Kinh Trung Bộ Majjhima Nikãya | Bộ Mới

19/11/202211:12 SA(Xem: 11233)
Kinh Trung Bộ Majjhima Nikãya | Bộ Mới

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
TAM TẠNG THÁNH ĐIỂN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH TRUNG BỘ
MAJJHIMA NIKÃYA 
DỊCH GIẢ: HÒA THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC 2022

Kinh Trung bộ

 LỜI CHỨNG MINH

Nam-mô Bản Sư Thích-ca Mâu-ni Phật

Trong Kỉnh Hoa Nghiêm có ghi: "Phật dĩ nhất nhất thân, xứ xứ chuyển pháp /沥〃"(佛以一一身,處處轉法輪),nghía là đức Phật luôn dùng tất cả hóa thân của mình, ở mọi nơi mọi chốn chuyển bánh xe pháp. Thật hoan hỷtinh thần chuyển bánh xe pháp của đức Phật đã và đang được chư Tôn đức Hội đồng Tri sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai một cách hiệu quảĐặc biệt, trên phương diện hoăng truyên kinh điên, chư Tôn đức đã có những định hướng đúng đắn cho Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tiến hành phiên dịch, san định, ấn tống Kinh, Luật, Luận, Sớ giải có nguồn gốc từ tạng Pali, Sanskrit, Hán cổ và các ngôn ngữ khác...

Khi nghiên cứu, hoằng truyền kinh điển, nhà Phật thường có câu: DĩThánh giáo vi minh cảnh chiêu kiên tự tâm, dĩ tự tâm vi trí đăng chiêu kinh u chr (以 聖教爲明鏡照見自心,以自心爲智燈照經幽旨),nghĩa là lấy Phật pháp làm tâm gương sáng soi vào tự tâm, lây tự tâm làm ngọn đèn trí soi tỏ chô thâm sâu của kinh điên. Những Phật sự được chư Tôn đức trong Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đã và đang thực hiện, thực sự là những việc làm trân quý. Việc ấy không chỉ làm sáng bản tâm của mỗi hành giả nghiên cứu mà còn chuyển hóa lời Phật dạy một cách dễ hiểu, dễ học, dễ hành, gần gũi với cuộc sống đời thường. Thông qua đó, môi hành giả có được cách tiêp cận, tu tậpthực hành lời Phật dạythành tựu nhiều kết quả hơn.

Từ việc nghiên cứu kinh điển, nhìn lại Phật giáo Việt Namchúng ta mới thấy, Phật giáo Việt Nam với chiều dài lịch sử trên dưới 2000 năm đồng hành cùng dân tộc, đã tạo nên những giá trị Phật giáo đặc biệt, đóng vai trò trụ cột trong việc gìn giữ nền văn hóa Việt thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, làm cho dân tộc Việt Nam trở nên vĩ đại nhất trong lịch sử phong kiến nước nhà vào thời đại Lý - Trần, vẫn đang tiếp tục đồng hành cùng đất nước trong thời kỳ hội nhập với phương châm "Đạo pháp - Dân tộc." Chính vì vậy? những Phật sự của chư Tôn đức trong Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đang thực hiện có ý nghĩa hét sức quan trọng trong việc “kế vãng khai lai, truyên trì đạo mạch", không chỉ làm cho Phật pháp xương minh, trường ton ở the gian mà còn góp phan làm cho Phật giáo Việt Nam tiếp nối truyền thống tốt đẹp từ ngàn xua, phát triển lên một tầm cao mới. Hy vọng mỗi hành giả chúng ta nỗ lực hơn nữa để thành tựu giải thoát và hoàn thành sứ mệnh "Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự."

Nguyện câu Phật nhật tăng huy, Pháp luân thường chuyên, thê giới hòa bình, nhân dân an lạc.

Nam-mố Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát, tác đại chứng minh.

VesakLiên Hợp Quốc, PL.2563 - DL.2019
Trưởng lão Hòa thượng THÍCH PHỔ TUỆ
(Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam

LỜI GIỚI THIỆU


Thay mặt Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi tán dương Hội đồng Quản trị Viện Nghiên cứu Phật học Việt Namđặc biệt là Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam đã hoan hỷ đảm trách nhiệm vụ phiên dịchbiên tập và ấn hành bộ Thánh điển thiêng liêng này.
Phiên dịch Kinh, Luật, Luận từ các ngôn ngữ Phật học (Pāli, Sanskrit, Hán cổ) ra tiếng Việt là trách nhiệm cao quý của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (VNCPHVN) do Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu thành lập năm 1989, nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứuhọc hỏi và thực tập Phật pháp của hàng triệu Tăng NiPhật tử Việt Nam trong và ngoài nước.

1. Về thuật ngữ

Tôi tán đồng cách Hội đồng Quản trị VNCPHVN thay đổi cụm từ “Đại tạng kinh Việt Nam”, vốn chịu ảnh hưởng từ cách đặt tựa tác phẩm của Phật giáo Trung Quốc, thành “Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam”, nhằm thể hiện bản sắc văn học Phật giáo Việt Namđồng thời thích ứng với cách đặt tên phổ biến của cộng đồng Phật giáo thế giới hiện nay.

Khái niệm “Đại tạng kinh” chỉ đề cập đến “Kinh tạng” (P. Sutta Piṭaka, H. 經蔵) tức kho tàng Chân lý, trong khi khái niệm “Tam tạng Thánh điển Phật giáo” có nội hàm rộng hơn, bao quát hơn; đó là ngoài kho tàng Chân lý còn có kho tàng Đạo đức (P. Vinaya Piṭaka, H. 律蔵, Luật tạng), kho tàng Triết học tâm (P. Abhidhamma Piṭaka, H. 論蔵, Luận tạng), Văn học Chú giải (P. Aṭṭhakathā), Văn học Phụ chú giải (P. Ṭīkā), Văn học Tục tạng và các tác phẩm Phật học Việt Nam.

Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam bao gồm các tuyển tập Tam tạng Phật giáo Thượng Tọa bộ (ảnh hưởng các nước Ấn ĐộTích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia), Tam tạng Phật giáo Bộ pháiTam tạng Phật giáo Đại thừa (ảnh hưởng Việt NamTrung QuốcNhật BảnĐại HànTây Tạng), Văn học Sớ giải, Văn học Tông phái Phật giáo và Văn học Phật giáo Việt Nam, v.v...

2. Về Văn học sử Phật giáo

“Thánh điển Phật giáo” là khái niệm chỉ cho tuyển tập những lời dạy của đức Phật trong 45 năm (theo Phật giáo Nam truyền) hay 49 năm (theo Phật giáo Bắc truyền) truyền bá Chân lý (P. Dhamma, S. Dharma, H. 法, Pháp), Đạo đức (P=S. Vinaya, H. 戒律, Giới luật), và Các pháp siêu việt (P. Abhidhamma, S. Abhidharma, H. 無比法, Vô tỷ pháp).

Thánh điển Phật giáo được truyền thừa qua hình thức khẩu truyền, được cho là bằng ngôn ngữ Pāli từ thời đức Phật (khoảng thế kỷ VI-V TTL) và lưu truyền qua ba lần kết tập kinh điển tại Ấn Độ. Đến đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư tại Tích Lan (khoảng thế kỷ I TTL), Thánh điển được viết trên lá bối và lưu truyền đến ngày nay. Hai tác phẩm Đảo sử (Dīpavaṃsa) và Đại sử (Mahāvaṃsa) đều ghi nhận rằng trong triều đại Valagamba (29-17 TTL) tại Anuradhapura, Tích Lan, các cao Tăng thuộc làu Tam tạng Pāli bắt đầu viết kinh Phật trên lá bối để giữ gìn và truyền bá lời Phật dạy một cách hiệu quả hơn.

Theo các nhà Đại thừa, cũng vào thế kỷ I (TTL) trở đi, kinh điển Đại thừa bằng tiếng Sanskrit lần lượt ra đời. Ngoài các bản kinh Đại thừa quan trọng tồn tại với ấn bản Sanskrit, phần lớn văn học Phật giáo Đại thừa được lưu giữ qua các bản dịch Hán cổ, được các vua chúa, đại tín chủ lưu bố qua các bản chép tay, khắc trên đá, khắc trên gỗ, và về sau biên tập thành các Đại tạng kinh mang tầm vóc quốc gia ở Trung Hoa; còn tiếng Tây Tạng cổ, được biên tập thành Kinh điển Phật giáo Tây Tạng (Tibetan Buddhist Canon) gồm hai tạng Kangyur (Kinh - Luật tạng gồm 100 bộ) và Tengyur (Luận tạng gồm 213 bộ).

3. Về phương diện lịch sử

Hơn 10 thế kỷ (từ thế kỷ I-X) bị Trung Quốc đô hộ, người Việt Nam đã sử dụng Đại tạng kinh Trung Hoa bằng Hán cổ và cho đến những thế kỷ sau. Giai đoạn 80 năm Pháp thuộc (1867-1945), người Việt lại buộc phải sử dụng tiếng Việt La-tinh hóa nên chữ Hán Nôm mất dần vị trí ngôn ngữ chính thống. Đứng trước nhu cầu thích nghi với quốc ngữ mới, các cao Tăng Việt Nam quyết định phiên dịch kinh điển từ Hán cổ ra tiếng Việt La-tinh để phổ biến lời Phật dạy rộng rãi hơn, vì đại đa số người Việt trong thời Pháp thuộc không đọc được chữ Hán Nôm.

Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam được hình thành qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 bắt đầu từ 1950 đến 1975, với đỉnh cao là sự ra đời của Hội đồng Phiên dịch Kinh điển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) vào năm 1973 và ngưng hoạt động vào năm 1975. Các bậc Tôn túc đóng góp nổi bật trong việc phiên dịch kinh điển từ Hán cổ sang tiếng Việt trong giai đoạn này có Hòa thượng Thích Trí Tịnh (Ma-ha Bát-nhã, Hoa NghiêmĐại Bảo Tích, Niết-bàn, Pháp Hoa); Hòa thượng Thích Trí Nghiêm (Đại Bát-nhã); và chư vị Hòa thượng Thích Thanh Từ, Hòa thượng Thích Bửu Huệ, Hòa thượng Thích Thiền Tâm (Trung A-hàm, Tăng nhất A-hàm), Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Thượng tọa Thích Trí Thành (Trường A-hàm, Tạp A-hàm), v.v…

Giai đoạn 2 bắt đầu từ 1975 đến 2017, với sự ra đời của các bản dịch từ Pāli sang tiếng Việt. Đóng góp nổi trội của Hòa thượng Thích Minh Châu là phiên dịch hầu hết Kinh tạng Pāli. Hòa thượng Hộ Tông, Hòa thượng Bửu Chơn, Hòa thượng Giới Nghiêm phiên dịch Luật tạng Pāli và Hòa thượng Tịnh Sự dịch Luận tạng Pāli. Gần đâyThượng tọa Chánh Thân đã dịch mới một số kinh trong Tiểu bộ và Luật tạng Pāli.

Sau ba thập niên phiên dịch độc lập, đến năm 1991, Hội đồng Chỉ đạo Phiên dịch và Ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam chính thức được Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) thành lập. Từ đó đến nay, VNCPHVN chỉ tái bản được Kinh tạng Nam truyền, gồm 13 tập và một vài tập A-hàm. Trong thời gian này và trước đó, Hòa thượng Thích Trí Quang đã dịch hơn 25 tập Kinh, Luật, Luận; Hòa thượng Thích Đỗng Minh đã dịch một số bộ Luật và hướng dẫn, khuyến khích chư Tăng Ni tại Nha Trang phiên dịch các bộ Luật của các bộ phái Phật giáo, góp phần làm phong phú kho tàng Luật tạng Phật giáo Việt Nam.

Trong hai thập niên, 1994-2014, Hội đồng Dịch thuật do Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh khởi xướng và bảo trợ, có công tổng hợp, biên tập và xuất bản các công trình dịch thuật đã có, đồng thời dịch mới các Kinh, Luật, Luận quan trọng khác để hình thành Linh Sơn Pháp bảo Đại tạng kinh.

Giai đoạn 3 từ năm 2017 trở đi. Vào giữa năm 2018, Hội đồng Quản trị VNCPHVN thành lập Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tiến hành đối chiếu văn bản song ngữ, biên tập tiếng Việt, làm tổng mục lục mới, với mục tiêu phiên dịch hoàn tấtbiên tập và xuất bản Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, gồm Ba tạng Thượng Tọa bộ, Ba tạng Bộ phái và Ba tạng Đại thừaĐồng thờiVăn học Sớ giải, Tục tạng, Văn học tông phái Phật giáo Trung QuốcNhật Bản và Văn học Phật giáo Việt Nam cũng sẽ được thực hiện tiếp theoCông trình sưu tầm, phiên dịch, hiệu chú và ấn hành này dự kiến sẽ hoàn thành trong vòng 10 năm hoặc lâu hơn nữa.

4. Về bản sắc quốc gia

Thánh điển Phật giáo được xem là quốc bảo của nhiều quốc gia theo đạo Phật. Các quốc gia thuộc hai truyền thống Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền đều có Thánh điển Phật giáo bằng tiếng mẹ đẻ của họ từ lâu. Tại các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, ngoài ấn bản Tam tạng Thánh điển Pāli, đều có bản dịch Thánh điển Phật giáo bằng quốc ngữ của họ.

Trong các nước Phật giáo Đại thừaTrung Quốc là nước đầu tiên có Khai Bảo tạng được khắc gỗ từ năm 971 đến 983 thời nhà Bắc Tống. Các nước Phật giáo Đại thừa chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc đều có ấn bản Đại tạng kinh chữ Hán theo phong cách riêng.

Đại Hàn (1011-1082) có ấn bản Cao Ly Đại tạng kinh (高麗大蔵經), hay còn gọi là Bát vạn Đại tạng kinh (八萬大蔵經), có cấu trúc mục lục khác với các Đại tạng kinh Trung Quốc, gồm Tam tạng Đại thừa (các bản văn 1-646), Tam tạng Tiểu thừa (các bản văn 647-978), Thánh Hiền Phật ký lục (các bản văn 979-1087) và các tác phẩm khác (1088-1498), trong đó, các bản văn 1402-1405 là các trước tác của Phật giáo Đại Hàn.

Nhật Bản có Thiên Hải tạng (天海蔵)đầu tiên được thực hiện từ năm 1637 đến 1648. Đến đầu thế kỷ XX, Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (大正新脩大蔵經, 1924-1934) do các học giả Takakusu Junjiro, Watanabe Umiakira và Ono Genmyo biên tập, gồm 100 tập, 3.493 bộ, 13.520 quyển, trong đó, 55 tập đầu gồm Kinh, Luật, Luận, Sớ giải, các tông phái Phật giáo Trung QuốcNhật Bản. Đây là ấn bản Đại tạng kinh bằng chữ Hán hoàn chỉnh nhất, có tính hệ thống về phân loại và chấm câu tốt nhất.

Phật giáo Tây Tạng cũng có Đại tạng kinh riêng khá sớm, từ năm 1290 đến 1364. Đại tạng này bao hàm hầu hết các bản luận Sanskrit của các bộ phái Phật giáo Ấn Độ, có nguồn gốc từ Trường Đại học Nalanda nổi tiếng và một số bản dịch từ tiếng Hán. Đại tạng này được hiệu chỉnh qua các thời kỳ và trở thành kho tàng Pháp bảo Tạng truyền đặc thù, vì nó chứa nhiều bộ mật chú và pháp môn tu bí truyền mà ngày nay không tìm thấy trong các Đại tạng Trung Hoa và các nước khác.

Tính từ thời điểm Pháp thuộc năm 1867 đến 2019, khi tiếng Hán - Việt trở thành tiếng Việt La-tinh hóa, 152 năm đã trôi qua, hoặc tính từ thời điểm Hội đồng Phiên dịch Kinh điển của GHPGVNTN hình thành từ năm 1973 cũng đã trải qua 46 năm, Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam chỉ mới hoàn tất một nửa chặng đường phiên dịch.

Bên cạnh việc trân trọng những thành quả dịch thuật của các bậc Tôn đức hữu công thuộc các thế hệ trước, GHPGVN cần có Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam hoàn chỉnh, không chỉ thể hiện bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam mà còn giúp cho người Việt Nam không biết các cổ ngữ Phật giáo, có thể tiếp cận lời Phật dạy bằng tiếng Việt, nhằm đạt được trí tuệ do nghe chân lý Phật (P. SutamayapaññāVăn tuệ), trí tuệ do nghiền ngẫm chân lý Phật (P. CintāmayapaññāTư tuệ) và trên nền tảng này, tiếp tục đạt được trí tuệ do thực hành thiền chỉthiền quán (P. Bhāvanāmayapaññā, Tu tuệ).

Để tạo nên bản sắc văn hóa tâm linh Phật giáo Việt Nam qua Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tôi tha thiết kêu gọi quý Tăng Ni và Phật tử tham gia vào Ban Phiên dịch và Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, góp phần phiên dịch và xuất bản hoàn chỉnh Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt NamĐồng thời, tôi tha thiết kêu gọi quý mạnh thường quân và quý Phật tử phát tâm đóng góp tịnh tài để công trình phiên dịchbiên tập và xuất bản Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam sớm thành tựu mỹ mãn.

Xuất bản Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam không chỉ là niềm mơ ước của Tăng Ni và Phật tử Việt Nam mà còn tạo thuận duyên cho 97 triệu người Việt Nam trong nước và hơn 5 triệu người Việt Nam ở hải ngoại có cơ hội học Phật, tu Phật bằng tiếng Việt, để diệt trừ tham áisân hậnsi mêchấp thủ, vốn là nhân khổ đau, đồng thời, trải nghiệm an vui, hạnh phúc bây giờ và tại đây, góp phần làm cho Tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu, mạnh và phát triển bền vững.

Vesak Liên Hợp Quốc, PL.2563 – DL.2019
Hòa thượng THÍCH THIỆN NHƠN
(Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN)

DẪN LUẬN KINH TRUNG BỘ

I. TỔNG QUAN KINH TRUNG BỘ
Kinh Trung bộ (P. Majjhima Nikāya, H. 中部經) là bộ kinh quan trọng thứ hai trong 5 bộ kinh Pāli (Pāli Nikāya) của Phật giáo Thượng Tọa bộ (Theravāda); là tuyển tập 152 bài kinh có độ dài trung bình (The Collection of the Middle Length Sayings) trong Kinh tạng Pāli (Sutta Piṭaka), tương ứng với 222 bài kinh trong Trung A-hàm kinh (S. Madhyama Āgama, H. 中阿含經). Khái niệm “trung” (majjhima, 中) có nghĩa là “trung bình, vừa” về số lượng chữ của từng bài kinh trong bộ này. Tuy nhiên, do số lượng kinh như đã nêu nên Kinh Trung bộ có số trang nhiều gần gấp 3 lần so với Kinh Trường bộ.
Về số lượng, Kinh Trung bộ ít hơn 70 bài kinh so với Trung A-hàm kinh thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (Sarvāstivāda), trong văn học Hán tạng, được sắp vào vị trí thứ 26 của Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (大正新脩大蔵經, Taishō edition).[1] Vì số lượng bài kinh giữa Kinh Trung bộ và Trung A-hàm kinh khác nhau nên có sự khác biệt lớn về thứ tự bài kinh, cách đặt tựa đề kinh, các khái niệm và nội dung từng bài kinh.
Về văn tự, kinh điển Pāli thường được phân bổ theo độ dài (pamāṇa) của kinh. Kinh Trường bộ là tuyển tập 34 bài kinh có độ dài dài nhất (dīghappamāṇānaṃ suttānaṃ). Kinh Trung bộ là tuyển tập 152 bài kinh có độ dài trung bình (majjhimappamāṇāni suttāni). Kinh Tương ưng bộ trong bản Việt dịch chúng ta gồm 2.854 bài kinh được sắp xếp theo nhóm chủ đềKinh Tăng chi bộ là tuyển tập gồm 7.260[2] kinh liên hệ đến pháp số, bắt đầu từ số 1 đến số 11. Kinh Tiểu bộ là một hợp tuyển gồm 15 tập theo chủ đề. Thực ra, cách phân loại tuyển tập kinh như vừa nêu cũng mang tính tương đối.[3]
Phần lớn Kinh Trung bộ, đức Phật giảng cho Tăng chúng về kinh nghiệm tu học, cách sống trong pháp, trong tình huynh đệ và khuyến khích hành đạo (1, 2, 3, 6, 10, 11, 13, 16, 17, 19, 20, 21, 22, 25, 26, 29, 33, 34, 38, 39, 40, 45, 46, 47, 48, 67, 70, 101, 102, 103, 106, 109, 110, 111, 112, 113, 116, 117, 118,
119, 120, 129, 130, 131, 137, 138, 139, 140, 141, 148, 149). Nhiều kinh đức Phật đặc biệt dạy cho các Tôn giả Sāriputta, Ānanda, Mahācunda và nhiều Tôn giả khác (8, 12, 59, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 68, 69, 81, 83, 104, 114, 115, 121, 122, 125, 126, 128, 136, 142, 145, 147, 151, 152). Có kinh đức Phật dạy cho các gia chủ (51, 52, 53, 54, 55, 60, 105, 127, 135, 150). Nhiều kinh đức Phật dạy cho ngoại đạo hoặc các vấn đề do ngoại đạo nêu lên được các vị đệ tử Phật thuật lại (4, 7, 13, 27, 30, 35, 36, 41, 42, 56, 57, 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 80, 91, 92, 93, 95, 96, 98, 99, 100). Nhiều kinh đức Phật giảng cho các vua chúa, quan lại (14, 58, 82, 84, 85, 87, 88, 89, 90, 125). Có kinh đức Phật giảng cho chư thiên (23, 49, 134), giảng cho dạ-xoa (31). Có kinh đức Phật dạy cho tướng cướp giết người (86). Nhiều kinh tường thuật lại cuộc đàm luận của các Tôn giả, đệ tử xuất gia của đức Phật (24, 32, 43); hoặc cuộc đàm thoại giữa đệ tử Phật với ngoại đạo (27, 124). Nhiều kinh các Tôn giả, đại đệ tử của đức Phật giảng cho hội chúng Tỳ-kheo (5, 9, 15, 18, 28,
123, 132, 133); hoặc giảng cho ngoại đạo (97). Có kinh tường thuật Tôn giả Sāriputta thăm bệnh, thuyết pháp cho cư sĩ (143) và cho Tỳ-kheo (144). Có kinh Tôn giả Mahāmoggallāna giảng cho chư thiên (37), hoặc giảng cho Ác ma (50). Có kinh Tôn giả Nandaka giáo giới cho chư Ni (146) và có kinh do nữ Tôn giả Dhammadinnā giải thích các pháp căn bản cho cư sĩ Visākha qua hình thức vấn đáp (44). Một số kinh tường thuật các thời giảng của chư Tôn giả sau khi đức Phật nhập Niết-bàn (94, 108).
Về nội dung, Kinh Trung bộ chứa đựng tất cả những triết học quan trọng của đức Phật, trải dài 45 năm hoằng truyền chân lý bao gồm thế giới quan (không có nguyên nhân đầu tiên), nhân sinh quan (lấy con người làm trung tâm), chính trị quan (dựa trên chủ nghĩa pháp quyền được sự hỗ trợ bởi chân lý), xã hội quan (không giai cấp, mọi người bình đẳng, công bằng, dân chủ), đạo đức quan (dựa vào phòng phi, chỉ ác, dương thiện), tu đạo quan (hoàn thiện đạo đức, thiền địnhtrí tuệ), giải thoát quan (chấm dứt luân hồi, chứng đắc các quả Thánh). Ngoài raKinh Trung bộ còn có một số bài kinh đối thoại liên tôn giáotriết học giữa đức Phật với các đạo sĩ Sa-môn và Bà-la-môn đương thời, cũng như giữa các đệ tử đức Phật với các đạo sĩ khác tôn giáo.
Về phân loại, Kinh Trung bộ được chia thành 3 phần (paṇṇāsa), 2 phần đầu, mỗi phần gồm có 50 kinh, riêng phần cuối có 52 kinh. Trong mỗi phần lại chia ra 5 phẩm (vagga), mỗi phẩm có 10 kinh, riêng phẩm thứ 15 gồm 12 kinh. Cấu trúc chia thành 3 phần, 15 phẩm của Kinh Trung bộ được tóm tắt như sau:
1. Phần căn bản (Mūlapaṇṇāsa) 50 bài kinh đầu tiên:

