khiến người ta khó mà hiểu được!
-
Vì ngươi là người, không phải là bồ tát.
-
Bồ tát chẳng phải được gọi là giác hữu tình sao?
-
Vì ngươi là một tên ngu xuẩn bất giác làm sao có thể xưng
là giác hữu tình?
Thị
giả cuối cùng thể ngộ.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Nhiều
người tôn kính Phật, nhưng không hiểu rõ Phật. Vì pháp
thân Phật ở khắp hư không, tràn đầy pháp giới. Mã Tổ
nhổ đàm trên tượng Phật biểu thị ông nhận biết pháp
thân không đâu không có. Nhiều người khi ngồi thiền đều
hoan hỉ khi thấy những cảnh lành, làm tăng thêm lòng tin,
nhưng Mã Tổ lại thấy phiền chỉ rằng ông đã diệt trừ
mọi sai biệt của các hiện tượng trong vũ trụ mà quay về
bình đẳng, trừ bỏ nhân ngã mà quay về cái một. Thị giả
chấp vào thường kiến chẳng trách gì bị gọi là tên ngu
xuẩn bất giác.
1092. Đi đâu?
Động
Sơn một hôm đi thăm một học tăng bị bệnh nặng là Đức
Chiếu. Đức Chiếu thỉnh thị:
-
Lão sư, sao thầy không từ bi cứu độ một đệ tử chân
tâm học đạo để hắn bất minh, bất giác chết sao?
-
Ngươi là đệ tử nhà nào?
-
Đệ tử Đại Diêm Đề (người không Phật tánh)
Động
Sơn không nói, 2 mắt chăm chú nhìn Đức Chiếu. Đức Chiếu
nóng ruột:
-
Bốn bề là núi áp bức, lão sư! Con phải làm sao?
-
Lúc trước, ta cũng từ dưới mái hiên nhà ngươi mà tới.
-
Nếu là vậy, con cùng lão sư tương ngộ dưới mái hiên. Xin
hỏi con và thầy cùng tránh né hay không tránh né?
-
Cùng không tránh né.
-
Không tránh né, vậy thầy bảo con đi đâu?
-
Ngũ thú, lục đạo, thập pháp giới, đâu cũng là đường
việc gì phải lo. Nếu ngươi không yên lòng thì ra ruộng mà
trồng lúa tẻ.
-
Lão sư, thỉnh thầy bảo trọng!
Nói
rồi, sửa lại dáng ngồi mà nhập diệt.
Động
Sơn dùng thiền trượng gõ 3 lần trước mặt Đức Chiếu:
-
Ngươi tuy có thể đi như vậy, nhưng không thể về như vậy.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Đức
Chiếu thế duyên đã tận, bệnh nặng nằm trên giường nhưng
vẫn không quên tìm đường ra khỏi sanh tử. Động Sơn chỉ
thị ông chỗ nào cũng là đường, nhưng đường nào là chánh,
không phải ai cũng đạt được. Ra ruộng trồng lúa. Đó là
khóa đề mà người tu phải chú ý. Đức Chiếu an tâm nhập
diệt biểu thị ông đã tìm được đường ra. Nhưng Động
Sơn nói Đức Chiếu có thể ra nhưng không thể quay lại. Nếu
muốn đến đi tự như không phải là một chuyện dễ.
1093. Không mồm nói pháp.
Học
tăng Đạo Niệm xuất gia khoảng 10 năm, đi tham học các nơi
mà vẫn chưa khai ngộ. Một hôm thỉnh thị Thạch Lâu:
-
Con chưa biết bản tánh, xin thầy phương tiện chỉ thị.
-
Thạch Lâu không mồm.
-
Học tăng chí thành, rửa tai cung kính mà nghe.
-
Ngươi nghe gì?
-
Học tăng tự biết tội nghiệp thâm trọng.
-
Lão tăng, tội cũng không thiếu.
-
Thầy lỗi ở chỗ nào?
-
Lỗi ở chỗ không ngươi.
-
Có thể sám hối không?
-
Tội nghiệp vốn không. Do tâm tạo, tâm diệt tội cũng mất.
Đạo
Niệm lạy, Thạch Lâu bèn đánh, đánh rồi hỏi:
-
Gần đây, ngươi lìa chốn nào mà đến đây?
-
Lương, Đường, Tấn, Hán, Châu đều hành cước.
-
Các chủ nhân ấy có trọng Phật pháp không?
-
Rất may thiền sư hỏi con, nếu hỏi người khác thì đã mang
họa rồi!
-
Vì sao?
-
Vì các vua đó không thích người ta hoài nghi.
-
Người còn không gập, còn có Phật pháp nào để trọng?
-
Xin thầy chỉ cho con làm sao trọng Phật pháp?
-
Ngươi thọ giới bao lâu rồi?
-
Hơn 10 năm.
-
Hơn 10 năm rồi mà chưa biết trọng pháp, hôm nay hỏi ta, miệng
ta làm sao nói rõ, tai ngươi làm sao nghe hiểu?
Đạo
Niệm ngay đó khai ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Trong
Thiền môn tham học hàng 10 năm mà chẳng được gì, cơ duyên
đến lại chẳng phí chút công phu. Thạch Lâu nói không mồm
là chỉ thiền vốn không lời. Đạo Niệm rửa tai cung kính
nghe là chưa nhập tâm. Vì sao? Đạo Niệm thọ giới 10 năm
mà vẫn chưa biết trọng pháp, Thạch Lâu bèn chỉ cho. Do đó
nhiều năm bị mây che, một khi gạt đi liền được gọi là
nhập tâm.
1094. Chém đầu.
Có
một lần Long Nha bảo Đức Sơn:
-
Giả như trong tay ta hiện giờ có một thanh bảo kiếm sắc
bén không gì đối địch được, định chém đầu ngươi,
không biết ngươi nghĩ sao?
Đức
Sơn bước lên vài bước, vươn cổ ra:
-
Ngươi chém đi.
Long
Nha cười ha hả:
-
Đầu ngươi đã rơi xuống đất rồi!
Đức
Sơn cũng cười ha hả:
-
Đầu ta đã rơi xuống đất rồi!
Về
sau Long Nha tham học với Động Sơn có kể lại chuyện này.
Động Sơn hỏi:
-
Lúc đó Đức Sơn nói gì?
-
Đức Sơn cũng cười ha hả và nói đầu đã bị chém rồi.
-
Ngươi không thể nói Đức Sơn bị chém đầu mà sự thực
thì đầu ngươi mới bị chém.
-
Lão sư, đầu con còn ở đây, chưa bị Đức Sơn chém.
Động
Sơn cười ha hả:
-
Đức Sơn chém đầu ngươi, ngươi tự bưng lại ta xem.
Long
Nha nghe rồi như thấy núi lở, trời xụp, lúc đó mới chính
thức đại ngộ.
(Tinh
Vân Thiền ThoạI)
Long
Nha mới đầu có ý chém đầu Đức Sơn, đó là từ tự ngã
xuất phát. Động Sơn đề tỉnh Long Nha tự chém đầu mình
đoạn
trừ
chấp ngã. Đó là nhà thiền dùng “không” mọi sở hữu
nhưng không phủ định sở hữu, dùng chủ khách đối đãi
là một mà quán sát. Do đó đạt được Trung Đạo.
1095. Thuyết pháp.
Đời
Đường, Văn Tông hoàng đế rất thích ăn nghêu, vì vậy dân
chúng vùng duyên hải thường bắt nghêu để tiến cống triều
đình. Có một lần ngự trù khi đang nấu nướng, cậy vỏ
nghêu ra thì thấy nghêu có hình tượng Bồ Tát Quán Âm rất
trang nghiêm. Văn Tông sai đặt nghêu vào hộp báu, cung phụng
tại Hưng Thiên Tự. Chuyện ly kỳ như vậy nên khi thiết trào,
Văn Tông hỏi quần thần:
-
Chư khanh có ai biết trong nghêu có thánh tượng là điềm gì
không?
Một
vị đại thần tâu:
-
Đây là chuyện siêu phàm nhập thánh, người thường khó biết,
thánh thượng nếu muốn biết thì xin mời thiền sư Dược
Sơn, là người thâm hiểu Phật pháp, học rộng hiểu nhiều
mà hỏi.
Khi
tới cung Dược Sư thưa:
-
Đây là Bồ tát hiện thân thuyết pháp, vì hoàng thượng mà
thuyết pháp.
-
Bồ tát tuy hiện thân, sao trẫm không nghe thuyết pháp?
-
Bệ hạ thấy trong nghêu có Quán Âm thánh tượng, có khiến
bệ hạ có tín tâm không?
-
Vì chính mắt thấy, đương nhiên trẫm tin.
-
Bệ hạ đã khởi lòng tin, đó là Quán Âm đã thuyết pháp
rồi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Dược
Sơn thuyết pháp cho Đường Văn Tông thật là khéo. Loại trí
tuệ này là do thiền tâm mà ra. Nếu đã được thiền tâm
thì những lời nói ra đều là diệu đế. Một ngọn cỏ,
một mùi hương đều là Đạo, dương liễu xanh um, hoa vàng
bát ngát đều là Pháp thân Phật, những tiếng thủy triều,
những tiếng suối nước róc rách đều là tiếng chư Phật
thuyết pháp đâu cần Quán Âm hiện thân thuyết pháp.
1096. Nghe và không nghe.
Thanh
Lâm lúc mới đến tham Động Sơn, Động Sơn hỏi:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Võ Lăng.
-
Phật pháp của Võ Lăng và của ta ở đây có gì khác biệt
gì không?
-
Như hoa nở rộ trên cát đá hoang vu.
Động
Sơn bảo đệ tử:
-
Hãy soạn bữa cơm rau đặc biệt cung dưỡng người này.
Thanh
Lâm nghe rồi phất tay áo để đi.
-
Ngươi định đi đâu?
-
Mặt trời không thể ẩn tàng không cho người thấy.
Động
Sơn ấn khả:
-
Ngươi hãy bảo trọng.
Rồi
Động Sơn tiễn Thanh Lâm ra tận cửa, lúc chia tay lại bảo:
-
Ngươi có thể nói một câu tâm tình về lần viễn du này
không?
-
Từng bước đạp hồng trần, thân không hình tượng.
Động
Sơn trầm tư khá lâu, Thanh Lâm hỏi:
-
Lão sư vì sao không nói chuyện?
-
Ta nói với ngươi rất nhiều, sao lại vu cho ta là không nói?
Thanh
Lâm quỳ xuống thưa:
-
Những lời thầy nói con không nghe được; những lời thầy
không nói con lại nghe được.
Động
Sơn đỡ Thanh Lâm dậy:
-
Ngươi đi đi, hãy đến nơi không nói, không biểu thị.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Lời
nói của các thiền sư rất thận trọng, họ không nói hoang
đường. Người nói không nghe được, người không nói lại
nghe được. Đây là cảnh giới thiền phi thường, chỉ rằng
ông đã nghe được Pháp âm vậy.
1097. Một được, một mất.
Nam
Tuyền bảo một học tăng:
-
Đêm tối, gió mạnh?
Học
tăng nhắc lại:
-
Đêm tối, gió mạnh?
-
Thổi gẫy một cành tùng.
Học
tăng nhắc lại:
-
Thổi gẫy, một cành tùng.
Nam
Tuyền hỏi thị giả:
-
Đêm tối, gió mạnh?
-
Là gió gì?
-
Thổi gẫy một cành tùng
-
Là cành tùng nào?
Nam
Tuyền cảm xúc than:
-
Một được, một mất!
Lại
hỏi học tăng:
-
Tương lai ngươi định làm gì?
-
Không làm gì?
-
Nên vì chúng sanh làm trâu, làm ngựa.
Nam
Tuyền quay lại hỏi thị giả cùng câu hỏi, thị giả thưa:
-
Muốn làm một người như lão sư.
-
Nên vì chúng sanh làm trâu, làm ngựa.
-
Vì sao nên vì chúng sanh làm trâu, làm ngựa?
-
Thực là một được, một mất.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Học
tăng là ông tăng mới nhập môn, thị giả là môn ngoại thị
giả. 2 người trên thiền ngữ nông sâu, chỉ nghe câu đáp
là biết.
1098. Phi lai Phật.
Chùa
Thê Hà ở núi Thê Hà (Nam Kinh) là nơi thánh địa thời Lục
Triều, là nơi có cả ngàn tượng Phật được điêu khắc
vào núi. Trên chót đỉnh có một pho tượng không ai đến
chùa mà không ngước mắt nhìn. Năm Dân quốc 30, có một tín
đồ tham quan Thê Hà sơn, nhìn tượng Phật trên chót đỉnh
núi hỏi vị hướng dẫn là thiền sư Trác Thành:
-
Lão thiền sư, tượng Phật này tên là gì?
-
Phi Lai Phật.
(Ý
của lão thiền sư là đỉnh núi này rất cao, người ta không
thể nào trèo lên đó mà khắc; tượng này là từ nơi khác
đem tới.)
Tín
đồ nghe vậy rất hiếu kỳ, lại hỏi:
-
Nếu đã bay tới, tại sao lại không bay đi?
-
Động chẳng bằng tĩnh.
-
Tại sao lại tĩnh ở chỗ này?
-
Đã tới thì yên.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
sư Trác Thành tùy ý trả lời đã khai thị cho chúng ta rất
nhiều. “Động chẳng bằng tĩnh” là cảnh giới đẹp đẽ
biết bao. “Đã tới thì yên” là khẳng định sinh hoạt.
Con người trong thế giới động không có một khắc ninh tĩnh,
ngay cả khi ngủ ý thức cũng hoạt động thành mộng mị.
Cảnh giới tĩnh mới rộng lớn, bình đẳng, sinh hoạt trong
tĩnh mới an tường. Do đó, tham thiền giống như Phi Lai Phật
khải thị “Động chẳng bằng tĩnh”; “Đã tới thì yên”.
Lời đáp của Trác Thành chính là diệu dụng của thiền vậy.
1099. Biến và không biến.
Dưới
thời Đường Võ Tông hủy diệt Phật giáo, Nham Đầu có may
sẵn một bộ thường phục để dành khi cần dùng đến. Không
lâu thánh chỉ truyền xuống cưỡng bách tăng ni hoàn tục.
Các vị cao tăng có danh vọng còn bị bắt bớ. Nham Đầu đi
tỵ nạn, mặc thường phục vào trú ở Phật đường một
ni cô tu tại gia. Lúc đó ni cô đang dùng bữa ở phòng ăn.
Nham Đầu chạy vào bếp lấy một bát cơm và ăn.Có một đạo
đồng trông thấy mách với sư nương. Sư cô cầm gậy chạy
vào giả bộ đánh:
-
Úy! thì ra là thiền sư Nham Đầu, vì sao biến hình vậy?
-
Hình có thể biến, nhưng tánh không biến.
Về
sau, Đại Ngạn lúc mới đến Nham Đầu, gập lúc Nham Đầu
đang nhổ cỏ ở trước cửa. Đại Ngạn đến đứng trước
mặt Nham Đầu, tay gõ vào nón hỏi:
-
Thầy còn nhớ con không?
Nham
Đầu giơ một nắm cỏ lên:
-
Thế gian biến hóa vô thường, ta không nhớ.
Đại
Ngạn không chịu nhượng bộ:
-
Thế gian vô thường, nhưng pháp tánh vĩnh hằng làm sao không
nhận ra?
Nham
Đầu nghe xong thoi cho 3 cái, Đại Ngạn vào tăng đường. Nham
Đầu bảo:
-
Đã hàn huyên rồi, không cần phải vào tăng đường.
Đại
Ngạn lập tức quay mình trở về.
Ngày
hôm sau, ăn cháo xong, Đại Ngạn lại vào tăng đường,
vừa
tới cửa bị Nham Đầu từ pháp tọa nhẩy xuống nắm
lấy ngực:
-
Ngươi nói mau! Bất biến ở đâu?
Đại
Ngạn cũng nắm lấy Nham Đầu:
-
Trong nhà sư cô, hình có thể biến nhưng tánh không biến.
Hai
người cùng cười ha hả.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Tất
cả mọi pháp ở thế gian có hình tướng thì có sanh diệt,
biến đổi nhưng pháp tánh thì không. Tỷ như thế giới thì
thành, trụ, hoại, không; con người thì sanh, lão, bệnh, tử;
tâm thì sanh, trụ, dị, diệt. Chỉ có bản tánh của chư pháp
tức khuôn mặt xưa nay của chúng ta là bất biến. Nham Đầu
vì bạo chánh mà phải thay hình đổi dạng, nhưng tâm
tánh không đổi; giống như vàng có thể dùng làm nhẫn, hoa
tai, vòng kiềng v. v. nhưng vàng vẫn là vàng không đổi.
Con người bị trôi chẩy trong ngũ thú nhưng bản tánh thì
bất biến.
1100. Không có thời gian già.
Đại
Trí là đệ tử Phật Quang, đi tham học 20 năm mới trở lại,
tường thuật cho thầy nghe những gì đã nghe và thấy. Phật
Quang tươi cười lắng nghe để ủy lạo. Cuối cùng Đại
Trí hỏi:
-
Lão sư, 20 năm qua thầy vẫn mạnh chứ?
-
Vẫn mạnh! giảng học, thuyết pháp, trước tác, chép kinh
mỗi ngày tại biển pháp dong duổi. Trên đời này không sinh
hoạt nào vui hơn.
Đại
Trí quan tâm:
-
Lão sư, thầy nên dành chút thì giờ để nghỉ ngơi.
Đêm
khuya, Phật Quang bảo Đại Trí:
-
Ngươi đi nghỉ đi, có chuyện gì từ từ sẽ nói sau.
Mới
sáng sớm. Đại Trí còn mơ màng đã nghe thấy tiếng tụng
kinh gõ mõ trong phòng Phật Quang. Trời sáng rõ, Phật Quang
lại khai thị cho các tín đồ đến lễ Phật, về tăng đường
lại chỉ bảo cho học tăng, cả ngày bận rộn không hết
chuyện.
Rình
được lúc không có ai hỏi han, Đại trí hỏi:
-
Lão sư, 20 năm qua ngày nào thầy cũng bận rộn, thầy không
cảm thấy già sao?
-
Ta không có thời gian cảm thấy già.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Ở
đời có nhiều người còn trẻ nhưng tâm đã già, lại có
người đã già nhưng tâm còn trẻ. “Không có thời gian già”
thực ra là chỉ tâm không già. Có ông lão đầu bạc trắng,
có người hỏi tuổi, trả lời 4 tuổi. Mọi người kinh ngạc,
ông lão nói:
-70
năm qua đều vì chính mình, sống vị kỷ tự tư tự lợi
hầu như không ý nghĩa, chỉ 4 năm gần đây mới vì xã hội
phục vụ mọi người, cảm thấy có ý nghĩa do đó mới nói
4 tuổi.
1101. Khẳng định tự kỷ.
Quy
Sơn đang ngồi thiền, đệ tử là Ngưỡng Sơn chạy lại,
Quy Sơn bảo:
-
Úy, ngươi hãy nói mau, đừng đợi chết rồi muốn nói cũng
không được.
-
Con ngay tín ngưỡng cũng chẳng muốn, còn nói gì nói với
chẳng nói.
-
Ngươi không tin rồi mới chẳng muốn hay vì không tin mà không
muốn?
-
Trừ con ra còn gi đáng tin nữa?
-
Nói vậy thì ngươi chỉ là một người nghiên cứu tiểu thừa.
-
Tiểu thừa thì tiểu thừa, ngay cả Phật cũng không muốn
thấy.
-
40 cuốn kinh Nát Bàn, có bao nhiêu là lời Phật nói, bao nhiêu
là ma nói? Và những lời ngươi vừa nói là giống Phật hay
giống ma?
-
Toàn là ma nói.
Quy
Sơn vui vẻ gật đầu.
-
Sau này không ai làm phiền ngươi nữa.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Khẳng
định chính mình là một bài học lớn cho người tu thiền.
Thế gian có nhiều yếu tố làm thay đổi con người: tiền
bạc, cảm tình, tư tưởng, quyền lực. ngày nay, thiền của
Ngưỡng Sơn siêu việt tín ngưỡng, đối đãi. “Tất cả
đều là ma nói.” là khẳng định chính mình, thì còn ai làm
phiền được ông nữa.
1102. Ta còn có ngươi.
Thiền
sư Phật Quang lãnh đạo Truyền Đăng tự, đồ chúng tham học
rất đông. Một hôm Phật Quang giảng pháp xong, ông tăng 1
thưa:
-
Lão sư, sanh tử là việc lớn, muốn thoát sanh tử, chỉ có
niệm Phật vãng sanh tịnh độ, nên đệ tử định đến Linh
Nham Niệm Phật đạo trường để học pháp môn niệm Phật.
Thiền
sư vui vẻ bảo:
-
Tốt lắm, ngươi đi học pháp môn Niệm Phật về có thể
khiến chỗ này tiếng niệm Phật không dứt, khiến đạo trường
chúng ta thành Liên Hoa thế giới.
Ông
tăng 2 đứng dậy thưa:
-
Giới trụ tức pháp trụ. Phật môn không gì trọng yếu bằng
giới luật, vì vậy con định đến Bảo Hoa sơn giới đường
học luật.
-
Tốt lắm! ngươi học luật trở về sẽ khiến đạo trường
của chúng ta mọi người đều có 3 ngàn uy nghi, 8 vạn tế
hạnh, thành một tăng đoàn hòa hợp.
Ông
tăng 3 thưa:
-
Học đạo chẳng gì bằng tự thân thành tựu, con nghĩ đi
nghĩ lại nên mau đi Tây Tạng học mật.
-
Tốt lắm! Mật tông giảng cứu tức tâm thành Phật, ngươi
học mật trở lại đây chúng ta nhất định nhiều người
sẽ thành tựu thân kim cương bất hoại.
Thị
giả đứng bên bất mãn thưa:
-
Lão sư, thầy là một vị thiền sư đương đại. Thiền là
do Đức Phật lấy tâm truyền tâm, thành Phật tác tổ, không
gì quan trọng hơn. Các ông tăng trên nên lưu lại học thiền
với thầy, chờ được trực chỉ nhân tâm, minh tâm kiến
tánh mới phải, cớ sao thầy lại để họ đi?
Phật
Quang cười ha hả:
-
Ta còn có ngươi!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Người
trẻ thường khó chuyên tâm vào một pháp môn, đều đứng
núi này trông núi nọ. Câu nói của Phật Quang “Ta còn có
ngươi!” khiến cuối cùng thị giả hiểu rõ tấm lòng thiền
sư.
1103. Giáo dục.
Có
một tín đồ, lễ Phật xong, đến hoa viên tản bộ, thấy
viên đầu (ông tăng coi vườn) đang sửa sang cây cỏ. Hoặc
cắt cành, hoặc nhổ cả rễ cắm sang chậu khác. Cây khô
thì tưới nhiều nước, săn sóc chu đáo. Tín đồ thắc mắc:
-
Vì sao cây mọc tốt thầy lại cắt lá? Cây khô héo lại tưới
nước? Lại nhổ cây từ chậu này đưa sang chậu khác?
-
Trồng cây cỏ cũng như giáo dục con cái, người sao thì cây
cỏ cũng vậy.
-
Hoa cỏ sao giống người được?
-
Săn sóc hoa cỏ thì đối với cây mọc xum xuê, sinh trưởng
thác loạn phải cắt bớt cành, tỉa bớt lá khiến nó không
phí phạm sinh lực, tương lai sẽ phát dục tốt. Tương tự
như những người trẻ phải bỏ đi ác tập mà đi vào đường
chính, thứ 2 nhổ cây trồng sang chậu khác là khiến cây từ
đất xấu sang đất tốt, giống như khiến người trẻ lìa
bỏ hoàn cảnh xấu đến gần gũi thầy hay bạn tốt; thứ
3 tưới các cây khô, thực ra những cây này có vẻ như đã
chết, nhưng sinh cơ vẫn còn. Đối với con cháu xấu không
thể không cứu; phải biết con người bản tính vốn lành,
chỉ cần có tâm giúp đỡ thì sẽ được. Sới đất là trong
đất có những hạt chờ được nẩy mầm, cũng như những
học sinh nghèo khổ nhưng có tâm hướng thượng chỉ cần
trợ giúp là có thể thành công.
Tín
đồ nghe lời rất vui vẻ:
-
Cảm ơn thầy đã cho một bài học giáo dục rất hay.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Kinh
Nát Bàn nói:” tình và vô tình cùng viên cảnh trí” Trên
thế gian này không có sanh mạng nào là không cứu được,
không có người nào là không thể dạy. Cổng chùa thường
có tượng Phật cười toe toét dụng ý dùng từ bi (ái) nhiếp
thọ, phía sau có tượng Vi Đà cầm gậy hàng ma ý là dùng
uy võ (lực) chiết phục. Cha mẹ, sư trưởng một mặt dùng
từ ái, một mặt dùng uy võ, con cháu không thể không thành
tài.
1104. Thiện tri thức.
Hạo
Nguyệt có lần hỏi Triệu Châu:
-
Khắp thiên hạ các vị thiện tri thức chứng hay không chứng
Nát Bàn?
-
Đại đức hỏi quả Nát Bàn hay nhân Nát Bàn?
-
Quả Nát Bàn.
-
Chưa chứng.
-
Vì sao?
-
Vì công phu chưa bằng chư thánh.
-
Công phu chưa bằng chư thánh sao gọi là thiện tri thức?
-
Minh tâm kiến tánh, ngộ nhập Phật Tri Kiến mới được gọi
là thiện tri thức.
-
Không biết công phu thế nào mới chứng đại Nát bàn?
Triệu
Châu đọc bài kệ:
麻
訶 般 若 照
Ma
ha bát nhã chiếu
涅
槃 解 脫 珐
Niết
bàn giải thóat pháp
欲
識 功 齊 處
Dục
thức công tế xứ
此
名 常 寂 光
Thử
danh thường tịch quang
Ma ha Bát Nhã chiếu
Pháp giải thoát Nát Bàn
Muốn
biết chỗ tất yếu
Danh gọi thường tịch quang.
-
Quả Nát Bàn đã biết, mong được khai thị nhân Nát Bàn.
-
Chính là Đại đức!
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Người
học lúc chưa kiến tánh, không thể lìa thiện tri thức vì
Đức Phật từng nói thân cận thiện tri thức là điều kiện
tất yếu để chứng ngộ. Thời mạt pháp muốn cầu toàn
đức (quả Nát Bàn) thật không dễ, theo như Phật pháp thấy
người cao hơn mình đều nên gần gũi, tùy thuận cung kính.
1105. Khóa trình.
Học
tăng Nguyên Trì tham học nơi Vô Đức. Dù rằng rất chăm chỉ
cố gắng, nhưng đối với thiền pháp vẫn chưa thể ngộ.
Một lần, trong buổi tham thiền Nguyên Trì hỏi Vô Đức:
-
Con vào nghiệp lâm đã lâu mà vẫn chưa liễu ngộ; xin thầy
chỉ thị hàng ngày ngoài tu trì, làm việc còn có khóa trình
nào phải tu?
-
Ngươi phải lo chăm sóc 2 con thứu, 2 con nai, 2 con ưng, ước
thúc một con trùng trong miệng, 1 con gấu và chăm sóc một
bệnh nhân. Nếu ngươi làm tròn bổn phận thì nhất định
sẽ giúp ích cho ngươi rất nhiều.
Nguyên
Trì không hiểu, hỏi lại:
-
Thưa thầy, con tới đây tham học một mình đâu có dẫn theo
1 con vật nào đâu mà chăm sóc? Hơn nữa con hỏi là hỏi khóa
trình phải tu đối với những con vật này nào có quan hệ
gì?
Vô
Đức mỉm cười:
-
Ta nói 2 con thứu là 2 mắt, những gì phi lễ đừng nhìn; 2
con nai là bảo ngươi coi chừng 2 chân đừng để chúng chạy
loạn vào đường ác, đường phi lễ đừng đi; 2 con ưng là
2 tay ngươi khiến chúng phải làm việc tròn trách nhiệm, phi
lễ không được động; một con trùng trong miệng là nói lưỡi
ngươi, những gì phi lễ không được nói. Một con gấu là
tâm ngươi, những gì phi lễ không được tưởng; một bệnh
nhân là thân ngươi, hy vọng ngươi không rơi vào tội ác.
