Tập 21 (Quyển 514-525)

09/05/201012:00 SA(Xem: 27854)
Tập 21 (Quyển 514-525)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 21 (Quyển 514-525)

 02

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì phải tự thành thục hữu tình, cũng khuyên người khác thành thục hữu tình, thường khen ngợi đúng pháp thành thục hữu tình, hoan hỉ tán thán người thành thục hữu tình.

Phải tự trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, cũng khuyên người khác trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thường khen ngợi đúng pháp trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, hoan hỉ tán thán người trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.

Phải tự khởi thần thông thù thắng của Bồ-tát, cũng khuyên người khác khởi thần thông thù thắng của Bồ-tát, thường khen ngợi đúng pháp khởi thần thông thù thắng của Bồ-tát, hoan hỉ tán thán người khởi thần thông thù thắng của Bồ-tát.

Phải tự phát khởi trí nhất thiết, cũng khuyên người khác phát khởi trí nhất thiết, thường khen ngợi đúng pháp phát khởi trí nhất thiết, hoan hỉ tán thán người phát khởi trí nhất thiết.

Phải tự phát khởi trí đạo tướng, cũng khuyên người khác phát khởi trí đạo tướng, thường khen ngợi đúng pháp phát khởi trí đạo tướng, hoan hỉ tán thán người phát khởi trí đạo tướng.

Phải tự phát khởi trí nhất thiết tướng, cũng khuyên người khác phát khởi trí nhất thiết tướng, thường khen ngợi đúng pháp phát khởi trí nhất thiết tướng, hoan hỉ tán thán người phát khởi trí nhất thiết tướng.

Phải tự chấm dứt tất cả tập khí tương tục của phiền não, cũng khuyên người khác chấm dứt tất cả tập khí tương tục của phiền não, thường khen ngợi đúng pháp chấm dứt tất cả tập khí tương tục của phiền não, hoan hỉ tán thán người chấm dứt tất cả tập khí tương tục của phiền não.

Phải tự giữ gìn trọn vẹn tuổi thọ, cũng khuyên người khác giữ gìn trọn vẹn tuổi thọ, thường khen ngợi đúng pháp giữ gìn trọn vẹn tuổi thọ, hoan hỉ tán thán người giữ gìn trọn vẹn tuổi thọ.

Phải tự truyền bá giáo pháp vi diệu, cũng khuyên người khác truyền bá giáo pháp vi diệu, thường khen ngợi đúng pháp truyền bá giáo pháp vi diệu, hoan hỉ tán thán người truyền bá giáo pháp vi diệu.

Phải tự gìn giữ chánh pháp cho tồn tại, cũng khuyên người khác gìn giữ chánh pháp cho tồn tại, thường khen ngợi đúng pháp gìn giữ chánh pháp cho tồn tại, hoan hỉ tán thán người gìn giữ chánh pháp cho tồn tại.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào muốn mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phải dùng vô sở đắc làm phương tiện và phải trụ như vậy đối với những pháp như thế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát phải học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế. Nếu Đại Bồ-tát học như vậy thì mới có thể trụ được pháp cần phải trụ. Nếu học như thế và an trụ pháp như thế thì không còn chướng ngại đối năm uẩn.

Cũng không còn chướng ngại đối với sáu nội xứ.

Cũng không còn chướng ngại đối với sáu ngoại xứ.

Cũng không còn chướng ngại đối với sáu nội giới.

Cũng không còn chướng ngại đối với sáu ngoại giới.

Cũng không còn chướng ngại đối với sáu thức giới.

Cũng không còn chướng ngại đối với sáu xúc.

Cũng không còn chướng ngại đối với sáu thọ.

Cũng không còn chướng ngại đối với sáu giới.

Cũng không còn chướng ngại đối với bốn duyên.

Cũng không còn chướng ngại đối với vô minh cho đến lão tử.

Cũng không còn chướng ngại đối với sự xa lìa việc giết hại sanh mạng cho đến tà kiến.

Cũng không còn chướng ngại đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Cũng không còn chướng ngại đối với bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cũng không còn chướng ngại đối với pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.

Cũng không còn chướng ngại đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Cũng không còn chướng ngại đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Cũng không còn chướng ngại đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Cũng không còn chướng ngại đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Cũng không còn chướng ngại đối với tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Cũng không còn chướng ngại đối với Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa.

Cũng không còn chướng ngại đối với Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.

Cũng không còn chướng ngại đối với pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Cũng không còn chướng ngại đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Cũng không còn chướng ngại đối với mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Cũng không còn chướng ngại đối với đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Cũng không còn chướng ngại đối với ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.

Cũng không còn chướng ngại đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Cũng không còn chướng ngại đối với sự quán mười hai phần duyên khởi thuận nghịch.

Cũng không còn chướng ngại đối với biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo.

Cũng không còn chướng ngại đối với quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề.

Cũng không còn chướng ngại đối với ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát.

Cũng không còn chướng ngại đối với thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật và khởi thần thông thù thắng của Bồ-tát.

Cũng không còn chướng ngại đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Cũng không còn chướng ngại đối với sự chấm dứt tất cả tập khí tương tục của phiền não.

Cũng không còn chướng ngại đối với sự trọn vẹn tuổi thọ.

Cũng không còn chướng ngại đối với việc truyền bá giáo pháp vi diệu.

Cũng không còn chướng ngại đối với việc hộ trì chánh pháp cửu trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này từ xưa đến nay:

không nhiếp thọ sắc uẩn cho đến thức uẩn.

Không nhiếp thọ nhãn xứ cho đến ý xứ.

Không nhiếp thọ nhãn giới cho đến ý giới.

Không nhiếp thọ sắc giới cho đến pháp giới.

Không nhiếp thọ nhãn thức giới cho đến ý thức giới.

Không nhiếp thọ nhãn xúc cho đến ý xúc.

Không nhiếp thọ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Không nhiếp thọ địa giới cho đến thức giới.

Không nhiếp thọ nhân duyên cho đến tăng thượng duyên.

Không nhiếp thọ vô minh cho đến lão tử.

Không nhiếp thọ việc xa lìa sát hại sanh mạng cho đến tà kiến.

Không nhiếp thọ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Không nhiếp thọ bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Không nhiếp thọ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.

Không nhiếp thọ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Không nhiếp thọ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Không nhiếp thọ bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Không nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Không nhiếp thọ tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Không nhiếp thọ Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa.

Không nhiếp thọ Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.

Không nhiếp thọ pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Không nhiếp thọ năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Không nhiếp thọ mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Không nhiếp thọ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Không nhiếp thọ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.

Không nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Không nhiếp thọ mười hai nhân duyên khởi quán thuận nghịch.

Không nhiếp thọ biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo.

Không nhiếp thọ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề.

Không nhiếp thọ vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát.

Không nhiếp thọ thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.

Không nhiếp thọ thần thông thù thắng của Bồ-tát.

Không nhiếp thọ chấm dứt tất cả tập khí tương tục của phiền não.

Không nhiếp thọ sự viên mãn thọ mạng.

Không nhiếp thọ truyền bá giáo pháp vi diệu, làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.

Không nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao? Vì sắc uẩn cho đến thức uẩn không thể nhiếp thọ. Nếu không thể nhiếp thọ thì chẳng phải là sắc uẩn cho đến thức uẩn. Nói rộng cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thể nhiếp thọ. Nếu không thể nhiếp thọ thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Khi nói về chỗ pháp trụ của Đại Bồ-tát này, trong chúng hội có hai ngàn Bồ-tát cùng lúc chứng quả Vô sanh pháp nhẫn.
XX. PHẨM TƯỚNG BẤT THOÁI

01

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Chúng con phải dựa vào hành động tướng trạng nào mới biết được Đại Bồ-tát này Bất thối chuyển?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có thể biết rõ như thật hoặc bậc dị sanh, hoặc bậc Thanh văn, hoặc bậc Độc giác, hoặc bậc Bồ-tát, hoặc bậc Như Lai, các bậc như thế tuy nói có khác, nhưng trong tánh chơn như của các pháp không biến đổi, không phân biệt, không hai, không hai phần.

Đại Bồ-tát này tuy thật ngộ nhập vào chơn như các pháp nhưng đối với chơn như không có sự phân biệt, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Đại Bồ-tát này đã thật ngộ nhập chơn như các pháp, dù nghe chơn như và tất cả pháp không hai, không khác mà tâm không nghi trệ. Vì sao? Vì chơn nhưpháp không thể nói là một, không thể nói khác, không thể nói đồng hay không đồng.

Đại Bồ-tát này quyết không coi nhẹ điều này mà phát ra lời nói, nếu có nói lời gì đều đem lại lợi íchý nghĩa. Nếu không lợi íchý nghĩa quyết không nói ra.

Đại Bồ-tát này hoàn toàn không xem chỗ tốt xấu, hay dở của người, bình đẳng thương xót và vì họ thuyết pháp.

Đại Bồ-tát này chẳng xem chủng tánh sang hèn của Pháp sư, chỉ cầu thuyết được pháp nghĩa chơn tịnh.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đều có những hành động tướng trạng như vậy. Vì có những hành động tướng trạng này nên biết là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Lại do các hành động tướng trạng nào mà biết là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có thể quán các pháp không có hành động tướng trạng thì phải biết là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu tất cả pháp không có hành động tướng trạng, thì chuyển pháp nào mà được gọi là Bất thối chuyển?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chuyển sắc uẩn cho đến thức uẩn nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển nhãn xứ cho đến ý xứ nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển sắc xứ cho đến pháp xứ nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển nhãn giới cho đến ý giới nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển sắc giới cho đến pháp giới nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển nhãn thức giới cho đến ý thức giới nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển nhãn xúc cho đến ý xúc nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển địa giới cho đến thức giới nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển nhân duyên cho đến tăng thượng duyên nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển vô minh cho đến lão tử nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển tám giải thoát cho đến mười biến xứ nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển năm loại mắt, sáu phép thần thông nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển bậc dị sanh, hoặc bậc Thanh văn, hoặc bậc Độc giác, hoặc bậc Bồ-tát, hoặc bậc Như Lai nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển các hạnh Đại Bồ-tát nên gọi là Bất thối chuyển.

Chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật nên gọi là Bất thối chuyển.

Vì sao? Vì tự tánh của sắc là vô sở hữu, cho đến tự tánh quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng vô sở hữu. Vì Đại Bồ-tát này ở trong chỗ không trụ nên được gọi là Bất thối chuyển. Nếu Đại Bồ-tát có thể biết được như thế thì được gọi là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đều chẳng muốn xem hình tướnglời nói của ngoại đạo, Sa-môn, Bà-la-môn v.v..., dù các Sa-môn, Bà-la-môn v.v... ấy đã biết một cách đúng đắn, và thấy một cách chơn thật đối với pháp đã thấy, hoặc có thể thiết lập pháp môn chánh kiến, nhất định không có điều ấy. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đối với Pháp và Luật mà đức Phật đã thuyết một cách hoàn hảo, tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đều tin hiểu sâu xa, không sanh nghi ngờ. Đối với các việc thế gian, không có giới cấm thủ, chẳng rơi vào tà kiến, chẳng chấp các điềm lành của thế tục lấy làm thanh tịnh, hoàn toàn không lễ kính các thiên thần khác, như việc phụng thờ của ngoại đạothế gian. Cũng chẳng đem các thứ tràng hoa, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, đèn sáng để cúng dường thiên thần và các ngoại đạo. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa,Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển không rơi vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, A-tu-la, cũng không sanh vào dòng hạ tiện, nghĩa là hàng Chiên-đà-la (kẻ ác), Bổ-yết-sa (người bất tín nhân quả), chắc chắn chẳng thọ báo sanh làm hoàng môn (người không đủ nam căn), không căn, hoặc hai căn và thân người nữ, cũng chẳng thọ thân mù, điếc, câm, ngọng, cùi cụt tay chân, hủi lác, lùn xấu, lưng gù v.v..., chắc chắn không sanh vào chỗ tất bật công việc. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường vui thực hành mười thiện nghiệp đạo. Tự xa lìa sự giết hại sanh mạng cho đến tà kiến, cũng khuyên người khác xa lìa sự giết hại sanh mạng cho đến tà kiến, thường khen ngợi đúng pháp xa lìa sự giết hại sanh mạng cho đến tà kiến, hoan hỉ tán thán người xa lìa sự giết hại sanh mạng cho đến tà kiến. Cho đến trong giấc mộng, Đại Bồ-tát này cũng chẳng thọ hiện hành động thuộc mười nghiệp bất thiện, huống chi lúc tĩnh giác hành động các việc này. Nếu các Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển vì lợi ích tất cả hữu tình, dùng vô sở đắc làm phương tiện, thường tu bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không có sự lười bỏ. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đã thọ trì, suy nghĩ, đọc tụng được bao nhiêu Khế kinh cho đến Luận nghị, tất cả đều được thông hiểu rốt ráo, rồi thường đem pháp này bố thí cho tất cả hữu tình, với ý nghĩ như vầy: Phải làm thế nào để những lời phát nguyện và những mong cầu chơn chánh của các loài hữu tình đều được thành tựu viên mãn trọn vẹn.

Lại đem căn lành pháp thí này cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng lấy vô sở đắc làm phương tiện, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, hoàn toàn không có niệm nghi ngờ, do dự đối với pháp môn sâu xađức Phật đã thuyết.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Đại Bồ-tát Bất thối chuyển hoàn toàn không có niệm nghi ngờ, do dự đối với pháp môn sâu xađức Phật đã thuyết?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đều hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào có thể nghi ngờ, do dự. Nghĩa là chẳng thấy có sắc uẩn cho đến thức uẩn.

Cũng chẳng thấy có nhãn xứ cho đến ý xứ.

Cũng chẳng thấy có sắc xứ cho đến pháp xứ.

Cũng chẳng thấy có nhãn giới cho đến ý giới.

Cũng chẳng thấy có sắc giới cho đến pháp giới.

Cũng chẳng thấy có nhãn thức giới cho đến ý thức giới.

Cũng chẳng thấy có nhãn xúc cho đến ý xúc.

Cũng chẳng thấy có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Cũng chẳng thấy có địa giới cho đến thức giới.

Cũng chẳng thấy có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên.

Cũng chẳng thấy có vô minh cho đến lão tử.

Cũng chẳng thấy có bố thí Ba-la-mật-đa cho đế Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cũng chẳng thấy có pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.

Cũng chẳng thấy có chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Cũng chẳng thấy có Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Cũng chẳng thấy có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Cũng chẳng thấy có bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Cũng chẳng thấy có pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Cũng chẳng thấy có tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Cũng chẳng thấy có Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa.

Cũng chẳng thấy có Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.

Cũng chẳng thấy có pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Cũng chẳng thấy có năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Cũng chẳng thấy có mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Cũng chẳng thấy có đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Cũng chẳng thấy có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.

Cũng chẳng thấy có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Cũng chẳng thấy có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Cũng chẳng thấy có quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề.