  1. Phẩm Pháp môn căn bản (Mūlapariyāyavagga) gồm các kinh 01-10.

  2. Phẩm Sư tử hống (Sīhanādavagga) gồm các kinh 11-20. (c) Phẩm Pháp thí dụ (Opammavagga) gồm các kinh 21-30.

  1. Phẩm Song đại (Mahāyamakavagga) gồm các kinh 31-40.

  2. Phẩm Song tiểu (Cūḷayamakavagga) gồm các kinh 41-50.

2. Phần giữa (Majjhimapaṇṇāsa) có 50 bài kinh theo thứ tự 51-100:

  1. Phẩm Cư sĩ (Gahapativagga) gồm các kinh 51-60.

  2. Phẩm Tỳ-kheo (Bhikkhuvagga) gồm các kinh 61-70.

  3. Phẩm Người tịnh hạnh (Paribbājakavagga) gồm các kinh 71-80.

  4. Phẩm Vua (Rājavagga) gồm các kinh 81-90.

  5. Phẩm Bà-la-môn (Brāḥmaṇavagga) gồm các kinh 91-100.

3. Phần cuối (Uparipaṇṇāsa) có 52 bài kinh theo thứ tự 101-152:

  1. Phẩm Devadaha (Devadahavagga) gồm các kinh 101-110.

  2. Phẩm Bất đoạn (Anupadavagga) gồm các kinh 111-120.

  3. Phẩm Không (Suññatavagga) gồm các kinh 121-130.

  4. Phẩm Phân biệt (Vibhaṅgavagga) gồm các kinh 131-140.

  5. Phẩm Đại xứ phân biệt (Saḷāyatanavagga) gồm các kinh 141-152.

Điểm đặc biệt của Kinh Trung bộ là phẩm 4 và 5, tức các kinh mang số thứ tự từ 31 đến 50, có cấu trúc “song đôi” (yamaka), cứ 2 kinh có một tựa đề. Kinh thứ nhất với tiếp đầu ngữ “Cūḷa (Tiểu) là kinh ngắn hơn, kinh tiếp theo với tiếp đầu ngữ “Mahā (Đại) là kinh dài hơn. Có tất cả 17 cặp kinh như vậy: 11-12, 13-14, 27-28, 29-30, 31-32, 33-34, 35-36, 37-38, 39-40, 43-44, 45-46, 63-64, 77-79, 109-110, 121-122, 135-136, 62-147Trật tự không được nhất quán, có lúc Tiểu kinh trước Đại kinh, cũng có lúc Đại kinh trước Tiểu kinh (ví dụ, cặp 13-14, 29-30, 33-34, 39-40, 43-44, 77-79, 109-110), có lúc khoảng cách khá xa (62-147).
Về các bản dịch tiếng Anh trọn bộ, Kinh Trung bộ được dịch nhiều hơn bốn bộ còn lại của kinh điển Pāli.
Bản dịch đầu tiên của Lord Chalmers với tựa đề: Further Dialogues of the Buddha (Các cuộc đối thoại sâu sắc của đức Phật), 2 tập (London: Oxford University Press, 1926-27).
Isaline Blew Horner dịch với tựa đề: The Collection of the Middle Length Sayings (Tuyển tập các lời dạy có độ dài trung bình), 3 tập (London: PTS, 1954-59).
Khoảng đầu năm 1960, Bhikkhu Ñaṇamoli dịch bộ này với tựa đề: The Middle Length Discourses of the Buddha: A New Translation of the Majjhima Nikāya (Những bài kinh có độ dài trung bình của đức Phật: Bản dịch mới Kinh Trung bộ), đã hoàn thành bản thảo, nhưng chưa kịp xuất bản rồi viên tịch. Công việc này được Ngài Bhikkhu Bodhi phát tâm hiệu đính, và đặt lại tựa đề mới: The Middle Length Discourses of the Buddha (Các bản kinh có độ dài trung bình của đức Phật), 2 tập. Do đó, tác phẩm được đứng tên bởi Ngài Bhikkhu Ñaṇamoli và Bhikkhu Bodhi (Somerville: Wisdom Publications, 1995; Boston:
Wisdom Publications, 2009).
David W. Evans dịch Discourses of Gotama Buddha: Middle Collection (Các bài giảng của đức Phật Gotama: Tuyển tập các kinh trung bình), (London: Janus Publications, 1991).
Ni sư Uppalavanna dịch toàn bộ 152 kinh sang tiếng Anh và đăng tải trên các trang mạng: www.metta.lk, www.buddhism.org, v.v…
Ngài Bhikkhu Sujato dịch với tựa đề: The Middle Discourses (Các bài kinh trung bình), xuất bản online tại www.suttacentral.net, 2018.
Ngoài ra, còn có các bản tuyển dịch được xuất bản ở một số nước Đông Nam ÁSớm nhất là bản A Treasury of the Buddha’s Words (Kho báu lời Phật dạy), đứng tên dịch giả là Bhikkhu Ñaṇamoli, được Bhikkhu Khantipalo hiệu đính và xuất bản tại Bangkok, năm 1960, trước khi Ngài Bodhi hiệu đính toàn tập; Hội Kinh tạng Miến Điện tuyển dịch: Twenty-Five Suttas from Mūla-Paṇṇāsā (25 bài kinh trong 50 bài đầu của Kinh Trung bộ), 1986; Twenty-Five Suttas from Majjhima-Paṇṇāsā (25 bài kinh trong 50 bài giữa của Kinh Trung bộ), 1987; và Twenty-Five Suttas from Upari-Paṇṇāsā (25 bài kinh trong 50 bài cuối của Kinh Trung bộ)1988 do Nxb. Myanmar Piṭaka Association ấn hành tại Rangoon và được Nxb. Sri Satguru, Delhi, tái bản tại Ấn Độ. Ngoài ra, còn có 82 bài kinh được Ngài Bhikkhu Thanissaro chọn dịch, in trong tuyển tập Handful of Leaves (Nắm lá), tập II (California, USA: Metta Forest Monastery, 2018).
Tại Việt Nam, bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu với tựa đề: Kinh Trung bộ, 3 tập, xuất bản lần đầu năm 1973, tái bản năm 1986, 1992. Đây là bản dịch trung thành với nguyên tác Pāli, có tham khảo bản tiếng Anh của bà I. B. Horner: The Collection of the Middle Length Sayings. Theo Lời giới thiệu của Kinh Trung bộ,[4] Hòa thượngtham khảo thêm bản tiếng Nhật trong Đại tạng kinh Nam truyền, những ghi chú bằng tiếng Anh và tiếng Hán, khi Hòa thượng theo học ở tại Hội Dharmaduta Vidhyalaya ở Colombo, Tích Lan từ năm 1952 đến 1955. Ấn bản mới nhất được Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tái bản năm 2012, in thành 2 tập.
Về tài liệu tham khảo cho Kinh Trung bộ trong tiếng Việt có Luận án Tiến sĩ của Hòa thượng Thích Minh Châu tại Đại học Nālandā năm 1961: A Comparative Study of the Chinese Madhyama Āgama and the Pāli Majjhima Nikāya (So sánh Trung A-hàm kinh chữ Hán và Kinh Trung bộ chữ Pāli) được Ni sư Trí Hải dịch ra tiếng Việt và xuất bản năm 1998.
Ngoài ra, còn có các quyển: Tóm tắt Kinh Trung bộ, 1 tập, của Hòa thượng Thích Minh Châu (TP. HCM: Nxb. Văn Hóa Sài Gòn, 2010); Tìm hiểu Kinh Trung bộ, 3 tập, của Hòa thượng Thích Chơn Thiện (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2004); Toát yếu Kinh Trung bộ của Ni sư Trí Hải, 3 tập (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2010); và Hướng dẫn đọc Kinh Trung bộ, 2 tập, của Thượng tọa Thích Nhật Từ (Hà Nội: Nxb. Hồng Đức, 2020).
Kinh Trung bộ lần đầu được Hòa thượng Thích Minh Châu giảng dạy tại phân khoa Phật học, Đại học Vạn Hạnh từ năm 1964-75, sau đó, tiếp tục dạy tại Trường Cao cấp Phật học Việt Nam (1984-97) nay là Học viện Phật giáo Việt Nam (HVPGVN) tại TP. HCM, dạy tại Thiền viện Vạn Hạnh (quận Phú Nhuận, TP. HCM) và Tịnh xá Trung Tâm (quận Bình Thạnh, TP. HCM). Hiện tại, kinh này được dạy ở HVPGVN tại TP. HCM, Hà Nội, Huế cũng như tại một số trong 9 trường Cao đẳng Phật học và một số trong 35 trường Trung cấp Phật học trên toàn quốc.
Ngoài Hòa thượng Thích Minh Châu, các vị Tôn túc có công giảng dạy Kinh Trung bộ gồm có Hòa thượng Hộ Giác, Hòa thượng Thích Chơn Thiện, Ni sư Trí Hải. Từ năm 2005, tại giảng đường chùa Xá Lợi, tôi là người giảng trọn bộ Kinh Trung bộ, mỗi buổi 90-120 phút. Toàn bộ các file âm thanh được phổ biến trên: phatam.com và chuagiacngo.com.
Bản dịch Kinh Trung bộ của Hòa thượng Thích Minh Châu và việc giảng dạy kinh này tại Việt Nam trong hơn 5 thập niên qua đã góp phần làm thay đổi tích cực nền Phật học tại Việt Nam, giúp nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam không còn xem kinh điển Pāli là kinh điển Tiểu thừa nữa. Trên thực tế, đây là tuyển tập các bài kinh nền tảng nhất về Phật học. Việc xuất bản bộ kinh này tại Việt Nam đã thúc đẩy sự hợp tác giữa Phật giáo Thượng Tọa bộPhật giáo Đại thừa trong phạm vi Giáo hội Phật giáo Việt Nam và các Phật sự chung trên toàn quốc.
II. KHÁI QUÁT NỘI DUNG CÁC KINH

  1. Kinh Pháp môn căn bản (P. Mūlapariyāyasuttaṃ, H. 根本法門經) tương đương Tưởng kinh.[5] Bài kinh này phân tích về các cấp độ nhận thức của 4 hạng người: Phàm phu, bậc Hữu học, bậc A-la-hán và Như Lai. Trên cơ sở của nhận thức “tưởng tri” (saññājānāti) hoặc “thắng tri” (abhijānāti), phàm và Thánh được xác định, luân hồigiải thoát có mặt. Để giải thoát, hành giả chỉ cần chuyển hóa nhận thức từ “tưởng tri” thành “thắng tri.”

  2. Kinh Tất cả lậu hoặc (P. Sabbāsavasuttaṃ, H. 一切漏經) tương đương Lậu tận kinh.[6] Đức Phật giới thiệu 7 phương pháp diệt trừ phiền não tận gốc rễ, gồm: (i) Chánh kiến, (ii) Phòng hộ giác quan, (iii) Thọ dụng với chánh niệm, (iv) Kham nhẫn, (v) Tránh né thích hợp, (vi) Trừ diệt, (vii) Tu tập 7 yếu tố đưa đến giác ngộ. Tùy theo căn tánh, hành giả chọn lựa cho mình phương pháp thích hợp nhất để giải phóng tất cả trói buộc, sống an lành hạnh phúc ngay bây giờ và tại đây.

  3. Kinh Thừa tự pháp (P. Dhammadāyādasuttaṃ, H. 法嗣經) tương đương Cầu pháp kinh.[7] Đức Phật khuyên tất cả đệ tử của Ngài hãy trở thành những người thừa kế gia tài Chánh pháp mà Ngài đã dày công dạy dỗ, không nên trở thành những người thừa kế gia tài vật chất. Trên tinh thần lời dạy này, Tôn giả Sāriputta đã giải thích sơ lược nội dung của thừa tự pháp cho các vị Hiền giả Thượng tọa Tỳ-kheo, Trung tọa Tỳ-kheo và tân Tỳ-kheo có mặt.

  4. Kinh Sợ hãi và khiếp đảm (P. Bhayabheravasuttaṃ, H. 怖駭經).[8] Bài kinh này, một mặt trình bày các đức tính cần thiết giúp hành giả sống viễn ly để thành tựu đạo quả giải thoát, mặt khác, thông qua đó, kể lại những kinh nghiệm chinh phục sự sợ hãi của đức Phật khi Ngài còn là vị Bồ-tát sống độc cư viễn ly.

  5. Kinh Không uế nhiễm (P. Anaṅgaṇasuttaṃ, H. 無穢經) tương đương Uế phẩm kinh.[9] Bài kinh phân tích các phương diện “uế nhiễm” được thể hiện dưới các góc độ tâm lý vị ngã trung tâmlòng tự ái, làm phương hại đến tư cách và phẩm hạnh của hành giả tu tập; đồng thời, thông qua đó, đề cao giá trị của người xuất gia chân chánh, biết trang sức cho mình nhiều đóa hoa đạo đức.

  6. Kinh Ước nguyện (P. Ākaṅkheyyasuttaṃ, H. 願經) tương đương Nguyện kinh.[10] Bài kinh bắt đầu bằng sự khẳng định của đức Phật về tầm quan trọng của đời sống đạo đức đối với người đang tầm cầu Thánh quả. Thành công trong sự tu tập không phải là kết quả của “ước nguyện” đơn thuần, mà là kết quả của việc thực hành đạo đức, thiền địnhthiền quán.

  7. Kinh Ví dụ tấm vải (P. Vatthasuttaṃ, H. 布喻經) tương đương Thủy Tịnh Phạm chí kinh.[11] Thông qua ảnh dụ tấm vải, đức Phật khẳng định rằng tâm cấu uế không thể nào nhuộm được màu của an vui và giải thoát. Tẩy sạch các cấu uế của tâm, con người sẽ thiết lập được niềm tin bất động vào Phật, Pháp, Tăng. Khi ấy, hành giả không còn trọng vọng vào các con sông thiêng, ngày tốt xấu mà tẩy tịnh tội lỗi của bản thân bằng các đức tính cao thượng.

  8. Kinh Đoạn giảm (P. Sallekhasuttaṃ, H. 斷減經) tương đương Châu-na vấn kiến kinh.[12] Đức Phật dạy phương pháp áp dụng chánh quán với trí tuệ để diệt trừ các quan điểm sai lầm về ngã luận và thế giới luận. Đồng thời, Ngài xác định rằng sự chứng đắc 4 thiền sắc giới và 4 thiền vô sắc giới chưa phải là thành quả đoạn trừ được phiền não lậu hoặc thật sự. Nhân đó, đức Phật đã dạy pháp môn chuyển nghiệp, pháp môn khởi tâm, pháp môn đối trị, pháp môn hướng thượngpháp môn từ bỏ để giúp mọi người đạt được an vui và giải thoát.

  9. Kinh Chánh tri kiến (P. Sammādiṭṭhisuttaṃ, H. 正見經).[13] Qua bài kinh này, Ngài Sāriputta đã giới thiệu 16 phương diện tiêu biểu của chánh kiến, cái nhìn phù hợp với bản chất của sự vật đang là đặt trên nền tảng của nguyên lý 4 chân lý Thánh và 12 nhân duyên. Nhờ có chánh kiến, con người nhổ lên gốc rễ của các khuynh hướng tham ái, sân hậnsi mê, vốn nhấn chìm họ trong đau khổ và hệ luỵ.

  10. Kinh Niệm xứ (P. Satipaṭṭhānasuttaṃ, H. 念處經) tương đương Niệm xứ kinh.[14] Đức Phật khẳng định có một con đường thẳng tắt, trực tiếp có khả năng làm cho chúng sinh trở nên thanh tịnh, chứng đắc được Niết-bàn, tháo gỡ tất cả lòng tham đắm, cố chấp và khổ đau trên đời. Đó là 4 pháp quán niệm về thân thể, cảm xúc, tâm tưởng và đối tượng tâm tưởng như chúng đang là.

  11. Tiểu kinh Sư tử hống (P. Cūḷasīhanādasuttaṃ, H. 狮子吼小經) tương đương Sư tử hống kinh.[15] Đức Phật khẳng định chỉ trong giáo phápgiới luật của Phật mới có khả năng tạo ra 4 Thánh quả Sa-môn, vì đạo Phật dạy phương pháp buông bỏ chấp thủ, trong khi các học thuyết khác thì không. Đây là điểm khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác.

  12. Đại kinh Sư tử hống (P. Mahāsīhanādasuttaṃ, H. 狮子吼大經).[16] Nhân sự kiện một Tỳ-kheo hoàn tục do không thấy được sự siêu tuyệt của đức Phật, bài kinh đã giới thiệu một cách sơ lược về các đặc điểm của Phật, theo đó, Ngài có thể rống tiếng rống sư tử trong các hội chúng. Chính các đặc điểm này đã làm đảo lộn (lông tóc dựng ngược) mọi quan điểm sai lầm về Phật và Phật giáo.

  13. Đại kinh Khổ uẩn (P. Mahādukkhakkhandhasuttaṃ, H. 苦蘊大經) tương đương Khổ ấm kinh.[17] Đức Phật đã phân tích một cách súc tích “vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly” đối với 3 yếu tố dẫn đến khổ đau là dục tham, sắc đẹp và cảm xúc. Sự tuệ tri bản chất của 3 giai đoạn tâm lý vừa nêu đối với dục, sắc và cảm xúc sẽ giúp cho hành giả nhổ lên gốc rễ khổ đau. Đây chính là một trong những điểm đặc thù của đạo Phật so với các tôn giáo khác.

  14. Tiểu kinh Khổ uẩn (P. Cūḷadukkhakkhandhasuttaṃ, H. 苦蘊小經) tương đương Khổ ấm kinh.[18] Đức Phật xác quyết rằng dục là thủ phạm tạo ra khuynh hướng và chất chứa tàn dư của các tâm lý tham, sân và si. Cũng chính vì thái độ hưởng thụ dục lạc mà phần lớn con người chọn đời sống tại gia, chấp nhận các giá trị hạnh phúc tương đối. Đồng thời, đức Phật phủ định phương pháp tu hành ép xác của Kỳ-na giáo không phải là giải pháp dứt dục. Chuyển hóa khổ đau phải được thực hiện bằng sự hành trì trung đạo.

  15. Kinh Tư lượng (P. Anumānasuttaṃ, H. 思量經) tương đương Tỷ-kheo thỉnh kinh.[19] Ngài Mahāmoggallāna phân tích về các nguyên nhân tâm lý dẫn đến tình trạng một người trở nên khó lắng nghe và không được người khác tín nhiệm. Đồng thời, Ngài khẳng định khi chuyển hóa các tâm lý tiêu cực đó, người ấy sẽ trở thành người có nhân cách cao thượng.

  16. Kinh Tâm hoang vu (P. Cetokhilasuttaṃ, H. 心荒蕪經) tương đương Tâm uế kinh.[20] Do tâm hoang vu, con người đánh mất chánh tín vào Phật, Pháp, Tăng, đạo đức, nên dễ phẫn nộ và bị trói buộc bởi tham ái dục, tham ái tự thân, tham ái sắc pháp, tham ái hưởng thụ, tham ái cõi trời. Để vượt qua, con người cần tu tập thiền định, tinh tấn không ngừng như gà con đập thủng vỏ trứng, đạt thành quả giác ngộ.