Ta nghĩ rằng đó là khóa trình phải tu vậy.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Trong
kinh Phật thường nói 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)
giống như 1 làng không có người ở, bị bọn thổ phỉ chiếm
cứ, hàng ngày chúng liên kết với 6 trần làm ác, tạo nghiệp.
6 căn này giống như 6 con thú, nếu biết cách quản thúc chúng
khiến cho những gì phi lễ đừng nhìn, đừng nghe, đừng làm
thì đó là Phật và Nho dung hợp vậy.
1106. Chẳng giữ tâm bình thường.
Một
học tăng đến pháp đường thỉnh thị thiền sư:
-
Thiền sư! Con thường niệm kinh, ngồi thiền, tự nghĩ trong
đồng môn không có người nào dụng công hơn, nhưng vì sao
vẫn chưa khai ngộ?
Thiền
sư đưa ra một hồ lô và một nhúm muối bảo:
-
Ngươi hãy lấy hồ lô đổ đầy nước, sau đó đổ muối
vào, nếu muối tan ngay ngươi lập tức khai ngộ.
Ông
tăng làm theo lời, một lúc sau chạy vào hỏi:
-
Miệng hồ lô nhỏ, con bỏ muối vào nó không tan, cho đũa
vào để khuấy cũng không được; con không có cách gì khai
ngộ.
Thiền
sư dốc nước trong hồ lô ra, chỉ để lại một phần, sau
đó bỏ muối vào lắc, muối liền tan ngay:
-
Ngươi từ sáng đến tối dụng công, không có lúc nào để
tâm bình thường cũng như hồ lô đầy nước, lắc không được,
khuấy cũng không được, làm sao muối tan? làm sao khai ngộ?
-
Chẳng lẽ không dụng công lại có thể khai ngộ sao?
-
Tu hành giống như đánh đàn: dây căng quá thì đứt, dây chùng
quá thì đàn không ra tiếng, chỉ có Trung Đạo mới ngộ đạo
được.
Học
tăng cuối cùng lãnh ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Ở
thế gian, chấp trước không thể tiến bộ được. Đọc sách
chết không biết sử dụng thì chẳng có lợi gì. Hãy để
ra một chút thời gian tư khảo, chẳng gấp cũng chẳng khoan.
Đó chính là cửa vào Đạo vậy.
1107. Không cầu gì cả.
Đời
Tống, thiền sư Tuyết Đậu gập học sĩ Tăng Hội ở bờ
sông Hoài. Tăng Hội hỏi:
-
Thiền sư định đi đâu?
-
Không nhất định, hoặc đến Tiền Đường hoặc đến Thiên
Thai.
Tăng
Hội đề nghị:
-
Vị trụ trì Linh Ẩn Tự là San thiền sư có quen biết chúng
tôi, chúng tôi xin viết một thư giới thiệu thầy, chắc chắn
sẽ được chiêu đãi tốt.
Tuyết
Đậu đến Linh Ẩn Tự cũng không mang thư giới thiệu trình
cho trụ trì, lẳng lặng sống cùng đại chúng. Ba năm sau Tăng
Hội phụng chỉ tới Chiết Giang, bèn đến Linh Ẩn Tự tìm
Tuyết Đậu. Các ông tăng không biết có Tuyết Đậu trong
chùa hay không. Tăng Hội không tin, tự mình đến chỗ các
ông vân thủy tăng, tìm trong hơn ngàn người thấy Tuyết Đậu,
bèn hỏi:
-
Tại sao thầy không đến gập trụ trì? Chẳng lẽ thầy đã
vất thư tôi giới thiệu đi rồi?
-
Không dám! Không dám! Vì tôi chỉ là một vân thủy tăng, không
cần gì cả cho nên không dám dùng thư của ông.
Rồi
đó lấy thư giới thiệu từ trong tay áo ra, giao trả Tăng
Hội. Hai người cùng cười ha hả. Tăng Hội bèn dẫn Tuyết
đậu vào giới thiệu với San thiền sư. San thiền sư rất
thưởng thức Tuyết Đậu. Về sau, khi Giang Tô Thúy Phong Tự
thiếu trụ trì bèn suy cử Tuyết Đậu.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Xã
hội ngày nay muốn cần một chức nhỏ cũng cần nhờ vả
quan hệ. Tuyết Đậu có thư giới thiệu để tiến thân mà
không dùng. Người học Đạo chỉ cần tinh cần tu học, một
ngày nào đó quả chín, cuống tự rụng, rồng hiện trên trời.
1108. Tang lễ.
Tùng
Vân sau khi xuất gia học thiền, nhớ đến mẹ già không người
coi sóc, bèn tự mình dựng một tòa thiền xá, dẫn mẹ tới
cùng ở.
Hàng
ngày trừ lúc tham thiền, còn thì chép kinh để kiếm tiền
tiêu pha. Có lúc đi chợ mua ít cá thịt cung dưỡng mẹ. người
đi đường đều chỉ trích ông là loại thầy chùa rượu
thịt. Tùng Vân không giải thích vì ông không để ý đến
những lời tán gẫu. Nhưng mẹ ông thì không chịu đuợc những
lời chỉ trích nên cũng ăn chay luôn.
Một
hôm, một cô tiểu thư xinh đẹp gập ông trên đường, bị
nghi biểu trang nghiêm của ông làm cảm động; mời ông về
nhà thuyết pháp. Tùng Vân không từ chối, nhận rằng thuyết
pháp là một chuyện tốt. Nhưng về sau nhiều người bàn tán.
Có người nói chính mắt thấy ông đến kỹ viện chơi gái.
Lân cư bèn phá hủy thiền xá, đuổi ông đi. Tùng Vân bất
đắc dĩ phải nhờ người nuôi hộ mẹ, còn mình thỉ đi
vân du.
Hơn
năm sau, mẹ ông nhớ con mang bệnh rồi mất. Người làng không
biết ông ở đâu, đành để quàn chờ ông về sẽ an táng
sau.
Không
lâu, Tùng Vân trở về. Đứng trước quan tài rất lâu, rồi
dùng gậy gõ vào quan tài:
-
Mẹ ơi con đã về đây.
Lại
bắt chước giọng mẹ:
-
Tùng Vân, thấy con hoàn thành Thiền đạo trở về, mẹ rất
vui.
-
Dạ thưa mẹ, con lấy thiền đạo hồi hướng mẹ về Phật
Quốc, không phải quay lại thế gian này chịu khổ nữa.
Quay
lại mọi người ông bảo:
- Tang lễ đã xong, có thể an táng.
Lúc
đó ông mới 30 tuổi, lão mẫu thọ 68 tuổi.
Năm
56 tuổi biết thời đã tới, ông tụ tập đệ tử lại từ
biệt, sau đó thắp hương trước ảnh mẹ. Ông viết bài kệ:
人
間 逆 旅
Nhân
gian nghịch lữ
五
十 六 年
Ngũ
thập lục niên
雨
過 天 青
Vũ
quá thiên thanh
一
輪 月 圓
Nhất
luân nguyệt viên
Nhân
gian nghịch lữ
Năm mươi sáu Đông
Mưa qua, trời tạnh
Một vầng trăng tròn.
Viết
xong gác bút mà mất.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Trên
thế gian này, có người là có thị phi, tốt xấu, sáng tối.
Nói tốt vị tất đã tốt; nói xấu vị tất đã xấu. Nỗi
oan của Tùng Vân giúp ông lớn mạnh Thiền Đạo. Mẫu thân
tạ thế, hồi báo mẹ về an dưỡng đất Phật, chỉ cần
có Thiền là hết khổ, hết oán hận.
1109. Sinh hoạt.
Trời
vừa sáng, cư sĩ Chu Hữu Phong bưng hoa quả cúng Phật, vào
Phật điện tham dự khóa lễ sáng. Nào ngờ vừa bước vào
đại điện, bỗng nhiên phía bên trái chạy ra một người
đâm xầm vào Chu Hữu Phong, khiến hoa quả bị rơi đầy đất.
-
Ngươi coi! Cử chỉ ngươi thô lỗ làm hoa quả cúng dường
Phật bị rơi hết, ngươi tính sao đây?
Người
làm đổ là Lý Nam Sơn bất mãn:
-
Đổ thì cũng đã đổ rồi, xin lỗi 1 câu là đủ, ngươi
làm gì dữ vậy?
Chu
Hữu Phong nổi giận:
-
Đây là thái độ gì? Mình đã sai còn trách người?
Hai
người chửi qua mắng lại, càng lúc càng to tiếng. Quảng
Ngữ thiền sư chính lúc đó đi qua, kéo 2 người sang một
bên hỏi rõ đầu đuôi, khai thị:
-
Chạy loạn va vào người ta là không phải, nhưng không chịu
tiếp nhận lời xin lỗi của người ta cũng là không đúng.
Đây đều là những hành vi ngu xuẩn. Nếu chịu thừa nhận
những sai lầm của mình và tiếp nhận sự xin lỗi của người
thì đấy mới là hành động sáng suốt. Chúng ta sống trên
thế giới này sự sinh hoạt có nhiều tầng lớp phải phối
hợp ở gia đình: vợ chồng con cái, anh em. Ở giáo dục đối
với thầy cô, ở kinh tế cung và cầu. . . Chúng ta phải tìm
một phương thức sinh hoạt để khỏi phụ cái sinh mạng quý
báu của chúng ta. Các người thử nghĩ xem chỉ vì một chuyện
nhỏ mà phá hoại cái tâm thành kính ấy có nên không?
Lý
Nam Sơn nói trước:
-
Thiền sư, con sai rồi.
Nói
rồi hướng về Chu Hữu Phong:
-
Xin tiếp nhận lời xin lỗi chân thành của tôi, tôi thật
quá ngu si.
-
Tôi cũng có chỗ không phải, vì một chuyện nhỏ mà nổi
giận thực quá trẻ con.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Những
lời của Quảng Ngữ đã cảm động đuợc 2 người tranh cường,
háo đấu.
1110. Tâm lìa tiếng nói.
Bảo
Thông đến thăm Thạch Đầu, Thạch Đầu hỏi:
-
Cái gì là tâm ngươi?
-
Lời nói.
-
Có lời là vọng tâm, bằng vào lời nói thì không thấy được
chân tâm.
Bảo
Thông mắc cỡ, ngày đêm tham cứu chân tâm là cái gì. Mười
ngày sau quay lại thỉnh thị:
-
Lần trước con đáp sai, bây giờ con biết tâm con là gì rồi!
-
Tâm ngươi là gì?
-
Nhíu mày, nhướng mắt.
-
Trừ nhíu mày, nhướng mắt, đem tâm ra đây.
-
Nếu vậy thì không tâm đem ra.
-
Vạn vật vốn có tâm, nếu nói vô tâm là hủy báng, kiến
văn giác tri là vọng tâm, nhưng nếu không dùng tâm làm sao
ngộ đạo?
Bảo
Thông cuối cùng đại ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Tâm
lìa ngôn ngữ, văn tự, động tác (nhíu mày, nhướng mắt)
lìa tất cả mọi tướng. Nói có nói không đều sai. Chính
như Lục tổ nói “không nghĩ thiện, không nghĩ ác, lúc đó
cái gì là bản lai diện mục của Minh thượng tọa?”
Tại
sao các thiền sư đều nói vô tâm là thiền tâm? Vì có tâm
đều là tâm hư vọng. Tâm có lúc ở thiên đàng, có lúc ở
hỏa ngục. Mỗi ngày không biết bao lần đi tới đi lui thiên
đường, địa ngục. Thiền giả phải an trú ở vô tâm, chính
như kinh Kim Cương nói “Không trụ vào đâu mà tâm ấy
sanh ra.”
1111. Một giây chẳng rời.
Động
Sơn đến từ biệt Vân Nham để đi. Vân Nham hỏi:
-
Ngươi định đi đâu?
-
Con chỉ muốn đi chỗ khác tham học, một bát cơm ngàn nhà,
cô tăng vạn lý du; còn mục tiêu, địa điểm hiện tại con
cũng không biết.
-
Ngươi có định đi Hồ Nam không?
-
Không.
-
Hay là về thăm nhà?
-
Cũng không phải.
Vân
Nham đổi đề tài:
-
Ngươi định bao giờ trở lại đây?
-
Đợi khi nào con tìm được chỗ dừng chân sẽ trở lại.
-
Ngươi dời đây rồi, tưởng gập lại không phải là dễ.
Động
Sơn chắp hai tay lại, thưa:
-
Hàng ngày gập mặt, tâm linh chẳng thông thì như ức kiếp
xa cách; còn như tâm linh tiếp thông thì ức kiếp xa cách chẳng
lià một giây.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Đệ
tử cáo từ đi nơi khác tham học đó là chuyện bình thường,
nhưng ra đi mà không có mục phiêu thì không nên. Động Sơn
đã ở với Vân Nham 10 năm, cái mà ông tham học là tìm một
chỗ dừng chân đó là nơi tịch diệt. Vì vậy Vân Nham nói
về sau muốn gập mặt cũng khó. Nhưng Động Sơn không hạnh
phụ nỗi lo lắng của lão sư, đã trả lời: nếu tâm linh
tiếp thông thì dù xa cách vạn kiếp cũng không lúc nào rời
nhau.
1112. Lão bán muối.
Có
một học tăng định đến tham Phúc Thuyền, trên đường gập
một lão bán muối, bèn hỏi:
-
Xin hỏi ông lão đến Phúc Thuyền làm sao đi?
Rất
lâu, không nghe ông lão trả lời, học tăng nhắc lại câu
hỏi.
-
Ta đã nói rồi mà, ngươi điếc hay sao?
-
Lão đã nói gì?
-
Đường đến Phúc Thuyền.
-
Chẳng lẽ lão cũng học Thiền?
-
Không những là Thiền, Phật pháp cũng hiểu.
-
Vậy lão hãy nói coi.
Ông
lão không nói một câu, nhấc gánh muối lên vai định đi.
Học tăng không hiểu chỉ kêu lên:
-
Khó!
-
Ngươi vì sao nói vậy?
-
Lão bán muối.
-
Có gì chỉ thị?
-
Lão tên chi?
-
Không thể nói cho ngươi biết đó là muối.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Muốn
đến Phúc Thuyền tham học phải đi đường nào? Nếu đã
nói Phúc Thuyền sao còn có đường? Đường đi có đường
khó, có đường dễ, có đường lớn, có đường nhỏ, có
đường nhập thế, có đường xuất thế. Là học giả
cứ thuận đường mà tiến về phía trước. Nhưng người
học thiền có chí xung thiên chẳng đi đường Như Lai.
1113. Thì cũng thế.
Thị
giả của thiền sư Pháp Khánh nhân đọc Động Sơn Lục, cảm
khái thốt lên:
-
Cổ nhân đối với vấn đề sanh tử tùy tiện biết bao, thật
là kỳ quái.
Pháp
Khánh nhân đó bảo:
Khi
nào ta tọa hóa, ngươi có thể kêu ta, nếu ta tỉnh lại được
thì đó là sanh tử tự tại có gì là kỳ với không kỳ.
Thị
giả chăm chú nhìn thiền sư, Pháp Khánh đọc bài kệ dự
ngôn:
今
年 五 月 初 五
Kim
niên ngũ nguyệt sơ ngũ
四
大 將 離 本 主
Tứ
đại tướng ly bản chủ
白
骨 當 風 颺 却
Bạch
cốt đương phong dương khước
免
占 檀 那 地 土
Miễn
chiếm đàn na địa thổ.
Mùng 5 tháng 5, năm nay
Bốn đại tướng lìa bản chủ
Xương trắng bị gió thổi bay
Bỏ lại đất của thí chủ.
Thời
gian qua mau, tới ngày mồng 5 tháng 5, thiền sư đem hết quần
áo, đồ đạc giao cho thị giả cúng dường chư tăng để
kết duyên. Khi chuông nửa đêm vừa thỉnh, thiền sư ngồi
kiết già mà hóa. Mạch ngưng đập, hơi thở không còn; thị
giả nhớ lời lúc trước bèn gọi:
-
Thiền sư! Thiền Sư!
Rất
lâu Pháp Khánh mở mắt ra hỏi:
-
Làm cái gì?
-
Thiền sư sao không thay quần áo rồi hãy đi?
-
Khi tới ta không mang theo gì!
Thị
giả nhất định thay quần áo cho thiền sư.
Pháp
Khánh bảo:
-
Chẵng lưu lại gì cho người sau:
Thị
giả hỏi:
-
Chính lúc ấy thì thế nào?
Lại
viết thêm một bài kệ:
七
十 三 年 如 制 電
Thất
thập tam niên như chế điện
臨
行 為 君 通 一 線
Lâm hành vi quân thông nhất tuyến
鐵
牛 跨 跳 過 新 羅
Thiết
ngưu khóa khiêu quá tân la
撞
破 虛 空 七 八 片
Tràng
phá hư không thất bát phiến
Bẩy ba năm qua mau như điện lòe
Lúc ra đi, chỉ cho người thấy tánh.
Con
trâu sắt nhẩy quá xứ Tân La
Đập
phá hư không thành bẩy, tám mảnh.
Sau
đó nghiễm nhiên mà hóa.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Nếu
có người hỏi thiền giả có sanh tử không? Trả lời:thiền
giả ở trong sanh tử rất tự tại. Đỏ hon hỏn tới, đỏ
hon hỏn đi, có thể buông bỏ tất cả; chính lúc đó là giải
thoát, là tự do vậy.
1114. Pháp Bảo Vô Thượng.
Tổ
Đạt Ma vốn tên là Bồ Đề Đa La, người Nam Ấn Độ. Xuất
thân là quý tộc Bà La Môn, là hoàng tử thứ 3 của vua Hương
Chí. Về sau gập được Bát Nhã Đa La, được ngài coi trọng,
độ cho xuất gia cải tên là Bồ Đề Đạt Ma. Đạt Ma lúc
chưa xuất gia đã là một ngưòi có tài trí hơn người, có
thiện căn thoát tục. Một lần, tôn giả Bát Nhã Đa La chỉ
khối châu báu hỏi 3 anh em:
-
Trên đời này còn thứ gì quý hơn đám châu báu này không?
Đại
ca Nguyệt Tĩnh Đa La đáp:
-
Không có! Đây là của báu của Hoàng gia, trên thế gian này
không có gì quý bằng.
Nhị
ca Công Đức đa La đáp:
-
Con chưa thấy vật nào quý báu hơn.
Chỉ
có Bồ Đề Đạt Ma không đồng ý:
-
Con nhận rằng ý kiến của 2 anh không đúng, đám châu báu
này thực ra không có chút giá trị gì.
Hai
anh đều hỏi:
-
Ngươi nói đám châu báu này không có giá trị, vậy cái gì
mới có giá trị?
-
Vì đám châu báu này tự chúng không nhận biết giá trị của
chúng, chỉ là đồ vật vô tri, còn như Phật nói chân lý
đó là pháp bảo. Pháp bảo là do trí tuệ Bát Nhã phát huy,
nó không những tự chiếu mà còn có thể phân biệt hình sắc
của châu báu, phân biệt các pháp thiện ác của thế gian
và xuất thế gian nữa.
Đó
mới là điều quý nhất.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Đạt
Ma tài trí siêu thoát, kiến giải của ông không bị truyền
thống bó buộc, vì nhân duyên ưu việt, cho nên sau khi xuất
gia kế thừa y bát của Bát Nhã Đa La thành tổ thứ 28 của
Thiền Tông Ấn Độ. Dưới triều Lương Võ Đế từ
Tây qua Trung thổ, tọa thiền diện bích 9 năm ở núi Thiếu
Thất trở thành sơ tổ của Thiền Tông Trung Hoa.
Thế
nào là bảo vật chân chính? Ở thế tục đó là kim ngân châu
báu, ở xuất thế gian đó là tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, còn
gọi là tự tánh tam bảo. Ai ai cũng có chẳng ai là không có
chân tâm bản tánh. Kim ngân châu báu sẽ có lúc bị hủy hoại,
nhưng chân tâm bản tánh thì không. Đạt Ma từ nhỏ đã có
nhận thức tài trí như vậy, về sau kế thừa tổ vị, qua
Trung Hoa truyền bá Phật pháp, một hoa nở 5 cánh, truyền đăng
vô tận. Đó là 1 niệm giải thoát chiếu sáng vô cùng, pháp
bảo đã quý hơn châu báu vậy.
1115. Thiền là gì?
Có
một tín đồ định học tọa thiền, nhưng không biết học
tập thế nào. Một hôm lấy hết can đảm đến chùa hỏi
Vô Tướng:
-
Lão sư, con rất ngu, biết mình không phải là pháp khí để
học thiền, như nhìn ngọn núi cao mà không thề trèo tới,
mong thầy chỉ cho con Thiền là gì?
-
Ngũ tổ Pháp Diễn từng kể một câu chuyện:
Có
2 cha con một tên trộm; một hôm đứa con bảo bố:
-
Cha, càng ngày cha càng lớn tuổi, lúc nào rảnh hãy chỉ cho
con mánh khoé ăn trộm, nếu không sau này con làm sao kiếm ăn?
Ông
bố bằng lòng. Một hôm dẫn con đến nhà một phú ông ăn
trộm; dùng chùm chìa khóa vạn năng mở rương quần áo bảo
đứa con chui vào đó khóa lại và kêu lên: Có trộm!
Có trộm!
Sau
đó soay mình chạy. Người nhà phú ông nghe có trộm chạy
tới thấy không mất đồ đạc gì, cũng không thấy tên trộm
đâu, do đó lại ngủ lại. Lúc đó đứa con nằm trong rương
không hiểu ý bố sao lại khóa mình trong rương, bây giờ phải
làm gì để đào thoát? Linh cơ nhất động, giả tiếng chuột
gậm quần áo. Một lúc sau bà chủ gọi chị người làm mang
đèn lại coi. Chị người làm vừa mở rương, tên trộm bèn
đẩy ngã và thổi tắt đèn, co giò chạy mất. Phú ông phát
giác có trộm bèn sai gia nhân đuổi theo. Đuổi đến bờ sông,
tên trộm nhỏ trong lúc nguy cấp sanh trí xô một tảng đá
lớn xuống sông rồi quay trở lại; nghe có tiếng nói:
-
Thật tội nghiệp! tên trộm bị bức quá, đã nhẩy xuống
sông rồi!
Tên
trộm nhỏ về nhà thấy bố đang nhậu, bèn trách bố sao lại
khóa mình trong rương? Ông bố chỉ hỏi con làm sao ra. Đứa
con thuật lại đầu đuôi, ông bố thích trí bảo con:
-
Con sau này không sợ không có cơm ăn.
Cũng
giống như tên trộm con, từ không có biện pháp mà tìm ra
biện pháp. Đó là Thiền.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Trí
tuệ Thiền là phát từ nội tâm.
1116. Không động tâm.
Một
nơi kia có thiên tai, các nhân sĩ Phật giáo muốn cứu trợ
nạn nhân bèn mời một đoàn ca vũ đến biểu diễn, trù tính
sẽ quyên góp ít tiền. Chư tăng cũng tới tham dự. Có một
người mới vào học Thiền không cho là phải. Ông cho rằng
người tham Thiền không nên coi ca vũ. Vì đoàn thể tổ chức,
bất đắc dĩ ông phải tham dự. Ông nhắm mắt ngồi thiền
không lý gì đến những náo động chung quanh. Khi cuộc trình
diễn tạm ngưng, ban tổ chức bèn quyên tiền khán giả. Vị
mới học thiền phất áo đứng dậy tức giận bảo:
-
Ta nhắm cả 2 mắt, ngay một cái liếc cũng không sao lại đòi
tiền ta?
Người
tổ chức nói:
-
Người mở mắt xem, chỉ trả nửa tiền là được, còn ông
nhắm mắt tưởng tượng phải trả gấp đôi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Chúng
ta tu hành, không phải chỉ nhắm mắt không nhìn, không nghe
cho là vô sự. Sự tưởng tượng lại còn lợi hại hơn là
nhìn và nghe thật. Chỉ có không động tâm mới thật sự
là chân chính tu hành.
1117. Không tìm lại được.
Chu
Từ Mục là một tín đồ Tịnh Độ, một hôm đến bái phỏng
Phật Quang:
-
Thiền sư, con niệm Phật đã hơn 20 năm rồi, gần đây không
niệm được như trước nữa.
-
Không như trước là sao?
-
Khi trước con niệm Phật trong tâm có Phật tánh, dù miệng
không niệm mà trong tâm vẫn cảm giác Phật thanh liên miên
bất đoạn, dường như dòng suối tuôn trào.
-
Tốt lắm! Đó là ngươi đã đạt tới tĩnh niệm tương tục
cùng Phật tương ứng, đạt tới chân tâm rồi.
-
Cám ơn thầy khen ngợi, nhưng bây giờ con không xong rồi, con
khổ não lắm vì không thấy chân tâm nữa.
-
Vì sao không thấy chân tâm?
-
Vì tĩnh niệm tương tục không tìm thấy nữa, xin thầy chỉ
cho con đi đâu mà tìm chân tâm?
-
Chân tâm không ở đâu xa cả, ở ngay thân ngươi.
-
Sao con không biết?
-
Vì ngươi một niệm bất giác cùng vọng tâm giao lưu, chân
tâm bèn lìa ngươi.
Chu
Mục Từ nghe rồi bèn ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Nói
không có chân tâm nữa là nói đánh mất chính mình. Vì sao
bị mê? Chỉ vì hư vọng che mờ mất chân tâm. Vĩnh Gia từng
nói:
Tính thật vô minh tức Phật tánh
Thân không ảo hóa tức Pháp thân.
Là
cũng ý này.
1118. Gà trống và côn trùng.
Có
một đứa nhỏ 7 tuổi thường kiếm thiền sư Vô Đức nói
chuyện loạn cào cào. Vô Đức thấy đứa nhỏ này cơ trí
hơn người, những lời nói thường có ít nhiều thiền vị.
Một hôm Vô Đức bảo đứa nhỏ:
-
Lão tăng hàng ngày bận rộn không có thì giờ nói chuyện
với ngươi. Bây giờ chúng ta thử tranh luận 1 lần, nếu ngươi
thua ngươi phải mua bánh cúng dường ta, nếu ta thua thì ta
sẽ mua bánh cùng ngươi kết duyên.
-
Thỉnh thầy hãy bỏ tiền ra.
-
Hãy biện luận trước đã, giả sử lão tăng là một con gà
trống.
-
Con là một con côn trùng nhỏ.
Vô
Đức nắm lấy cơ hội:
-
Đúng rồi! ngươi là côn trùng nhỏ, vậy phải mua bánh cho
ta là con gà trống lớn.
-
Không được! Sư phụ phải mua bánh cho con mới đúng. Thầy
là con gà trống lớn, con là côn trùng nhỏ. Con thấy thầy
bèn bay đi mất. Thầy trò không tranh luận được. Như vậy
không là thua sao?
Vô
Đức dẫn đứa nhỏ đi hỏi nhiều người:
-
Vấn đề này giống như chiến tranh chính trị, nếu một vài
người không giải quyết được thì phải mang ra hỏi ý kiến
cả làng xem ai có lý.
Cả
làng có độ 300 người, nhưng không ai trả lời được.
Do
đó Vô Đức trang nghiêm nói:
-
Phải cần thiền sư trợn mắt mới phán đoán được.
3
ngày sau, cả chùa đều hay Vô Đức lẳng lặng mua bánh cho
cậu bé 7 tuổi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
không có to nhỏ, dài ngắn, tốt xấu dĩ nhiên cũng không có
thua được. Mới đầu Vô Đức tưởng thắng đứa nhỏ 7
tuổi. Đứa nhỏ tự nhận mình là côn trùng nhỏ, con gà trống
chỉ mổ một cái là nuốt vào bụng. Nhưng con côn trùng thấy
gà trống bèn bay đi, biểu thị sư, đồ không thể tranh luận.