Cũng chẳng thấy có tất cả hạnh Đại Bồ-tát và quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Trong số ấy, không có pháp nào có thể nghi ngờ, do dự. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu trọn vẹn các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thành tựu nghiệp thân, khẩu, ý điều hòa, nhu nhuyến, dễ ưa, dễ mến. Đối với các hữu tình tâm không hạn ngại. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường thành tựu từ, bi, hỷ, xả v.v... tương ưng thân, khẩu, ý nghiệp, để làm việc lợi ích cho các hữu tình. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường không cùng với năm triền cái ở chung. Năm triền cáitham dục, sân giận, hôn trầm thùy miên, ác tác trạo cử, nghi. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đều đã bẻ gãy tất cả tùy miên, tất cả tùy phiền não trói buộc đều vĩnh viễn không phát sanh. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển ra vào, qua lại tâm không mê lầm, luôn luôn an trụ chánh niệm tĩnh giác, oai nghi tiến dừng, đi đứng nằm ngồi, hạ chân cất bước cũng đều như vậy, dạo đi chỗ nào phải xem xét nơi ấy, niệm niệm thong thả, nhìn thẳng mà bước, cử chỉlời nói không thô tháo. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Những vật dụng của các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, như đồ nằm, y phục luôn luôn thơm sạch, không có các mùi hôi, chí rận, bọ chét v.v..., tâm ưa sạch đẹp, thân không tật bệnh. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thân tâm thanh tịnh, chẳng phải như trong thân người thường luôn bị tám vạn trùng rúc rỉa. Vì sao? Vì thiện căn của các Đại Bồ-tát này tăng lên, vượt khỏi thân hình đã thọ ở thế gian. Trong ngoài sạch sẽ, nên không có các loại trùng rúc rỉa nơi thân. Thiện căn dần dần tăng thêm, cứ như vậy thân tâm càng thanh tịnh. Do vậy nên thân tâm các Đại Bồ-tát này bền chắc như kim cương, không bị các nghịch duyên phá hại. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển làm thế nào để thân, khẩu, ý thường được thanh tịnh?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các thiện căn như thế của Đại Bồ-tát này dần dần tăng trưởng như vậy. Vì được năng lực của các căn lành điều khiển, nên đến tận cùng đời vị lai, nghiệp thân, khẩu, ý hoàn toàn không phát sanh. Do vậy, thân, khẩu, ý thường được thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ba diệu hạnh về thân, bốn diệu hạnh về khẩu và ba diệu hạnh về ý của Đại Bồ-tát này luôn luôn được biểu hiện, nên bất cứ lúc nào thân, khẩu, ý cũng thanh tịnh. Nhờ sự thanh tịnh này nên vượt qua các bậc Thanh văn, Độc giác v.v…, trụ ngôi vị Bồ-tát kiên cố chẳng động. Do đây, thân, khẩu, ý thường được thanh tịnh. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển chẳng trọng lợi dưỡng, chẳng màng danh dự, chẳng đắm nhiễm các việc ăn uống, y phục, ngọa cụ, phòng nhà, của cải. Tuy thọ mười hai công đức Đầu-đà nhưng trong đó không có sự ỷ thị. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, rốt ráo chẳng khởi tâm bỏn xẻn, tham lam, phá giới, giận dữ, giải đãi, tán loạn, ngu si và các thứ phiền não trói buộc tâm tương ưng. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tuệ giác sâu xa kiên cố của tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển do lắng nghe chánh pháp, cung kính, tin thọ, chú tâm suy nghĩ nghĩa lý một cách rốt ráo, tùy theo pháp đã lãnh thọ thuộc thế gian hay xuất thế gian đều có thể phương tiện hội nhập lý thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các sự nghiệp đã tạo thuộc thế gian cũng đều dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa để hội nhập pháp tánh. Không thấy có sự nghiệp nào ra ngoài pháp tánh ấy. Nếu có pháp nào chẳng tương ưng với pháp tánh, thì cũng có thể phương tiện hội nhập lý thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa được. Do đây chẳng thấy pháp nào ra ngoài pháp tánh ấy. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sửác ma xuất hiệntrước mặt Đại Bồ-tát Bất thối chuyển và hóa ra tám địa ngục lớn, mà trong mỗi địa ngục lớn hóa ra vô lượng trăm ngàn Bồ-tát đều bị lửa dữ thiêu đốt và chịu khổ độc hại chua cay. Hóa làm như vậy, rồi bảo các Bồ-tát Bất thối chuyển:

“Các Đại Bồ-tát này đều đã lãnh thọ chẳng lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên mới rơi vào địa ngục lớn này, chịu các thứ khổ cực như thế này. Này Bồ-tát, các ông đã nhận thọ ký Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng sẽ đọa vào địa ngục lớn này để chịu các thứ khổ cực. Như vậy, Phật đã thọ ký cho các ông phải chịu khổ trong địa ngục lớn, chứ chẳng phải thọ ký Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên các ông nên mau lìa bỏ tâm đại Bồ-đề, may ra có thể thoát khỏi địa ngục này, sẽ sanh lên cõi trời hoặc làm người, hưởng các sự sung sướng an vui.”

Khi nghe thấy việc này, tâm của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển không hề dao động, cũng chẳng kinh sợ, nghi ngờ, chỉ nghĩ: Đã nhận thọ ký Bất thối chuyển mà Đại Bồ-tát còn đọa vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, A-tu-la thì chắc chắn không có điều ấy. Vì sao? Vì chắc chắn các Bồ-tát Bất thối chuyển không có nghiệp bất thiện, cũng không có trường hợp nghiệp thiện mà phải chuốc lấy quả khổ như vậy. Nhất định chư Phật không có lời dối gạt. Những điều mà Như Lai nói ra đều vì an lạc cho tất cả hữu tình, vì lòng đại từ bi mà Ngài nói ra. Những điều thấy nghe hôm nay hoàn toàn do ác ma làm ra, nói ra đều chẳng thật có. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sửác ma giả dạng Sa-môn đi đến gặp tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, nói như vầy:

“Trước đây ông đã nghe khuyên nếu tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa thì sẽ mau viên mãn, cho đến nên chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã mong cầu. Những điều nghe được như vậy đều là tà thuyết, nên mau lìa bỏ, chớ cho là chơn thật. Vã lại trước đây ông đã nghe rằng, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, từ lúc mới phát tâm cho đến thời gian tồn tại của Chánh pháp, luôn tùy hỉ với các công đức thiện căn đã có được, tập hợp tất cả và ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Những lời đã nghe này cũng là tà thuyết, hãy mau xả bỏ, chớ cho là chơn thật. Nếu ông xả bỏ những tà pháp đã nghe, ta sẽ dạy ông Phật pháp chơn chánh, thanh tịnh, khiến ông tu học mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Những lời đã nghe trước đây chẳng phải lời dạy chơn chánh của Phật mà chỉ là những văn tụng soạn ra một cách sai lầm. Lời ta nói mới là lời chơn chánh của Phật.”

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nghe lời này mà tâm dao động, nghi ngờ, sợ hãi, thì phải biết vị ấy chưa nhận sự thọ ký Bất thối chuyển, nên chưa quyết định đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chưa gọi là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Thiện Hiện nên biết! Khi nghe những lời này mà tâm các Đại Bồ-tát chẳng dao động, cũng chẳng nghi ngờ, sợ hãi, chỉ trụ vào pháp tánh không tạo tác, không tướng trạng, không sanh khởi thì dù có làm việc gì, Đại Bồ-tát này cũng chẳng tin vào lời người khác, chẳng theo sự chỉ dạy của người khác mà tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng theo sự chỉ dạy của người khác cho đến chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Phải biết Đại Bồ-tát này đã đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được Bất thối chuyển.

Như bậc A-la-hán đã hết lậu hoặc, dù có làm việc gì cũng chẳng tin lời người khác, hiện chứng pháp tánh không lầm, không nghi, tất cả ác ma không thể làm dao động. Tất cả Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo và các ác ma không thể phá hoại, bẻ gãy tâm của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này, cũng không thể làm cho họ thối lui quả Bồ-đề. Đại Bồ-tát này chắc chắn đã trụ bậc Bất thối chuyển, nên những sự nghiệp đã tạo đều tự mình xét nghĩ, chẳng phải chỉ tin vào người khác mà hành động ngay, cho đến những lời dạy của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác còn không thể dễ dàng tín thọ, phụng hành, huống chi lại tin lời Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo và các ác ma mà có hành động.

Đại Bồ-tát này có làm điều gì, chẳng tự suy xét mà chỉ tin vào lời người khác, thì điều này chắc chắn không có. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này chẳng thấy có pháp có thể tin hành. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này chẳng thấy có sắc có thể tin hành; chẳng thấy có thọ, tưởng, hành, thức có thể tin hành.

Cũng chẳng thấy có chơn như của sắc có thể tin hành; chẳng thấy có chơn như của thọ, tưởng, hành, thức có thể tin hành.

Nói rộng cho đến chẳng thấy có tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể tin hành; chẳng thấy có quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể tin hành.

Chẳng thấy có chơn như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể tin hành; chẳng thấy có chơn như của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể tin hành. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sửác ma giả dạng Bí-sô đi đến gặp tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, mà nói như vầy:

“Sự tu hành của các ông là pháp sanh tử chẳng phải hạnh Bồ-tát, chẳng phải do đây mà được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nay các ông nên tu đạo hết khổ, mau hết các khổ được vào Niết-bàn.” Khi ấy, ác ma liền vì Bồ-tát thuyết pháp tương tự đạo sanh tử. Đó là tưởng thây chết, hoặc tưởng xanh bầm, hoặc tưởng thối rữa, hoặc tưởng sình chướng, hoặc tưởng trùng ăn, hoặc tưởng màu đỏ bầm; hoặc từ, hoặc bi, hoặc hỷ, hoặc xả; hoặc sơ tịnh lự, hoặc cho đến đệ tứ tịnh lự; hoặc Không vô biên xứ, hoặc cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ác ma bảo Bồ-tát:

“Đó là chơn đạo, chơn hạnh. Do đạo này và hạnh này ông sẽ chứng quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Độc giác Bồ-đề. Do đạo này, hạnh này nên ông mau hết tất cả sanh, lão, bệnh, tử. Cần gì phải chịu sanh tử lâu dài làm gì?

Thân khổ trong hiện tại còn phải chán bỏ, huống lại đi cầu lấy thân khổ trong tương lai. Ông hãy tự suy xét mà bỏ đi những gì trước đây đã tin.”

Thiện Hiện nên biết! Khi Đại Bồ-tát này nghe lời nói ấy rồi, tâm chẳng dao động, cũng chẳng nghi ngờ, sợ hãi, chỉ nghĩ: Bí-sô này giúp ích cho ta không ít. Có thể vì ta thuyết đạo pháp tương tự, khiến ta biết được đạo này không thể chứng quả Dự lưu, cho đến không thể chứng đắc Độc giác Bồ-đề, huống gì sẽ chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này rất vui mừng.

Lại nghĩ: Nay Bí-sô này rất có ích cho ta, phương tiện vì ta thuyết pháp chướng đạo, khiến ta hiểu biết pháp chướng đạo, rồi ở trong Tam thừa tự tại tu học.

Thiện Hiện nên biết! Khi ác ma kia thấy Bồ-tát này thâm tâm hoan hỉ, lại nói như vầy:

“Này thiện nam tử! Ông nay muốn thấy các Đại Bồ-tát đã mất thời gian dài tu hạnh vô ích không? Nghĩa là các Đại Bồ-tát đã trải qua hằng hà sa số đại kiếp, dùng vô lượng vật thượng diệu như, thức ăn nước uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang, của cải, hoa hương v.v… cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn.

Lại ở chỗ của vô số chư Phật tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Học trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Học trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Học trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu các bậc của Đại Bồ-tát. Tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu quán thuận nghịch mười hai chi duyên khởi để thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Tu các thần thông thù thắng của Bồ-tát. Nói rộng cho đến tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Các Đại Bồ-tát này cũng gần gũi, phụng sự hằng hà sa số chư Phật. Ở chỗ chư Phật thỉnh hỏi đạo của Đại Bồ-tát, nghĩa là hỏi như vầy: Thế nào là Đại Bồ-tát an trụ Đại-thừa? Thế nào là Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. An trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. An trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành bậc của Đại Bồ-tát. Tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành quán thuận nghịch mười hai chi duyên khởi, để thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Tu hành thần thông thù thắng của Bồ-tát. Nói rộng cho đến tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Ở chỗ hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn đều thỉnh hỏi như vậy, lần lượt vì họ thuyết pháp. Chúng Đại Bồ-tát này như lời Phật dạy, an trụ tu học, trải qua vô lượng kiếp, tinh tấn dõng mãnh, còn không thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, huống gì sự tu học của các ông ngày nay mà có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ư?”

Thiện Hiện nên biết! Tuy nghe những điều này, nhưng tâm các Đại Bồ-tát không thay đổi, chẳng kinh, chẳng sợ, không nghi, không nhầm, lại vui mừng hơn, và nghĩ: Nay Bí-sô này cho ta nhiều lợi ích, vì ta mà phương tiện thuyết pháp chướng đạo, giúp ta biết được pháp chướng đạo này chắc chắn không thể chứng quả Dự lưu, cho đến quả Độc giác Bồ-đề, huống gì sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi ác ma biết được tâm Bồ-tát này chẳng thối lui, không nghi hoặc, liền hóa ra làm hình tượng vô lượng Bí-sô bảo với Bồ-tát:

“Trong quá khứ, các Bí-sô này đều siêng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trải qua vô lượng kiếp tu hành các hạnh khổ khó hành mà không được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã cầu. Hôm nay đều lui trụ quả A-la-hán các lậu đã sạch, qua hết bờ khổ, thì làm sao các ông có thể chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?”

Thiện Hiện nên biết! Nghe điều này rồi, Đại Bồ-tát liền nghĩ như vầy: Chắc chắn ác ma đã hóa giả dạng Bí-sô này để làm rối loạn tâm ta. Nhân đây ta thuyết pháp chướng ngại tương tự: Hoàn toàn không có chúng Đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đến địa vị viên mãn mà không chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lại lui vào hàng Thanh văn hoặc bậc Độc giác.