  17. Kinh Khu rừng (P. Vanapatthasuttaṃ, H. 林藪經) tương đương Lâm kinh.[21] Đức Phật xác định tầm quan trọng của môi trường sinh sống và đối tượng giao tế đối với đời sống đạo đức, tâm linh của các hành giả. Các trú xứ và thân cận xứ nào có thể làm lớn mạnh đời sống tâm linh, hành giả nên an trụ để thăng tiến trên con đường tu tập. Ngược lại, hành giả nên mạnh dạn từ bỏ, dù nơi đó và nhân sự đó cung ứng cho ta nhiều giá trị vật chất.

  18. Kinh Mật hoàn (P. Madhupiṇḍikasuttaṃ, H. 蜜丸經) tương đương Mật hoàn dụ kinh.[22] Thái độ tranh luận thường dựa trên quan điểmhọc thuyết, không thể giải quyết các vấn nạn của nhân sinhvũ trụ, ngược lại, trói buộc con người vào mạng lưới “tưởng ám ảnh.” Từ đó, con người sống trong sự chi phốitrói buộc của tham dục, nghi ngờ, hối quá, tham trước đối với các pháp hiện hữu hoặc phi hiện hữu. Triết lý về nguồn gốc nhận thức quá súc tích này được Tôn giả Mahākaccāna (Đại Ca-chiên-diên) giải thích thấu đáo: (i) Không tranh: Không ngã tưởng; (ii) Rời thế giới tranh: Bỏ các tuỳ miên xấu, không tranh luận với đời, không để căn trần thức bị tác động, bị chi phối.

  19. Kinh Song tầm (P. Dvedhāvitakkasuttaṃ, H. 雙想經) tương đương Niệm kinh.[23] Đức Phật kể lại kinh nghiệm phân loại tư duy của Ngài và cách chuyển hóa chúng một cách có hiệu quả. Con đường chuyển hóa đó phát khởi bằng thái độ thừa nhận tính cách hiện hữu của tư duy trong mối quan hệ giá trị đối với bản thântha nhân. Sự thừa nhận này giúp hành giả chuyển hóa tận gốc rễ các tư duy tiêu cực, đồng thời phát triển các tư duy tích cực.

  20. Kinh An trú tầm (P. Vitakkasaṇṭhānasuttaṃ, H. 想念止息經) tương đương Tăng thượng tâm kinh.[24] Lắng dịu tư duy tiêu cực được đức Phật giới thiệu như là cách thức chuyển hóa, giúp tâm an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh, vượt khỏi mọi vướng mắc phiền não. Đức Phật đã giới thiệu 5 phương pháp chuyển hóa các tư duy tính dục, tư duy sân hậntư duy hãm hại, giúp hành giả làm chủ tư duy, làm chủ được tâm.

  21. Kinh Ví dụ cái cưa (P. Kakacūpamasuttaṃ, H. 鋸喻經) tương đương Mâu-lê-phá-quần-na kinh.[25] Đức Phật dạy rằng trong giao tế và ứng xử, dù trong tình huống nào, hành giả phải chế ngự khẩu nghiệp, vượt qua trạng thái bị xúc phạm, chuyển hóa lòng sân, phát ngôn bằng lời từ bitha thứ, không để tâm sân cưa nát mình.

  22. Kinh Ví dụ con rắn (P. Alagaddūpamasuttaṃ, H. 蛇喻經) tương đương A-lê-tra kinh.[26] Thông qua bài kinh này, đức Phật xác quyết rằng quan điểm sai lầm cho rằng hưởng thụ tính dục không làm chướng ngại Thánh đạo có thể trở thành động cơ làm người xuất gia sống thế tục hóa. Bằng các ảnh dụ sinh động, đức Phật đã phân tích bản chất của Chánh pháp chỉ là phương tiện đưa người sang sông. Hiểu được điều này, hành giả chú tâm vào hành trì hơn là học pháp để thỏa mãn tri thức Phật học. Nhờ hành trì Chánh pháp, hành giả giải phóng được các quan niệm chấp ngã.

  23. Kinh Gò mối (P. Vammikasuttaṃ, H. 蟻垤經). Tham chiếuNghị dụ kinh.[27] Với các ẩn dụ, đức Phật sánh ví thân 4 đại như gò mối ban đêm phun khói (nghĩa là những gì ban ngày làm, ban đêm quán chiếu lại), ban ngày chiếu sáng (nghĩa là những gì ban đêm quán chiếu, ban ngày thực hành trên thân, miệng, ý); trí tuệ như thanh gươm; tinh tấn như sự đào lên; vô minh như then cửa; phẫn nộ như con nhái; dục tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo cử, nghi hoặc như đồ lọc sữa; 5 thủ uẩn như con rùa; 5 dục như con dao phay; hỷ tham như cục thịt; người dứt lậu hoặc như con rắn hổ.

  24. Kinh Trạm xe (P. Rathavinītasuttaṃ, H. 傳車經) tương đương Thất xa kinh.[28] Bài kinh giới thiệu cuộc đối thoại giữa tướng quân Chánh pháp Tôn giả Sāriputta, và nhà hoằng pháp vĩ đại Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta (Phú-lâuna Mãn-từ tử), về ý nghĩa của “bước đi và đích đến” hay “phương tiện và cứu cánh.” Niết-bàn là cứu cánh của tu tập, chỉ đạt được khi các bước phương tiện tu tập được thành tựu; tuy nhiên, dừng lại ở phương tiện của các pháp môn thì vĩnh viễn không đạt được cứu cánh.

  1. Kinh Bẫy mồi (P. Nivāpasuttaṃ, H. 撒餌經) tương đương Lạp sư kinh.[29] Với ẩn dụ con nai, đức Phật mô tả con người sở dĩ bị khổ đau là do bị vướng dính vào các cái bẫy thế gian, đó là dính bẫy do hưởng thụ, dính bẫy do gặp nghịch cảnh mà không đủ sức vượt qua và dính bẫy do lòng tham lam. Để sống vô ngại, thong dong giữa đời, người tu tập cần đề cao chánh niệm, tỉnh thức, tu 4 thiền định để không bị vướng chấp bất kỳ điều gì trên đời.

  2. Kinh Thánh cầu (P. Ariyapariyesanāsuttaṃ, H. 聖求經) tương đương La-ma kinh.[30] Đức Phật đã kể lại kinh nghiệm tìm cầu con đường tâm linh của bản thâncon đường chuyển hóa của Ngài trong 2 tháng đầu sau khi thành đạo. Thông qua đó, Ngài xác định con đường Thánh hóa bắt đầu bằng việc xả ly những gì thuộc về thế gian, thực tập các pháp thuộc tâm linh, để chuyển hóa bản thâncuộc đời.

  3. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (P. Cūḷahatthipadopamasuttaṃ, H. 象跡喻小經) tương đương Tượng tích dụ kinh.[31] Thông qua việc phân tích các dấu hiệu xác định đâu là vết tích của con voi lớn, bài kinh khuyên chúng ta không nên đánh giá sự thành công của đức Phật thông qua việc giáo hóa Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn và gia chủ. Dấu ấn của bậc Giác Ngộ, bản chất giáo pháp của Ngài và đặc điểm Tăng đoàn, chỉ có thể được xác quyết thông qua kinh nghiệm tu tậpchứng nghiệm của bản thân.

  4. Đại kinh Dụ dấu chân voi (P. Mahāhatthipadopamasuttaṃ, H. 象跡喻大經) tương đương Tượng tích dụ kinh.[32] Khởi đầu bằng cách xác định bốn Thánh đế là trái tim Phật pháp, Tôn giả Sāriputta đã phân tích cách buông xả thái độ chấp trước 5 nhóm nhân thể bằng cách quán chiếu, dẫn đến chuyển hóa thái độ chấp trước 4 đại thuộc sắc uẩn, trên nền tảng tính tương thuộc.

  5. Đại kinh Thí dụ lõi cây (P. Mahāsāropamasuttaṃ, H. 心材喻大經).[33] Trên con đường tìm cầu tâm linh, người xuất gia chân chính sẽ lần lượt đạt được các thành tựu. Nếu không biết cách chuyển hóa tâm lý hãnh diện, các thành tựu này nhanh chóng trở thành các cản lực, làm cho hành giả rơi vào phóng dật. Mục tiêu đời sống Phạm hạnh chính là chuyển hóa tâm lý hãnh diện trong những bước đi vừa thành tựu.

  6. Tiểu kinh Thí dụ lõi cây (P. Cūḷasāropamasuttaṃ, H. 心材喻小經).[34] Trước sự kiện 6 đạo sĩ cùng thời đức Phật tự xưng là người đạt Nhất thiết trí, đức Phật giảng ẩn dụ “lõi cây”. Người tu cần đạt giá trị lõi cây, xuất gia với chánh tínlý tưởng thoát khỏi sinh tử, có tinh thần phụng sự nhân sinh, không bị bệnh tự mãn, không khen mình chê người, thành tựu giới hạnh thanh cao, vượt lên trên danh vọng, lợi dưỡng, chứng đạt được 4 thiền, trí tuệ thù thắng, thành tựu hạnh Thánh.

  7. Tiểu kinh Rừng sừng bò (P. Cūḷagosiṅgasuttaṃ, H. 牛角林小經) tương đương Ngưu giác Sa-la lâm kinh.[35] Từ gương hạnh sống hòa hợp như nước với sữa của 3 Tôn giả, Anuruddha, Nandiya và Kimbila, đức Phật xác định giá trị của đời sống hòa hợp, tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong sinh hoạtPhật sự, sẽ mang lại hạnh phúc và an vui cho số đông.

  8. Đại kinh Rừng sừng bò (P. Mahāgosiṅgasuttaṃ, H. 牛角林大經) tương đương Ngưu giác Sa-la lâm kinh.[36] Bài kinh ghi lại kinh nghiệm chia sẻ pháp môn hành trì của một số Tôn giả lớn thời Phật, liên hệ đến tiêu chí về hành giả chói sángpháp môn chói sáng nhất. Thông qua đó, đức Phật khẳng định, hành giả nhổ sạch gốc rễ các lậu hoặc mới xứng danh là người tu lý tưởng nhất. Pháp môn chói sáng nhất là pháp môn có khả năng chuyển hóa toàn bộ lậu hoặc, giúp cho người phàm chứng đắc Thánh quả.

  9. Đại kinh Người chăn bò (P. Mahāgopālakasuttaṃ, H. 牧牛者大經).[37] Nhân sự kiện mô tả các yêu cầu của một người chăn bò thành công, đức Phật giới thiệu các đức hạnh cần thiết để giúp người tu chân chính được trưởng thành trong Phật pháp, gặt hái hạnh phúc và an vui, trở thành Đạo sư khai sáng cho đời.

  10. Tiểu kinh Người chăn bò (P. Cūḷagopālakasuttaṃ, H. 牧牛者小經).[38] Nhân dịp mổ xẻ 2 tình huống chăn dắt đàn bò đúng phương pháp và sai phương pháp, đức Phật phân tích 2 nghệ thuật tu tậphiệu quả của người huấn luyện tinh thần, thực hành theo Chánh pháp (tùy pháp hành) và thực hành theo chánh tín (tùy tín hành) nhằm đạt được sự chấm dứt 5 trói buộc thấp (gồm thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái và sân) và 5 trói buộc cao (sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cửvô minh).

  11. Tiểu kinh Saccaka (P. Cūḷasaccakasuttaṃ, H. 薩遮迦小經).[39] Với thái độ cao ngạo, khoe khoang, lõa thể Saccaka cho rằng có thể đánh bại đức Phật trong cuộc tranh luận thách đố. Đức Phật bằng thuật vấn đáp đã phân tích cho ông ta thấy rằng bản ngã là đầu mối của khổ đau. Với cái nhìn vô ngã, các nỗi khổ niềm đau không còn chỗ bám víu vào thân thể, cảm xúc, tri giác, tâm tư và nhận thức.

  12. Đại kinh Saccaka (P. Mahāsaccakasuttaṃ, H. 薩遮迦大經).[40] Sau khi quan sát các vị lõa thể, Saccaka cho rằng người tu thân sẽ đau khổ về thân và điên loạn tâm. Người tu tâm mà không tu thân cũng bị tương tự. Ông cho rằng đệ tử Phật thuộc nhóm hai. Nhân đó, đức Phật giải thích cách tu tập thân và tu tập tâm nhằm chuyển hóa khổ đau, đạt được giác ngộ trong đời.

  13. Tiểu kinh Đoạn tận ái (P. Cūḷataṇhāsaṅkhayasuttaṃ, H. 愛盡小經).[41] Nhân dịp tình cờ nghe pháp thoại ngắn do đức Phật giảng cho Thiên chủ Sakka về cách chuyển hóa tính dục, vượt mọi khổ ách trong đời, Ngài Mahāmoggallāna giúp Thiên chủ Sakka nhận thức được rằng hạnh phúc ở cõi bụi hồng là tạm bợ, chứa đầy sợ hãi, từ đó, nên hướng đến hạnh phúc cao hơn của người xuất gia, vượt qua tính dục, trải nghiệm Niết-bàn an vui.

  14. Đại kinh Đoạn tận ái (P. Mahātaṇhāsaṅkhayasuttaṃ, H. 愛盡大經) tương đương Trà-đế kinh.[42] Từ quan điểm sai lầm cho rằng thức luân chuyển qua các cõi luân hồi, không hề đổi khác, đức Phật đã phân tích về thuyết duyên khởi, giải thích về tính điều kiện, theo đó, nỗ lực chặt đứt tiến trình mắc xích khổ đau, đạt được sự giải thoát.

  15. Đại kinh Xóm ngựa (P. Mahāassapurasuttaṃ, H. 馬邑大經) tương đương Mã ấp kinh.[43] Nhân dịp có mặt tại ấp Assapura của dân Aṅga (Ương-già) vốn xa lạ với Phật giáo, đức Phật phân tích bản chất và phẩm hạnh của người xuất gia và những phương pháp vượt qua tâm lý tự mãn với các thành quả tu tập.

  16. Tiểu kinh Xóm ngựa (P. Cūḷaassapurasuttaṃ, H. 馬邑小經) tương đương Mã ấp kinh.[44] Tại ấp Assapura của dân chúng Aṅga, đức Phật dạy về nghệ thuật chánh danh và chánh hạnh của người xuất gia, để mang lại giá trị hạnh phúc trong tu tậpđộ sanh. Chánh hạnh này không thể được đồng hóa đơn thuần với chủ nghĩa hình thức của người tu cũng như các phương pháp thực tập khổ hạnh ép xác sai lầm.

  17. Kinh Sāleyyaka (P. Sāleyyakasuttaṃ, H. 薩羅村婆羅門經).[45] Nhân dịp các cư sĩ tại giađạo sĩ Bà-la-môn tại Kosala thăm hỏi đức Phật, Ngài giải thích về nhân quả, nghiệp báocon đường đưa đến tái sanh ở các cảnh giới thấp và cảnh giới cao. Từ bỏ sát hại, trộm cắp, tà dâm, không nói vọng ngữ, lời bất hòa, lời thô ác, lời thị phi; không tham lam, không giận dữ, không si mêcách sống hạnh phúc.

  18. Kinh Verañjaka (P. Verañjakasuttaṃ, H. 鞞蘭若村婆羅門經).[46] Nội dung bài kinh giống với kinh 41, chỉ khác nhau về đối tượng là các gia chủ Bà-la-môn ở Verañjā và địa điểm giảng kinh là tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).

  19. Đại kinh Phương quảng (P. Mahāvedallasuttaṃ, H. 有明大經) tương đương Đại Câu-hy-la kinh.[47] Tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika, Jetavana, Sāvatthi, Tôn giả Sāriputta (vị Trí tuệ đệ nhất) và Tôn giả Mahākoṭṭhita (vị Phân tích lý luận đệ nhất), luận đàm về các pháp vi tế: Liệt tuệ và trí tuệ; sự khác nhau giữa tuệ tri và thức tri; thọ hành và quan hệ giữa thức, tưởng, thọ; 5 căn và ý thức biệt lập của chúng; các duyên cho chánh tri kiến; có bao nhiêu hữu; chết và tái sinh; 4 thiền; 4 tâm giải thoát.

  20. Tiểu kinh Phương quảng (P. Cūḷavedallasuttaṃ, H. 有明小經) tương đương Pháp Lạc Tỳ-kheo-ni kinh.[48] Tại Kalandakanivāpa, Veḷuvana, Rājagaha, Ni sư Dhammadinnā (Vị Thuyết pháp đệ nhất trong Ni đoàn) đã giải thích cho cư sĩ Visākha (trước đây là chồng của Ni sư) về các quan điểm: Tự thân, thủ và uẩn, thân kiến, 8 Thánh đạo và 3 uẩn, định, định tướng, định tư cụ và định tu tập, 3 hành, nhập và xuất Diệt thọ tưởng định, 3 thọ, minh và vô minh, giải thoát và Niết-bàn.

  21. Tiểu kinh Pháp hành (P. Cūḷadhammasamādānasuttaṃ, H. 得法小經) tương đương Thọ pháp kinh.[49] Kinh này kêu gọi mọi người trở thành loại thứ 4 trong 4 lối sống tạo ra hạnh phúc và khổ đau: (i) Hiện tại hạnh phúc, tương lai khổ; (ii) Hiện tại khổ, tương lai cũng khổ; (iii) Hiện tại khổ, tương lai hạnh phúc; (iv) Hiện tại hạnh phúc, tương lai hạnh phúc. Đó là người hạnh phúchiện tại nhờ nỗ lực vượt qua tham ái, sân hận, si mê, tu 4 cấp thiền định, đạt được trí tuệtiếp tục hạnh phúckiếp sau.

  22. Đại kinh Pháp hành (P. Mahādhammasamādānasuttaṃ, H. 得法大經) tương đương Thọ pháp kinh.[50] Chi tiết hơn kinh 45, trong 4 lối sống: (i) Hiện tại khổ, tương lai khổ; (ii) Hiện tại khổ, tương lai hạnh phúc; (iii) Hiện tại hạnh phúc, tương lai khổ; (iv) Hiện tại hạnh phúc, tương lai hạnh phúc. Đức Phật khích lệ lối sống “hạnh phúc hiện tại và tương lai” bằng cách từ bỏ các hành động xấu ác: Giết hại, trộm cắp, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói chia rẽ, nói thô ác, nói phù phiếm, tham lam, giận dữ, tà kiến. Đồng thời, tu thiền định, phát triển trí tuệ, nhờ đó, người đó trở nên hữu ích và giá trị trong đời.

  23. Kinh Tư sát (P. Vīmaṃsakasuttaṃ, H. 思察經) tương đương Cầu giải kinh.[51] Bằng cách quan sát, có thể nhận biết tập tánh (cetopariyāyaṃ) của bậc Chân nhân, Thánh nhân như sau: (i) Không bị ô nhiễm do thấy, nghe trong thời gian dài; (ii) Không bị thoái chuyển khi đã nổi tiếng; (iii) Với tâm không sợ hãi, từ bỏ những điều xấu ác; (iv) Vượt qua tham ái; (v) Có đạo đứctrí tuệ. Phật tử tại gia nên nương tựa các bậc Chân nhân để tu học Phật pháp.

  24. Kinh Kosambiya (P. Kosambiyasuttaṃ, H. 憍賞彌經).[52][53] Để vượt qua các bất hạnh do lối sống bất hòa, tranh chấp, hơn thua, đức Phật hướng dẫn 6 kỹ năng từ bi và tương kính, tương ái đối với bạn đồng Phạm hạnh, cộng sự, trước mặt và sau lưng: (i) Thân hành từ bi; (ii) Khẩu hành từ bi; (iii) Ý hành từ bi; (iv) Chia sẻ phẩm vật cúng dường; (v) Giữ giới hạnh thanh tịnh, không tỳ vết; (vi) Có chánh tri kiến. Đức Phật phân tích lợi ích của chánh tri kiến có khả năng hướng thượng, kết thúc khổ đau, chứng đắc Thánh quả.

  25. Kinh Phạm thiên cầu thỉnh (P. Brahmanimantanikasuttaṃ, H. 梵天請經) tương đương Phạm thiên thỉnh Phật kinh.[54] Cuộc đối thoại thú vị giữa đức Phật, Thiên chủ Baka và Ác ma. Ác ma cho rằng Baka là đấng Sáng thế. Baka biểu diễn thần thông, cho rằng cõi trời của Ông là thiên đường vĩnh hằng. Đức Phật lần lượt phân tích các sai lầm của Baka và Ác ma. Đức Phật hướng dẫn mọi người thực tập Chánh pháp, chuyển hóa phiền não, vượt qua khổ đau.

  26. Kinh Hàng ma (P. Māratajjanīyasuttaṃ, H. 魔訶責經) tương đương Hàng ma kinh.[55] Tôn giả Mahāmoggallāna điều phục Ác ma đang quấy nhiễu Ngài bằng cách kể cho Ác ma nghe câu chuyện tương tự xảy ra ở kiếp quá khứ đối với Tôn giả Vidhura và Tôn giả Sañjīva, đệ tử của đức Phật Kakusandha (Câu-lưu-tôn). Thực tập tâm từ bi, không chấp lỗi và tha thứ, 2 vị Tôn giả đã thoát khỏi ma nghiệp. Do nghiệp ác, Ác ma vẫn bị đọa lạc.