1119. Kiếm tâm thiền.
Tại
Nam Thiên Tự, Vô Đức cử hành tiểu tham. Vô Đức bảo:
-
Các vị đến đây tham học, có người nhiều năm, có người
vài tháng, không biết các vị đã tìm thấy thiền tâm chưa?
Ông
tăng một thưa:
-
Con là người chủ quan rất mạnh, chỉ để ý đến những
gì của mình hoặc về mình mà thôi, ngoài ra không quan tâm
gì hết. Nhưng sau khi tham thiền rồi thì phát giác mọi sự,
mọi việc ở trên đời đều tùy thuộc nhân duyên mà thành
tựu. Thành ra lúc trước mỗi ngày chỉ vọng tưởng ta và
cái của ta; hiện tại biết được ngoài ta còn có người
có Phật, con nghĩ con đã nắm được thiền tâm rồi.
Ông
tăng hai thưa:
-
Lúc trước con chỉ tin những gì mắt thấy, tay sờ; nay tham
thiền rồi con thấy rằng nhìn gần còn có nhìn xa, tâm lớn
như không. Con nghĩ là đã thấy thiền tâm rồi.
Ông
tăng ba thưa:
-
Lúc trước, nếu nói mỗi ngày con đi 30 dậm, con quyết không
đi 50 dậm; tham thiền rồi cảm thấy có thể lấy sinh mạng
hữu hạn chứng ngộ Pháp thân vĩnh hằng, hận rằng không
thể không ăn, không ngủ ngày đi trăm dậm. Con nghĩ con đã
thấy thiền tâm.
Ông
tăng bốn thưa:
-
Con ít học, kinh nghiệm chẳng đủ, sử sự kém cỏi, có lúc
tự ty. Từ khi học thiền rồi mới phát giác mình có thể
đảm nhiệm trọng trách hoằng pháp lợi sinh, không còn thấy
mình kém cỏi, tự ty nữa. Con nghĩ đó là thiền tâm.
Ông
tăng năm thưa:
-
Con chỉ cao 5 thước (thước Tầu), cảm thấy tự ty, sau khi
học thiền rồi đứng trước người cảm thấy mình cao 2
trượng, con nghĩ rằng con đã thấy thiền tâm.
Vô
Đức nghe rồi bảo:
-
Lời các ngươi vừa nói là sự tiến bộ của các ngươi.
Các ngươi tự thọ dụng pháp hỷ chỉ là tham cứu sơ
tâm chưa phải là thiền tâm. Thiền tâm là ở nơi minh tâm
kiến tánh. Hãy tinh tấn tu hành! Tham!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Tham
thiền điều trọng yếu là minh tâm kiến tánh, nhưng trong
quá trình tham thiền có thể cải biến quan niệm, tĩnh hóa
thân tâm, khích phát nội lực, tăng gia huệ tư, như các ông
tăng báo cáo.
1120. Ta có thể vì ngươi mà bận rộn.
Phật
Quang có lần gập Khắc Khế bèn hỏi:
-
Ngươi đến đây học Thiền đã nhiều ngày tháng rồi, sao
không thấy ngươi hỏi Đạo?
-
Lão thiền sư hàng ngày bận rộn, học tăng không dám làm
phiền.
Ba
năm sau, Phật Quang gập Khắc Khế trên đường lại hỏi:
-
Ngươi tham thiền tu đạo, có vấn đề gì sao không đến hỏi
ta?
-
Lão thiền sư bận rộn, học tăng không dám tùy tiện nói
chuyện.
Lại
một năm sau, Khắc Khế đi ngang qua phòng Phật Quang. Phật
Quang gọi:
-
Hôm nay ngươi có rảnh, lại đây cùng ta đàm đạo.
Khắc
Khế chắp tay thưa:
-
Lão thiền sư bận rộn, con sao dám lãng phí thời gian của
người?
Phật
Quang biết Khắc Khế quá nhũn nhặn, không dám ngay đó gánh
vác làm sao mà ngộ đạo được, nếu mình không chủ động
thì không được. Do đó lần sau gập Khắc Khế liền hỏi:
-
Học Thiền cần tham cứu không ngừng, ngươi vì sao không đến
hỏi ta?
-
Lão thiền sư quá bận rộn, con làm sao dám làm phiền.
Phật
Quang hét lớn:
-
Bận! Bận! Bận vì ai? Ta cũng có thể vì ngươi bận!
Câu
hét vào thẳng tâm Khắc Khế, khiến ông được khai ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Có
người chỉ nghĩ đến mình, chuyện chẳng có gì cũng làm
phiền người khác. Có người lại chỉ nghĩ đến người,
chẳng để ý gì đến mình, đánh mất nhiều cơ hội. Bản
lai diện mục của Thiền là gánh vác ngay đó, đang lúc
ăn thì ăn, đang lúc tu thì tu. Khi hỏi thì hỏi điều trọng
yếu, khi đáp thì đáp một cách khẳng định, chẳng thể
tựa có mà không xoay đi xoay lại. Ta có thể giúp, ngươi vì
sao không muốn ta giúp? Ngươi giúp ta, vì sao ta không thể giúp
ngươi mà bận rộn? Không phải vì đó mà rõ nhân, ngã sao?
1121. Nhọt mặt người.
Ngộ
Đạt Tri Huyền thiền sư khi còn là vân thủy tăng, một hôm
trên đường đến kinh sư, gập một ông tăng Tây Vực mắc
bệnh mà không có ai chiếu cố. Ông không quản ngại rửa
ráy, bôi thuốc cho ông tăng bệnh, ông tăng này sau khi khỏi
bệnh bảo Ngộ Đạt:
-
Sau này nếu có tai nạn gì hãy đến Tây Thục, Cửu Long Sơn
ở giữa khoảng 2 cây tùng lớn gập ta.
Nhiều
năm sau, pháp duyên của Ngộ Đạt ngày càng vượng, vua Đường
Ý Tông rất tôn kính phong làm quốc sư, còn tặng đàn hương
pháp tọa. Thiền sư tự giác rất vinh hạnh. Một hôm đầu
gối thiền sư bỗng nổi một cái nhọt có hình mặt người
có đủ mắt, mũi, miệng, răng như người thường. Thiền
sư tìm đủ thầy chạy chữa mà không khỏi. Chính lúc bị
bó tay sực nhớ đến lời dặn của ông tăng Tây Vực. Ông
bèn y hẹn đến Cửu Long Sơn. Ông tăng Tây Vực chỉ dòng
suối bên hàng tùng bảo:
-
Ông đừng lo, hãy rửa nhọt bằng nước suối này sẽ hết.
Ngộ
Đạt định vục nước rửa nhọt, thì hình mặt người trong
nhọt bỗng mở miệng:
-
Chờ một chút, ông có biết tại sao lại có nhọt này không?
Ông có biết trong Tây Hán Sử có thuật chuyện Viên Ưởng
giết oan Triều Thác không? Ông chính là Viên Ưởng chuyển
thế, còn ta chính là Triều Thác. Từ 10 kiếp nay, trong vòng
luân hồi trôi chảy ta đều tìm cơ hội để báo thù. Nhưng
trong 10 kiếp này ông đều là tăng thanh tịnh giới hạnh,
nên ta không có cơ hội hạ thủ. Gần đây trong triều, ngoài
dân đều kính trọng, ông sinh lòng ngã mạn, làm mất đạo
hạnh; do đó ta mới có thể nhập vào thân ông. Bây giờ
nhờ Già Nặc Già tôn giả từ bi lấy nước tam muội rửa
hết tội nghiệp. Từ nay về sau không còn cùng ông oan oan
tương báo.
Ngộ
Đạt nghe rồi toát mồ hôi, vội vục nước rửa, cảm thấy
đau đớn kịch liệt ngất đi. Khi tỉnh lại thì nhọt mặt
người không còn nữa, ông tăng Tây Vực cũng không thấy đâu.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Tuy
tham thiền minh tâm kiến tánh, nhưng tam thế nhân quả nghiệp
báo rõ ràng không ai có thể trốn thoát được, chỉ có làm
việc thiện, kết thiện duyên, sám hối tiên nghiệp, mới
có thể cứu được. Ở tự tánh tuy không có tội nghiệp,
nhưng ở sự tướng thì nhân quả nghiễm nhiên do đó hiện
báo, sinh báo, hậu báo không thể không báo. Ngộ Đạt may
gập Già Nặc Già tôn giả, cho thuốc trị bệnh. Tôn giả
báo đáp giúp giải oan tiên nghiệp. Về sau Ngộ Đạt viết
Thủy sám lưu hành thế gian phổ độ thế nhân. Như vậy
nghiệp báo lại chẳng nên thận trọng ư?
1122. Đại Thiên là giường.
Có
một lần, Tô Đông Pha đến thăm Phật Ấn. Viết thư dặn
thiền sư hãy tiếp mình như Triệu Châu tiếp Triệu Vương
(xem công án số 467) Tô Đông Pha tự coi mình hiểu được
ý vị của Thiền muốn Phật Ấn lấy phương cách thượng
thừa mà tiếp mình – không tiếp mà tiếp – nhưng Phật
Ấn lại chạy ra tận cửa chùa tiếp đón. Tô Đông Pha nắm
lấy cơ hội chế diễu Phật Ấn:
-
Đạo hạnh của thầy không được tiêu sái như Triệu Châu,
đệ tử đã dặn thầy đừng ra tiếp, mà thầy còn theo thường
tục chạy ra tận cửa đón.
Tô
Đông Pha nghĩ lần này mình đã chiếm được thượng phong
không ngờ Phật Ấn đọc một bài kệ trả lời:
趙
州 當 日 少 謙 光
Triệu
Châu đương nhật thiếu khiêm quang
不
出 山 門 迎 趙 王
Bất
xuất sơn môn nghinh Triệu Vương
怎 似 金 山 無 量 相
Chẩm
tự kim sơn vô lượng tướng
大
千 世 界 一 禪 床
Đại
thiên thế giới nhất thiền sàng
Triệu Châu lúc đó thiếu khiêm nhường
Chẳng ra ngoài cửa đón Triệu Vương
Sao giống Kim Sơn vô lượng tướng
Đại Thiên thế giới chỉ một giường.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Đại
ý bài kệ là ngươi thấy ta bước xuống thiền sàng ra đón,
là ngươi dùng mắt thịt mà nhìn, không biết rằng ta vẫn
ngủ yên trên thiền sàng đại thiên thế giới.
1123. Lục Hy Thanh.
Đời
Đường, cư sĩ Lục Hy Thanh đến tham Ngưỡng Sơn, hỏi:
-
3 cửa đều mở, từ cửa nào vào?
-
Từ cửa Tín vào.
-
Còn 2 cửa kia dùng làm gì?
-
Từ cửa nào vào cũng được.
-
Từ cửa nào?
-
Từ cửa Tuệ vào.
-
Còn cửa kia?
-
Từ cửa Từ vào.
-
Một cửa là đủ cần gì 3 cửa?
-
Cửa Tín là theo Phật, cửa Tuệ là theo Pháp, cửa Từ là
theo Tăng mà vào.
Đó
là 3 cửa báu vào Đạo. Lục Hy Thanh vào pháp đường lại
hỏi:
-
Chẳng lià ma giới mà vào Phật giới thì sao?
Ngưỡng
Sơn chúc phất tử xuống, điểm 3 cái; Lục Hy Thanh bái tạ,
lại hỏi:
-
Thầy còn giữ giới không?
-
Không giữ giới.
-
Thầy còn tọa thiền không?
-
Không tọa thiền.
Lục
Hy Thanh im lặng, suy nghĩ hồi lâu, Ngưỡng Sơn hỏi:
-
Ngươi hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Giới chẳng giữ, thiền chẳng ngồi, trà uống 2, 3 chén, nghĩ
đến việc cầy bừa.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Có
câu đường nào cũng đến Trường An. Đó cũng là cửa nào
cũng có thể vào Phật Đạo. Nhưng muốn vào Phật Đạo thì
trước phải giữ giới, tham thiền. Nay Ngưỡng Sơn nói không
giữ giới, không tham thiền chẳng là nghịch Đạo sao? Thực
ra không phải vậy. Giới luật trọng quy tắc, các sự việc
đều quy định rất nghiêm khắc. Còn thiền thì trọng giải
thoát, không để các quan niệm hình thức bó buộc, thậm chí
ma đến chém ma, Phật đến chém Phật. Do đó Ngưỡng Sơn
phủ định tất cả đối đãi sau đó nói uống trà 2, 3 chén,
ý nghĩ ở cầy bừa là trỏ thiền giả chân chính không lìa
sinh hoạt.
1124. Chuyện tốt chẳng bằng không chuyện.
Có
một lần Triệu Châu nêu lên một câu thiền ngữ:
-
Phật là phiền não, phiền não là Phật.
Các
thiền sinh không hiểu, nhao nhao yêu cầu Triệu Châu giải thích:
-
Không biết Phật vì ai mà phiền não?
-
Vì tất cả chúng sinh.
-
Làm sao bỏ đuợc những phiền não này?
-
Bỏ phiền não để làm gì?
Một
lần khác Triệu Châu thấy đệ tử Văn Yển lễ Phật bèn
dùng gậy gõ xuống đất hỏi:
-
Ngươi đang làm gì vậy?
-
Lễ Phật.
-
Phật dùng để lễ hay sao?
-
Lễ Phật cũng là chuyện tốt.
-
Chuyện tốt chẳng bằng không chuyện.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Phiền
não là bệnh, Phật đạo cũng là bệnh. Phật, Bồ tát có
bệnh không?
Không
phải! Phật, Bồ Tát vì chúng sinh mà bệnh. Phật đản sinh
cõi Ta bà, Bồ Tát hành hóa biển khổ, Địa Tạng nói nếu
địa ngục còn người thì sẽ không thành Phật; do đó Phật,
Bồ Tát vì lòng bi mẫn sao lại miễn trừ phiền não của
chúng sinh? Lễ Phật tuy là chuyện tốt nhưng nếu bỏ được
cái chấp chuyện tốt (công đức) thì không chuyện mới chính
là chuyện tốt.
1125. Thọ tín vật.
Một
hôm, Quy Sơn bảo Ngưỡng Sơn:
-
Có một tín đồ mang 3 bó lụa trắng đến mong ta thỉnh chuông
cầu phúc, cầu hòa bình an lạc cho thế nhân.
-
Tín đồ đã thành tâm, thầy lại thâu lễ vật, xin hỏi thầy
lấy gì để hồi báo?
Quy
Sơn dùng gậy gõ vào giường 3 cái:
-
Ta lấy cái này hồi báo.
-
Cái này dùng làm gì?
Quy
Sơn lại gõ 3 cái nữa:
-
Ngươi sợ cái này còn không đủ sao?
-
Con không hiểu cái này, cái này là của mọi người, con chỉ
sợ lão sư không chịu lấy cái này hồi báo.
-
Ngươi đã rõ cái này là của mọi người, sao lại còn muốn
ta tìm vật gì khác để cho hắn nữa?
-
Tự mình có đủ, sao còn làm phiền người khác?
-
Tự mình tuy có đủ, nhưng nếu không có người khác thì nào
biết được? Ngươi đã quên Đạt Ma tổ sư sang Trung Thổ
chẳng là đem cái này chỉ cho ngươi sao? Mỗi người các ngươi
đều là người thọ tín vật.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Cái
này là chỉ cái gì? Đó là khuôn mặt xưa nay của mọi người.
Nếu đã là khuôn mặt xưa nay của mình thì đâu cần ai tặng?
Tuy là nói vậy, nhưng không có thầy chỉ thì làm sao biết?
Cửa thiền không chấp ngôn ngữ văn tự làm sao chỉ thẳng
tâm người? Hoàng Bá nói: “Chẳng cầu Phật, chẳng cầu
Pháp, chẳng cầu tăng, nên cầu như thế!”
Ngôn
ngữ văn tự chỉ là công cụ, không phải là mục tiêu. Như
dùng đò qua sông, khi còn chưa qua sông sao bỏ đò được?
Nhưng khi đã tới bờ bên kia rồi thì phải bỏ đò mà đi.
Quy Sơn và Ngưỡng Sơn đứng trên lập trường khác nhau nhưng
lý tánh chỉ là một.
1126. Từng bước, từng bước chẳng lạc hướng.
Thiền
sư Hiển Như ở núi La Phù lúc mới đến tham Cảnh Huyền
ở Đại Dương Sơn tỉnh Hồ Bắc. Đại Dương hỏi:
-
Ngươi là người vùng nào?
-
Ích Sơn.
-
Cách đây bao xa?
-
5 ngàn dậm.
-
Làm sao tới? Có đạp đất không?
-
Chưa từng đạp đất.
-
Vậy ngươi biết cưỡi không sao?
-
Không biết.
-
Vậy làm sao tới?
-
Từng bước, từng bước chẳng lạc hướng.
-
Ngươi đã vượt tam muội sao?
-
Tâm tánh không thể nằm được, sao khởi chướng danh tam muội?
-
Như vậy! Như vậy! Nên tu như thế, tức bản thể rõ ràng,
sự lý không hai; hãy khá hộ trì!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Đại
Dương là thiền sư đời Tống. Ông theo thúc phụ Trí Thông
xuất gia, 19 tuổi thọ giới liền có thiền cơ. Như xem kinh
Viên Giác liền hỏi tại sao gọi là Viên Giác? Bái phỏng
đạo trường Duyên Quan liền hỏi thế nào là Vô Tướng đạo
trường? Bất cứ chuyện gì ông cũng đặt câu hỏi rất hay.
Gập ông tăng sắp mất ông hỏi đi về đâu? Gập ông tăng
trồng dưa, hỏi dưa ngọt bao giờ chín? Nếu có thiền giả
hỏi ông, ông luôn luôn trả lời bằng một bài kệ. Hiển
Như từ Ích Châu Tứ Xuyên, tới Hồ Bắc, 5 ngàn dậm mà không
đạp đất vì Thiền vượt thời không gian, không có xa gần,
cho thấy thầy trò khế hợp. Hiển Như về sau thọ pháp với
Đại Dương không phải là vô cớ.
1127. Ai là Thiền sư?
Thiền
sư Phật Quang trong sinh hoạt thường tự quên mình. Các học
tăng từ các nơi đến tham học yêu cầu bái kiến, thị giả
vào thông báo có vị tăng muốn vào bái kiến. Thiền sư Phật
Quang thường hỏi lại:
-
Ai là thiền sư?
Có
lần Phật Quang đang ăn, thị giả hỏi:
-
Thiền sư! thầy đã ăn no chưa?
-
Ai đang ăn đấy?
Một
lần khác Phật Quang giẫy cỏ ngoài đồng từ sáng đến chiều
không ngưng nghỉ. Đại chúng an ủi:
-
Thiền sư! Thật là khổ!
Phật
Quang trả lời:
-
Ai khổ vậy?
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Ai
ăn? Ai kinh hành? Ai khổ? Ai nói? Phật Quang thường quên chính
mình mà hỏi lại mọi người. Rất nhiều thiền giả nhân
câu hỏi của Phật Quang mà tìm về chính mình. Người đời
có lúc khẳng định tư tưởng, trí thức của mình làm mất
đi chính mình. Có lúc cái gì cũng không khẳng định cũng
lại đánh mất chính mình, giống như xác chết biết đi mất
cả hồn vía, không có lập trường. Nếu có thiền thì có
thể phủ định tất cả. Kỳ thật là ấp ủ tất cả. Tuy
khẳng định tất cả, kỳ thực giải thoát tất cả. Thế
cho nên thiền giả nói hay im, động hay tĩnh đều có một
cảnh giới riêng. Lời nói, hành động của họ tuy đơn sơ
nhưng ý vị vô cùng, nghiêm ngặt nhưng thâm thiết. Ai là thiền
sư? Kỳ thực đó chính là thiền sư.
1128. Đốt hương tăng phúc.
Tể
tướng Bùi Hưu đời Đường là một tín đồ Phật giáo.
Con ông là Bùi Văn Đức, tuổi trẻ mà đã thi đỗ Trạng
Nguyên. Hoàng đế bổ làm Hàn Lâm. Nhưng Bùi Hưu không muốn
con mình một bước đã huy hoàng. Do đó bắt con vào tự viện
tu hành tham học, bắt đầu từ thủy đầu và hỏa đầu trở
đi. Chàng thiếu niên Hàn Lâm ngày ngày gánh nước, bửa củi
thân tâm mệt mỏi, phiền não, oán trách phụ thân bắt mình
vào nơi chùa cổ núi sâu, làm trâu làm ngựa. Nhưng lệnh cha
không giám trái phải ẩn nhẫn. Cái tình trạng tâm bất cam,
tình bất nguyện sau một thời gian không nhẫn nại được,
than rằng:
Hàn Lâm gánh nuớc, mồ hôi dòng dòng.
Hòa thượng ăn rồi, làm sao tiêu đặng?
Trụ
trì là Vô Đức nghe được, ngâm hai câu trả lời:
Lão tăng chỉ thắp một thẻ hương
Có thể tiêu cả vạn kiếp lương.
Bùi
Văn Đức nghe rồi nhẩy nhổm, từ đó thâu thúc thân tâm
chịu khó làm việc lao dịch.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Các
vĩ nhân không phải là ngồi ở trên cao để mọi người sùng
bái. Thiền giả tạo dựng sự nghiệp từ chỗ thấp hèn,
từ chỗ lao động thân thể mài rũa ý chí. Phật giáo rất
coi trọng khổ hạnh, nhưng đó cũng chỉ là tạo phúc đức
nhân duyên, thuộc hữu vi pháp. Khi thiền gia thắp hương tâm
có thể quảng biến thập phương, tánh có thể xuyên suốt
ba thế, tâm tánh có thể tương ứng cùng vô vi pháp thì đương
nhiên sẽ:
Lão tăng chỉ thắp một thẻ hương
Có thể tiêu cả vạn kiếp lương.
1129. Nên im lặng.
Có
một năm, Linh Thụ Viện tới mùa hạ an cư, Hậu Hán Lưu Vương
mời Vân Môn thiền sư và toàn thể đại chúng vào quá hạ
ở nội cung. Chư vị pháp sư ở trong nội cung tiếp thọ các
cung nữ cung kính hỏi pháp, oanh yến thỏ thẻ náo nhiệt vô
cùng. Vì Lưu Vương chân thành trọng pháp nên ngày nào cũng
có bài giảng. Các bậc tôn túc trong chùa đều vui vẻ nói
pháp cho các cung nữ và thái giám. Chỉ có Vân Môn im lặng
tọa thiền một bên. Các cung nữ cũng không dám thân cận
thưa hỏi. Có một viên quan trị điện thấy tình cảnh ấy
bèn hướng Vân Môn thỉnh thị pháp yếu. Vân Môn vẫn một
mực im lặng. Viên quan không coi đó là ngỗ ngược mà còn
kính trọng thêm, viết một bài kệ gián ở ngoài điện:
大
智 修 行 始 是 單
Đại
trí tu hành thủy thị thiền
單
門 宜 默 不 宜 喧
Thiền
môn nghi mặc bất nghi huyên
萬
般 巧 說 爭 如 實
Vạn
ban xảo thuyết tranh như thật
愉
卻 單 門 總 不 言
Thu
khước thiền môn tổng bất ngôn
Đại trí tu hành trước là Thiền
Thiền môn nên lặng chẳng huyên thuyên
Vạn lời tranh cãi tìm chân lý
Chẳng biết thiền môn vẫn lặng yên.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Vân
Môn vốn là một vị cao tăng, vui cùng hạc nội mây ngàn,
hoặc ở trong rừng núi, hoặc ở ven sông, ba y một bát tùy
duyên; không bị ảnh hưởng bởi danh lợi, quyền lực. Tuy
là không lời mà như sấm sét. Nếu con người có thể đắm
mình trong im lặng, thì có thể nói đã bước vào Thiền vậy.
1130. Nghi cái gì?
Cư
Độn ở núi Long Nha muốn được triệt ngộ, chân thành đến
núi Chung Nam Sơn tham học Thúy Vi. Ở được mấy tháng mà
vẫn chưa được Thúy Vi gọi vào chỉ thị. Một hôm, lấy
hết can đảm vào pháp đường hỏi:
-
Học tăng từ khi đến đây, chỉ theo đại chúng ra vào pháp
đường chưa được mông ơn khai thị một pháp, vì sao vậy?
Thúy
Vi lờ đi, hỏi lại:
-
Ngươi nghi gì?
Cư
Độn không nhận được yếu lãnh, chỉ đành cáo biệt Thúy
Vi, đến Đức Sơn. Nhiều ngày qua lại thưa với Đức Sơn:
-
Đệ tử đến đây đã lâu vẫn chưa được nghe một câu
Phật pháp của Đức Sơn.
Đức
Sơn cũng giống như đã hẹn trước với Thúy Vi, cũng hỏi
lại:
-
Ngươi nghi gì?
Câu
đáp của 2 vị tông sư không hẹn mà hợp, Cư Độn bất đắc
dĩ lại đến Động Sơn tham học. Một hôm hỏi:
-
Xin thầy một lời, chỗ khẩn yếu của Phật pháp là gì?
Động
Sơn chỉ đơn giản bảo:
-
Đợi khi nước ở Động Sơn chẩy ngược ta sẽ bảo ngươi.
Cư
Độn nghe rồi đại ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Dùng
nghi tâm tham thiền, dùng thể hội tham thiền, dùng vấn đạo
tham thiền, kỳ thực không bằng dùng tâm bình thường mà
tham. Con người sinh hoạt ở thế gian, đều ở trong điên
đảo vọng tưởng, mâu thuẫn do đó bị sanh tử lôi cuốn
không ngừng được. Nếu biết rõ nước ở Động Sơn chẩy
ngược, tức tâm bình thường hiển hiện. Ngàn nghi, vạn vấn
chẳng bằng một tâm bình thường.
1131. Mặc áo, ăn cơm.
Có
người hỏi Mục Châu:
-
Chúng ta hàng ngày đều phải mặc áo, ăn cơm, cứ lập đi
lập lại như vậy thật là phiền quá, phải làm sao để trừ
các phiền này?
-
Mặc áo, ăn cơm.
-
Con không hiểu.
-
Ngươi không hiểu, vậy thì cứ mặc áo, ăn cơm.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
không lìa bỏ sinh hoạt, người thường mặc áo, ăn cơm; ngộ
đạo thành Phật rồi cũng mặc áo, ăn cơm. Cái khác biệt
là ý nghĩa và cách cảm thọ.
1132. An trú ở đâu?
Trào
Đường Đơn Hà có lần đi bái kiến Mã Tổ. Trên đường
gập một ông lão tóc bạc dắt một đứa nhỏ, hình dung bất
phàm, cung kính hỏi:
-
Cụ trú ở đâu?
Cụ
già giơ tay trỏ lên trời, rồi trỏ xuống đất:
-
Trên là trời, dưới là đất (Ý là trong khoảng vũ trụ đâu
cũng là nhà).
-
Nếu trời xụp, đất lở phải làm sao? (Ý là trời đất
nếu bị hủy diệt thì phải làm sao?)
Cụ
già lớn tiếng:
-
Trời xanh! Trời xanh! (Ý là vũ trụ cũng phải trải qua quá
trình thành, trụ, hoại, diệt)
Đứa
nhỏ đứng bên hứ lên một tiếng (Ý là tự tánh bất sanh,
bất diệt)
Đơn
Hà khen ngợi:
-
Không có cha ấy thì không sanh được con này!
Ông
lão và đứa nhỏ bèn đi vào núi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Con
người ta trú ở đâu? Từ Hành pháp sư nói:
-Chỉ
cần tâm an thì Đông, Tây, Nam, Bắc đều tốt.
Do
đó trên trời, dưới đất không nhà, nơi nơi đều là nhà.
Người đời trú ở thanh sắc, lợi lộc; mà thanh sắc, lợi
lộc đều bị biến đổi không ngừng, vậy làm sao có thể
an tâm trú? Nếu con người có thể khẳng định chính mình,
không bị 5 dục, 6 trần lôi kéo, tâm có thể an trú thì trời
xụp, đất lở cũng chẳng làm sao.
