Tập 13 (Quyển 301-313)

08/05/201012:00 SA(Xem: 26154)
Tập 13 (Quyển 301-313)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 13 (Quyển 301-313)

 XXXIX. PHẨM KHÓ NGHE CÔNG ĐỨC

05

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với bố thí Ba-la-mật-đa chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với pháp không nội chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với chơn như chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với Thánh đế khổ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với bốn tịnh lự chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với tám giải thoát chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với bốn niệm trụ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với pháp môn giải thoát không chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với mười địa Bồ-tát chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với năm loại mắt chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với sáu phép thần thông chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với mười lực Phật chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với pháp không quên mất chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với tánh luôn luôn xả chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với trí nhất thiết chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả Dự-lưu chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn; đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị Độc-giác chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nghĩa lý sâu xa ai có thể tin hiểu?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào từ lâu đã tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu, thì đại Bồ-tát ấy có thể tin hiểu Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như vậy nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt sắc, chẳng tư duy phân biệt thọ, tưởng, hành, thức; chẳng tư duy phân biệt tướng của sắc, chẳng tư duy phân biệt tướng của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng tư duy phân biệt tánh của sắc, chẳng tư duy phân biệt tánh của thọ, tưởng, hành, thức là vì sao? Vì sắc cho đến thức chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt nhãn xứ, chẳng tư duy phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng tư duy phân biệt tướng của nhãn xứ, chẳng tư duy phân biệt tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng tư duy phân biệt tánh của nhãn xứ, chẳng tư duy phân biệt tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt sắc xứ, chẳng tư duy phân biệt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng tư duy phân biệt tướng của sắc xứ, chẳng tư duy phân biệt tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng tư duy phân biệt tánh của sắc xứ, chẳng tư duy phân biệt tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt nhãn giới; chẳng tư duy phân biệt sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của nhãn giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của nhãn giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vì sao? Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt nhĩ giới; chẳng tư duy phân biệt thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của nhĩ giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của nhĩ giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vì sao? Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt tỷ giới; chẳng tư duy phân biệt hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của tỷ giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của tỷ giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vì sao? Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu .

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt thiệt giới; chẳng tư duy phân biệt vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của thiệt giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của thiệt giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vì sao? Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt thân giới; chẳng tư duy phân biệt xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của thân giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của thân giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của xúc giới, cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vì sao? Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt ý giới; chẳng tư duy phân biệt pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tướng của ý giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng tư duy phân biệt tánh của ý giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vì sao? Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt địa giới, chẳng tư duy phân biệt thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng tư duy phân biệt tướng của địa giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng tư duy phân biệt tánh của địa giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vì sao? Vì địa giới cho đến thức giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt vô minh; chẳng tư duy phân biệt hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng tư duy phân biệt tướng của vô minh, chẳng tư duy phân biệt tướng của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng tư duy phân biệt tánh của vô minh, chẳng tư duy phân biệt tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt Dục giới, chẳng tư duy phân biệt Sắc giới, Vô Sắc giới; chẳng tư duy phân biệt tướng của Dục giới, chẳng tư duy phân biệt tướng của Sắc giới, Vô Sắc giới; chẳng tư duy phân biệt tánh của Dục giới, chẳng tư duy phân biệt tánh của Sắc giới, Vô Sắc giới là vì sao? Vì Dục giới, Sắc giới,Vô Sắc giới chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh tự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng tư duy phân biệt tướng của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt tướng của tịnh giới cho đến tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng tư duy phân biệt tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy phân biệt tánh của tịnh giới cho đến tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt pháp không nội; chẳng tư duy phân biệt pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp không nội, chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp không nội, chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là vì sao? Vì pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt chơn như; chẳng tư duy phân biệt pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng tư duy phân biệt tướng của chơn như, chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chẳng tư duy phân biệt tánh của chơn như, chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là vì sao? Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt Thánh đế khổ, chẳng tư duy phân biệt Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng tư duy phân biệt tướng của Thánh đế khổ, chẳng tư duy phân biệt tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng tư duy phân biệt tánh của Thánh đế khổ, chẳng tư duy phân biệt tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là vì sao? Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt bốn tịnh lự; chẳng tư duy phân biệt bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn tịnh lự; chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn tịnh lự; chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt tám giải thoát; chẳng tư duy phân biệt tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng tư duy phân biệt tướng của tám giải thoát; chẳng tư duy phân biệt tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng tư duy phân biệt tánh của tám giải thoát; chẳng tư duy phân biệt tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vì sao? Vì tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt bốn niệm trụ; chẳng tư duy phân biệt bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn niệm trụ; chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn niệm trụ, chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt pháp môn giải thoát không; chẳng tư duy phân biệt pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp môn giải thoát không; chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp môn giải thoát không; chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt mười địa Bồ-tát; chẳng tư duy phân biệt tướng của mười địa Bồ-tát; chẳng tư duy phân biệt tánh của mười địa Bồ-tát là vì sao? Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt năm loại mắt, chẳng tư duy phân biệt sáu phép thần thông; chẳng tư duy phân biệt tướng của năm loại mắt, chẳng tư duy phân biệt tướng của sáu phép thần thông; chẳng tư duy phân biệt tánh của năm loại mắt, chẳng tư duy phân biệt tánh của sáu phép thần thông là vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt mười lực Phật; chẳng tư duy phân biệt bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng tư duy phân biệt tướng của mười lực Phật, chẳng tư duy phân biệt tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng tư duy phân biệt tánh của mười lực Phật, chẳng tư duy phân biệt tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là vì sao? Vì mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt pháp không quên mất, chẳng tư duy phân biệt tánh của luôn luôn xả; chẳng tư duy phân biệt tướng của pháp không quên mất, chẳng tư duy phân biệt tướng của tánh luôn luôn xả; chẳng tư duy phân biệt tánh của pháp không quên mất, chẳng tư duy phân biệt tánh của tánh luôn luôn xả là vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt trí nhất thiết; chẳng tư duy phân biệt trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng tư duy phân biệt tướng của trí nhất thiết; chẳng tư duy phân biệt tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng tư duy phân biệt tánh của trí nhất thiết; chẳng tư duy phân biệt tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy phân biệt tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng tư duy phân biệt tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy phân biệt tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng tư duy phân biệt tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy phân biệt tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt quả Dự-lưu; chẳng tư duy phân biệt quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng tư duy phân biệt tướng của quả Dự-lưu; chẳng tư duy phân biệt tướng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng tư duy phân biệt tánh của quả Dự-lưu; chẳng tư duy phân biệt tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là vì sao? Vì quả Dự-lưu, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết Đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt quả vị Độc-giác; chẳng tư duy phân biệt phân biệt tướng quả vị Độc-giác; chẳng tư duy phân biệt tánh của quả vị Độc-giác là vì sao? Vì quả vị Độc-giác chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt tất cả hạnh đại Bồ-tát; chẳng tư duy phân biệt tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát; chẳng tư duy phân biệt tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát là vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng tư duy phân biệt quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; chẳng tư duy phân biệt tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; chẳng tư duy phân biệt tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ-tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy rất là sâu xa.

Phật dạy: Đúng vậy! Này Thiện Hiện! Vì sắc sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì thọ, tưởng, hành, thức sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì thân giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì ý giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì địa giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì vô minh sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì Thánh đế tập, diệt, đạo sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì sáu phép thần thông sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì tánh luôn luôn xả sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Vì vậy nên gọi Bát-nhã-ba-la-mật-đa là rất sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là khối báu lớn?

Phật dạy: Đúng vậy! Vì Bát-nhã có khả năng ban cho hữu tình báu công đức.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, các thánh đế.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười địa Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu quả vị Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Khối châu báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Vì vậy nên gọi Bát-nhã-ba-la-mật-đa là khối báu lớn.

Quyển Thứ 301
HẾT

 

XXXIX. PHẨM KHÓ NGHE CÔNG ĐỨC

06

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là một tập hợp của sự thanh tịnh.

Phật dạy: Đúng vậy! Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì thân giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì ý giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì địa giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì vô minh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Vì vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa được gọi là một tập hợp của sự thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Rất kỳ đặc! Bạch Thiện Thệ! Rất hy hữu! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy vì rất sâu xa nên có nhiều trở ngại, nhưng nay rộng nói thì trở ngại chẳng sanh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều trở ngại, nhưng nhờ thần lực Phật, nên nay rộng nói mà trở ngại chẳng sanh. Vì vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn Đại-thừa đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này nếu muốn sao chép thì nên sao chép ngay; nếu muốn đọc tụng thì nên đọc tụng ngay; nếu muốn thọ trì thì nên thọ trì ngay; nếu muốn tu tập thì nên tu tập ngay; nếu muốn tư duy thì nên tư duy ngay; nếu muốn tuyên thuyết thì nên tuyên thuyết ngay. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều trở ngại nên chớ trì trệ để sự trở ngại phát khởi khiến người sao chép, đọc tụng, thọ trì, tu tập, tư duy, vì người diễn nói chẳng được rốt ráo.

Này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, nếu muốn trong một tháng, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy cho đến một năm sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy được rốt ráo thì nên siêng năng tinh tấn, gắn chặt tâm niệm vào việc sao chép kinh trong suốt thời gian ấy, sẽ được cứu cánh.

Này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, nếu muốn trong một tháng, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy tháng cho đến một năm, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói để đạt được cứu cánh thì nên chuyên cần tinh tấn gắn chặt tâm niệm vào việc thọ trì cho đến tuyên thuyết suốt thời gian ấy, sẽ được cứu cánh. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy là bảo châu vô giá, có nhiều trở ngại .

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Rất kỳ đặc! Bạch Thiện Thệ! Rất hy hữu! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xabảo châu vô giá, có nhiều trở ngại ấy, có người sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói; lại có ác ma đối với người ấy muốn gây trở ngại khiến không sao chép cho đến diễn nói được?

 

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ác ma đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, tuy muốn gây trở ngại khiến không sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói được nhưng chúng không đủ sức có thể làm trở ngại việc sao chép, thọ trì Bát nhã của đại Bồ-tát ấy.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Do thần lực của ai mà khiến cho ác ma kia không thể gây trở ngại các đại Bồ-tát sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa?

Này Xá Lợi Tử! Do thần lực của Phật khiến cho ác ma kia chẳng thể làm trở ngại các đại Bồ-tát sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Cũng do thần lực của tất cả chư Phật trong mười phương thế giới, khiến ác ma kia chẳng thể làm trở ngại các đại Bồ-tát sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Vì chư Phật Thế Tôn đều cùng hộ niệm các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa khiến ác ma kia chẳng thể làm trở ngại tất cả chúng đại Bồ-tát, khiến chẳng thể sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, vì người rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì chư Phật Thế Tôn đều cùng hộ niệm các chúng Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa tạo các thiện nghiệp khiến cho ác ma kia chẳng thể làm trở ngại.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói thì như vậy đáng được vô lượng, vô số, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp trong mười phương thế giới hộ niệm. Nếu được chư Phật hộ niệm thì đương nhiên ác ma chẳng thể gây trở ngại.

Này Xá Lợi Tử! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, nên nghĩ thế này: Ta nay sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, đều được thần lực của vô lượng, vô số, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp trong mười phương hộ niệm.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, tất cả đều được thần lực của chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới hộ niệm, khiến cho thiện nghiệp thù thắng của kẻ ấy tạo được, tất cả ác ma chẳng thể gây trở ngại.

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Này Xá Lợi Tử! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói thì nên biết đều là thần lực của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hộ niệm.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói đều được vô lượng, vô số, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp trong mười phương thế giới biết đến thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy đã sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; do nhân duyên này mà hoan hỷ hộ niệm.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy luôn được Phật nhãn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết phápvô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương xem thấy; do nhân duyên này mà từ bi hộ niệm.

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Này Xá Lợi Tử! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, thường được Phật nhãn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết phápvô số, vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương xem thấy, biết đến, hộ niệm, khiến cho các ác ma chẳng thể gây trở ngại, các thiện nghiệp đang tu mau được thành tựu.

Này Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn an trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói thì nên biết, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, đã gần đạt đến quả vị giác ngộ cao tột; các ác ma sợ hãi, chẳng dám gây trở ngại.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn an trụ Bồ-tát thừa, nếu thường sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, dùng đủ các thứ để trang nghiêm, thọ trì, đọc tụng thì nên biết thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này phát sanh lòng tin hiểu sâu xa. Nếu lại đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, dùng các loại hương hoa, tràng phan, bảo cái, y phục, anh lạc, kỹ nhạc, đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì nên biết thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy thường được Phật nhãn của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xem thấy, biết được, hộ niệm; do nhân duyên ấy nhất định sẽ đạt được tài sản lớn, thắng lợi lớn và thành quả lớn.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy vì thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên do thiện căn này mà cho đến khi đạt được địa vị không thối chuyển, ở khoảng giữa, thường chẳng lìa Phật, luôn nghe chánh pháp, chẳng đọa ác thú.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa bố thí Ba-la-mật-đa; thường chẳng xa lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa pháp không nội; thường chẳng xa lìa pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa chơn như; thường chẳng xa lìa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa Thánh đế khổ, thường chẳng xa lìa Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa bốn tịnh lự; thường chẳng xa lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa tám giải thoát; thường chẳng xa lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa bốn niệm trụ; thường chẳng xa lìa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa pháp môn giải thoát không; thường chẳng xa lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa việc tu năm loại mắt, thường chẳng xa lìa việc tu sáu phép thần thông.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa việc tu mười lực Phật; thường chẳng xa lìa việc tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa việc tu pháp không quên mất, thường chẳng xa lìa việc tu tánh luôn luôn xả.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa việc tu trí nhất thiết; thường chẳng xa lìa việc tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa việc tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, thường chẳng xa lìa việc tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa phương tiện thiện xảo, dạy các hữu tình đắc quả Dự-lưu mà tự mình chẳng chứng; thường chẳng xa lìa phương tiện thiện xảo, dạy các hữu tình đắc quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà tự mình chẳng chứng.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa phương tiện thiện xảo, dạy các hữu tình đắc quả vị Độc-giác mà tự mình chẳng chứng.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa thần thông tự tại du hý của Bồ-tát, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các chúng đại Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa việc nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa thần thông tự tại, dạo chơi các cõi Phật, khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do thiện căn này cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột thường chẳng xa lìa tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên siêng năng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa sẽ hưng thịnh ở phương nào?

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Sau khi ta diệt độ, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, sẽ đến phương Đông nam, dần dần hưng thịnh. Phương ấy sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, phát sanh tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói; lại dùng các thứ tràng hoa tuyệt diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy. Do những thiện căn thù thắng như thế, cuối cùng họ chẳng đọa vào đường hiểm ác, thường sanh cõi trời, người, được hưởng giàu sang, an lạc; do thế lực này, sáu phép Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau viên mãn. Nhơn đó lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; về sau tùy theo sự thích hợp, nương pháp Ba thừa, lần lượt tu tập hạnh xuất ly.

Này Xá Lợi Tử! Sau khi ta diệt độ, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, từ phương Đông nam chuyển đến phương Nam, sẽ dần dần hưng thịnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường sanh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa tuyệt diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy. Do các thiện căn thù thắng ấy, nên cuối cùng họ chẳng đọa vào các đường hiểm ác, thường sanh vào cõi trời, người, hưởng thọ giàu sang, an lạc; do thế lực ấy, sáu phép Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhơn đó lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Về sau tùy theo sự thích hợp, nương pháp Ba thừa, dần dần tu tập hạnh xuất ly.

Này Xá Lợi Tử! Sau khi ta diệt độ, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, lại từ phương Nam đến phương Tây nam, sẽ dần dần hưng thịnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường phát sanh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa tuyệt diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy. Do vì các thiện căn thù thắng ấy, cuối cùng họ chẳng đọa vào các đường hiểm ác, thường sanh cõi trời, người, thọ hưởng giàu sang, an lạc; do thế lực ấy, nên sáu phép Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhơn đó, lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Về sau, tùy sự thích hợp, nương pháp Ba thừa, dần dần tu tập hạnh xuất ly.

Này Xá Lợi Tử! Sau khi ta diệt độ, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, từ phương Tây nam đến phương Tây bắc, sẽ dần dần hưng thịnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường phát sanh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa tuyệt diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy. Vì do các thiện căn thù thắng ấy, cuối cùng họ chẳng đọa vào các đường hiểm ác, thường sanh cõi trời, người, thọ hưởng giàu sang, an lạc; do thế lực ấy, nên sáu phép Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhơn đây, lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Về sau, tùy sự thích ứng, nương pháp Ba thừa, dần dần tu tập hạnh xuất ly.

Này Xá Lợi Tử! Sau khi ta diệt độ, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, từ phương Tây bắc chuyển đến phương Bắc, sẽ dần dần hưng thịnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường phát sanh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa tuyệt diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy. Do vì các thiện căn thù thắng ấy, cuối cùng họ chẳng đọa vào các đường hiểm ác, thường sanh cõi trời, người, thọ hưởng giàu sang, an lạc; do thế lực này, sáu phép Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhơn đây, lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Về sau, tùy sự thích hợp, nương pháp Ba thừa, dần dần tu tập hạnh xuất ly.

Này Xá Lợi Tử! Sau khi ta diệt độ, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, lại từ phương Bắc đến phương Đông bắc, sẽ dần dần hưng thịnh. Ở phương đó sẽ có Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ-tát thừa, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thường phát sanh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói. Lại dùng các thứ tràng hoa tuyệt diệu, các loại hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy. Do vì các thiện căn thù thắng ấy, cuối cùng họ chẳng đọa vào các đường hiểm ác, thường sanh cõi trời, người, thọ hưởng giàu sang, an lạc; do thế lực này, sáu phép Ba-la-mật-đa tăng thêm lợi ích, khiến mau được viên mãn. Nhơn đây, lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Về sau, tùy sự thích hợp, nương pháp Ba thừa, dần dần tu tập hạnh xuất ly.

Xá Lợi Tử! Sau khi Ta đã diệt độ, vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ở phương Đông bắc làm Phật sự lớn. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì Pháp mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tôn trọng là Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng hộ niệm.

Này Xá Lợi Tử! Pháp nào chẳng phải là Chánh Pháp Luật Vô thượng mà Phật chứng đắc thì có tướng diệt mất. Còn Chánh pháp Luật Vô thượng, Pháp chư Phật chứng đắc tức là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào ở phương Đông bắc ấy, nếu thường đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói thì Ta thường hộ niệm thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, khiến không bị não hại.

Này Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào ở phương Đông bắc ấy, nếu thường sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, lại dùng các loại tràng hoa tuyệt diệu, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì Ta nói nhất định các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, do căn lành này, rốt ráo chẳng đọa vào các đường hiểm ác, thường sanh cõi trời người, thường thọ hưởng niềm an lạc và do thế lực ấy, sáu pháp Ba-la-mật-đa tăng thêm ích lợi. Nhơn đây, lại thường cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Về sau, tùy theo sự thích hợp, nương pháp Ba thừa dần dần tu tập sâu xa, rồi nhập Niết-bàn. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì Ta dùng Phật nhãn quán thấy chứng biết, nên xưng dương tán thán công đức đạt được của thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác an ổn trụ trì hiện đang thuyết pháp ở phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên, dưới trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới, cũng dùng Phật nhãn quán thấy chứng biết, xưng dương tán thán công đức đạt được của thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, thời kỳ sau của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc có lưu bố rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chăng?

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Sau khi Ta diệt độ, vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc sẽ lưu hành rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Sau khi Ta diệt độ, vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn nếu thường nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, phát sanh sự tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, thì nên biết các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy từ lâu đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, từ lâu đã tu hạnh đại Bồ-tát, cúng dường nhiều đức Phật, phụng sự nhiều thiện hữu, căn lành gieo trồng đều đã thành thục. Do phước lực ấy được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, phát sanh sự tin hiểu sâu xa. Lại thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ vào thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc sẽ có bao nhiêu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, được nghe và phát sanh sự tin hiểu sâu xa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế và lại thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói?

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Sau khi Ta diệt độ rồi, thời kỳ sau cùng của năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc, tuy có vô lượng thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nhưng ít người được nghe và phát sanh sự tin hiểu Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà tâm họ chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, cũng không âu lo và thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người rộng nói.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, tâm họ chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, cũng không lo âu, phát sanh tin hiểu sâu xa, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, rất là hy hữu. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy đã từng thân cận cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ-tát thưa hỏi ý nghĩa tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn pháp không nội; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn chơn như; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn Thánh đế khổ; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn bốn tịnh lự; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn tám giải thoát; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn bốn niệm trụ; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn pháp môn giải thoát không; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn mười địa Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn năm loại mắt, chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn sáu phép thần thông.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn mười lực Phật; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn pháp không quên mất, chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn tánh luôn luôn xả.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn trí nhất thiết; chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy được tất cả Như Lai hộ niệm, vì được vô lượng thiện hữu nhiếp thọ, vì được thiện căn thù thắng trụ trì, vì muốn làm lợi ích nhiều chúng sanh nên cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì Ta thường vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy nói pháp tương ưng trí nhất thiết trí; các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ cũng thường vì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy nói pháp tương ưng trí nhất thiết trí. Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, đời sau lại sẽ cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột, cũng sẽ vì người nói pháp tương ưng như vậy, khiến đạt đến quả vị giác ngộ cao tột.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy thân tâm an định, các ác ma vương và quyến thuộc của chúng còn chẳng phá hoại tâm cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột huống là đối với các người ưa làm ác khác, hủy báng Bát-nhã-ba-la-mật-đa, có thể cản trở tâm họ khiến cho chẳng cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn Đại-thừa ấy, nghe Ta nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, tâm đạt được sự hỷ lạc của pháp mầu rộng lớn, cũng có khả năng an lập vô lượng chúng sanhthiện pháp thù thắng, khiến đạt đến quả vị giác ngộ cao tột.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, nay ở trước ta phát thệ nguyện rộng lớn: Ta sẽ an lập vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình, khiến phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, tu các hạnh đại Bồ-tát, thị hiện dẫn dắt, khuyến khích chúc mừng đối với quả vị giác ngộ cao tột cho đến khiến cho được thọ ký Bất thối chuyển.