Bấy giờ, Bồ-tát lại nghĩ: Nếu Đại Bồ-tát tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, đến địa vị cứu cánh mà chẳng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chắc chắn không có điều đó. Nói rộng cho đến, nếu Đại Bồ-tát tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đến địa vị viên mãn mà chẳng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chắc chắn cũng không có điều đó. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển luôn hành Bát-nhã ba-la-mật-đa với ý nghĩ thế này: Như chư Phật dạy, nếu Đại Bồ-tát siêng năng tu học thường chẳng xa lìa diệu hạnh của sáu pháp Ba-la-mật-đa, thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng sáu pháp Ba-la-mật-đa, thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, thường dùng phương tiện khuyên các hữu tình siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát này quyết chắc chắn chẳng thối lui bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chắc chắn chẳng thối lui pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Chắc chắn chẳng thối lui chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chắc chắn chẳng thối lui bốn Thánh đế. Chắc chắn chẳng thối lui bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Chắc chắn chẳng thối lui bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chắc chắn chẳng thối lui ba môn giải thoát. Chắc chắn chẳng thối lui tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Chắc chắn chẳng thối lui các bậc Bồ-tát. Chắc chắn chẳng thối lui pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Chắc chắn chẳng thối lui năm loại mắt, sáu phép thần thông. Chắc chắn chẳng thối lui mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chắc chắn chẳng thối lui đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Chắc chắn chẳng thối lui pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Chắc chắn chẳng thối lui trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì nhất định sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường hành Bát-nhã ba-la-mật-đa với ý nghĩ như vầy: Nếu Đại Bồ-tát biết được việc ma, chẳng theo việc ma, biết được bạn ác, chẳng theo bạn ác, biết được cảnh giới nhưng chẳng chuyển theo cảnh giới, thì Đại Bồ-tát này quyết chẳng thối lui bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Quyết không thối lui pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Quyết không thối lui chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Quyết không thối lui bốn lý Thánh đế. Quyết không thối lui bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Quyết không thối lui bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Quyết không thối lui pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Quyết không thối lui tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Quyết không thối lui các bậc Bồ-tát. Quyết không thối lui pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Quyết không thối lui năm loại mắt, sáu phép thần thông. Quyết không thối lui mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Quyết không thối lui đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Quyết không thối lui pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Quyết không thối lui trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chắc chắn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển nghe chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết giáo pháp quan trọng này, thâm tâm hoan hỉ, cung kính, tin hiểu, thọ trì, hiểu nghĩa lý một cách đúng đắn. Tâm họ vững chắc như kim cương, không thể lay chuyển, không thể khống chế, thường xuyên tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác tu học, tâm không nhàm chán, mỏi mệt. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này thối lui pháp nào gọi là Bất thối chuyển?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này thối lui tưởng sắc uẩn cho đến tưởng thức uẩn nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng nhãn giới cho đến tưởng ý giới nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng sắc giới cho đến tưởng pháp giới nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng nhãn thức giới cho đến tưởng ý thức giới nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng nhãn xúc cho đến tưởng ý xúc nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tưởng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng địa giới cho đến tưởng thức giới nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng nhân duyên cho đến tưởng tăng thượng duyên nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng vô minh cho đến tưởng lão tử nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng tham, sân, si, tưởng các tà kiến nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tưởng Bát-nhã ba-la-mật-đa nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng pháp nội Không cho đến tưởng pháp vô tính tự tính Không nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng chơn như cho đến tưởng cảnh giới bất tư nghì nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng bốn Thánh đế nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng bốn niệm trụ cho đến tưởng tám chi thánh đạo nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng tám giải thoát cho đến tưởng mười biến xứ nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng Tịnh quán địa cho đến tưởng Như Lai địa nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng Cực hỷ địa cho đến tưởng Pháp vân địa nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng năm loại mắt, sáu phép thần thông nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng mười lực Như Lai cho đến tưởng mười tám pháp Phật bất cộng nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng quả Dự lưu cho đến tưởng Độc giác Bồ-đề nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng các hạnh Đại Bồ-tát và quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nên gọi là Bất thối chuyển. Thối lui tưởng các dị sanh, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật nên gọi là Bất thối chuyển.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này dùng tự tướng Không để quán tất cả pháp, đã nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, cho đến không thấy có pháp nhỏ nào có thể nắm bắt. Vì không thể nắm bắt nên không có sự tạo tác. Vì không sự tạo tác nên gọi là rốt ráo không sanh. Vì rốt ráo không sanh nên gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Do đạt được Vô sanh pháp nhẫn này nên gọi là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Quyển thứ 514
HẾT

02

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sửác ma đi đến chỗ của tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển muốn làm cho họ nhàm chán quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nói như vầy:

“Trí nhất thiết trí cùng với hư không bằng nhau, vô tánh làm tánh, tự tướng vốn Không. Các pháp cũng vậy, ngang bằng với hư không, vô tánh làm tánh. Trong tự tướng Không ấy, không có pháp nào có thể gọi là năng chứng, không có một pháp nào có thể gọi là sở chứng, chỗ chứng, thời chứng và do đây mà chứng cũng bất khả đắc. Tất cả pháp đã ngang bằng với hư không, vô tánh làm tánh, tự tướng vốn Không, vì sao các ông phải luống chịu khổ cực để cầu chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Trước đây ông đã nghe, các chúng Bồ-tát nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đó đều là ma thuyết, chẳng phải lời dạy chơn chánh của Phật. Các ông nên bỏ tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đừng vì lợi lạc cho tất cả hữu tình, tự chuốc lấy khổ cực suốt thời gian dài. Tuy hành các loại khổ hạnh khó làm để mong cầu Bồ-đề nhưng rốt cuộc không thể được.”

Khi Đại Bồ-tát nghe nói những lời can ngăn như vậy, luôn xem xét kỹ việc của ác ma này muốn làm thất bại tâm đại Bồ-đề của ta, ta chẳng nên tin nhận lời ấy. Tuy là tất cả pháp ngang bằng với hư không, vô tánh làm tánh, tự tướng vốn Không nhưng các hữu tình trải qua đêm dài sanh tử, không biết, không thấy, buông lung điên đảo, gây ra các nghiệp, chuốc lấy khổ sanh tử. Ta phải mặc áo giáp công đức tánh, tướng như hư không, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, như pháp đã thuyết, vì các hữu tình làm cho họ được giải thoát các khổ sanh tử, đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Độc giác Bồ-đề, hoặc chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình đến tận vị lai.

Đại Bồ-tát này từ khi mới phát tâm đã nghe pháp này nên tâm vững vàng chẳng dao động, chẳng thối chuyển. Dựa vào tâm vững vàng chẳng dao động, chẳng thối chuyển này, thường chơn chánh tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa. Đã nhập vào ngôi vị Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, lại chơn chánh tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, dần dần viên mãn, tháo gỡ hết trói buộc. Do đây được vào bậc Bất thối chuyển. Vì vậy, ác ma dù đã thiết lập nhiều loại phương tiện làm thất bại, nhưng không thể làm thối lui tâm đại Bồ-đề mà Bồ-tát đã phát. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này vì không thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển, hay vì thối chuyển mà gọi là Bất thối chuyển?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này vì không thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển. Cũng vì thối chuyển nên gọi là Bất thổi chuyển.

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ-tát này vì không thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển? Vì sao cũng vì thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này vượt khỏi bậc Thanh vănĐộc giác, không thối lui vào trong hai bậc ấy. Do đó nên nói vì không thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển.

Đại Bồ-tát này xa lìa bậc Thanh vănĐộc giác. Đối với hai bậc ấy nhất quyết lui bỏ. Do đây nên nói vì thối chuyển nên gọi là Bất thối chuyển.

Vì vậy, nên Bồ-tát này được hai cách gọi. Chẳng phải như các ngôi khác chỉ gọi là thối chuyển. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì chắc chắn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các ác ma không thể làm thất bại được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển muốn vào sơ thiền cho đến đệ tứ thiền thì có thể vào tùy ý.

Muốn vào từ vô lượng cho đến xả vô lượng có thể vào tùy ý.

Muốn vào định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ có thể vào tùy ý.

Muốn vào bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể vào tùy ý.

Muốn vào sơ giải thoát cho đến diệt tưởng thọ giải thoát có thể vào tùy ý.

Muốn vào sơ thắng xứ cho đến thắng xứ thứ tám có thể vào tùy ý.

Muốn vào định sơ tịnh lự cho đến định diệt tưởng thọ có thể vào tùy ý.

Muốn và sơ biến xứ cho đến biến xứ thứ mười có thể vào tùy ý.

Muốn vào pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể vào tùy ý.

Muốn phát khởi năm thần thông có thể phát khởi tùy ý.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này tuy vào bốn tịnh lự cho đến phát khởi năm thần thông nhưng chẳng thọ quả báo. Do nhân duyên này nên chẳng theo năng lực tịnh lự, vô lượng, đẳng chí cho đến diệt định và các công đức khác mà thọ sanh. Cũng chẳng lấy quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Độc giác Bồ-đề. Vì muốn lợi lạc cho các hữu tình nên tùy ý muốn thọ thân chỗ nào đáng thọ thì ý muốn ấy đều được thành tựu ngay, làm việc nên làm xong liền bỏ đi. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thành tựu tác ý quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ-đề.

Chẳng quý sắc uẩn cho đến thức uẩn.

Chẳng quý nhãn xứ cho đến ý xứ.

Chẳng quý sắc xứ cho đến pháp xứ.

Chẳng quý nhãn giới cho đến ý giới.

Chẳng quý sắc giới cho đến pháp giới.

Chẳng quý nhãn thức giới cho đến ý thức giới.

Chẳng quý nhãn xúc cho đến ý xúc.

Chẳng quý các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Chẳng quý địa giới cho đến thức giới.

Chẳng quý nhân duyên cho đến tăng thượng duyên.

Chẳng quý tất cả duyên tánh, duyên khởi.

Chẳng quý các tướng.

Chẳng quý vẻ đẹp.

Chẳng quý sở y.

Chẳng quý pháp có sắc không sắc

Chẳng quý pháp thấy được và không thấy được.

Chẳng quý pháp có đối và không đối.

Chẳng quý pháp hữu lậu hay vô lậu.

Chẳng quý pháp hữu vi hay vô vi.

Chẳng quý pháp thế gianxuất thế gian.

Chẳng quý ngã.

Chẳng quý hữu tình cho đến chẳng quý người biết, người thấy.

Chẳng quý đồ chúng.

Chẳng quý quyến thuộc.

Chẳng quý địa vị.

Chẳng quý của cải.

Chẳng quý bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Chẳng quý pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.

Chẳng quý chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Chẳng quý Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Chẳng quý mười thiện nghiệp đạo.

Chẳng quý bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Chẳng quý năm thần thông.

Chẳng quý bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Chẳng quý pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Chẳng quý tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Chẳng quý Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa.

Chẳng quý Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.

Chẳng quý pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Chẳng quý năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Chẳng quý mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Chẳng quý đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Chẳng quý pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Chẳng quý trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Chẳng quý quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề.

Chẳng quý tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Chẳng quý quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Chẳng quý sự trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.

Chẳng quý sự thành thục hữu tình.

Chẳng quý thấy nhiều chư Phật.

Chẳng quý sự vun trồng căn lành.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này hiểu rõ tất cả pháp ngang đồng như hư không, vô tánh làm tánh, tự tướng đều là Không.

Chẳng thấy có pháp nào có thể quý trọng. Được sanh, bị sanh, thời sanh, chỗ sanh, do đây mà sanh đều không thể nắm bắt. Vì sao? Vì tất cả pháp này cùng với hư không bằng nhau, tánh tướng đều Không, vì nghĩa vô sanh vậy.

Đại Bồ-tát này thành tựu tác ý quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ-đề, bốn oai nghi của thân khi ra vào, qua lại, hạ chân cất bước, tâm không tán loạn, oai nghi đi đứng ngồi nằm, tiến dừng, và làm công việc đều trụ chánh niệm. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vì lợi lạc các hữu tình, tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển hiện ở nhà thế tục, phương tiện thiện xảo dù đang thọ hưởng năm thứ dục lạc nhưng chẳng đắm nhiễm các thứ ấy, chỉ muốn mau cứu giúp các hữu tình. Nghĩa là các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cho áo, cần xe cho xe, cho đến tất cả vật cần dùng đều mau cấp cho, khiến họ được mãn nguyện.

Đại Bồ-tát này tự hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, thường khen ngợi đúng pháp hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoan hỉ tán thán người tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát này tuy vẫn ở nhà thế tục, dùng sức thần thông hoặc sức đại nguyện, thâu nhiếp các loại của cải đầy châu Thiệm-bộ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới, dùng để cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảobố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu. Đại Bồ-tát này dù đang ở nhà thế tục mà vẫn thường tu phạm hạnh, quyết không thọ dụng các cảnh dục xinh đẹp. Dù đang quản lý nhiều thứ của cải, ngọc ngà châu báu mà chẳng đắm nhiễm các thứ ấy. Lại khi hưởng thọ các thứ dục lạccủa cải châu báu, quyết không ép bức các loài hữu tình khiến họ sầu khổ. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển được những Vương thần, Dược-xoa cầm chày kim cương thường theo hai bên thầm bảo vệ những vị ấy, các vị thần thường nghĩ thế này: Đại Bồ-tát này chẳng bao lâu sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta nguyện sẽ đi theo âm thầm giúp đỡ cho đến khi đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Dòng họ thần Dược-xoa cầm chày kim cương theo bảo vệ, không lúc nào rời bỏ. Người chẳng phải người v.v... đều không thể làm tổn hại. Chư thiên, Ma Phạm và các loài khác trong thế gian cũng không thể dùng pháp phá hoại tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã phát. Do nhân duyên này nên các Đại Bồ-tát cho đến khi đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thân, ý thư thả, không ưu não.

Năm căn thế gian của Đại Bồ-tát này thường không khuyết giảm, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân căn. Năm căn xuất thế gian cũng không khuyết giảm, đó là tín, tấn, niệm, định và tuệ căn. Thân thể của Đại Bồ-tát này đầy đủ tướng hảo trang nghiêm, các công đức nơi tâm mỗi niệm mỗi niệm tăng tiến cho đến khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường làm bậc thượng sĩ không làm kẻ hạ sĩ.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát thường được làm bậc thượng sĩ không làm kẻ hạ sĩ?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Tất cả phiền não của Đại Bồ-tát này chẳng còn hiện tiền, thiện pháp tăng tiến trong từng sát-na, cho đến khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, bất cứ lúc nào tâm cũng không tán loạn. Vì thế Ta nói Đại Bồ-tát này thường làm thượng sĩ không làm hạ sĩ. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thành tựu tác ý quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ-đề, thường tu thanh tịnh thân mạng, chẳng làm chú thuật, chữa thuốc, xem bói, các việc tà mạng. Chẳng vì danh lợi mà dùng bùa chú của quỉ thần nhập vào trai hay gái để hỏi việc tốt xấu. Cũng chẳng chú nguyện cho trai, gái lớn nhỏ, bàng sanh, loài quỉ v.v... hiện ra những chuyện hiếm có.

Cũng chẳng bói tướng, tuổi thọ dài ngắn, tiền của, chức vị của nam nữ và các việc thiện ác.

Cũng chẳng dự đoán nóng lạnh, được mùa, mất mùa, lành dữ, tốt xấu làm não loạn hữu tình.

Cũng chẳng chú nguyện hòa trộn thuốc thang, tả đạo trị chữa bệnh tật, kết hảo quý nhân.

Cũng chẳng vì người khác lãnh xứ mạng thông giao, hiện tướng bà con, bạn bè để mong lợi cầu danh.