1133. Thiền Đạo.
Một
học tăng đến tham phỏng Việt Khê:
-
Con từng nghiên cứu Nho học, Phật học 20 năm trời, nhưng
đối với Thiền học một điểm cũng không thông, mong thầy
chỉ cho chút ít!
Việt
Khê không há mồm, chỉ nghênh mặt tát cho ông một cái.
Ông
tăng kinh hoảng, tung cửa mà chạy, nghĩ bụng thật chẳng
hiểu gì cả, phải tìm cách lý luận với thiền sư mới được.
Chính đương lúc tức giận gập được Thủ Tọa, Thủ Tọa
hỏi:
-
Xẩy ra chuyện gì vậy? Hãy đến chỗ ta uống trà. Người
học đạo có gì mà phải nổi giận.?
Học
tăng vừa uống trà vừa than vãn Việt Khê vô duyên vô cớ
đánh ông một cái tát tai. Đang lúc học tăng kể lể, thủ
tọa lập tức ra tay cho ông tăng một tát, chén trà trong tay
ông tăng văng xuống đất vỡ tan. Thủ Tọa bảo:
-
Ngươi vừa nói hiểu Nho học, Phật học chỉ không hiểu Thiền
đạo. Ta liền dùng Thiền đạo cung dưỡng ngươi, ngươi đã
biết thế nào là Thiền chưa?
Học
tăng kinh ngạc, trợn mắt, há hốc mồm không biết trả lời
thế nào. Thủ tọa lập lại câu hỏi, ông tăng vẫn không
trả lời được.
-
Thật là chẳng hay, đã để cho ngươi thấy đạo Thiền của
chúng ta.
Nói
rồi, nhặt những mảnh chén vỡ, và dùng khăn lau khô nước
trà đổ và nói:
-
Ngoài những chuyện này ra, còn có gì gọi là Thiền đạo
nữa?
Học
tăng cuối cùng đã hiểu Thiền đạo ngay ở bên mình, từ
đó lưu lại Việt Khê tham học.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Trong
Thiền tông, các học tăng khi tham học, thường bị đánh chửi,
kỳ thực các thiền sư rất ôn hòa. Các thiền sư đánh mắng
là để cho học tăng tự mình cảm thọ triệt để. Đánh
vỡ rồi nhặt lên, đổ nước rồi lau khô, như vậy còn chưa
đủ để ngươi ngộ sao?
1134. Làm sao hiểu được?
Vân
Môn sau khi đã khai ngộ nơi Mục Châu, bèn đi du phương. Tại
Giang Châu gập được thượng thư Trần Tháo. Trần Tháo cũng
là một học giả Thiền học, lúc mới gập mặt bèn đặt
câu hỏi thử thách:
-
Thế nào là chuyện hành cước của nạp tăng?
Vân
Môn không đáp hỏi ngược lại:
-
Ông đem câu này hỏi qua bao nhiêu người rồi?
-
Mặc kệ con hỏi bao nhiêu người, hôm nay con chỉ hỏi thầy.
-
Chuyện này để từ từ, ta hỏi ông thế nào là ba tạng giáo
nghĩa?
-
Quyển vàng, trục đỏ.
-
Đó chỉ là văn tự, giấy mực, không phải là chân nghĩa
của Phật pháp; xin nhắc lại thế nào là giáo nghĩa?
-
Mở miệng là lời chết, tâm muốn duyên thì lự vong.
-
Mồm muốn nói là lời chết là đối hữu ngôn; tâm muốn
duyên thì lự vong là đối vọng tưởng. Vẫn chưa đúng! Nói
lại thế nào là giáo nghĩa.
Trần
Tháo không trả lời được.
-
Nghe nói thượng thư bình thời nghiên cứu kinh Pháp Hoa?
-
Dạ phải.
-
Kinh nói tất cả sinh sản nghiệp cùng bảo tướng không trái
nghịch. Xin hỏi phi phi tưởng thiên có mấy vị trở lại?
Trần
Tháo không trả lời được.
-
Ta đã xem qua 10 kinh, 5 luận sau lại vào nghiệp lâm tu hành,
10 năm, 20 năm mới khai ngộ; thượng thư chỉ mới xem qua vài
quyển kinh luận làm sao hiểu được?
-
Xin thầy thứ lỗi, thật là lỗi của con!
Từ
đó Vân Môn lưu lại nhà Trần Tháo 3 năm.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
môn chứng ngộ, không sợ không mở miệng, chỉ cần mở miệng
là biết ngộ hay không. Vân Môn sau ba lần bị nắm ngực đuổi
ra cửa khi tham Mục Châu, rồi sau trăm cay ngàn đắng mới
khai ngộ. Do đó thượng thư Trần Tháo mới đọc vài quyển
làm sao so sánh được.
1135. Kết bạn.
Dược
Sơn là vị trụ trì ở Tịnh Độ Viện, Hàng Châu, giữ gìn
giới luật rất nghiêm, từng tiếp dẫn thái thú Lý Cao quy
y Phật pháp, cũng từng giảng pháp cho Đường Văn Tông. Tuy
vậy tính ông vốn đạm bạc, không thích giao tiếp. Các vị
đại thần trong triều thường tranh nhau mời mọc cung dưỡng,
nhưng ông đều tìm cách từ chối. Ông cùng Tường Thị lang
có thể coi là bạn rất thân. Một hôm Tường Thị lang mời
ông:
-
Ngày mai hàn xá có nhiều văn nhân nhã tập, có vài tri kỷ,
bạn tốt, đều là những vị học giả, danh sĩ đương đại,
mạo muội mời thầy đến phổ độ cam lộ, diễn nói diệu
pháp thì rất hân hạnh cho chúng tôi.
Dược
Sơn cố từ nhưng Tường Thị lang cố ép, bất đắc dĩ Dược
Sơn phải hứa hôm sau sẽ đến. Hôm sau, Tường Thị lang sai
người đến đón, nhưng Dược Sơn đã rời viện. Người
đi đón không tìm thấy Dược sơn, nhưng thấy trên bàn có
lưu lại một bài kệ:
昨
日 僧 將 今 日 其
Tạc
nhật tằng tương kim nhật kỳ
出
門 倚 杖 又 思 惟
Xuất
môn ỷ trượng hựu tư duy
爲
橧 祇 合 居 巖 穴
Vi
tăng chỉ hợp cư nham huyệt
國
士 筵 中 葚 不 宜
Quốc
sĩ diên trung thậm bất nghi.
Hôm qua tưởng hôm nay sẽ đến
Ra cửa chống gậy lại nghĩ rằng
Làm tăng nên ở nơi hang động
Nhóm cùng danh sĩ có nên chăng?
Bèn
đem về dâng lên thị lang.
Thị
lang xem xong không giận Dược sơn đã thất hứa mà còn kính
trọng thêm.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Tánh
cách của người xuất gia không đồng. Có người phát tâm
hoằng pháp khắp giai tầng kêu là: Nhân gian Tỳ khưu; có người
thích ở núi sâu rừng thẳm gọi là Lan Nhã Tỳ khưu. Đó
là do sự bất đồng về bi nguyện của Tiểu thừa và Đại
thừa. Đức Phật thường giảng pháp cho các vua chúa, đại
thần nhưng ngài cũng để cho Ca Diếp tĩnh tọa ở trong núi,
ven sông. Do đó có nghĩa học tỳ khưu, hoằng pháp Tỳ khưu,
trì luật tỳ khưu, thần dị tỳ khưu.. . Phong cách của các
đại thiền sư, có người là quốc sư, có người là ẩn
giả, đều là vì lợi ích của chúng sinh nhưng hình tượng
thì không đồng.
1136. Chiến sĩ.
Một
lần, một đoàn quân dã chiến học diễn tập, các sĩ quan
nhận thấy tạm trú ở tu viện Nga Sơn là thích hợp nhất.
Do đó yêu cầu nhà chùa cung cấp cho 3 bữa ăn. Nga Sơn bảo
Điển Tọa:
-
Cung cấp thực phẩm cho họ như chúng ta thường dùng hàng
ngày để kết duyên.
Do
đó đoàn quân chỉ có rau và củ cải, không có thịt cá để
ăn. Đoàn quân rất tức giận, một vị sĩ quan chạy đến
tìm Nga Sơn phẫn nộ trách:
-
Ngươi coi bọn ta là hạng ngươi gì?
-
Ta coi các ngươi như chính mình.
-
Vậy sao chỉ cho bọn ta ăn toàn rau và củ cải?
-
Chúng ta hàng ngày đều ăn rau và củ cải mà không chán.
Sĩ
quan giận dữ hét lớn:
-
Ngươi biết chúng ta là ai không? Chúng ta là chiến sĩ đánh
giặc chẳng tiếc thân mạng.
Nga
Sơn cũng không khách khí hét lại:
-
Còn ngươi coi bọn ta là ai? Chúng ta là sứ giả của chân
lý, cái gì chúng ta cũng xả bỏ để cứu độ chúng sinh!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thế
giới ngày nay có biết bao loại bạo lực: thiên tai, khủng
bố, chiến tranh khiến mọi người phải kinh sợ, luôn bị
cái chết ám ảnh, nếu không có tôn giáo an định lòng người
thì xã hội lại càng hỗn loạn. Người xuất gia ly gia
cắt ái, truyền thừa chân lý khiến cho nhân loại có chỗ
nương dựa. Cống hiến cả đời, can tâm đạm bạc, không
phải ai cũng làm được.
1137. Hiểu căn nguyên.
Văn
Thù Tâm Đạo thiền sư tham cứu “3 giới duy tâm, vạn pháp
duy thức” nhiều năm, nhưng đối với vấn đề tâm thức
vẫn chưa khế hội, bèn đi hành cước tham phỏng. Một hôm
đến Thái Bình Phật Giám định đem công án “cây Bách trước
sân” của Triệu Châu để hỏi. Nhưng Phật Giám (Giác Thiết
Chủy) đã đoán trước, liền bảo:
-
Thầy ta không có lời này, đừng hủy báng ổng!
Tâm
Đạo do đó khởi nghi tình tham cứu nhiều ngày có chỗ tỉnh
ngộ bèn đến phòng phương trượng tưởng đem kiến địa
của mình giãi bầy cho Phật Giám. Nhưng Phật Giám thấy có
người đến bèn đóng cửa lại.
Tâm
Đạo ở bên ngoài kêu lớn:
-
Thiền sư, chẳng nên lừa dối con.
-
Mười phương không tường vách
Sao chẳng mau đi vào?
Tâm
Đạo dùng tay phá rách cửa giấy, Phật Giám liền mở cửa
túm lấy Tâm Đạo:
-
Nói! Nói!
Tâm
Đạo dùng hai tay bưng đầu Phật Giám, miệng giả khạc nhổ,
đọc bài kệ:
趙
州 有 個 柏 樹 話
Triệu
Châu hữu cá bách thụ thoại
禪
客 相 傳 滿 天 下
Thiền
khách tương truyền mãn thiên hạ.
多
是 摘 葉 與 尋 枝
Đa
thị trích diệp dữ tầm chi
不
能 直 向 根 源 會
Bất
năng trực hướng căn nguyên hội
覺
公 說 道 無 此 語
Giác
công thuyết đạo vô thử ngữ
正
是 惡 言 當 面 罵
Chính
thị ác ngôn đương diện mạ
禪
人 若 具 通 方 眼
Thiền
nhân nhược cụ thông phương nhãn
好
向 此 中 辨 真 假
Hảo
hướng thử trung biện chân giả.
Triệu Châu có câu chuyện cây Bách
Thiền
khách truyền đi khắp bốn phương
Đều là vạch cành và bới lá
Chẳng thể hiểu ngay từ ngọn nguồn.
Giác công rằng chuyện này vốn không
Chính là ngay mặt mắng lời ác
Người thiền nếu đã có mắt thông
Chân giả có thể nhận ra được.
Phật
Giám ấn chứng cho ông:
-
Ngươi đã khai ngộ rồi!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thế
gian có chuyện thị phi, biện minh đạo lý cũng có chân giả.
Câu đáp của Triệu Châu là chỉ cây Bách tùy theo mùa mà
lá biến đổi, cái cảnh giới vô tâm đó là ý tổ sư từ
Tây sang. Tâm Đạo ở nơi Phật Giám đã tìm đến tận gốc
rễ, thể ngộ vô phân biệt trí. Do đó không trách gì đã
mắng mỏ các thiền giả trí giải trong thiên hạ.
1138. Người thiếu nữ hấp dẫn nhất.
Có
một nữ thí chủ, gia cảnh rất sung túc. Bất luận là tiền
tài, địa vị, năng lực, quyền lực, dung mạo đều hơn người.
Nhưng cô rất cô đơn, ngay một bạn để tâm sự cũng không
có. Vì vậy cô đến thỉnh giáo Vô Đức làm sao để có sô
lực khiến người khác hoan hỉ. Vô Đức bảo cô:
-
Con phải cùng mọi người hợp tác, giống như Phật đầy
lòng từ bi nói chuyện Thiền, nghe âm Thiền, làm chuyện Thiền,
dùng tâm Thiền, con sẽ thành người có sô lực nhất.
-
Làm sao nói chuyện Thiền.
-
Là nói chuyện vui vẻ, chân thật, khiêm tốn, làm lợi cho
người.
-
Thiền âm làm sao nghe?
-
Thiền âm là hóa tất cả các âm thanh thành tiếng vi diệu,
đem những lời chửi rủa biến thành những tiếng từ bi,
đem những tiếng hủy báng biến thành lời nâng đỡ, những
tiếng khóc, tiếng ồn ào đều không để ý.
-
Làm sao làm chuyện Thiền?
-
Là bố thí, làm việc thiện, phục vụ tha nhân, hòa hợp Phật
pháp.
-
Làm sao dụng tâm Thiền?
-
Là ta người một tâm, phàm thánh là một, bao dung phổ lợi
tất cả.
Nữ
thí chủ nghe rồi sửa đổi không còn kiêu ngạo giầu có,
tài giỏi, xinh đẹp. Đối với mọi người rất lễ phép,
đối với họ hàng rất quan tâm. Chẳng bao lâu trở thành
người hấp dẫn nhất.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
không phải là lý luận, thiền là sinh hoạt. Trong sinh hoạt
có Thiền thì pháp lực vô cùng: mọi người đều tôn trọng,
nơi nơi đều quý mến.
1139. Đại Điên và Hàn Dũ.
Hàn
Dũ hỏi Đại Điên:
-
Xin hỏi hòa thượng bao nhiêu tuổi?
Thiền
sư giơ niệm châu lên hỏi lại:
-
Hiểu không?
-
Không hiểu.
-
Ngày đêm 108.
Hàn
Dũ không hiểu hàm ý gì, ngày hôm sau lại đến thỉnh giáo.
Khi tới cửa chùa gập một chú tiểu bèn hỏi:
-
Hòa thượng bao nhiêu tuổi?
Chú
tiểu không đáp, chỉ nghiến răng 3 lần. Hàn Dũ mơ hồ như
đi trên mây, vào gập Đại Điên xin khai thị. Đại Điên
cũng nghiến răng 3 lần. Lần này Hàn Dũ như có chỗ ngộ:
-
Nguyên lai Phật pháp không hai, đều cùng một dạng.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Công
án này có ý tưởng gì? Hàn Dũ hỏi hòa thượng bao nhiêu
tuổi, do kinh nghiệm đời thường, muốn tính thời gian. Sự
thật thời gian luân chuyển không ngừng, không đầu không
cuối làm sao có thể nói là bao nhiêu. Tại vô hạn thời gian,
không gian, sinh mạng không ngừng luân hồi. Nghiến răng 3 lần
là chỉ trong vô tận sinh mạng, chúng ta không nên trình khẩu
thiệt, trừ ngôn ngữ, văn tự chúng ta phải chứng nghiệm
Phật pháp, nhận thức bản lai diện mục, tìm được cái
vĩnh hằng trong tam thiên đại thiên thế giới.
1140. Ta ở đâu?
Thiền
sư Vô Căn có một lần nhập định 3 ngày; đại chúng tưởng
ông đã chết bèn mang đi thiêu. Vài ngày sau, thần thức của
Vô Căn xuất định, không tìm thấy thân thể. Cả chùa đều
nghe tiếng Vô Căn tự hỏi:
-
Ta, ta đang ở đâu?
Càng
về đêm tiếng kêu của Vô Căn càng bi thảm khiến mọi người
bất an. Một hôm, đạo hữu của Vô Căn là thiền sư Diệu
Không biết chuyện này, bảo đại chúng:
-
Hôm nay ta sẽ ở trong phòng Vô Căn, khi ông tới ta sẽ nói
chuyện với ông. Các ngươi hãy chuẩn bị cho ta một thùng
nước và một lò lửa. Ta muốn cho ông biết thế nào là cái
ta.
Đêm
khuya Vô Căn trở lại tìm thân thể bi thiết kêu lên:
-
Ta, ta đi đâu rồi?
Diệu
Không trả lời:
-
Ngươi ở trong đất.
Vô
Căn vào đất tìm Đông, tìm Tây, rất lâu thấy tiếng kêu
lên:
-
Trong đất không có ta.
-
Vậy ngươi vào hư không coi.
-
Hư không cũng không có ta.
Diệu
Không chỉ thùng nước:
-
Ngươi ở trong nước.
-
Trong nước không có ta.
Diệu
Không chỉ lò lửa:
-
Ngươi ở trong lửa.
-
Trong lửa cũng không có ta.
-
Ngươi đã có thể vào đất, nước, lửa, tự do tự tại
ra vào hư không ngươi còn tiếc cái sắc thân bị chướng
ngại nữa làm gì?
Vô
Căn nghe rồi có tỉnh, từ đó không còn đi tìm cái ta nữa.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Chân
ngã không phải là sắc thân. Sắc thân có chướng ngại, có
bệnh; sắc thân vô thường, chân ngã là pháp thân. Chân ngã
ở khắp hư không, tràn đầy pháp giới, tự cổ đến nay
không biến, trải qua vạn kiếp vẫn mới. Thiền giả chứng
ngộ chân tâm, cùng pháp thân tương ứng. Vô Căn niệm niệm
không quên túi da thối làm sao giải thoát, may gập Diệu Không
phương tiện chỉ thị mới tìm lại được chân ngã.
1141. Tông Diễn.
Tông
Diễn khi còn là một vân thủy tăng, tham thiền với thiền
sư Tuấn Nhai ở Kiến Nhân Tự. Một ngày mùa hạ nọ, trời
rất nóng nực Tông Diễn lợi dụng lúc Tuấn Nhai ra ngoài,
nằm duỗi thẳng tứ chi ở hành lang chùa mà ngủ. Không lâu
Tuấn Nhai trở về. Nghe tiếng bước chân thầy Tông Diễn
tỉnh giấc, kinh sợ, nhưng không đủ thời gian để lẩn tránh
đành mặt dầy mày dạn giả vờ ngủ. Tuấn Nhai bước nhẹ
vòng qua chân Tông Diễn nhỏ nhẹ:
-
Xin lỗi! Xin lỗi!
Tông
Diễn lúc đó mắc cỡ, xuất mồ hôi lạnh từ đó không giám
chểnh mảng một giây, sáng chiều tinh tấn tham thiền. Tuấn
Nhai viên tịch rồi, Tông Diễn trở thành một đại tôn sư,
lãnh đạo 300 học tăng tham thiền. Nhân nhớ đến lão sư
đối với mình rất từ bi, do đó ông đối với các học
tăng cũng rất khoan dung. Về sau trở về già vì phải bận
rộn giáo dục các học tăng ngày đêm, không có thì giờ ngủ
thành giấc, bất đắc dĩ lợi dụng lúc tọa thiền chợp
mắt một lúc.
Có
một lần một học tăng bình phẩm:
-
Lão thiền sư Tông Diễn mỗi ngày ngồi thiền đều có tập
quán ngủ. Chúng ta hỏi sao thầy tọa thiền lại ngủ, lão
sư bảo mình vào mộng để gập cổ thánh, tiên hiền giống
như Khổng Tử mộng thấy Chu Công vậy mà!
Lời
bình phẩm này lan truyền rất rộng, thậm chí các học tăng
cũng lợi dụng lúc tham thiền để ngủ. Tông Diễn không ngừng
khích lệ các học tăng dụng công. Một học tăng không phục
thưa:
-
Chúng con cũng vào mộng để gập cổ thánh, tiên hiền giống
như Khổng Tử mộng thấy Chu Công.
Tông
Diễn không giận hỏi lại:
-
Các ngươi gập cổ thánh, tiên hiền, họ khai thị gì cho các
ngươi?
Các
học tăng không trả lời được, nhưng đều có chỗ tỉnh
ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Cảnh
giới của học tăng và lão sư không đồng. Tông Diễn nhận
sự từ ái của thầy nên cũng đem lòng từ ái nhiếp thọ
học tăng. Nhưng trong sự giáo dục từ ái không, không đủ
uy lực chiết phục, không dễ gì tạo thành tánh tôn sư trọng
đạo. Nhưng Tông Diễn ngoài ái tâm còn thêm thiền vị nên
cuối cùng đã chiết phục được các học tăng.
1142. Làm sao thấy Đạo?
Mã
Tổ Đạo Nhất lúc còn trẻ, mới gập Hoài Nhượng hỏi:
-
Dụng tâm thế nào để khế hợp Vô Tướng Tam Muội?
-
Ngươi học tâm địa pháp môn như gieo mạ, ta thuyết Phật
pháp như mưa rơi, chỉ cần duyên hợp thì sẽ thấy Đạo.
-
Thầy nói thấy Đạo là thấy Đạo nào? Đạo không có hình
tướng làm sao có thể thấy Đạo vô hình, vô tướng được?
-
Cái tâm địa pháp nhãn này có thể thấy Đạo; Đạo vốn
là Vô tướng tam muội, cũng do từ tâm địa pháp môn tự
thấy Đạo vậy.
Hoài
Nhượng sợ Mã Tổ còn chưa hiểu rõ lại thêm:
-
Nếu có thể khế hợp Đạo thì Đạo không đầu không cuối,
không thành không hoại, không tụ không tán, không dài không
ngắn, không tĩnh không loạn, không nhanh không chậm. Nếu hiểu
lý này thì đó là Đạo.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Đạo
là gì? Đạo không có thời gian: không đầu không cuối, Đạo
không có không gian: không trong không ngoài. Đó là chân lý.
Đạo từ cổ cho đến nay không biến, trải vạn kiếp vẫn
mới toanh. Làm sao thấy đạo? Chỉ cần rõ tự mình thường
trú chân tâm là thấy Đạo.
1143. Còn nặng không?
Thiền
sư Cảnh Hư người Đại Hàn dẫn đệ tử mới xuất gia là
Mãn Không đi hành cước. Mãn Không trên đường không ngớt
than phải vác hành lý nặng nề, xin sư phụ tìm chỗ nghỉ
chân. Cảnh Hư không chịu, cứ thẳng bước. Khi đi qua một
trà sơn trang, một thiếu phụ từ trong nhà bước ra. Sư phụ
bỗng nắm lấy tay người phụ nữ ấy. Thiếu phụ la to, người
nhà và láng giềng nghe tiếng kêu chạy ra nghĩ rằng hòa thượng
này trêu ghẹo phụ nữ, đều nhất tề hô đánh. Cảnh Hư
thân hình to lớn co giò chạy trước. Đồ đệ Mãn Không lưng
vác hành lý cũng chạy bén gót thầy. Rất lâu sau khi đã chạy
qua khỏi mấy con đường núi, thôn dân không có cách gì đuổi
kịp 2 thầy trò. Tại một chỗ thanh vắng sư phụ bèn dừng
chân bên đường, ngoảnh đầu lại quan tâm đệ tử:
-
Còn thấy nặng không?
-
Sư phụ! Thật là kỳ quái, vừa rồi chạy chẳng thấy hành
lý nặng gì cả!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Đối
với mục phiêu trước mặt nếu không có tín tâm vững chắc
thì việc ngại xa, ngại khó, ngại nặng là điều tất nhiên.
Trái lại nếu vững tin chịu đảm trách thì không còn ngại
xa, ngại khó nữa.
1144. Nghe mà chẳng hiểu!
Vương
Phú Ích là một tín đồ nhiệt thành. Ngoài đi làm ra, hễ
rảnh là chạy tới Đông Thiền Tự hoặc giúp Viên Đầu trồng
cây tưới nước hoặc giúp Điển Tọa bổ củi, nấu cơm,
khi gập Vô Danh thuyết pháp hay khai thị cho các học tăng,
ông đều hết sức lắng nghe. Có một lần Vương Phụ Ích
ở thiền đường nhìn các học tăng ở tư thế mắt nhìn
mũi, mũi quán tâm mà thở dài. Gập đúng lúc Vô Danh đi qua,
Vô Danh hỏi:
-
Ông vì sao mà thở dài?
Vương
Phụ Ích lại thở dài.
-
Bình thường ông phát tâm trợ giúp công việc trong chùa, lại
rất dụng công nghe Phật pháp có thể nói thân, khẩu, ý đều
ngao du trong pháp hải, vì sao lại thở dài?
-
Phiền não của con là nghe mà không hiểu Phật pháp. Đối
với những gì thầy khai thị học tăng, những gì là ý Tổ
sư từ Tây qua? Con chó có Phật tánh không? Tức tâm tức Phật;
thế nào là sự trong tông môn? Thế nào là Phật, thế nào
là khuôn mặt xưa nay, Đạo ở đâu? . . . Mỗi khi con
nghe những Phật pháp này giống như xem hoa trong sương mù!
Thiền sư, vì sao con nghe mà không hiểu?
-
Lúc trước thiền sư Đức Sơn thấy học tăng vào cửa liền
đánh; thiền sư Lâm Tế thì hét, Tuyết Phong thì hỏi là cái
gì? Mục Châu thì nói tất cả đều hiện thành. Lịch Đại
tổ sư, đại đức có người nghiên cứu một công án suốt
đời cũng không thể khai ngộ, cho thấy học Thiền phải dụng
công tham cứu chứ không phải chỉ nghe.
-
Nhưng làm sao tham?
-
Ngươi hãy tham nghe mà chẳng hiểu.
Vương
Phụ Ích nghe rồi có chỗ ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Tham
thiền nên tham thoại đầu; đây là phương pháp bất đắc
dĩ cần phải có một cái gì trợ giúp. Tập trung tinh thần,
thống nhất ý chí chủ yếu là không cho nghĩ ngợi loạn lên.
Các thiền sư đề thị thoại đầu như: ý tổ sư từ Tây
sang . . . không phải là vấn đề dễ hiểu,
nhưng tham cứu rồi thì những thoại đầu này giống như chìa
khóa có thể giúp ta mở cửa bí ẩn vào vũ trụ; Vô Danh bảo
tham “nghe mà chẳng hiểu” lại chẳng nên sao?!
1145. Chẳng là hỗn tạp sao?
Có
một ông vân thủy tăng khi đi tham phỏng, qua một am do
một lão bà quản lý, dừng lại nghỉ ngơi. Ông hỏi bà lão:
-
Sư cô, am này ngoài cô ra còn có quyến thuộc nào không?
-
Có.
-
Sao không thấy?
-
A! Sơn hà đại địa, cỏ cây đều là quyến thuộc của ta
cả.
-
Vô tình không phải là hữu tình, sơn hà cỏ cây có hình dạng
cô sao?
-
Vậy ta có dạng nào?
-
Tục nhân.
-
Ngươi cũng chẳng phải là người xuất gia.
-
Sư cô, cô không thể hỗn tạp Phật pháp.
-
Ta không làm hỗn tạp Phật pháp.
-
Tục nhân trụ trì am, cỏ cây là đạo hữu như vậy không
phải là làm hỗn tạp Phật pháp là gì?
-
Pháp sư! Ngươi không nói vậy được, ngươi là nam nhân, ta
là nữ nhân có hỗn tạp gì đâu?
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Vũ
trụ vạn hữu vốn một thể. Tâm, Phật, chúng sinh không sai
biệt. người đời thường phân biệt cái không sai biệt,
cho nên mới có thị phi, thiện ác, tình và vô tình, thậm
chí nam nữ dị loại, thế và xuất thế đều là pháp đối
đãi; nếu được như lão bà chỉ có một chân pháp giới
thì làm gì có hỗn tạp.