  27. Kinh Kandaraka (P. Kandarakasuttaṃ, H. 乾達羅迦經).[56] Phật phân tích 4 hạng người: (i) Người tự làm khổ mình qua cách tu khổ hạnh; (ii) Người làm khổ người khác qua nghề tà, nghiệp xấu; (iii) Người vừa tự làm khổ mình vừa làm khổ người khác do phi đạo đức và phạm pháp; (iv) Người mang hạnh phúc cho mình và người khác do lối sống thánh thiện. Đề cao loại người thứ tư, đức Phật khích lệ từ bỏ các nghiệp ác của thân, lời, làm chủ các giác quan, tu tập 4 niệm xứ, chứng đắc 4 thiền và 3 minh, trở thành bậc Chân nhânThánh nhân.

  28. Kinh Bát thành (P. Aṭṭhakanāgarasuttaṃ, H. 八城經) tương đương Bát thành kinh.[57] Tôn giả Ānanda nương lời Phật dạy, hướng dẫn tu tập 11 cửa bất tử, nhằm đạt được an lạc giải thoát trong hiện đời gồm 4 thiền (hỷ lạc do lìa tham ái, hỷ lạc do định, diệu lạc do bỏ hỷ, xả niệm thanh tịnh), 4 Phạm trú (từ, bi, hỷ, xả) và 3 thiền vô sắc (Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ).

  29. Kinh Hữu học (P. Sekhasuttaṃ, H. 有學經). Thay lời đức Phật, Tôn giả Ānanda giới thiệu các hạnh tu của bậc Hữu học, khích lệ mọi người tu học, kết thúc khổ đau, chứng đạt Thánh quả gồm: (i) Giới hạnh; (ii) Làm chủ 6 giác quan; (iii) Tiết độ trong tiêu thụ; (iv) Chánh niệm trong các oai nghi; (v) Tu 7 diệu pháp (tín, tàm, quý, tấn, văn, niệm, tuệ); (vi) Chứng 4 thiền.

  30. Kinh Potaliya (P. Potaliyasuttaṃ, H. 哺多利經) tương đương Bô-lợiđa kinh.[58] Đức Phật dạy kỹ năng chấm dứt nghiệp và thói phàm phu gồm sát hại, trộm cắp, nói láo, tham lam, giận dữ, phỉ báng, phẫn nộ, cao ngạo; nhờ đó, con người được hạnh phúcthành công. Đồng thời, người tu tập thấy rõ tác hại của ái dục như khúc xương, miếng thịt, cầm đuốc đi ngược gió, hố than hừng, cơn mộng, vật mượn và như cây có nhiều quả chín để không bị nhiễm đắm vào dục.

  31. Kinh Jīvaka (P. Jīvakasuttaṃ, H. 耆婆迦經). Đức Phật giải thích lợi ích của đạo đứcnguyên nhân không nên ăn thịt động vật. Ba trường hợp thịt thanh tịnh thì ăn được: (i) Không thấy cảnh con vật đang bị giết; (ii) Không nghe tiếng kêu của con vật đang bị giết; (iii) Không có hoài nghi về con vật ấy chết vì mình. Đồng thời, đức Phật khuyên mọi người phát triển tâm từ bi, thương yêu con người, động vậtbảo vệ môi trường.

  32. Kinh Ưu-ba-ly (P. Upālisuttaṃ, H. 優婆離經) tương đương Ưu-bà-ly kinh.58 Sau khi luận chiến với đức Phật, cư sĩ Upāli, đại diện phái tu Lõa thể, đã nhận Phật làm thầy. Qua đối thoại, đức Phật khẳng định vai trò quan trọng của ý nghiệp đối với hành vi, và thay vào đó, nên tu tứ Thánh đế, kết thúc khổ đau.

  33. Kinh Hạnh con chó (P. Kukkuravatikasuttaṃ, H. 狗行者經).[59] Sau khi khẳng định pháp tu hạnh con chó và hạnh con bò làm người tu khổ hạnh đầu thai làm chó, làm bò, bị đọa lạc khổ đau, đức Phật phân tích 4 loại nghiệp và quả báo: (i) Nghiệp đen, quả báo đen; (ii) Nghiệp trắng, quả báo trắng; (iii) Nghiệp nửa đen nửa trắng, quả báo nửa đen nửa trắng; (iv) Nghiệp không đen không trắng, quả bảo không đen không trắng. Phật khuyên mọi người tu nghiệp trắng, tức sống đời đạo đức thanh cao để đạt hạnh phúcthành công.

  1. Kinh Vương tử Vô Úy (P. Abhayarājakumārasuttaṃ, H. 無畏王子經).[60] Đại diện đạo Lõa thể, Vương tử Vô Úy gài bẫy đức Phật phải trả lời “có” hoặc “không” hầu bắt bí Ngài. Đức Phật dạy kỹ năng tháo mở móc câu trong cổ, và khẳng định rằng Ngài thuyết pháp, truyền thôngđối đáp đều mang tính chân lý, hướng đến mục đích cao quý, bất luận người nghe có thích hay không thích.

  2. Kinh Nhiều cảm thọ (P. Bahuvedanīyasuttaṃ, H. 多受經).[61] Để giúp mọi người dừng sự tranh cãi về phân loại cảm thọ là 2 hay 3, đức Phật giải thích rằng tùy tình huống, cảm thọ có thể phân loại: 2 thọ, 3, 5, 6, 18, 36 và 108 thọ. Nhân đó, đức Phật phân tích các cấp độ cảm giác hạnh phúc, thấp nhất là khoái lạc giác quan, cao hơn là hạnh phúc trong thiền định và cao nhất là Niết-bàn.

  3. Kinh Không gì chuyển hướng (P. Apaṇṇakasuttaṃ, H. 無戲論經).[62] Đức Phật phân tích tác hại của 5 tà thuyết đương thời, gồm (i) Hư vô luận; (ii) Thuyết không có đời sau; (iii) Thuyết không có quả báo sau khi chết; (iv) Thuyết định mệnh; (v) Thuyết không có các cõi vô sắc. Theo đó, đức Phật khuyên dù chủ trương điều gì, đi theo học thuyết nào, cũng không nên làm khổ bản thân và làm khổ tha nhân; nên sống đạo đức, dứt các trói buộc tâm, tu thiền định để chứng đắc trí tuệ, giải phóng khổ đau.

  4. Kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Am-bà-la (P. Ambalaṭṭhikārāhulovādasuttaṃ, H. 菴婆孽林教誡羅睺羅經) tương đương La-vân kinh.[63] Để giúp chú tiểu La-hầu-la thấy sự nguy hiểm của lời nói dối, đức Phật dùng ảnh dụ “chậu nước” nói về sự mất giá trị, nếu đánh mất sự chân thật, trung thực. Người nói dối như con voi lâm trận, sẵn sàng thí mạng sống mà không tiếc. Người tu hành phải thường xuyên soi gương nhân cách, biết phản tỉnh, sám hối, chừa bỏ, chuyển nghiệp để trở nên cao quýlợi ích cho nhiều người.

  5. Đại kinh Giáo giới La-hầu-la (P. Mahārāhulovādasuttaṃ, H. 教誡羅睺羅大經).[64] Đức Phật dạy Tôn giả La-hầu-la cách quán sắc pháp và 5 uẩn không phải là tôi, tự ngã của tôi và sở hữu của tôi. Đồng thời, Ngài hướng dẫn cách tu thiền quán 4 đại, từ, bi, hỷ, xả, bất tịnh, vô thường, niệm hơi thở để vượt qua nghiệp phàm, đạt được giác ngộgiải thoát.

  6. Tiểu kinh Māluṅkya (P. Cūḷamāluṅkyasuttaṃ, H. 摩羅迦小經) tương đương Tiễn dụ kinh.[65] Nhân dịp Māluṅkyaputta định hoàn tục do đức Phật không giải thích các vấn đề siêu hình, đức Phật dạy về tính trị liệu thực tiễn của Phật pháp. Cũng như nạn nhân cần thiết, khẩn cấp nhổ mũi tên độc ra khỏi cơ thể, người tu tập cần nhổ gốc khổ đau và sinh tử; thực hành tứ Thánh đế, giải phóng khổ đau, đạt được an tịnh, trí tuệ, giác ngộ và chứng Niết-bàn.

  7. Đại kinh Māluṅkya (P. Mahāmāluṅkyasuttaṃ, H. 摩羅迦大經) tương đương Ngũ hạ phần kiết kinh.[66] Đức Phật khuyên mọi người tinh tấn chặt đứt 5 trói buộc thấp, gồm thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục và sân để giải phóng khổ đau, chứng đắc quả Thánh. Cũng như cách lấy lõi cây, người tu cần nghe giảng pháp, quán 5 uẩn vô thường, làm chủ giác quan, tu tập 4 thiền định, phát triển trí tuệ.

  8. Kinh Bhaddāli (P. Bhaddālisuttaṃ, H. 跋陀利經) tương đương Bạtđà-hòa-lợi kinh.[67] Nhân dịp nhắc nhở một Tăng sĩ ương ngạnh không giữ được giới “ăn một lần trước ngọ”, đức Phật khuyên mọi người phải tuân thủ giới hạnh thanh cao; không tránh né, không bất mãn, không chống đối khi được nhắc nhở; khi có tội và bị cử tội nên phát lồ sám hối, nỗ lực chuyển nghiệp; siêng tu thiền định, khai mở trí tuệ để chứng đắc các quả Thánh.

  9. Kinh Ví dụ con chim cáy (P. Laṭukikopamasuttaṃ, H. 鶉喻經) tương đương Ca-lâu-ô-đà-di kinh.[68] Nhân dịp nói về tác hại của việc không giữ giới ăn một lần trước ngọ, đức Phật khuyên không nên xem thường các lỗi nhỏ nhặt. Vi phạm giới hạnh cũng như con chim cáy nhỏ có thể chết vì vướng lưới dây leo mong manh, hoặc như voi lớn có thể chết khi bị trói bằng dây da. Người xuất gia cần chuyển hóa nghiệp phàm, từ bỏ các trói buộcchấp thủ, siêng tu thiền định để chứng đắc thiền lạcchánh giác lạc.

  10. Kinh Cātumā (P. Cātumāsuttaṃ, H. 車頭聚落經).[69] Như người xuống nước sợ sóng, cá sấu, nước xoáy, cá dữ; đức Phật dạy rằng người tu bị thất bại, hoàn tục là do: (i) Bệnh tự ái, vì người dạy nhỏ tuổi hơn, như sóng dữ; (ii) Thèm ăn ngonphi thời, như cá sấu; (iii) Tiếc không hưởng thụ được 5 dục lạc, như nước xoáy; (iv) Bị dục tình phá hoại, không phòng hộ các giác quan, như cá dữ. Đức Phật cũng khuyến khích tứ chúng cần noi gương Tôn giả Sāriputta và Mahāmoggallāna sống an lạc trong hiện tại.

  11. Kinh Naḷakapāna (P. Naḷakapānasuttaṃ, H. 那羅伽波寧村經) tương đương Sa-kê-đế tam tộc tánh tử kinh.[70] Đức Phật khen ngợi và khích lệ những người đi tu vì lý tưởng cao quý, giữ giới hạnh, tu thiền định, đạt trí tuệ, nhằm giải phóng khổ đau của bản thân và mang lại hạnh phúc cho tha nhân. Đức Phật xác quyết rằng chỉ vì muốn mang lại lợi ích cho con người, đức Phật nói về cảnh giới tái sanh lành của Tăng NiPhật tử sau khi qua đời.

  12. Kinh Goliyāni (P. Goliyānisuttaṃ, H. 瞿尼師經) tương đương Cù-nisư kinh.[71] Tôn giả Sāriputta dạy 17 yếu tố giúp người tu ở rừng hay thành thị trở thành bậc Chân nhânThánh nhân, gồm: (i) Tôn trọng đồng tu; (ii) Khiêm tốn và nhường nhịn; (iii) Không vào làng quá sớm, không trở về quá muộn; (iv) Không đến gia đình trước và sau buổi ăn; (v) Không dao động thân; (vi) Không nhiều chuyện; (vii) Làm người bạn tốt, dễ góp ý; (viii) Hộ trì các giác quan; (ix) Tiết độ trong ăn uống; (x) Chú tâm; (xi) Tu tinh cần, tinh tấn; (xii) Chánh niệm, tỉnh giác; (xiii) Tu thiền định; (xiv) Có trí tuệ; (xv) Tu Thắng pháp, Thắng luật; (xvi) Tu Tịch tịnh giải thoát; (xvii) Tu pháp Thượng nhân.

  13. Kinh Kīṭāgiri (P. Kīṭāgirisuttaṃ, H. 枳吒山邑經) tương đương A-thấpbối kinh.[72] Nhân dịp nói về lợi ích của việc không ăn phi thời, đức Phật khuyên người tu nên tinh tấn tu họcan trú vào hạnh phúc do dứt các pháp bất thiện. Nhờ đó, người tu tập chứng quả Thánh bằng 7 cách: (i) Câu phần giải thoát; (ii) Tuệ giải thoát; (iii) Thân chứng; (iv) Kiến đáo; (v) Tín giải thoát; (vi) Tùy pháp hành; (vii) Tùy tín hành.

  14. Kinh Ba minh Vacchagotta (P. Tevijjavacchagottasuttaṃ, H. 婆蹉衢多三明經).[73] Đức Phật cho rằng những gì mà Ngài đạt được, thực chất là 3 tuệ giác (Tam minh) gồm tuệ giác quá khứ của bản thân, tuệ giác về tái sinh của hữu tìnhtuệ giác về sự chấm dứt khổ đau trong hiện tại. Đồng thời, đức Phật khẳng định trí “biết hết mọi thứ” (nhất thiết trí) trong lúc thức và lúc ngủ (nếu khôngtác ý hướng tâm đến đối tượng) là không có thật. Giải thoát, theo đức Phật, thực chấtgiải thoát tâm khỏi trói buộc (tâm giải thoát) và giải thoát bằng trí tuệ (tuệ giải thoát).

  15. Kinh Aggivacchagotta (P. Aggivacchagottasuttaṃ, H. 婆蹉衢多火[喻]經).[74] Đức Phật chủ trương không mất thời gian trả lời các câu hỏi siêu hình, các câu chuyện hý luận. Để đạt được sự ly tham, giác ngộgiải thoát, đức Phật hướng dẫn kỹ năng vượt qua các ảo tưởng về ngã, ngã sở hữu, ngã tùy miên đối với bản thân và mọi sự vật trên đời. Bậc Giác ngộ sau khi chết cũng như hiện tượng củi hết, lửa tắt, không thể truy tìm được hướng đi.

  16. Đại kinh Vacchagotta (P. Mahāvacchagottasuttaṃ, H. 婆蹉衢多大經).75 Nhờ lắng nghe đức Phật truy nguyên nguồn gốc của khổ đau từ tham ái, giận dữ, si mê và khích lệ từ bỏ 10 nghiệp bất thiện (giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói láo, nói chia rẽ, nói thô ác, nói phù phiếm, tham, sân, tà kiến), du sĩ Vacchagotta trở thành Tăng sĩ, tu tập chân chánh, chứng đắc Thánh quả.

  17. Kinh Trường Trảo (P. Dīghanakhasuttaṃ, H. 長爪經).[75] Chứng minh tác hại từ thuyết Hoài nghi của ngoại đạo Trường Trảo, đức Phật hướng dẫn quán vô ngã đối với thân (từ tinh cha, trứng mẹ, được phối hợp bởi đất, nước, lửa, gió). Thân và 3 loại cảm xúc khổ đau, hạnh phúc, trung tính đều bị vô thường chi phối, bị đoạn diệt, bị hủy hoại; cũng là vô ngã và bị vô thường chi phối. Để giải thoát, không nên chấp thủ thân, cảm xúc; không chấp thủ danh từ và mọi thứ trên đời.

  18. Kinh Māgaṇḍiya (P. Māgaṇḍiyasuttaṃ, H. 摩犍提經) tương đương Tu-nhàn-đề kinh.[76] Phân tích sự nguy hiểm và tác hại của thuyết hưởng lạc đối với 5 dục lạc, đức Phật giải thích giá trị của hạnh phúc do tu thiền (thiền lạc). Bằng ảnh dụ “hạnh phúc cõi trời cao hơn hạnh phúc cõi người” và “sự đỡ ngứa do cào vết thương”, đức Phật khẳng định dục lạc sẽ thiêu đốt con người trong bất hạnh về lâu dài. Tu 4 cấp thiền định giúp con người trải nghiệm hạnh phúc sâu lắng, kết thúc khổ đau.

  19. Kinh Sandaka (P. Sandakasuttaṃ, H. 刪陀迦經).[77] Dựa vào lời đức Phật, Tôn giả Ānanda bác bỏ 4 tà thuyết: (i) Thuyết vô hành; (ii) Thuyết vô nhân quả; (iii) Thuyết định mệnh; (iv) Thuyết luân hồi tịnh hóa. Đồng thời, nói rõ tác hại của 4 thuyết bất an: (i) Ngụy biện về toàn trí; (ii) Xem truyền thuyếtchân lý; (iii) Giỏi biện luận theo tư biện, khi này khi khác; (iv) Ngụy biện như con lươn. Đồng thời, Tôn giả khuyên mọi người tu chánh đạo, dứt năm trói buộc tâm, tu tập thiền định, đạt trí tuệ, kết thúc khổ đau.

  20. Đại kinh Sakuludāyi (P. Mahāsakuludāyisuttaṃ, H. 善生優陀夷大經) tương đương Tiễn mao kinh.[78] Đức Phật chia sẻ lý do nhiều người tu học theo Ngài là do Ngài đạt được sự tối thượng về giới đức, thuyết pháp với thắng trí, trí tuệ biết rõ người và mọi việc, dùng tứ Thánh đế vượt qua khổ đau và hướng dẫn tu tập 4 chánh niệm, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác ngộ, 8 chánh đạo.

  21. Kinh Samaṇamuṇḍika (P. Samaṇamuṇḍikasuttaṃ, H. 沙門文祁子經) tương đương Ngũ chi vật chủ kinh.[79] Phân tích giới hạn của thuyết không làm ác, không hành nghề ác là thiện tối thượng, đức Phật dạy tiêu chuẩn của bậc chân tu gồm biết rõ thiện ác từ tư duy đến hành động, nghề nghiệp và tu tập; tu tập 4 tinh tấn để nhổ lên gốc rễ của nghiệp và lối sống bất thiện là tham, sân, si và chấm dứt dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng; tu tập 4 thiền địnhhoàn thiện 8 chánh đạo giúp người tu trở thành bậc chân tu, đạt được chánh trígiải thoát.

  22. Tiểu kinh Sakuludāyi (P. Cūḷasakuludāyisuttaṃ, H. 善生優陀夷小經) tương đương Tiễn mao kinh.[80] Phủ định thuyết toàn tri trong khi thức và ngủ của Ni-kiền tử, đức Phật dạy thuyết tương duyên về sự sinh diệt của con ngườivạn vật. Phật liệt dẫn các loại ánh sáng, gồm ánh sáng đom đóm, đèn cầy, đuốc, đống lửa lớn, ngôi sao, mặt trăng rằm, mặt trời đứng bóng, và cho rằng ánh sáng trí tuệ là tuyệt vời nhất. Để chứng đắc Tam minh, tức trí tuệ của bậc Giác ngộ, con người cần tu đạo đức và 4 thiền định, nhờ đó kết thúc khổ đau.

  23. Kinh Vekhanassa (P. Vekhanassasuttaṃ, H. 鞞摩那修經) tương đương Bệ-ma-na-tu kinh.[81] Giống kinh 79, đề cao giá trị của trí tuệ vượt lên trên các loại ánh sáng, đức Phật hướng dẫn kỹ năng vượt qua thói quen hưởng thụ 5 dục lạc (sắc, thanh, hương, vị, xúc) dễ chịu, hấp dẫn; hoàn thiện đạo đứcthiền định, chặt đứt 5 trói buộc tâm, đạt giác ngộgiải thoát.

  24. Kinh Ghaṭikāra (P. Ghaṭikārasuttaṃ, H. 陶師經) tương đương Bệ-bàlăng-kỳ kinh.83 Không nhận lời thỉnh cầu cúng dường của Vua Kikī vì đã nhận lời của người thợ gốm, đức Phật gián tiếp khích lệ mọi người cần đạt được 6 ưu việt như thợ gốm: (i) Không phiền não nếu bị từ chối; (ii) Quy y Tam bảo và giữ 5 đạo đức; (iii) Chánh tín với Phật pháp, không hoài nghi về 4 chân lý Thánh; (iv) Sống theo thiện pháp, tiết độ ăn uống; (v) Hiếu kính cha mẹ già; (vi) Chứng quả Bất hoàn.

  25. Kinh Raṭṭhapāla (P. Raṭṭhapālasuttaṃ, H. 賴吒恕羅經) tương đương Lại-tra-hòa-la kinh.[82] Câu chuyện thanh niên nhà giàu có, nhờ tuyệt thực đã thuyết phục thành công cha mẹ cho đi tu. Khi về thăm lại gia đình, vị Tăng sĩ này chia sẻ lý tưởng xuất gia do thấy rõ: (i) Cuộc đời vô thường; (ii) Mọi thứ vô hộ và vô chủ; (iii) Vô ngãvô sở hữu; (iv) Con người bị chi phối bởi lão suy, bệnh suy, tài suy, thân suy. Nhưng nếu làm bậc chân tu, chúng ta không chỉ tạo hạnh phúc cho mình mà còn cứu độ nhân sinh.