Chẳng được nhiễm tâm xem nhìn nam nữ cười giỡn và nói năng, huống gì có việc khác.

Cũng chẳng cúng dường, cung kính quỉ thần. Thế nên, Ta nói thường làm thượng sĩ không làm kẻ hạ sĩ.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này biết tất cả pháp tánh, tướng đều là Không. Trong tánh, tướng Không ấy chẳng thấy có tướng. Vì chẳng thấy có tướng, nên xa lìa các thứ tà mạng, chú thuật, y dược, xem tướng mà chỉ cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường làm lợi lạc cho các hữu tình. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tuy được thiện xảo các văn chương, kỹ nghệ thế gian nhưng chẳng đắm trước. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thấu rõ tất cả pháp rốt ráo là Không. Trong sự rốt ráo Không ấy, bao nhiêu văn chương, kỹ nghệ mà thế gian có được đều bất khả đắc. Vả lại, văn chương, kỹ nghệ của thế gian đều là những lời tạp uế, thuộc loại tà mạng. Vì thế, tuy Bồ-tát biết nhưng không làm.

Thiện Hiện nên biết! Đối với các thơ luận thế tục ngoại đạo, Đại Bồ-tát này biết rành rõ nhưng chẳng ưa đắm. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thấu rõ tánh, tướng tất cả pháp đều là Không. Trong tánh, tướng Không ấy, tất cả thơ luận đều bất khả đắc. Vả lại, trong các thơ luận thế tục ngoại đạo đã thuyết, những sự lý phần nhiều có thêm bớt. Đối với đạo Bồ-tát không thể nào tùy thuận được, vì chúng đều thuộc vào những lời hý luận tạp uế, nên các Bồ-tát biết nhưng chẳng ưa. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển còn có nhiều hành động tướng trạng khác nữa, nên biết đều là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Ông hãy lắng nghe cho kỹ, suy nghĩ cho rốt ráo.

Thiện Hiện thưa thỉnh:

- Dạ, xin Thế Tôn thuyết cho. Hôm nay chúng con dốc lòng muốn nghe.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đã có Đại Bồ-tát Bất thối chuyển hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tuy thông suốt các pháp đều vô sở hữu, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ-đề, nhưng chẳng ưa xem xét luận nói về các uẩn, các xứ và các giới. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã suy nghĩ rốt ráothông suốt hoàn toàn chân lý về tánh, tướng Không của uẩn, xứ, giới.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc chúng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã suy nghĩ rốt ráothông suốt hoàn toàn chân lý về tánh, tướng Không của tất cả chúng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc vua. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã trụ bản tánh Không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng hơn, thua, sang, hèn.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc kẻ giặc. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã trụ tự tướng Không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng được, mất, cho và lấy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc quân. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã trụ bản tánh Không, nên chẳng thấy các pháp có tướng nhiều, ít, hợp, tan.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về việc đấu chiến. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã khéo an trụ lý chơn như các pháp là Không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng mạnh, yếu, thương, giận.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về chuyện nam nữ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã trụ các pháp Không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng đẹp, xấu, thương, ghét.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về xóm làng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã trụ các pháp Không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng tăng, giảm, hợp, tan.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về thành ấp. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã trụ các pháp Không, nên chẳng thấy pháp nhỏ nào có tướng nắm giữ hay không nắm giữ đẹp xấu.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về chuyện quốc độ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này an trụ thật tế, nên chẳng thấy các pháp có tướng lệ thuộc hay không lệ thuộc đây kia.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về tướng tốt. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này an trụ vô tướng, nên chẳng thấy các pháp có tướng đẹp, xấu sai khác.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về đây là ta, đây là hữu tình cho đến đây là người biết, đây là người thấy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này an trụ rốt ráo Không, nên hoàn toàn không thấy tướng ta cho đến người thấy, hoặc tướng có, hoặc tướng không, hoặc sai khác.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chẳng ưa xem xét luận nói về các việc thế gian như thế, chỉ ưa xem xét luận nói về Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu xa lìa các tướng, có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này thường không xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Khi tu hành bố thí Ba-la-mật-đa lìa bỏ việc xan tham.

Khi tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa lìa bỏ việc phạm giới.

Khi tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa lìa bỏ việc giận hờn, tranh chấp.

Khi tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa lìa bỏ sự lười nhác.

Khi tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa lìa bỏ việc tán loạn.

Khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa bỏ trí tuệ xấu ác.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này tuy trụ tất cả pháp đều là Không nhưng lại ưa thích chánh pháp, chẳng thích phi pháp. Tuy trụ bất khả đắc Không nhưng thường khen ngợi công đức Tam bảo.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này tuy tu hành tướng chơn như các pháp và pháp giới đồng một vị, nhưng thích khen ngợi các loại công đức của chơn như, pháp giới.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này tuy biết các pháp rốt ráo đều là Không nhưng lại mến bạn lành, chẳng ưa bạn ác. Bạn lành là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát, hoặc hàng Thanh văn hoặc Độc giác v.v..., có thể an lập, giáo hóa hữu tình một cách hoàn hảo, khiến họ hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên cũng gọi là bàn lành.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này thích gần gũi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác để lắng nghe chánh pháp. Nếu nghe Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết chánh pháp tại thế giới khác liền dùng nguyện lực vãng sanh đến thế giới ấy, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, lãnh thọ chánh pháp.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này hoặc ngày, hoặc đêm thường chẳng xa lìa tác ý niệm Phật, cũng chẳng xa lìa tác ý nghe pháp. Nhờ thiện căn này những quốc độ nào có Phật Thế Tôn đang thuyết chánh pháp, vị ấy liền nương vào nguyện lực đến cõi ấy thọ sanh, hoặc nương thần thông đến đó nghe pháp. Do nhân duyên đó nên các Đại Bồ-tát này đời đời kiếp kiếp sanh đến chỗ nào cũng không lìa Phật, thường nghe chánh pháp, không có gián đoạn.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này thường làm lợi ích an lạc cho các hữu tình, nên tuy có thể khởi lên tịnh lự về các cõi định vô sắc sâu xa nhưng cũng phương tiện khéo léo khởi tâm về cõi Dục, để giáo hóa các hữu tình tu mười thiện nghiệp đạo, cũng theo nguyện lực sanh vào quốc độ hiện có Phật thuộc Dục giới, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn để lắng nghe chánh pháp, tu các thắng hạnh. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thường hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thường hành pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Thường hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Thường hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Thường hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Thường hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Thường hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Thường hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Thường hành các địa vị thù thắng của Bồ-tát. Thường hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Thường hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Thường hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Thường hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Thường hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Thường hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Thường hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Thường cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này thường không nghi ngờ đối với tâm địa của mình, không nghĩ: Ta là bậc Bất thối chuyển, ta chẳng phải Bất thối chuyển. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này không thấy có chút pháp nào nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để nói có thối chuyển hoặc nói không thối chuyển.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này không nghi ngờ đối với pháp của địa vị chính mình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã hiểu rốt ráo, thông suốt hoàn toàn đối với pháp của địa vị chính mình .

Thiện Hiện nên biết! Như bậc Dự lưu trụ quả Dự lưu, không nghi ngờ đối với pháp của quả ấy. Bậc Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mỗi vị đều trụ quả của riêng mình, không có sự nghi ngờ đối với pháp trong chính quả ấy. Đại Bồ-tát này cũng như vậy, đối với các pháp thuộc về địa vị Bất thối chuyển mà mình đang trụ thì biết rõ, thấy rõ, không còn mê hoặc, nghi ngờ.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này trụ trong địa vị này, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tu các công đức, nếu có việc ma khởi lên liền giác tri ngay, chẳng theo thế lực của ma sựchuyển đổi, có thể tiêu diệt hoàn toàn các ma sự, giúp cho công đức tu hành chẳng bị chướng ngại.

Thiện Hiện nên biết! Như người tạo nghiệp vô gián, tâm vô gián ấy luôn luôn theo sát họ cho đến lúc qua đời cũng không rời bỏ. Vì sao? Vì nó hay phát sanh để tạo nghiệp vô gián, do thế lực tăng thêm nên chuyển biến mãi cho đến khi qua đời cũng không thể chế phục được. Giá như có tâm tốt khác cũng không thể ngăn ngại được. Đại Bồ-tát này cũng như vậy, khi an trụ địa vị chính mình, tâm chẳng dao động, không có sự phân biệt, nên không bị trời, người, A-tu-la v.v... ở thế gian xoay chuyển nổi. Vì sao? Vì tâm của Đại Bồ-tát này vững vàng, vượt qua trời, người, Ma Phạm, A-tu-la v.v... ở thế gian, đã nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, trụ bậc Bất thối, được thần thông thù thắng của Bồ-tát, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các đệ tử Phật, lắng nghe chánh pháp. Ở chỗ chư Phật gieo trồng nhiều căn lành, thỉnh hỏi pháp nghĩa mà Bồ-tát tu học.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ địa vị chính mình, nếu có khởi ma sự liền biết ngay, quyết không chuyển đổi theo ma sự ấy. Dùng phương tiện thiện xảo tập trung các ma sự để vào trong thật tế, rồi phương tiện trừ diệt. Đối với pháp của địa vị chính mình không mê hoặc, nghi ngờ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này biết tất cả pháp đều vào thật tế, thông suốt thật tế, chẳng một, chẳng nhiều. Ở trong thật tế không có sự phân biệt, vì đối với thật tế không còn mê hoặc, nghi ngờ gì đối với pháp địa vị chính mình, cũng không có do dự.

Thiện Hiện nên biết! Nếu có chuyển thọ sanh thì Đại Bồ-tát này cũng chẳng thối lui đối với thật tế, quyết không phát khởi tác ý hướng tới bậc Thanh vănĐộc giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này biết tự tướng tất cả pháp đều là Không. Trong cái Không này chẳng thấy có pháp nào hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc nhiễm, hoặc tịnh.

Thiện Hiện nên biết! Cho đến khi chuyển thân, Đại Bồ-tát này cũng chẳng nghi ngờ rằng ta sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề hay sẽ không được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thông suốt tự tướng các pháp đều Không, tức là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này an trụ địa vị chính mình chẳng theo duyên bên ngoài. Đối với pháp nơi địa vị chính mình chẳng ai có thể phá hoại được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu trí không dao động, trí không thối lui, tất cả ác duyên không thể làm lung lay được. Nếu Đại Bồ-tát này thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sửác ma giả dạng đức Phật đi đến chỗ của tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển mà nói thế này: “Nay ông nên cầu quả A-la-hán, chấm dứt các lậu, chứng nhập Niết-bàn. Ông chưa nhận thọ ký đại Bồ-đề, cũng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Nay ông chưa có các hành tướng của bậc Bất thối chuyển. Như Lai không nên thọ ký Vô thượng đại Bồ-đề cho ông. Ông cần phải có đầy đủ các hành tướng của bậc Bất thối chuyển mới có thể mong Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.” Nghe những lời này rồi tâm của Đại Bồ-tát này chẳng dao động, không thối lui, chẳng sửng sốt, chẳng sợ hãi. Đại Bồ-tát này phải tự chứng biết: Ta đã nhận thọ ký đại Bồ-đề ở chỗ các đức Như Lai quá khứ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đã thành tựu các thắng pháp như vậy, chắc chắn chư Phật sẽ thọ ký đại Bồ-đề. Ta đã thành tựu các thắng pháp như thế, lẽ nào Thế Tôn chẳng thọ ký cho ta? Vì thế nên chắc chắn ta được chư Phật quá khứ thọ ký đại Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sửác ma, hoặc sứ giả của ma giả dạng đức Phật đến chỗ tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thọ ký bậc Thanh văn, hoặc bậc Độc giác cho Bồ-tát và bảo Bồ-tát: “Thiện nam tử! Cần gì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh tử luân hồi, miệt mài chịu khổ! Hãy mau chứng Vô dư Niết-bàn, chấm dứt sanh tử, an vui hoàn toàn.” Nghe lời ấy rồi, Đại Bồ-tát này nghĩ như vầy: Chắc chắn đây là ác ma hoặc sứ giả của ma giả dạng đức Phật để quấy nhiễu tâm ta, thọ ký cho ta bậc Thanh vănĐộc giác, khiến ta thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì nhất định không có chư Phật nào dạy các Đại Bồ-tát hướng tới Thanh văn hoặc bậc Độc giác, lìa bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát này thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sửác ma, hoặc sứ giả của ma giả dạng đức Phật đến chỗ tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển mà bảo: “Kinh điển Đại thừa mà ông đã thọ trì chẳng phải Phật thuyết, cũng chẳng phải đệ tử Phật thuyết. Đó là các ác ma hoặc các ngoại đạo vì dối gạt ông nên nói như vậy. Nay ông chớ nên thọ trì, đọc tụng.”

Nghe lời ấy rồi, Đại Bồ-tát này nghĩ như vầy: Chắc chắn đây là ác ma hoặc sứ giả của ma khiến ta chán bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên nói kinh điển Đại thừa sâu xa chẳng phải Phật thuyết, cũng chẳng phải đệ tử Như Lai thuyết. Vì sao? Vì lìa kinh điển này mà có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chắc chắn không có điều đó.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này chắc chắn đã an trụ bậc Bất thối chuyển, được chư Phật quá khứ thọ ký đại Bồ-đề lâu rồi. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu đầy đủ các hành động tướng trạng của bậc Bất thối chuyển. Nếu các Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như vậy, thì phải biết đã được thọ ký đại Bồ-đề rồi, tất đã an trụ bậc Bất thối chuyển nên có thể nhận biết được việc làm của ác ma. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đều hộ trì chánh pháp, chẳng tiếc thân mạng, huống gì các của cải, bè bạn, dòng họ. Đại Bồ-tát này luôn nghĩ như vầy: Ta thà lìa bỏ bà con, bạn bè, của cảithân mạng mình, chứ nhất định chẳng lìa bỏ chánh pháp của chư Phật. Vì sao? Vì bà con, bạn bè, của cảithân mạng mình đời đời thường có, rất là dễ được. Chánh pháp của chư Phật trăm ngàn muôn ức kiếp mới được gặp một lần. Gặp được chánh pháp như mãi mãi được lợi lạc lớn, nên ta nhất định phải siêng năng hộ trì, chẳng tiếc thân mạng, bà con, bạn bè và của cải.

Thiện Hiện nên biết! Khi hộ trì chánh pháp, Đại Bồ-tát này nghĩ như vầy: Nay ta không vì hộ trì chánh pháp của một đức Phật, hai đức Phật, ba đức Phật cho đến trăm ngàn đức Phậthộ trì tất cả chánh pháp của chư Phật khắp mười phương ba đời, làm cho chánh pháp chẳng bị tổn giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì là chánh pháp của chư Phật? Tại sao Đại Bồ-tát này hộ trì chẳng tiếc thân mạng, bà con, bạn bè, và của cải?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết cho các Đại Bồ-tát nghe các pháp là Không. Như vậy gọi là chánh pháp của chư Phật. Có hàng ngu si chê bai, hủy báng rằng đây là phi pháp, phi Luật, chẳng phải Thánh giáo mà đấng Thiên Nhơn Sư đã nói, tu học pháp này chẳng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng chứng Niết-bàn tịch tịnh an vui.