1146. Mặc kệ. Đừng để ý.
Đây
là một thiền án hiện đại. Một cô nương rất xinh đẹp
quyết tâm tham thiền ngộ đạo, đến thỉnh giáo một vị
thiền sư:
-
Con
phải làm sao để tham thiền ngộ đạo?
Lão
thiền sư nghĩ bụng cô gái xinh đẹp này chắc là trong đời
sẽ
gập
nhiều trở ngại bó buộc, làm sao có thể tham thiền ngộ
đạo? Do đó bèn dạy cô một câu quyết:
-
Mặc kệ, đừng để ý.
Đương
nhiên, các thiền sư trong quá khứ dạy tham thiền có nhiều
phương pháp, tỷ như tham “Người niệm Phật là ai?” “Mặt
mũi lúc cha mẹ chưa sanh là gì?” v.v. Câu quyết này là muốn
cô không để cho ngoại cảnh quấy rối; do đó minh tâm kiến
tánh, chứng ngộ Phật pháp. Vị cô nương này không phụ lòng
thiền sư chỉ đạo, nhớ kỹ trong lòng nỗ lực tham cứu.
Một
hôm, có người bảo:
-
Bạn trai cô đến kiếm kìa!
-
Mặc kệ, đừng để ý.
Không
lâu, trường đại học Mỹ gửi giấy thông báo cô đã được
nhận vào học, cô cũng không xem:
-
Mặc kệ, đừng để ý.
Mẹ
cô gọi điện thoại báo cho biết cô đã trúng thưởng.
-
Mặc kệ, đừng để ý.
Trải
qua nhiều lần như vậy, phá hết cửa này, cửa nọ. Một
hôm cô xem lại bức ảnh cũ chụp chung với bà nội, ảnh
vàng cũ kỹ, cô còn là một bé gái kháu khỉnh. Cô thầm nghĩ
đã mười mấy năm rồi mình cũng khác xưa, giống như bà
nội đã chôn vùi dưới lòng đất, chuyển niệm đầu cô
đã phá xong sinh tử quan. Đối với cô sống chết không còn
đáng sợ nữa. Vượt qua vô thường sinh tử, cô ngộ được
cứu cánh bất sinh, bất diệt, an lạc.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Ngộ
cảnh này của cô, đối với những gì hư vọng ở đời,
thực cao hơn nhiều.
1147. Lớn làm nhỏ.
Một
tín đồ đến chùa lễ Phật rồi vào khách đường nghỉ
ngơi. Vừa ngồi xuống liền nghe tiếng một vị tri khách tăng
trẻ nói với lão tăng Vô Đức:
-
Lão sư! Có tín đồ tới, mời rót trà.
Không
đầy 2 phút sau lại nghe:
-
Lão sư! Bình hương đầy tàn nhang rồi, mời đi đổ.
-
Lão sư, nhớ thay nước cho bình bông trên bàn thờ Phật.
-
Lão sư, đến trưa đừng quên mời tín đồ ở lại độ ngọ.
Tín
đồ thấy Vô Đức thiền sư dưới sự chỉ huy của vị tăng
trẻ chạy Đông, chạy Tây bèn hỏi:
-
Lão sư và tri khách tăng có quan hệ gì?
-
Thầy trò.
-
Nếu vậy sao ông ta không lễ phép gì cả, sai thầy chạy đây,
chạy đó?
-
Ta có đồ đệ năng cán như vậy là phúc khí của ta. Tín
đồ đến chỉ muốn ta rót trà, không muốn ta phải giảng
pháp. Bình thường thắp hương hắn làm, ta chỉ đổ tàn nhang.
Hắn chỉ bảo ta giữ tín đồ lại độ ngọ, không bắt ta
nấu cơm, đun nước. Trong chùa mọi chuyện lớn nhỏ đều
do hắn tính toán, an bài, điều này khiến ta rất an ủi, nếu
không thì ta khổ lắm.
Tín
đồ nghe xong vẫn không hiểu:
-
Không biết thầy trò các vị, nhiều tuổi là lớn hay
ít tuổi là lớn?
-
Dĩ nhiên nhiều tuổi là lớn, nhưng ít tuổi cũng hữu dụng
vậy.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Có
câu ngạn ngữ “hòa thượng muốn lão, lão rồi là qúy”.
Tín đồ cung dưỡng tăng chúng đến cúng lão không cúng tiểu,
hộ trì lão cũng không hộ trì tiểu, vì trong tâm tín đồ
lão là lớn, nhỏ là bé, không dễ dàng hiểu được Vương
tử tuy nhỏ nhưng tương lai có thể lãnh đạo quốc gia, sa
di tuy nhỏ nhưng tương lai có thể thành pháp vương. Như Vô
Đức không coi nhẹ hậu học, tùy duyên tri túc, đó chính
là thiền bình đẳng quán.
1148. Rễ cây.
Có
một tín đồ mới học Phật, đọc quyển “Phát Bồ đề
tâm văn” đến câu “Kim Cương không phải là dắn, nguyện
lực mới dắn”, không hiểu ý là gì bèn chạy đi hỏi Vô
Tướng. Vô Tướng bảo:
-
Người học Phật khó tránh được những chướng ngại như
cơ duyên, ma nghiệp v.v… làm bồ đề tâm bị thối lui, nên
cần có nguyện lực trợ giúp. Lịch đại tổ sư thành tựu
đạo nghiệp không người nào là không nhờ nguyện lực, như
bồ tát Phổ Hiền có 10 đại nguyện, bồ tát Quán Thế Âm
có 12 đại nguyện, Phật A Di Đà có 48 đại nguyện., bồ
tát Địa Tạng có đại nguyện “Địa ngục còn người thì
không thành Phật”.
-
Làm sao tưởng thành Phật phải phổ độ chúng sinh?
-
Thí dụ một cây muốn khai hoa kết quả thì phải tưới, chăm
sóc rễ cây, đừng cho nó bị tổn hại. Chúng sinh là căn,
hoa là bồ tát, quả là Phật. Không chăm sóc rễ thì cây sẽ
khô chết làm sao ra hoa, kết quả? Vì thế kinh Hoa Nghiêm có
nói muốn làm chư Phật Long Tượng, trước hết phải làm
trâu ngựa chúng sinh.
-
Thiền sư, nguyện lực của thầy là gì?
-
Nguyện lực của ta không thể nói cho ngươi biết
-
Tại sao?
-
Nguyện lực của ta là của ta, sao ngươi không tự phát nguyện
lực?
Tín
đồ cuối cùng đã hiểu, bái tạ mà đi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Mỗi
người đều có nguyện lực riêng của mình, không cần phải
hỏi nguyện lực của người khác. Trước hết hãy tự hỏi
mình định làm gì cho chúng sinh, thí dụ như làm đò để
chở người qua sông, làm đường cho người đi, làm cây để
cho bóng mát, làm trâu để giúp đỡ nông gia. . .
1149. Làm trâu.
Quy
Sơn sắp mất, một ông tăng hỏi:
-
Thầy mất rồi sẽ đi đâu?
-
Xuống núi làm trâu?
-
Con có thể đi cùng thầy không?
-
Nếu ngươi muốn đi với ta, đừng quên mang theo bó cỏ.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Quy
Sơn không cầu chứng Niết Bàn, không cầu sinh ở nước Phật,
nguyện xuống núi làm trâu. Tự cổ, các thiền sư đều không
cầu là Phật, chỉ cầu khai ngộ. Thầy nào trò đó. Ông tăng
muốn theo thầy, Quy Sơn dặn đừng quên bó cỏ, ý rằng phải
độc lập sinh tồn.
1150. Rửa mặt bẩn.
Liên
Trì một lần đương viết “Thập Thiện Hạnh” một ông
tăng đến hỏi:
-
Nghe nói Thiền không có khen, cũng không có chê, nay thầy viết
sách này mà có ích gì?
-
Năm uẩn bao vây khiến cảnh không ngừng. Bốn đại tung tăng
không định được, sao ngươi nói là không có thiện ác?
-
Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng có. Các pháp thiện ác
đều không phải là thiền.
-
Có nhiều người tưởng mình hiểu chuyện; ngươi cũng chẳng
tốt lành gì. Ngoài thiện ác ra, thử nói pháp khác xem nào?
Ông
du tăng mặt đầy khí giận, tâm sân hận chỉ nhìn mặt xanh
lè là biết. Liên Trì ôn tồn bảo:
-
Ngươi sao không đi lau mặt bẩn?
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiện
ác là pháp, pháp không thiện ác. Trong chân như theo lý thì
một pháp chẳng lập. Nhưng trong sự tướng thì thiện ác
nhân quả rõ ràng. Thiền tuy vượt lên thiện ác nhưng ông
du tăng từ tâm sân hận hiện lên mặt, không rửa sao được?
1151. Ngươi từ đâu tới?
1.
Lục Tổ hỏi Huệ Trung:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Con ở gần đây tới.
2.
Lục tổ hỏi Thần Hội:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Con không từ đâu tới.
Lục
tổ rất tán thưởng.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Do
Ngũ tổ hỏi Huệ Năng “Ngươi từ đâu tới?” là nhân duyên
khai thị cho Huệ Năng nhập đạo. Do đó về sau khi Huệ Năng
tiếp dẫn học nhân đều hỏi “Ngươi từ đâu tới?” để
khai thị, khảo nghiệm, muốn học nhân đề khởi nghi tình,
thâm cứu chân tượng. Đề khởi nghi tình là phương pháp
tiếp cơ của Thiền tông thường xử dụng. Từ các câu hỏi
liên tiếp, thiền giả cuối cùng phản chiếu tự tánh, tự
nhận biết bản lai diện mục.
1152. Bảo tọa của thiền sư.
Thiền
sư Phật Quang nói pháp, khai thị, tiếp Tâm cho học tăng đều
ngồi ở bảo tọa ở pháp đường. Do đó bảo tọa đối
với đại chúng là biểu tượng của Pháp, của ngộ; nên
còn được gọi là pháp tọa. Có một lần, Phật Quang phải
đi về Nam để hoằng pháp ít ngày. Cũng như mọi ngày thị
giả đều ở pháp đường quét dọn, lau chùi; pháp tọa của
Phật Quang sạch không một hạt bụi. Một hôm thị giả vô
cùng kinh ngạc thấy tri khách tăng ngồi ở bảo tọa nói chuyện
với tín đồ. Vì đối phương là tri khách sư nên thị giả
không dám biểu lộ gì, nhưng trong lòng thấy bực bội. Đến
bữa cơm chiều Duy Ma sư cũng ngồi tự nhiên ở bảo tọa
nhắm mắt tham thiền. Thị giả thấy vậy cho là không phải
nghĩ bụng: “Đây là bảo tọa của thiền sư mà! Làm sao
lại không tôn trọng?” Tiếp đó Y bát sư, Điện chủ sư,
Hương đinh sư khi tại pháp đường tiếp khách đều rất
tự nhiên ngồi ở bảo tọa.
Một
hôm thị giả vào pháp đường lau chùi thấy Tri khách sư,
Hương sư. . . các chấp sư đều tại pháp đường bàn chuyện
hàng ngày; Tri khách sư vẫn ngồi ở bảo tọa. Thị giả đã
nhiều ngày bất bình, nhịn không được bất giác hỏi:
-
Các vị chấp sự pháp sư, các vị có biết chỗ này là chỗ
nào không? Pháp đường để làm gì?
-
Là nơi Phật Quang thiền sư khai thị, thuyết pháp, tiếp tâm
cho học tăng, ai chả biết.
Thị
giả không vui, lại hỏi:
-
Nếu là vậy, sao quý vị không tôn kính mà lại còn ngồi
nói chuyện vụn vặt?
Các
vị chấp sự đều nói:
-
Vì thiền sư đi vắng.
-
Thiền sư đi vắng, các vị đều thay mặt thiền sư chủ trì,
vậy xin quý vị hãy khai thị cho đệ tử.
Các
vị chấp sự không trả lời được.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Ở
thế gian họ hàng hộ thân, nhân dân hộ quốc, tín đồ hộ
giáo. Trong công án này thị giả hộ chủ. Kỳ thật hộ chủ
không nhất định phải là thị giả. Chủ ngày nay là người
lãnh đạo. Bất cứ một quốc gia, một đoàn thể nào cũng
đều nên củng cố một trung tâm lãnh đạo. Nếu không trên dưới không có trật tự, loạn tùng phèo. Bảo tọa của thiền
sư tượng trưng cho quyền uy của Phật pháp. Thị giả trong
câu chuyện này không những hộ chủ mà còn hộ pháp nữa.
1153. Độ kẻ trộm.
Một
tối, thiền sư Tàn Mộng đang đọc sách ở phương trượng
thất, bỗng nghe có tiếng động ở ngoài tường; nghĩ rằng
có thể là ăn trộm, bèn gọi thị giả:
-
Đem chút tiền cho ông bạn đang khoét tường.
Thị
giả chạy ra ngoài kêu:
-
Này, đừng làm hỏng tường, hãy cầm lấy chút tiền!
Kẻ
trộm nghe rồi hoảng sợ bỏ chạy.
Tàn
Mộng trách thị giả:
-
Ngươi sao kêu lớn vậy? Làm cho hắn sợ hãi. Tội nghiệp
chưa lấy được tiền đã phải chạy rồi. Trời lạnh thế
này có lẽ cũng chưa có gì trong bụng. Ngươi không mau đuổi
theo đưa tiền cho hắn.
Thị
giả không làm sao được, đành tuân lệnh thầy, trong đêm
lạnh lẽo tìm khắp nơi không biết kẻ trộm trốn đâu.
Lại
có một vị thiền sư tên là An Dưỡng. Một lần nửa đêm
trộm vào trộm cái mền duy nhất của bà. An Dưỡng không
có cách nào chỉ đành lấy giấy phủ lên mình cho ấm. Kẻ
trộm bị các đệ tử đi tuần bắt gập hoảng sợ bỏ mền
lại chạy lấy người. Đệ tử thấy là mền của thầy bèn
mang vào trả.
-
Ái chà! Đây chẳng phải là cái mền bị trộm sao? Tại sao
lại mang trở lại? Nếu là của trộm trộm đi thì là của
hắn ta, hãy mang đi trả hắn mau!
Đệ
tử chỉ đành hết sức đuổi cho kịp nói ý sư phụ cho hắn
nghe. Kẻ trộm cảm động bèn quay lại thiền viện hướng
An Dưỡng sám hối và xin quy y; từ đó cải tà quy chánh.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Có
người nói thiền giả đều có tâm sắt đá, không để ý
gì đến khổ nạn. Nhưng như chúng ta đã thấy Tàn Mộng và
An Dưỡng họ từ bi quên mình, yêu người, bọn thường nhân
há sánh kịp sao? Thực ra người ngộ đạo như Phật xẻ thịt
nuôi chim ưng, xả thân cho hổ ăn, đại nhân, đại dũng, đại
trí, đại hạnh, vô duyên đại từ, đồng thể đại bi chỉ
vì đã ngộ thiền vậy.
1154. Nguyên lý của guồng nước.
Thiền
sư Vô Tướng đi hành cước bị khát nước, bèn tìm nguồn
nước để giải khát. Xa xa thấy một thanh niên đang đạp
guồng nước ở ao. Vô Tướng bèn chạy lại xin một chén.
Thanh niên ngưỡng mộ thưa:
-
Nếu có một ngày nào con chán hồng trần, con nhất định
cũng như thầy xuất gia học đạo. Nhưng con khác thầy ở
chỗ con sẽ tìm một nơi ẩn cư tham thiền, chứ không đi
lang thang như thầy.
-
A! Khi nào ngươi chán hồng trần?
-
Cả vùng này chỉ có con là biết rõ cách xử dụng guồng
nước này, nếu tìm được người thay thế con nhất định
xuất gia.
-
Ngươi hiểu rõ guồng nước; vậy nếu guồng chìm trong nước
hay hoàn toàn ở trên không thì sao?
-
Nguyên lý của guồng nước là một nửa ở trong nước một
nửa ở trong không thì nó mới chuyển.
-
Quan hệ của guồng nước và dòng nước cũng giống như quan
hệ của con người với cuộc đời. Nếu một người nhập
thế phóng túng giang hồ khó mà thoát khỏi ngũ dục hồng
trần lôi cuốn. Nếu hoàn toàn xuất thế, tự cho mình là
thanh cao không cùng thế gian lai vãng thì cũng trôi nổi không
tiến được. Do đó người tu đạo phải nên ra vào. Không
đứng một bên, cũng không đắm mình vào. Người xuất gia
chán hồng trần chưa đủ, phải phát nguyện độ chúng sinh.
Đó mới là thái độ của người xuất gia chân chính.
Thanh
niên nghe rồi hoan hỉ vô cùng:
-
Thiền sư, những lời thầy giảng khiến con khai ngộ, thầy
thật là thiện tri thức của con.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Một
người nếu đối với ngũ dục, lục trần quá chấp trước
thì tham ái làm đầu óc mê muội, nếu quá độ xả bỏ thế
gian thì không còn sinh khí. Con người phải cất lên được,
cũng bỏ xuống được, phải thuận theo Trung Đạo.
1155. Phật pháp chân chính.
Thiền
sư Hữu Tâm đức cao vọng trọng, bác học đa văn là trụ trì Tịch Tướng Tự. Người đến hỏi đạo thì nhiều,
nhưng ít người khế nhập. Ông có một sư đệ là Hữu Đắc,
căn cơ trì độn, lại chột một mắt, bình thường giúp đỡ
sư huynh những việc lặt vặt, chưa hề cùng tín đồ đối
mặt thuyết pháp bao giờ. Một hôm Hữu Tâm vừa ra khỏi cửa
thì có một thiền tăng đến tham phỏng hy vọng đối diện
khai thị. Sư đệ Hữu Đắc bất đắc dĩ phải dùng phương
thức không lời tiếp kiến vị thiền tăng. Hai người đối
mặt không nói một lời, chỉ dùng tay ra hiệu. Không lâu vị
thiền tăng vui vẻ bái tạ, cáo lui. Trên đường về gập
Hữu Tâm, liền khen ngợi Hữu Đắc thật là một vị thiền
sư pháp tướng. Rồi ông thao thao thuật lại quá trình thỉnh
ích:
-
Mới đầu, đệ tử giơ một ngón tay lên biểu thị đấng
thế tôn đại giác, trời người không hai. Hữu Đắc giơ
hai ngón tay lên biểu thị Phật pháp tuy hai nhưng là một thể
lưỡng diện; tuy hai mà một. Đệ tử lại giơ ba ngón tay
lên biểu thị Phật, Pháp, Tăng tam bảo hòa hợp, thiếu một
cũng không được. Hữu Đắc bèn giơ nắm đấm lên biểu
thị tam bảo là do nhất ngộ mà được. Tới đó đệ tử
chỉ còn cách lạy tạ mà lui.
Thiền
tăng kể rồi đi, Hữu Tâm về tới chùa Hữu Đắc ra đón,
mặt đầy sắc giận ra báo cáo:
-
Vừa rồi có một thiền tăng rất vô lý. Vừa vào thấy đệ
chột mắt, bèn giơ một ngón tay lên kiêu ngạo với đệ.
Vì hắn là khách nên đệ giơ 2 ngón tay lên có ý bảo ngươi
thật may mắn có đủ 2 mắt.Ngờ đâu con người này thật
vô lễ, liền giơ 3 ngón tay lên ám chỉ đệ và hắn hai người
chỉ có 3 con mắt. Sư huynh bảo có đáng giận hay không; do
đó đệ giơ nắm đấm lên định đánh cho hắn một trận,
hắn vội chuồn mất.
Hữu
Tâm nghe rồi không nín được cười.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Trọng
yếu của Phật pháp là khế lý, khế cơ. Ở pháp hội Hoa
Nghiêm hạng nhị thừa thanh văn nghe Phật thuyết pháp như
người câm điếc nên có 5 ngàn người bỏ ra ngoài. Bình thời
hoằng pháp truyền đạo khế lý rất dễ còn khế cơ rất
khó. Như Hữu Tâm đức học câu toàn, nhưng khó mà khai ngộ
cho người khác. Hữu Đắc tuy căn tính trì độn nhưng cùng
vị thiền giả có duyên dùng tay vẽ chân, đầu lừa chẳng
đối miệng ngựa mà khiến thiền giả ngộ đạo. Đó thật
là mây vô tâm ra khỏi hang, người hữu duyên có thể ngộ
đạo.
1156. Gõ mõ đánh trống.
Một
ín đồ hỏi Phật Quang:
-
Gìa lam thanh tịnh tại sao lại gõ mõ đánh trống?
-
Chẳng vẹt mây xanh sao thấy Long Môn?
-
Ở nhà cũng có thể học Phật, việc gì phải khoác áo cà
sa?
-
Khổng tước tuy đẹp nhưng đâu bằng chim hồng hạc bay xa.
Những
nghi ngờ của tín đồ đã được Phật Quang giải tỏa.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Cá
ở trong nước không nhắm mắt bao giờ. Mõ thường được
tạo hình cá nên còn được gọi là mộc ngư. Gõ mõ là tượng
trưng cho sự tu hành tinh tiến, không lười biếng. Đánh trống
là để tiêu nghiệp tăng phúc. Tu tại gia cố nhiên là tốt
nhưng đâu có sánh được với người xuất gia có thể chuyên
tâm tu hành? Có chút nghi vấn nếu không giải đáp được
thì như có hàng ngàn nút kết. Nhưng được giải thích rồi
thì như vẹt mây mù mà thấy trời xanh. Thiền su có lúc giải
thích, có lúc không giải thích. Nhưng đều là nói những chuyện
không tương can. Nếu có thể hiểu ý ngoài lời thì nhất
cử nhất động không gì không là thiền.
1157. Hàng ngày ăn gì?
Vân
Cư đến tham phỏng Động Sơn, Động Sơn hỏi:
-
Ngươi từ đâu tới?
-
Con từ Thúy Vi tới.
-
Thúy Vi dạy các ngươi những gì?
-
Mỗi năm Thúy Vi đều cúng dường 18 La Hán và 500 La Hán. Tế
lễ rất long trọng. Con có hỏi “Tế lễ long trọng như vầy
không biết các vị La Hán có đến không?” Thúy Vi trả lời
“Vậy hàng ngày ngươi ăn gì?” Con nghĩ lời này là giáo
huấn của Thúy Vi vậy!
Động
Sơn nghe rồi rất kinh ngạc hỏi lại:
-
Thúy Vi thực dạy dỗ các ngươi như vậy sao?
-
Chính vậy.
Động
Sơn rất vui vẻ và khen ngợi Thúy Vi. Vân Cư lại hỏi:
-
Xin hỏi hàng ngày thầy ăn gì?
Động
Sơn không suy nghĩ, đáp ngay:
-
Ta cả ngày ăn cơm mà chưa hề nhai một hạt cơm; cả ngày
uống trà mà chưa hề nhấp một giọt nước.
Vân
Cư vỗ tay tán thưởng:
-
Lão sư, vậy là hàng ngày thầy chân chính ăn cơm, uống trà!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Khổng
Tử nói: “Cúng thần như thần có mặt”. Thần có đến
hay không, đó lại là một chuyện khác, chủ yếu là bản
thân có cúng. Giả sử có người hỏi ta hàng ngày ăn gì?
Ăn không phải là ăn thật bởi vì ăn, không ăn đều là pháp
sinh diệt. Giả sử không ăn mà ăn, ăn mà không ăn; từ hữu
vi đến vô vi, từ hữu tướng đến vô tướng, từ sinh diệt
tới vô sinh diệt. Đó là đi qua trăm hoa mà thân không vương
một lá, là mỗi ngày đều ăn, mỗi ngày đều tại giải
thoát.
1158. Một cái áo nạp.
Thiền
sư Vô Quả trú ở trong hang sâu chuyên tâm tham thiền. Trải
qua 20 năm đều do 2 mẹ con một phụ nữ hộ pháp cung dưỡng.
Vì chưa minh tâm, sợ không dám nhận sự cúng dường nữa,
do đó Vô Quả định đi du phương hỏi đạo để rõ việc
lớn sanh tử. Hai mẹ con yêu cầu thiền sư lưu lại vài ngày,
họ muốn may một cái áo nạp để tặng thiền sư. Hai mẹ
con lập tức về nhà cắt vải may áo; mỗi mũi may đều niệm
danh hiệu A Di Đà Phật. May xong lại gói 4 đĩnh bạc móng
ngựa (mã đề ngân) đưa thiền sư để làm lộ phí. Thiền
sư tiếp nhận ý tốt của 2 mẹ con, chuẩn bị ngày hôm sau
xuống núi. Đêm tối ngồi thiền, nửa đêm bỗng có một
đồng tử áo xanh tay cầm cờ, theo sau là một bọn người
đánh trống thổi kèn, khiêng theo một đóa sen thật lớn đến
trước mặt thiền sư. Đồng tử mời:
-
Xin mời thiền sư lên tòa sen.
Thiền
sư nghĩ thầm ta tu thiền, chưa hề tu pháp môn Tịnh độ.
Đây có lẽ là ma cảnh. Đồng tử la bốn lần, xin thiền
sư đừng bỏ qua. Vô Quả thuận tay phóng cái khánh vào tòa
sen. Không lâu đồng tử và bọn tùy tùng kéo đi.
Sáng
sớm hôm sau, thiền sư vừa xả thiền thì hai mẹ con trong
tay cầm cái khánh hỏi Vô Quả:
-
Đây có phải là vật thiền sư đánh mất không? Hôm qua con
ngựa mẹ sanh một thai chết. Mã phu kéo ra thấy cái khánh
này. Biết đó là của thiền sư nên đem lại trả.
Thiền
sư nghe rồi toát mồ hôi, làm bài kệ:
一
襲 衲 衣 一 張 皮
Nhất
tập nạp y nhất trương bì
四
錠 元 寳 四 個 蹄
Tứ
đính nguyên bảo tứ cá đề
若
非 老 僧 定 力 深
Nhược
phi lão tăng định lực thâm
機
與 汝 家 作 馬 兒
Cơ
dữ nhữ gia tác mã nhi.
Bốn đính bạc là bốn móng ngựa
Còn chiếc áo nạp là bộ da
Nếu lão tăng định lực chưa đủ
Đã sanh làm ngựa con nhà bà.
Sau
đó đem trả áo và bốn đĩnh bạc cho hai mẹ con, bái biệt
mà đi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Nhân
quả nghiệp duyên của Phật giáo thật khó nghĩ bàn. Nếu
không tu chứng thì sanh tử luân hồi không tránh được. Xem
chuyện Vô Quả thiền sư há chẳng nên thận trọng sao?
1159. Phá hư không.
Mộng
Song quốc sư thuở thiếu thời, từ xa xôi ngàn dậm đến
kinh đô tham học với Nhất Sơn. Một hôm đến phòng phương
trượng thỉnh thị:
-
Đệ tử chưa rõ việc lớn, thỉnh thầy chỉ thẳng.
-
Tông ta không lời, cũng không một pháp cho người.
-
Thỉnh thầy từ bi phương tiện.
-
Ta không phương tiện, cũng không từ bi.
Đã
nhiều lần hỏi mà không được Nhất Sơn khai thị, Mộng
Song nghĩ bụng nếu đã cùng Nhất Sơn vô duyên, có lưu lại lâu ở đây cũng không khai ngộ được. Vì vậy
gạt lệ xuống núi đến tham Phật Quốc. Ở nơi Phật Quốc
bị đánh hét nhiều lần cũng không khai ngộ. Cuối cùng đối
Phật Quốc nguyện không ngộ không trở lại. Từ giã Phật
Quốc, Mộng Song ngày đêm cùng đại tự nhiên tĩnh tọa tìm
lời giải đáp. Một hôm ngồi dưới gốc cây bất tri, bất
giác đến thâu canh, muốn vào am ngủ. Khi vào, ngộ nhận chỗ
không có giường là giường, nằm xuống bèn ngã chỏng gọng,
trong sát na bỗng phá lên cười, hoát nhiên đại ngộ, bèn
làm bài kệ:
多
年 掘 地 覓 青 天
Đa
niên quật địa mích thanh thiên
添
得 重 重 礙 膺 物
Thiêm
đắc trùng trùng ngại ưng vật
一 夜 暗 中 颺 碌 甎
Nhất dạ ám trung dương lục chuyên
等
閒 擊 碎 虛 空 骨
Đẳng
nhàn kích toái hư không cốt.