Này Xá Lợi Tử! Đối với thệ nguyện kia, Ta rất tùy hỷ. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Ta quán sự phát nguyện rộng lớn của thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa như thế, tâm và lời tương ưng. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, vào đời sau, nhất định có khả năng an lập vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình, khiến phát tâm đạt quả vị giác ngộ cao tột, tu các hạnh đại Bồ-tát, thị hiện dẫn dắt khuyến khích chúc mừng đối với quả vị giác ngộ cao tột cho đến khiến cho được thọ ký Bất thối chuyển.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy cũng ở trước vô lượng đức Phật trong quá khứ phát thệ nguyện rộng lớn: Ta sẽ an lập vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình khiến phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, tu các hạnh đại Bồ-tát, thị hiện dẫn dắt, khuyến khích chúc mừng, đối với quả vị giác ngộ cao tột cho đến được thọ ký Bất thối chuyển.

Này Xá Lợi Tử! Đối với thệ nguyện kia, chư Phật quá khứ cũng rất tùy hỷ. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Chư Phật quá khứ cũng quán sự phát nguyện rộng lớn của các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa như thế, tâm và lời tương ưng. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy vào thời vị lai, nhất định sẽ có khả năng an lập vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình khiến phát tâm đạt quả vị giác ngộ cao tột, tu các hạnh đại Bồ-tát, thị hiện dẫn dắt khuyến khích chúc mừng đối với quả vị giác ngộ cao tột cho đến khiến cho được thọ ký Bất thối chuyển.

Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy tin hiểu rộng lớn, thường nương vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp vi diệu, tu bố thí rộng lớn; tu bố thí này rồi, lại thường gieo trồng căn lành rộng lớn. Nhơn căn lành này, thường gặt hái quả báo rộng lớn; gặt hái quả báo rộng lớn như thế rồi chuyên vì lợi lạc tất cả hữu tình, đối với các hữu tình thường xả bỏ tất cả sở hữu của pháp nội ngoại. Họ hồi hướng căn lành đã gieo trồng, nguyện sanh vào cõi nước chư Phật ở phương khác, hiện có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang tuyên thuyết pháp xứ vô thượng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Họ nghe pháp vô thượng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy rồi, lại thường ở trong cõi Phật ấy an lập vô lượng trăm ngàn ức các loại hữu tình khiến phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, tu các hạnh đại Bồ-tát, thị hiện dẫn dắt khuyến khích, chúc mừng khiến họ đối với quả vị giác ngộ cao tột được Bất thối chuyển.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Rất kỳ đặc! Bạch Thiện Thệ! Rất hy hữu! Phật đối với các pháp sở hữuquá khứ, vị laihiện tại, không pháp nào là không chứng biết; đối với tất cả pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v… không có pháp nào là chẳng chứng biết; đối với các giáo pháp, không có pháp nào là chẳng chứng biết; đối với tâm hành sai biệt của các hữu tình, không có tâm hành nào là chẳng chứng biết; đối với Phật, Bồ-tát, Thanh-văn và cõi Phậtquá khứ v.v… đều chứng biết hết; đối với Phật, Bồ-tát, Thanh-văn và cõi Phật vị lai đều chứng biết hết; đối với Phật, Bồ-tát, Thanh-văn và cõi Phật hiện tại đều chứng biết hết; đối với tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và pháp đã diễn nói, Bồ-tát, Thanh-văn, cõi Phật v.v… các việc trong mười phương thế giới đều chứng biết hết.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát đối với sáu phép Ba-la-mật-đa, dõng mạnh tinh tấn luôn cầu không nghỉ thì đại Bồ-tát ấy, đối với sáu phép Ba-la-mật-đa này có khi đắc, có khi không đắc phải không?

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy đối với sáu phép Ba-la-mật-đa này luôn luôn dõng mãnh tinh tấn ưa cầu không nghỉ thì khi nào cũng đắc, không có khi nào là chẳng đắc. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy đối với sáu phép Ba-la-mật-đa này, luôn luôn dõng mãnh tinh tấn ưa cầu không nghỉ, chư Phật, Bồ-tát thường hộ niệm.

Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, nếu khi chẳng đắc kinh tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa thì như thế, sao có thể nói họ đắc sáu phép Ba-la-mật-đa này?

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn kia, đối với sáu phép Ba-la-mật-đa này, luôn luôn dõng mãnh tin cầu, chẳng đoái hoài thân mạng, mà có khi chẳng đắc kinh tương ưng này, thì đó là điều không thể xảy ra. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn kia vì cầu quả vị giác ngộ cao tột mà thị hiện dẫn dắt khuyến khích, chúc mừng các loại hữu tình, khiến họ đối với kinh điển tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu học. Do căn lành này, tùy theo chỗ sanh ra, thường có được khế kinh tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa này để thọ trì, đọc tụng, dõng mãnh tinh tấn, như giáo tu hành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Quyển Thứ 302
HẾT

XXXX. PHẨM MA SỰ

01

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Phật đã khen ngợi công đức đã có của các thiện nam tử, thiện nữ nhơn vì cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy vì chứng quả vị giác ngộ cao tột, trong những lúc tu hành lại bị ma sự làm trở ngại?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ưa nói pháp yếubiện tài chẳng sanh ngay thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát ấy ưa nói pháp yếubiện tài chẳng sanh thì gọi đó là ma sự?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa việc tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó được viên mãn; việc tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa khó được viên mãn, do nhân duyên này, đại Bồ-tát ấy ưa nói pháp yếubiện tài chẳng sanh thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ưa tu hạnh thù thắngbiện tài chậm phát sanh thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát ấy ưa tu hạnh thù thắngbiện tài chậm phát sanh mà đó là ma sự?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tu hành bố thí Ba-la-mật-đa; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vì không có phương tiện quyền xảo, nên biện tài chậm phát sanh. Do nhân duyên này nên đại Bồ-tát ấy ưa tu hạnh thù thắngbiện tài chậm phát sanh. Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà vươn vai ngáp dài thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng nhiên cười giỡn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà khinh miệt nhau thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát .

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xathân tâm nhiễu loạn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà tâm sanh hiểu sai, văn cú đảo lộn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng dưng có sự việc xảy ra khiến không hoàn tất được thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng nhiên nghĩ thế này: "Ta đối với kinh này chẳng được bổ ích, sao chép làm gì", liền bỏ đi thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà vươn vai ngáp dài thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng nhiên giỡn cười thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà khinh miệt nhau thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xathân tâm nhiễu loạn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà tâm sanh hiểu sai, văn cú đảo lộn thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng dưng có sự việc xảy ra khiến không hoàn tất được thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nói, nghe kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà bỗng nhiên sanh ý nghĩ thế này: "Ta đối với kinh này chẳng được bổ ích, thì cần gì phải khổ nhọc liền bỏ đi, thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyênthiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy đối với kinh sâu xa này chẳng được bổ ích mà liền bỏ đi?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy ở đời quá khứ từ lâu chưa tu hành Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa cho nên đối Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này chẳng được bổ ích nên liền bỏ đi.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, liền nghĩ: Chúng ta đối với pháp này chẳng được thọ ký, cần gì phải nghe, nên tâm chẳng thanh tịnh, liền rời khỏi chỗ ngồi bỏ đi thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì ở trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, chẳng thọ ký cho họ để họ bỏ đi?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bồ-tát chưa nhập Chánh tánh ly sanh thì chẳng nên thọ ký họ thành đại giác ngộ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, nghĩ thế này: Trong này chẳng đề cập đến tên của chúng ta, thì nghe làm gì nên tâm chẳng thanh tịnh, liền rời khỏi chỗ ngồi bỏ đi thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì ở trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, chẳng nói đến tên của Bồ-tát ấy?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị đại Bồ-đề thì đương nhiên chẳng nên nói đến tên của họ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn khi nghe nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, khởi sanh ý nghĩ thế này: Trong này không nói đến chỗ sanh, thành ấp, tụ lạc của chúng ta, thì cần gì phải nghe nên tâm chẳng thanh tịnh, liền rời khỏi chỗ ngồi bỏ đi thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, chẳng nói đến chỗ sanh, thành ấp, tụ lạc của Bồ-tát ấy?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu Bồ-tát chưa được ghi thì chẳng nên nói đến chỗ sanh sai biệt của họ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tâm chẳng thanh tịnh mà bỏ đi thì tùy theo tâm chẳng thanh tịnh đã dấy khởi, nhàm chán kinh này mà bước đi ấy nhiều ít, kiếp số công đức giảm sút tương ứng; và gặt hái tội chướng ngại Bồ-đề kiếp số cũng tương ưng chịu tội ấy rồi, lại cũng với thời gian tương ứng, phát khởi chuyên cần tinh tấn cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột mới có thể trở lại như xưa. Vì vậy, Bồ-tát nếu muốn mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột thì chẳng nên nhàm chán Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ thừa Bồ-tát, bỏ kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cầu học kinh điển khác thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa là cội gốc của trí nhất thiết trí mà vin vào cành lá các kinh điển khác, kết cuộc chẳng năng được đại giác ngộ.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những kinh điển nào giống như cành lá, chẳng thể dẫn phát trí nhất thiết trí?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Có các kinh nói pháp tương ưng Nhị thừa là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạopháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu học pháp đó đắc quả Dự-lưu, đắc quả Nhất-lai, đắc quả Bất-hoàn, đắc quả A-la-hán, đắc quả Độc-giác, chẳng đắc quả vị giác ngộ cao tột; đó được gọi là các kinh khác giống như cành lá, chẳng thể dẫn phát trí nhất thiết trí. Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa giống như cội gốc, có thế lực lớn, nhất định có khả năng dẫn phát trí nhất thiết trí. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy bỏ kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cầu học kinh điển khác, nhất định chẳng thể đạt được trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Thiện Hiện! Kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, xuất sanh pháp công đức thế gianxuất thế gian của tất cả đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tức là tu học tất cả pháp thế gianxuất thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như con chó đói bỏ thức ăn của chủ, lại theo kẻ tôi tớ mà kiếm ăn, ở đời vị lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ thừa Bồ-tát bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cội gốc của tất cả Phật pháp mà cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng giống như thế, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như có người muốn tìm voi, tìm được voi rồi bỏ đi để theo dấu chân, theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ở đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ thừa Bồ-tát, bỏ tất cả căn bản Phật pháp là Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng giống như thế, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thí như có người muốn thấy biển cả, đã đến bờ biển rồi, trở lại xem nước ở dấu chân trâu, nghĩ thế này, nước trong biển cả cạn sâu nhiều ít, có bằng đây chăng, theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, bỏ căn bản của tất cả Phật pháp là Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng lại như thế, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người thợ, hoặc học trò của ông ta muốn tạo cung điện lớn như kích thước cung điện thù thắng của trời Đế Thích, thấy cung điện ấy rồi mà lại đo lường mô hình cung điện mặt trời, theo ý ông thì sao, người thợ ấy, hoặc học trò của ông ta có thể tạo cung điện lớn ngang với cung điện thù thắng của Đế Thích chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Dạ không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy là hạng ngu si, vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, muốn cầu quả vị giác ngộ cao tột mà lại bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy để cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng giống như thế. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có thể đắc quả Phật cao tột chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có trí tuệ chăng?

Thiện Hiện đáp: Đó là hạng ngu si.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người cầu thấy Chuyển Luân Thánh Vương, thấy rồi mà chẳng biết, nên bỏ đến nơi khác thấy tiểu vương phàm phu, chấp vào hình tướng ấy, nghĩ: Chuyển Luân Thánh Vương hình tướng oai đức cùng với vị này có gì khác. Theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa muốn cầu quả vị giác ngộ cao tột, mà bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy lại cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, cũng giống như thế. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có thể chứng đắc đại Bồ-đề chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có trí huệ chăng?

Thiện Hiện đáp: Đó là hạng ngu si.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người đói được thức ăn trăm vị mà bỏ đi để cầu ăn cơm của lúa hai tháng. Theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ở đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa mà bỏ kinh điển đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa; đối với kinh điển ấy muốn cầu trí nhất thiết trí cũng giống như vậy. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có trí tuệ chăng?

Thiện Hiện đáp: Đó là hạng ngu si.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người nghèo được của báu vô giá mà bỏ đi để cầu thứ ngọc xấu, theo ý ông thì sao, người ấy có trí chăng?

Thiện Hiện đáp: Người ấy vô trí.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa bỏ kinh điển đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lại cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa; đối với kinh điển này, muốn cầu trí nhất thiết trí, cũng giống như vậy. Theo ý ông thì sao, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy có trí tuệ chăng?

Thiện Hiện đáp: Đó là hạng ngu si.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa khi sao chép kinh đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa các biện tài tranh nhau phát khởi, ưa nói các thứ pháp môn sai khác, khiến việc sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng được hoàn tất, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát, đó là ưa nói bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã; ưa nói Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; ưa nói thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết; ưa nói việc khán bịnh, tu các phước nghiệp khác; ưa nói sắc, ưa nói thọ, tưởng, hành, thức; ưa nói nhãn xứ, ưa nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; ưa nói sắc xứ, ưa nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Ưa nói nhãn giới; ưa nói sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; ưa nói nhĩ giới; ưa nói thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; ưa nói tỷ giới; ưa nói hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; ưa nói thiệt giới; ưa nói vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; ưa nói thân giới; ưa nói xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; ưa nói ý giới; ưa nói pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; ưa nói địa giới, ưa nói thủy, hỏa, phong, không, thức giới; ưa nói vô minh; ưa nói hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; ưa nói bố thí Ba-la-mật-đa; ưa nói tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; ưa nói pháp không nội; ưa nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; ưa nói chơn như; ưa nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; ưa nói Thánh đế khổ, ưa nói Thánh đế tập, diệt, đạo; ưa nói bốn tịnh lự; ưa nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc; ưa nói tám giải thoát; ưa nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; ưa nói bốn niệm trụ; ưa nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; ưa nói pháp môn giải thoát không; ưa nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; ưa nói mười địa Bồ-tát; ưa nói năm loại mắt, ưa nói sáu phép thần thông; ưa nói mười lực Phật; ưa nói bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; ưa nói pháp không quên mất, ưa nói tánh luôn luôn xả; ưa nói trí nhất thiết; ưa nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; ưa nói tất cả pháp môn Đà-la-ni, ưa nói tất cả pháp môn Tam-ma-địa; ưa nói quả Dự-lưu, ưa nói quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; ưa nói quả vị Độc-giác; ưa nói tất cả hạnh đại Bồ-tát; ưa nói quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không có tướng ưa nói; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa khó thể nghĩ bàn; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không suy ngẫm; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không sanh diệt; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không nhiễm tịnh; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa không định loạn; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lìa danh ngôn; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nói; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như trước đã nói, các pháp đều không có sở hữu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, bị các pháp như vậy nhiễu loạn tâm họ, khiến chẳng hoàn tất, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có thể sao chép được chăng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể sao chép. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, tự tánh của sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của nhãn xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của sắc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của nhãn giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của nhĩ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của tỷ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của thiệt giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của thân giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của ý giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của địa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của vô minh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của pháp không nội không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của chơn như không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của Thánh đế khổ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của bốn tịnh lự không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của tám giải thoát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của bốn niệm trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của pháp môn giải thoát không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của mười địa Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của năm loại mắt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của sáu phép thần thông không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của mười lực Phật không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của pháp không quên mất không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của tánh luôn luôn xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của trí nhất thiết không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của quả Dự-lưu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, tự tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của quả vị Độc-giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của các pháp đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên tức là vô tánh, mà vô tánh như vậy tức là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng phải pháp vô tánh có thể chép vô tánh, vì vậy Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thể sao chép.

Này Thiện Hiện! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nghĩ thế này, trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, vô tánh là sắc, vô tánh là thọ, tưởng, hành, thức; vô tánh là nhãn xứ, vô tánh là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; vô tánhsắc xứ, vô tánh là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; vô tánhnhãn giới vô tánhsắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; vô tánhnhĩ giới, vô tánh là thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; vô tánh là tỷ giới, vô tánhhương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; vô tánh là thiệt giới, vô tánh là vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; vô tánhthân giới, vô tánh là xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; vô tánhý giới, vô tánhpháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; vô tánhđịa giới, vô tánh là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; vô tánhvô minh, vô tánh là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; vô tánhbố thí Ba-la-mật-đa, vô tánhtịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vô tánhpháp không nội, vô tánhpháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; vô tánhchơn như, vô tánhpháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; vô tánhThánh đế khổ, vô tánhThánh đế tập, diệt, đạo; vô tánh là bốn tịnh lự, vô tánh là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; vô tánhtám giải thoát, vô tánhtám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; vô tánh là bốn niệm trụ, vô tánh là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; vô tánhpháp môn giải thoát không, vô tánhpháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; vô tánh là mười địa Bồ-tát; vô tánhnăm loại mắt, vô tánh là sáu phép thần thông; vô tánhmười lực Phật, vô tánh là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; vô tánhpháp không quên mất, vô tánh là tánh luôn luôn xả; vô tánh là trí nhất thiết, vô tánh là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; vô tánh là tất cả pháp môn Đà-la-ni, vô tánh là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; vô tánh là quả Dự-lưu, vô tánh là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; vô tánhquả vị Độc-giác; vô tánh là tất cả hạnh đại Bồ-tát; vô tánhquả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, mà nghĩ thế này, ta dùng văn tự sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa và chấp văn tự có thể sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì nên biết đó là ma sự của đại Bồ-tát. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, sắc khôngvăn tự, thọ, tưởng, hành, thức không có văn tự; nhãn xứ không có văn tự, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có văn tự; sắc xứ không có văn tự, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có văn tự; nhãn giới không có văn tự, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; nhĩ giới không có văn tự, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; tỷ giới khôngvăn tự, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; thiệt giới khôngvăn tự, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; thân giới không có văn tự, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; ý giới không có văn tự, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có văn tự; địa giới không có văn tự, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có văn tự; vô minh không có văn tự, hành, thức, danh, sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không có văn tự; bố thí Ba-la-mật-đa không có văn tự, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có văn tự; pháp không nội khôngvăn tự, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh khôngvăn tự; chơn như không có văn tự, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không có văn tự; Thánh đế khổ khôngvăn tự, Thánh đế tập, diệt, đạo không có văn tự; bốn tịnh lự không có văn tự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có văn tự; tám giải thoát không có văn tự, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không có văn tự; bốn niệm trụ không có văn tự, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không có văn tự; pháp môn giải thoát không khôngvăn tự, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có văn tự; mười địa Bồ-tát không có văn tự; năm loại mắt không có văn tự, sáu phép thần thông không có văn tự; mười lực Phật không có văn tự, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không có văn tự; pháp không quên mất không có văn tự, tánh luôn luôn xả không có văn tự; trí nhất thiết khôngvăn tự, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khôngvăn tự; tất cả pháp môn Đà-la-ni không có văn tự, tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có văn tự; quả Dự-lưu không có văn tự, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không có văn tự; quả vị Độc-giác không có văn tự; tất cả hạnh đại Bồ-tát không có văn tự; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không có văn tự thì vì vậy, chẳng nên chấp có văn tự có thể sao chép Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khởi lên sự chấp trước như thế này, ở trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, không có văn tự là sắc, không có văn tự là thọ, tưởng, hành, thức; không có văn tự là nhãn xứ, không có văn tự là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không có văn tựsắc xứ, không có văn tự là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không có văn tựnhãn giới, không có văn tựsắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; không có văn tựnhĩ giới, không có văn tự là thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; không có văn tự là tỷ giới, không có văn tựhương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; không có văn tự là thiệt giới, không có văn tự là vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc; thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ; không có văn tựthân giới, không có văn tự là xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; không có văn tựý giới, không có văn tựpháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; không có văn tựđịa giới, không có văn tự là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không có văn tựvô minh, không có văn tự là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; không có văn tựbố thí Ba-la-mật-đa, không có văn tựtịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không có văn tựpháp không nội, không có văn tựpháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; không có văn tựchơn như, không có văn tựpháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; không có văn tựThánh đế khổ, không có văn tựThánh đế tập, diệt, đạo; không có văn tự là bốn tịnh lự, không có văn tự là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; không có văn tựtám giải thoát, không có văn tựtám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; không có văn tự là bốn niệm trụ, không có văn tự là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bẳy đẳng giác chi, tám chi thánh đạo; không có văn tựpháp môn giải thoát không, không có văn tựpháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; không có văn tự là mười địa Bồ-tát; không có văn tựnăm loại mắt, không có văn tự là sáu phép thần thông; không có văn tựmười lực Phật, không có văn tự là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; không có văn tựpháp không quên mất, không có văn tự là tánh luôn luôn xả; không có văn tự là trí nhất thiết, không có văn tự là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; không có văn tự là tất cả pháp môn Đà-la-ni, không có văn tự là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; không có văn tự là quả Dự-lưu, không có văn tự là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; không có văn tựquả vị Độc-giác; không có văn tự là tất cả hạnh đại Bồ-tát; không có văn tựquả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, nếu khởi ý nghĩ về cõi nước, hoặc khởi ý nghĩ về thành ấp, hoặc khởi ý nghĩ về kinh đô, hoặc khởi ý nghĩ về nơi chốn, phương hướng thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, nếu khởi ý tưởng Hòa thượng A-xà-lê, hoặc khởi ý tưởng về bạn bè đồng học, hoặc khởi ý tưởng cha mẹ, vợ con, hoặc khởi ý tưởng anh em, chị em, hoặc khởi ý tưởng bằng hữu thân thích, thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, nếu khởi ý tưởng về ác tặc, ác thú, hoặc khởi ý tưởng ác nhân, ác quỷ, hoặc khởi ý tưởng chúng hội du hý, hoặc khởi ý tưởng dâm nữ hoan lạc, hoặc khởi ý tưởng báo ân, báo oán, hoặc khởi vô lượng ý tưởng khác, đều là do sự dẫn phát của ác ma làm chướng ngại Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, mà được danh dự lớn, được cung kính cúng dường, y phục, ẩm thực, đồ nằm, thuốc men, của cảithiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy thọ nhận và đắm trước, bỏ bê công việc thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, có các ác quỷ cầm đủ các loại sách vở thế tục, hoặc kinh điển tương ưng Nhị thừa trá hiện làm bạn thân trao cho Bồ-tát, trong đó, rộng nói về việc tốt đẹp thế tục, hoặc lại rộng nói về uẩn, xứ, giới, đế, thật, duyên khởi, ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, ba pháp môn giải thoát, bốn tịnh lự v.v… nói là kinh điển ý nghĩa thâm áo, phải chuyên cần tu học, bỏ kinh điển trước, thì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, dùng phương tiện khéo léo, chẳng nên nhận lấy sách vở thế tục, hoặc kinh điển nhị thừaác ma đã cho. Vì sao? Vì sách vở thế tục, kinh điển Nhị thừa chẳng thể dẫn phát trí nhất thiết trí, chẳng phải phương tiện thiện xảo đưa đến quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, ta rộng nói đạo đại Bồ-tát phương tiện thiện xảo, nếu theo đó tinh cần tu học, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, mà bỏ kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa để thọ học sách vở thế tục hoặc kinh Nhị thừa của ác ma thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp ưa thích lắng nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nhưng người thuyết pháp lại ham vui, biếng lười, chẳng muốn nói pháp thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp tâm chẳng ham vui, cũng chẳng biếng lười, ưa vì người nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện khuyến khích sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập nhưng người nghe pháp lại biếng lười ham vui, chẳng muốn nghe nhận thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì ưa thích lắng nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn người thuyết pháp lại ưa thích tha phương, chẳng vì người nói nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì thích vì người mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện khuyến khích sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập còn người nghe lại ưa thích tha phương, chẳng cần nghe nhận thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì đầy dẫy ác dục, quá ham mê danh lợi, y phục, ăn uống, đồ nằm, thuốc thang, đồ cúng dường của cải, còn người nghe pháp thì thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, dũng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm tuệ, chán sợ lợi dưỡng, cung kính, danh dự; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, dũng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm tuệ, chán sợ lợi dưỡng, cung kính, danh dự, còn người nghe pháp lại đầy dẫy ác dục, quá ham danh lợi, y phục, ăn uống, đồ nằm, thuốc men, đồ cúng dường của cải; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thực hành mười hai công đức đầu đà: Một là ở nơi thanh vắng; hai là thường khất thực; ba là mặc y phấn tảo; bốn là ăn một bữa; năm là nhất tọa thực; sáu là ăn đồ xin được; bảy là ở bãi tha ma; tám là ở chỗ trống; chín là ở dưới cây; mười là thường ngồi không nằm; mười một là chỉ dùng phu cụ nhận được; mười hai là chỉ có ba y, còn người nghe pháp chẳng thọ trì mười hai công đức đầu đà, đó là chẳng ở chỗ thanh vắng cho đến chẳng chịu chỉ có ba y; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì thực hành mười hai công đức đầu đà, đó là ở nơi thanh vắng cho đến chỉ thọ ba y, còn người thuyết pháp thì chẳng thọ mười hai công đức đầu đà, đó là chẳng ở nơi thanh vắng cho đến chẳng chỉ thọ ba y; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì có tín, có giới, có thiện ý, vui vẻ, muốn vì người nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện khuyến khích sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, còn người nghe lại không có tín, không có giới, không có thiện ý, vui vẻ không thích nghe thọ; hai bên không hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì có tín, có giới, có thiện ý, vui vẻ, muốn cầu nghe hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, còn người thuyết pháp thì không có tín, không có giới, không có thiện ý, vui vẻ, chẳng muốn vì người nói; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp tâm không bõn sẽn, có thể xả tất cả, còn người nghe pháp thì tâm bỏn xẻn, chẳng thể xả bỏ; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì tâm không bõn sẽn, có thể xả bỏ tất cả, còn người thuyết pháp thì tâm bỏn xẻn, chẳng thể xả bỏ; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì muốn cúng dường cho người thuyết pháp y phục, ẩm thực, đồ nằm, thuốc men và các của cải khác, nhưng người thuyết pháp thì chẳng thích thọ dụng; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì muốn cung cấp y phục, ẩm thực, đồ nằm, thuốc men và các của cải khác cho người nghe, nhưng người nghe chẳng thích thọ dụng; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thành tựu khai trí, chẳng ưa nói nhiều, còn người nghe pháp thành tựu diễn trí chẳng ưa nói lược; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thành tựu khai trí, chỉ ưa lược nói, còn người nói pháp thành tựu diễn trí, chỉ ưa nói rộng; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì chuyên ưa thích hiểu rộng thứ lớp pháp nghĩa của mười hai phần giáo, đó là Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhơn duyên, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Hy pháp, Luận nghĩa, còn người nghe thì chẳng thích biết rộng thứ lớp pháp nghĩa của mười hai phần giáo, đó là Khế kinh cho đến Luận nghĩa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp chuyên ưa thích hiểu rộng thứ lớp pháp nghĩa của mười hai phần giáo, đó là Khế kinh cho đến Luận nghĩa, còn người nói thì chẳng thích biết rộng thứ lớp pháp nghĩa của mười hai phần giáo, đó là Khế kinh cho đến Luận nghĩa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp đã thành tựu sáu phép Ba-la-mật-đa, còn người nghe thì chưa thành tựu sáu phép Ba-la-mật-đa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp đã thành tựu sáu phép Ba-la-mật-đa, còn người thuyết pháp thì chưa thành tựu sáu phép Ba-la-mật-đa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Quyển Thứ 303
HẾT