Đại Bồ-tát này hộ trì pháp này chẳng tiếc thân mạng, bà con, bạn bè và của cải, lại thường nghĩ: Như Lai đã thuyết tất cả pháp Không, là chỗ quay về nương tựa chơn thật của các hữu tình; Bồ-tát tu học pháp này mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu các hữu tình thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, khiến họ được Niết-bàn rốt ráo thường lạc. Vì thế nên nay ta hộ trì pháp này chẳng tiếc thân mạng, của cải, bà con, bạn bè. Ta sẽ được ở trong số chư Phật đời vị lai. Đức Phật đã thọ ký đại Bồ-đề cho ta. Vì vậy, chánh pháp của chư Phật tức là chánh pháp của ta. Ta phải hộ trì, chẳng tiếc thân mạng, của cải, bà con, bạn bè. Ở đời vị lai khi thành Phật, ta cũng vì hữu tình tuyên thuyết các pháp Không như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này thấy được ý nghĩalợi ích việc hộ trì chánh phápNhư Lai đã thuyết, nên chẳng tiếc thân mạng, của cải, bà con, bạn bè, cho đến đắc quả Bồ-đề thường không lười mỏi. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi nghe chánh pháp mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết cho tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đều không mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì và không quên mất, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã được Đà-la-ni một cách thiện xảo.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đã được những Đà-la-ni nào mà nghe chánh pháp của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết ra không còn mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì không quên mất?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này đã được phương tiện thiện xảo của sự nghe trì Đà-la-ni nên nghe chánh pháp mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết không có mê hoặc, nghi ngờ. Nghe rồi thọ trì và không quên mất, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề luôn giống như đang nghe đức Phật thuyết.

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này nghe chánh pháp mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết không mê hoặc, nghi ngờ, nghe rồi thọ trì chẳng quên mất. Hoặc nghe Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, trời, rồng, Dược-xoa, người chẳng phải người v.v... thuyết chánh pháp cũng không mê hoặc, nghi ngờ đối với chánh pháp, nghe rồi thọ trì chẳng quên mất.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này có thể thông suốt hoàn toàn, không còn mê hoặc, nghi ngờ, nghe được nghĩa lý của âm thanh, ngôn ngữ, văn tự của tất cả hữu tìnhcho đến tận đời vị lai cũng chẳng quên mất. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã chứng được phương tiện thiện xảo của sự nghe trì Đà-la-ni, ghi nhận trọn vẹn những gì đã nói khiến chẳng quên mất. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các hành động tướng trạng như thế, thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

 
XXI. PHẨM TƯỚNG KHÔNG

01

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này thành tựu công đức hi hữu rộng lớn vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã đạt được trí thù thắng vô lượng, vô biên, không đồng hạng với Thanh vănĐộc giác. Trụ trong trí này sẽ phát khởi bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng. Do bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng này, trời, người, A-tu-la v.v… ở thế gian không thể vấn nạn, khiến cho trí tuệ biện tài của Đại Bồ-tát này đi đến chỗ bị cùng tận.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có thể trải qua hằng hà sa số kiếp để tuyên thuyết các hành động tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyểnThế Tôn đã nói. Hoặc chỉ rõ các hành động tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đã thành tựu công đức thù thắng vô thượng. Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói lại nghĩa lý sâu xa, khiến cho các Đại Bồ-tát an trụ trong đó có thể hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Có thể hành pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không mau được viên mãn.

Có thể hành chơn như cho cảnh giới bất tư nghì mau được viên mãn.

Có thể hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mau được viên mãn.

Có thể hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo mau được viên mãn.

Có thể hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mau được viên mãn.

Có thể tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ mau được viên mãn.

Có thể hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mau được viên mãn.

Có thể hành các bậc của Đại Bồ-tát mau được viên mãn.

Có thể hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa mau được viên mãn.

Có thể hành năm loại mắt, sáu phép thần thông mau được viên mãn.

Có thể hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng mau được viên mãn.

Có thể hành đại từ, đại bị đại hỷ, đại xả mau được viên mãn.

Có thể hành ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp mau được viên mãn.

Có thể hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mau được viên mãn.

Có thể hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mau được viên mãn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay. Nay ông mới có thể vì các chúng Đại Bồ-tát thỉnh hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về nghĩa lý sâu xa, khiến cho các Bồ-tát an trụ trong đó tu hành các công đức mau được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết! Nghĩa lý sâu xa ấy là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, lìa nhiễm, Niết-bàn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế. Tất cả những pháp ấy là nghĩa lý sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả những lời lẽ thù thắngNhư Lai đã nói về nghĩa lý sâu xa này đều để chỉ rõ nghĩa của Niết-bàn là thậm thâm.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có nghĩa của Niết-bàn là thậm thâm hay các pháp khác cũng gọi là thậm thâm?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Tất cả các pháp khác cũng gọi là thậm thâm. Đó là sắc uẩn cho đến thức uẩn cũng gọi là thậm thâm. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng gọi là thậm thâm. Sắc xứ cho đến pháp xứ cũng gọi là thậm thâm. Nhãn giới cho đến ý giới cũng gọi là thậm thâm. Sắc giới cho đến pháp giới cũng gọi là thậm thâm. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng gọi là thậm thâm. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng gọi là thậm thâm. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là thậm thâm.

Địa giới cho đến thức giới cũng gọi là thậm thâm. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng gọi là thậm thâm. Vô minh cho đến lão tử cũng gọi là thậm thâm. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng gọi là thậm thâm. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng gọi là thậm thâm. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng gọi là thậm thâm. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng gọi là thậm thâm.

Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng gọi là thậm thâm. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thậm thâm. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng gọi là thậm thâm. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thậm thâm. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng gọi là thậm thâm. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng gọi là thậm thâm. Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là thậm thâm. Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thậm thâm.

Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là thậm thâm. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng gọi là thậm thâm. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp cũng gọi là thậm thâm. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thậm thâm. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thậm thâm. Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề cũng gọi là thậm thâm. Tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng gọi là thậm thâm.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Vì sao sắc uẩn cũng gọi là thậm thâm? Vì sao thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thậm thâm? Nói rộng cho đến vì sao tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng gọi là thậm thâm? Vì sao quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng gọi là thậm thâm?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Vì chơn như sắc uẩn rất thậm thâm nên sắc uẩn cũng gọi là thậm thâm; chơn như thọ, tưởng, hành, thức uẩn rất thậm thâm nên thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng gọi là thậm thâm. Nói rộng cho đến chơn như tất cả hạnh Đại Bồ-tát rất thậm thâm nên tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng gọi là thậm thâm; chơn như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật rất thậm thâm nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng gọi là thậm thâm.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Vì sao chơn như sắc uẩn thậm thâm? Vì sao chơn như thọ, tưởng, hành, thức uẩn thậm thâm? Nói rộng cho đến vì sao chơn như tất cả hạnh Đại Bồ-tát thậm thâm? Vì sao chơn như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật thậm thâm?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Chơn như sắc uẩn chẳng phải sắc uẩn. Chẳng phải lìa sắc uẩn nên thậm thâm.

Chơn như thọ, tưởng, hành, thức uẩn chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn nên thậm thâm.

Nói rộng cho đến chơn như tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Chẳng phải lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát nên thậm thâm.

Chơn như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chẳng phải quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Chẳng phải lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật nên thậm thâm.

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Phương tiện nhiệm mầu vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đem ví dụ khác về sắc uẩn để hiển bày Niết-bàn; đem ví dụ khác về thọ, tưởng, hành, thức uẩn để hiển bày Niết-bàn. Nói rộng cho đến đem ví dụ khác về tất cả hạnh Đại Bồ-tát để hiển bày Niết-bàn; đem ví dụ khác về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật để hiển bày Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Phương tiện nhiệm mầu vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đem ví dụ khác về tất cả pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc cộng pháp, hoặc bất cộng pháp, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu tránh, hoặc pháp vô tránh, hoặc pháp hữu tội, hoặc pháp vô tội, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi để hiển bày Niết-bàn.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Với phương tiện nhiệm mầu vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển mà Ngài đem ví dụ khác về sắc uẩn để hiển bày Niết-bàn; đem ví dụ khác về thọ, tưởng, hành, thức uẩn để hiển bày Niết-bàn. Nói rộng cho đến đem ví dụ khác về tất cả hạnh Đại Bồ-tát để hiển bày Niết-bàn; đem ví dụ khác về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật để hiển bày Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Với phương tiện nhiệm mầu vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, Ngài đã đem ví dụ khác về tất cả pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp cộng, hoặc pháp bất cộng, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu tránh, hoặc pháp vô tránh, hoặc pháp có hữu tội, hoặc pháp vô tội, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi để hiển bày Niết-bàn.

- Thiện Hiện! Đối với nghĩa lý thâm sâu này, các Đại Bồ-tát nên dựa vào nghĩa lý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, suy nghĩ thật kỹ, so lường quán sát, nên nghĩ thế này: Ta nay phải trụ như Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã dạy. Nay ta phải học như Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói.

Thiện Hiện nên biết! Đối với nghĩa lý thậm thâm như thế, Đại Bồ-tát có thể dựa vào nghĩa lý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, suy nghĩ thật kỹ, quán sát so lường, như Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã dạy mà trụ, như Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói mà học. Đại Bồ-tát này do siêng năng tu học như vậy, do dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chỉ khởi lên một tâm niệm mà còn có thể lãnh thọ vô số, vô lượng, vô biên căn lành, vượt qua sanh tử luân hồi trong vô lượng kiếp, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, huống chi thường tu Bát-nhã ba-la-mật-đa không gián đoạn, thường trụ tác ý tương ưng Bồ-đề.

Giống như người đam mê dục lạc cùng với thiếu nữ xinh đẹp yêu nhau, cùng hẹn ước. Nhưng thiếu nữ ấy gặp trắc trở, không thể đến chỗ đã ước hẹn. Người này dục tâm hừng hẫy lan tràn.

Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Do đâu mà dục tâm người ấy lan tràn?

- Bạch Thế Tôn! Do người nữ kia mà dục âm người này bừng cháy lan tràn, khởi lên ý nghĩ: Vì sao người ấy chẳng đến đây để cùng nhau vui chơi hưởng lạc.

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Người ấy suốt ngày đêm đã khởi lên bao nhiêu dục niệm?

- Bạch Thế Tôn! Suốt ngày đêm người này khởi lên rất nhiều dục niệm.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu khởi lên một niệm như Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã thuyết mà học, thì đã vượt qua số kiếp sanh tử lưu chuyển nhiều như số dục niệm của người đam mê dục lạc suốt cả ngày đêm.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này nương theo nghĩa lý thâm sâu của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, suy nghĩ tu họcđược giải thoát và có thể ngăn cản những lỗi lầm của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên, Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tính tấn tu học, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã thuyết trải qua một ngày đêm thì đạt được công đức. Nếu công đức này có hình tướng thì hằng hà sa số ba ngàn đại thiên thế giới chư Phật cũng không thể dung chứa hết. Giả sử có các công đức khác nhiều như cát sông Hằng, đầy dẫy cả thế giới Phật ba ngàn đại thiên, đem so sánh với công đức này thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến không bằng một phần rất nhỏ.

Quyển thứ 515
HẾT

 

02

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, trải qua hằng hà sa số đại kiếp cúng dường Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảoTăng bảo. Ý ông thế nào? Nhờ nhân duyên này mà Đại Bồ-tát ấy đạt được phước đức nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Vị ấy được phước vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng nếu Đại Bồ-tát y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâulời nói đi đôi với việc làm suốt cả ngày đêm, công đức đạt được nhiều hơn công đức của người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa rất thâm sâu, đó là cỗ xe của Đại Bồ-tát. Vì các Đại Bồ-tát nương vào cỗ xe này mà mau đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển dịu pháp luân, độ tất cả hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp cúng dường bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, Ứng cúng, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai. Ý ông thế nào? Nhờ sự cúng dường này mà Đại Bồ-tát ấy được phước có nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên, không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng nếu Đại Bồ-tát y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, theo lời nóitu học trong một ngày đêm, thì công đức đạt được nhiều hơn công đức người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác, mau nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, rồi dần dần tu Bồ-tát hạnh, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, cứu độ các hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã. Ý ông thế nào? Nhờ sự tu học này mà Đại Bồ-tát ấy đạt được phước có nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên, không thể nghĩ bàn không thể tính đếm được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng nếu Đại Bồ-tát thực hành đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, suốt cả ngày đêm tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, thì công đức đạt được nhiều hơn công đức người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là mẹ của các Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể sanh ra chúng Đại Bồ-tát. Tất cả chúng Đại Bồ-tát đều y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mà mau viên mãn tất cả Phật pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, bố thí pháp cho tất cả hữu tình. Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát ấy nhờ nhân duyên này mà đạt được phước có nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước của vị ấy vô lượng, vô biên, không thể nghĩ bàn không thể tính đếm được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng nếu Đại Bồ-tát sống đúng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói, suốt cả ngày đêm lấy pháp bố thí cho tất cả hữu tình thì công đức đạt được nhiều hơn công đức người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tức là xa lìa trí nhất thiết trí. Nếu Đại Bồ-tát không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tức là không lìa trí nhất thiết trí. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì không nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. An trụ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tu hành các Phật pháp vô biên khác.

Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát nhờ nhân duyên tu học ấy mà đạt được phước có nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng nếu Đại Bồ-tát sống đúng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói, suốt cả ngày đêm tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng, thì công đức đạt được nhiều hơn công đức người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mà bị thối chuyển trí nhất thiết trí thì không có việc ấy. Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, bị thối chuyển trí nhất thiết trí thì việc này có xảy ra. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì không nên xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành tất cả tài thí, pháp thí, ở nơi thanh vắng, chánh niệm tư duy, đem tất cả phước nghiệp tu hành trước đây bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát ấy nhờ đó đạt được phước có nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng nếu Đại Bồ-tát sống đúng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói, suốt cả ngày đêm tu hành tất cả tài thí, pháp thí, ở nơi thanh vắng, chánh niệm tư duy, đem tất cả phước nghiệp tu hành trước đây bình đẳng cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì công đức đạt được nhiều hơn người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuhồi hướng thì nên biết đó là hồi hướng vô thượng. Còn lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuhồi hướng thì nên biết đó là hồi hướng hữu thượng.