Trời xanh, đào đất kiếm bao năm
Chướng ngại càng tăng thêm chướng ngại
Một bữa ở trong đêm tối tăm
Hư không bị đá nhỏ tàn hoại.
Sau
khi khai ngộ, Mộng Song đến gập Nhất Sơn và Phật Quốc
trình kiến giải. Phật Quốc khen ngợi và ấn chứng cho ông:
-
Mật ý Tây sang nay ngươi đã được, hãy tự hộ trì.
Năm
đó Mộng Song 31 tuổi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Các
thiền sư xưa nay đều có một đặc sắc là lời lạnh, tâm
từ. Nhất Sơn không phương tiện, không từ bi, là phương
tiện là từ bi. Phật Quốc đánh, hét cũng là đại phương
tiện, đại từ bi. Nếu không có Nhất Sơn, Phật Quốc thì
sau làm sao có Mộng Song quốc sư. Do đó Xuân có gió, Hạ có
mưa làm vạn vật sanh trưởng. Thu có sương, Đông có tuyết
khiến vạn vật thành thục.
1160. Vân Môn trong ngoài.
Vân
Môn đến tham phỏng Mục Châu, đến nơi thì trời đã hoàng
hôn. Vân Môn hết sức gõ hai cánh cổng khép kín. Rất lâu
Mục Châu ra mở cửa. Vân Môn thưa xin đến tham học vừa
cho chân vào thì Mục Châu xuất kỳ bất ý đóng mạnh cửa
lại. Vân Môn kêu lớn:
-
Aí chà! Aí chà! đau quá!
-
Ai kêu đau?
-
Lão sư, là con.
-
Ngươi ở đâu?
-
Con ở ngoài cửa.
-
Ngươi ở ngoài cửa vì sao kêu đau?
-
Vì thầy đóng cửa nên chân con bị kẹt ở trong.
-
Chân ở trong vì sao ngươi lại ở bên ngoài?
-
Vì thầy làm cho con bị phân thành trong, ngoài.
-
Đồ ngu, một người lại có phân trong ngoài sao?
Vân
Môn ngay lời nói này giống như bị một trùy vào tâm, phá
nát thân tâm hư vọng, khiến được đại ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Vân
Môn tuy chân bị thương, nhưng đã đi qua được cái cửa hư
vọng của ý thức, chứng ngộ trong ngoài là một, bình đẳng
không hai. Thế gian, trong mắt nhà thiền đều là hư vọng,
đối đãi, trong ngoài, thiện ác, lớn nhỏ, ta người; Người
đời thường bị mê vọng trói buộc, không có cách nào vượt
thoát. Nếu ta có thể cắt đứt tất cả, trở về gốc thì
không ngộ sao được?
1161. Đánh và hét.
Các
thiền sư thuở xưa thường thích cầm thiền trượng, biểu
thị quyền uy lãnh đạo. Thiền trượng không phải để đánh
người, chỉ khi nào nghiên cứu một vấn đề, có khi nhẹ
nhàng biểu thị mà thôi. Các thiền sinh bị đánh thường
được gọi là ăn gậy. Còn hét là bị hét một tiếng hét
lớn, cũng cùng tác dụng như bị ăn gậy.
Có
2 huynh đệ cùng đến Vô Đức học thiền. Nhưng mỗi buổi
tiểu tham, khi thỉnh thị đều bị ăn gậy. Dù hai người
tránh né rất nhanh, cũng không thoát khỏi gậy nện trên thân
thể. Vô Đức xử dụng gậy rất chính xác, trăm đánh trăm
trúng. Một hôm sư đệ bàn với sư huynh:
-
Chúng ta đến đây tham học đã lâu, bị ăn gậy nhiều mà
chẳng khai ngộ. Muốn đi nơi khác, nhưng kiếm được một
thiền sư đạo hạnh như Vô Đức thật không phải là dễ.
Sư
huynh cũng không có cách gì bèn đề nghị:
-
Sau này khi tiểu tham, chúng ta hãy đứng ngoài pháp đường
thưa gửi; dù thiền sư nhanh mấy cũng không đánh được chúng
ta.
Do
đó, hôm sau hai người đến pháp đường thưa:
-
Xin hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?
Vô
Đức hét lớn:
-
Hai tên chậm chạp này!
Hai
huynh đệ nghe tiếng hét như sấm nổ bên tai, cùng quỳ xuống
thưa:
-
Không ngờ tiếng hét của thầy cũng uy lực như thiền trượng
vậy.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Tham
thiền cầu đạo không thể có tâm lý cầu may, cũng không
cầu được nhanh chóng thành tựu. Chúng ta thấy chỉ một
câu nói của thiền sư có thể làm cho thiền sinh khai ngộ.
Nhưng nếu hành giả không tích tụ công hạnh thì thiền sư
có nói ngàn lời, thậm chí đánh hét kịch liệt cũng vô dụng.
Đương nhiên tích tụ công hạnh, đánh hét đều giúp cho ngộ
đạo.
1162. Bán gừng sống.
Bảo
Thọ giữ chức thủ kho ở Ngũ Tổ Tự, lúc đó trụ trì là
hòa thượng Giới Công, nhân bị bệnh cần thuốc trong đó
có vị gừng sống, thị giả bèn vào kho lấy. Bảo Thọ hét
đuổi đi. Giới Công biết chuyện sai thị giả đem tiền mua
vài củ. Bảo Thọ nhận tiền mới chịu trao gừng. Về sau
Động Sơn Tự thiếu trụ trì quận thú viết thư mời Giới
Công suy cử một vị. Giới Công bèn nói:
-
Gã bán gừng sống được đấy!
Do
đó, Bảo Thọ đến Động Sơn Tự làm trụ trì; Thiền môn
mới có giai thoại “Gừng sống của Bảo Thọ cay vạn năm.”
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Trong
câu chuyện trên Bảo Thọ và Giới Công, một người trọng
việc công không thủ lợi riêng, một người trọng tài năng,
công đức.
1163. Tướng tròn.
Nam
Dương Huệ Trung quốc sư tục tính Nhiễm, người Hội Kê,
Chiết giang. 16 tuổi, sau khi yết kiến Lục tổ rồi bèn ẩn
cư ở Nam Dương ở khoảng giữa Hoàng Hà và Trường Giang,
40 năm. Về sau, tuân chiếu chỉ của Túc tông hoàng đế làm
trụ trì Quang Trạch Tự ở Trường An. Rất nhiều học tăng
nghe danh tới tham phỏng. Huệ trung thường vẽ một vòng tròn
để dạy người học. Có người hỏi vòng tròn này có ý
nghĩa gì?
Ông
trả lời có 6 hàm nghĩa:
1.Biểu
thị nhất chân pháp giới.
2.Ý
thức thống nhất của cảnh giới tam muội.
3.
Lúc tất cả những cặp đối đãi chưa phát sinh tác dụng.
4.
Tượng trưng cho nhất đại tổng tướng.
5.
Cảnh giới lãnh ngộ chân lý.
6.
Chân nghĩa của Thiền.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Vô
tướng là chân lý thật nhất của vũ trụ và con người.
Giả như có người hỏi hư không giống gì? Hư không không
dài, ngắn, vuông tròn thực là vô tướng. Vì vô tướng nên
không tướng nào là không giống. Như hư không ở vuông là
vuông, ở tròn là tròn. Vì vô tướng là thể nên có thể
giam sâm la vạn tượng. Vòng tròn của Huệ Trung biểu thị
thực tướng vô tướng, muốn ta từ hữu niệm về vô niệm,
từ hữu tướng đến vô tướng.
1164. Trách mắng và từ bi.
Hoàng
Long Huệ Nam tham thiền ở Quy Tông Tự núi Lư Sơn, ngồi tất
ngồi kiết già, đi thì nhìn thẳng. Về sau vân du đến Lặc
Đàm Trừng thiền sư; Lặc Đàm mời ông cùng ngồi tiếp dẫn
học tăng. Lúc đó danh ông đã vang khắp nơi. Vân Phong Duyệt
gập ông liền khen:
-
Ông trí tuệ hơn người nhưng tiếc rằng chưa được minh
sư đào luyện. Lặc Đàm tuy là thuộc pháp từ Vân Môn, nhưng
thiền pháp chẳng đồng.
-
Vì sao không đồng?
-
Vân Môn như cửu chuyển đơn sa, điểm sắt thành vàng. Lặc
Đàm như dược vật diên hống, chỉ để cho người thưởng
ngoạn, nếu đem đào luyện sẽ mất tiêu.
Hoàng
Long nghe rồi rất phẫn nộ, không thèm đếm xỉa đến Vân
Phong. Hôm sau, Vân Phong hướng Hoàng Long xin lỗi và nói rằng:
-
Khí độ của Vân Môn như đế vương, do đó vua khiến thần
chết, không chết không được. Ông nguyện chết dưới câu
nói chăng? Lặc Đàm tuy có phép tắc dạy người, nhưng pháp
chết ấy có thể cứu người được sao? Thạch Sương Từ
Minh hiện nay có thủ đoạn hơn người, ông nên đến đó.
Về
sau, Hoàng Long tại Phúc Nghiêm Tự tham phỏng Từ Minh. Từ
Minh hỏi:
-
Ông đã là thiền sư có danh, nếu quả có nghi vấn, có thể
ngồi xuống cùng nghiên cứu.
Do
đó Hoàng Long chân thành ai cầu.
Từ
Minh bảo:
-
Ông học Vân Môn thiền nhất định là liễu giải thiền chỉ,
tỉ như phóng gậy Động Sơn là ăn gậy hay không ăn gậy?
-
Ăn gậy.
Từ
sáng đến tối quạ kêu, thước réo đều đáng ăn gậy. Rồi
đó Từ Minh ngồi đoan chính tiếp nhận Hoàng Long bái lạy.
Sau đó lại hỏi:
-
Giả như ông có thể hiểu ý chỉ của Vân Môn, vậy khi Triệu
Châu nói “Lão bà ở Đài Sơn, ta đã vì ông khám phá rồi.”,
thì ông ta khám phá lão bà ở chỗ nào?
Hoàng
Long bị hỏi, toát mồ hôi lạnh không trả lời được. ngày
hôm sau Hoàng Long lại đến tham; lần này Từ Minh chẳng khách
sáo gập mặt liền mắng chửi không ngớt. Hoàng Long hỏi:
-
Chẳng lẽ mắng chửi lại là giáo pháp từ bi của thầy sao?
-
Ông thấy đây là mắng chửi sao?
Hoàng
Long ngay đó đại ngộ, liền làm bài kệ:
傑
出 叢 林 是 趙 州
Kiệt
xuất tùng lâm thị Triệu Châu
老
婆 勘 破 沒 來 由
Lão
bà khám phá một lai do
而
今 四 海 明 如 鏡
Nhi
kim tứ hải minh như kính
行
人 莫 與 賂 爲 仇
Hành
nhân mạc dữ lộ vi cừu
Triệu Châu nổi bật chốn thiền môn
Khám phá lão bà chẳng gốc nguồn
Mà nay bốn bể như gương sáng
Người đi chẳng nên thù con đường.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Khi
đau khổ cảm thấy khoái lạc; khi bị oan cảm thấy công bình,
khi bận rộn cảm thấy an nhàn, khi bị trách mắng biết đó
là từ bi. Đó là sự thể hội chân chính thiền tâm.
1165. So lớn.
Một
ông tăng ở Thông Độ Tự (rộng 2000 giáp) và một ông tăng
ở Hải Ấn Tự (rộng 4000 giáp) trên đường hành cước gập
gỡ và kết bạn cùng đi. Khi ngồi nghỉ ở dưới một gốc
cây, 2 người kể về chùa của mình. Ông tăng ở Thộng Độ
Tự nói trước:
-
Tăng chúng ở chùa tôi, có thể nói là nhiều nhất nước.
-
Sao biết?
-
Mỗi khi dọn bữa, tôi phải chèo thuyền để quấy canh.
Ông
Tăng ở Hải Ấn Tự cũng không chịu kém:
-
Chùa tôi mới lớn, có thể nói toàn nước Đại Hàn không
có chùa nào lớn hơn.
-
Làm sao biết?
-
Khi đi cầu chúng tôi phải đợi ba phân giờ mới nghe thấy
tiếng phẩn rơi xuống phẩn trì.
Không
ngờ ở gốc cây còn có một ông tăng ở Tùng Quảng Tự ngồi
nghỉ, ông này nói:
-
Tùng Quảng Tự của chúng tôi mới lớn vì mọi người đều
ẵm hư không. Các ông có thể chạy ra khỏi hư không chăng?
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Chùa
ai lớn? Khẩu khí của các ông tăng đều lớn. Đó là tâm
như hư không chứa cả hằng sa thế giới. Thật không hổ
là cảnh giới của thiền giả.
1166. Địa ngục.
Vô
Đức thâu nhận nhiều học tăng trẻ. Họ mộ danh mà đến
học thiền. Thiền sư bảo mọi người bỏ tất cả của cải
không được mang gì vào sơn môn. Ở thiền đường ông yêu
cầu học tăng sắc thân giao ta thường trú, tánh mạng giao
cấp long thiên. Nhưng học tăng có người chỉ thích ăn, ngại
làm việc, tâm chạy theo tục sự. Vô Đức bất đắc dĩ kể
một đoạn cố sự:
-
Có một người, sau khi chết thần thức đến một chỗ kia,
khi vào cửa người canh cửa nói với ông:
-
Ngươi thích ăn ư? Ở đây có đủ thứ cho ngươi ăn, ngươi
thích ngủ ư, ở đây ngươi muốn ngủ lâu chừng nào cũng
được không có ai cản trở, ngươi thích chơi ư? Ở đây
có đủ loại trò chơi mặc ngươi lựa chọn; ngươi ghét làm
việc ư? Bảo đảm ở đây không có việc gì để làm, cũng
không có ai cai quản ngươi.
Do
đó người đó cao hứng ở lại chỗ ấy. Ăn rồi ngủ, ngủ
chán thì chơi, vừa chơi vừa ăn. Trải qua 3 tháng ông ta thấy
có điều gì không ổn, bèn chạy đi kiếm người canh cửa:
-
Những ngày như vầy đã lâu rồi, thấy không tốt lắm. Vì
chơi nhiều không còn thấy hứng thú nữa; ăn nhiều quá thấy
mập ra; ngủ nhiều quá đầu óc đâm ra mụ mẫm, ông có thể
cho tôi làm một việc gì không?
-
Xin lỗi, nơi đây chẳng có việc gì để làm cả!
Lại
3 tháng nữa, người ấy không nhịn được lại đi tìm người
canh cửa:
-
Những ngày như thế này thực tôi không chịu được nữa
rồi, nếu ông không cho tôi làm việc, tôi thà xuống địa
ngục.
-
Ông tưởng đây là thiên đường sao? Đây chính là địa ngục.
Nó làm ông không có lý tưởng, không có sáng tạo, không có
tiền đồ, dần dần bị hủ hóa. Loại tâm linh thống khổ
này có thể so sánh với lên núi dao, xuống chảo dầu khiến
người ta không chịu được.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
không phải là nhắm mắt mà ngồi, đó chỉ là phương pháp
vào thiền. Thiền chân chính là gì? bổ củi, gánh nước là
thiền. Xay gạo, nhặt cỏ, làm rẫy là thiền, sáng cầy chiều
lễ là thiền. Ngoài ra còn có nhiều nhẫn nại, từ bi là
thiền, lao khổ hy sinh là thiền.
1167. Sa di vấn đáp.
Giáp,
Ất là 2 chùa Thiền tông đều do Thiền sư trụ trì. Các thiền
sư đều huấn luyện môn đồ thiền phong, cơ ngữ. Hàng ngày
mỗi chùa đều phái một sa di ra chợ mua rau. Trên đường,
sa di hai chùa gập nhau. Sa di chùa Giáp hỏi:
-
Xin hỏi, bạn đi đâu?
-
Gió thổi đâu thì đi đó.
Sa
di chùa Giáp không biết làm sao hỏi tiếp, về mách thầy,
thiền sư trách:
-
Đồ ngu, sao ngươi không hỏi giả như không có gió bạn đi
đâu?
Sa
di ghi nhớ trong lòng, hôm sau gập sa di chùa Ất lại hỏi:
-
Này, hôm nay bạn đi đâu?
-
Chân muốn đi đâu thì đi đấy.
Sa
di chùa Giáp thấy không đúng câu mình học, lại không hỏi
tiếp được, về trình thầy. Thiền sư mắng:
-
Ngươi thật là ngu. Sao không hỏi “Nếu chân không đi thì
bạn đi đâu?”
Sa
di lại học thuộc câu trả lời. Hôm sau lại gập sa di chùa
Ất, lại nhắc lại câu hỏi:
-
Này, hôm nay bạn đi đâu?
Sa
di chùa Ất phẩy tay ra phía trước:
-
Tôi ra chợ mua rau!
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Sa
di chùa Giáp tuy hiền lương, lễ phép nhưng thiếu thiền cơ.
Sa di chùa Ất thuận miệng trả lời vừa tiếu lâm vừa có
thiền vị. Do đó chúng ta thấy thiền không nên chấp trước.
Thiền tuệ lanh trí, ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào giơ
tay lên cũng là diệu đế,Sa di chùa Ất trước đáp gió thổi,
sau nói chân đi, cuối cùng mới nói ra mục đích. Đó là thiền
cơ diệu dụng từ thiền tâm mà ra.
1168. Cắt tai cứu gà.
Thiền
sư Trí Vũ, người thời nhà Đường, khi đi hành cước, một
hôm ngồi thiền trong rừng, bỗng thấy một người thợ săn
bắn trúng một con gà rừng. Con gà bị thương chạy đến
trước chỗ ngồi của thiền sư, thiền sư bèn dấu nó vào
trong tay áo. Một lúc sau thợ săn đến đòi thiền sư:
-
Xin thầy trả lại con gà bị tôi bắn trúng!
Thiền
sư vô hạn từ bi khai thị cho thợ săn:
-
Nó cũng là một sinh mạng, hãy tha cho nó.
-
Thầy có biết nó có thể nấu thành một bát canh không?
Thiền
sư bèn lấy giới đao để phòng thân, cắt luôn 2 tai mình,
đưa cho thợ săn:
-
Hai tai này có thể thế cho nó không, ngươi hãy mang đi nấu
canh.
Thợ
săn rất hoảng sợ, cuối cùng đã giác ngộ sát sanh là một
chuyện rất tàn nhẫn.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Vì
cứu sinh linh, không tiếc xả thân mình. Đức tánh “Vì trừ
khổ cho chúng sinh, không cầu an lạc cho chính mình” là hành
động cụ thể từ bi của nhà thiền. Hành động của Trí
Vũ cho thấy thiền giả không trốn tránh xã hội, xa lìa loài
người.
1169. Không biết.
Trào
Tống có một vị tướng quân tên là Tào Hãn khi tiễu trừ
giặc cướp ở phương Nam rồi, đi qua Viên Thông Tự ở Lư
Sơn. Chư tăng biết quân kỷ của đội quân Tào Hãn không
tốt, mọi người chạy trốn tứ tung, chỉ có Duyên Đức
thiền sư ngồi tĩnh tọa bất động ở pháp đường. Tào
Hãn kêu gọi, ông mặc kệ, cũng không thèm mở mắt nhìn.
Lòng tự tôn của Tào Hãn bị thương tổn, giận dữ hét:
-
Quân đội ta qua đây, tưởng tá túc quý tự, để binh sĩ
nghỉ ngơi một chút, tại sao ngay một tiếng chào hỏi cũng
không có? Sao dám vô lý thế? Chẳng lẽ ngươi không biết
đứng trước ngươi là một vị tướng giết người không
chớp mắt sao?
Thiền
sư nghe rồi mở mắt ra bình tĩnh trả lời:
-
Một quân nhân đứng trước điện Phật hò hét thật vô lễ,
chẳng lẽ ngươi không sợ nhân quả báo ứng chăng?
-
Thế nào là nhân quả báo ứng với chẳng báo ứng? ngươi
không sợ chết à?
Duyên
Đức cũng to tiếng:
-
Chẳng lẽ ngươi không biết kẻ ngồi trước mặt ngươi là
một thiền tăng không sợ chết sao?
Tào
Hãn ngạc nhiên về đảm lượng của thiền sư đồng thời
bị định công của thiền sư làm cho kính phục, liền hỏi:
-
Chùa lớn như thế này chả lẽ chỉ có một mình thầy, còn
những người khác đâu?
-
Chỉ cần đánh trống, mọi người nghe tiếng sẽ trở về.
Tào
Hãn bèn đánh trống, đánh một lúc mà cũng không thấy có
người nào xuất hiện. Tào Hãn không vui hỏi:
-
Đã đánh trống rồi sao vẫn chẳng thấy có người nào?
-
Vì khi ngươi đánh trống sát khí quá mạnh, hãy niệm một
câu Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật rồi hãy đánh.
Do
đó Tào Hãn niệm Phật một câu lại đánh một cái; không
lâu các sư đều lần lượt trở về. Tào Hãn lúc đó lễ
phép chắp tay thưa:
-
Xin hỏi quý danh của thầy?
-
Duyên Đức.
-
Thì ra là Duyên Đức, đức cao vọng trọng, xin thầy chỉ
cho con làm sao đánh trận được thắng?
-
Không biết.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Từ
cổ đến nay mỗi khi có chiến loạn, đều có những vị đại
đức hộ vệ đạo trường, nguyện cùng chùa tồn vong, như
Duyên Đức dũng cảm, từ bi, trí tuệ. Binh loạn không lìa
chùa là dũng, kêu người ta niệm Phật là từ, tùy hứng trả
lời là trí. Trả lời câu hỏi làm sao đánh thắng là “Không
biết” thật là trí, nhân, dũng gồm đủ, đó chẳng phải
là diệu dụng của thiền tâm sao?
1170. Mặn, nhạt đều có vị.
Hoằng
Nhất đại sư là một nghệ thuật gia đầu cửa Phật, ông
đem nghệ thuật vào đạo. Một hôm có một nhà giáo đến
bái phỏng. Lúc dùng bữa chỉ thấy thiền sư ăn có một món
dưa muối. Nhà giáo bất nhẫn hỏi:
-
Chẳng lẽ thầy không ngại dưa mặn sao?
-
Mặn có vị của mặn.
Sau bữa ăn, thiền sư rót một chén nước lã, nhà giáo lại nhăn
mặt:
-
Thầy không có trà à? Làm sao mỗi ngày đều uống lạt lẽo
như vậy?
Thiền
sư cười bảo:
-
Nước lã tuy nhạt, nhưng nhạt cũng có vị nhạt của nó.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Câu
nói của Hoằng Nhất “mặn có vị mặn, nhạt có vị nhạt”
là một câu nói đầy thiền vị. Hoằng Nhất đem Phật pháp
áp dụng vào đời sống hàng ngày. Đối với ông không đâu
là không có đạo vị. Một cái khăn lông đã dùng ba năm rách
tả tơi ông bảo hãy còn dùng được; Ở một quán nhỏ sâu
bọ bò tới bò lui, khách đến thăm đều sợ, ông nói chỉ
có vài con thôi mà! Có thể nói ông đã thể hội “tùy cảnh
mà an” trong đời sống hàng ngày.
1171. Không để cho người hoài nghi.
Huyền
Tố họ Mã, người đương thời kêu là Mã Tố. Về sau người
ta mô phỏng Mã Tổ Đạo Nhất mà gọi là Mã Tổ. Đủ biết
danh tiếng ông ngang với Mã Tổ vậy. Có một đồ tể hâm
mộ tiếng tăm đạo đức của ông, đặc biệt soạn một
bữa cơm, chí thành mời thiền sư tới dự. Huyền Tố tùy
duyên nhận lời khiến cả chùa đều kinh ngạc.
Thấy
mọi người cho là không phải, ông nói:
-
Phật tánh bình đẳng, hiền ngu đều như nhau. Buông đao đồ
tể, lập tức thành Phật,nếu có thể độ được ta liền
độ, có gì mà phải kinh ngạc?
Nói
rồi không úy kỵ, đi tiếp thọ sự cúng dường của đồ
tể. Lúc về, vào phòng đóng cửa lại, không nói chuyện với
mọi người. Có một ông tăng đến gõ cửa.
-
Ai đó?
-
Sư phụ, là con!
-
Chẳng cứ là ngươi, ngay Phật tổ cũng không vào được!
-
Tại sao Phật tổ cũng không vào được?
-
Vì ở đây không có không gian cho Phật tổ tá túc.
-Vậy
sao? Thầy cho con biết ý tổ sư từ Tây sang là gì, thì con
sẽ không vào nữa.
Thiền
sư phi thường từ bi bảo:
-
Ý Tổ sư từ Tây sang là đến nhà đồ tể tiếp thọ cúng
dường.
-
Chẳng lẽ ý Tổ sư từ Tây sang này không sợ người ta hoài
nghi sao?
-
Hoài nghi là không hoài nghi, nhận thức là không nhận thức.
Chỗ này không có hoài nghi, không hoài nghi không khẳng định.
Học
tăng có chỗ tỉnh ngộ, đảnh lễ bên ngoài cửa rồi đi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thế
gian có hạng người không tin người khác, cũng không tin chính
mình. Ở đâu cũng hoài nghi, không tin là người ta làm việc
thiện. Nghề đồ tể là tạo nghiệp sát, nhưng ông ta chân
thành cúng dường thiền sư đó là Phật tâm. Một người
chứng ngộ Thiền đạo làm sao lại không tiếp thọ Phật
tâm cho được? Huyền Tố không cho học tăng vào phòng chủ
ý là không để cho người ta hoài nghi. Thiền giả mỗi ngày
đều tìm kiếm ý Tổ sư từ Tây sang, nếu không có tâm từ
bi, không có phương tiện trí huệ làm sao tham thiền?
1172. Không vẽ nữa.
Thiền
sư Nguyệt Thuyền là một cao thủ hội họa, nhưng mỗi lần
trước khi vẽ ông đều đòi khách trả tiền trước nếu
không ông không chịu động bút. Tác phong này khiến các nhân
sĩ trong xã hội hết sức phê phán. Một hôm có một cô gái
nhờ ông vẽ một bức tranh.
-
Cô trả bao nhiêu?
-
Thầy muốn bao nhiêu tôi trả bấy nhiêu, nhưng tôi muốn thầy
đến nhà tôi vẽ trước mặt mọi người.
Nguyệt
Thuyền bằng lòng theo cô. Nguyên lai nhà cô gái có yến hội.
Nguyệt Thuyền vì cô hoa bút vẽ một bức tranh. Xong việc
lấy tiền định đi. Cô gái nói với các người dự tiệc:
-
Vị họa gia này chỉ biết có tiền. Tuy tranh ông rất đẹp
nhưng tâm địa hôi tanh, kim tiền làm ô uế cái đẹp của
ông. Họa phẩm từ tâm linh ô uế cũng không đáng treo ở
phòng khách, chỉ nên để trang trí cái quần của tôi thôi.
Nói rồi cô cởi cái quần ra, yêu cầu Nguyệt Thuyền vẽ
lên mặt sau.
-
Cô trả bao nhiêu?
-
Thầy đòi bao nhiêu cũng được.
Nguyệt
Thuyền đòi một giá cao, sau đó theo lời cô gái vẽ một
bức trên quần, rồi bỏ đi.