  26. Kinh Makhādeva (P. Makhādevasuttaṃ, H. 大天奈林經) tương đương Đại Thiên nại lâm kinh.[83] Phật nhắc tích truyện kiếp quá khứ khi Ngài là Vua Makhādeva của Mithilā, quản trị đất nước theo pháp quyền và Chánh pháp, sống chuẩn mực về đạo đức theo truyền thống cao quý. Trao ngai vàng cho con, vua xuất gialý tưởng độ sinh, tu trọn vẹn từ, bi, hỷ, xả; khi chết được sinh trên cõi trời Ba Mươi Ba. Nay đức Phật lập truyền thống tâm linh mới, đưa đến ly tham, chấm dứt khổ đau, chứng đạt thượng trí, giác ngộ, giải thoát cho nhiều người.

  27. Kinh Madhurā (P. Madhurāsuttaṃ, H. 摩偷羅經).[84] Dựa vào các nguyên lý bình đẳng của Phật, Tôn giả Mahākaccāna (Đại Ca-chiên-diên) đã phân tích sự vô nghĩa của chủ nghĩa giai cấp Ấn Độ bằng các luận chứng bình đẳng rất sâu sắc và vững chắc gồm bình đẳng pháp lý, bình đẳng nhân quả, bình đẳng đạo đứcbình đẳng tu chứng.

  28. Kinh Vương tử Bồ-đề (P. Bodhirājakumārasuttaṃ, H. 菩提王子經).[85] Bài kinh phân tích về 2 quan điểm hạnh phúc của Ấn Độ giáoPhật giáo. Nếu Ấn Độ giáo cho rằng hạnh phúc có được do thực hành khổ hạnh thì ngược lại Phật giáo khẳng định hạnh phúc có được do sự chuyển hóa tâm thức.

  29. Kinh Aṅgulimāla (P. Aṅgulimālasuttaṃ, H. 鴦掘摩經).[86] Bài kinh khẳng định con đường giác ngộ rộng mở với tất cả mọi đối tượng, khi sự hồi đầu có mặt. Sự hồi đầu trong bài kinh này bắt đầu bằng sự ngạc nhiên đối với triết lý, dẫn đến chuyển hóa các nghiệp xấu.

  30. Kinh Ái sanh (P. Piyajātikasuttaṃ, H. 愛生經) tương đương Ái sanh kinh.[87] Cái chết được khẳng định như một quy luật. Thái độ tiếc thương của người thân đối với người đã khuất không làm cho người thân sống lại. Thương tiếc người thân là gốc rễ của sầu, bi, khổ, ưu, não.

  31. Kinh Bāhitika (P. Bāhitikasuttaṃ, H. 鞞訶提經) tương đương Bệ-hađề kinh.90 Đạo đức của người tu được đánh giá từ các hành vi của thân, biểu đạt của khẩu hành và ý niệm mang lại lợi lạc cho mình và người, có giá trị xây dựngchuyển hóa, không bận tâm về sự đền đáp của tha nhân. Vô ngã trong đạo đức chính là giá trị đạo đức bậc nhất mà người tu hành cần thực hiện toàn mãn.

  32. Kinh Pháp trang nghiêm (P. Dhammacetiyasuttaṃ, H. 法莊嚴經) tương đương Pháp trang nghiêm kinh.[88] Thông qua chuyện đời tự kể của Vua Pasenadi về lý do theo Phật, bài kinh giới thiệu các giá trị của đạo Phật, theo đó, con người quay về nương tựa đạt được các giá trị tâm linh, đạo đức, an lạcgiải thoát.

  33. Kinh Kaṇṇakatthala (P. Kaṇṇakatthalasuttaṃ, H. 普棘刺林經) tương đương Nhứt thiết trí kinh.[89] Đức Phật xác minh rằng Ngài không chấp nhận khái niệm toàn tri là biết mọi thứ, trong mọi lúc và trong mọi thời. Nhân đó, Phật thuyết minh về thuyết bình đẳng tâm linh trong các giai cấp, giá trị tinh tấn trong thành côngchứng đắc, giá trị của tâm không não hại, có thể giúp cho con người phát triển hạnh phúcbình an.

  34. Kinh Brahmāyu (P. Brahmāyusuttaṃ, H. 梵摩經) tương đương Phạmma kinh.[90] Từ niềm tin rằng nhân tướng của một con người thể hiện nhân cách của người đó, các Bà-la-môn đã đến với đức Phậttrở thành đệ tử của Ngài. Nếu Bà-la-môn giáo nhấn mạnh về nhân tướng, thì Phật giáo nhấn mạnh về nhân cách thông qua sự huấn luyện các oai nghi tế hạnh.

  35. Kinh Sela (P. Selasuttaṃ, H. 施羅經).[91] Bài kinh giới thiệu nghệ thuật chia sẻ phước duyên với người thân. Khi gặp được Phật pháp, ta nên có trách nhiệm chia sẻ và lan truyền giá trị tâm linh, hạnh phúc đến với mọi người. Đây chính là cách giúp đỡ người thân có ý nghĩagiá trị.

  36. Kinh Assalāyana (P. Assalāyanasuttaṃ, H. 阿攝惒經) tương đương Phạm chí A-nhiếp-hòa kinh.[92] Thông qua sự phân tích về gien di truyền, quyền lực kinh tế, giá trị nhân phẩm đạo đức, hôn nhân dị chủng và các nhu yếu hàng ngày, đức Phật đã chứng minh rằng niềm tin về sự thanh tịnhđộc tôn của giai cấp Bà-la-môn chỉ là sự rỗng tuếch, không có căn cứ.

  37. Kinh Ghoṭamukha (P. Ghoṭamukhasuttaṃ, H. 瞿哆牟伽經).[93] Sự quy ngưỡng của tín đồ đối với người xuất gia thường gắn liền với đức hạnhgiá trị tâm linh của vị ấy. Nếu có nhiều người làm mất niềm tin của quần chúng thì cũng có những người mẫu mực, đáng quy ngưỡngphát tâm.

  38. Kinh Caṅkī (P. Caṅkīsuttaṃ, H. 商伽經). Theo đức Phật, chân lý đích thực không bao giờ là sự phiến diện, độc đoán một chiều. Nghệ thuật khám phá, hộ trì và chứng đạt chân lý không gì khác hơn là sự hành trì chân lý.

  39. Kinh Esukārī (P. Esukārīsuttaṃ, H. 鬱瘦歌邏經) tương đương Uấtsấu-ca-la kinh.[94] Nếu đạo Bà-la-môn do dựa vào chủ nghĩa giai cấp, bắt buộc giai cấp vua chúa, thương gianô lệ phải phục vụ giai cấp Bà-la-môn thì đạo Phật cho rằng người có đạo đức, trí tuệ, thích bố thí, không giận dữ, tu tập pháp lành mới thực sự đáng được phụng sự.

  40. Kinh Dhānañjāni (P. Dhānañjānisuttaṃ, H. 陀然經) tương đương Phạm chí Đà-nhiên kinh.[95] Phần lớn các hành động phi pháp của con người phát xuất từ động cơ thỏa mãn các nhu cầu hưởng thụ bản thân, nhưng khi chịu hậu quả thì con người đổ lỗi cho người thân và hoàn cảnh bắt buộc. Vì nhân duyên nào đó, một hành động xấu đã được gieo sẽ đẩy người đó vào tù ngục. Biết vậy, con người cần nỗ lực chuyển hóa nghiệp duyên để hạnh phúc hôm nay và tươi sáng đời sau.

  41. Kinh Vāseṭṭha (P. Vāseṭṭhasuttaṃ, H. 婆私吒經) tương đương Kinh tập.[96] Bài kinh giới thiệu 2 quan điểm trái ngược về khái niệm Bà-la-môn. Nếu quan niệm truyền thống cho rằng Bà-la-môn là người sinh ra từ gia đình Bà-lamôn thuần chủng 7 đời, thì quan niệm cấp tiến cho rằng Bà-la-môn là người có giới hạnh. Vượt lên trên 2 quan điểm này, đức Phật đã mang lại nội dung mới cho Bà-la-môn, khi so sánh Bà-la-môn với Thánh nhân trong Phật giáo.

  42. Kinh Subha (P. Subhasuttaṃ, H. 須婆經) tương đương Anh Vũ kinh.[97] Bài kinh phân tích sự giống và khác giữa người tại gia và người xuất gia về phương diện hành động và nghề nghiệp. Nếu người tại gia tạo ra giá trị sản lượng thì người xuất gia tạo ra giá trị tâm linh. Mặc dù không hình thù, vóc dáng, các giá trị tâm linh có thể cứu giúp con người giải quyết khổ đau.

  43. Kinh Saṅgārava (P. Saṅgāravasuttaṃ, H. 傷歌邏經).[98] Bài kinh phân tích về sự khác biệt giữa niềm tin tâm linhsự thật tâm linh trong thế giới tôn giáo. Các chất liệu và giá trị tâm linh chỉ có thật khi nó thích ứng với thực tế và nó phục vụ tích cực cho cuộc đời.

  44. Kinh Devadaha (P. Devadahasuttaṃ, H. 天臂經) tương đương Ni-kiền kinh.[99]

  45. Kinh Năm và Ba (P. Pañcattayasuttaṃ, H. 五三經).[100] Đức Phật dạy không nên quy kết tất cả những gì gặp phải ở hiện tại đều có gốc rễ quá khứ, đồng thời khích lệ tu tập tinh tấn thay vì khổ hạnh, để nhổ lên sự khổ đau bằng việc phân tích nguyên nhân của nó và trải nghiệm hạnh phúc bây giờ và tại đây.

  46. Kinh Như thế nào (P. Kintisuttaṃ, H. 如何經). Đề cao vai trò của vị Đạo sư, đức Phật khuyên các Tăng sĩ siêng năng truyền bá 37 yếu tố giác ngộ. Để sống hạnh phúc trong cộng đồng, đức Phật khuyên không nên đào sâu sự bất đồng về quan điểm, cách hiểu, không phê phán, không khen mình, chê người; đề cao sự thực hành Chánh pháp để trải nghiệm hạnh phúc của Niết-bàn.

  47. Kinh Làng Sāma (P. Sāmagāmasuttaṃ, H. 舍彌村經) tương đương Châu-na kinh.[101] Khẳng định tranh chấp là khổ đau, đức Phật dạy phân tích các nguyên nhân của tranh chấp gồm phẫn nộ - sân hận, hiềm hận - não hại, tật đố - xan tham, gian manh - xảo trá, ác dục - tà kiến, cố chấp - khó thuyết phục. Đồng thời, đức Phật dạy 6 kỹ năng sống hòa hợp và 7 phương pháp vượt qua tranh chấp, bất đồng, nhằm góp phần xây dựng gia đình, cộng đồngquốc gia hạnh phúc.

  48. Kinh Thiện Tinh (P. Sunakkhattasuttaṃ, H. 善星經). Đức Phật dạy rằng lời tuyên bố chứng đắc trí tuệ, có trường hợp là đúng với sự thật và có khi là do ngã mạn nên nói khống. Theo đức Phật, để đạt được thắng trí, mọi người cần tu tập tâm bất động trước các cảnh, không chấp vào tính sở hữu, không để tham dụcsân hận chi phối, không ỷ lại chính mình, cam kết chữa lành mũi tên khổ đau bằng sự thực tập buông xả và không hận thù.

  49. Kinh Bất động lợi ích (P. Āneñjasappāyasuttaṃ, H. 不動利益經) tương đương Tịnh bất động đạo kinh.[102] Khẳng định rằng tham dục, về bản chấtvô thường, trống rỗng, kéo theo hệ lụy, đức Phật hướng dẫn kỹ năng sống bất động trước cảnh trong hiện tại như sau: (i) Tâm quảng đại; (ii) Không chấp dính thế giới vật chất nhờ thấy rõ tính tổ hợp 4 đại của chúng; (iii) Thường quán tưởng Vô sở hữu xứ; (iv) Thực tập tâm Vô sở hữu xứ; (v) Thực tập buông xảkhông chấp vào xả.

  50. Kinh Gaṇaka Moggallāna (P. Gaṇakamoggallānasuttaṃ, H. 算數家目犍連經) tương đương Toán số Mục-kiền-liên kinh.[103] Con đường tâm linh kết thúc khổ đau, chứng đắc Niết-bàn bắt đầu bằng sự huấn luyện đạo đức, sống chánh hạnh, giữ oai nghi, sợ hãi các lỗi nhỏ, làm chủ 6 giác quan, làm chủ việc ăn uống, chánh niệm và tỉnh thức trong mọi động tác, thực tập thiền định để tháo mở các trói buộc tâm gồm tham ái, sân hận, hôn trầm thùy miên, hối quáhoài nghi. Ai thực hành theo sự chỉ đường của đức Phật sẽ đạt được giải thoát trong hiện đời.

  51. Kinh Gopaka Moggallāna (P. Gopakamoggallānasuttaṃ, H. 瞿默目犍連經) tương đương Cù-mặc Mục-kiền-liên kinh.[104] Noi gương đức Phật, người khai sáng con đường tỉnh thức, sau khi đức Phật qua đời, người tu Phật phải nương tựa vào chân lý Phật và đạo đức, sống trong chánh hạnh, hòa thuận, giữ đủ oai nghi, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt; học rộng, hiểu Phật pháp nhiều; biết đủ với 4 vật dụng; thực tập thiền định; xem giáo hóa như phép mầu; nỗ lực kết thúc khổ đau, chứng đắc giác ngộ.

  52. Đại kinh Mãn nguyệt (P. Mahāpuṇṇamasuttaṃ, H. 滿月大經).[105] Phân tích mắc xích khổ đau, đức Phật chỉ rõ sự dính mắc của thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư, nhận thức bắt đầu từ dục tham, tiếp xúc thiếu chánh niệm; đánh đồng thân và tâm là ngã. Ngài nhắc nhở người tu cần thấy rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi các đối tượng giác quan, đồng thời hãy chuyển hóa tâm ngã mạn ngủ ngầm; thấy rõ vô thường để không chấp: “Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này chính là tự ngã của tôi”, nhờ đó, vượt qua tất cả khổ đau.

  53. Tiểu kinh Mãn nguyệt (P. Cūḷapuṇṇamasuttaṃ, H. 滿月小經).[106] Nhận diện tác hại của sự bất chánh, đức Phật dạy kỹ năng trở thành người chân chánh, sống với chánh kiến, giao du người tốt; suy nghĩ việc thiện, nói sự thật và hữu ích, hành động chân chánh; có chánh tín, đề cao lương tâm, nghe chân lý Phật, tinh tấn làm việc thiện, tin sâu nhân quảkiếp sau, thích bố thí giúp người; làm tất cả việc tốt nhất với phương pháp tốt nhất có thể, trở thành người hạnh phúc và hữu dụng.

  54. Kinh Bất đoạn (P. Anupadasuttaṃ, H. 不斷經). Nhân dịp ca ngợi Tôn giả Sāriputta đạt được đại tuệ và tu thiền sâu sắc, đức Phật dạy các cấp thiền: (i) Hỷ lạc do xa lìa ái dục; (ii) Hỷ lạc do trụ định; (iii) An lạc do xả niệm hỷ; (iv) Thanh tịnh do xả tất cả niệm. Đồng thời, Phật khuyên tu tập 4 thiền vô sắc giới: (v) Hư không vô biên xứ; (vi) Thức vô biên xứ; (vii) Vô sở hữu xứ; (viii) Phi tưởng phi phi tưởng xứ; và Diệt thọ tưởng định; nhờ đó, vượt qua mọi trói buộc, đạt được giác ngộ, giải thoát.

  55. Kinh Sáu thanh tịnh (P. Chabbisodhanasuttaṃ, H. 六淨經) tương đương Thuyết trí kinh.110 Bằng chánh trí, người tu sẽ giải thoát mình khỏi các lậu hoặc, vượt qua các chấp thủ về thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư, nhận thức; mắt và hình thái, tai và âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật xúc chạm, ý với những gì được hình dung. Vượt qua ngã mạn tùy miên, người tu trở thành bậc chân tu; chặt đứt các trói buộc tâm (tham ái, sân hận, hôn trầm thùy miên, trạo cử hối quá, hoài nghi) và giải quyết khổ đau bằng 4 sự thật Thánh, sống hạnh phúcthong dong trong đời.

  56. Kinh Chân nhân (P. Sappurisasuttaṃ, H. 善士經) tương đương Chân nhân kinh.[107] Bất luận bối cảnh giai cấp và họ tộc, bậc chân tu theo Phật pháp sẽ đạt được an lạc, giải thoát và được sự kính trọng. Bậc chân tu không khen mình, chê người về sự nổi tiếng, 4 vật cúng dường, học pháp giỏi, giữ giới hạnh, thiểu dục và giản đơn, khất thực nuôi mạng thanh tịnh, sống ở nghĩa địa, ngủ dưới gốc cây, hết tham sân si, chứng 9 cấp thiền định, đạt được trí tuệ, giải phóng khổ đau.

  57. Kinh Nên hành trì, không nên hành trì (P. Sevitabba-asevitabbasuttaṃ, H. 應習不應習經).[108] Phật dạy tiêu chí đánh giá bản chất hành động trên nền tảng giá trịtác hại, từ đó, nên làm và không nên làm. Bất cứ hành động thân, lời nói và các ý tưởng, hoặc khi các giác quan tiếp xúc trần cảnh mà làm tăng trưởng điều bất thiện, gây tạo khổ đau như thương tổn mạng sống, lấy của không cho, tà hạnh ngoại tình, nói láo, nói chia rẽ, nói thô ác, nói phù phiếm, vướng dính tham ái, giận dữ và tâm hãm hại…, con người nên nỗ lực từ bỏ, vượt qua. Ngược lại, đối với các hành động mang lại hạnh phúcgiá trị cho đời, con người nên theo đuổi như lý tưởng sống.

  58. Kinh Đa giới (P. Bahudhātukasuttaṃ, H. 多界經) tương đương Đa giới kinh.[109] Sau khi khẳng định người trí hiểu sâu về 6 giác quan, 6 đối tượng giác quan, 6 nhận thức giác quan và thuyết tương duyên, đức Phật chỉ ra lý do người ngu dễ bị sợ hãi, thất vọnghoạn nạn trong khi người trí thì không. Người trí hiểu rõ lạc, khổ, hỷ, ưu, xả, vô minh; vượt qua dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng; thành tựu chánh kiến, không phạm tội lỗi, nhất là 5 tội trọng; thấy rõ vô thườngvô ngã, nhờ đó, sống an vui trong đời.

  59. Kinh Thôn Tiên (P. Isigilisuttaṃ, H. 仙吞經).[110] Tại núi Tiên (Isigili), Vương Xá, đức Phật ca ngợi vị Độc Giác, nhờ tu chánh đạo, trọn vẹn đạo đức, thiền địnhtrí tuệ, nên đã dứt sạch tham ái, nhổ mũi tên khổ đau, và tự chứng trí tuệ, đạt được giải thoát, đoạn tận tái sinh.

  60. Đại kinh Bốn mươi (P. Mahācattārīsakasuttaṃ, H. 大四十經) tương đương Thánh đạo kinh.115 Đức Phật giảng chi tiết về Bát chánh đạo, gồm (i) Tầm nhìn chân chánh; (ii) Tư duy chân chánh; (iii) Lời nói chân chánh; (iv) Hành động chân chánh; (v) Nghề nghiệp chân chánh; (vi) Siêng năng chân chánh; (vii) Chánh niệm hiện tiền; (viii) Đại định nhất tâm, cũng như mối quan hệ giữa trí tuệ, đạo đứcthiền định. Tu tập Bát chánh đạo thông thường sẽ trở thành chân nhân, hưởng phúc báo. Tu tập rốt ráo Bát chánh đạo sẽ chứng quả Thánh nhân, kết thúc luân hồi.

  61. Kinh Nhập tức xuất tức niệm (P. Ānāpānassatisuttaṃ, H. 入出息念經).[111] Đức Phật dạy 16 kỹ năng thở thiền mang lại an lạc, giải thoát, gồm: (i) Chánh niệm thân: Với hơi thở ra vào, biết rõ hơi thở dài hơi thở ngắn, cảm giác toàn thân, và an tịnh thân hành; (ii) Chánh niệm cảm giác: Làm chủ hoan hỷ, hạnh phúc, cảm nhận tâm hànhan tịnh tâm hành; (iii) Chánh niệm tâm: Cảm nhận tâm, tâm hân hoan, tâm định tĩnh, tâm giải thoát; (iv) Chánh niệm về pháp: Quán vô thường, quán ly dục, quán tịch diệt và quán xả ly. Phối hợp với 7 yếu tố giác ngộ, người tu thiền sẽ đạt sự giải thoát khỏi khổ đau.

  62. Kinh Thân hành niệm (P. Kāyagatāsatisuttaṃ, H. 身行念經) tương đương Niệm thân kinh.[112] Đức Phật dạy kỹ năng chánh niệm về thân (thân hành niệm), gồm làm chủ hơi thở ra vào; tỉnh giác trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, nói, im lặng, động, tịnh, thức, ngủ; quán thân thể gồm 32 yếu tố bất tịnh; quán thi thể bị trương sình và chỉ còn xương, tro, bụi; nhờ đó, không còn chấp dính vào thân, ngã, ngã sở hữu và những thứ liên hệ đến thân. Như vậy, tu và chứng 4 thiền định để chấm dứt khổ đau.

  63. Kinh Hành sanh (P. Saṅkhārupapattisuttaṃ, H. 行生經) tương đương Ý hành kinh.[113] Đức Phật dạy điều kiện tái sinh theo ý muốn gồm đầy đủ chánh tín, đạo đức, bố thí, đa văn, trí tuệ; chú tâm vào cảnh giới và nơi muốn tái sinh, nhất là lúc gần qua đời. Ngoài những điều trên, nếu chú tâm vào Tâm giải thoátTuệ giải thoát, người tu tập sẽ chấm dứt khổ đau, chứng đắc quả Thánh.