Cho nên, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không bao giờ xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đem phước nghiệp tu hành trước đây bình đẳng cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, nhờ vào công đức căn lành của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử quá khứ, hiện tại, vị lai, tập hợp lại đầy đủ với sự tùy hỷ trong hiện tại, rồi bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này mà đạt được phước có nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch thiện Thệ! Rất nhiều. Phước của vị ấy vô lượng, vô số, vô biên không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng nếu Đại Bồ-tát sống đúng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói, suốt cả ngày đêm nhờ vào công đức căn lành của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử quá khứ, hiện tại, vị lai, tập hợp đầy đủ với sự tùy hỷ trong hiện tại, bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì công đức đạt được nhiều hơn người kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì tất cả công đức căn lành của sự tùy hỷ hồi hướng đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu làm đầu.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì không bao giờ xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đem các căn lành tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như lời Ngài đã nói, các hành đều do phân biệt tạo ra, đã do vọng tưởng sanh ra nên hoàn toàn không thật có. Vậy do đâu các Đại Bồ-tát ấy đạt được phước vô lượng, vô số, vô biên?

Bạch Thế Tôn! Do phân biệt mà tạo ra các phước nghiệp nên không thể có chánh kiếnthế gian, không thể hướng đến nhập vào Chánh tánh ly sanh, cũng không thể đắc quả Dự lưu cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nhưng các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu biết tất cả loại phân biệt đã tạo hoàn toàn Không, không có sở hữu, là hư vọng, không thật. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát học kỹ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Sau khi an trụ vào tất cả Không như vậy rồi, như như quán sát những gì do phân biệt tạo ra là hoàn toàn Không, không có sở hữu, là hư vọng chẳng thật. Cho nên không bao giờ xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì đạt được vô lượng, vô số, vô biên phước đức. Do nhân duyên này mà phát sanh chánh kiến, cũng có thể nhập vào Chánh tánh ly sanh, cho đến có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nói về vô lượng, vô số, vô biên, nó khác nhau như thế nào?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Vô lượng là lường không được, không thể lường trong pháp ở quá khứ, hiện tại, vị lai nên gọi là vô lượng. Vô số nghĩa là đếm không thể được, không thể đếm được hết pháp trong cảnh giới hữu vi, vô vi nên gọi là vô số. Vô biênbiên giới không thể nắm bắt, không thể suy lường giới hạn của pháp kia, nên gọi là vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có nhân duyên, nên sắc cũng vô lượng, vô số, vô biên; còn thọ, tưởng, hành, thức có vô lượng, vô số, vô biên không?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Có nhân duyên nên sắc cũng vô lượng, vô số, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô lượng, vô số, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà sắc cũng vô lượng, vô số, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô lượng, vô số, vô biên?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Vì tánh sắc là Không, nên nói là vô lượng, vô số, vô biên; tánh của thọ, tưởng, hành, thức là Không, nên nói là vô lượng, vô số, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ tánh của sắc là Không; tánh của thọ, tưởng, hành, thức tánh là Không, còn tánh của tất cả pháp cũng đều Không hay sao?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Trước đây Ta há không nói tất cả pháp đều Không hay sao?!

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Mặc dù Phật thường nói các pháp đều Không, nhưng vì các hữu tình không biết, không thấy, không hiểu cho nên nay con hỏi lại. Bạch Thế Tôn! Tánh Không của các pháp là vô tận, cũng là vô lượng, cũng là vô số, cũng là vô biên.

Bạch Thế Tôn! Trong các pháp Không, tận cùng không thể đắc, đo lường không thể đắc, số lượng không thể đắc, biên giới không thể đắc. Do đó mà là vô tận, vô lượng, vô số, vô biên, nghĩa và văn cả hai đều không khác nhau?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vô tận, vô lượng, vô số, vô biên thì nghĩa và văn cả hai đều không khác nhau, vì tất cả đều hiển bày rõ ràng về các pháp Không.

Thiện Hiện nên biết! Lý Không của các pháp đều không thể nói. Như Lai chỉ dùng phương tiện nói là vô tận, hoặc nói là vô lượng, hoặc nói là vô số, hoặc nói là vô biên, hoặc nói là không, hoặc nói là vô tướng, hoặc nói là vô nguyện, hoặc nói là vô tác, hoặc nói là vô vi, hoặc nói là vô sanh, hoặc nói là vô diệt, hoặc nói là tạp nhiễm, hoặc nói là vĩnh viễn diệt trừ, hoặc nói là Niết-bàn, hoặc nói là chơn như, hoặc nói là thật tế. Các thật nghĩa v.v… như vậy không khác nhau, tất cả đều do Như Lai dùng phương tiện để giảng nói.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phương tiện thiện xảo thật kỳ diệu, không thể nào giảng nói hết thật tánh của các pháp, nhưng vì hữu tình mà dùng phương tiện để hiển bày. Như con hiểu nghĩa của Ngài nói thì thật tánh của các pháp đều không thể nói?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Thật tánh của các pháp đều không thể nói. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp hoàn toàn Không, không ai có thể giảng nói (bất khả thuyết) hết cái Không đó được.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa của bất khả thuyết có tăng, có giảm không?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng không tăng, không giảm. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không tăng, không giảm. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng không tăng, không giảm. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng không tăng, không giảm. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng không tăng, không giảm. Tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng không tăng, không giảm. Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng không tăng, không giảm. Mười lực Như Lai cho đến cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không tăng, không giảm. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng không tăng, không giảm. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng không tăng, không giảm. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không tăng, không giảm.

Bạch Thế Tôn! Nếu bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng cũng không tăng, không giảm thì bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng đều vô sở hữu. Nếu bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng đều vô sở hữu thì Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng như thế nào để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm. Bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng cũng không tăng, không giảm. Nghĩa bất khả thuyết vô sở hữu nên bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng cũng vô sở hữu. Nhưng các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo, không suy nghĩ như vầy: Đối với Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa hoặc tăng hay giảm, ta chỉ nghĩ: Nó chỉ do vọng tưởng mà có cái tên để gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Khi Đại Bồ-tát ấy tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, đem bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa này tương ưng với tác ý, nương theo tâm niệm ấy và các căn lành rồi bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, giống như Phật hồi hướng lên ngôi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vi diệu sâu xa. Nhờ năng lực phương tiện thiện xảo của sự hồi hướng này mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Chơn như của các pháp gọi là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao nói là chơn như của các pháp là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Chơn như của sắc uẩn cho đến thức uẩnquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của nhãn xứ cho đến ý xứquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của sắc xứ cho đến pháp xứquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của nhãn giới cho đến ý giớiquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của sắc giới cho đến pháp giớiquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của nhãn thức giới cho đến ý thức giới là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của nhãn xúc cho đến ý xúc là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của địa giới cho đến thức giớiquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của nhân duyên cho đến tăng thượng duyênquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của vô minh cho đến lão tửquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đaquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạoquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắcquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyệnquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của tám giải thoát cho đến mười biến xứquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của Tịnh Quán địa cho đến Như Lai địaquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địaquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của năm loại mắt, sáu phép thần thôngquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Chơn như của sanh tử, Niết-bàn là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Vì chơn như của các pháp không tăng, không giảm nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng không tăng, không giảm.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì luôn được an lạc, an trụ vào chơn như của các pháp, và hoàn toàn không thấy pháp có tăng hay giảm. Do đó mà nghĩa của bất khả thuyết không tăng, không giảm. Bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng cũng không tăng, không giảm. Vì nghĩa của bất khả thuyết vô sở hữu nên bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng cũng vô sở hữu.

Này Thiện Hiện! Như vậy, các Đại Bồ-tát y vào không tăng, không giảm và vô sở hữu để làm phương tiệntu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nhờ đó mà làm nơi chứa nhóm các công đức để đạt đến quả vị viên mãn, chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy do tâm ban đầu phát sanh để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hay do tâm sau phát sanh để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy nếu tâm ban đầu phát sanh để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vậy lúc ban đầu phát sanh thì tâm sau chưa phát sanh, nghĩa ấy không hòa hợp. Nếu tâm sau phát sanh để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vậy lúc tâm sau phát sanh thì tâm trước đã diệt, nghĩa không hòa hợp.

Như vậy, tâm và tâm sở pháp trước sau mà tấn thối, suy vi thì nghĩa không hòa hợp. Như vậy làm sao có thể chứa nhóm được căn lành? Nếu các căn lành không được chứa nhóm thì làm sao căn lành của Bồ-tát viên mãn để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ta sẽ lược nói ví dụ với nghĩa đó để ông dễ hiểu. Những ai có trí, nghe ý nghĩa trong ví dụ đó liền được giác ngộ.

Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Khi đốt đèn, ngọn lửa lúc đầu làm cháy tim hay ngọn lửa lúc sau làm cháy tim?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu thì chẳng phải ngọn lửa ban đầu làm cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa ban đầu mà làm cháy tim. Chẳng phải ngọn lửa sau cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa sau mà cháy tim.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tim đèm có cháy không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ở thế gian hiện tại thấy tim đèn ấy thật sự cháy.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng như vậy. Chẳng phải do tâm ban đầu phát sanh mà có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và cũng không lìa tâm ban đầu. Chẳng phải do tâm sau phát sanh mà có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và cũng không lìa tâm sau, mà các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu phải làm cho các căn lành phát triển mau viên mãn, để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, cho đến tâm cuối cùng viên mãn thập địa thì chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu học viên mãn thập địa nào để chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa được viên mãn thì chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cũng học Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa được viên mãn thì chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học mười địa ấy để đạt đến quả vị viên mãn. Khi đắc Bồ-đề, chẳng phải tâm ban đầu phát sanh mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm ban đầu. Chẳng phải tâm sau phát sanh mà chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm sau, mà các Đại Bồ-tát phải siêng năng tinh tấn tu học thập địa như vậy để đạt đến quả vị viên mãn, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Ý nghĩa duyên khởi được Như Lai nói ra rất là vi diệu, rất là sâu xa, nghĩa là các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lấy vô sở đắc làm phương tiện để tu học thập địa. Khi đắc Bồ-đề, chẳng phải tâm ban đầu phát sanh mà chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm ban đầu. Chẳng phải tâm sau phát sanh mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm sau, mà các Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đến tâm cuối cùng viên mãn thập địa thì chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Sau khi tâm diệt rồi thì có thể sanh lại nữa không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không! Tâm đó diệt rồi thì không thể sanh lại được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tâm đã sanh có pháp để diệt không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tâm đã sanh nhất địnhpháp diệt.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Có pháp diệt thì tâm chẳng phải diệt phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không! Nếu có pháp diệt thì tâm nhất định phải diệt.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tâm trụ có giống chơn như của tâm không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Chơn như của tâm cũng giống như sự trụ của tâm.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu sự trụ của tâm giống như chơn như thì tâm ấy là Như. Tánh thật tế của chơn như thường trụ, phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không! Tâm ấy chẳng phải thật tế chơn như. Tánh của nó là thường trụ.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Chơn như của các pháp có sâu xa không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chơn như của các pháp rất là sâu xa.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Chơn như có phải là tâm không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Lìa chơn như có tâm không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tâm ấy là chơn như phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Lìa tâm có chơn như không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Chơn như có thể thấy chơn như không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu Đại Bồ-tát tu hành như vậy thì đó có phải là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Nếu Đại Bồ-tát có thể hành như vậy thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu Đại Bồ-tát có thể hành như vậy là hành chỗ nào?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát hành như vậy, hoàn toàn không có chỗ hành. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, trụ trong chơn như, không có tâm hiện hành, không có chỗ hiện hành. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, trụ trong chơn như đều không hiện hành, thời gian hiện hành, nơi chốn hiện hành.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hành vào đâu?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì hành vào thắng nghĩa đế. Trong đây hai loại hiện hành đều không có.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, mặc dù không chấp thủ tướng nhưng có hành theo tướng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, hành trong thắng nghĩa đế có phá tướng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, hành trong thắng nghĩa đế có phá tướng tưởng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì sao không phá tướng, cũng không phá tướng tưởng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, không nghĩ như vầy: Ta sẽ phá tướng và tướng tưởng. Cũng không nghĩ: Ta sẽ phá vô tướngvô tướng tưởng. Vì sao? Vì đối với tất cả loại ấy đều không có phân biệt.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, mặc dầu có thể lìa các sự phân biệt như vậy nhưng chưa viên mãn mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, và mười tám pháp Phật bất cộng v.v... vô lượng, vô biên thù thắng công đức, chưa đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng. Nhờ phương tiện thiện xảo tối thắng này mà đối với tất cả pháp, không giữ lấy, không phá hoại. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy hiểu rõ các pháp là tự tướng Không.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy trụ trong tự tướng Không của các pháp là vì muốn thành thục các hữu tình nên thể nhập vào ba đẳng trì. Dùng phương tiện ba đẳng trì này mà thành thục các hữu tình.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Đại Bồ-tát ấy làm thế nào để thể nhập vào ba thứ đẳng trì này, dùng phương tiện thành thục các hữu tình?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy trụ vào Không đẳng trì, thấy các hữu tình do hư vọng phân biệt ngã và ngã sở, rồi dùng sức phương tiện chỉ dạy họ trụ vào Không Tam-ma-địa. Đại Bồ-tát ấy trụ vào Vô tướng đẳng trì, thấy các hữu tình do hư vọng phân biệt tướng của các pháp, nên dùng sức phương tiện chỉ dạy họ an trụ vào Vô tướng Tam-ma-địa. Đại Bồ-tát ấy trụ vào Vô nguyện đẳng trì, thấy các hữu tình do hư vọng phân biệt nhiều ham muốn về những an vui, nên dùng phương tiện chỉ dạy họ an trụ vào Vô nguyện Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo thể nhập vào ba đẳng trì, để thành thục các loài hữu tình tùy theo sở thích của họ mà được lợi ích lớn.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát ở trong mộng mà thể nhập vào ba loại đẳng trì này thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xatăng trưởng ích lợi không?

Thiện Hiện đáp:

- Đại Bồ-tát khi thức, thể nhập vào ba đẳng trì này thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâutăng trưởng ích lợi. Vậy thì nhập trong mộng kia cũng có tăng trưởng ích lợi. Vì sao? Vì trong lúc thức và mộng đều không khác nhau.

Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát khi thức tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì gọi là tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Nếu Đại Bồ-tát ấy trong mộng mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng gọi là tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì ba đẳng trì này có thể làm tăng trưởng lợi ích tương ưng như vậy.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Trong mộng, các Đại Bồ-tát tạo nghiệp có tăng trưởng ích lợi hay tổn giảm không?

Phật bảo:

- Các pháp được tạo ra là do hư vọng, nó không thật, là như mộng, thì nghiệp kia làm sao có thể tăng trưởng ích lợi hay tổn giảm? Vì sao? Vì các nghiệp trong mộng tạo ra chẳng có tăng trưởng ích lợi, chủ yếu khi thức nhớ tưởng lại, phân biệt những gì đã tạo ra trong mộng, lúc đó mới có tăng trưởng ích lợi hay tổn giảm?

Thiện Hiện hỏi Xá-lợi Tử:

- Có những người lúc thức giết người rồi, sau đó ở trong mộng nhớ tưởng lại, phân biệt tự mình thấy thích thú. Hoặc có người nằm mộng, thấy giết người rồi, khi thức sanh lòng vui sướng. Với hai nghiệp này, ý ông thế nào?