 
XXXX. PHẨM MA SỰ

02

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp đối với sáu phép Ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo, còn người nghe pháp đối với sáu phép Ba-la-mật-đa không có phương tiện thiện xảo; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp đối với sáu phép Ba-la-mật-đa có phương tiện thiện xảo còn người thuyết pháp đối với sáu phép Ba-la-mật-đa không có phương tiện thiện xảo; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp đã chứng đắc Đà-la-ni, còn người nghe pháp chưa chứng đắc Đà-la-ni; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp đã chứng đắc Đà-la-ni còn người nói pháp chưa chứng đắc Đà-la-ni; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn cung kính sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, còn người nghe pháp chẳng muốn cung kính sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp muốn được cung kính, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, còn người thuyết pháp chẳng muốn cung kính sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp đã lìa tham dục, sân nhuế, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, nghi cái, còn người nghe pháp chưa lìa tham dục, sân nhuế, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, nghi cái; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp đã lìa tham dục, sân nhuế, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, nghi cái, còn người thuyết pháp chưa lìa tham dục, sân nhuế, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, nghi cái; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu có người khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc có người đến nói các việc khổ của ba đường ác, nhân đó lại nói: Đối với thân ấy, ngươi nên siêng năng tinh tấn để mau hết sự khổ mà nhập Niết-bàn, vì lý do gì mà lưu lại biển lớn sanh tử, chịu trăm ngàn việc khổ khó nhẫn để cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột thì người ấy, do lời nói này, nên đối với việc sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng được hoàn tất, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu có người khi sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc có người đến khen ngợi các việc tốt đẹp trong cõi người; khen ngợi các việc thù thắng diệu ở cõi trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại; khen ngợi các việc thù thắng vi diệucõi trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm; khen ngợi các việc thù thắng vi diệucõi trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh; khen ngợi các việc thù thắng vi diệucõi trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh; khen ngợi các việc thù thắng vi diệucõi trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả; khen ngợi các việc thù thắng vi diệucõi trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh; khen ngợi các việc thù thắng vi diệu ở cõi Không-vô-biên-xứ, Thức-vô-biên-xứ, Vô-sở-hữu-xứ, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; nhân đó lại nói: Tuy ở Dục giới, thọ các dục lạc, ở Sắc giới thọ cái vui tịnh lự, ở Vô sắc giới thọ cái vui tịch định nhưng chúng đều là pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, biến hoại, là pháp tận diệt, pháp tàn tạ, pháp xa lìa, pháp hủy diệt. Đối với thân này, ngươi cần gì tinh tấn, chỉ thủ quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác để nhập Niết-bàn rốt ráo an lạc, chứ cần gì phải ở trong cõi sanh tử luân hồi lâu xa, vì người khác mà chịu các khổ não vô ích, để cầu đạt đến quả vị giác ngộ cao tột, người ấy do lời nói này, đối với việc sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng được hoàn tất thì nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp một thân không hệ lụy, vô ngại tự tại, còn người nghe pháp thì liên hệ nhiều người bị kéo níu buộc ràng; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp một thân không hệ lụy, vô ngại tự tại, còn người nói pháp thì liên hệ nhiều người, bị kéo níu buộc ràng; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì chẳng ưa số đông tụ tập, còn người nghe thì thích ở chỗ đông; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì chẳng ưa số đông tụ tập, còn người nói pháp lại thích ở đám đông tụ tập; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì muốn khiến người nghe đối với việc làm của mình, đều phải tùy hỷ tán trợ, nhưng người nghe lại chẳng theo ý muốn đó; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì muốn đối với các việc làm của người thuyết pháp đều tùy hỷ tán trợ, nhưng người thuyết pháp thì chẳng tùy thuận ý muốn ấy; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì vì tài lợi nên muốn vì người mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, lại muốn khiến kẻ ấy sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, nhưng người nghe pháp biết việc làm ấy mà chẳng muốn làm theo; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì vì tài lợi nên muốn thỉnh người khác nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, lại muốn dùng phương tiện để sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, nhưng người thuyết pháp biết việc làm ấy mà chẳng đáp ứng sự thỉnh mời; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp thì ưa thích phương khác, chốn nguy hiểm đến thân mạng, còn người nghe lại sợ mất thân mạng, chẳng dám theo đến; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp thì ưa thích phương khác, chốn nguy hiểm đến thân mạng, còn người thuyết pháp sợ mất thân mạng, chẳng muốn đi cùng; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp ưa thích phương khác, chốn thiếu thức ăn uống, còn người nghe pháp lại lo nơi kia gian khổ, chẳng muốn đi theo; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp ưa thích phương khác, chốn thiếu thức ăn uống, còn người thuyết pháp thì lo nơi ấy gian khổ, nên chẳng cùng đi; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp ưa thích phương khác, chốn giàu có an vui, người nghe pháp muốn đi theo; khi ấy người nói pháp phương tiện dạy: Ngươi tuy vì lợi muốn đi theo ta, nhưng ngươi đến nơi ấy chắc gì vừa ý, nên suy nghĩ kỹ đi, về sau chớ hối hận. Khi ấy, người nghe pháp nghe rồi nghĩ: Người ấy chẳng muốn ta cùng đi, nếu cố đi theo thì chắc gì được nghe pháp; do nhân duyên này nên chẳng theo người ấy; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn đến phương khác, mà con đường sẽ đi qua là chốn đồng hoang đầy hiểm nạn, có nhiều nỗi sợ về giặc cướp, nỗi sợ về chiên trà la, và các nỗi sợ khác như thợ săn, thú dữ, rắn độc v.v… người nghe pháp muốn đi theo. Khi ấy, người thuyết pháp phương tiện dạy: Nay ngươi vì sao không có việc gì mà theo ta, muốn đi qua nơi có nhiều hiểm nạn như thế? Nên suy nghĩ chín chắn, về sau chớ hối hận. Khi ấy, người nghe pháp nghe xong nghĩ: Người này chẳng muốn ta đi theo, nếu cố đi theo thì chắc gì được nghe pháp; do nhân duyên này chẳng đi theo người ấy; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp có nhiều thí chủ thường đi theo, người nghe pháp đến thỉnh nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, bị trở ngại không rảnh để nói liền được, người nghe sanh cơ hiềm, sau đó có nói nhưng chẳng chịu nghe; hai bên chẳng hòa hợp, nên việc nói, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí-sô đến chỗ Bồ-tát tìm cách phá hoại, khiến đối với kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói được.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao ác ma giả dạng Bí-sô đến chỗ Bồ-tát tìm cách phá hoại, khiến đối với kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói được?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí-sô đến chỗ Bồ-tát tìm cách phá hoại, khiến vị ấy nhàm chán Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Ác ma nói thế này: Ngươi đã tu tập đọc tụng kinh điển vô tướng chẳng phải là chơn Bát-nhã-ba-la-mật-đa; ta đã tu tập, đọc tụng kinh điển hữu tướng là chơn Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Khi nghe nói lời như thế, có các Bồ-tát chưa được thọ ký đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sanh nghi hoặc; do vì nghi hoặc nên đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sanh nhàm chán; do nhàm chán liền bỏ việc sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí-sô đến chỗ Bồ-tát, nói với Bồ-tát: Nếu các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chỉ chứng thật tế của quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác, chẳng bao giờ có thể đắc Phật quả cao tột, thì vì cớ gì đối với Bát-nhã này nhọc công vô ích! Bồ-tát nghe rồi chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi nói, nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều ma sự làm trở ngại, Bồ-tát phải tỉnh giác để xa lánh.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những gì là ma sự làm trở ngại mà Bồ-tát phải tỉnh giác để xa lánh?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Khi nói, nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa tương tợ là ma sự gây trở ngại; Bồ-tát phải nên tỉnh giác để xa lánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi nói, nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh tương tợ là ma sự gây trở ngại; Bồ-tát phải nên tỉnh giác để xa lánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi nói, nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì tương tợ là ma sự gây trở ngại; Bồ-tát phải tỉnh giác để xa lánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi nói, nghe v.v… Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có các ác ma giả dạng Bí-sô đến chỗ Bồ-tát tuyên nói pháp tương ưng Nhị thừa, đó là bốn Thánh đế, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, ba pháp môn giải thoát, sáu thần thông; nói pháp ấy rồi, nói với Bồ-tát: Này Đại sĩ! Nên biết, phải nương vào pháp này tinh cần tu học thủ quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác, xa lìa tất cả sanh, lão, bệnh, tử; cần gì quả vị giác ngộ cao tột. Đó là ma sự gây trở ngại Bát-nhã, Bồ-tát phải tỉnh giác để xa lánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí-sô oai nghi đỉnh đạt, hình mạo đoan nghiêm; Bồ-tát thấy họ tâm sanh ái trước; do đó tổn giảm trí nhất thiết trí, nên việc nghe hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng làm Phật, thân toàn màu vàng, hào quang một tầm, đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm. Bồ-tát thấy rồi sanh tâm ái trước. Do đó tổn giảm trí nhất thiết trí, nên việc nghe hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma hóa làm hình Phật, có Bí-sô vây quanh, tuyên nói pháp yếu. Bồ-tát thấy rồi tâm sanh ái trước, nên nghĩ thế này: Ta nguyện đời vị lai cũng sẽ như thế; do đó tổn giảm trí nhất thiết trí, nên việc nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma hóa làm hình đại Bồ-tát hoặc trăm, hoặc ngàn cho đến vô lượng; hành bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Bồ-tát thấy vậy, tâm sanh ái trước; do đó tổn giảm trí nhất thiết trí, nên việc nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, sắc khôngsở hữu, thọ, tưởng, hành, thức không có sở hữu. Nếu trong pháp ấy, sắc không sở hữu, thọ, tưởng, hành, thức không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa nhãn xứ không sở hữu, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sở hữu. Nếu trong pháp ấy nhãn xứ không sở hữu, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa sắc xứ không sở hữu, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sở hữu. Nếu trong pháp ấy sắc xứ không sở hữu, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa nhãn giới không sở hữu, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu. Nếu trong pháp ấy nhãn giới không sở hữu, sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa nhĩ giới không sở hữu; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu. Nếu trong pháp ấy nhĩ giới không sở hữu, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tỷ giới không sở hữu; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu. Nếu trong pháp ấy tỷ giới không sở hữu, hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thiệt giới không sở hữu; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu. Nếu trong pháp ấy thiệt giới không sở hữu, vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thân giớikhông sở hữu; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu. Nếu trong pháp ấy thân giới không sở hữu, xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ý giới không sở hữu; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu. Nếu trong pháp ấy ý giới không sở hữu, pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa địa giới không sở hữu, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sở hữu. Nếu trong pháp ấy địa giới không sở hữu, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vô minh không sở hữu; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu. Nếu trong pháp ấy vô minh không sở hữu, hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sở hữu. Nếu trong pháp ấy bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa pháp không nội không sở hữu; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh của không sở hữu. Nếu trong pháp ấy pháp không nội không sở hữu, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chơn như không sở hữu; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không sở hữu. Nếu trong pháp ấy chơn như không sở hữu, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa Thánh đế khổ không sở hữu, Thánh đế tập, diệt, đạo không sở hữu. Nếu trong pháp ấy Thánh đế khổ không sở hữu, Thánh đế tập, diệt, đạo không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa bốn tịnh lự không sở hữu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sở hữu. Nếu trong pháp ấy bốn tịnh lự không sở hữu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tám giải thoát không sở hữu, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sở hữu. Nếu trong pháp ấy tám giải thoát không sở hữu, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa bốn niệm trụ không sở hữu, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không sở hữu. Nếu trong pháp ấy bốn niệm trụ không sở hữu, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa pháp môn giải thoát không không sở hữu; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sở hữu. Nếu trong pháp ấy pháp môn giải thoát không không sở hữu, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mười địa Bồ-tát không sở hữu. Nếu trong pháp ấy mười địa Bồ-tát không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa năm loại mắt không sở hữu, sáu phép thần thông không sở hữu. Nếu trong pháp ấy năm loại mắt không sở hữu, sáu phép thần thông không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mười lực Phật không sở hữu, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không sở hữu. Nếu trong pháp ấy mười lực Phật không sở hữu, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa pháp không quên mất không sở hữu, tánh luôn luôn xả không sở hữu. Nếu trong pháp ấy pháp không quên mất không sở hữu, tánh luôn luôn xả không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa trí nhất thiết không sở hữu, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sở hữu. Nếu trong pháp ấy trí nhất thiết không sở hữu, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu. Nếu trong pháp ấy tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa quả Dự-lưu không sở hữu, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không sở hữu. Nếu trong pháp ấy quả Dự-lưu không sở hữu, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa quả vị Độc-giác không sở hữu. Nếu trong pháp ấy quả vị Độc-giác không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tất cả hạnh đại Bồ-tát không sở hữu. Nếu trong pháp ấy tất cả hạnh đại Bồ-tát không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Ở trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không sở hữu. Nếu trong pháp ấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không sở hữu thì trong pháp ấy Phật cũng không sở hữu, Bồ-tát, Thanh-văn và các Độc-giác cũng không sở hữu. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, có nhiều sự trở ngại và tai hại sinh khởi, khiến người ít phước chẳng thành tựu được việc ấy. Như châu Thiệm bộ có các châu báu: Phệ lưu ly, loa bối, ngọc bích, san hô, thạch tạng, ma ni, chơn châu, đế thanh, đại thanh, vàng, bạc v.v… có nhiều giặc cướp cản trở gây hại nên các người bạc phước cầu chẳng thể được. Bảo châu vô giá Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, những người ít phước khi nghe, hỏi v.v… có nhiều ác ma làm trở ngại.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như các loại châu báu phệ lưu ly v.v… ở châu Thiệm bộ có nhiều trở ngại, những người bạc phước cầu chẳng thể được. Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, vì ít phước đức nên khi nghe, hỏi v.v… có nhiều trở ngại, tuy có ưa thích mà chẳng thể thành tựu. Vì sao? Vì có người ngu si bị ma sai khiến, nên khi thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy thì gây trở ngại.

Bạch Thế Tôn! Kẻ ngu si ấy, tuệ giác kém cỏi, tự mình chẳng nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, lại ưa ngăn cản kẻ khác nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Bạch Thế Tôn! Kẻ ngu si kia chẳng ưa pháp lớn, đối với kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tự mình chẳng ưa nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói; đối với nguời khác khi họ nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy lại gây trở ngại.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Có người ngu si bị ma sai khiến, chưa trồng căn lành, phước tuệ kém cỏi, chưa ở chỗ Phật phát nguyện rộng lớn, chưa được các thiện hữu nhiếp thọ, nên đối với kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tự mình chẳng thể nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói, và khi các thiện nam tử, thiện nữ nhơn tân học Đại-thừa nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy thì gây trở ngại.

Này Thiện Hiện! Vào đời tương lai có thiện nam tử, thiện nữ nhơn tuệ giác kém cỏi, căn lành ít ỏi, đối với công đức to lớn của các Như Lai tâm chẳng ưa thích, nên tự mình đối với kinh điển Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, rộng nói, trái lại ưa ngăn cản người khác nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa khi nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy có nhiều ma sự.

Này Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn khi nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy không có các ma sự, lại có thể viên mãn Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại có thể viên mãn pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại có thể viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại có thể viên mãn Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; lại có thể viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lại có thể viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại có thể viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại có thể viên mãn pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại có thể viên mãn mười địa Bồ-tát; lại có thể viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; lại có thể viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại có thể viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; lại có thể viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại có thể viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại có thể viên mãn tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại có thể viên mãn quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện! Nên biết, đó đều do sức oai thần của Phật gia hộ các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, khiến cho họ khi nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, ma sự không khởi; lại khiến viên mãn Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại khiến viên mãn pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại khiến viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại khiến viên mãn Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; lại khiến viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lại khiến viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại khiến viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại khiến viên mãn pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại khiến viên mãn mười địa Bồ-tát; lại khiến viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; lại khiến viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại khiến viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; lại khiến viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại khiến viên mãn tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại khiến viên mãn tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại khiến viên mãn quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới vì các hữu tình, hiện đang thuyết pháp cũng dùng thần lực gia hộ các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, khiến họ khi nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy không có các ma sự.

Này Thiện Hiện! Tất cả chúng đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển trong mười phương thế giới, cũng dùng thần lực gia hộ các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, khiến họ khi nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy không có ma sự.

Quyển Thứ 304
HẾT

XXXXI. PHẨM PHẬT MẪU

01

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Thí như người mẹ sanh và nuôi dưỡng các con, hoặc năm, hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, hoặc trăm, hoặc ngàn đứa. Người mẹ bị bệnh, các con đều cùng nhau hết lòng tìm cầu thuốc thang điều trị; họ nghĩ thế này: Làm sao cho mẹ ta được lành bệnh, sống lâu an lạc, thân không các khổ, tâm chẳng sầu lo. Bấy giờ, các người con tạo phương tiện, hoặc tìm cầu phương tiện an lạc, che chở, bảo vệ cho mẹ, khônng để muỗi mòng, ruồi nhặng, rắn rít, lạnh nóng, đói khát xúc chạm gây phiền bực. Lại dùng đủ các món thượng diệu cung kính cúng dường và nghĩ: Mẹ ta thương yêu sanh ra và nuôi dưỡng chúng ta, chỉ dạy các sự việc ở đời, chúng ta không báo ơn mẹ sao được!