Nhiều
người hoài nghi sao thiền sư dù bị làm nhục, chỉ cần có
tiền là được, không biết ông nghĩ gì? Thật ra, chỗ Nguyệt
Thuyền cư trú thường có tai họa. Nhiều người giầu có
không chịu bỏ tiền ra giúp đỡ nạn nhân. Do đó ông lập
ra một kho thực phẩm để cứu trợ. Lại nhân sư phụ ông
lúc sinh thời có nguyện sẽ kiến tạo một ngôi chùa nhưng
tâm nguyện chưa thành thì đã mất. Nguyệt Thuyền muốn hoàn
thành tâm nguyện này cho thầy. Khi Nguyệt Thuyền hoàn thành
nguyện vọng rồi ông lập tức quẳng bút đi, đi ẩn ở núi
cao, rừng rậm. ông chỉ nói một câu:
-
“Vẽ hổ, vẽ da khó vẽ xương,vẽ người, vẽ mặt khó
vẽ lòng”. Tiền là bẩn thỉu, tâm là thanh tịnh.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Người
có Thiền tâm không để cho người thế gian hủy báng như
Nguyệt Thuyền dùng tài vẽ của mình để kiếm tiền cứu
người. Tranh của ông không thể lấy kỹ thuật họa mà bàn
vì nó là Thiền họa. Ông không phải là tham tiền mà là xả
tiền. Thử hỏi có mấy người hiểu được Thiền tâm này?
1173. Nhất Hưu ăn mật.
Nhất
Hưu khi còn là một sa di cũng đã có thiền phong. Một hôm,
một tín đồ đem biếu sư phụ Nhất Hưu một bình mật ong.
Nhằm lúc sư phụ có việc phải đi, nghĩ bụng bình mật ong
này để trong nhà không an toàn, Nhất Hưu có thể sẽ ăn vụng.
Do đó ông gọi Nhất Hưu lại dặn dò:
-
Nhất Hưu! vừa rồi tín đồ mang đến một bình độc dược,
dược tánh rất mạnh, rất nguy hiểm ngươi không thể ăn.
Nhất
Hưu là đứa trẻ rất lanh lợi, đương nhiên hiểu ý sư phụ.
Sư phụ đi khỏi, ông bèn mang bình mật ong ra ăn. Ăn hết
rồi mới nghĩ khi sư phụ về phải làm cách nào để đối
phó? Linh cơ nhất động, bèn đập vỡ bình cắm hoa mà sư
phụ thích nhất. Khi sư phụ về, Nhất Hưu nằm lăn ra đất
khóc lớn:
-
Sư Phụ! Con phạm lỗi lớn, không thể tha thứ được.
-
Nhất Hưu! Con làm lỗi gì?
-
Con đánh vỡ mất bình cắm hoa mà sư phụ thích nhất rồi!
-
Bình cắm hoa quý vậy sao con lại sơ ý làm vỡ mất?
Nhất
Hưu sám hối:
-
Sư phụ, con biết không thể nào hoàn trả bình cắm hoa cho
sư phụ, để biểu thị sám hối con chỉ còn cách tự sát
để tạ tội, nên con đã đem bình độc dược ăn hết rồi!
Cách
tạ tội này khiến sư phụ á khẩu.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
là để minh tâm kiến tánh, nhưng dùng ở trong đời sống
hàng ngày cũng có chỗ diệu. Thiền là trí tuệ Bát Nhã, là
trí tuệ khôi hài. Nhất Hưu còn nhỏ mà đã có linh cơ như
vậy đó chẳng phải là Thiền khôi hài sao?
1174. Làm rể.
Một
hôm, một tín đồ đến thưa với Nhất Hưu:
-
Sư phụ, con không muốn sống nữa, con muốn tự sát, mong thầy
siêu độ cho con.
-
Đang sống ngon lành, sao lại tìm chết?
-
Sư phụ, con buôn bán thất bại, nợ nần chồng chất như
núi, bị các chủ nợ bức không có lối ra, chỉ còn cách
chết.
-
Chẳng lẽ ngoài chết ra, không còn cách nào khác sao?
-
Không có! Trừ một đứa con gái ra, con chẳng còn gì.
-
Ta có biện pháp rồi, hãy gả con gái ngươi cho một chàng
rể khá giả, hắn sẽ giúp ngươi trả nợ.
-
Sư phụ, con gái con mới có 8 tuổi thôi làm sao gả chồng
được?
-
Vậy hãy gả cho ta, ta sẽ giúp ngươi trả nợ.
-
Nói đùa, thầy là sư phụ con, sao làm rể con được?
Nhất
Hưu vung tay:
-
Ta giúp ngươi giải quyết vấn đề, tốt! tốt! đừng nói
nữa, hãy về tuyên bố chuyện này, đợi đến ngày cưới
ta sẽ đến nhà ngươi làm rể.
Vị
đệ tử này tin lời sư phụ, về tuyên bố đến ngày đó
tháng đó thiền sư Nhất Hưu sẽ đến nhà ông làm rể. Tin
tức này truyền ra làm náo động cả thành. Đến ngày cưới
người đến xem đông không có chỗ lọt.
Nhất
Hưu sai đặt một cái bàn ở ngoài cửa trên để văn phòng
tứ bảo. Nhất Hưu bắt đầu viết chữ. Ông viết rất đẹp,
mọi người tranh nhau thưởng ngoạn và tranh nhau mua, quên bẵng
đi lý do đến đó để làm gì. Kết quả tiền bán thư họa
chứa đầy mấy rương.
Nhất
Hưu hỏi tín đồ:
-
Số tiền này đã đủ trả nợ chưa?
-
Đủ rồi! Đủ rồi! sư phụ, thầy thật thần thông quảng
đại, chỉ một lát đã kiếm được nhiều tiền vậy.
Nhất
Hưu phất tay áo:
-
Được rồi! Vấn đề đã được giải quyết. Ta không làm
rể ngươi nữa, lại làm sư phụ ngươi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Có
thiền giả là có phương tiện giải quyết vấn đề.
1175. Nhất Hưu và Ngũ Hưu.
Có
tín đồ hỏi Nhất Hưu:
-
Thiền sư, pháp hiệu của thầy chẳng hay, tại sao lại là
Nhất Hưu (Hưu có nghĩa là nghỉ)?
-
Nhất Hưu vạn sự hưu, có chỗ nào là không hay?
Tín
đồ nghe rồi nhận là mình sai:
-
Phải, phải, tốt lắm!
Nhất
Hưu lại nói:
-
Thực ra, Nhất Hưu cũng chưa tốt bằng Nhị Hưu.
-
Nhị hưu tốt làm sao?
-
Sinh nên hưu, tử cũng nên hưu; sinh tử đều hưu, khổ não
nên hưu, niết bàn cũng nên hưu, cả hai đều hưu.
-
Không sai, nhị hưu mới tốt.
-
Sau Nhị hưu, Tam hưu còn tốt hơn.
-
Tam hưu tốt làm sao?
-
Ngươi coi, vợ ngươi hàng ngày cãi cọ cùng ngươi, dữ như
cọp cái, tốt nhất là hưu vợ. Làm quan phải tiếp rước
cấp trên khổ sở, tốt nhất là hưu quan. Làm người có nhiều
lúc phải tranh chấp với người ta, tốt nhất là hưu tranh.
Hưu vợ, hưu quan, hưu tranh, 3 cái hưu này là vui nhất.
-
Không sai, tam hưu mới tốt!
-
Tứ hưu lại còn tốt hơn.
-
Tứ hưu tốt làm sao?
-
Tửu, sắc, tài, khí đều hưu.
-
Phải, tốt lắm!
-
Tứ hưu chưa đủ, ngũ hưu tốt hơn. Thế nào là ngũ hưu?
Con người ta khổ sở vì có ngũ tạng. Bụng muốn ăn tạo
ra trùng trùng khổ sở. Nếu ngũ tạng nhất hưu thì không
còn chuyện gì nữa.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiên
hưu, vạn hưu chẳng bằng nhất hưu. Nhất hưu vạn sự hưu,
không tạo tác nên oán cừu, đó là Thiền của Nhất Hưu vậy.
1176. Ba món đồ cổ.
Túc
Lợi tướng quân là đệ tử Nhất Hưu, một hôm mời Nhất
Hưu đến nhà uống trà, lại đem nhiều đồ cổ bầy ra từng
món hỏi ý kiến Nhất Hưu.
-
Đẹp lắm! Ta cũng có ba món đồ cổ; một là hòn đá từ
thời Bàn Cổ tạo thiên lập địa, một bát ăn cơm của các
vị đại thần, một thiền trượng vạn năm của cao tăng.
Nếu tướng quân muốn, có thể thêm vào bộ sưu tập.
Tướng
quân hết sức vui mừng:
-
Cám ơn thầy, không biết bao nhiêu tiền một món?
-
Không cần cám ơn, mỗi món chỉ tính một ngàn lạng bạc.
Tướng
quân tuy tiếc tiền vì giá quá cao, nhưng nghĩ cũng xứng vì
là những cổ ngoạn vô giá; đành bỏ 3 ngản lạng ra mua,
sai tùy tùng theo Nhất Hưu về chùa lấy đồ.
Nhất
Hưu về tới chùa kêu đệ tử:
-
Hãy mang hòn đá chẹn cửa cùng với cái bát cho chó ăn cơm
và thiền trượng ta mua mấy lạng ra đây, đưa cho người
này mang đi.
Tùy
tùng tướng quân đem 3 món đồ về trình và nói rõ xuất
xứ. Tướng quân rất giận chạy đến chùa kiếm Nhất Hưu
lý luận.
Nhất
Hưu vui vẻ khai thị:
-
Nay là lúc khốn khó, dân chúng ngày 3 bữa cơm chẳng đủ
ăn, tướng quân còn bụng nào chơi cổ ngoạn? Do đó, ta lấy
3 ngàn lạng bạc đem cứu người nghèo, thay tướng quân mà
làm công đức. Việc này thọ dụng cả đời, đối với cổ
ngoạn còn quý hơn nhiều.
Tướng
quân mắc cỡ, càng khâm phục trí tuệ và từ bi của thiền
sư.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
không phải là triết học, không phải là lý luận. Thiền
là nghệ thuật sinh hoạt, là tự nhiên. Đem chân ngã dung hòa
với trí tuệ và từ bi là Thiền.
1177. Y phục ăn cơm.
Nhất
Hưu có một đệ tử là một vị tướng quân. Một hôm tướng
quân mời sư phụ đến nhà thọ trai. Khi Nhất Hưu đến nơi,
người giữ cửa thấy ông quần áo rách rưới, nhất định
không cho vào. Nhất Hưu không có cách nào đành trở về thay
một bộ cà sa mới. Lúc dùng bữa Nhất Hưu gắp rau bỏ vào
tay áo. Tướng quân rất ngạc nhiên hỏi:
-
Xin hỏi có phải sư phụ để dành cho lão mẫu hay cho đại
chúng trong chùa? Lát nữa con sẽ sai người mang rau tới, hiện
giờ thỉnh sư phụ dùng bữa.
-
Hôm nay ngươi mời y phục ăn cơm chứ không mời ta, cho nên
ta mới cho áo ăn cơm.
Tướng
quân nghe rồi không hiểu gì cả, Nhất Hưu đành phải giải
thích:
-
Hôm nay khi đến đây, vì mặc áo quần cũ rách, người giữ
cửa không cho ta vào. Ta đành phải trở về thay áo cà sa mới
hắn mới cho ta vào. Nếu đã lấy tiêu chuẩn áo cũ mới để
mời khách, đó là ngươi mời áo không phải là mời ta, do
đó ta thay ngươi mời áo ăn cơm.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Từ
chuyện này chúng ta thấy người đời chỉ chuộng hư vinh,
coi cách ăn mặc mà luận cao thấp, chẳng để ý gì đến
nhân cách phẩm đức.
1178. Dành tiền cho tín đồ.
Phật
Quang để chấn hưng Phật giáo đã làm nhiều Phật sự. Các
đệ tử để giúp thầy hoàn thành lý tưởng, cố gắng khuyến
khích các tín đồ làm công đức bố thí. Một hôm, Phật
Quang sau khi đi hoằng hóa trở về, các đệ tử tranh nhau báo
cáo. Phổ Đạo đắc ý thưa:
-
Sư phụ, hôm nay có một vị đại thí chủ bố thí 100 lạng
để xây Đại hùng bảo điện.
Phổ
Đức báo cáo:
-
Sư phụ, Trần cư sĩ ở trong thành đến thăm thầy. Con dẫn
đi tham quan các nơi, ông xin cúng dường lương thực cho chùa
cả năm.
Hương
đăng sư, Tri khách sư đều hướng Phật Quang báo cáo các
tín đồ phát tâm hỉ xả. Phật Quang vội ngăn mọi người
lại và khai thị:
-
Các ngươi đều lao khổ, nhưng hóa duyên nhiều quá thì lại
không có công đức.
-
Tại sao?
-
Phải để cho tín đồ có tiền, có thể làm giầu có thêm
thì Phật giáo mới phát triển tốt. Bắt tín đồ phải mang
nhiều tiền ra làm công đức cũng ngu xuẩn như giết gà giữ
trứng. Đến ngày nào đó tín đồ không còn khả năng cúng
dường nữa thì Phật giáo làm sao mà tồn tại?
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Lời
của Phật Quang thật là nhìn xa thấy rộng. Phật giáo đề
cao bố thí nhưng trước hết mình phải không tự làm khổ,
tự phiền não. Nguyên tắc này được xử dụng đứng đắn
thì bố thí tuy ít nhưng có lợi lâu dài. Người học Phật
nếu có thiền thì không chỉ nghĩ đến mình mà còn nghĩ đến
người khác. Như vậy đâu thể nói Thiền chỉ trọng ngộ
mà không trọng từ bi?
1179. Duyên khởi tánh không.
Di
Lan Vương rất tôn kính Na Tiên Tỳ Khưu.
Na
Tiên sau khi chứng ngộ rồi, lời nói nào cũng đều hàm trí
tuệ linh xảo. Một hôm, Di Lan Vương hỏi Na Tiên:
-
Mắt có phải là thầy không?
-
Không phải!
-
Tai có phải là thầy không?
-
Không phải!
-
Mũi, lưỡi, thân có phải là thầy không?
-
Đều không phải, sắc thân chỉ là giả hợp.
-
Vậy ý có phải là thầy không?
-
Cũng không phải.
-
Vậy thầy ở đâu?
Na
Tiên hỏi ngược lại Di Lan Vương:
-
Cái cửa có phải là căn phòng không?
-
Không phải!
-
Ngói, gạch có phải là căn phòng không?
-
Không phải.
-
Giường, bàn ghế, đồ đạc có phải là căn phòng không?
-
Không phải.
-
Vậy căn phòng ở đâu?
Di
Lan Vương hoảng nhiên đai ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Di
Lan Vương ngộ cái gì? Sơn hà đại địa, vũ trụ vạn hữu
đều do nhân duyên hòa hợp mà tồn tại. Không có nhân duyên
thì không có cái gì cả. Thế gian không có một vật nào đơn
độc tồn tại. Tất cả là do nhân duyên sinh, là tự tánh
không, là duyên khởi không. Hiểu được thế thì đó là Thiền.
1180.
Tâm Phật là gì?
Huệ
Trung có lần hỏi Tử Lân cung phụng (một tăng quan):
-
Cung phụng học Phật nhiều năm, Phật có nghĩa gì?
-
Phật là giác.
-
Phật có mê không?
-
Nếu đã thành Phật, sao còn mê được?
-
Nếu đã không mê, giác để làm gì?
Cung
phụng không trả lời được. Lại một lần khác cung phụng
chú giải Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh. Huệ Trung nói:
-
Chú giải kinh tất phải khế hội Phật tâm, trước khế lý
của chư Phật, sau khế cơ của chúng sinh thì mới được.
Tử
Lân không vui đáp:
-
Thầy nói không sai, nếu không ta đâu chấp bút.
Huệ
Trung nghe rồi sai thị giả mang đến một bát nước trong
có để một chiếc đũa và 7 hạt gạo hỏi Tử Lân đó là
ý gì? Tử Lân không hiểu, không trả lời được. Huệ Trung
không khách khí giảng:
-
Ngay ý ta ngươi còn không hiểu sao dám nói khế hội Phật
tâm?
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Huệ
Trung đem ra bát nước có chiếc đũa và 7 hạt gạo ý nói
Phật pháp không lìa sinh hoạt. Nếu lìa sinh hoạt thì Phật
pháp dùng để làm gì? Tử Lân lìa sinh hoạt mà chú giải
kinh Phật tất lìa xa Phật lý. Lục tổ cũng có nói “Phật
pháp ở thế gian không lìa thế gian giác. Lìa thế cầu bồ
đề thì như đi tìm sừng thỏ vậy.
1181. Đừng chùi!
Có
một chàng thanh niên tính khí thô bạo, dễ dàng nổi giận,
ưa đánh lộn, do đó nhiều người không thích anh ta. Một
hôm tình cờ đến Đại Đức Tự gập Nhất Hưu đang thuyết
pháp, nghe rồi anh ta phát nguyện sửa đổi lỗi lầm lúc trước,
thưa với Nhất Hưu:
-
Sư phụ, sau này con sẽ không cãi nhau nữa, nếu có bị người
ta nhổ nước miếng vào mặt thì cũng lẳng lặng mà chùi
đi thôi.
-
Ấy chớ! Bất tất phải làm vậy! Hãy để nước miếng tự
khô đi, đừng chùi!
-
Làm sao mà nhịn được?
-
Có gì mà không nhịn được? Cứ coi như bị muỗi đốt, nhổ
nước miếng bôi lên, cũng chẳng nhục nhã gì, hãy mỉm cười
tiếp nhận.
-
Nếu họ không nhổ mà đấm thì sao?
-
Cũng thế thôi, chẳng qua chỉ là một quả đấm!
Thanh
niên nghĩ là không phải, bỗng nhiên ra tay cho Nhất Hưu một
đấm.
-
Thiền sư, giờ nghĩ sao?
-
Đầu ta cứng như đá, chẳng có cảm giác gì, chỉ sợ ngươi
đau tay thôi!
Thanh
niên á khẩu, không thốt nên lời.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Bất
cứ chuyện gì ở thế gian, nói thì dễ nhưng làm được rất
khó. Nói không nổi giận, nhưng gập cảnh lại không giữ
được. Nhà Thiền có câu “Nói thì dường như ngộ, nhưng
đối cảnh lại mê.” là cũng ý này.
1182. Bài kệ của Hoàng Bá.
Hoàng
Bá có bài kệ:
塵
勞 迥 脫 事 非 常
Trần
lao quýnh thoát sự phi thường
緊
把 繩 頭 做 一 場
Khẩn
bả thẳng đầu tố nhất trường
不
是 一 番 寒 撤 骨
Bất
thị nhất phiên hàn triệt cốt
爭
得 梅 花 撲 鼻 香
Tranh
đắc mai hoa phác tị hương
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
(Trần
Tuấn Mẫn dịch)
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Nhà
Thiền có lưu hành một khẩu hiệu “Buông dao đồ tể, lập
tức thành Phật.” Dao đồ tể chỉ sự tập nhiễm. Chỉ
cần bỏ được tập nhiễm lập tức thành Phật. Từ vô thủy
đến nay Tạp Tâm vẫn hoạt động, tưởng làm nó ngưng ngay
thật là chuyện không làm được. Vì vậy thiền gia mới khuyên
chúng ta nhận biết tự tánh, nghĩa là phải chết đi sống
lại. Bài kệ trên của Hoàng Bá là chỉ ý này.
1183. Niêm Hoa Vi Tiếu.
Xưa,
Thế Tôn ở pháp hội Linh Sơn giơ cành hoa lên thị chúng.
Lúc đó đại chúng đều yên lặng, chỉ có Tôn giả Ca Diếp
mỉm cười. Thế Tôn nói:
-
Ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thật tướng
vô tướng, vi diệu pháp môn, chẳng lập văn tự, ngoài giáo
truyền riêng nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp.
Vô
Môn nói:
-
Cồ Đàm mặt vàng, dưới mắt không người, bức người tốt
thành kẻ xấu; treo đầu dê bán thịt chó; có thể cho là
có một chút tài mọn. Nếu lúc đó đại chúng đều cười,
chính pháp nhãn tạng làm sao truyền? Giả sử Ca Diếp không
mỉm cười chính pháp nhãn tạng lại truyền làm sao? Nếu
nói chính pháp nhãn tạng có truyền, lão già mặt vàng chỉ
gạt dân chúng. Nếu nói không truyền sao lại nói truyền riêng
cho Ca Diếp?
Tụng:
拈
起 花 來
Niêm
khởi hoa lai
尾
巴 已 露
Vĩ
ba dĩ lộ
迦
葉 破 顏
Ca
Diếp phá nhan
人
天 岡 措
Nhân
thiên cương thố.
Giơ cành hoa đó
Đã
lộ cái đuôi
Ca Diếp mỉm cười
Người trời thất thố.
(Vô Môn Quan)
Hoa
chỉ tự tánh. Giơ cành hoa lên không nói gì cả vì tự tánh
không thể diễn tả bằng lời. Chư Phật đều do ngộ tự
tánh mà thành Phật. Thế Tôn giơ cành hoa lên là nói pháp
không lời. Ca Diếp hiểu ý này nên mỉm cười. Vì tự tánh
chỉ có thể tự chứng, nói ra vô ích nên Ca Diếp không nói
một lời nào chỉ mỉm cười tỏ rằng đã hiểu. Hai
thầy trò thật là hai tay chơi cờ ngang sức, còn đại chúng
im lặng như câm như điếc đã không nhận được tâm ấn
của Phật. Lấy động tác hoặc một vật nào đó để diễn
tả tự tánh tuy bắt đầu từ Đức Phật, nhưng đuợc các
tổ sư Trung Quốc tập đại thành, đã tạo thành đặc điểm
của Thiền. Thế Tôn giơ cành hoa lên là để khảo nghiệm
và chỉ tuyển được Ca Diếp. Cho thấy ấn chứng trong Thiền
tông là xét về quả chứ không dạy về nhân. Chỉ cần người
học tự chứng niết bàn diệu tâm là đắc pháp. Thật ra
niết bàn diệu tâm không nhận được từ người khác, cũng
không thể truyền cho người khác, chỉ do người học tự
dập tắt được ngọn lửa dục vọng.
(Dương Tân Anh)
1184. Sơn Thần Thọ Giới.
Đệ
tử của Ngũ tổ là Nguyên Khuê, một hôm có một dị nhân,
tướng mạo phi thường mang nhiều tùy tùng đến bái phỏng.
Sư hỏi:
-
Nhân giả đến có việc gì?
-
Thầy không nhận ra tôi sao?
-
Ta coi Phật và chúng sinh tương đồng, đâu có phân biệt.
-
Tôi là Sơn thần đây, có thể làm người sống chết, thầy
không để vào mắt sao?
-
Ta vốn không sinh, ngươi làm sao khiến ta chết? Ta coi thân
và không như nhau; ta và ngươi như nhau. Ngươi có thể làm
hại không và ngươi sao?
Sơn
thần bị chiết phục và xin thọ giới.
(Niêm Hoa Vi Tiếu)
Sơn
thần là chức sắc bản địa nắm quyền sinh sát, muốn thiền
sư đối đãi với mình khác với ngươì thuờng; nhưng Nguyên
Khuê với quan điểm bình đẳng, từ chối phân biệt cao thấp,
quý tiện do đó đã vượt qua sinh tử, ta người, thân không;
do đó quyền uy sinh sát của Sơn thần không có tác dụng đối
với ông.
1185. Nga Sơn.
Nga
Sơn được thiền sư Nguyệt Thuyền ấn chứng. Nguyệt Thuyền
nói:
-
Ngươi là đại khí, cho đến nay ngươi đã thành tựu; từ
giờ về sau thiên hạ không còn ai làm phiền ngươi được
nữa. Ngươi nên phát tâm thiện tri thức đừng quên hành cước
vân du là nhiệm vụ của thiền giả.
Một
năm, Nga Sơn nghe nói Bạch Ẩn tại Giang Hộ giảng Bích
Nham
Lục bèn tới Giang Hộ tham phỏng và trình kiến giải, ngờ
đâu Bạch Ẩn nói:
-
Trí giải của ngươi từ ác tri kiến mà có, hơi thối xông
cả vào ta.
Rồi
đó đuổi Nga Sơn đi. Nga Sơn không phục ba lần vào thất
ba lần đều bị đuổi ra. Nga Sơn tự nghĩ mình đã đuợc
ấn khả, chẳng lẽ Bạch Ẩn nhìn không ra mình đã ngộ?
hay là để khảo nghiệm mình chăng? Bèn đến gõ cửa thiền
sư thưa:
-
Mấy lần trước con vô tri nên xúc phạm thầy, mong thầy cho
lời từ huấn, con nhất định hư tâm tiếp nạp.
-
Ngươi tự mang một bụng thiền, nhưng đến bờ sinh tử thì
lại không có sức. Nếu muốn được bình sinh thống khoái
nên nghe tiếng vỗ một bàn tay của ta.
Do
đó, Nga Sơn lưu lại theo hầu Bạch Ẩn bốn năm. Năm 30 tuổi
cuối cùng đã khai ngộ. Nga Sơn là cao đồ của Bạch Ẩn,
đã dương cao thiền phong của thầy. Về sau, lúc về già ở
ngoài sân phơi phóng chăn màn. Tín đồ trông thấy hỏi:
-
Lão sư, thầy có nhiều đồ đệ, những việc vặt vãnh này
vì sao thầy phải tự làm”?
-
Người già không làm việc lặt vặt còn muốn làm gì nữa?
-
Người già có thể tu hành.
-
Ngươi cho rằng làm việc vặt không phải là tu hành sao? Vậy
Đức Phật vì đệ tử xỏ kim, sắc thuốc lại gọi là gì?
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Có
một số người ngộ nhận tu hành và làm việc là hai. Sự
thực Hoàng Bá làm ruộng, Quy Sơn làm tương, hái rau; Thạch
Sương xay thóc, sàng gạo; Lâm Tế trồng tùng; Huyền sa trồng
cây v. v. đều là thiền trong sinh hoạt.
1186. Liễu Nguyên.
Liễu
Nguyên người Giang Tây, tục họ Lâm. 19 tuổi từng tham học
Viên Thông Cư Nột thiền sư. Viên Thông vừa nhìn thấy Liễu
Nguyên liền tán thán:
-
Tướng mạo và khí chất ngươi giống như Tuyết Đậu thiền
sư là Long Tượng trong cửa Phật.
Về
sau Liễu Nguyên vân du đến Lư Sơn ở Giang Tây theo hầu Khai
Tiên thiền sư, ngộ nhập bát nhã không tánh, trở thành đệ
tử nhập thất của Khai Tiên. Năm 55 tuổi Liễu Nguyên trụ
trì Kim Sơn Giang Thiên Tự. Lúc đó Tăng thống Triều Tiên
là Nghĩa Thiên đến Trung Hoa cầu học; đến các nơi đều
đuợc tiếp đón như Vương công đại thần. Một hôm Nghĩa
Thiên đến Giang Thiên Tự bái phỏng Liễu Nguyên. Liễu Nguyên
tiếp ông như tiếp các vân thủy tăng; tự mình ngồi trên
thiền tọa, muốn Nghĩa Thiên trải tọa cụ hành lễ rồi
mới tiếp đãi khai thị. Người tùy tùng Nghĩa Thiên là Dương
Kiệt thấy Liễu Nguyên coi thường khách quý bèn nói:
-
Thiền sư, Nghĩa Thiên tăng thống là lãnh tụ Phật giáo Triều
Tiên là quốc khách không thể coi như vân thủy tăng đuợc.
Liễu
Nguyên không cho là phải:
-
Nghĩa Thiên là tăng thống Triều Tiên, là quốc khách, nhưng
không thể phế bỏ những nghi lễ của nhà Phật. Nếu ông
ta mặc tăng phục đến tức thuộc tăng chúng, dĩ nhiên phải
theo luật của thiền môn, làm sao thay đổi đuợc?
Dương
Kiệt quyền biến thưa:
-
Thiền sư, ông ta không phải là tăng già Đại Tống, Ổng
từ quốc ngọai tới, bất tất dùng lễ nghi thiền môn Trung
Quốc mà tiếp đãi.
-
Cửa thiền không có trong ngoài. Nghĩa Thiên đã đến nước
ta mà tham phỏng, chúng ta nên lấy lễ Trung Hoa mà tiếp đón.