Xá-lợi Tử hỏi lại Thiện Hiện:

- Nếu khôngduyên sự thì cả tư và nghiệp đều không phát sanh. Chủ yếu có sở duyên thì tư, nghiệp mới phát sanh. Trong mộng duyên vào đâu để sanh tư và nghiệp?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu trong mộng hoặc lúc thức không có duyên sự thì tư và nghiệp không sanh; chủ yếu có duyên sự thì tư nghiệp mới phát sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Ở trong sự thấy nghe hay biết các pháp, cần phải có giác tuệ chuyển biến. Do đây mà có nhiễm hay có tịnh. Nếu không thấy nghe hay biết các pháp, không có giác tuệ chuyển biến thì cũng không có nhiễm tịnh. Do đó nếu trong mộng hay thức có duyên sự thì tư nghiệp mới phát sanh, còn không có duyên sự thì tư nghiệp không phát sanh.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đức Phật nói tư nghiệp đều lìa tự tánh. Vậy sao nói tư và nghiệp có duyên mới sanh, còn không thì không sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Mặc dù tự tánh của tư nghiệp và sở duyên đều là Không, nhưng do tâm chấp lấy tướng mà phân biệt, nên nói tư nghiệp có sở duyên mới sanh, còn nếu khôngsở duyên thì tư nghiệp không sanh.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát ở trong mộng mà tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, đem những căn lành này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát ấy có thật hồi hướng đại Bồ-đề không?

Thiện Hiện đáp:

- Bồ-tát Từ Thị đã từ lâu được thọ ký đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển. Còn một đời nữa nhất định thành Phật, có thể trả lời vấn nạn một cách thông suốt, hiện đang ở trong hội này. Hãy thỉnh Ngài để hỏi, Bổ Xứ Từ Tôn nhất định sẽ trả lời.

Theo lời Thiện Hiện nói, Xá-lợi Tử cung kính thỉnh hỏi Bồ-tát Từ Thị. Bồ-tát Từ Thị hỏi lại Xá-lợi Tử:

- Những gì gọi là Từ Thị mà có thể trả lời? Là sắc uẩn? Là thọ, tưởng, hành, thức uẩn? Là Không của sắc uẩn? Là Không của thọ, tưởng, hành, thức uẩn? Là chơn như của sắc uẩn? Là chơn như của thọ, tưởng, hành, thức uẩn? Vả lại, sắc uẩn không thể trả lời; thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thể trả lời. Không của sắc uẩn không thể trả lời; Không của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thể trả lời. Chơn như của sắc uẩn không thể trả lời; chơn như của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không thể trả lời. Vì sao? Vì tôi hoàn toàn không thấy có pháp để trả lời, pháp được trả lời, nơi chốn trả lời, thời gian trả lời, và theo đó trả lời cũng đều không thấy. Tôi hoàn toàn không thấy có pháp để ghi nhận, pháp được ghi nhận, nơi chốn ghi nhận, thời gian ghi nhận và theo đó ghi nhận cũng đều không thấy. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Do bản tánh của tất cả pháp là Không, hoàn toàn không có sở hữu, không hai, không khác, nên thành tựu hay hư hoại đều bất khả đắc.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại hỏi Bồ-tát Từ Thị:

- Pháp mà Ngài nói là theo sở chứng phải không?

Bồ-tát Từ Thị nói:

- Pháp của tôi nói, chẳng phải theo sở chứng. Vì sao? Vì các pháp của tôi chứng không thể nói ra.

Cụ thọ Thiện Hiện nói với Xá-lợi Tử :

- Giác tuệ của Đại Bồ-tát Từ Thị rất rộng sâu, đã tu tập thành tựu viên mãn tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa lâu rồi, đã lấy vô sở đắc làm phương tiện, có thể trả lời tất cả vấn nạn.

Khi ấy, Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Ý ông thế nào? Ông nhờ pháp này mà thành A-la-hán, được thấy pháp này là có thể nói hay sao?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo:

Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tánh của các pháp được chứng cũng như vậy, không thể giảng nói.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát ấy không nghĩ: Ta nhờ pháp này mà đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đã được thọ ký, đang được thọ ký và sẽ được thọ ký. Không nghĩ: Nhờ pháp này ta gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không sanh nghi ngờ: Ta đắc hay không đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chỉ nghĩ như vầy: Ta nhất định phải đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nghe pháp sâu xa không kinh khiếp, không khủng hoảng, không sợ sệt, không thối lui. Đối với đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không lo sợ, quyết định tự biết ta sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề theo sở cầu, chuyển diệu pháp luân, độ các loài hữu tình.

Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Có Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-đa-mật-đa, thấy các hữu tình bị đói khát hành hạ, áo quần rách rưới, vật dụng nằm thiếu thốn, mong muốn của cải đều không như ý. Thấy như vậy liền suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loài hữu tình xa lìa xan tham, đầy đủ không thiếu thốn.

Sau khi suy nghĩ như vậy, liền phát nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm vật gì cả, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, để mau viên mãn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình bị thiếu thốn vật dụng như vậy mà tất cả đều giống như chúng trời Lục Dục, hưởng thọ những vật ưa thích thượng hạng, nhưng ở trong đó không bị chấp trước.

Thiện Hiện nên biết! Nhờ bố thí Ba-la-mật-đa này nên Đại Bồ-tát ấy mau được viên mãn, gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị phiền não bừng cháy nên giết hại lẫn nhau, cho đến tà kiến. Do đó mà chết yểu, nhiều bệnh, dung nhan tiều tụy, không có oai đức, thiếu thốn của cải, sanh vào nhà hạ tiện, thân thể tàn tật, các việc nhơ bẩn v.v… Thấy việc như vậy, Đại Bồ-tát suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình này, mau xa lìa quả báo của các nghiệp ác.

Sau khi suy nghĩ như vậy, lại nguyện: Ta nên siêng năng tinh tấn, không tham luyến. Phải tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong cõi Phật của ta không có quả báo của các nghiệp ác như vậy. Tất cả hữu tình đều tu hành mười điều thiện, sống lâu và được các quả báo tốt đẹp.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ tịnh giới Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn, gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình sân giận nhau, miệng phát ra những lời như gươm giáo, mắng chửi, mạ nhục nhau, dùng dao gậy v.v... tàn hại lẫn nhau, cho đến bỏ mạng mà tâm ác không xả. Thấy việc này rồi, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình này xa lìa những điều ác ấy.

Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, khiến mau được viên mãn và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình bị nghiệp ác phiền não. Tất cả hữu tình gần gũi, thân thiết nhau như cha mẹ, bạn thân, quyến thuộc, không chống trái nhau, đem lòng từ sống với nhau để làm lợi ích an lạc cho nhau.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ an nhẫn Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn, gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình biếng nhác giải đãi, chẳng siêng năng tinh tấn, xả bỏ ba thừa, cũng không tu hành nghiệp thiện của trời, người. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình này xa lìa biếng nhác, giải đãi.

Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, khiến mau được viên mãn và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình biếng nhác, giải đãi, mà tất cả hữu tình cõi của ta siêng năng dõng mãnh, siêng năng gieo nhân về cõi lành và ba thừa, sanh trong cõi trời, người mau chứng giải thoát.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ tinh tấn Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn, gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị năm triền cái ngăn che nên xa lìa tịnh lự, vô lượng, vô sắc, lại tán loạn buông lung, không tu tập các việc thiện. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình này xa lìa các tán động của các triền cái.

Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, khiến mau được viên mãn và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình bị năm triền cái làm tán động như vậy, mà tất cả hữu tình được tự tại ra vào tịnh lự, vô lượng, vô sắc thắng định.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ tịnh lự Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn, gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ngu si ác tuệ, chánh kiến về thế gianxuất thế gian đều bị mất, bác bỏ nói không có nghiệp thiện ácquả báo của nghiệp, chấp đoạn, chấp thường, chấp một, chấp khác, các loại tà pháp tương ưng hoặc không tương ưng v.v… Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình này, giúp họ xa lìa ác tuệ, tà kiến.

Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, khiến mau được viên mãn và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tìnhác hạnh, tà kiến mà tất cả hữu tình đều thành tựu chánh kiến, được trang nghiêm đầy đủ các diệu tuệ.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn, gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy sự sai khác của ba nhóm hữu tình: Một là nhóm chánh định; hai là nhóm tà định; ba là nhóm bất định. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình ra khỏi nhóm tà địnhbất định.

Sau khi suy nghĩ rồi, lại nguyện: Ta phải tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn, mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta không có các loài hữu tình nhóm tà địnhbất định, cũng không có nghe tên của hai nhóm ấy, mà tất cả hữu tình đều trụ vào nhóm chánh định.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn, gần chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình đọa ba đường ác, chịu đủ các khổ, đó là địa ngục, bàng sanhngạ quỷ. Thấy vậy, Đại Bồ-tát suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt khiến họ vĩnh viễn đoạn trừ khổ trong ba đường ác.

Suy nghĩ như vậy rồi, liền nguyện: Ta sẽ tinh tấn siêng năng, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn, mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta không có địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, cũng không có tên của cõi ác ấy. Tất cả hữu tình đều ở cảnh giới thiện.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn, gần chứng đắc trí nhất thiết trí.

Quyển thứ 516
HẾT

 

03

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình do nghiệp chướng xấu ác, ở nơi đất lồi lõm không bằng phẳng, đồi gò, khe hố gai góc um tùm, dơ bẩn tràn lan v.v… Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình vĩnh viễn đoạn trừ các nghiệp chướng ác, được ở nơi đất bằng phẳng như lòng bàn tay, không có những sự cây cỏ nhớp nhúa, rậm rạp.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có các nghiệp nhớp nhúa như vậy, tất cả hữu tình được ở đất đai bằng phẳng, có vườn rừng, ao hồ, các thứ hoa thơm đẹp, nhiều cảnh sắc màu chen lẫn rất là khả ái.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu loại Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình phước đức mỏng ít, ở nơi đất đai không có các trân bảo, chỉ có các loại gạch ngói, đất đá v.v… Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loài hữu tình tội thì nhiều, phước lại ít này được ở nơi giàu có trân bảo.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có các loài hữu tình có tội nhiều phước ít như thế, mà nơi đó có cát vàng ròng rải khắp nơi. Chỗ nào cũng có các trân bảo đặc biệt như: Pha lê, lưu ly v.v... Mặc dù luôn được hưởng thụ nhưng không đắm nhiễm.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát ấy tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình phần nhiều bị lệ thuộc, đắm chìm trong tham ái, mà tạo ra nhiều nghiệp ác bất thiện. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình bị lệ thuộc vào trong tham ái này, để họ vĩnh viễn xa lìa những lệ thuộc trong tham ái mà tạo ra những nghiệp ác bất thiện.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có các loài hữu tình bị lệ thuộc vào trong tham ái mà tạo ra các nghiệp ác. Tất cả hữu tình không bị lệ thuộc vào sắc, thanh v.v... không chấp thủ của cải v.v…

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có bốn chủng loại tôn quí, thấp hèn khác nhau, đó là Sát-đế-lợi cho đến Thú-đạt-la. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình này không còn có sự khác nhau giữa tôn quíthấp hèn.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có sự khác nhau giữa bốn chủng loại tôn quí, thấp hèn. Tất cả hữu tình đều cùng một hình sắc, hết thảy đều thuộc lớp người tôn quí.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có sự khác nhau giữa các gia tộc thượng trung hạ. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình không còn sự khác nhau giữa các gia tộc thượng trung hạ.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có sự khác nhau giữa các gia tộc thượng trung hạ. Tất cả hữu tình đều đồng một thượng phẩm.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tìnhdung mạo đẹp xấu khác nhau. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình không còn có dung mạo đẹp xấu khác nhau như vậy.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta sẽ siêng năng tinh tấn, không tham đắm, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có các loài hữu tìnhdung mạo đẹp xấu khác nhau như vậy. Tất cả đều có màu vàng ròng trang nhã, xinh đẹp, mọi người đều thích nhìn, thành tựu sắc thân thanh tịnh viên mãn tối thắng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị lệ thuộc vào ông chủ, nên làm ra việc gì cũng không được tự do. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình được tự do.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn, mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình không có ông chủ. Những việc làm đều được tự do, cho đến không thấy hình dáng của ông chủ, cũng không nghe đến tên của ông chủ. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng pháp để thống nhiếp gọi là Pháp Vương.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu tập đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có sự khác nhau giữa các cõi địa ngục v.v... Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình không còn có sự khác nhau giữa các cõi thiện ác.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có sự khác nhau giữa các cõi thiện ác, cho đến không có tên các cõi ác. Tất cả hữu tình đều đồng một loại, cùng tu một nghiệp, nghĩa là tất cả đều cùng nhau tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. An trụ trong pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. An trụ trong chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành bậc Đại Bồ-tát. Tu hành pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành gieo nhân để được tướng hảo. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tu hành các hạnh Đại Bồ-tát và quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có bốn loại sanh khác nhau. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình không còn có bốn loại sanh khác nhau như vậy.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn, mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có sự khác nhau của bốn loại sanh như vậy. Tất cả hữu tình đều đồng một loại hóa sanh.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình không có năm tuệ thần thông, làm việc gì cũng không được tự do. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình đạt được năm tuệ thần thông.