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng như thế, thường dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng phát sanh tất cả Phật pháp cho chúng ta, có công năng chỉ bày thật tướng các pháp thế gian; tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết phápmười phương thế giới, cũng dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng phát sanh tất cả công đức của chư Phật, có công năng chỉ bày thật tướng các pháp thế gian; do nhân duyên này, chư Phật của chúng ta thường dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì báo trả ơn này nên không hề tạm bỏ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả mười địa Bồ-tát đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả Dự-lưu và quả Dự-lưu, Nhất-lai và quả Nhất-lai, Bất-hoàn và quả Bất-hoàn, A-la-hán và quả A-la-hán đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả Độc-giác và quả vị Độc-giác đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả đại Bồ-tát và các hạnh đại Bồ-tát đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy mà được xuất sanh; tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácquả vị giác ngộ cao tột của chư Phật đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà được xuất sanh.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã đắc quả vị giác ngộ cao tột, hiện đắc quả vị giác ngộ cao tột, sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột đều do Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy; do nhân duyên này, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đối với các đức Như Laiơn đức lớn. Cho nên, chư Phật thường dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu thường nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, rộng nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường dùng Phật nhãn quán xem hộ niệm khiến thân tâm họ thường được an lạc, tu các thiện nghiệp không có các trở ngại.

Này Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, thường nghe, hỏi, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói, thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới đều cùng hộ niệm, khiến đối với quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Như đức Thế Tôn dạy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng xuất sanh chư Phật; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng chỉ bày thật tướng của các pháp thế gian.

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng xuất sanh chư Phật? Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng chỉ rõ thật tướng các pháp thế gian? Tại sao chư Phật từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất sanh? Tại sao chư Phật nói tướng thế gian?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng xuất sanh năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô biên công đức chư Phật như thế đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất sanh; do đạt được công đức của chư Phật như thế cho nên gọi là Phật. Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều công năng xuất sanh công đức chư Phật như thế, do đó nên nói có công năng xuất sanh chư Phật, cũng nói chư Phật từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất sanh.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng chỉ rõ thật tướng của các pháp thế gian, đó là có công năng chỉ rõ thật tướng của năm uẩn thế gian. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nói thật tướng của năm uẩn thế gian.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa của chư Phật nói rõ thật tướng năm uẩn thế gian?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của chư Phật đều chẳng nói rõ năm uẩn có thành, có hoại, có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có tăng, có giảm, có nhập, có xuất; đều chẳng nói rõ năm uẩnquá khứ, có vị lai, có hiện tại, có thiện, có bất thiện, có vô ký, có sự ràng buộc của Dục giới, có sự ràng buộc của Sắc giới, có sự ràng buộc của Vô sắc giới. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải các pháp không có thành có hoại, chẳng phải pháp vô tướng có thành có hoại, chẳng phải pháp vô nguyện có thành có hoại, chẳng phải pháp vô tác có thành có hoại, chẳng phải pháp vô sanh diệt có thành có hoại, chẳng phải pháp không thể tánh có thành có hoại.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của chư Phật nói rõ thật tướng của năm uẩn thế này; tướng của năm uẩn này tức là thế gian, cho nên thế gian cũng không có tướng thành, hoại, sanh, diệt v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa có thể chứng biết hết vô lượng, vô số tâm hành sai biệt của các loại hữu tình. Nhưng trong lý của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này không có hữu tình, không có sự phát khởi của hữu tình có thể nắm bắt được; không có sắc, không có sự phát khởi của sắc có thể nắm bắt được; không có thọ, tưởng, hành, thức, không có sự phát khởi của thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được; không có nhãn xứ, không có sự phát khởi của nhãn xứ có thể nắm bắt được; không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không có sự phát khởi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể nắm bắt được; không có sắc xứ, không có sự phát khởi của sắc sứ có thể nắm bắt được; không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không có sự phát khởi của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể nắm bắt được; không có nhãn giới, không có sự phát khởi của nhãn giới có thể nắm bắt được; không có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có nhĩ giới, không có sự phát khởi của nhĩ giới có thể nắm bắt được; không có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có tỷ giới, không có sự phát khởi của tỷ giới có thể nắm bắt được; không có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có thiệt giới, không có sự phát khởi của thiệt giới có thể nắm bắt được; không có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có thân giới, không có sự phát khởi của thân giới có thể nắm bắt được; không có xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được; không có ý giới, không có sự phát khởi của ý giới có thể nắm bắt được; không có pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, không có sự phát khởi của pháp giới cho đến ý xúc làm suyên sanh ra các thọ có thể nắm bắt được; không có địa giới, không có sự phát khởi của địa giới có thể nắm bắt được; không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không có sự phát khởi của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể nắm bắt được; không có vô minh, không có sự phát khởi của vô minh có thể nắm bắt được; không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, không có sự phát khởi của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể nắm bắt được; không có bố thí Ba-la-mật-đa, không có sự phát khởi của bố thí Ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được; không có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không có sự phát khởi của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được; không có pháp không nội, không có sự phát khởi của pháp không nội có thể nắm bắt được; không có pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, không có sự phát khởi của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh có thể nắm bắt được; không có chơn như, không có sự phát khởi của chơn như có thể nắm bắt được; không có pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, không có sự phát khởi của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể nắm bắt được; không có Thánh đế khổ, không có sự phát khởi của Thánh đế khổ có thể nắm bắt được; không có Thánh đế tập, diệt, đạo, không có sự phát khởi của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể nắm bắt được; không có bốn tịnh lự, không có sự phát khởi của bốn tịnh lự có thể nắm bắt được; không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không có sự phát khởi của bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể nắm bắt được; không có tám giải thoát, không có sự phát khởi của tám giải thoát có thể nắm bắt được; không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, không có sự phát khởi của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể nắm bắt được; không có bốn niệm trụ, không có sự phát khởi của bốn niệm trụ có thể nắm bắt được; không có bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không có sự phát khởi của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo có thể nắm bắt được; không có pháp môn giải thoát không, không có sự phát khởi của pháp môn giải thoát không có thể nắm bắt được; không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không có sự phát khởi của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể nắm bắt được; không có mười địa Bồ-tát, không có sự phát khởi của mười địa Bồ-tát có thể nắm bắt được; không có năm loại mắt, không có sự phát khởi của năm loại mắt có thể nắm bắt được; không có sáu phép thần thông, không có sự phát khởi của sáu phép thần thông có thể nắm bắt được; không có mười lực Phật, không có sự phát khởi của mười lực Phật có thể nắm bắt được; không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, không có sự phát khởi của bốn điều không sợ cho đếm mười tám pháp Phật bất cộng có thể nắm bắt được; không có pháp không quên mất, không có sự phát khởi của pháp không quên mất có thể nắm bắt được; không có tánh luôn luôn xả, không có sự phát khởi của tánh luôn luôn xả có thể nắm bắt được; không có trí nhất thiết, không có sự phát khởi của trí nhất thiết có thể nắm bắt được; không có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không có sự phát khởi của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể nắm bắt được; không có tất cả pháp môn Đà-la-ni, không có sự phát khởi của tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể nắm bắt được; không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa, không có sự phát khởi của tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể nắm bắt được; không có quả Dự-lưu, không có sự phát khởi của quả Dự-lưu có thể nắm bắt được; không có quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, không có sự phát khởi của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể nắm bắt được; không có quả vị Độc-giác, không có sự phát khởi của quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được; không có tất cả hạnh đại Bồ-tát, không có sự phát khởi của tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể nắm bắt được; không có có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không có sự phát khởi của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của chư Phật nói rõ thật tướng thế gian như thế.

Này Thiện Hiện! Nhưng trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng chỉ rõ sắc, chẳng chỉ rõ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ nhãn xứ; chẳng chỉ rõ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ sắc xứ; chẳng chỉ rõ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ nhãn giới; chẳng chỉ rõ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ nhĩ giới; chẳng chỉ rõ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ tỷ giới; chẳng chỉ rõ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ thiệt giới; chẳng chỉ rõ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ thân giới; chẳng chỉ rõ xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ ý giới; chẳng chỉ rõ pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ địa giới, chẳng chỉ rõ thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có địa giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ vô minh; chẳng chỉ rõ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng chỉ rõ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ pháp không nội; chẳng chỉ rõ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp không nội cho đến vô tánh tự tánh của không có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ chơn như; chẳng chỉ rõ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có chơn như cho đến bất tư nghì giới có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ Thánh đế khổ, chẳng chỉ rõ Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có Thánh đế khổ cho đến Thánh đế tập, diệt, đạo có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ bốn tịnh lự; chẳng chỉ rõ bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ tám giải thoát; chẳng chỉ rõ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ bốn niệm trụ; chẳng chỉ rõ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ pháp môn giải thoát không; chẳng chỉ rõ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ mười địa Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có mười địa Bồ-tát có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ năm loại mắt; chẳng chỉ rõ sáu phép thần thông. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ mười lực Phật; chẳng chỉ rõ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ pháp không quên mất; chẳng chỉ rõ tánh luôn luôn xả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ trí nhất thiết; chẳng chỉ rõ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng chỉ rõ tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ quả Dự-lưu, chẳng chỉ rõ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có quả Dự-lưu, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ quả vị Độc-giác. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có quả vị Độc-giác có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể chỉ rõ được.

Trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trong lý Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa còn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, huống là có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể chỉ rõ được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả hữu tình phát biểu ra lời nói là hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tưởng, hoặc không có tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, hoặc thế giới này, hoặc tất cả thế giới khác trong mười phương. Các hữu tình ấy, tâm an tịnh, hoặc tâm tán loạn, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đều biết như thật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết như thật tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do pháp tánh nên biết như thật tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình ấy?

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do pháp tánh nên biết như thật tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết như thật trong pháp tánh, pháp tánh còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tâm an tịnh, tâm tán loạn.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy, do pháp tánh nên như thật biết tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do tận, do ly nhiễm, do diệt, do đoạn, do tịch tịnh, do viễn ly nên như thật biết tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do tận, do ly nhiễm, do diệt, do đoạn, do tịch tịnh, do viễn ly nên như thật biết tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tận, ly nhiễm, diệt, đoạn, tịch tịnh, viễn ly; do tánh của tận v.v... còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tâm an tịnh, tâm tán loạn!

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy, nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, do tận v.v... nên như thật biết tâm an tịnh, tâm tán loạn của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết các loại hữu tình ấy có tâm tham, tâm lìa tham; có tâm sân, tâm lìa sân; có tâm si, tâm lìa si.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết các loại hữu tình ấy có tâm tham, tâm lìa tham; có tâm sân, tâm lìa sân; có tâm si, tâm lìa si?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết các loại hữu tình ấy có tánh như thật của tâm tham, sân, si, chẳng phải có tâm tham, sân, si, chẳng phải lìa tâm tham, sân, si. Vì sao? Vì trong tánh như thật, tâm, tâm sở pháp còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tâm tham, sân, si, tâm lìa tham, sân, si.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tánh như thật của tâm lìa tham, sân, si của các loại hữu tình ấy, chứ chẳng phải có tâm tham, sân, si, chẳng phải lìa tâm tham, sân, si. Vì sao? Vì trong tánh như thật, tâm, tâm sở pháp còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tâm tham, sân, si, tâm lìa tham, sân, si.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết có tâm tham, tâm lìa tham, có tâm sân, tâm lìa sân, có tâm si, tâm lìa si của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, như thật biết tâm có tham, sân, si, chẳng phải tâm có tham, sân, si, chẳng phải lìa tâm tham, sân, si của các loại hữu tình ấy. Vì sao? Vì hai loại tâm ấy chẳng hòa hợp.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm lìa tham, sân, si, tâm chẳng phải có tham, sân, si, tâm chẳng phải lìa tham, sân, si của các loại hữu tình ấy. Vì sao? Vì hai loại tâm ấy chẳng hòa hợp.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm có tham, tâm lìa tham, tâm có sân, tâm lìa sân, tâm có si, tâm lìa si của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm rộng của các hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm rộng của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm rộng của các loại hữu tình ấy, không rộng không hẹp, không tăng không giảm, không đến không đi, vì lìa tâm tánh nên chẳng phải rộng, chẳng phải hẹp, chẳng phải tăng chẳng phải giảm, chẳng phải đi, chẳng phải đến. Vì sao? Vì tự tánh của tâm không sở hữu, thì cái gì rộng, cái gì hẹp, cái gì tăng, cái gì giảm, cái gì đi, cái gì đến!

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm rộng của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm lớn của các loại hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm lớn của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm lớn của các loại hữu tình ấy không đi, không đến, không sanh, không diệt, không trụ, không dị, không đại, không tiểu. Vì sao? Vì tự tánh của tâm không sở hữu, chẳng phải đi, chẳng phải đến, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải trụ, chẳng phải dị, chẳng phải đại, chẳng phải tiểu.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm lớn của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô lượng của các loại hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô lượng của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô lượng của các loại hữu tình ấy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, chẳng phải đi, chẳng phải chẳng đi. Vì sao? Vì tánh của tâm vô lượng, vô lậu, vô y, như vậy đâu có thể nói là có trụ, chẳng trụ, có đi, chẳng đi.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô lượng của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô kiến, vô đối của các loại hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô kiến, vô đối của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô kiến, vô đối của các loại hữu tình ấy đều không có tướng của tâm. Vì sao? Vì tất cả tự tướng của tâm là không.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô kiến, vô đối của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô sắc không thể thấy của các loại hữu tình ấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô sắc chẳng thể thấy của các loại hữu tình ấy?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm vô sắc chẳng thể thấy của các loại hữu tình ấy mà năm loại mắt của chư Phật chẳng thể thấy được. Vì sao? Vì tánh của tất cả tâm là không.

Này Thiện Hiện! Như vậy, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm vô sắc chẳng thể thấy của các loại hữu tình ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm, tâm sở pháp của các loại hữu tình khác, hoặc hiện hoặc ẩn, hoặc co hoặc duỗi.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm, tâm sở pháp của các loại hữu tình khác hoặc hiện, hoặc ẩn, hoặc co, hoặc duỗi?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm, tâm sở pháp hiện, ẩn, co, duỗi của các loại hữu tình khác đều nương sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sanh khởi.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm, tâm sở pháp của các loại hữu tình khác hoặc hiện, hoặc ẩn, hoặc co, hoặc duỗi, có nghĩa là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết tâm, tâm sở pháp hiện, ẩn, co, duỗi của các loại hữu tình khác hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian là thường và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gianvô thường và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian vừa thường vừa vô thường, và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian hữu biên và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian vô biên và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian vừa hữu biên, vừa vô biên và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp mạng tức là thân và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp mạng khác thân và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch diệt, hữu và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch diệt, phi hữu và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch diệt, vừa hữu, vừa phi hữu và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm; hoặc nương sắc, hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch diệt phi hữu, phi phi hữu và cho điều này là đúng, ngoài ra đều sai lầm.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thật biết tâm, tâm sở pháp của các loại hữu tình khác hoặc hiện, hoặc ẩn, hoặc co, hoặc duỗi.

Quyển Thứ 305
HẾT

XXXXI. PHẨM PHẬT MẪU

02

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa biết như thật về sắc, biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết như thật về sắc, biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức như thế nào?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết như thật về sắc như chơn như, như pháp giới, như pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, không phân biệt, không tướng trạng, không tác dụng, không hý luận, không sở đắc; biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức như chơn như, như pháp giới, như pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, không phân biệt, không tướng trạng, không tác dụng, không hý luận, không sở đắc.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa biết như thật về tâm, tâm sở pháp hiện, ẩn, co, duỗi của các loại hữu tình khác cũng như chơn như, như pháp giới, như pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, không phân biệt, không tướng trạng, không tác dụng, không hý luận, không sở đắc.

Này Thiện Hiện! Chơn như của tâm, tâm sở pháp hiện, ẩn, co, duỗi của các loại hữu tình tức là chơn như của ngũ uẩn; chơn như của ngũ uẩn tức là chơn như của mười hai xứ; chơn như của mười hai xứ tức là chơn như của mười tám giới; chơn như của mười tám giới tức là chơn như của sáu giới; chơn như của sáu giới tức là chơn như của mười hai duyên khởi; chơn như của mười hai duyên khởi tức là chơn như của tất cả pháp; chơn như của tất cả pháp tức là chơn như của sáu phép Ba-la-mật-đa; chơn như của sáu phép Ba-la-mật-đa tức là chơn như của pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chơn như của pháp không nội cho đến chơn như của pháp không không tánh tự tánh tức là chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chơn như của chơn như cho đến chơn như của cảnh giới bất tư nghì tức là chơn như của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; chơn như của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo tức là chơn như của bốn niệm trụ; chơn như của bốn niệm trụ tức là chơn như của bốn chánh đoạn; chơn như của bốn chánh đoạn tức là chơn như của bốn thần túc; chơn như của bốn thần túc tức là chơn như của năm căn; chơn như của năm căn tức là chơn như của năm lực; chơn như của năm lực tức là chơn như của bảy chi đẳng giác; chơn như của bảy chi đẳng giác tức là chơn như của tám chi thánh đạo; chơn như của tám chi thánh đạo tức là chơn như của bốn tịnh lự; chơn như của bốn tịnh lự tức là chơn như của bốn vô lượng; chơn như của bốn vô lượng tức là chơn như của bốn định vô sắc; chơn như của bốn định vô sắc tức là chơn như của tám giải thoát; chơn như của tám giải thoát tức là chơn như của tám thắng xứ; chơn như của tám thắng xứ tức là chơn như của chín định thứ đệ; chơn như của chín định thứ đệ tức là chơn như của mười biến xứ; chơn như của mười biến xứ tức là chơn như của ba pháp môn giải thoát; chơn như của ba pháp môn giải thoát tức là chơn như của mười địa Bồ-tát; chơn như của mười địa Bồ-tát tức là chơn như của năm loại mắt; chơn như của năm loại mắt tức là chơn như của sáu phép thần thông; chơn như của sáu phép thần thông tức là chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni tức là chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là chơn như của mười lực Phật; chơn như của mười lực Phật tức là chơn như của bốn điều không sợ; chơn như của bốn điều không sợ tức là chơn như của bốn sự hiểu biết thông suốt; chơn như của bốn sự hiểu biết thông suốt tức là chơn như của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; chơn như của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả tức là chơn như của mười tám pháp Phật bất cộng; chơn như của mười tám pháp Phật bất cộng tức là chơn như của pháp không quên mất; chơn như của pháp không quên mất tức là chơn như của tánh luôn luôn xả; chơn như của tánh luôn luôn xả tức là chơn như của trí nhất thiết; chơn như của trí nhất thiết tức là chơn như của trí đạo tướng; chơn như của trí đạo tướng tức là chơn như của trí nhất thiết tướng; chơn như của trí nhất thiết tướng tức là chơn như của pháp thiện; chơn như của pháp thiện tức là chơn như của pháp bất thiện; chơn như của pháp bất thiện tức là chơn như của pháp vô ký; chơn như của pháp vô ký tức là chơn như của pháp thế gian; chơn như của pháp thế gian tức là chơn như của pháp xuất thế gian; chơn như của pháp xuất thế gian tức là chơn như của pháp hữu lậu; chơn như của pháp hữu lậu tức là chơn như của pháp vô lậu; chơn như của pháp vô lậu tức là chơn như của pháp hữu tội; chơn như của pháp hữu tội tức là chơn như của pháp vô tội; chơn như của pháp vô tội tức là chơn như của pháp tạp nhiễm; chơn như của pháp tạp nhiễm tức là chơn như của pháp thanh tịnh; chơn như của pháp thanh tịnh tức là chơn như của pháp quá khứ; chơn như của pháp quá khứ tức là chơn như của pháp vị lai; chơn như của pháp vị lai tức là chơn như của pháp hiện tại; chơn như của pháp hiện tại tức là chơn như của pháp Dục giới; chơn như của pháp Dục giới tức là chơn như của pháp Sắc giới; chơn như của pháp Sắc giới tức là chơn như của pháp Vô sắc giới; chơn như của pháp Vô sắc giới tức là chơn như của pháp hữu vi; chơn như của pháp hữu vi tức là chơn như của pháp vô vi; chơn như của pháp vô vi tức là chơn như của quả Dự-lưu; chơn như của quả Dự-lưu tức là chơn như của quả Nhất-lai; chơn như của quả Nhất-lai tức là chơn như của quả Bất-hoàn; chơn như của quả Bất-hoàn tức là chơn như của quả A-la-hán; chơn như của quả A-la-hán tức là chơn như của quả vị Độc-giác; chơn như của quả vị Độc-giác tức là chơn như của tất cả hạnh đại Bồ-tát; chơn như của tất cả hạnh đại Bồ-tát tức là chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật tức là chơn như của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; chơn như của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tức là chơn như của tất cả hữu tình.

Này Thiện Hiện! Hoặc chơn như của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc chơn như của tất cả hữu tình, hoặc chơn như của tất cả pháp đều không hai, không riêng biệt, chỉ là một chơn như; vì chơn như như thế không riêng, không khác, không hoại, không tận, chẳng thể phân biệt.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà chứng rốt ráo chơn như của tất cả pháp cho đến đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do đó nên nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng sanh ra chư Phật, là mẹ của chư Phật, có công năng chỉ rõ thật tướng thế gian của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa biết như thật chơn như của tất cả pháp chẳng hư vọng, chẳng đổi khác; do biết như thật tướng chơn như nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chơn như của tất cả pháp đã chứng của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng hư vọng, chẳng đổi khác, rất là sâu xa, khó thấy khó biết.

Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều dùng chơn như của tất cả pháp chẳng hư vọng, chẳng đổi khác, để chỉ rõ phân biệt quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Chơn như của tất cả pháp sâu xa, ai có thể tin hiểu? Chỉ có đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển và A-la-hán lậu tận đầy đủ chánh kiến, nghe Phật nói chơn như sâu xa này mới có thể phát sanh sự tin hiểu. Như Lai nương vào tướng chơn như tự chứng để chỉ rõ phân biệt cho họ.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chơn như vô tận nên sâu xa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như vô tận?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô tận, nên chơn như vô tận.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácchứng chơn như nên đạt được quả vị giác ngộ cao tột, vì các loại hữu tình chỉ rõ phân biệt tướng chơn như của tất cả pháp. Do đó nên gọi là bậc nói chơn thật.

Lúc bấy giờ, các Thiên tửDục giới, Sắc giới trong thế giới ba lần ngàn đều dùng các loại hương hoa vi diệu cõi trời, từ xa rải đến cúng dường, rồi đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân, lui đứng một bên, chấp tay cung kính đồng bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã nói lấy gì làm tướng?