  64. Kinh Tiểu không (P. Cūḷasuññatasuttaṃ, H. 空小經) tương đương Tiểu không kinh.119 Bằng kinh nghiệm bản thân, đức Phật dạy Tăng đoàn quán tính “không thực thể”, tu tập Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứVô tướng tâm định… để không vướng tâm tưởng vào con người, làng xã, nhà cửa, đại địa, núi, sông; phối hợp với quán vô thườngvô ngã, chấm dứt các lo lắng và khổ đau liên hệ đến tưởng; tâm được giải thoát.

  65. Kinh Đại không (P. Mahāsuññatasuttaṃ, H. 空大經) tương đương Đại không kinh.120 Kinh dạy kỹ năng vượt qua ngã mạn, chấm dứt sự nhiễm đắm các sự vật, hiện tượng, sống thiểu dục, đề cao tâm viễn ly, thực tập nội tĩnh, chánh niệm, tỉnh thức, trải nghiệm các hỷ lạc do ly dục, do tu định, do diệu lạc và do xả niệm. Để tiến bộ trong tu học, người tu tập dù gặp nghịch cảnh, không chán nản, bỏ cuộc; dù gặp nhiều người quý trọng, không sanh tâm cống cao; với mọi người, không có tâm thù nghịch; đề cao lòng bi mẫn mang lại lợi lạc cho mọi người.

  66. Kinh Hy hữu, vị tằng hữu pháp (P. Acchariyaabbhutadhammasuttaṃ, H. 希有未曾有法經) tương đương Vị tằng hữu pháp kinh.[114] Tôn giả Ānanda thuật lại 18 điều mầu nhiệm về sự kiện Phật đản: (i) An trú trọn thọ mạng tại cung trời Đâu-suất một cách chánh niệm; (ii) Vào thai mẹ trong chánh niệm; (iii) Ánh sáng thần diệu xuất hiện khi qua đời tại cõi trời Đâu-suất; (iv) Khi vào thai mẹ, có 4 thiên nhân hộ vệ mẫu thân; (v) Trong thai, tác động mẹ sống đức hạnh; (vi) Trong thai, mẹ không có dục tưởng; (vii) Trong thai, mẹ hưởng 5 dục công đức đầy đủ; (viii) Thai nhi đủ các bộ phận, mẹ không mệt mỏi; (ix) Mẹ tái sinh cõi trời Đâu-suất sau 7 ngày sinh; (x) Trụ thai đúng 10 tháng; (xi) Mẹ sinh trong tư thế đứng; (xii) Khi sinh được chư thiên đỡ Ngài sau đó mới đến loài người; (xiii) Khi sinh, thân Ngài không chạm đất; (xiv) Khi sinh ra không bị lấm bẩn máu mủ; (xv) Khi sinh ra có 2 dòng nước nóng, lạnh tắm 2 mẹ con; (xvi) Khi sinh ra, đi 7 bước hướng Bắc, tuyên bố sự độc tôn của Ngài; (xvii) Khi sinh ra, hào quang sáng ngời các cõi; (xviii) Cảm thọ được biết đến lúc sinh khởi, lúc trú và diệt, các ý tưởngtư duy cũng thế.

  67. Kinh Bạc-câu-la (P. Bakkulasuttaṃ, H. 薄拘羅經) tương đương Bạccâu-la kinh.[115] Tôn giả Bakkula (Bạc-câu-la) tự sự về 80 năm tu hành đặc biệt của Ngài: (i) Không có dục tưởng, sân tưởng và hại tưởng; (ii) Không nhận y phục từ cư sĩ, may y, nhận y Kathina; (iii) Không đi Trai Tăng; (iv) Không để ý tướng chung, tướng riêng của người nữ, không đến chỗ người nữ, không giảng pháp cho người nữ; (v) Không làm Bổn sư và Y chỉ sư của ai; (vi) Không tắm trong nhà tắm, không ốm đau, không dùng thuốc, không nằm giường; không đi an cư mùa mưa tại trú xứ gần làng; (vii) Chỉ mắc nợ thí chủ trong 7 ngày mới xuất gia. Sau đó, Ngài giác ngộ, giải thoát, nhập Niết-bàn trong tư thế thiền tọa bất động.

  68. Kinh Điều ngự địa (P. Dantabhūmisuttaṃ, H. 調御地經) tương đương Điều ngự địa kinh.[116] Nhân câu chuyện Vương tử Jayasena không tin người tu xa lìa được 5 dục lạc, đức Phật dùng ẩn dụ con voi chưa được thuần hóaẩn dụ người ở đỉnh núi kể phong cảnh đó cho người dưới chân núi để mô tả cảnh giới lìa ái dục của bậc chân tu, giải phóng khổ đau. Đức Phật khuyến khích các đệ tử sống đạo đức, phòng hộ 6 giác quan, tiết độ ăn uống, chú tâm cảnh giác, vượt khỏi chướng ngại, chánh niệm trong các uy nghi, dứt 5 trói buộc tâm, tu 4 niệm xứ, chứng đắc 4 thiền, đạt được giác ngộ.

  69. Kinh Phù-di (P. Bhūmijasuttaṃ, H. 浮彌經) tương đương Phù-di kinh.[117] Đề cập đến giá trị trị liệuthiết thực của Phật giáo, đức Phật giải thích kết quả của việc thực tập Bát chánh đạo trong hiện đời là hạnh phúc, giác ngộgiải thoát, bất luận có ước nguyện hay không. Theo phương pháp đúng, cũng như ép hạt lấy dầu, vắt sữa từ vú bò cái, khuấy sữa làm bơ, và dùng cây khô để nhóm lửa, người thực tập chắc chắn được như ước nguyện.

  70. Kinh A-na-luật (P. Anuruddhasuttaṃ, H. 阿那律經) tương đương Hữu Thắng Thiên kinh.[118] Tôn giả Anuruddha (A-na-luật) giải thích 2 sự giải thoát. Cùng tu tập từ, bi, hỷ, xả, nếu “tâm giải thoát đại hành” chỉ biến mãn một khu vực, khi chết hành giả sẽ tái sinh vào cõi trời Thiểu Quang, còn “tâm giải thoát vô lượng” biến mãn khắp mười phương, không hận sân, khi chết hành giả sẽ tái sinh vào cõi trời Vô Lượng Quang, Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh.

  71. Kinh Tùy phiền não (P. Upakkilesasuttaṃ, H. 隨煩惱經) tương đương Trường Thọ Vương bổn khởi kinh.[119] Nhằm giúp mọi người vượt qua nghiệp tranh chấp, đức Phật dạy cách đề cao chánh niệm để phòng phi, không xem mình là nạn nhân của khổ đau, dùng từ bi chuyển hóa hận thù, kết bạn với người trí; sống hòa hợp như nước với sữa, ứng xử bằng tâm từ ái, thiện cảm, quan tâm, tương trợ; tôn trọnghọc hỏi sở trường của người khác; thực tập thiền quán để vượt qua các phiền não.

  72. Kinh Hiền ngu (P. Bālapaṇḍitasuttaṃ, H. 賢愚經) tương đương Si tuệ địa kinh.[120] Phật dạy kỹ năng phân biệt kẻ ngu và người trí. Đặc điểm của người trí là nghĩ lành, nói lành, làm lành; vui với sự từ bỏ các ác hành; tự xét mình không làm ác và không bị trừng trị; được an ổn và không sợ hãi; khi chết, tái sinh cõi trời, hưởng thiên lạc hơn vua chúa; khi tái sinh làm người thì sinh trong gia đình quyền quý, giàu có, sống hữu ích và hạnh phúc.

  73. Kinh Thiên sứ (P. Devadūtasuttaṃ, H. 天使經) tương đương Thiên sứ kinh.[121] Luật nhân quả chi phối mọi thứ ở kiếp này và quyết định sự tái sinh kiếp sau với các cảnh giới, làm người hay vật, hưởng hạnh phúc hay chịu khổ đau. Kẻ gây ác nghiệp sẽ bị trừng phạt bởi luật phápluật nhân quả. Quán chiếu tiến trình sự sống bắt đầu từ ấu nhi, thanh xuân, già, bệnh, chết như các thiên sứ nhắc nhở về vô thường để bản thân sống tốt hơn, tu học Phật pháp, chuyển hóa khổ đau.

  74. Kinh Nhứt dạ Hiền giả (P. Bhaddekarattasuttaṃ, H. 一夜賢者經). Tại tinh xá Kỳ Viên, đức Phật dạy rằng cốt lõi của tu thiềnthực tập chánh niệm trong giây phút hiện tại và tại đây. Không hồi ức, sống với kinh nghiệm quá khứ đối với 5 thủ uẩn, 6 giác quan, 6 đối tượng giác quan. Không ước vọng, lo lắng, căng thẳng, sợ hãi về những chuyện chưa xảy ra đối với các đối tượng nêu trên. Không bị vọng niệm hiện tại lôi cuốn vào sự chấp tự ngã. An trụ tâm vào hiện tại tỉnh thức, vượt qua mọi khổ đau trên đời.

  75. Kinh A-nan Nhứt dạ Hiền giả (P. Ānandabhaddekarattasuttaṃ, H. 阿難一夜賢者經) tương đương A-nan thuyết kinh.[122] Phật giảng kinh này tại tinh xá Kỳ Viên với nội dung tương tự kinh 131, đề cao vai trò chánh niệm hiện tiền trong việc giải phóng khổ đau. 

  76. Kinh Đại Ca-chiên-diên Nhứt dạ Hiền giả (P. Mahākaccānabhaddekarattasuttaṃ, H. 大迦旃延一夜賢者經) tương đương Ôn tuyền lâm thiên kinh.[123] Kinh này được Ngài Mahākaccāna giảng tại thành Vương Xá rằng chánh niệm hiện tiềnhạnh phúc dài lâu.

  77. Kinh Lomasakaṅgiya Nhứt dạ Hiền giả (P. Lomasakaṅgiyabhaddekarattasuttaṃ, H. 盧夷強耆一夜賢者經) tương đương Thích trung thiền thất tôn kinh.[124] Tôn giả Lomasakaṅgiya trả lời thiên tử Candana về chánh niệm hiện tiền theo cách được đức Phật dạy trong các bài kinh 131, 132, 133.

  78. Tiểu kinh Nghiệp phân biệt (P. Cūḷakammavibhaṅgasuttaṃ, H. 小業分別經) tương đương Anh Vũ kinh.[125] Giải thích nguyên nhân thế giới có thiên sai vạn biệt. Đức Phật khẳng định rằng con người là chủ nhân, thai tạng, quyến thuộc, điểm tựa và người kế thừa nghiệp. Theo đó, nhan sắc, sức khỏe, tuổi thọ, tài sản, vị thế, quyền uy, lối sống của con người là do hành vithói quen của con người. Ngài khuyến khích con người nỗ lực chuyển nghiệp bằng cách gieo trồng nghiệp mới tích cực thì các nghiệp xấu ác trong quá khứ sẽ trở nên vô hiệu quả.

  79. Đại kinh Nghiệp phân biệt (P. Mahākammavibhaṅgasuttaṃ, H. 大業分別經) tương đương Phân biệt đại nghiệp kinh.[126] Đức Phật dạy rằng tùy theo bản chất tích cực hay tiêu cực của nghiệp mà cảm giác hạnh phúc hay khổ đau có mặt. Do tác động của duyên, sự trổ quả của nghiệp là có thật. Người sống tà kiến, gieo nhiều bất hạnh sẽ bị khổ đau ở hiện tại hoặc bị đọa lạc cảnh giới thấp trong kiếp tương lai. Có người gieo nghiệp xấu ở hiện tại nhưng do tác động của nghiệp tốt trong quá khứ của bản thân nên chậm trổ quả. Nhân quả là có thật nhưng chuyển nghiệp được nên không có số phận và định mệnh.

  80. Kinh Phân biệt sáu xứ (P. Saḷāyatanavibhaṅgasuttaṃ, H. 六處分別經) tương đương Phân biệt lục xứ kinh.[127] Phật giảng về 6 giác quan, 6 đối tượng, 6 xúc, 6 thức, 18 ý hành (6 khổ, 6 ưu, 6 xả), 36 loại hữu tình (18 ý hành tại gia, 18 ý hành xuất gia), 3 cảm thọ, 3 niệm của Đạo sưVô thượng điều ngự. Phật khích lệ tu 8 giải thoát: Nội có sắc quán ngoại sắc, nội không sắc quán ngoại sắc, chú tâm trên thanh tịnh, Hư không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứDiệt thọ tưởng định.

  81. Kinh Tổng thuyết và biệt thuyết (P. Uddesavibhaṅgasuttaṃ, H. 總說分別經) tương đương Phân biệt quán pháp kinh.[128] Tôn giả Mahākaccāna giải thích lời Phật dạy về cách vượt qua sự dao động tâm, không chấp dính, không còn khổ về sanh, già, chết. Khi giác quan tiếp xúc ngoại trần cảnh, không đuổi theo tướng ngoài. Tu tập 4 thiền định để không vướng dính nội trần. Không chấp ngã, tự ngã, ngã sở hữu trong thân thểsắc pháp, nhờ đó, không còn khát ái, không sợ hãi, không bị khủng bố, đạt được an lạcgiải thoát.

  82. Kinh Vô tránh phân biệt (P. Araṇavibhaṅgasuttaṃ, H. 無諍分別經) tương đương Câu-lâu-sấu vô tránh kinh.[129] Để giúp mọi người vượt qua khổ đau do nghiệp và thói quen tranh chấp, đức Phật dạy kỹ năng tán dương mặt tích cực của người khác, góp ý khéo và đúng lúc, chú tâm vào sự an lạc của thanh tịnhgiác ngộ, giao tiếp bằng lời từ ái, không chấp dính ngôn ngữ và hành xử của người khác, thực tập hỷ xảbao dung.

  83. Kinh Giới phân biệt (P. Dhātuvibhaṅgasuttaṃ, H. 界分別經) tương đương Phân biệt lục giới kinh.[130] Để vượt qua mọi chấp thủ, đức Phật khuyên mọi người phát triển 4 siêu việt gồm tôn trọng chân lý, phát triển trí tuệ, chia sẻ tuệ giác và trải nghiệm sự tịch tịnh; nhận thức rõ địa, thủy, hỏa, phong, không vốn không phải là tôi, của tôi và tự ngã của tôi; chuyển hóa cảm xúc, vọng tưởng, tham ái, sân hận, vô minhvượt qua mọi chấp thủ, đạt được giác ngộgiải thoát.

  84. Kinh Phân biệt về sự thật (P. Saccavibhaṅgasuttaṃ, H. 諦分別經) tương đương Phân biệt Thánh đế kinh.[131] Phương pháp chấm dứt khổ đau của đức Phật gồm 4 bước: (i) Nhận diện khổ đau của thân và tâm; (ii) Truy tìm nguyên nhân khổ đau từ tham ái, sân hậnsi mê; (iii) Trải nghiệm Niết-bàn khi khổ và nguyên nhân khổ đã kết thúc; (iv) Tu Bát chánh đạo gồm sự hoàn thiện trí tuệ, đạo đứcthiền định; nhờ đó, chứng đắc giác ngộgiải thoát ở hiện đời. 142. Kinh Phân biệt cúng dường (P. Dakkhiṇāvibhaṅgasuttaṃ, H. 施分別經) tương đương Cù-đàm-di kinh.[132] Dựa vào giá trị đạo đức và sự đóng góp tích cực cho đời, những bậc đáng được cúng dường bao gồm đức Phật, bậc Độc Giác, bậc A-la-hán, bậc Bất lai, bậc Nhất lai, bậc Dự lưu, người đang hướng đến quả Thánh là Tăng Ni và những người đức hạnh. Nhân đây, đức Phật dạy cách cúng dườngbố thí thanh tịnh đối với người cho và người nhận.

  85. Kinh Giáo giới Cấp Cô Độc (P. Anāthapiṇḍikovādasuttaṃ, H. 教給孤獨經) tương đương Giáo hóa bệnh kinh.[133] Nhằm giúp Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) vượt qua cơn đau nhức kinh khủng, Tôn giả Sāriputta và Ānanda hướng dẫn cách thực tập vô ngã đối với 6 giác quan, 6 đối tượng, 6 xúc, 6 nhận thức; địa, thủy, hỏa, phong, không, thức; thế giới này, thế giới khác. Sau khi thực tập có kết quả, Anāthapiṇḍika đã nhẹ nhàng ra đi và tái sinh vào cõi lành.

  86. Kinh Giáo giới Channa (P. Channovādasuttaṃ, H. 教闡陀經).[134] Tuy 2 Tôn giả Sāriputta và Mahācunda động viên Tôn giả Channa hãy kham nhẫn, đồng thời quán chiếu 6 giác quan, 6 đối tượng, 6 nhận thức không phải là ta, sở hữu của ta, tự ngã của ta để vô hiệu hóa cơn đau trên thân, nhưng Tôn giả Channa không chịu đựng nỗi, đã tự tử sau đó vì quá đau nhức. Bài kinh dạy phương pháp phi ngã hóa nỗi đau trên thân và nỗi khổ trong tâm, không đánh đồng thân và tâm là tôi, tự ngã của tôi và sở hữu của tôi, nhằm vượt qua hội chứng trầm cảm và tự tử.

  87. Kinh Giáo giới Phú-lâu-na (P. Puṇṇovādasuttaṃ, H. 教富樓那經).[135] Được đức Phật xác vấn về lý tưởng truyền bá chân lý, Tôn giả Puṇṇa (Phú-lâuna) kiên định rằng Ngài không sợ mắng nhiếc, đánh đập, ném đá, dùng hung khí tấn công, thậm chí bị giết chết bởi người dân nước Sunāparanta hung hãn. Giữ được trạng thái an tịnh trong mọi nghịch cảnhkhông chấp thủ mọi thứ trên đời là nền tảng thành công trong hành đạophụng sự nhân sinh.

  88. Kinh Giáo giới Nandaka (P. Nandakovādasuttaṃ, H. 教難陀迦經).[136] Vâng lời Phật dạy, Tôn giả Nandaka giáo giới Ni đoàn về sự vô thường của mọi sự vật hiện tượng gồm 6 giác quan, 6 đối tượng giác quan và 6 nhận thức giác quan vốn không phải là tôi, tự ngã của tôi, sở hữu của tôi; thực tập 7 yếu tố giác ngộ, dùng tuệ giác chặt đứt mọi trói buộc và khổ đau. An trú sự giải thoát bằng tâm (tu thiền) và giải thoát bằng trí tuệ.

  89. Tiểu kinh Giáo giới La-hầu-la (P. Cūḷarāhulovādasuttaṃ, H. 教羅睺羅小經).[137] Đức Phật hướng dẫn Rāhula (La-hầu-la) nhận thức sâu sắc rằng 6 giác quan, 6 đối tượng giác quan, 6 tiếp xúc giác quan, về bản chấtvô thường, biến hoạinếu không làm chủ được sẽ dẫn đến khổ đau. Không nên đánh đồng chúng là tôi, sở hữu của tôi, tự ngã của tôi và không đắm nhiễm vào chúng; đồng thời thực tập ly tham, đạt được giải thoát.

  90. Kinh Sáu sáu (P. Chachakkasuttaṃ, H. 六六經) tương đương Thuyết xứ kinh.[138] Từ sự tiếp xúc của 6 giác quan với 6 đối tượng, phát sinh 6 nhận thức, 6 cảm nhận và 6 ái luyến giác quan. Nhận diện quá trình sinh khởihoại diệt của mọi sự vật, người tu tập sẽ không chấp “tự ngã” đã sinh và diệt nơi tôi, nhàm chám mọi nhiễm đắm, làm chủ bản thân để các năng lượng ngủ ngầm của tham ái, sân hận, si mê không thể xuất hiện, tăng trưởng và dần bị tiêu diệt.

  91. Đại kinh Sáu xứ (P. Mahāsaḷāyatanikasuttaṃ, H. 大六處經).[139] Tu tập 37 yếu tố giác ngộ, đặc biệtBát chánh đạo, phát huy sự thấy biết như thật về 6 giác quan, 6 đối tượng giác quan, 6 tiếp xúc… tạo ra cảm giác khổ, vui và trung tính. Người tu tập sẽ không nhiễm đắm bất cứ thứ gì trên đời, nhờ đó, 5 nhóm nhân tính không có mặt trong tương lai, tham ái kết thúc, thân và tâm được an lạc.

  92. Kinh Nói cho dân chúng Nagaravinda (P. Nagaravindeyyasuttaṃ, H. 頻頭城經).[140] Nhờ tu tậpphương pháp, ở nơi an tịnh, không có điều kiện khởi lên sự ham thích hình thái, âm thanh, các mùi, vị, vật thể xúc chạm và đối tượng, các bậc chân tu nỗ lực chuyển hóa tham ái, sân hận, si mê, làm chủ được cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái biết, do vậy, đáng được tôn kínhcúng dường.

  93. Kinh Khất thực thanh tịnh (P. Piṇḍapātapārisuddhisuttaṃ, H. 乞食清淨經).[141] Nhận diện bản chất “không thực thể” trong mọi sự vật, người tu tập khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng của chúng, cần làm chủ tâm, không tạo điều kiện cho tham ái, sân hận, si mê xuất hiện. Tinh tấn soi xét bản thân đã chấm dứt được 5 dục lạc, 5 trói buộc tâm chưa? Luôn tự hỏi bản thân đã tu tập 4 niệm xứ, 4 tinh tấn, 4 như ý túc, 5 năng lực, 7 giác ngộ, thiền định, thiền tuệ hay chưa, để quyết tâm tu tập đạt được trí tuệgiải thoát.