Ngươi lại khuyên ta cẩu thả theo tục. Người trong thiên
hạ sẽ cười ta làm sao biểu tỏ tôn nghiêm của Hoa Hạ?
Nghĩa
Thiên thấy thiền phong của Liễu Nguyên không ngại hành đại
lễ biểu thị kính pháp. Do đó, thanh danh của liễu Nguyên
càng vang dội triều dã. Ngoài 60, Liễu Nguyên đến kinh đô
được Hoàng đế Triết Tông triệu kiến và phong hiệu là
Phật Ấn.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Phật
Ấn trong thiền sử là một vị thiền sư ưa khôi hài, cùng
Tô Đông Pha qua lại, tạo nên nhiều giai thoại mà người
lớn cũng như trẻ con đều biết.
1187. Phục Tòng
Mỗi
khi Bàn Khuê thuyết pháp, tín đồ đến nghe chật cả pháp
đường, tưởng chừng một giọt nước cũng không lọt. Do
đó, ngoại đạo đố kỵ, quyết định đến giảng đuờng
cùng ông tranh luận. Bàn Khuê đang thuyết pháp bỗng nghe có
tiếng nói lớn:
-
Thiền sư! người tôn kính ông, kính phục lời ông nói, nhưng
đối với hạng người như ta thì không phục ông. Ông có
thể làm cho ta phục không?
Bàn
Khuê chỉ phía bên phải:
-
Hãy đến đây ta sẽ làm cho ông coi.
Ngoại
đạo vẹt chúng đi về phía phải.
Bàn
Khuê lại mỉm cười:
-
Mời sang phía trái dễ nói chuyện hơn.
Ngoại
đạo lại đi sang bên trái.
-
Ấy! Không đúng, ông đến trước mặt ta tốt hơn.
Ngoại đạo lại đi ra phía trước.
-
Đấy ông xem, ông đã phục tòng ta rồi; ta nghĩ ông là một
người phi thường tuỳ hòa; bây giờ hãy ngồi xuống nghe
pháp đi.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiền
có thể phục tất cả không phải là điều hư dối.
1188. Thế nào là tự kỷ?
Một
ông tăng hỏi Văn Hỷ:
-
Niết bàn là thế nào?
-
Hương khói khắp nơi.
-
Đại ý của Phật pháp là gì?
-
Kêu viện chủ lại đây, ông tăng này bị điên đầu!
-
Còn thế nào là chính mình?
Văn
Hỷ lặng yên không trả lời.
(Thiền Cơ)
Điên
đầu: chỉ còn mê, chính mình chỉ tự tánh.
1189. Núi Ba Tiêu.
Một
ông tăng hỏi Ba Tiêu:
-
Thế nào là núi Ba Tiêu?
-
Đông ấm, hạ mát.
-
Thế nào là thổi lông trên kiếm?
-
Bước tới ba bước.
-
Dụng ý là sao?
-
Bước lui ba bước.
(Thiền Cơ)
Câu
hỏi của ông tăng là thiền phong của Ba tiêu thế nào, cũng
đồng thời hỏi tự tánh là sao? Bước tới ba bước là vào
thánh,bước lui ba bước là về phàm.
1190. Bài kệ phó pháp của tổ Đạt Ma
吾
本 來 此 土
Ngô
bản lai thử thổ
傳
法 救 迷 情
Truyền
pháp cứu mê tình
一
華 開 五 葉
Nhất
hoa khai ngũ diệp
結
果 自 然 成
Kết
quả tự nhiên thành
Ta sang đến cõi này
Truyền pháp cứu mê tình
Một hoa nở năm cánh
Nụ trái tự nhiên thành.
(Thích Thanh Từ)
(Thiền
Ngữ Bách Tuyển)
Câu
ba của bài kệ là lời sấm của tổ Đạt Ma. Có ba thuyết
giải thích câu này.
Thuyết
thứ nhất:
Một
hoa chỉ tổ Đạt Ma, 5 cánh chỉ 5 vị Tổ Trung Hoa là: nhị
tổ Huệ Khả, tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín, ngũ tổ
Hoằng Nhẫn, lục tổ Huệ Năng.
Thuyết
thứ nhì:
Một
hoa chỉ tổ Huệ Năng, 5 cánh chỉ 5 dòng Thiền Trung Hoa
là:Lâm
Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn.
Thuyết
thứ ba:
Một
hoa chỉ sự giác ngộ, 5 cánh chỉ 5 thức.
1.A
Lại Da Thức biến thành Đại Viên Cảnh Trí: Các chủng tử
bất tịnh trong A Lại Da Thức biến chuyển thành tịnh. A Lại
Da Thức không còn là đối tượng của Mạt Na Thức nữa,
nghĩa là không còn chấp ngã.
2.Mạt
Na Thức biến thành Bình Đẳng Tính Trí: thấy được tính
cách bình đẳng của vạn pháp.
3.
Ý Thức biến thành Diệu Quan Sát Trí ngăn cản bốn loại
phiền não: ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái không cho chúng
xụất hiện nữa.
4.
Năm thức đầu biến thành Thành Sở Tác Trí có khả năng
tự tại vô ngại.
5.
Lúc đó người giác ngộ sẽ thấy mọi sự vật đều là
sự hiển hiện của Phật Tâm cái thức ấy đuợc gọi là
Pháp giới Thể Tánh Trí.
1191. Không sắc vốn đồng.
Có
ông tăng hỏi Triệu Châu:
-Sắc
tức là không, không tức là sắc. Đạo lý này làm sao giải
thích?
-Nghe
bài kệ của ta:
礙
處 非 牆 壁
Ngại
xứ phi tường bích
通
處 沒 處 空
Thông
xứ một xứ không
空
人 如 是 解
Nhược
nhân như thị giải
空
色 本 來 同
Không
sắc bản lai đồng
Chỗ ngại không tường vách
Chỗ thông chẳng hư không
Nếu giải thích như vậy
Không và sắc vốn đồng.
Ông
tăng nghe rồi vẫn không hiểu, Triệu Châu lại thêm:
佛
性 堂 堂 顯 現
Phật
tánh đường đường hiển hiện
柱
性 有 情 難 見
Trú
tánh hữu tình nan kiến
若
悟 眾 生 無 我
Nhược
ngộ chúng sanh vô ngã
我
面 何 如 佛 面
Ngã
diện hà như Phật diện
Phật
tánh rõ ràng hiện ra
Trú
tánh hữu tình khó thấy
Nếu
ngộ chúng sanh không ta
Mặt
ta, mặt Phật khác mấy?
- Thiền
sư, con hỏi đạo lý: sắc tức là không, không tức là sắc
mà?
Triệu
Châu trợn mắt:
-
Sắc tức là không, không tức là sắc.
Cuối
cùng ông tăng đã ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Những
vật chất mắt thấy, Phật pháp gọi là sắc. Sắc pháp theo
nhân duyên (không) mà thành. Sắc pháp không đơn độc tồn
tại vì vậy không có tự tánh có thể được. Cái không thể
được là không, cho nên sắc tức là không. “Không” không
có nghĩa là không có. Hư không bao dung tất cả vạn vật.
Vì vậy kinh nói “chân không” không ngại diệu hữu; diệu
hữu chẳng ngại chân không. Người phàm chấp các pháp đều
có thực thể không thể quán triệt hiện tượng(sắc) và
bản thể (không). Một khi thể ngộ chư pháp (sắc), vô ngã
(không), duyên khởi (sắc), tánh không (không) thì hiểu biết
Phật Tâm chính là Ngã Tâm; cho nên nói mặt Phật, mặt ta
đâu khác.
1192. Quốc sư và Hoàng đế.
Triều
Thanh, một hôm Hoàng đế Thuận Trị hạ chiếu chỉ thỉnh
Ngọc Lâm quốc sư vào cung.
Thuận
Trị hỏi:
-
Trong kinh Lăng Nghiêm có đề cập tâm ở 7 chỗ. Xin hỏi tâm
ở đâu?
-
Tìm tâm không được.
-
Người ngộ đạo còn hỷ, nộ, ai lạc không?
-
Cái gì gọi là hỷ, nộ, ai, lạc?
-
Sơn hà đại địa từ vọng niệm sinh, vọng niệm dứt thì
sơn hà đại địa còn không?
-
Như người nằm mộng tỉnh dậy, chuyện trong mộng là có
hay không?
-
Làm sao dụng công?
-
Chắp tay không làm.
-
Khuôn mặt xưa nay làm sao tham?
-
Như Lục tổ nói: “không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính
ngay lúc đó cái gì là bản lai diện mục?
Về
sau Thuận Trị bảo mọi người:
-
Tiếc rằng trẫm gặp Ngọc Lâm hơi muộn.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thuận
Trị hoàng đế là một người tu dưỡng Phật pháp rất cao.
Trong Tán tăng thi ông viết:
未
會 生 我 誰 是 我
Vị
hội sinh ngã thùy thị ngã
生
我 之 時 我 是 誰
Sinh
ngã chi thời ngã thị thùy
長
大 成 人 方 是 我
Trường
đại thành nhân phương thị ngã
合
眼 曚 曨 又 是 誰
Hợp
nhãn mông lung hựu thị thùy
不
如 不 來 又 不 去
Bất
như bất lai hựu bất khứ
來
時 歡 喜 去 時 悲
Lai
thời hoan hỉ khứ thời bi
悲
歡 離 合 多 勞 慮
Bi
hoan ly hợp đa lao lự
何
日 清 閒 誰 得 知
Hà
nhật thanh nhàn thùy đắc tri?
Lúc chưa sinh ra, ai là ta?
Lúc sinh rồi, ta lại là ai?
Lớn lên thành người, đó là ta?
Nhắm mắt rồi, ta lại là ai?
Chẳng bằng chẳng đi, chẳng đến
Đến thì vui vẻ, đi thì buồn
Buồn vui ly hợp nhiều lo lắng
Ai biết ngày nào đuợc thanh nhàn!
Đủ thấy tư tưởng của ông rất khế hợp Phật pháp. Ông hâm mộ sinh hoạt của chư tăng. Ông nói: Hoàng kim, bạch ngọc không lấy gì làm quý, đâu bằng vai khoác áo cà sa. Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày, chẳng bằng tăng gia nửa ngày nhàn. Hoàng bào đổi lấy cà sa, chỉ vì năm đó một niệm sai. Ta vốn là một Tây phương nạp tử, tại sao lại sinh vào nhà đế vương? Do đó Ông đối với Ngọc Lâm rất cung kính cũng là thuận lẽ. Ngọc Lâm là một cao tăng, ưa tĩnh lặng, không thích nói nhiều. Ngay cả Hoàng đế hỏi đạo ông cũng chỉ trả lời đơn giản những điều cần yếu. Cho thấy thiền môn, một lời cũng khó cầu.
1193. Thành thật không dối.
Thiền
sư Đạo Khải người đời Tống; đắc đạo rồi dương cao
Thiền môn tông phong. Từng trụ trì các chùa lớn như Tĩnh
Nhân tự, Thiên Ninh tự. Một hôm Hoàng đế phái sứ giả
tới ban tặng cà sa tía để biểu dương thánh đức, và pháp
hiệu là Định Chiếu thiền sư. Thiền sư dâng biểu kiên
quyết không nhận. Hoàng đế lại hạ lịnh cho thân vương
là Lý Hiếu Thọ ở Khai Phong phủ đến cho thiền sư hay đó
là mỹ ý của triếu đình. Thiền sư vẫn không nhận lãnh.
Do đó Hoàng đế tức giận sai Châu quan xử lý. Châu quan biết
thiền sư nhân hậu, trung thành khi đến chùa bèn gợi ý:
-
Thiền sư thân thể hư nhược, dung mạo tiều tụy có phải
là mang bệnh không?
-
Không có.
-
Nếu nói có bệnh có thể miễn trừ tội kháng chỉ.
-
Không bệnh là không bệnh, sao có thể giả có bệnh để chạy
tội?
Châu
quan không làm sao được đành phải đầy thiền sư đi Tri
châu.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Chúng
ta thường thấy các thiền sư thú vị, hoạt bát nhưng thiền
giả cũng thành thật và cố chấp như Đạo Khải vậy.
1194. Trăm năm như một giấc mộng.
Kim
Sơn Đàm Dĩnh thiền sư, người tỉnh Chiết Giang, tục tánh
Khâu, hiệu Đạt Quán. Năm 13 tuổi đến Long Hưng tự xuất
gia. 18 tuổi đến kinh đô trú ở vườn hoa của Thái Úy Lý
Đoan Nguyện. Một hôm, thái úy hỏi:
-
Người ta thường nói đến địa ngục không biết là có hay
không?
-
Chư Phật Như Lai thuyết pháp hướng vô nói hữu, như mắt
thấy không hoa là có mà không; thái úy hiện hướng hữu tìm
vô như tay vốc nước sông là trong vô hiện hữu. Thật đáng
cười. Như người trước mắt thấy lao ngục, tại sao không
trong tâm thấy thiên đường. Vui vẻ hay sợ hãi đều do tâm.
Thiên đường địa ngục đều trong một niệm. Thiện ác đều
có thể thành cảnh. Thái úy chỉ cần liễu tự tâm thì không
bị mê hoặc nữa.
-
Làm sao liễu tâm.
-
Thiện ác đều không nghĩ.
-
Không nghĩ thì tâm về đâu?
-
Tâm không về đâu như kinh Kim Cương nói: “Không trụ vào
đâu, thì tâm ấy sanh”.
-
Người ta chết rồi đi đâu?
-
Chưa biết sanh thì sao biết chết?
-
Sanh thì con đã biết.
-
Vậy sanh từ đâu tới?
Thái
úy trầm tư, thiền sư đập tay vào ngực bảo:
-
Chỉ tại chỗ này, suy nghĩ cái gì?
-
Biết rồi chỉ vì tham trình nên khốn đốn
-
Trăm năm một giấc mộng.
Thái
úy ngay đó khai ngộ nói bài kệ:
三
十 八 歲 懵 然 無 知
Tam
thập bát tuế mông nhiên vô tri
及
其 有 知 何 異 無 知
Cấp
kỳ hữu tri hà dị vô tri
滔
滔 汴 水 隱 隱 惰 堤
Thao
thao biện thủy ẩn ẩn đọa đê
師
其 歸 矣 箭 浪 東 馳
Sư
kỳ quy hĩ tiễn lãng Đông trì
Ba mươi tám tuổi, chẳng biết gì
Dù có biết khác gì vô tri
Sông Biện cuồn cuộn, đê lười ẩn
Sư nếu quay về, giống tên đi.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Sinh
từ đâu tới, chết đi về đâu? Đó là vấn đề mà người
ta thường bàn luận nhưng chẳng có ai tìm ra câu trả lời.
Thích Ca Mâu Ni và lịch đại tổ sư đều nói ra nguyên ủy
nhưng không dễ cho người ta hiểu vì có cách âm, nghĩa là
thay đổi thân thể rồi không nhớ gì được quá khứ nữa.
Vì thế từ ngàn xưa, khởi nguyên của sinh mạng nhiều người
nói lung tung, mỗi người một cách. Thật ra, sinh mạng hình
tướng tuy ngàn sai biệt nhưng lý tánh thì đồng. Nếu thông
đạt tam pháp ấn, nghiệp thức nhân quả của Phật giáo thì
sinh từ đâu, tử về đâu không hỏi cũng biết.
1195. Vân Môn.
Vân
Môn Văn Yển là truyền nhân đời thứ 7 của Huệ Năng, là
người sáng lập Vân Môn tông. Ông nói:
-
Tam thế chư Phật, 28 vị tổ Tây Trúc, 6 vị tổ đời Đường
đều thuyết pháp trên đầu trượng.
Ông
lại giơ một thanh củi lên:
-
Cả bộ Đại Tạng kinh chỉ nói cái này.
Thấy
một ông tăng đang lựa sạn, ông nói:
-
Trong gạo có bao nhiêu mắt Đạt Ma?
Một
hôm ông thọc tay vào miệng sư tử gỗ và kêu lên:
-
Ôi chao! Cắn chết ta! Cứu mạng!
(Niêm
Hoa Vi Tiếu)
Đây
không phải là cố lộng huyền hư, từ quan điểm vô tình
thuyết pháp, vô tình thành Phật mà coi thì cây gậy, thanh
củi, hạt gạo, sư tử gỗ đều có thể là Phật; Bất cứ
vật gì trong vũ trụ cũng là Đạo.
1196. Ý Tổ Sư.
Có
ông tăng hỏi:
-
Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Huyền
Sách đáp:
-
Hiểu tức chẳng hiểu, nghi tức chẳng nghi.
Lại
thêm:
-
Chẳng hiểu dẫn tới chẳng nghi, chẳng nghi dẫn tới chẳng
hiểu.
(Thiền
Sư Khải Ngộ Pháp)
Tự
tánh là tuyệt đối không phải là tương đối, do đó thiền
sư dùng sự mâu thuẫn mà đáp. Dưới con mắt người bình
thường “hiểu” không thể là “không hiểu”; “nghi”
không thể là “không nghi.” Thiền sư chính tại sự mâu
thuẫn không thể tương dung ấy mà vượt thoát lên. Ở hiện
tượng giới có không, thị phi rõ ràng phân biệt, nhưng ở
bản thể giới thì hỗn nhiên không vết tích. Do đó câu đáp
của thiền sư là mô tả cảnh giới ấy.
Câu
thứ 2 là khuyến khích học tăng, đề thị phương pháp tu
hành. “Nghi” là phương pháp tu hành trọng yếu nhất của
nhà Thiền, còn gọi là nghi tình. Đây không có nghĩa là hoài
nghi. Thời Minh mạt thiền sư Nguyên Lai nói:
-
Thế nào gọi là nghi tình? Sinh không biết từ đâu tới, không
thể không nghi chỗ đi; chết không biết đi đâu, không thể
không nghi chỗ đến. Cửa sống chết chưa phá tức nghi
tình phát sinh. Một người không đề cao năng lực tự giác
tức không thể đề khởi nghi tình, nếu chưa phát sinh đại
nghi đoàn thì không có khả năng kiến tánh. Do đó mới có
thiền ngữ: “Nghi lớn ngộ lớn, nghi nhỏ ngộ nhỏ; không
nghi không ngộ.” Câu ông tăng hỏi là vấn đề mà người
học thiền thường tham. Thiền sư khuyến khích ông: “Chẳng
nghi chẳng hiểu!”, chẳng có nghi tình thì không thể liễu
ngộ tự tánh; phải gắng sức cho tới khi đạt đuợc câu
đáp.
1197. Làm ác và tu thân.
Có
ông tăng hỏi Tuấn Cực:
-
Người tu hành làm thiện là người thế nào?
-
Là người mang gôm cùm.
-
Thế nào là người tà ác gì cũng làm?
-
Là người tu Thiền nhập định.
-
Học tăng căn cơ ngu muội, thiền sư khai thị điên đảo khó
hiểu, xin dùng lời giản dị dễ hiểu mà khai thị.
-
Gọi là người ác vì ác không theo thiện; gọi là người
thiện vì thiện không theo ác.
Ông
tăng như lạc trong đám sương mù. Rất lâu Tuấn Cực hỏi
lại:
-
Hiểu không?
-
Không.
-
Người làm ác không có thiện niệm; người làm thiện không
có ác tâm. Do đó nói thiện ác như mây nổi không sinh cũng
không diệt.
Học
tăng nghe lời liền ngộ.
(Tinh
Vân Thiền Thoại)
Thiện
ác, theo mắt người đời thì làm việc tốt gọi là thiện,
làm việc xấu gọi là ác. Thiện có thiện báo, ác có ác
báo.Tam thế nhân quả hiển nhiên. Ở sự tướng mà nói thì
không một điểm hư ngụy, nhưng ở bản tánh thì thiện ác
đều không lập. nếu có thể không nghĩ thiện, không nghĩ
ác thì đó là thấy tánh. Tội ác vốn không, do tâm tạo,
tâm mất thì tội cũng không. Người làm thiện như mang gông
cùm; người làm ác gọi là thiền định? Chẳng trách học
tăng bảo thiền sư điên đảo.Thực ra làm thiện là chấp
phúc báo, chẳng là mang gông cùm sao?Người làm ác tuy bị
lưu chuyển trong ác đạo, nhưng vì bản tánh như vậy. Thiền
sư Tuấn Cực vì lòng từ bi đưa ra lời cao luận muốn chúng
ta không bị thiện ác mê hoặc. Khi làm thiện đừng chấp
trước hữu vi pháp coi đó là cứu cánh giải thoát thì đó
là sai lầm. Khi đã lỡ làm ác rồi thì tâm nguội lạnh coi
như vô vọng. Đó cũng là sai lầm. Thực ra, thiện ác là pháp,
pháp không thiện ác.
1198. Khách thành chủ.
Phật
Quang vân du bên ngoài, đêm trừ tịch ghé qua Bắc hải đạo
trường của đệ tử là Bình Toại.
Đến
trước cửa chỉ thấy tối thui, gõ cửa chẳng có ai trả
lời, nghĩ bụng có lẽ Bình Toại còn chưa về. Phật Quang
bất đắc dĩ ngồi thiền trước cửa chùa để đợi. Được
một lát, thị giả đi vòng quanh chùa thấy một cửa sổ không
khóa, ông bèn leo vào rồi mở cửa mời thiền sư vào.
Khi
Phật Quang vào rồi bèn bảo thị giả:
-
Hãy khóa cửa lại.
Chừng
2 lần nhang đốt, Bình Toại trở về, thử tất cả mọi chìa
khóa mang theo mà không sao mở cửa được. Buồn phiền tự
nhủ:
-
Quái lạ! Rõ ràng là đúng chìa khóa mà sao không mở được,
có lẽ cửa lâu không mở bị rỉ sét chăng?
Bình
Toại lại thử nữa, nhưng vẫn không mở đuợc.,
Bất
đắc dĩ phải bẻ song cửa cầu tiêu mà vào.Khi đang leo bỗng
nghe một tiếng trầm gặng hỏi:
-
Ngươi là ai, leo cửa vào làm gì?
Bình
Toại thất kinh, hụt bước ngã lăn ra đất, không biết mình
có vào nhầm nhà không.
Phật
Quang sợ đệ tử quá kinh hãi, bảo thị giả mở cửa cho
Bình Toại vào. Bình Toại thấy sư phụ bèn thi lễ nói:
-
Sư phụ, vửa rồi đệ tử sợ muốn chết, tiếng hét của
sư phụ như sư tử rống khiến đệ tử không biết ai là
chủ, ai là khách.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thường
có người nói từ bi rất khó thực hành. Kỳ thật nếu có
thể hoán chuyển tự tha thì dễ thực hành từ bi. Bình Toại
chủ khách thay đổi không biết mình là ai? Rõ ràng mình là
chủ trì, nghe người trong thất hỏi, đột nhiên biến mình
thành khách. Bình thường chấp trước tự ngã, cũng có lúc
quên tự ngã, nhưng cái quên này vẫn chưa lìa đối đãi phân
biệt. Giả như trong thiền quán ngộ đạo, từ vô phân biệt
quên đi tự ngã, thì sẽ vượt qua biển khổ sanh tử.
1199. Tâm lượng.
Một
tín đồ hỏi Vô Đức:
-
Cùng một tâm , sao tâm lượng có thể lúc lớn lúc nhỏ?
Thiền
sư không trực tiếp trả lời, bảo:
-
Ngươi hãy nhắm mắt lại, tạo một tòa thành.
-
Thành đã tạo xong.
-
Lại nhắm mắt lại, tạo một sợi lông.
Tín
đồ theo lời lại tạo một sợi lông trong tâm.
-
Lông đã tạo xong.
-
Khi ngươi tạo tòa thành, là chỉ do tâm ngươi thôi hay phải
nhờ tâm người khác nữa để tạo?
-
Chỉ dùng tâm con thôi.
-
Khi tạo sợi lông, ngươi chỉ dùng 1 phần tâm ngươi thôi
hay dùng toàn tâm?
-
Toàn tâm.
-
Như vậy tạo một toà thành ngươi chỉ dùng một tâm, khi
tạo một sợi lông ngươi cũng chỉ dùng một tâm. Do đó tâm
có thể lớn có thể nhỏ.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đây
là cách giảng trực tiếp khiến học nhân tự mình thể hội
tâm lượng; không bị không gian hạn chế.Cái bị hạn chế
là 5 thức đầu, đó là thức tâm. Chân tâm siêu việt thời,
không tự vận dụng tự như. Chúng ta vì bị căn, trần, thức
trở ngại nên không thấy chân tâm.
1200. Nan Đà Tôn Giả.
Nan
Đà Tôn Giả trong quá khứ là người thích nữ sắc. Về sau
chứng quả A La Hán. Phàm đã chứng quả vị A La Hán thì đã
đoạn dâm dục. Phiền não háo sắc dĩ nhiên là không còn
tồn tại. Tuy vậy mỗi khi vào ngồi thiền ông đều nhìn
nữ chúng trước cho thấy tập khí vẫn còn.
(Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đức
Phật có nói: “thánh hiền có thể đoạn phiền não, nhưng
không thể đoạn tập”. Vì tập khí do nhiều kiếp dưỡng
thành nên khó mà dứt bỏ. Nhà Thiền dùng gậy hay hét, thậm
chí động tay, động chân chỉ có mục đích là cắt đứt
sự hoạt động thức tâm của học nhân. Khi vọng niệm manh
động, bỗng nhiên bị một loại chấn động bất ngờ, niệm
đầu nhất định bị cắt đứt. Đây là một phương pháp
đoạn tập tốt nhất, vì vậy thiền gia thường hay dùng.
Hết Quyển Trung
Các Sách Trích Dịch
Bích
Nham Lục bạch thoại chú giải Hứa Văn Cung
Bình
Thường Tâm Thị Đạo Bồ Đề Học xã
Ch’an
and Zen Teaching Lu K’uan Yu
Chích
Thủ Chi Thanh Dư Tiến Phu
Đồ
giải thiền vấn đáp Trần Hòa Chương
Entretiens
de Lin-Tsi Paul Demiéville
Hảo
Tuyết phiến phiến Lâm Thanh Huyền
Hương
Thủy Hải Lâm Thanh Huyền
Minh
Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông Bồ Đề Học Xã
Mumonkan
& Hekiganroku Katsuki Sekida
Nhất
Nhật Nhất Thiền Ngữ Long Mãn
Nhất
Vị Thiền - quyển phong Lý Anh Đệ
- quyển hoa Hoàng Tĩnh Nhã
- quyển nguyệt Lâm Tân Cương
Niêm
Hoa vi Tiếu Cố Vĩ Khang
Phật
dữ Thiền Minh Kính
Sinh
hoạt Thiền Dương Huệ Nam
The
Center Within Gyomay M. Kubose
Thiền
Cơ Lâm Minh Dục
Thiền
Cơ Sử Nễ Tại Chân lý Trung Giác Tình Viên Thông
Thiền
Đích Cố Sự Hựu Nhất Tập Giản Huệ Căn
Thiền
Lâm Tuệ Ngữ Vân Lăng
Thiền
Lý Dữ Nhân Sinh Bồ Đề Học Xã
Thiền
Ngộ Bình Điền Tinh Canh
Thiền
Ngoại Thuyết Thiền Trương Trung Hành
Thiền
Sinh Mạng Đích Vi Tiếu Trịnh Thạch Nham
Thiền
Sư Khải Ngộ Pháp Thái Vinh Đình
Thiền
Tông Dật sự Đạo Long
Thiền
Tông Tọa Thạch Minh Bồ Đề Học Xã
Thiền
Tông Trí Tuệ Ngữ Lục Bồ Đề Học Xã
Thiền
Tông Công Án Bí Truyền Dư Tiến Phu
Thiền
Thuyết Thái Chí Trung
Thiền
Viên Vương Trần Canh
Tinh
Vân Thiền Thoại Tinh Vân
Trung
Quốc Thiền Khang Hoa
Vô
Môn Quan bạch thoại chú giải Thánh Tham
Zen
Koans Gyomay M. Kubose
Zen
Light Barragato