Bấy giờ, Phật bảo các Thiên tử: Này Thiên tử! Nên biết, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy không làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô tướng làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô nguyện làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô tác làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô sanh, vô diệt làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô nhiễm, vô tịnh làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô tánh làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô tự tánh làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô tánh tự tánh làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô sở y chỉ làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy phi đoạn, phi thường làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy phi nhất, phi dị làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy vô lai, vô khứ làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy hư không làm tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xavô lượng các tướng như thế.

Thiên tử nên biết! Các tướng như thế, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương vào thế tục mà nói, chứ không nương vào thắng nghĩa.

Thiên tử nên biết! Các tướng như thế của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian đều chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian cũng là tướng.

Thiên tử nên biết! Các tướng thì chẳng thể phá hoại các tướng, các tướng chẳng thể biết rõ các tướng, các tướng chẳng thể phá hoại vô tướng, các tướng chẳng thể biết rõ vô tướng; vô tướng chẳng thể phá hoại các tướng, vô tướng chẳng thể biết rõ các tướng, vô tướng chẳng thể phá hoại vô tướng, vô tướng chẳng thể biết rõ vô tướng. Vì sao? Vì hoặc tướng, hoặc vô tướng, hoặc tướng vô tướng đều không sở hữu, năng phá, năng tri, sở phá, sở tri và sự phá, sự biết chẳng thể nắm bắt được.

Thiên tử nên biết! Các tướng như thế chẳng phải sắc tạo ra, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức tạo ra; chẳng phải nhãn xứ tạo ra, chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tạo ra; chẳng phải sắc xứ tạo ra, chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tạo ra; chẳng phải nhãn giới tạo ra, chẳng phải sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tạo ra; chẳng phải nhĩ giới tạo ra, chẳng phải thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra tạo ra; chẳng phải tỷ giới tạo ra, chẳng phải hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra tạo ra; chẳng phải thiệt giới tạo ra, chẳng phải vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra tạo ra; chẳng phải thân giới tạo ra; chẳng phải xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra tạo ra; chẳng phải ý giới tạo ra, chẳng phải pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tạo ra; chẳng phải địa giới tạo ra, chẳng phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới tạo ra; chẳng phải vô minh tạo ra, chẳng phải hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tạo ra; chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa tạo ra, chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tạo ra; chẳng phải pháp không nội tạo ra, chẳng phải pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh tạo ra; chẳng phải chơn như tạo ra, chẳng phải pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì tạo ra; chẳng phải Thánh đế khổ tạo ra, chẳng phải Thánh đế tập, diệt, đạo tạo ra; chẳng phải bốn tịnh lự tạo ra, chẳng phải bốn vô lượng, bốn định vô sắc tạo ra; chẳng phải tám giải thoát tạo ra, chẳng phải tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ tạo ra; chẳng phải bốn niệm trụ tạo ra, chẳng phải bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo tạo ra; chẳng phải pháp môn giải thoát không tạo ra, chẳng phải pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tạo ra; chẳng phải mười địa Bồ-tát tạo ra; chẳng phải năm loại mắt tạo ra, chẳng phải sáu phép thần thông tạo ra; chẳng phải mười lực Phật tạo ra, chẳng phải bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng tạo ra; chẳng phải pháp không quên mất tạo ra, chẳng phải tánh luôn luôn xả tạo ra; chẳng phải trí nhất thiết tạo ra, chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tạo ra; chẳng phải tất cả pháp môn Đà-la-ni tạo ra, chẳng phải tất cả pháp môn Tam-ma-địa tạo ra; chẳng phải quả Dự-lưu tạo ra, chẳng phải quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán tạo ra; chẳng phải quả vị Độc-giác tạo ra; chẳng phải tất cả hạnh đại Bồ-tát tạo ra; chẳng phải quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật tạo ra.

Thiên tử nên biết! Các tướng như thế chẳng phải thiên tạo ra, chẳng phải phi thiên tạo ra, chẳng phải nhơn tạo ra, chẳng phải phi nhơn tạo ra, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, không hệ thuộc vào đâu, chẳng thể tuyên thuyết.

Thiên tử nên biết! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xa lìa các tướng, chẳng nên hỏi Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa lấy gì làm tướng.

Phật bảo các Thiên tử! Theo ý các ông thì sao, như có người hỏi hư không tướng gì, thì câu hỏi như thế có phải là câu hỏi chính đáng chăng?

Các Thiên tử bạch: Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì hư không không hình thể, không tướng trạng, không tạo tác, chẳng nên hỏi như thế.

Phật bảo các Thiên tử: Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, chẳng nên đặt câu hỏi. Tuy nhiên, các pháp tướng hữu Phật, vô Phật, pháp giới, pháp nhĩ, đối với những tướng này Phật hiện biết như thật cho nên gọi là Như Lai.

Khi ấy, các Thiên tử lại bạch Phật: Các tướng mà Như Lai đã biết như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết. Vì tướng mà Như Lai hiện biết ấy, đối với tất cả pháp chuyển thành trí vô ngại. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác an trụ tướng như thế để phân biệt, khai thị Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, vì các hữu tình gồm thâu các pháp tướng, phương tiện khai thị, khiến đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa chứng đắc trí vô ngại.

Bạch Thế Tôn! Thật hy hữu! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xahành xứ thường có của các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tu hành pháp ấy nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình, phân biệt khai thị tất cả pháp tướng, đó là phân biệt khai thị tướng của sắc, phân biệt khai thị tướng của thọ, tưởng, hành, thức; phân biệt khai thị tướng của nhãn xứ, phân biệt khai thị tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; phân biệt khai thị tướng của sắc xứ, phân biệt khai thị tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; phân biệt khai thị tướng của nhãn giới, phân biệt khai thị tướng của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; phân biệt khai thị tướng của nhĩ giới, phân biệt khai thị tướng của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; phân biệt khai thị tướng của tỷ giới, phân biệt khai thị tướng của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; phân biệt khai thị tướng của thiệt giới, phân biệt khai thị tướng của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; phân biệt khai thị tướng của thân giới, phân biệt khai thị tướng của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; phân biệt khai thị tướng của ý giới, phân biệt khai thị tướng của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; phân biệt khai thị tướng của địa giới, phân biệt khai thị tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; phân biệt khai thị tướng của vô minh, phân biệt khai thị tướng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; phân biệt khai thị tướng của bố thí Ba-la-mật-đa, phân biệt khai thị tướng của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; phân biệt khai thị tướng của pháp không nội, phân biệt khai thị tướng của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; phân biệt khai thị tướng của chơn như, phân biệt khai thị tướng của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; phân biệt khai thị tướng của Thánh đế khổ, phân biệt khai thị tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo; phân biệt khai thị tướng của bốn tịnh lự, phân biệt khai thị tướng của vô lượng, bốn định vô sắc; phân biệt khai thị tướng của tám giải thoát, phân biệt khai thị tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; phân biệt khai thị tướng của bốn niệm trụ, phân biệt khai thị tướng của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; phân biệt khai thị tướng của pháp môn giải thoát không, phân biệt khai thị tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; phân biệt khai thị tướng của mười địa Bồ-tát; phân biệt khai thị tướng của năm loại mắt, phân biệt khai thị tướng của sáu phép thần thông; phân biệt khai thị tướng của mười lực, phân biệt khai thị tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; phân biệt khai thị tướng của pháp không quên mất, phân biệt khai thị tướng của tánh luôn luôn xả; phân biệt khai thị tướng của trí nhất thiết, phân biệt khai thị tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; phân biệt khai thị tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, phân biệt khai thị tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; phân biệt khai thị tướng của quả Dự-lưu, phân biệt khai thị tướng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; phân biệt khai thị tướng của quả vị Độc-giác; phân biệt khai thị tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát; phân biệt khai thị tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Thiên tử: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các ông đã nói! Thiên tử nên biết! Tướng của tất cả pháp, Như Lai biết như thậtvô tướng; đó là biến ngại là tướng của sắc, Như Lai biết như thậtvô tướng, lãnh nạp là tướng của thọ, Như Lai biết như thậtvô tướng, nắm lấy bóng dáng là tướng của tưởng, Như Lai biết như thậtvô tướng, tạo tác là tướng của hành, Như Lai biết như thậtvô tướng, liễu biệt là tướng của thức, Như Lai biết như thậtvô tướng, khổ não tích tụ là tướng của uẩn, Như Lai biết như thậtvô tướng, cửa ngõ sanh trưởng là tướng của xứ, Như Lai biết như thậtvô tướng, nhiều độc hại là tướng của giới, Như Lai biết như thậtvô tướng, hòa hợp sanh khởi là tướng của duyên khởi, Như Lai biết như thậtvô tướng, thường ban cho là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa, Như Lai biết như thậtvô tướng, không bị phiền não thiêu đốt là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa, Như Lai biết như thậtvô tướng, không sân nhuế là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa, Như Lai biết như thậtvô tướng, chẳng thể khuất phục là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa, Như Lai biết như thậtvô tướng, nhiếp trì tâm là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa, Như Lai biết như thậtvô tướng, không trở ngại là tướng của Bát-nhã-ba-la-mật-đa, Như Lai biết như thậtvô tướng; không sở hữu là tướng của pháp không nội v.v... Như Lai biết như thậtvô tướng; chẳng điên đảo là tướng của chơn như v.v... Như Lai biết như thậtvô tướng; chẳng hư vọng là tướng của bốn Thánh đế, Như Lai biết như thậtvô tướng; không phiền nhiễu là tướng của bốn tịnh lự, Như Lai biết như thậtvô tướng; không có giới hạn ngăn cách là tướng của bốn vô lượng, Như Lai biết như thậtvô tướng; không ồn ào, tạp loạn là tướng của bốn định vô sắc, Như Lai biết như thậtvô tướng; không ràng buộc là tướng của tám giải thoát, Như Lai biết như thậtvô tướng; có khả năng chế phục là tướng của tám thắng xứ, Như Lai biết như thậtvô tướng; chẳng tán loạn là tướng của chín định thứ đệ, Như Lai biết như thậtvô tướng; không giới hạn là tướng của mười biến xứ, Như Lai biết như thậtvô tướng; có công năng xuất ly là tướng của ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, Như Lai biết như thậtvô tướng; xa lìa hết mức là tướng của pháp môn giải thoát không, Như Lai biết như thậtvô tướng; rất tĩch lặng là tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, Như Lai biết như thậtvô tướng; nhàm chán các khổ là tướng của pháp môn giải thoát vô nguyện, Như Lai biết như thậtvô tướng; hướng đến đại giác ngộ là tướng của mười địa Bồ-tát, Như Lai biết như thậtvô tướng; có khả năng quán chiếu là tướng của năm loại mắt, Như Lai biết như thậtvô tướng; không ngưng trệ là tướng của sáu phép thần thông, Như Lai biết như thậtvô tướng; khéo quyết định là tướng của mười lực Phật, Như Lai biết như thậtvô tướng; khéo an lập là tướng của bốn điều không sợ, Như Lai biết như thậtvô tướng; không đoạn tuyệt là tướng của bốn sự hiểu biết thông suốt, Như Lai biết như thậtvô tướng; ban cho lợi lạc là tướng của đại từ, Như Lai biết như thậtvô tướng; bứng gốc sầu khổ là tướng của đại bi, Như Lai biết như thậtvô tướng; mừng việc thiện là tướng của đại hỷ, Như Lai biết như thậtvô tướng; bỏ ồn ào tạp loạn là tướng của đại xả, Như Lai biết như thậtvô tướng; chẳng thể đoạt là tướng của mười tám pháp Phật bất cộng, Như Lai biết như thậtvô tướng; khéo nhớ nghĩ là tướng của pháp không quên mất, Như Lai biết như thậtvô tướng; không chấp trước là tướng của tánh luôn luôn xả, Như Lai biết như thậtvô tướng; hiện giác ngộ là tướng của trí nhất thiết, Như Lai biết như thậtvô tướng; khéo thông đạt là tướng của trí đạo tướng, Như Lai biết như thậtvô tướng; hiện biệt giác là tướng của trí nhất thiết tướng, Như Lai biết như thậtvô tướng; nhiếp trì khắp là tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, Như Lai biết như thậtvô tướng; nhiếp thọ khắp là tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, Như Lai biết như thậtvô tướng; khéo thọ giáo là tướng của quả Thanh-văn, Như Lai biết như thậtvô tướng; tự khai ngộ là tướng của quả vị Độc-giác, Như Lai biết như thậtvô tướng; hướng đến đại quả là tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát, Như Lai biết như thậtvô tướng; không gì bằng là tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, Như Lai biết như thậtvô tướng.

Thiên từ nên biết! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp tướng như thế đều có khả năng biết như thậtvô tướng. Do nhân duyên này, Ta nói chư Phật chứng đắc trí vô ngại, không ai sánh bằng.

Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa là mẹ của chư Phật, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xacông năng chỉ rõ thật tướng của các pháp thế gian. Cho nên, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương pháp ấy mà an trụ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nhiếp thọ hộ trì pháp đã nương vào, an trụ. Pháp ấy tức là Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng xuất sanh chư Phật, có khả năng làm nơi nương tựa cho chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là bậc biết ơn, là bậc báo ơn.

Này Thiện Hiện! Nếu có người hỏi: Ai là bậc tri ânbáo ân thì nên đáp Phật là bậc tri ânbáo ân. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả người tri ânbáo ân trong thế gian không ai hơn Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tri ân và báo ân?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cỡi xe như vậy, đi con đường như vậy để đến quả vị giác ngộ cao tột; được giác ngộ rồi, trong tất cả thời cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nhiếp thọ hộ trì xe ấy, đường ấy; chưa từng tạm rời xe ấy, đường ấy; nên biết đó chính là Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Như vậy gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tri ânbáo ân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các pháp hữu tướng và vô tướng đều biểu hiện sự giác ngộ bình đẳng, không thật tác dụng, vì cái tạo tác không sở hữu; tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đối với các pháp hữu tướng vô tướng đều biểu hiện sự giác ngộ bình đẳng, không có sự thành tựu, vì các hình tướng chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, nên có khả năng biểu hiện sự giác ngộ bình đẳng về pháp tướng, vô tướng đều không tác dụng, không gì thành tựu, ở tất cả thời cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, nhiếp thọ hộ trì không có gián đoạn, cho nên gọi là tri ân, báo ân chơn thật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp, không tạo tác, không thành tựu, không sanh khởi chuyển trí, lại có khả năng biết nhân duyên vô chuyển này. Vì vậy nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng xuất sanh chư Phật, cũng có khả năng chỉ rõ như thật tướng thế gian.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp tánh không sanh, không khởi, không biết, không thấy thì như thế sao có thể nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng xuất sanh chư Phật, là mẹ của chư Phật, cũng có khả năng chỉ rõ như thật tướng thế gian?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nói. Tất cả pháp tánh không sanh, không khởi, không biết, không thấy, nhưng nương thế tục mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng xuất sanh chư Phật, là mẹ của chư Phật, cũng có khả năng chỉ rõ như thật tướng thế gian.

Bạch Thế Tôn! Tại sao các pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp là không, không sở hữu, đều chẳng tự tại, hư dối, không chắc thật, nên tất cả pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp tánh không nương tựa vào đâu, không hệ thuộc vào đâu, do nhân duyên ấy nên không sanh, không khởi, không biết, không thấy.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tuy có khả năng xuất sanh chư Phật, có khả năng chỉ rõ như thật tướng thế gian nhưng không có cái sanh khởi, cũng không có cái chỉ rõ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy sắc nên gọi là chỉ rõ tướng của sắc; vì chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức nên gọi là chỉ rõ tướng của thọ, tưởng, hành, thức.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy nhãn xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của nhãn xứ; vì chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy sắc xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của sắc xứ; vì chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy nhãn giới nên gọi là chỉ rõ tướng của nhãn giới; vì chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra gọi chỉ rõ tướng của sắc giới cho đến tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy nhĩ giới nên gọi là chỉ rõ tướng của nhĩ giới; vì chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của thanh giới cho đến tướng của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy tỷ giới nên gọi là chỉ rõ tướng của tỷ giới; vì chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của hương giới cho đến tướng của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy thiệt giới nên gọi là chỉ rõ tướng của thiệt giới; vì chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của vị giới cho đến tướng của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy thân giới nên gọi là chỉ rõ tướng của thân giới; vì chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của xúc giới cho đến tướng của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy ý giới nên gọi là chỉ rõ tướng của ý giới; vì chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp giới cho đến tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy địa giới nên gọi là chỉ rõ tướng của địa giới; vì chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên gọi là chỉ rõ tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy vô minh nên gọi là chỉ rõ tướng của vô minh; vì chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nên gọi là chỉ rõ tướng của hành cho đến tướng của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa nên gọi là chỉ rõ tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; vì chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên gọi là chỉ rõ tướng của tịnh giới cho đến tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy pháp không nội nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không nội; vì chẳng thấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không ngoại cho đến tướng của pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy chơn như nên gọi là chỉ rõ tướng của chơn như; vì chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp giới cho đến tướng của cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy Thánh đế khổ nên gọi là chỉ rõ tướng của Thánh đế khổ; vì chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo nên gọi là chỉ rõ tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy bốn tịnh lự nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn tịnh lự; vì chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy tám giải thoát nên gọi là chỉ rõ tướng của tám giải thoát; vì chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy bốn niệm trụ nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn niệm trụ; vì chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn chánh đoạn cho đến tướng của tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy pháp môn giải thoát không nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp môn giải thoát không; vì chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy mười địa Bồ-tát nên gọi là chỉ rõ tướng của mười địa Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy năm loại mắt nên gọi là chỉ rõ tướng của năm loại mắt; vì chẳng thấy sáu phép thần thông nên gọi là chỉ rõ tướng của sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy mười lực Phật nên gọi là chỉ rõ tướng của mười lực Phật; vì chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn điều không sợ cho đến tướng của mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy pháp không quên mất nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không quên mất; vì chẳng thấy tánh luôn luôn xả nên gọi là chỉ rõ tướng của tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy trí nhất thiết nên gọi là chỉ rõ tướng của trí nhất thiết; vì chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nên gọi là chỉ rõ tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy quả Dự-lưu nên gọi là chỉ rõ tướng của quả Dự-lưu; vì chẳng thấy quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán nên gọi là chỉ rõ tướng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy quả vị Độc-giác nên gọi là chỉ rõ tướng của quả vị Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy tất cả hạnh đại Bồ-tát nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật nên gọi là chỉ rõ tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian của chư Phật, nên gọi là mẹ của chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tại sao vì chẳng thấy sắc nên gọi là chỉ rõ tướng của sắc; vì chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức nên gọi là chỉ rõ tướng của thọ, tưởng, hành, thức? Tại sao vì chẳng thấy nhãn xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của nhãn xứ; vì chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ? Tại sao vì chẳng thấy sắc xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của sắc xứ; vì chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ? Tại sao vì chẳng thấy nhãn giới nên gọi là chỉ rõ tướng của nhãn giới; vì chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của sắc giới cho đến tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra? Tại sao vì chẳng thấy nhĩ giới nên gọi là chỉ rõ tướng của nhĩ giới; vì chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của thanh giới cho đến tướng của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra? Tại sao vì chẳng thấy tỷ giới nên gọi là chỉ rõ tướng của tỷ giới; vì chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của hương giới cho đến tướng của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra? Tại sao vì chẳng thấy thiệt giới nên gọi là chỉ rõ tướng của thiệt giới; vì chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của vị giới cho đến tướng của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra? Tại sao vì chẳng thấy thân giới nên gọi là chỉ rõ tướng của thân giới; vì chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của xúc giới cho đến tướng của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra? Tại sao vì chẳng thấy ý giới nên gọi là chỉ rõ tướng của ý giới; vì chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp giới cho đến tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra? Tại sao vì chẳng thấy địa giới nên gọi là chỉ rõ tướng của địa giới, vì chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên gọi là chỉ rõ tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới? Tại sao vì chẳng thấy vô minh nên gọi là chỉ rõ tướng của vô minh; vì chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nên gọi là chỉ rõ tướng của hành cho đến tướng của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não? Tại sao vì chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa nên gọi là chỉ rõ tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; vì chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên gọi là chỉ rõ tướng của tịnh giới cho đến tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Tại sao vì chẳng thấy pháp không nội nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không nội; vì chẳng thấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không ngoại cho đến tướng của pháp không không tánh tự tánh? Tại sao vì chẳng thấy chơn như nên gọi chỉ tướng của chơn như; vì chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp giới cho đến tướng của cảnh giới bất tư nghì? Tại sao vì chẳng thấy Thánh đế khổ nên gọi là chỉ rõ tướng của Thánh đế khổ; vì chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo nên gọi là chỉ rõ tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo? Tại sao vì chẳng thấy bốn tịnh lự nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn tịnh lự; vì chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Tại sao vì chẳng thấy tám giải thoát nên gọi là chỉ rõ tướng của tám giải thoát; vì chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nên gọi là chỉ rõ tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ? Tại sao vì chẳng thấy bốn niệm trụ nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn niệm trụ; vì chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn chánh đoạn cho đến tướng của tám chi thánh đạo? Tại sao vì chẳng thấy pháp môn giải thoát không nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp môn giải thoát không; vì chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện? Tại sao vì chẳng thấy mười địa Bồ-tát nên gọi là chỉ rõ tướng của mười địa Bồ-tát? Tại sao vì chẳng thấy năm loại mắt nên gọi là chỉ rõ tướng của năm loại mắt; vì chẳng thấy sáu phép thần thông nên gọi là chỉ rõ tướng của sáu phép thần thông? Tại sao vì chẳng thấy mười lực Phật nên gọi là chỉ rõ tướng của mười lực Phật; vì chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn điều không sợ cho đến tướng của mười tám pháp Phật bất cộng? Tại sao vì chẳng thấy pháp không quên mất nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không quên mất; vì chẳng thấy tánh luôn luôn xả nên gọi là chỉ rõ tướng của tánh luôn luôn xả? Tại sao vì chẳng thấy trí nhất thiết nên gọi là chỉ rõ tướng của trí nhất thiết; vì chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nên gọi là chỉ rõ tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng? Tại sao vì chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa? Tại sao vì chẳng thấy quả Dự-lưu nên gọi là chỉ rõ tướng của quả Dự-lưu; vì chẳng thấy quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán nên gọi là chỉ rõ tướng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán? Tại sao vì chẳng thấy quả vị Độc-giác nên gọi là chỉ rõ tướng của quả vị Độc-giác? Tại sao vì chẳng thấy tất cả hạnh đại Bồ-tát nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát? Tại sao vì chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật nên gọi là chỉ rõ tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật?