  94. Kinh Căn tu tập (P. Indriyabhāvanāsuttaṃ, H. 根修習經).149 Khác với cách ẩn sĩ Bà-la-môn lánh đời bằng sự bịt mắt, che tai, đức Phật dạy kỹ năng buông bỏ sự dính mắc khi 6 giác quan vẫn tiếp xúc 6 đối tượng hằng ngày, dù hài lòng hay không hài lòng. Các Tăng sĩ nên tinh tấn tu pháp lành, thực hành thiền để không hối hận, trở thành bậc Đạo sư xứng đáng và có trách nhiệm hướng dẫn mọi người giải phóng khổ đau.

Tóm lại, Kinh Trung bộ là một tuyển tập 152 kinh không quá dài và cũng không quá ngắn, bao gồm hầu hết các lĩnh vực Phật giáo như cuộc đời đức Phật (từ quá khứ đến quá trình tầm đạo, tu tậpchứng đắc quả vị tối thượng), nhận thức luận, các phẩm chất đạo đức cao thượng của người xuất gia, đời sống các vị Thánh giả trong Tăng đoàn, lộ trình tu tập thiền định, phương pháp thực tập thiền quán, các trạng thái giải thoát bằng tâm và tuệ, tinh thần độ sanh của bậc Đạo sư, các giai thoại hoằng hóa đặc biệt của đức Phật, các quan điểm sai lầm của ngoại đạo sư (về tự ngã, nghiệp, thế giới, nhân sinh, lộ trình tu học)… Nói tóm lại, 152 bài kinh này đã mô tả gần như đầy đủ bức tranh đời sống Tăng đoàn, triết lý Phật giáo và những vấn đề liên hệ. Theo Hòa thượng Thích Minh Châu, “Kinh Trung bộ là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Kinh tạng Pāli.” “Kinh Trung bộ đặt nặng về phần chánh tri kiến và các phương pháp tu hành, nhất là những phần tế nhị trong địa hạt tu trì của vị Tỷ-kheo.”[142] Hoặc “đọc Kinh Trung bộ, chúng ta đi sâu vào giáo lýtư tưởng, đặt nặng về những phản ứng tâm lý tế nhị của người tu hành khi đạt đến những quả vị tối cao”. Hòa thượng còn cho rằng, “Chưa học Kinh Trung bộ là chưa nắm được tinh hoa của đạo Phật nguyên thủy. Chưa nghiên cứu Kinh Trung bộ rất có thể rơi vào những lệch lạc định nghĩa các danh từ chuyên môn trong đạo Phậtđức Phật đã dày công định nghĩa, mỗi khi Ngài thuyết giảng giáo lý của Ngài.”151
Ấn bản lần này được đánh số theo hệ thống của Viện Nghiên cứu Thiền quán (Vipassana Research Institute) tại Ấn Độ, hay còn gọi là ấn bản của kỳ kết tập Tam tạng Thánh điển Pāli lần thứ sáu, để việc đối chiếu với ấn bản Pāli và các bản dịch quốc tế được thuận lợi hơn. Đồng thời, ấn bản mới này cũng bổ túc thêm một số nội dung trong chú thích hoặc các tựa đề kinh bằng chữ Hán để dễ dàng đối chiếu giữa 152 kinh trong Kinh Trung bộ và 222 kinh trong Trung A-hàm kinh thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ.
 Cầu mong Chánh pháp lan truyền khắp nơi, trời, người và chúng sinh các cõi đều được ân triêm lợi lạc.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 19-9-2019
Thượng tọa THÍCH NHẬT TỪ
(Đồng Tổng Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam)

 


[1] Xem Trung A-hàm kinh 中阿含經 (T.01. 0026. 0421a13).

[2] Trên thực tế chỉ có 2.202 kinh chính thức, số còn lại khác với các kinh trước chỉ là một khái niệm, một thuật ngữ rất nhỏ, nên PTS đã đánh số lược rất nhiều, từ 2 kinh đến trên 1.000 kinh. Đơn cử: 70-117, 118-165, 166213, 214-261, 262-309, 310-357, 358-405, 406-453, 454-501, 503-511, 512-671, 96-622, 626-652, 653-1132.

[3] Kinh Tiểu bộ theo truyền thống Tích Lan chỉ có 15 tập. Trong kỳ kiết tập Tam tạng Theravāda lần thứ 6 tại Miến Điện, bộ Milindapañhā (Mi-tiên vấn đạo) được xếp vào Kinh Tiểu bộ. TTTĐPGVN lần này thêm Milindapañha, nên thành 16 tập.

[4] Lời giới thiệu, tập I, 1973.

[5] 想經 (T.01. 0026.106. 0596b09). Tham chiếuLạc tưởng kinh 樂想經 (T.01. 0056. 0851a23); Tăng. 增 (T.02. 0125.44.6. 0766a04).

[6] 漏盡經 (T.01. 0026.10. 0431c13). Tham chiếuNhất thiết lưu nhiếp thủ nhân kinh 一切流攝守因經 (T.01. 0031. 0813a05); Tăng. 增 (T.02. 0125.40.6. 0740a25).

[7] 求法經 (T.01. 0026.88. 0569c23). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.18.3. 0587c16).  

[8] Tham chiếuTăng. 增 (T. 02. 0125.31.1. 0665b17).

[9] 穢品經 (T.01. 0026.87. 0566a13). Tham chiếuCầu dục kinh 求欲經 (T.01. 0049. 0839a05); Tăng. 增 (T.02. 0125.25.6. 0632a20).

[10] 願經 (T.010026.105. 0595c11).

[11] 水淨梵志經 (T.01. 0026.93. 0575a19). Tham chiếuPhạm chí Kế Thủy Tịnh kinh 梵志計水淨經 (T.01. 0051. 0843c13); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1185. 0321a24); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.98. 0408b25); Tăng. 增 (T.02. 0125.13.5. 0573c01).

[12] 周那問見經 (T.01. 0026.91. 0573b13). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.47.9. 0784a06).

[13] Tham chiếu: 大拘絺羅經 (T.01. 0026.29. 0461b22); Tạp. 雜 (T.02. 0099.344. 0094b02); Tăng. 增 (T.02. 0125.49.5. 0797b14).

[14] 念處經 (T.01. 0026.98. 0582b07). Tham chiếuD. 22, Mahāsatipaṭṭhāna Sutta (Kinh Đại Niệm xứ); Tham chiếuPhân biệt Thánh đế kinh 分別聖諦經 (T.01. 0026.31. 0467a28); Niệm thân kinh 念身經 (T.01. 0026.81. 0554c10); Tứ đế kinh 四諦經 (T.01. 0032. 0814b08); Tăng. 增 (T.02. 0125.12.1. 0568a01).

[15] 狮子吼經 (T.01. 0026.103. 0590b05). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.27.2. 0643c02).

[16] Tham chiếuA.10.21, Sīhanādasuttaṃ (Kinh Sư tử hống); Tạp. 雜 (T.020099.684. 0186b26); Tăng. 增
(T.02. 0125.31.8. 0670c02); Tăng. 增 (T.02. 0125.46.4. 0776b14); Tăng. 增 (T.020125.50.6. 0811a29); Phật thuyết Thân mao hỷ thọ kinh 佛說身毛喜豎經 (T.17. 0757. 0591c11); Tín giải trí lực kinh 信解智力經 (T.17. 0802. 0747a19).

[17] 苦陰經 (T.01. 0026.99. 0584c08). Tham chiếuKhổ ấm kinh 苦陰經 (T.01. 0053. 0846c05); Tăng. 增 (T.02. 0125. 21.9. 0604c07).

[18] 苦陰經 (T.01. 0026.100. 0586b02). Tham chiếuThích Ma-nam bổn tứ tử kinh 釋摩男本四子經 (T.01. 0054. 0848b03); Khổ ấm nhân sự kinh 苦陰因事經 (T.01. 0055. 0849b23); Tăng. 增 (T.02. 0125.41.1. 0744a02).

[19] 比丘請經 (T.01. 0026.89. 0571b29). Tham chiếuThọ tuế kinh 受歲經 (T.01. 0050. 0842b03).

[20] 心穢經 (T.01. 0026.206. 0780b15). Tham chiếuThập thượng kinh 十上經 (T.01. 0001.10. 0052c17); Tăng. 增 (T.02. 0125.51.4. 0817a16).

[21] 林經 (T.01. 0026.107. 0596c25). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.45.3. 0771c17).

[22] 蜜丸喻經 (T.01. 0026.115. 0603b09). Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.304. 0086c23); Tăng. 增 (T.02. 0125.40.10. 0743a04).

[23] 念經 (T.01. 0026.102. 0589a11).

[24] 增上心經 (T.01. 0026.101. 0588a03).

[25] 牟犁破群那經 (T.01. 0026.193. 0744a04). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.50.8. 0813c02).

[26] 阿黎吒經 (T.01. 0026.200. 0763b01). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.43.5. 0759c29).

[27] 蟻喻經 (T.01. 0095. 0918b21); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1079. 0282a22); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.18. 0379c03); Tăng 增 (T.02. 0125.39.9. 0733b12).

[28] 七車經 (T.01. 0026.9. 0429c28). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.39.10. 0733c28).

[29] 獵師經 (T.01. 0026.178. 0718b23).

[30] 羅摩經 (T.01. 0026.204. 0775c07). Tham chiếuBổn sự kinh 本事經 (T.17. 0765.4. 0679b23).

[31] 象跡喻經 (T.01. 0026.146. 0656a14).

[32] 象跡喻經 (T.01. 0026.30. 0464b17).

[33] Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.43.4. 0759a29).

[34] Tăng. 增 (T.02. 0125.43.4. 0759a29).

[35] 牛角婆羅林經 (T.01. 0026.185. 0729b27). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.24.8. 0626b11)

[36] 牛角婆羅林經 (T.01. 0026.184. 0726c25). Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.37.3. 0710c05); Phật thuyết Tỷ-kheo các ngôn chí kinh 佛説比丘各言志經 (T.03. 0154.16. 0080c26).

[37] Tham chiếuA. 11. 18; Tạp. 雜 (T.02. 0099.1249. 0342c11); Phật thuyết Phóng ngưu kinh 佛說放牛經 (T.02. 0123. 0546a13); Tăng. 增 (T.02. 0125.49.1. 0794a07).

[38] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.9-10. 0002a02-a12); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1248. 0342a22); Tăng. 增 (T.02. 0125.43.6. 0761b14).

[39] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.110. 0035a17); Tăng. 增 (T.02. 0125.37.10. 0715a28).

[40] Tham chiếuA-ma-trú kinh 阿摩晝經 (T.01. 0001.20. 0082a06); Phạm động kinh 梵動經 (T.01. 0001.21. 0088b12); Chủng đức kinh 種德經 (T.01. 0001.22. 0094a18); Tăng thượng tâm kinh 增上心經 (T.01. 0026.101. 0588a03); Tăng. 增 (T.02. 0125.31.8. 0670c02); Phật thuyết Thân mao hỷ thọ kinh 佛說身毛喜豎經 (T.17. 0757. 0591c11).

[41] Tham khảoTrưởng lão Thượng Tôn thùy miên kinh 長老上尊睡眠經 (T.01. 0026.83. 0559b27); Phật thuyết Ly thùy kinh 佛說離睡經 (T.01. 0047. 0837a06); Tạp. 雜 (T.02. 0099.505. 0133b24); Tăng. 增 (T.02. 0125.19.3. 0593c13).

[42] 嗏帝經 (T.01. 0026.201. 0766b28). Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.304. 0086c23).

[43] 馬邑經 (T.01. 0026.182. 0724c17). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.49.8. 0801c14).

[44] 馬邑經 (T.01. 0026.183. 0725c16).

[45] Tạp. 雜 (T.02. 0099.1042. 0272c18); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1043. 0273a28).

[46] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.1042. 0272c18); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1043. 0273a28).

[47] 大拘稀羅經 (T.01. 0026.211. 0790b08).

[48] 法樂比丘尼經 (T.01. 0026.210. 0788a14). Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.568. 0150a17).

[49] 受法經 (T.01. 0026.174. 0711b17).

[50] 受法經 (T.01. 0026.175. 0712c04). Tham chiếu: Ứng pháp kinh 應法經 (T.01. 0083. 0902b04).

[51] 求解經 (T.010026.186. 0731a29).

[52] Tham chiếuJ. 428; Vin. I. 338ff; Tăng. 增 (T.02. 0125.24.8. 0626b11); Ngũ phần luật 五分律 (T.22.

[53] .24. 0158c07); Tứ phần luật 四分律 (T.22. 1428.43. 0874c08).

[54] 梵天請佛經 (T.01. 0026.78. 0547a09).

[55] 降魔經 (T.01. 0026.131. 0620b07). Tham chiếuPhật thuyết Ma nhiễu loạn kinh 佛說魔嬈亂經 (T.01. 0066. 0864b02); Tệ ma thí Mục-liên kinh 弊魔試目連經 (T.01. 0067. 0867a02).

[56] A. IV. 198, Attantapasuttaṃ.

[57] 八城經 (T.01. 0026.217. 0802a11). Tham chiếuThập chi cư sĩ bát thành nhân kinh 十支居士八城人經 (T.01. 0092. 0916a17).

[58] 晡利多經 (T.01. 0026.203. 0773a02) 58 優婆離經 (T.010026.133. 0628a18).

[59] Tham chiếuA-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận 阿毘達磨集異門足論 (T.26. 1536.7. 0393c09).

[60] Tham chiếuĐại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.35. 0321b15); Thập trụ Tỳ-bà-sa luận 十住毘婆沙論 (T.26. 1521.11. 0079b01).

[61] Tham chiếuS. 36. 19; Tạp. 雜 (T.02. 0099.485. 0123c21).

[62] Không có kinh tương đương.

[63] 羅云經 (T.01. 0026.14. 0436a12). Tham chiếuPháp cú thí dụ kinhTượng phẩm 法句譬喻經象品 (T.04. 0211.31. 0599c20); Xuất diệu kinhLợi dưỡng phẩm 出曜經利養品 (T.04. 0212.14. 0678b05); Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da 根本說一切有部毘奈耶 (T.23. 1442.24. 0760b16); Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.13. 0158a29).

[64] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.803. 0206a14); Tạp. 雜 (T.02. 0099.815. 0209b15); Tạp A-hàm kinh 雜阿含經 (T.02. 0101.15. 0497a02); Tăng. 增 (T.02. 0125.17.1. 0581c01).

[65] 箭喻經 (T.01. 0026.221. 0804a21). Tham chiếuTiễn dụ đại kinh 箭喻大經 (T.01. 0094. 0917b13); Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.15. 0170a08)..

[66] 五下分結經 (T.01. 0026.205. 0778c09).

[67] 跋陀和利經 (T.01. 0026.194. 0746b18). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.49.7. 0800b27).

[68] 迦樓烏陀夷經 (T.01. 0026.192. 0740c15). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.49.7. 0800b27).

[69] Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.45.2. 0770c13); Xá-lợi-phất Ma-ha Mục-kiền-liên du tứ cù kinh 舍利弗摩訶目犍連遊四衢經 (T.02. 0137. 0860a18).

[70] 娑雞帝三族姓子經 (T.01. 0026.77. 0544b21).

[71] 瞿尼師經 (T.01. 0026.26. 0454c24).

[72] 阿濕貝經 (T.01. 0026.195. 0749c01).

[73] Có nội dung gần giống với M. 72.

[74] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.962. 0245b26); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.196. 0444c29). 75 Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.964. 0246b12); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.198. 0446a11).

[75] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.969. 0249a29); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.203. 0449a04).

[76] 鬚閑提經 (T.01. 0026.153. 0670a26). Tham chiếuPháp cú kinhNê-hoàn phẩm 法句經泥洹品 (T.04. 0210.36. 0573a23); Xuất diệu kinhNê-hoàn phẩm 出曜經泥洹品 (T.04. 0212.27. 0730c06); Pháp tập yếu tụng kinhViên tịch phẩm 法集要頌經圓寂品 (T.04. 0213.26. 0790b16).

[77] Có nội dung giống với M. 60, Apaṇṇakasuttaṃ (Kinh không gì chuyển hướng) và D. 1, Bramajālasuttaṃ (Kinh Phạm võng).

[78] 箭毛經 (T.01. 0026.207. 0781b27). Tham chiếuA-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận 阿毘達磨集異門足論 (T.26. 1536.18. 0440c23).

[79] 五支物主經 (T.01. 0026.179. 0720a28).

[80] 箭毛經 (T.01. 0026.208. 0783c03).

[81] 鞞摩那修經 (T.01. 0026.209. 0786b12). Tham chiếuBệ-ma-túc kinh 鞞摩肅經 (T.01. 0090. 0913c04) 83 鞞婆陵耆經 (T.01. 0026.63. 0499a09). Phật thuyết Khổ hạnh túc duyên kinh 佛説苦行宿緣經 (T.04. 0197.10. 0172c05).

[82] 賴吒和羅經 (T.01. 0026.132. 0623a11). Tham chiếuLại-tra-hòa-la kinh 賴吒和惒經 (T.01. 0068. 0868c23); Hộ Quốc kinh 護國經 (T.01. 0069. 0872a18); Lại-tra-hòa-la kinh 賴吒和惒經 (T.04. 0199.18a. 0196b01).

[83] 大天奈林經 (T.01. 0026.67. 0511c21). Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.50.4. 0806c21); Ma-điều Vương kinh 摩調王經 (T.03. 0152.87. 0048b25).

[84] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.548. 0142a18).

[85] Tham chiếuLa-ma kinh 羅摩經 (T.01. 0026.204. 0775c07); Xuất diệu kinhNhư Lai phẩm 出曜經如來品 (T.04. 0212.22. 0716b16); Pháp tập yếu tụng kinhNhư Lai phẩm 法集要頌經如來品 (T.04. 0213.21. 787b22); Di-sa-tắc bộ Hòa-ê Ngũ phần luật 彌沙塞部和醯五分律 (T.22. 1421.10. 0071c02).

[86] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.1077. 0280c18); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.16. 0378b17); Phật thuyết Ương-quật-ma kinh 佛說鴦掘摩經 (T.02. 0118. 0508b17); Phật thuyết Ương-quật kết kinh 佛說鴦崛髻經 (T.02. 0119. 0510b14); Ương-quật-ma-la kinh 央掘魔羅經 (T.02. 0120. 0512b05); Phật thuyết Nguyệt dụ kinh 佛說月喻經 (T.02. 0121. 0544b12); Tăng. 增 (T.02. 0125.38.6. 0719b20); Hiền ngu kinhVô Não chỉ man phẩm 賢愚經無惱指鬘品 (T.04. 0202.45. 0423b05); Xuất diệu kinhTạp phẩm 出曜經雜品 (T.04. 0212.17. 0702b08); Pháp tập yếu tụng kinhThanh tịnh phẩm 法集要頌經清淨品 (T.04. 0213.16. 0785a15).

[87] 愛生經 (T.01. 0026.216. 0800c20). Tham chiếuPhật thuyết Bà-la-môn tử mệnh chung ái niệm bất ly kinh 佛說婆羅門子命終愛念不離經 (T.01. 0091. 0915a04); Tăng. 增 (T.02. 0125.13.3. 0571b28). 90 鞞訶提經 (T.01. 0026.214. 0797c07).

[88] 法莊嚴經 (T.01. 0026.213. 0795b17). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.38.10. 0724b28); Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự 根本說一切有部毘奈耶雜事 (T.24. 1451.8. 0237a06).

[89] 一切智經 (T.01. 0026.212. 0792c13).

[90] 梵摩經 (T.01. 0026.161. 0685a05). Tham chiếuPhạm-ma dụ kinh 梵摩渝經 (T.01. 0076. 0883b07); Pháp cú kinhPhạm chí phẩm 法句經梵志品 (T.04. 0210.35. 0572b20); Xuất diệu kinhPhạm chí phẩm 出曜經梵志品 (T.04. 0212.34. 0798a01); Pháp tập yếu tụng kinhPhạm chí phẩm 法集要頌經梵志品 (T.04. 0213.33. 0798a01).

[91] Tham chiếu: Sn. 3. 7, SelasuttaThag. 818-41; Tăng. 增 (T.02. 0125.49.6. 0798a25).

[92] 梵志阿攝惒經 (T.01. 0026.151. 0663b25). Tham chiếuPhạm chí Át-ba-la-diên vấn Chủng Tôn kinh 梵志頞波羅延問種尊經 (T.01. 0071. 0876b24); Tăng. 增 (T.02. 0125.40.9. 0742b03).

[93] Tham chiếuM. 51, Kandarakasuttaṃ (Kinh Kandaraka).

[94] 鬱瘦歌邏經 (T.01. 0026.150. 0660c29).

[95] 梵志陀然經 (T.01. 0026.27. 0456a22).

[96] Tham chiếuSn. 3. 9, VāseṭṭhasuttaṃPháp cú kinhPhạm chí phẩm 法句經梵志品 (T.04. 0210.35. 0572b20); Xuất diệu kinhPhạm chí phẩm 出曜經梵志品 (T.04. 0212.34. 0768c14); Pháp tập yếu tụng kinhPhạm chí phẩm 法集要頌經梵志品 (T.04. 0213.34. 0768c14).

[97] 鸚鵡經 (T.01. 0026.152. 0666c26). Tham chiếuAnh Vũ kinh 鸚鵡經 (T.01. 0026.170. 0703c21); Đâuđiều kinh 兜調經 (T.01. 0078. 0887b04); Anh Vũ kinh 鸚鵡經 (T.01. 0079. 0888b15); Phật vị Thủ-ca Trưởng giả thuyết nghiệp báo sai biệt kinh 佛為首迦長者說業報差別經 (T.01. 0080. 0891a17).

[98] Có một phần nội dung tương đồng với M. 26, Ariyapariyesanāsuttaṃ (Kinh Thánh cầu)  M. 36, Mahāsaccakasuttaṃ (Đại kinh Saccaka). Tham chiếuTăng thượng tâm kinh 增上心經 (T.01. 0026.101. 0588a03).