Quyển Thứ 306
HẾT

XXXXI. PHẨM PHẬT MẪU

03

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa do chẳng duyên sắc mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy sắc, nên gọi là chỉ rõ tướng của sắc, chẳng duyên thọ, tưởng, hành, thức xuất sanh ra thức, đó là vì chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, nên gọi là chỉ rõ tướng của thọ, tưởng, hành, thức; do chẳng duyên nhãn xứ mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy nhãn xứ, nên gọi là chỉ rõ tướng của nhãn xứ, chẳng duyên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nên gọi là chỉ rõ tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; do chẳng duyên sắc xứ mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy sắc xứ, nên gọi là chỉ rõ tướng của sắc xứ, chẳng duyên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, nên gọi là chỉ rõ tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; do chẳng duyên nhãn giới mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy nhãn giới, nên gọi là chỉ rõ tướng của nhãn giới, chẳng duyên sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, nên gọi là chỉ rõ tướng của sắc giới cho đến tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; do chẳng duyên nhĩ giới mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy nhĩ giới, nên gọi là chỉ rõ tướng của nhĩ giới, chẳng duyên thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, nên gọi là chỉ rõ tướng của thanh giới cho đến tướng của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; do chẳng duyên tỷ giới mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy tỷ giới, nên gọi là chỉ rõ tướng của tỷ giới, chẳng duyên hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, nên gọi là chỉ rõ tướng của hương giới cho đến tướng của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; do chẳng duyên thiệt giới mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy thiệt giới, nên gọi là chỉ rõ tướng của thiệt giới, chẳng duyên vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, nên gọi là chỉ rõ tướng của vị giới cho đến tướng của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; do chẳng duyên thân giới mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy thân giới, nên gọi là chỉ rõ tướng của thân giới, chẳng duyên xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, nên gọi là chỉ rõ tướng của xúc giới cho đến tướng của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; do chẳng duyên ý giới mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy ý giới, nên gọi là chỉ rõ tướng của ý giới, chẳng duyên pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp giới cho đến tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; do chẳng duyên địa giới mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy địa giới, nên gọi là chỉ rõ tướng của địa giới, chẳng duyên thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, nên gọi là chỉ rõ tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; do chẳng duyên vô minh mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy vô minh, nên gọi là chỉ rõ tướng của vô minh, chẳng duyên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, nên gọi là chỉ rõ tướng của hành cho đến tướng của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; do chẳng duyên bố thí Ba-la-mật-đa mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa, nên gọi là chỉ rõ tướng của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng duyên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên gọi là chỉ rõ tướng của tịnh giới cho đến tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa; do chẳng duyên pháp không nội mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy pháp không nội, nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không nội, chẳng duyên pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không ngoại cho đến tướng của pháp không không tánh tự tánh; do chẳng duyên chơn như mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy chơn như, nên gọi chỉ tướng của chơn như, chẳng duyên pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp giới cho đến tướng của cảnh giới bất tư nghì; do chẳng duyên Thánh đế khổ mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy Thánh đế khổ, nên gọi là chỉ rõ tướng của Thánh đế khổ, chẳng duyên Thánh đế tập, diệt, đạo mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo, nên gọi là chỉ rõ tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo; do chẳng duyên bốn tịnh lự mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy bốn tịnh lự, nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn tịnh lự, chẳng duyên bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; do chẳng duyên tám giải thoát mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy tám giải thoát, nên gọi là chỉ rõ tướng của tám giải thoát, chẳng duyên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nên gọi là chỉ rõ tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; do chẳng duyên bốn niệm trụ mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy bốn niệm trụ, nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn niệm trụ, chẳng duyên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn chánh đoạn cho đến tướng của tám chi thánh đạo; do chẳng duyên pháp môn giải thoát không mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy pháp môn giải thoát không, nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp môn giải thoát không, chẳng duyên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; do chẳng duyên mười địa Bồ-tát mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy mười địa Bồ-tát, nên gọi là chỉ rõ tướng của mười địa Bồ-tát; do chẳng duyên năm loại mắt mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy năm loại mắt, nên gọi là chỉ rõ tướng của năm loại mắt, chẳng duyên sáu phép thần thông mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy sáu phép thần thông, nên gọi là chỉ rõ tướng của sáu phép thần thông; do chẳng duyên mười lực Phật mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy mười lực Phật, nên gọi là chỉ rõ tướng của mười lực Phật, chẳng duyên bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên gọi là chỉ rõ tướng của bốn điều không sợ cho đến tướng của mười tám pháp Phật bất cộng; do chẳng duyên pháp không quên mất mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy pháp không quên mất, nên gọi là chỉ rõ tướng của pháp không quên mất, chẳng duyên tánh luôn luôn xả mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy tánh luôn luôn xả, nên gọi là chỉ rõ tướng của tánh luôn luôn xả; do chẳng duyên trí nhất thiết mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy trí nhất thiết, nên gọi là chỉ rõ tướng của trí nhất thiết, chẳng duyên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên gọi là chỉ rõ tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; do chẳng duyên tất cả pháp môn Đà-la-ni mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni, nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng duyên tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; do chẳng duyên quả Dự-lưu mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy quả Dự-lưu, nên gọi là chỉ rõ tướng của quả Dự-lưu, chẳng duyên quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, nên gọi là chỉ rõ tướng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; do chẳng duyên quả vị Độc-giác mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy quả vị Độc-giác, nên gọi là chỉ rõ tướng của quả vị Độc-giác; do chẳng duyên tất cả hạnh đại Bồ-tát mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy tất cả hạnh đại Bồ-tát, nên gọi là chỉ rõ tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát; do chẳng duyên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà sanh thức, đó là vì chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, nên gọi là chỉ rõ tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng vì chư Phật mà chỉ rõ cái không của thế gian nên gọi là mẹ của chư Phật; có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng vì chư Phật chỉ rõ cái không của thế gian là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng vì chư Phật chỉ rõ sắc là cái không của thế gian, chỉ rõ thọ, tưởng, hành, thức là cái không của thế gian; chỉ rõ nhãn xứ là cái không của thế gian, chỉ rõ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là cái không của thế gian; chỉ rõ sắc xứ là cái không của thế gian, chỉ rõ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là cái không của thế gian; chỉ rõ nhãn giới là cái không của thế gian, chỉ rõ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là cái không của thế gian; chỉ rõ nhĩ giới là cái không của thế gian, chỉ rõ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là cái không của thế gian; chỉ rõ tỷ giới là cái không của thế gian, chỉ rõ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là cái không của thế gian; chỉ rõ thiệt giới là cái không của thế gian, chỉ rõ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là cái không của thế gian; chỉ rõ thân giới là cái không của thế gian, chỉ rõ xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là cái không của thế gian; chỉ rõ ý giới là cái không của thế gian, chỉ rõ pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là cái không của thế gian; chỉ rõ địa giới là cái không của thế gian, chỉ rõ thủy, hỏa, phong, không, thức giới là cái không của thế gian; chỉ rõ vô minh là cái không của thế gian, chỉ rõ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là cái không của thế gian; chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là cái không của thế gian, chỉ rõ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là cái không của thế gian; chỉ rõ pháp không nội là cái không của thế gian, chỉ rõ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là cái không của thế gian; chỉ rõ chơn như là cái không của thế gian, chỉ rõ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là cái không của thế gian; chỉ rõ Thánh đế khổ là cái không của thế gian, chỉ rõ Thánh đế tập, diệt, đạo là cái không của thế gian; chỉ rõ bốn tịnh lự là cái không của thế gian, chỉ rõ bốn vô lượng, bốn định vô sắc là cái không của thế gian; chỉ rõ tám giải thoát là cái không của thế gian, chỉ rõ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là cái không của thế gian; chỉ rõ bốn niệm trụ là cái không của thế gian, chỉ rõ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là cái không của thế gian; chỉ rõ pháp môn giải thoát không là cái không của thế gian, chỉ rõ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là cái không của thế gian; chỉ rõ mười địa Bồ-tát là cái không của thế gian; chỉ rõ năm loại mắt là cái không của thế gian, chỉ rõ sáu phép thần thông là cái không của thế gian; chỉ rõ mười lực Phật là cái không của thế gian, chỉ rõ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là cái không của thế gian; chỉ rõ pháp không quên mất là cái không của thế gian, chỉ rõ tánh luôn luôn xả là cái không của thế gian; chỉ rõ trí nhất thiết là cái không của thế gian, chỉ rõ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là cái không của thế gian; chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là cái không của thế gian, chỉ rõ tất cả pháp môn Tam-ma-địa là cái không của thế gian; chỉ rõ quả Dự-lưu là cái không của thế gian, chỉ rõ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là cái không của thế gian; chỉ rõ quả vị Độc-giác là cái không của thế gian; chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là cái không của thế gian; chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là cái không của thế gian.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng khiến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm cho các thế gian nhận cái không của thế gian, tưởng cái không của thế gian, nghĩ cái không của thế gian, rõ cái không của thế gian.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng không của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng không của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng không của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng không của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứtướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứtướng không của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứtướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giớitướng không của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giớitướng không của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng không của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng không của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giớitướng không của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giớitướng không của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giớitướng không của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giớitướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minhtướng không của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng không của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đatướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng không của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánhtướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn nhưtướng không của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng không của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lựtướng không của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắctướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoáttướng không của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứtướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng không của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạotướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng không của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệntướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắttướng không của thế gian, sáu phép thần thôngtướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng không của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngtướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng không của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiếttướng không của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng không của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng không của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng không của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, sáu phép thần thông là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng chẳng thể nghĩ bàn của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng viễn ly của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng viễn ly của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng viễn ly của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng viễn ly của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng viễn ly của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng viễn ly của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng viễn ly của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng viễn ly của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng viễn ly của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng viễn ly của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng viễn ly của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng viễn ly của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng viễn ly của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng viễn ly của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng viễn ly của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng viễn ly của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng viễn ly của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng viễn ly của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng viễn ly của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng viễn ly của thế gian, sáu phép thần thông là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng viễn ly của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng viễn ly của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng viễn ly của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng viễn ly của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng viễn ly của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng viễn ly của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng tịch tịnh của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng tịch tịnh của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng tịch tịnh của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng tịch tịnh của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng tịch tịnh của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng tịch tịnh của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng tịch tịnh của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng tịch tịnh của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng tịch tịnh của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng tịch tịnh của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng tịch tịnh của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng tịch tịnh của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng tịch tịnh của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng tịch tịnh của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng tịch tịnh của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng tịch tịnh của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng tịch tịnh của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng tịch tịnh của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng tịch tịnh của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng tịch tịnh của thế gian, sáu phép thần thông là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng tịch tịnh của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng tịch tịnh của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng tịch tịnh của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng tịch tịnh của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng tịch tịnh của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng tịch tịnh của thế gian cho chư Phật.



Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng rốt ráo không của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng rốt ráo không của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng rốt ráo không của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng rốt ráo không của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng rốt ráo không của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng rốt ráo không của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng rốt ráo không của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng rốt ráo không của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng rốt ráo không của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng rốt ráo không của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng rốt ráo không của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng rốt ráo không của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng rốt ráo không của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng rốt ráo không của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng rốt ráo không của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng rốt ráo không của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng rốt ráo không của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng rốt ráo không của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng rốt ráo không của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng rốt ráo không của thế gian, sáu phép thần thông là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng rốt ráo không của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng rốt ráo không của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng rốt ráo không của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng rốt ráo không của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng rốt ráo không của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng rốt ráo không của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng của pháp không không tánh của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng của pháp không không tánh của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng của pháp không không tánh của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng của pháp không không tánh của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng của pháp không không tánh của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng của pháp không không tánh của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng của pháp không không tánh của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng của pháp không không tánh của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng của pháp không không tánh của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng của pháp không không tánh của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng của pháp không không tánh của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng của pháp không không tánh của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng của pháp không không tánh của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng của pháp không không tánh của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng của pháp không không tánh của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng của pháp không không tánh của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng của pháp không không tánh của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng của pháp không không tánh của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng của pháp không không tánh của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng của pháp không không tánh của thế gian, sáu phép thần thông là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng của pháp không không tánh của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng của pháp không không tánh của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng của pháp không không tánh của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng của pháp không không tánh của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng của pháp không không tánh của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng của pháp không không tánh của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Quyển Thứ 307
HẾT

XXXXI. PHẨM PHẬT MẪU

04

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, sáu phép thần thông là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng của pháp không tự tánh của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng của pháp không tự tánh của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, sáu phép thần thông là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng của pháp không không tánh tự tánh của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng thuần không của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng thuần không của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng thuần không của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng thuần không của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng thuần không của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng thuần không của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng thuần không của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng thuần không của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng thuần không của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng thuần không của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng thuần không của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng thuần không của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng thuần không của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng thuần không của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng thuần không của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng thuần không của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng thuần không của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng thuần không của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng thuần không của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng thuần không của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng thuần không của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng thuần không của thế gian, sáu phép thần thông là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng thuần không của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng thuần không của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng thuần không của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng thuần không của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng thuần không của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng thuần không của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật, có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật là gì?

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ sắc là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, thọ, tưởng, hành, thức là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn xứ là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ sắc xứ là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhãn giới là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ nhĩ giới là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tỷ giới là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thiệt giới là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ thân giới là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ ý giới là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ địa giới là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ vô minh là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bố thí Ba-la-mật-đa là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không nội là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ chơn như là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ Thánh đế khổ là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, Thánh đế tập, diệt, đạo là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn tịnh lự là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tám giải thoát là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ bốn niệm trụ là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp môn giải thoát không là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười địa Bồ-tát là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ năm loại mắt là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, sáu phép thần thông là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ mười lực Phật là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ pháp không quên mất là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, tánh luôn luôn xả là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ trí nhất thiết là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả pháp môn Đà-la-ni là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả Dự-lưu là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị Độc-giác là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ tất cả hạnh đại Bồ-tát là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật; có khả năng chỉ rõ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tướng thuần vô tướng vô nguyện của thế gian cho chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do ý nghĩa như thế, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian cho chư Phật nên gọi là mẹ của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng chỉ rõ thật tướng thế gian ấy cho chư Phật, khiến không sanh khởi tưởng thế gian này, tưởng thế gian khác. Vì sao? Vì thật không có pháp có thể khởi tưởng thế gian này, thế gian khác.
XXXXII. PHẨM CHẲNG NGHĨ BÀN

01

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn mà xuất hiện ở đời?

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời?

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể xưng lường mà xuất hiện ở đời?

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không có số lượng mà xuất hiện ở đời?

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không gì sánh bằngxuất hiện ở đời?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn mà xuất hiện ở đời; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể xưng lường mà xuất hiện ở đời; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không có số lượng mà xuất hiện ở đời, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không gì sánh bằngxuất hiện ở đời.

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn mà xuất hiện ở đời?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy việc cứu độ khắp tất cả hữu tình không có khi nào ngưng nghỉ làm việc lớn; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn này mà xuất hiện ở đời.

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí đều là việc chẳng thể nghĩ bàn; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể nghĩ bàn này mà xuất hiện ở đời.

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể xưng lường mà xuất hiện ở đời?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí; không có loại hữu tình nào mà có thể xưng lường Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì việc chẳng thể xưng lường này mà xuất hiện ở đời.

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không có số lượng mà xuất hiện ở đời?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí, không có ai biết như thật về số lượng đó. Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không có số lượng này mà xuất hiện ở đời.

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không có gì sánh bằngxuất hiện ở đời?

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí, không có gì sánh bằng huống là có khả năng cao hơn Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì việc không có gì hơn này mà xuất hiện ở đời.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, ngoài ra còn pháp nào nữa không?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Chẳng phải chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mới có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, mà này Thiện Hiện! Sắc cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Nhĩ giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tỷ giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Thiệt giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Thân giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Ý giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Địa giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Vô minh cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Chơn như cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tám giải thoát cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Mười địa Bồ-tát cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Năm loại mắt cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; sáu phép thần thông cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Mười lực Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Quả Dự-lưu cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! quả vị Độc-giác cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tất cả hạnh đại Bồ-tát cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Ở trong chơn pháp tánh của tất cả pháp, tâm và tâm sở chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Nhĩ giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tỷ giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Thiệt giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Thân giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Ý giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Địa giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Vô minh chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Chơn như chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tám giải thoát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Năm loại mắt chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Mười lực Phật chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Quyển Thứ 308
HẾT

XXXXII. PHẨM CHẲNG NGHĨ BÀN

02

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhãn xứ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc xứ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhãn giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhĩ giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tỷ giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thiệt giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thân giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà ý giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà địa giới chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà vô minh chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp không nội chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà chơn như chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tám giải thoát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp môn giải thoát không chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà năm loại mắt chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà mười lực Phật chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng; quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhãn xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhãn giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nhĩ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tỷ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thiệt giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thân giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà ý giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà địa giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà vô minh chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp không nội chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà chơn như chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tám giải thoát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp môn giải thoát không chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà năm loại mắt chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà mười lực Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của sắc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên sắc chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của nhãn xứ chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên nhãn xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của sắc xứ chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên sắc xứ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên nhãn giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của nhĩ giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên nhĩ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của tỷ giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tỷ giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của thiệt giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thiệt giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của thân giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thân giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của ý giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên ý giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của địa giới chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên địa giới chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của vô minh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên vô minh chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của pháp không nội chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp không nội chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của chơn như chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên chơn như chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của Thánh đế khổ chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên Thánh đế khổ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của bốn tịnh lự chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn tịnh lự chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của tám giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tám giải thoát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của bốn niệm trụ chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn niệm trụ chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của pháp môn giải thoát không chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp môn giải thoát không cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của mười địa Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên mười địa Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của năm loại mắt chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên năm loại mắt chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của sáu phép thần thông cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên sáu phép thần thông cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của mười lực Phật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên mười lực Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của pháp không quên mất chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên pháp không quên mất chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của trí nhất thiết chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên trí nhất thiết chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của quả Dự-lưu chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên quả Dự-lưu chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng; vì tự tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của quả vị Độc-giác chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên quả vị Độc-giác chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Vì tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh, nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể an lập tánh nghĩ bàn, xưng lường, số lượng, bình đẳng, bất bình đẳng.

Quyển Thứ 309
HẾT

XXXXII. PHẨM CHẲNG NGHĨ BÀN

03

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của sắc, sắc có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của nhãn xứ, nhãn xứ có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của sắc xứ, sắc xứ có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của nhãn giới, nhãn giới có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của nhĩ giới, nhĩ giới có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của tỷ giới, tỷ giới có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thiệt giới, thiệt giới có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thân giới, thân giới có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của ý giới, ý giới có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của địa giới, địa giới có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của vô minh, vô minh có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của pháp không nội, pháp không nội có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của chơn như, chơn như có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của Thánh đế khổ, Thánh đế khổ có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo, Thánh đế tập, diệt, đạo có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của bốn tịnh lự, bốn tịnh lự có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của tám giải thoát, tám giải thoát có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của bốn niệm trụ, bốn niệm trụ có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát không có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của mười địa Bồ-tát, mười địa Bồ-tát có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của năm loại mắt, năm loại mắt có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của sáu phép thần thông, sáu phép thần thông có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của mười lực Phật, mười lực Phật có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của pháp không quên mất, pháp không quên mất có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của trí nhất thiết, trí nhất thiết có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của quả Dự-lưu, quả Dự-lưu có thể nắm bắt được chăng? Trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của quả vị Độc-giác, quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát, tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể nắm bắt được chăng?

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, trong cái chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng, không có tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Do nhân duyên này, tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng nên pháp Phật, pháp Như Lai, pháp tự nhiên, pháp trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp Phật, pháp Như Lai, pháp tự nhiên, pháp trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thể nghĩ bàn, nên nghĩ bàn diệt; chẳng thể xưng lường, nên xưng lường diệt; không có số lượng, nên số lượng diệt; không gì sánh bằng, nên sánh bằng diệt.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp Phật, pháp Như Lai, pháp tự nhiên, pháp trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thể nghĩ bàn, nên vượt nghĩ bàn; chẳng thể xưng lường, nên vượt xưng lường; không có số lượng, nên vượt số lượng; không gì sánh bằng, nên vượt sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Chẳng thể nghĩ bàn là chỉ có chẳng thể nghĩ bàn trên phương diện ngôn ngữ; chẳng thể xưng lường là chỉ có chẳng thể xưng lường trên phương diện ngôn ngữ; không số lượng là chỉ có không số lượng trên phương diện ngôn ngữ; không gì sánh bằng là chỉ có không gì sánh bằng trên phương diện ngôn ngữ.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, pháp Phật, pháp Như Lai, pháp tự nhiên, pháp trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Chẳng thể nghĩ bàn là chẳng thể nghĩ bàn như hư không; chẳng thể xưng lường là chẳng thể xưng lường như hư không; không có số lượng là không có số lượng như hư không; không gì sánh bằng là không gì sánh bằng như hư không.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, pháp Phật, pháp Như Lai, pháp tự nhiên, pháp trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Pháp Phật, pháp Như Lai, pháp tự nhiên, pháp trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và Thanh-văn, Độc-giác, trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này pháp Phật, pháp Như Lai, pháp tự nhiên, pháp trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng.