[99] 尼乾經 (T.01. 0026.19. 0442b29), có phần tương đồng với M. 27, Cūḷahatthipadopamasuttaṃ (Tiểu kinh Dụ dấu chân voi).

[100] Tham chiếuD. 1, Brahmajālasuttaṃ (Kinh Phạm võng).

[101] 周那經 (T.01. 0026.196. 0752c11). Tham chiếuTức tránh nhân duyên kinh 息諍因緣經 (T.01. 0085. 0904b27); A-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận 阿毘達磨集異門足論 (T.26. 1536.7. 0428c16).

[102] 淨不動道經 (T.01. 0026.75. 0542b03).

[103] 算數目犍連經 (T.01. 0026.144. 0652a07). Tham chiếuSố kinh 數經 (T.01. 0070. 0875a11).

[104] 瞿默目犍連經 (T.01. 0026.145. 0653c20).

[105] Tham chiếuS. 22. 82, Puṇṇamā (Mãn nguyệt); Tạp. 雜 (T.02. 0099.58. 0014b12).

[106] Có nội dung giống như A. II. 179; IV. 187. 110 說智經 (T.01. 0026.187. 0732a21).

[107] 真人經 (T.01. 0026.85. 0561a20). Tham chiếuThị pháp phi pháp kinh 是法非法經 (T.01. 0048. 0837c21); Tăng. 增 (T.02. 0125.17.9. 0585a18).

[108] Tham chiếu:自觀心經 (T.01. 0026.109. 0598b07).

[109] 多界經 (T.01. 0026.181. 0723a08). Tham chiếuPhật thuyết Tứ phẩm pháp môn kinh 佛說四品法門經 (T.17. 0776. 0712b10); Tạp. 雜 (T.02. 0099.451. 0115c27).

[110] Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.38.7. 0723a06). 115 聖道經 (T.01. 0026.189. 0735b27).

[111] Tham chiếuPhật thuyết Trị ý kinh 佛說治意經 (T.01. 0096. 0919a22); Tạp. 雜 (T.02. 0099.810. 0208a09).

[112] 念身經 (T.01. 0026.81. 0554c10). Tham chiếuNiệm xứ kinh 念處經 (T.01. 0026.98. 0582b07); Tăng. 增 (T.02. 0125.12.1. 0568a01).

[113] 意行經 (T.01. 0026.168. 0700b24). 119 小空經 (T.01. 0026.190. 0736c27). 120 大空經 (T.01. 0026.191. 0738a03).

[114] 未曾有法經 (T.01. 0026.32. 0469c20).

[115] 薄拘羅經 (T.01. 0026.34. 0475a11).

[116] 調御地經 (T.01. 0026.198. 0757a03).

[117] 浮彌經 (T.01. 0026.173. 0709c22).

[118] 有勝天經 (T.01. 0026.79. 0549b03).

[119] 長壽王本起經 (T.01. 0026.72. 0532c09). Tham chiếuTăng. 增 (T.02. 0125.24.8. 0626b11)

[120] 癡慧地經 (T.01. 0026.199. 0759a19). Tham chiếuPhật thuyết Nê-lê kinh 佛說泥犁經 (T.01. 0086. 0907a10).

[121] 天使經 (T.01. 0026.64. 0503a21). Tham chiếuThiết thành Nê-lê kinh 鐵城泥梨經 (T.01. 0042. 0826c26); Diêm-la Vương ngũ thiên sứ giả kinh 閻羅王五天使者經 (T.01. 0043. 0828b12); Tăng. 增 (T.02. 0125.32.4. 0674b16).

[122] 阿難說經 (T.01. 0026.167. 0699c27).

[123] 溫泉林天經 (T.01. 0026.165. 0696b26). Giống nội dung kinh 131, 132. Tham chiếuPhật thuyết Thiện dạ kinh 佛說善夜經 (T.21. 1362. 0881c03).

[124] 釋中禪室尊經 (T.01. 0026.166. 0698c03). Tham chiếuTôn thượng kinh 尊上經 (T.01. 0077. 0886a25).

[125] 鸚鵡經 (T.01. 0026.170. 0703c21). Tham chiếuĐâu-điều kinh 兜調經 (T.01. 0078. 0887b04); Anh Vũ kinh 鸚鵡經 (T.01. 0079. 0888b15); Phật vị Thủ-ca Trưởng giả thuyết nghiệp báo sai biệt kinh 佛為首迦長者說業報差別經 (T.01. 0080. 0891a17); Phân biệt thiện ác báo ứng kinh 分別善惡報應經 (T.01. 0081. 0895b25).

[126] 分別大業經 (T.01. 0026.171. 0706b12). Tham chiếuĐại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.24b. 0238b12).

[127] 分別六處經 (T.01. 0026.163. 0692b22). Tham chiếuA-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận 阿毘達磨集異門足論 (T.26. 1536.18. 0440c23).

[128] 分別觀法經 (T.01. 0026.164. 0694b13). Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.43. 0010c19); Tạp. 雜 (T.02. 0099.66. 0017b16).

[129] 拘樓瘦無諍經 (T.01. 0026.169. 0701b22).

[130] 分別六界經 (T.01. 0026.162. 0690a19). Tham chiếuPhật thuyết Bình-sa Vương ngũ nguyện kinh 佛說蓱沙王五願經 (T.14. 0511. 0779a06).

[131] 分別聖諦經 (T.01. 0026.31. 0467a28). Tham chiếuTứ đế kinh 四諦經 (T.01. 0032. 0814b08); Tăng. 增 (T.02. 0125.27.1. 0643a26).

[132] 瞿曇彌經 (T.01. 0026.180. 0721c21). Tham chiếuPhân biệt bố thí kinh 分別布施經 (T.01. 0084. 0903b23); Hiền ngu kinhBa-bà-ly phẩm 賢愚經波婆離品 (T.04. 0202.50. 0434a01); Tạp bảo tạng kinhThập xa vương duyên 雜寶藏經十奢王緣 (T.04. 0203.1. 0447a16).

[133] 教化病經 (T.01. 0026.28. 0458b28). Tham chiếuS. 55. 26; Tạp. 雜 (T.02. 0099.1032. 0269c08); Tăng. 增 (T.02. 0125.51.8. 0819b11).

[134] Tham chiếuS. 35. 87; Tạp. 雜 (T.02. 0099.1266. 0347b14).

[135] Tham chiếuS. 35. 88; Tạp. 雜 (T.02. 0099.311. 0089b01); Phật thuyết Mãn nguyện tử kinh 佛說滿願子經 (T.02. 0108. 0502c05).

[136] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.276. 0073c09).

[137] Tham chiếuS. 35.121; Tạp. 雜 (T.02. 0099.200. 0051a15).

[138] 說處經 (T.01. 0026.86. 0562a19). Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.304. 0086c23).

[139] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.305. 0087a27).

[140] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.280. 0076c03).

[141] Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.236. 0057b03); Tăng. 增 (T.02. 0125.45.6. 0773b20). 149 Tham chiếuTạp. 雜 (T.02. 0099.282. 0078a22).

[142] Lời giới thiệu, tập III, 1974. 151 Lời giới thiệu, tập I, 1986.


PDF icon (4)

000.-Phần-Mở-Đầu
001.-Kinh-Pháp-Môn-Căn-Bản-(Mūlapariyāya-Sutta)
002.-Kinh-Tất-Cả-Các-Lậu-Hoặc-(Sabbāsava-Sutta)
003.-Kinh-Thừa-Tự-Pháp-(Dhammadāyāda-Sutta)
004.-Kinh-Sợ-Hãi-và-Khiếp-Đảm-(Bhayabherava-Sutta)
005.-Kinh-Không-Uế-Nhiễm-(Anaṅgaṇa-Sutta)
006.-Kinh-Ước-Nguyện-(Ākaṅkheyya-Sutta)
007.-Kinh-Ví-Dụ-Tấm-Vải-(Vatthūpama-Sutta)
008.-Kinh-Đoạn-Giảm-(Sallekha-Sutta)
009.-Kinh-Chánh-Tri-Kiến-(Sammādiṭṭhi-Sutta)
010.-Kinh-Niệm-Xứ-(Satipaṭṭhāna-Sutta)
011.-Tiểu-Kinh-Sư-Tử-Hống-(Cūḷasīhanāda-Sutta)
012.-Đại-Kinh-Sư-Tử-Hống-(Mahāsīhanāda-Sutta)
013.-Đại-Kinh-Khổ-Uẩn-(Mahādukkhakkhandha-Sutta)
014.-Tiểu-Kinh-Khổ-Uẩn-(Cūḷadukkhakkhandha-Sutta)
015.-Kinh-Tư-Lượng-(Anumāna-Sutta)
016.-Kinh-Tâm-Hoang-Vu-(Cetokhila-Sutta)
017.-Kinh-Khu-Rừng-(Vanapattha-Sutta)
018.-Kinh-Mật-Hoàn-(Madhupiṇḍika-Sutta)
019.-Kinh-Song-Tầm-(Dvedhāvitakka-Sutta)
020.-Kinh-An-Trú-Tầm-(Vitakkasaṇṭhāna-Sutta)
021.-Kinh-Ví-Dụ-Cái-Cưa-(Kakacūpama-Sutta)
022.-Kinh-Ví-Dụ-Con-Rắn-(Alagaddūpama-Sutta)
023.-Kinh-Gò-Mối-(Vammika-Sutta)
024.-Kinh-Trạm-Xe-(Rathavinīta-Sutta)
025.-Kinh-Bẫy-Mồi-(Nivāpa-Sutta)
026.-Kinh-Thánh-Cầu-(Ariyapariyesanā-Sutta)
027.-Tiểu-Kinh-Dụ-Dấu-Chân-Voi-(Cūḷahatthipadopama-Sutta)
028.-Đại-Kinh-Dụ-Dấu-Chân-Voi-(Mahāhatthipadopama-Sutta)
029.-Đại-Kinh-Thí-Dụ-Lõi-Cây-(Mahāsāropama-Sutta)
030.-Tiểu-Kinh-Thí-Dụ-Lõi-Cây-(Cūḷasāropama-Sutta)
031.-Tiểu-Kinh-Rừng-Sừng-Bò-(Cūḷagosiṅga-Sutta)
032.-Đại-Kinh-Rừng-Sừng-Bò-(Mahāgosiṅga-Sutta)
033.-Đại-Kinh-Người-Chăn-Bò-(Mahāgopālaka-Sutta)
034.-Tiểu-Kinh-Người-Chăn-Bò-(Cūḷagopālaka-Sutta)
035.-Tiểu-Kinh-Saccaka-(Cūḷasaccaka-Sutta)
036.-Đại-Kinh-Saccaka-(Mahāsaccaka-Sutta)
037.-Tiểu-Kinh-Đoạn-Tận-Ái-(Cūḷataṇhāsaṅkhaya-Sutta)
038.-Đại-Kinh-Đoạn-Tận-Ái-(Mahātaṇhāsaṅkhaya-Sutta)
039.-Đại-Kinh-Xóm-Ngựa-(Mahāassapura-Sutta)
040.-Tiểu-Kinh-Xóm-Ngựa-(Cūḷaassapura-Sutta)
041.-Kinh-Sāleyyaka-(Sāleyyaka-Sutta)
042.-Kinh-Verañjaka-(Verañjaka-Sutta)
043.-Đại-Kinh-Phương-Quảng-(Mahāvedalla-Sutta)
044.-Tiểu-Kinh-Phương-Quảng-(Cūḷavedalla-Sutta)
045.-Tiểu-Kinh-Pháp-Hành-(Cūḷadhammasamādāna-Sutta)
046.-Đại-Kinh-Pháp-Hành-(Mahādhammasamādāna-Sutta)
046.-Đại-Kinh-Pháp-Hành-(Mahādhammasamādāna-Sutta)
047.-Kinh-Tư-Sát-(Vīmaṃsaka-Sutta)
048.-Kinh-Kosambiya-(Kosambiya-Sutta)
049.-Kinh-Phạm-Thiên-Cầu-Thỉnh-(Brahmanimantanika-Sutta)
050.-Kinh-Hàng-Ma-(Māratajjanīya-Sutta)
051.-Kinh-Kandaraka-(Kandaraka-Sutta)
052.-Kinh-Bát-Thành-(Aṭṭhakanāgara-Sutta)
053.-Kinh-Hữu-Học-(Sekha-Sutta)
054.-Kinh-Potaliya-(Potaliya-Sutta)
055.-Kinh-Jīvaka-(Jīvaka-Sutta)
056.-Kinh-Ưu-ba-ly-(Upāli-Sutta)
057.-Kinh-Hạnh-Con-Chó-(Kukkuravatika-Sutta)
058.-Kinh-Vương-Tử-Vô-Úy-(Abhayarājakumāra-Sutta)
059.-Kinh-Nhiều-Cảm-Thọ-(Bahuvedanīya-Sutta)
060.-Kinh-Không-Gì-Chuyển-Hướng-(Apaṇṇaka-Sutta)
061.-Kinh-Giáo-Giới-La-hầu-la-ở-Rừng-Am-bà-la-(Ambalaṭṭhikārāhulovāda-Sutta)
062.-Đại-Kinh-Giáo-Giới-La-hầu-la-(Mahārāhulovāda-Sutta)
063.-Tiểu-Kinh-Māluṅkyā-(Cūḷamāluṅkya-Sutta)
064.-Đại-Kinh-Māluṅkyā-(Mahāmāluṅkya-Sutta)
065.-Kinh-Bhaddāli-(Bhaddāli-Sutta)
066.-Kinh-Ví-Dụ-Con-Chim-Cáy-(Laṭukikopama-Sutta)
067.-Kinh-Cātumā-(Cātumā-Sutta)
068.-Kinh-Naḷakapāna-(Naḷakapāna-Sutta)
069.-Kinh-Goliyāni-(Guliyāni-Sutta)
070.-Kinh-Kīṭāgiri-(Kīṭāgiri-Sutta)
071.-Kinh-Tam-Minh-Vacchagotta-(Tevijjavacchagotta-Sutta)
072.-Kinh-Aggivacchagotta-(Aggivacchagotta-Sutta)
073.-Đại-Kinh-Vaccaghotta-(Mahāvacchagotta-Sutta)
074.-Kinh-Trường-Trảo-(Dīghanakha-Sutta)
075.-Kinh-Māgaṇḍiya-Māgaṇḍiya-Sutta)
076.-Kinh-Sandaka-(Sandaka-Sutta)
077.-Đại-Kinh-Sakuludāyi-(Mahāsakuludāyi-Sutta)
078.-Kinh-Samaṇamaṇḍika-(Samaṇamaṇḍika-Sutta)
079.-Tiểu-Kinh-Sakuludāyi-(Cūḷasakuludāyi-Sutta)
080.-Kinh-Vekhanassa-(Vekhanassa-Sutta)
081.-Kinh-Ghaṭikāra-(Ghaṭikāra-Sutta)
082.-Kinh-Raṭṭhapāla-(Raṭṭhapāla-Sutta)
083.-Kinh-Makhādeva-(Makhādeva-Sutta)
084.-Kinh-Madhurā-(Madhurā-Sutta)
085.-Kinh-Vương-Tử-Bồ-Đề-(Bodhirājakumāra-Sutta)
086.-Kinh-Aṅgulimāla-(Aṅgulimāla-Sutta)
087.-Kinh-Ái-Sanh-(Piyajātika-Sutta)
088.-Kinh-Bāhitika-(Bāhitika-Sutta)
089.-Kinh-Pháp-Trang-Nghiêm-(Dhammacetiya-Sutta)
090.-Kinh-Kaṇṇakatthala-(Kaṇṇakatthala-Sutta)
091.-Kinh-Brahmāyu-(Brahmāyu-Sutta)
092.-Kinh-Sela-(Sela-Sutta)
093.-Kinh-Assalāyana-(Assalāyana-Sutta)
094.-Kinh-Ghoṭamukha-(Ghoṭamukha-Sutta)
095.-Kinh-Caṅkī-(Caṅkī-Sutta)
096.-Kinh-Esukārī-(Esukārī-Sutta)
097.-Kinh-Dhānañjāni-(Dhānañjāni-Sutta)
098.-Kinh-Vāseṭṭha-(Vāseṭṭha-Sutta)
099.-Kinh-Subha-(Subha-Sutta)
100.-Kinh-Saṅgārava-(Saṅgārava-Sutta)
101.-Kinh-Devadaha-(Devadaha-Sutta)
102.-Kinh-Năm-và-Ba-(Pañcattaya-Sutta)
103.-Kinh-Như-Thế-Nào-(Kinti-Sutta)
104.-Kinh-Làng-Sāma-(Sāmagāma-Sutta)
105.-Kinh-Thiện-Tinh-(Sunakkhatta-Sutta)
106.-Kinh-Bất-Động-Lợi-Ích-(Āneñjasappāya-Sutta)
107.-Kinh-Gaṇaka-Moggallāna-(Gaṇakamoggallāna-Sutta)
108.-Kinh-Gopaka-Moggallāna-(Gopakamoggallāna-Sutta)
109.-Đại-Kinh-Mãn-Nguyệt-(Mahāpuṇṇama-Sutta)
110.-Tiểu-Kinh-Mãn-Nguyệt-(Cūḷapuṇṇama-Sutta)
111.-Kinh-Bất-Đoạn-(Anupada-Sutta)
112.-Kinh-Sáu-Thanh-Tịnh-(Chabbisodhana-Sutta)
113.-Kinh-Chân-Nhân-(Sappurisa-Sutta)
114.-Kinh-Nên-Hành-Trì,-Không-Nên-Hành-Trì-(Sevitabba-asevitabba-Sutta)
115.-Kinh-Đa-Giới-(Bahudhātuka-Sutta)
116.-Kinh-Thôn-Tiên-(Isigili-Sutta)
117.-Đại-Kinh-Bốn-Mươi-(Mahācattārīsaka-Sutta)
118.-Kinh-Nhập-Tức-Xuất-Tức-Niệm-[Quán-Niệm-Hơi-Thở]-(Ānāpānasati-Sutta)
119.-Kinh-Thân-Hành-Niệm-(Kāyagatāsati-Sutta)
120.-Kinh-Hành-Sanh-(Saṅkhārupapatti-Sutta)
121.-Kinh-Tiểu-Không-(Cūḷasuññata-Sutta)
122.-Kinh-Đại-Không-(Mahāsuññata-Sutta)
123.-Kinh-Hy-Hữu,-Vị-Tằng-Hữu-Pháp-(Acchariya-AbbhutaDhamma-Sutta)
124.-Kinh-Bạc-câu-la-(Bakkula-Sutta)
125.-Kinh-Điều-Ngự-Địa-(Dantabhūmi-Sutta)
126.-Kinh-Phù-di-(Bhūmija-Sutta)
127.-Kinh-A-na-luật-(Anuruddha-Sutta)
128.-Kinh-Tùy-Phiền-Não-(Upakkilesa-Sutta)
130.-Kinh-Thiên-Sứ-(Devadūta-Sutta)
131.-Kinh-Nhất-Dạ-Hiền-Giả-(Bhaddekaratta-Sutta)
132.-Kinh-A-nan-Nhất-Dạ-Hiền-Giả-(Ānandabhaddekaratta-Sutta)
133.-Kinh-Đại-Ca-chiên-diên-Nhất-Dạ-Hiền-Giả-(Mahākaccānabhaddekaratta-Sutta)
134.-Kinh-Lomasakaṅgiya-Nhất-Dạ-Hiền-Giả-(Lomasakaṅgiyabhaddekaratta-Sutta)
135.-Tiểu-Kinh-Nghiệp-Phân-Biệt-(Cūḷakammavibhaṅga-Sutta)
136.-Đại-Kinh-Nghiệp-Phân-Biệt-(Mahākammavibhaṅga-Sutta)
137.-Kinh-Phân-Biệt-Sáu-Xứ-(Saḷāyatanavibhaṅga-Sutta)
138.-Kinh-Tổng-Thuyết-và-Biệt-Thuyết-(Uddesavibhaṅga-Sutta)
139.-Kinh-Vô-Tránh-Phân-Biệt-(Araṇavibhaṅga-Sutta)
140.-Kinh-Giới-Phân-Biệt-(Dhātuvibhaṅga-Sutta)
141.-Kinh-Phân-Biệt-về-Sự-Thật-(Saccavibhaṅga-Sutta)
142.-Kinh-Phân-Biệt-Cúng-Dường-(Dakkhiṇāvibhaṅga-Sutta)
143.-Kinh-Giáo-Giới-Cấp-Cô-Độc-(Anāthapiṇḍikovāda-Sutta)
144.-Kinh-Giáo-Giới-Channa-(Channovāda-Sutta)
145.-Kinh-Giáo-Giới-Phú-lâu-na-(Puṇṇovāda-Sutta)
146.-Kinh-Giáo-Giới-Nandaka-(Nandakovāda-Sutta)
147.-Tiểu-Kinh-Giáo-Giới-La-hầu-la-(Cūḷarāhulovāda-Sutta)
148.-Kinh-Sáu-Sáu-(Chachakka-Sutta)
149.-Đại-Kinh-Sáu-Xứ-(Mahāsaḷāyatanika-Sutta)
150.-Kinh-Nói-cho-Dân-Chúng-Nagaravinda-(Nagaravindeyya-Sutta)
151.-Kinh-Khất-Thực-Thanh-Tịnh-(Piṇḍapātapārisuddhi-Sutta)
152.-Kinh-Căn-Tu-Tập-(Indriyabhāvanā-Sutta)
Phụ-Lục



Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
10/08/2011(Xem: 44914)
18/04/2016(Xem: 25507)
02/04/2016(Xem: 9774)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.