Khi đức Phật nói pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng lường, không có số lượng, không gì sánh bằng như thế, trong hội chúng có năm trăm Bí-sô chẳng vướng các lậu, tâm được giải thoát; lại có hai ngàn Bí-sô ni cũng chẳng vướng các lậu, tâm được giải thoát; lại có sáu vạn nam cư sĩ, đối với các pháp, viễn trần ly cấu, phát sanh pháp nhãn thanh tịnh; lại có ba vạn bảy ngàn nữ cư sĩ, đối với các pháp cũng viễn trần ly cấu, phát sanh pháp nhãn thanh tịnh; lại có hai vạn đại Bồ-tát chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, được thọ ký thành Phật ở trong hiền kiếp.
XXXXIII. PHẨM BIỆN SỰ

01

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn mà xuất hiện ở đời; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể xưng lường mà xuất hiện ở đời; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không có số lượng mà xuất hiện ở đời; Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không gì sánh bằngxuất hiện ở đời.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng xưng lường mà xuất hiện ở đời; vì việc không có số lượng mà xuất hiện ở đời; vì việc không gì sánh bằngxuất hiện ở đời. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu chơn như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu mười địa Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu năm loại mắt sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu quả Dự-lưu, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu quả vị Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng thành tựu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Như đại vương Sát-đế-lợi quán đảnh oai đức tự tại, hàng phục tất cả, đem các việc nước giao phó cho đại thần, thong dong vô sự, an ổn khoái lạc.

Này Thiện Hiện! Như Lai cũng vậy, là đấng đại pháp vương đem pháp Thanh-văn, hoặc pháp Độc-giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp chư Phật giao phó hết cho Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Do đó, Bát-nhã-ba-la-mật-đa đều có khả năng thành tựu tất cả sự nghiệp. Vì vậy, này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn mà xuất hiện ở đời, vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng thể xưng lường mà xuất hiện ở đời; vì việc không có số lượng mà xuất hiện ở đời; vì việc không gì sánh bằngxuất hiện ở đời. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước sắc mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước nhãn xứ mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước sắc xứxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước nhãn giớixuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước nhĩ giớixuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước tỷ giới mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước thiệt giới mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước thân giớixuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước ý giớixuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước địa giớixuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giớixuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước vô minhxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đaxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước pháp không nội mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánhxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước chơn nhưxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước Thánh đế khổ mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước bốn tịnh lựxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắcxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước tám giải thoátxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước bốn niệm trụ mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạoxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước pháp môn giải thoát không mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước mười địa Bồ-tát mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước năm loại mắtxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước sáu phép thần thôngxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước mười lực Phật mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước pháp không quên mất mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước trí nhất thiếtxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước quả Dư lưuxuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc; chẳng chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước quả vị Độc-giác mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước tất cả hạnh đại Bồ-tát mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa chẳng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu sự việc.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước nhãn xứ, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước sắc xứ, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước nhãn giới, chẳng chấp trước sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước nhĩ giới; chẳng chấp trước thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước tỷ giới; chẳng chấp trước hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước thiệt giới; chẳng chấp trước vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước thân giới; chẳng chấp trước xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước ý giới; chẳng chấp trước pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước địa giới, chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước vô minh; chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước pháp không nội; chẳng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước chơn như; chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước Thánh đế khổ; chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước bốn tịnh lự; chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước tám giải thoát; chẳng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước bốn niệm trụ; chẳng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước pháp môn giải thoát không; chẳng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước mười địa Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước năm loại mắt; chẳng chấp trước sáu phép thần thông?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước mười lực Phật; chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước pháp không quên mất; chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước trí nhất thiết; chẳng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước quả Dự-lưu; chẳng chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước quả vị Độc-giác?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước pháp tất cả hạnh đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn! Tại sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy sắc có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy nhãn xứ có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy sắc xứ có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy nhãn giới có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy nhĩ giới có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy tỷ giới có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy thiệt giới có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy thân giới có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy ý giới có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy địa giới có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy vô minh có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy bố thí Ba-la-mật-đa có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy pháp không nội có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy chơn như có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy Thánh đế khổ có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy Thánh đế tập, diệt, đạo có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy bốn tịnh lự có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy tám giải thoát có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy bốn niệm trụ có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy pháp môn giải thoát không có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy mười địa Bồ-tát có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy năm loại mắt có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy sáu phép thần thông có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy mười lực Phật có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy pháp không quên mất có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy tánh luôn luôn xả có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy trí nhất thiết có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy quả Dự-lưu có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy quả vị Độc-giác có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, ông có thấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Bạch Thế Tôn! Không!

Quyển Thứ 310
HẾT

XXXXIII. PHẨM BIỆN SỰ

02

Phật dạy: Hay thay! Hay thay! Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói!

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy sắc có thể chấp có thể trước, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy nhãn xứ có thể chấp có thể trước, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy sắc xứ có thể chấp có thể trước; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy nhãn giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy nhĩ giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tỷ giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy thiệt giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy thân giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy ý giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy địa giới có thể chấp có thể trước; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy vô minh có thể chấp có thể trước; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa có thể chấp có thể trước; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy pháp không nội có thể chấp có thể trước; chẳng thấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy chơn như có thể chấp có thể trước; chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy Thánh đế khổ có thể chấp có thể trước; chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy bốn tịnh lự có thể chấp có thể trước; chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tám giải thoát có thể chấp có thể trước; chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy bốn niệm trụ có thể chấp có thể trước; chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy pháp môn giải thoát không có thể chấp có thể trước; chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy mười địa Bồ-tát có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy năm loại mắt có thể chấp có thể trước, chẳng thấy sáu phép thần thông có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy mười lực Phật có thể chấp có thể trước; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy pháp không quên mất có thể chấp có thể trước, chẳng thấy tánh luôn luôn xả có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy trí nhất thiết có thể chấp có thể trước; chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể chấp có thể trước, chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy quả Dự-lưu có thể chấp có thể trước; chẳng thấy quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy quả vị Độc-giác có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước. Cho nên, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước nhãn xứ, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước sắc xứ; chẳng nên chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước nhãn giới; chẳng nên chấp trước sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước nhĩ giới; chẳng nên chấp trước thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tỷ giới; chẳng nên chấp trước hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước thiệt giới; chẳng nên chấp trước vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước thân giới; chẳng nên chấp trước xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước ý giới; chẳng nên chấp trước pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước địa giới; chẳng nên chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước vô minh; chẳng nên chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng nên chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước pháp không nội; chẳng nên chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước; chơn như của chẳng nên chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước Thánh đế khổ, chẳng nên chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước bốn tịnh lự; chẳng nên chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tám giải thoát; chẳng nên chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước bốn niệm trụ; chẳng nên chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát không; chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước mười địa Bồ-tát. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước năm loại mắt, chẳng nên chấp trước sáu phép thần thông. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước mười lực Phật; chẳng nên chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước pháp không quên mất, chẳng nên chấp trước tánh luôn luôn xả. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước trí nhất thiết; chẳng nên chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng nên chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước quả Dự-lưu; chẳng nên chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước quả vị Độc-giác. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tất cả hạnh đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Đại Bồ-tát cũng chẳng nên chấp trước tánh Phật, tánh Như Lai, tánh pháp tự nhiên, tánh trí nhất thiết trí của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Lúc bấy giờ, các Thiên tửDục giớiSắc giới bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, khó thấy khó biết, chẳng thể suy tìm, vượt cảnh suy tìm, vắng lặng mầu nhiệm, chắc thật kín đáo, người trí tuệ thông minh mới có thể biết rõ được.

Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình có khả năng tin hiểu sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế thì nên biết họ đã từng cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ; ở chỗ chư Phật phát nguyện rộng lớn, trồng nhiều căn lành, đã được vô lượng các thiện tri thức nhiếp thọ mới có khả năng tin hiểu Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Bạch Thế Tôn! Giả sử các loại hữu tình trong thế giới ba lần ngàn, đều thành tựu tùy tín hành, tùy pháp hành, đệ bát, Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác thì sự thành tựu ấy, hoặc trí, hoặc đoạn, cũng chẳng bằng có người, một ngày đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này ưa thích, tư duy, xưng lường, quán sát, sự thành tựu nhẫn của người ấy đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, hơn trí đoạn kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Trí đoạn của các tùy tín hành đều chỉ là một phần nhỏ nhẫn đối với vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ-tát đã chứng đắc.

Bạch Thế Tôn! Trí đoạn của chư tùy pháp hành, đệ bát, Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác đều chỉ là một phần nhỏ nhẫn đối với vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ-tát đã chứng đắc.

Bấy giờ, Phật bảo các Thiên tử: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói! Trí đoạn của chư tùy tín hành, tùy pháp hành, đệ bát Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác đều chỉ là một phần nhỏ nhẫn đối với vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ-tát đã chứng đắc.

Thiên tử nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào vừa nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, nghe rồi sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết-bàn, nhanh hơn các thiện nam tử, thiện nữ nhơn khác thích cầu Thanh-văn, Độc-giác, xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà học kinh điển khác, một kiếp hoặc hơn một kiếp. Vì sao? Này các Thiên tử! Trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa rất sâu xa này, rộng nói tất cả thắng pháp vi diệu. Chư tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát, Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác, đại Bồ-tát đều nên đối với pháp này mà tinh cần tu học. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương pháp này mà học, đã chứng, sẽ chứng và hiện chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Khi ấy, các Thiên tử đều cùng bạch: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa lớn. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa chẳng thể xưng lường. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa không có số lượng. Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là Ba-la-mật-đa không gì sánh bằng.

Bạch Thế Tôn! Chư tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát, Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác đều đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà tinh cần tu học, chóng thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn. Tất cả đại Bồ-tát đều đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà tinh cần tu học, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Tuy chư Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát đều nương Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà tinh cần tu học, đều được rốt ráo, nhưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy chẳng tăng chẳng giảm.

Khi ấy, chư Thiên tử Dục giới, Sắc giới nói như vậy rồi, cúi đầu lễ sát chân Phật, vòng quanh bên mặt ba vòng, từ giã Phật trở về cung, ra khỏi hội chúng không xa, bỗng nhiên biến mất.
XXXXIV. PHẨM CHÚNG DỤ

01

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy phát sanh tin hiểu sâu sắc, lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập thì đại Bồ-tát ấy từ nơi nào sanh đến chốn này?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế phát sanh tin hiểu sâu sắc, chẳng khiếp chẳng nhược, chẳng sợ chẳng hãi, chẳng nghi chẳng hoặc, mừng vui thích thú, nhất niệm tư duy nghĩa lý của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc đi khi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm không hề dừng nghỉ, thường theo Pháp sư cung kính thưa hỏi, như nghé con chẳng rời mẹ nó thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, vì cầu nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng bao giờ xa rời pháp sư Bát-nhã. Khi chưa chứng đắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, kinh điển cầm tay, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, rốt ráo thông lợi, thường theo Pháp sư chưa từng ngưng nghỉ thì này Thiện Hiện, nên biết đại Bồ-tát ấy, từ cõi người sanh vào cõi người. Vì sao? Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, đời trước đã thích nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; nghe rồi thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu tập; lại thường sao chép, dùng các báu trang sức; lại dùng các loại tràng hoa tuyệt diệu, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn đuốc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; do căn lành này, từ cõi người chết đi, rồi sanh lại cõi người, nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ấy, phát sanh tin hiểu sâu sắc; lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có đại Bồ-tát nào thành tựu công đức thù thắng như thế, cúng dường phụng sự chư Phật ở phương khác rồi từ phương ấy sanh vào cõi này, nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, phát sanh tin hiểu sâu sắc, lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập không mệt mỏi chăng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Có đại Bồ-tát thành tựu công đức thù thắng như thế, cúng dường phụng sự chư Phật ở phương khác, rồi từ nơi ấy sanh vào cõi này, nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, phát sanh tin hiểu sâu sắc; lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập, không có mệt mỏi. Vì sao? Vì đại Bồ-tát ấy, từ trước ở chỗ vô lượng chư Phật phương khác, đã nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, phát sanh tin hiểu sâu sắc; lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập, không có mệt mỏi; họ nhờ căn lành ấy, nên từ nơi cõi kia, sanh vào chốn này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Cũng có đại Bồ-tát từ cõi trời Đỗ-sử-đa, sau khi mạng chung, sanh vào cõi người, nên biết họ cũng thành tựu công đức thù thắng như thế. Vì sao? Vì đại Bồ-tát ấy đời trước ở cõi trời Đỗ-sử-đa, trú xứ của đại Bồ-tát Di Lặc đã thưa hỏi nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa; họ nhờ vào căn lành ấy, nên từ nơi kia sanh vào chốn này, nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, phát sanh tin hiểu sâu sắc; lại thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập không có mệt mỏi.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tịnh lự Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tinh tấn Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe an nhẫn Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tịnh giới Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bố thí Ba-la-mật-đa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn tịnh lự nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn vô lượng nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn định vô sắc nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tám giải thoát nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tám thắng xứ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe chín định thứ đệ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe mười biến xứ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn niệm trụ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn chánh đoạn nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn thần túc nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe năm căn nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe năm lực nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bảy chi đẳng giác nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tám chi thánh đạo nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe mười địa Bồ-tát nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe năm loại mắt nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe sáu phép thần thông nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe mười lực Phật nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn điều không sợ nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe bốn sự hiểu biết thông suốt nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe mười tám pháp Phật bất cộng nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe pháp không quên mất nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tánh luôn luôn xả nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe trí nhất thiết nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe trí đạo tướng nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe trí nhất thiết tướng nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tất cả pháp môn Đà-la-ni nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe tất cả hạnh đại Bồ-tát nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật nhưng chẳng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nay sanh vào cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm họ mê muội, do dự, khiếp nhược, hoặc phát sanh hiểu biết sai lệch.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, tuy ở đời trước được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cũng từng thưa hỏi nghĩa lý sâu xa nhưng chẳng thường tùy thuận tu hành trải qua một ngày, hai, ba, bốn, năm ngày, nay sanh cõi người nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, dầu trải qua một ngày cho đến năm ngày, tâm họ kiên cố không thể lay chuyển, nhưng nếu xa lìa việc nghe liền bị thối thất. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chúng sanh trụ Bồ-tát thừa ấy, do ở đời trước được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy có thưa hỏi nghĩa lý sâu xa nhưng chẳng như thuyết, tùy thuận tu hành. Cho nên đời nay nếu gặp thiện hữu ân cần khuyến khích thì ưa lắng nghe thọ trì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; nếu khôngthiện hữu ân cần khuyến khích thì đối với kinh này chẳng ưa lắng nghe thọ trì. người ấy đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa có lúc ưa nghe, có lúc chẳng ưa, hoặc có khi kiên cố, có khi thối thất, tâm họ bất ổn, tiến thối không thường như lụa mỏng bay theo chiều gió.

Này Thiện Hiện! Nên biết chúng sanh ấy phát tâm hướng về Đại-thừa trải qua thời gian chưa lâu, chưa thận cận nhiều với các chơn thiện tri thức, chưa từng cúng dường chư Phật Thế Tôn, chưa từng thọ trì, đọc tụng, sao chép, tư duy, diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Nên biết chúng sanh ấy chưa từng tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, chưa từng tu học tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; chưa từng tu học pháp không nội, chưa từng tu học pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chưa từng tu học chơn như, chưa từng tu học pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chưa từng tu học Thánh đế khổ, chưa từng tu học Thánh đế tập, diệt, đạo; chưa từng tu học bốn tịnh lự, chưa từng tu học bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chưa từng tu học tám giải thoát, chưa từng tu học tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chưa từng tu học bốn niệm trụ, chưa từng tu học bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chưa từng tu học pháp môn giải thoát không, chưa từng tu học pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chưa từng tu học mười địa Bồ-tát; chưa từng tu học năm loại mắt, chưa từng tu học sáu phép thần thông; chưa từng tu học mười lực Phật, chưa từng tu học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chưa từng tu học pháp không quên mất, chưa từng tu học tánh luôn luôn xả; chưa từng tu học trí nhất thiết, chưa từng tu học trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chưa từng tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, chưa từng tu học tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chưa từng tu học pháp quả Dự-lưu, chưa từng tu học pháp quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chưa từng tu học pháp quả vị Độc-giác; chưa từng tu học tất cả hạnh đại Bồ-tát; chưa từng tu học quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Nên biết chúng sanh như thế mới hướng về Đại-thừa, đối với pháp Đại-thừa thành tựu một phần ít tin, kính, ưa, thích, chưa thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, vì người diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Quyển Thứ 311
HẾT

XXXXIV. PHẨM CHÚNG DỤ

02

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, vì người diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; nếu chẳng dùng Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp không nội nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng chơn như nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng Thánh đế khổ để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng Thánh đế tập, diệt, đạo để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng bốn tịnh lự để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng tám giải thoát để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng bốn niệm trụ để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp môn giải thoát không để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng mười địa Bồ-tát để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng năm loại mắt để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng sáu phép thần thông để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng mười lực Phật để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp không quên mất để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng tánh luôn luôn xả để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng trí nhất thiết để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng tất cả pháp môn Đà-la-ni để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng tất cả pháp môn Tam-ma-địa để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp quả Dự-lưu để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng pháp quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp quả vị Độc-giác để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng tất cả hạnh đại Bồ-tát để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để nhiếp hóa hữu tình khác, này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu chẳng tùy thuận tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc chẳng tùy thuận tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp không nội, hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng tùy thuận tu hành chơn như, hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng tùy thuận tu hành Thánh đế khổ, hoặc chẳng tùy thuận tu hành Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn tịnh lự, hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng tùy thuận tu hành tám giải thoát, hoặc chẳng tùy thuận tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn niệm trụ, hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng tùy thuận tu hành mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng tùy thuận tu hành năm loại mắt, hoặc chẳng tùy thuận tu hành sáu phép thần thông; hoặc chẳng tùy thuận tu hành mười lực Phật, hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp không quên mất, hoặc chẳng tùy thuận tu hành tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng tùy thuận tu hành trí nhất thiết, hoặc chẳng tùy thuận tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng tùy thuận tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng tùy thuận tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp quả Dự-lưu, hoặc chẳng tùy thuận tu hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp quả vị Độc-giác; hoặc chẳng tùy thuận tu hành tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng tùy thuận tu hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện! Nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, do nhân duyên này sẽ rơi vào một trong hai nơi thuộc nhị địa, đó là địa vị Thanh-văn, hoặc địa vị Độc-giác. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; cũng chẳng thường dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa để nhiếp hóa hữu tình khác, lại chẳng thường tùy thuận tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; do nhân duyên này, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy sẽ rơi vào một trong hai chỗ của nhị địa, đó là địa vị Thanh-văn hoặc địa vị Độc-giác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như con thuyền bềnh bồng trên biển cả bị vỡ, người ở trong ấy, hoặc chẳng bám cây gỗ, chẳng bám đồ vật, chẳng ôm phao nổi, chẳng nắm miếng ván, chẳng nắm tử thi để làm điểm tựa, thì biết chắc là sẽ chết chìm, chẳng đến được bờ.

Này Thiện Hiện! Lại có con thuyền bồng bềnh trên biển cả, tuy bị vỡ nhưng người trong thuyền bám được cây gỗ, đồ vật, phao nổi, ván, tử thi để làm điểm tựa thì nên biết, những người ấy chắc chắn không chết chìm, đến bờ an ổn, không tổn, không hại, hưởng niềm vui vi diệu.

Này Thiện Hiện! Cũng vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với Đại-thừa tuy thành tựu ít phần tín, kính, ưa, thích, nhưng chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa để làm chỗ nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa để làm chỗ nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không nội để làm chỗ nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập chơn như để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Thánh đế khổ để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn tịnh lự để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tám giải thoát để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn niệm trụ để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp môn giải thoát không để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập mười địa Bồ-tát để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập năm loại mắt để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập sáu phép thần thông để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập mười lực Phật để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không quên mất để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tánh luôn luôn xả để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập trí nhất thiết để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để làm nơi nương tựa, thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, nửa đường suy bại, chẳng chứng được quả vị giác ngộ cao tột, mà thối nhập địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với Đại-thừa có sự thành tựu viên mãn tin, kính, ưa, thích; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không nội để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập chơn như để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Thánh đế khổ để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn tịnh lự để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tám giải thoát để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn niệm trụ để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp môn giải thoát không để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập mười địa Bồ-tát để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập năm loại mắt để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập sáu phép thần thông để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập mười lực Phật để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không quên mất để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tánh luôn luôn xả để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập trí nhất thiết để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để làm nơi nương tựa thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, nửa đường không bao giờ thối nhập địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác, nhất định chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Như người muốn qua đồng hoang nguy hiểm, nếu chẳng mang theo lương thực, đồ dùng, thì chẳng thể đến được nơi an lạc, mà ở nửa đường gặp khổ nạn mất mạng. Này Thiện Hiện! Cũng vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị giác ngộ cao tột dù có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có sự ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, nhưng chẳng nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc chẳng nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không nội, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng nhiếp thọ chơn như, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng nhiếp thọ tám giải thoát, hoặc chẳng nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, hoặc chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; hoặc chẳng nhiếp thọ mười lực Phật, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, hoặc chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, hoặc chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, nửa đường suy bại, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột mà thối nhập địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Như người muốn qua đồng hoang nguy hiểm, nếu luôn mang theo lương thực, đồ dùng, chắc chắn sẽ đến được nơi an lạc, chẳng bao giờ gặp khổ nạn, phải bỏ mạng giữa đường. Này Thiện Hiện! Cũng vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có sự ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn; lại thường nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, lại thường nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại thường nhiếp thọ pháp không nội, lại thường nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại thường nhiếp thọ chơn như, lại thường nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại thường nhiếp thọ Thánh đế khổ, lại thường nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; lại thường nhiếp thọ bốn tịnh lự, lại thường nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lại thường nhiếp thọ tám giải thoát, lại thường nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại thường nhiếp thọ bốn niệm trụ, lại thường nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại thường nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ năm loại mắt, lại thường nhiếp thọ sáu phép thần thông; lại thường nhiếp thọ mười lực Phật, lại thường nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại thường nhiếp thọ pháp không quên mất, lại thường nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; lại thường nhiếp thọ trí nhất thiết, lại thường nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại thường nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, quyết chẳng suy hao thối bại giữa đường mà vượt lên địa vị Thanh-văn, địa vị Độc-giác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Thí như người con trai hoặc người con gái, mang bình đất chưa nung đi lấy nước hoặc ở sông, hoặc ở ao, hoặc ở giếng, hoặc ở suối, hoặc ở kênh ngòi, nên biết bình này chẳng bao lâu sẽ tan rã. Vì sao? Vì bình ấy chưa nung chín, chẳng thể đựng nước được, kết cục bị tan rã.

Này Thiện Hiện! Cũng như thế, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị giác ngộ cao tột dù có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, nhưng chẳng nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, hoặc chẳng nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không nội, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng nhiếp thọ chơn như, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng nhiếp thọ tám giải thoát, hoặc chẳng nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, hoặc chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; hoặc chẳng nhiếp thọ mười lực Phật, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, hoặc chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, hoặc chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, giữa đường suy bại, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột mà thối nhập địa vị Thanh-văn và Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Thí như các người con trai, con gái, mang bình đất nung chín đi đến sông, hoặc ao, hoặc giếng, hoặc suối, hoặc kênh ngòi để lấy nước, nên biết bình này không bào giờ bị hư rã. Vì sao? Vì bình này đã được nung chín, rất chắc chắn, có thể đựng đầy nước.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, lại thường nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, lại thường nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại thường nhiếp thọ pháp không nội, lại thường nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại thường nhiếp thọ chơn như, lại thường nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại thường nhiếp thọ Thánh đế khổ, lại thường nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; lại thường nhiếp thọ bốn tịnh lự, lại thường nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lại thường nhiếp thọ tám giải thoát, lại thường nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại thường nhiếp thọ bốn niệm trụ, lại thường nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại thường nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ năm loại mắt, lại thường nhiếp thọ sáu phép thần thông; lại thường nhiếp thọ mười lực Phật, lại thường nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại thường nhiếp thọ pháp không quên mất, lại thường nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; lại thường nhiếp thọ trí nhất thiết, lại thường nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại thường nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, không bao giờ suy hao, thối bại nửa đường, vượt qua địa vị Thanh-văn và địa vị Độc-giác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Như có người lái buôn không có trí phương tiện thiện xảo, khi thuyền còn ở bờ biển, chưa sửa chữa chuẩn bị đầy đủ, mà mang của vật chất lên đó, rồi đẩy ra giữa dòng, gấp rút ra đi thì này Thiện Hiện, nên biết thuyền ấy bị hư chìm giữa đường, người, thuyền, của cải trôi giạt tứ tán. Người lái buôn như thế không có trí phương tiện thiện xảo, nên bị tan thân mất mạng, và tiêu tan của báu.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị giác ngộ cao tột dù có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, nhưng nếu chẳng nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, hoặc chẳng nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không nội, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng nhiếp thọ chơn như, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng nhiếp thọ tám giải thóat, hoặc chẳng nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, hoặc chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; hoặc chẳng nhiếp thọ mười lực Phật, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, hoặc chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, hoặc chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, bị suy bại nửa đường, tan thân mất mạngtiêu tan của báu. Hoại thân mạng đó là rơi vào địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác, mất của báu, đó là mất quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Thí như người lái buôn có trí phương tiện thiện xảo, ở tại bờ biển, trước hết sửa chữa, trang bị thuyền xong, mới đẩy xuống nước, biết không còn lỗ rĩ, sau đó mới mang của cải chất lên trên đó rồi ra đi.

Này Thiện Hiện! Nên biết thuyền ấy chắc chắn chẳng bị hư chìm, người vật an ổn, đến nơi cần đến.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, lại thường nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thường nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, lại thường nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại thường nhiếp thọ pháp không nội, lại thường nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại thường nhiếp thọ chơn như, lại thường nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại thường nhiếp thọ Thánh đế khổ, lại thường nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; lại thường nhiếp thọ bốn tịnh lự, lại thường nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc, lại thường nhiếp thọ tám giải thoát, lại thường nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại thường nhiếp thọ bốn niệm trụ, lại thường nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại thường nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ năm loại mắt, lại thường nhiếp thọ sáu phép thần thông; lại thường nhiếp thọ mười lực Phật, lại thường nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại thường nhiếp thọ pháp không quên mất, lại thường nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; lại thường nhiếp thọ trí nhất thiết, lại thường nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại thường nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, không bao giờ suy hao thối bại nửa đường, vượt địa vị Thanh-văn và địa vị Độc-giác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Thí như có người một trăm hai mươi tuổi, già nua suy yếu, lại thêm có các chứng bệnh như bệnh phong, bệnh nóng, bệnh đàm, hoặc có cả ba bệnh

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, người già bệnh này có thể từ giừơng tự ngồi dậy được chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Người ấy dù có người đỡ đứng dậy cũng không đủ sức đi một cu lô xá, hay hai cu lô xá, ba cu lô xá. Vì sao? Vì già bệnh quá đỗi.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị giác ngộ cao tột dù có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, nhưng nếu chẳng nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, hoặc chẳng nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không nội, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng nhiếp thọ chơn như, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng nhiếp thọ tám giải thoát, hoặc chẳng nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, hoặc chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; hoặc chẳng nhiếp thọ mười lực Phật, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, hoặc chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, hoặc chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, suy bại nửa đường, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột mà thối nhập địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác. Vì sao? Vì chẳng nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cho đến chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không có phương tiện thiện xảo.

Này Thiện Hiện! Thí như có người một trăm hai mươi tuổi, già nua suy yếu lại thêm có các bệnh như bệnh phong, bệnh nóng, bệnh đàm, hoặc có đủ cả ba bệnh; người già bệnh ấy muốn rời giường đứng dậy đi tới nơi khác nhưng tự mình chẳng đi được; có hai người mạnh khỏe, dìu hai bên nách, khuyến khích ngồi dậy, nói: Không hề gì, cứ yên tâm đi tới. Hai người chúng tôi không bao giờ bỏ ông đâu, người ấy chắc chắn đi đến đích, an ổn, không tổn hại.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, lại thường nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thường nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, lại thường nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại thường nhiếp thọ pháp không nội, lại thường nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại thường nhiếp thọ chơn như, lại thường nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại thường nhiếp thọ Thành đế khổ, lại thường nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; lại thường nhiếp thọ bốn tịnh lự, lại thường nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lại thường nhiếp thọ tám giải thoát, lại thường nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại thường nhiếp thọ bốn niệm trụ, lại thường nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại thường nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ năm loại mắt, lại thường nhiếp thọ sáu phép thần thông; lại thường nhiếp thọ mười lực Phật, lại thường nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại thường nhiếp thọ pháp không quên mất, lại thường nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; lại thường nhiếp thọ trí nhất thiết, lại thường nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại thường nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, chẳng bao giờ suy hao thối bại nửa đường, vượt địa vị Thanh-văn và Độc-giác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì thường nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cho đến thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, có phương tiện thiện xảo.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, do chẳng nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cũng chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo nên rơi lại địa vị Thanh-văn và Độc-giác?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay! Ông vì lợi lạc cho các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa mà thưa hỏi Như Lai việc cốt yếu như thế. Ông nay hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.

Này Thiện Hiện! Có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, từ khi mới phát tâm đã chấp trước ngã, ngã sởtu hành bố thí Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sởtu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sởtu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sởtu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sởtu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sởtu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, khi tu hành bố thí, nghĩ thế này, ta tu hành bố thí, người kia nhận của bố thí, ta bố thí vật như thế; khi tu hành tịnh giới, nghĩ thế này, ta giữ giới, giới là đối tượng của ta giữ, ta thành tựu giới ấy; khi tu hành an nhẫn, nghĩ thế này, ta tu hành an nhẫn, kia là đối tượng mà ta nhẫn, ta thành tựu nhẫn ấy; khi tu hành tinh tấn, nghĩ thế này, ta tinh tấn, ta vì tinh tấn này, ta đầy đủ tinh tấn ấy; khi tu hành tịnh lự, nghĩ thế này, ta tu định, ta vì việc tu định, ta thành tựu định ấy; khi tu hành Bát-nhã, nghĩ thế này, ta tu tuệ, ta vì việc tu tuệ này, ta thành tựu tuệ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, khi tu hành bố thí, chấp có bố thí ấy, chấp do bố thí này, chấp bố thíngã sở; khi tu hành tịnh giới, chấp có tịnh giới ấy, chấp do tịnh giới này, chấp tịnh giớingã sở; khi tu hành an nhẫn, chấp có an nhẫn ấy, chấp do an nhẫn này, chấp an nhẫnngã sở; khi tu hành tinh tấn, chấp có tinh tấn ấy, chấp do tinh tấn này, chấp tinh tấnngã sở; khi tu hành tịnh lự, chấp có tịnh lự ấy, chấp do tịnh lự này, chấp tịnh lựngã sở; khi tu hành Bát-nhã, chấp có Bát-nhã ấy, chấp do Bát-nhã này, chấp Bát-nhã là ngã sở. Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa; trong an nhẫn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa; trong tinh tấn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa; trong tịnh lự Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa; trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, vì chẳng biết tướng bờ bên này, bờ bên kia, nên chẳng thể nhiếp thọ bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể nhiếp thọ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng thể nhiếp thọ pháp không nội, chẳng thể nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng thể nhiếp thọ chơn như, chẳng thể nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng thể nhiếp thọ Thánh đế khổ, chẳng thể nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng thể nhiếp thọ bốn tịnh lự, chẳng thể nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng thể nhiếp thọ tám giải thoát, chẳng thể nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng thể nhiếp thọ bốn niệm trụ, chẳng thể nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, chẳng thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng thể nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; chẳng thể nhiếp thọ năm loại mắt, chẳng thể nhiếp thọ sáu phép thần thông; chẳng thể nhiếp thọ mười lực Phật, chẳng thể nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng thể nhiếp thọ pháp không quên mất, chẳng thể nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; chẳng thể nhiếp thọ trí nhất thiết, chẳng thể nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng thể nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; chẳng thể nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện! Do nhân duyên ấy, nên các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, bị rơi vào địa vị Thanh-văn, hoặc địa vị Độc-giác, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Quyển Thứ 312
HẾT

XXXXIV. PHẨM CHÚNG DỤ

03

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao chúng sanh trụ Bồ-tát thừa không có phương tiện thiện xảo?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu chúng sanh trụ Bồ-tát thừa, từ khi mới phát tâm không có phương tiện thiện xảo tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, không có phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì Này Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này, khi tu hành bố thí, nghĩ thế này, ta tu hành bố thí, người kia nhận của ta bố thí, ta cho vật như vậy; khi tu hành tịnh giới, nghĩ thế này, ta giữ giới, giới là đối tượng ta giữ, ta thành tựu giới ấy; khi tu an nhẫn, nghĩ thế này, ta tu an nhẫn, kia là đối tượng ta nhẫn, ta thành tựu nhẫn ấy; khi tu hành tinh tấn, nghĩ thế này, ta tu tinh tấn, ta vì tinh tấn này, ta đủ tinh tấn ấy; khi tu tịnh lự, nghĩ thế này, ta đang tu định, ta vì tu định này, ta thành tựu định ấy; khi tu Bát-nhã, nghĩ thế này, ta đang tu tuệ, ta vì tuệ này, ta thành tựu tuệ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này, khi tu bố thí, chấp có bố thí này, chấp do bố thí ấy, chấp bố thíngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu hành tịnh giới, chấp có tịnh giới ấy, chấp do tịnh giới này, chấp tịnh giớingã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu hành an nhẫn, chấp có an nhẫn ấy, chấp do an nhẫn này, chấp an nhẫnngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu tinh tấn, chấp có tinh tấn ấy, chấp do tinh tấn này, chấp tinh tấnngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu tịnh lự, chấp có tịnh lự ấy, chấp do tịnh lự này, chấp tịnh lựngã sở rồi sanh kiêu mạn; khi tu Bát-nhã, chấp có Bát-nhã ấy, chấp do Bát-nhã này, chấp Bát-nhã là ngã sở rồi sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa; trong an nhẫn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa; trong tinh tấn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa; trong tịnh lự Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa; trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không phân biệt như thế, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này vì chẳng biết tướng của bờ bên này, bờ bên kia, nên chẳng thể nhiếp thọ bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể nhiếp thọ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thể nhiếp thọ phương tiện thiện xảo; chẳng thể nhiếp thọ pháp không nội, chẳng thể nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng thể nhiếp thọ chơn như, chẳng thể nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng thể nhiếp thọ Thánh đế khổ, chẳng thể nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng thể nhiếp thọ bốn tịnh lự, chẳng thể nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng thể nhiếp thọ tám giải thoát, chẳng thể nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng thể nhiếp thọ bốn niệm trụ, chẳng thể nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, chẳng thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng thể nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; chẳng thể nhiếp thọ năm loại mắt, chẳng thể nhiếp thọ sáu phép thần thông; chẳng thể nhiếp thọ mười lực Phật, chẳng thể nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng thể nhiếp thọ pháp không quên mất, chẳng thể nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; chẳng thể nhiếp thọ trí nhất thiết, chẳng thể nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng thể nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; chẳng thể nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên ấy nên chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này rơi vào địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, do chẳng nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cũng chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, nên thối đọa vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa vì thường nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cũng thường nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, nên chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Có thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, từ khi mới phát tâm, lìa chấp ngãngã sở, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, lìa chấp ngãngã sở, tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa; lìa chấp ngãngã sở, tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa; lìa chấp ngãngã sở, tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa; lìa chấp ngãngã sở, tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa; lìa chấp ngãngã sở, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn này, khi tu bố thí, chẳng nghĩ thế này, ta tu hành bố thí, kia nhận của ta bố thí, ta bố thí vật như vậy; khi tu tịnh giới, chẳng nghĩ thế này, ta giữ giới, giới là đối tượng ta giữ, ta thành tựu giới ấy; khi tu an nhẫn, chẳng nghĩ thế này, ta tu an nhẫn, kia là đối tượng ta nhẫn, ta thành tựu nhẫn ấy; khi tu tinh tấn, chẳng nghĩ thế này, ta tu tinh tấn, ta vì tinh tấn này, ta đủ tinh tấn ấy; khi tu tịnh lự, chẳng nghĩ thế này, ta tu định, ta vì tu định này, ta thành tựu định ấy; khi tu Bát-nhã, chẳng nghĩ thế này, ta tu tuệ, ta vì tu tuệ này, ta thành tựu tuệ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, khi tu bố thí, chẳng chấp có bố thí, chẳng chấp do bố thí này, chẳng chấp bố thíngã sở; khi tu tịnh giới, chẳng chấp có tịnh giới, chẳng chấp do tịnh giới này, chẳng chấp tịnh giớingã sở; khi tu an nhẫn, chẳng chấp có an nhẫn, chẳng chấp do an nhẫn này, chẳng chấp an nhẫnngã sở; khi tu tinh tấn, chẳng chấp có tinh tấn, chẳng chấp do tinh tấn này, chẳng chấp tinh tấnngã sở; khi tu tịnh lự, chẳng chấp có tịnh lự, chẳng chấp do tịnh lự này, chẳng chấp tịnh lựngã sở; khi tu Bát-nhã, chẳng chấp có Bát-nhã, chẳng chấp do Bát-nhã này, chẳng chấp Bát-nhã là ngã sở. Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa; trong an nhẫn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa; trong tinh tấn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa; trong tịnh lự Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa; trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy để có thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, vì biết rõ tướng bờ bên này, bờ bên kia, nên có thể nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; lại có thể nhiếp thọ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ mười địa Bồ-tát, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ năm loại mắt, sáu phép thần thông, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao chúng sanh trụ Bồ-tát thừa có phương tiện thiện xảo?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu chúng sanh Bồ-tát thừa, từ khi mới phát tâmphương tiện thiện xảo tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì này Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này khi tu bố thí, chẳng nghĩ thế này, ta tu hành bố thí, kia nhận của ta bố thí, ta bố thí vật như vậy; khi tu tịnh giới, chẳng nghĩ thế này, ta giữ giới, giới là đối tượng ta giữ, ta thành tựu giới ấy; khi tu an nhẫn, chẳng nghĩ thế này, ta tu hành an nhẫn, kia là đối tượng mà ta nhẫn, ta thành tựu nhẫn ấy; khi tu tinh tấn, chẳng nghĩ thế này, ta tinh tấn, ta vì tinh tấn này, ta đầy đủ tinh tấn ấy; khi tu tịnh lự, chẳng nghĩ thế này, ta tu định, ta vì tu định này, ta thành tựu định ấy; khi tu Bát-nhã, chẳng nghĩ thế này, ta tu tuệ, ta vì tuệ này, ta thành tựu tuệ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này, khi tu bố thí, chẳng chấp có bố thí, chẳng chấp do bố thí này, chẳng chấp bố thíngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu tịnh giới, chẳng chấp có tịnh giới, chẳng chấp do tịnh giới này, chẳng chấp tịnh giớingã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu an nhẫn, chẳng chấp có an nhẫn, chẳng chấp do an nhẫn này, chẳng chấp an nhẫnngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu tinh tấn, chẳng chấp có tinh tấn, chẳng chấp do tinh tấn này, chẳng chấp tinh tấnngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu tịnh lự, chẳng chấp có tịnh lự, chẳng chấp do tịnh lự này, chẳng chấp tịnh lựngã sở, cũng chẳng kiêu mạn; khi tu Bát-nhã, chẳng chấp có Bát-nhã, chẳng chấp do Bát-nhã này, chẳng chấp Bát-nhã là ngã sở, cũng chẳng kiêu mạn. Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa; trong an nhẫn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa; trong tinh tấn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa; trong tịnh lự Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa; trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy, cũng chẳng như sự phân biệt kia. Vì sao? Vì chẳng phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Chúng sanh trụ Bồ-tát thừa này, vì biết rõ tướng bờ bên này, bờ bên kia, nên có thể nhiếp thọ bố thí tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; lại có thể nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ mười địa Bồ-tát, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; lại có thể nhiếp năm loại mắt, sáu phép thần thông, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Lại có thể nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Như vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, vì có khả năng nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cũng có khả năng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, nên chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
XXXXV. PHẨM CHƠN THIỆN HỮU

01

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi mới bắt đầu sự nghiệp nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học tịnh lự Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học tinh tấn Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học an nhẫn Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học tịnh giới Ba-la-mật-đa như thế nào? Nên học bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát mới bắt đầu sự nghiệp, nếu muốn tu học Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa thì trước hết phải gần gủi, cung kính, cúng dường chơn thiện tri thức có khả năng giỏi nói Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, nghĩa là khi nói kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, nói như thế này: Thiện nam tử! Hãy đến đây! Khi ngươi bố thí thì, nên nghĩ thế này, việc tu bố thí này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi trì giới, nên nghĩ thế này, việc tu tịnh giới này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi tu nhẫn, nên nghĩ thế này, việc tu nhẫn này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi tinh tấn, nên nghĩ thế này, việc tu tinh tấn này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi tu định, nên nghĩ thế này, việc tu tịnh lự này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi ngươi tu tuệ, nên nghĩ thế này, việc tu Bát-nhã này ban khắp cho tất cả hữu tình, cùng chung hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào sắc để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thọ, tưởng, hành, thức để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ sắc thì thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào nhãn xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ nhãn xứ thì thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào sắc xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ sắc xứ thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào nhãn giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ nhãn giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào nhĩ giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ nhĩ giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào tỷ giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ tỷ giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào thiệt giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ thiệt giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào thân giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ thân giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào ý giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ ý giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào địa giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng nên dựa vào thủy, hỏa, phong, không, thức giới để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ địa giới thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ thủy, hỏa, phong, không, thức giới mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào vô minh để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ vô minh thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào bố thí Ba-la-mật-đa để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ bố thí Ba-la-mật-đa thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào pháp không nội để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ pháp không nội thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào chơn như để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ chơn như thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào Thánh đế khổ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào Thánh đế tập, diệt, đạo để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ Thánh đế khổ thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ Thánh đế tập, diệt, đạo mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào bốn tịnh lự để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào bốn vô lượng, bốn định vô sắc để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ bốn tịnh lự thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ bốn vô lượng, bốn định vô sắc mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào tám giải thoát để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ tám giải thoát thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào bốn niệm trụ để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ bốn niệm trụ thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào pháp môn giải thoát không để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ pháp môn giải thoát không thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào mười địa Bồ-tát để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ mười địa Bồ-tát mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào năm loại mắt để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào sáu phép thần thông để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ năm loại mắt thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ sáu phép thần thông mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào mười lực Phật để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ mười lực Phật thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào pháp không quên mất để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào tánh luôn luôn xả để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ pháp không quên mất thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ tánh luôn luôn xả mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào trí nhất thiết để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ trí nhất thiết thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào tất cả pháp môn Đà-la-ni để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào tất cả pháp môn Tam-ma-địa để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ tất cả pháp môn Đà-la-ni thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ tất cả pháp môn Tam-ma-địa mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào quả Dự-lưu để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng chẳng nên dựa vào quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ quả Dư lưu thì mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng chấp thủ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào quả vị Độc-giác để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ quả vị Độc-giác mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào tất cả hạnh đại Bồ-tát để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ tất cả hạnh đại Bồ-tát mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Ngươi chẳng nên dựa vào quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để thủ đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nếu chẳng chấp thủ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Đối với sắc, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thọ, tưởng, hành, thức, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với nhãn xứ, ngươi chớ sanh tham ái, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với sắc xứ, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với nhãn giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với nhĩ giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với tỷ giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với thiệt giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với thân giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với ý giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với địa giới, ngươi chớ sanh tham ái, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì địa thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với vô minh, ngươi chớ sanh tham ái, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với bố thí Ba-la-mật-đa, ngươi chớ sanh tham ái, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì bố thí cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với pháp không nội, ngươi chớ sanh tham ái, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với chơn như, ngươi chớ sanh tham ái, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với Thánh đế khổ, ngươi chớ sanh tham ái, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với bốn tịnh lự, ngươi chớ sanh tham ái, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với tám giải thoát, ngươi chớ sanh tham ái, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với bốn niệm trụ, ngươi chớ sanh tham ái, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với pháp môn giải thoát không, ngươi chớ sanh tham ái, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với mười địa Bồ-tát, ngươi chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì mười địa Bồ-tát chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với năm loại mắt, ngươi chớ sanh tham ái, đối với sáu phép thần thông, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với mười lực Phật, ngươi chớ sanh tham ái, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với pháp không quên mất, ngươi chớ sanh tham ái, đối với tánh luôn luôn xả, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với trí nhất thiết, ngươi chớ sanh tham ái, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, ngươi chớ sanh tham ái, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với quả Dự-lưu, ngươi chớ sanh tham ái, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với quả vị Độc-giác, ngươi chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì quả vị Độc-giác chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát, ngươi chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này thiện nam tử! Đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, ngươi chớ sanh tham ái. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là pháp có thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Quyển Thứ 313
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.