Suy nghĩ như vậy, liền nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình đều thành tựu đủ năm thần thông thù thắng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ăn uống bằng đoạn thực, thân thể có các đại tiểu tiệnmáu mủ hôi thối, rất là nhàm chán. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình làm cho trong thân không có dơ nhớp như vậy.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình chỉ đồng thọ dụng thức ăn bằng pháp hỷ lạc vi diệu, thân của họ thơm khiết, không có các thứ nhơ nhớp.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình sống thiếu ánh sáng, khi làm việc gì đều phải tìm đèn đuốc. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình xa lìa sự thiếu ánh sáng như vậy.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình thân thể đều có đủ ánh sáng, chẳng nhờ bên ngoài chiếu vào.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ở đêm, ngày, một tháng hoặc nửa tháng, bị thời tiết xấu thay đổi bất thường. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình, khiến cho chỗ họ ở không có sự thay đổi thời tiết của ngày đêm.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có thời tiết và tên của ngày, đêm, một tháng, nửa tháng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình tuổi thọ ngắn ngủi. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình xa lìa tuổi thọ ngắn ngủi như thế.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình tuổi thọ lâu dài, kiếp số cũng khó biết được.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình không có tướng tốt. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình được tướng tốt đẹp.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình đều có đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm viên mãn, hữu tình nào thấy đều phát sanh lòng hoan hỉ thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các loài hữu tình thiếu các căn lành. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình, giúp cho đầy đủ căn lành.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình tất cả căn lành đều được hoàn hảo, thù thắng thanh tịnh. Nhờ căn lành này mà đem những vật cúng dường thượng hạng để cúng dường chư Phật. Nương nhờ phước lực này mà sanh nơi nào cũng có thể cúng dường chư Phật Thế Tôn.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thân tâm bị bệnh hoạn. Thân bệnh có bốn là: Gió, nóng, đàm và các bệnh lẫn lộn khác. Tâm bệnh cũng bốn là: Tham, sân, si và mạn. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình thân tâm hết bệnh khổ.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có các loài hữu tình thân tâm bị bệnh khổ, cho đến không có cái tên bệnh của thân tâm.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có những sở thích sai khác về ba thừa. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tìnhsở thích hẹp hòi, khiến họ xả bỏ sở thích về Nhị thừa mà chỉ hướng về Đại thừa vô thượng.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình chỉ cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không thích quả Thanh văn, Độc giác thừa cho đến không có tên của Nhị thừa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình tăng thượng mạn, chưa xả nói là xả, chưa đắc nói là đắc. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình xả bỏ sự trói buộc của tăng thượng mạn.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, không có những người tăng thượng mạn như vậy. Tất cả hữu tình như thật tri kiến về những điều đã xả, đã đắc.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình sanh chấp trước, nghĩa là chấp trước sắc uẩn; chấp trước thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Nói rộng cho đến chấp trước hạnh của Đại Bồ-tát; chấp trước quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để cứu vớt các loài hữu tình xả bỏ những sự chấp trước ấy.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Trong cõi Phật của ta, các loài hữu tình không có những sự chấp trước như thế.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với tuổi thọ, ánh sáng cùng chúng đệ tử nhiều không đếm hết. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào để được tuổi thọ, ánh sáng và chúng đệ tử nhiều không giới hạn.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Tất cả tuổi thọ, ánh sáng, chúng đệ tử của ta đều không có giới hạn.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy chu vi vùng đất của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không giới hạn. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Ta phải làm thế nào được ở vùng đất với chu vi không giới hạn, an ổn, phong phúthái bình.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Hằng hà sa số thế giới khắp mười phương hợp lại thành một cõi, an ổn, an vui. Ta ở trong cõi đó thuyết pháp giáo hóa vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thấy vô số cõi hữu tìnhthời gian sanh tử trước sau lâu xa. Thấy vậy, Đại Bồ-tát ấy suy nghĩ: Thời giai sanh tử và cõi hữu tình đều như hư không. Mặc dù không có người thật sự luân hồi sanh tửgiải thoát, nhưng do các hữu tình hư vọng chấp trước, nên luôn luân hồi sanh tử, chịu khổ vô cùng tận. Ta làm sao để cứu giúp họ.

Sau khi suy nghĩ, lại nguyện: Ta phải siêng năng tinh tấn, không tham đắm. Phải tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau được viên mãn và có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí, thuyết pháp vi diệu cho các hữu tình được giải thoát đại khổ sanh tử, cũng giúp cho họ chứng tri về sanh tử, giải thoát đều vô sở hữu, hoàn toàn là Không.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa này mà mau được viên mãn và sắp chứng đắc trí nhất thiết trí.
XXII. PHẨM CĂN GIÀ-GIÀ THIÊN

Lúc bấy giờ, trong hội có Thiên nữ tên Căn-già Thiên, rời khỏi chỗ ngồi, đứng dậy, lạy sát chân Phật, trịch áo bày vai hữu, quỳ gối phải sát đất, chấp tay thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con có thể làm viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và có thể bảo hộ các cõi Phậtđức Thế Tôn đã nói với đại chúng hôm nay.

Nói xong, Căn-già Thiên liền lấy các loại trang nghiêm, nào hoa vàng, hoa bạc, hoa mộc trên đất và đem một cặp áo trời màu vàng ròng, cung kính chí thành dâng lên đức Phật. Nhờ thần lực của Phật, những vật cúng dường vọt lên không trung, uyển chuyển xoay về phía phải, ở trên đỉnh Phật, biến thành đài báu, bốn góc có bốn trụ, trang hoàng đẹp đẽ, rất khả ái. Thế rồi Thiên nữ đem đài báu này bình đẳng cho các hữu tình và cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Biết ý chí sâu xa của Thiên nữ, Như Lai liền mỉm cười. Thường pháp của chư Phật khi mỉm cười thì có ánh sáng đủ màu sắc từ miệng phát ra. Nay Phật cũng như vậy, từ trong miệng phóng ra ánh sáng đủ màu sắc như: Xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, lục, biếc v.v… chiếu khắp cả vô lượng, vô biên thế giới chư Phật trong mười phương, rồi trở lại toả hiện lớn ra nhập vào trong đỉnh của Phật.

Thấy vậy, A-nan-đà đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, trịch áo bày vai phải, quỳ gối sát đất, chấp tay thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười như vậy? Phật mỉm cười đều có nguyên do.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với Khánh Hỷ:

- Thiên nữ này vào đời vị lai sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nói rộng cho đến Phật Thế Tôn, kiếp tên Tinh Dụ, Phật hiệu Kim Hoa.

Khánh Hỷ nên biết! Thiên nữ này là thọ thân nữ cuối cùng. Sau khi xả bỏ thân này sẽ thọ thân nam, đến tận đời vị lai không làm thân nữ nữa. Từ đây qua đời, sanh trong thế giới Phật Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở phương Đông rất là an lạc. Ở cõi Phật đó tu hành phạm hạnh. Do thiên nữ này ở cõi kia nên có chữ Kim Hoa, tu hạnh Đại Bồ-tát.

Khánh Hỷ nên biết! Bồ-tát Kim Hoa sau khi từ thế giới Phật Bất Động qua đời, lại sanh vào phương khác. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, sanh ra nơi nào cũng không bao giờ lìa Phật. Giống như vua Chuyển luân từ cung điện báu này đến cung điện báu khác, sung sướng thọ lạc cho đến khi qua đời, chân cũng không dính đất. Bồ-tát Kim Hoa cũng vậy, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cho đến khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh nơi nào cũng gặp chư Phật, luôn luôn được nghe chánh pháp, tu hành Bồ-tát hạnh.

Khi ấy, A-nan-đà thầm nghĩ: Khi Bồ-tát Kim Hoa thành Phật cũng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Chúng Đại Bồ-tát ở trong hội của Bồ-tát Kim Hoa có bao nhiêu cũng giống như chúng hội Bồ-tát của Phật hiện nay.

Biết tâm niệm của A-nan-đà, đức Phật nói:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nghĩ. Khi Bồ-tát Kim Hoa thành Phật cũng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cho chúng hội. Chúng Đại Bồ-tát trong hội của Bồ-tát Kim Hoa có bao nhiêu cũng giống như chúng hội Bồ-tát của Phật hiện nay.

Khánh Hỷ nên biết! Khi Bồ-tát Kim Hoa thành Phật, số đệ tử xuất gia rất nhiều, không thể nào đếm được, nghĩa là nhiều không thể đếm, như trăm ngàn ức v.v... Chỉ có thể nói chung là vô lượng, vô biên.

Khánh Hỷ nên biết! Khi Bồ-tát Kim Hoa thành Phật, quốc độ đó không có những tai họa, giống như Ta đã giảng nói trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Bấy giờ, Khánh Hỷ lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên nữ này trước đây đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng với vị Phật nào mà nay được gặp Phật để cúng dường, cung kính lại được thọ ký Bất thối chuyển?

Phật dạy:

- Khánh Hỷ! Thiên nữ này đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành và phát nguyện hồi hướng với Phật Nhiên Đăng, cho nên nay được gặp Ta cung kính, cúng dường và liền được thọ ký Bất thối chuyển.

Khánh Hỷ nên biết! Ở nơi Phật Nhiên Đăng thời quá khứ, Ta đem năm cành hoa sen dâng cúng, phát nguyện hồi hướng vị Phật ấy. Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết căn cơ của Ta đã thành thụcthọ ký cho Ta: Đời đương lai, ông sẽ thành Phật hiệu là Năng Tịch, thế giới tên Kham Nhẫn, kiếp hiệu là Hiền. Khi ấy, Thiên nữ nghe Phật thọđại Bồ-đề cho Ta, hoan hỉ khôn siết, liền lấy hoa bằng vàng ròng dâng lên cúng dường Phậtphát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng: Ta nguyện vào đời tương lai, khi Bồ-tát này thành Phật, sẽ thọ ký đại Bồ-đề cho ta, giống như Phật bây giờ. Cho nên ngày nay Ta thọ ký cho Kim Hoa.

Bấy giờ, nghe Phật nói vậy, Khánh Hỷ quá vui mừng, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên nữ này xưa đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng. Nay đã được thành thục cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký cho cô ta.

Phật bảo:

- Khánh Hỷ! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, căn lành của cô ta đã thành thục nên nay Ta thọ ký.

 
XXIII. PHẨM XẢO TIỆN

01

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, làm sao tu tập Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện? Làm sao nhập Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện? Làm sao tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo? Làm sao tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo? Làm sao tập các pháp Bồ-đề phần khác? Làm sao tu các pháp Bồ-đề phần khác?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nên quán sắc uẩn cho đến thức uẩn đều Không.

Nên quán nhãn xứ cho đến ý xứ đều Không.

Nên quán sắc xứ cho đến pháp xứ đều Không.

Nên quán nhãn giới cho đến ý giới đều Không.

Nên quán sắc giới cho đến pháp giới đều Không.

Nên quán nhãn thức giới cho đến ý thức giới đều Không.

Nên quán nhãn xúc cho đến ý xúc đều Không.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đều Không.

Nên quán địa giới cho đến thức giới đều Không.

Nên quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đều Không.

Nên quán vô minh cho đến lão tử đều Không.

Nên quán bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đều Không.

Nên quán pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không đều Không.

Nên quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều Không.

Nên quán Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo đều Không.

Nên quán bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo đều Không.

Nên quán bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều Không.

Nên quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ đều Không.

Nên quán pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không.

Nên quán Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa đều Không.

Nên quán Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa đều Không.

Nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa đều Không.

Nên quán năm loại mắt, sáu phép thần thông đều Không.

Nên quán mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều Không.

Nên quán đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đều Không.

Nên quán ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp đều Không.

Nên quán pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều Không.

Nên quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều Không.

Nên quán quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề đều Không.

Nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều không.

Nên quán pháp hữu lậu, vô lậu đều Không.

Nên quán pháp thế gianxuất thế gian đều Không.

Nên quán pháp hữu vi, vô vi đều Không.

Nên quán pháp quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không.

Nên quán pháp thiện, bất thiện, vô ký đều Không.

Nên quán pháp của Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới đều Không.

Thiện Hiện nên biết! Khi Đại Bồ-tát ấy quán như vậy thì tâm không loạn. Nếu tâm không loạn thì không thấy pháp, nếu không thấy pháp thì không tác chứng. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát học một cách rốt ráo tự tướng của các pháp đều Không. Không có pháp nào tăng, không có pháp nào giảm, cho nên đối với các pháp không thấy, không chứng. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế của các pháp, người chứng, pháp được chứng, thời gian chứng, nơi chốn chứng và do đây chứng, chung hoặc riêng đều không thể dắc và không thể thấy.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Ngài nói: Các Đại Bồ-tát nên quán pháp Không, nhưng không chứng. Vì sao các Đại Bồ-tát nên quán pháp Không mà không chứng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát quán pháp Không, trước tiên hãy nghĩ như vầy: Pháp ta nên quán, các tướng của nó đều Không, không nên chứng. Vì học mà ta quán các pháp Không, chứ không phải vì chứng mà quán các pháp Không. Nay là lúc ta học, chẳng phải lúc ta chứng.

Đại Bồ-tát ấy khi chưa nhập định thì buộc tâm vào cảnh chứ chẳng phải nhập định rồi buộc tâm vào cảnh. Lúc này, Đại Bồ-tát ấy không thối lui tất cả pháp phần Bồ-đề, không chứng lậu tận. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thành tựu trí tuệ rộng lớn như vậy, khéo trụ vào pháp Không, và tất cả pháp phần Bồ-đề, luôn nghĩ như vầy: Bây giờ nên học chứ không nên chứng.

Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thường nghĩ:

Đối với bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với tám giải thoát cho đến mười biến xứ, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Nay vì học trí nhất thiết trí mà ta cần phải học quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề, để cho hoàn hảo chứ không chứng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nên tập Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện. Nên trụ Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện. Nên tu Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện, nhưng đối với thật tế không tác chứng.

Nên tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Nên trụ bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Nên tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nhưng đối với thật tế không tác chứng.

Nên tập các pháp phần Bồ-đề khác. Nên trụ vào các pháp phần Bồ-đề khác. Nên tu các pháp phần Bồ-đề khác, nhưng đối với thật tế không tác chứng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy tuy tập pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng trụ vào pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện và cũng tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nhưng không chứng quả Dự lưu cho đến không chứng Độc giác Bồ-đề.

Tuy tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, cũng trụ vào bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo và cũng tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nhưng không chứng quả Dự lưu cho đến không chứng Độc giác Bồ-đề.

Tuy tập các pháp phần Bồ-đề khác, cũng trụ vào các pháp phần Bồ-đề khác và cũng tu các pháp phần Bồ-đề khác, nhưng không chứng quả Dự lưu cho đến không chứng Độc giác Bồ-đề.

Nhờ đó mà Đại Bồ-tát ấy không rơi vào địa vị Thanh vănĐộc giác, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện! Ví như tráng sĩ dung mạo đẹp đẽ, oai hùng, khỏe mạnh, ai thấy cũng hoan hỉ và có đầy đủ quyến thuộc thanh tịnh, viên mãn thù thắng. Đối với các binh pháp đã học, đạt đến chỗ rốt ráo, cầm khí trượng rất tài giỏi, hiên ngang bất động; có sáu mươi bốn tài năng, mười tám môn học sáng suốt, tất cả các kỹ thuật đều tài giỏi, mọi người ai nấy đều khâm phục, kính ngưỡng. Vì tài giỏi, nên bỏ công ít mà được lợi nhiều. Do đây mà mọi người cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen không lúc nào ngớt. Lúc này, sự vui mừng của tráng sĩ tăng gấp bội, làm cho quyến thuộc cũng vui mừng lây. Vì có việc cần nên tráng sĩ đưa cha mẹ, vợ con, quyến thuộc lên đường đi đến phương khác. Trên đường đi, băng qua vùng hoang vu, hiểm nạn. Trong đó có rất nhiều thú dữ, giặc cướp, oán thù mai phục đáng sợ. Quyến thuộc lớn nhỏ đều kinh hãi. Người tráng sĩ ấy nhờ có nhiều kỹ thuật oai hùng lẫm liệt nên thâm tâm thản nhiên, an ủi cha mẹquyến thuộc: Đừng có lo lắng, sợ hãi, không có chuyện gì đâu. Nhờ khả năng tài giỏi, tráng sĩ ấy đưa quyến thuộc đến nơi an ổn, thoát khỏi ách nạn nên mọi người vui mừng, sung sướng. Ở trong vùng hoang vu, tráng sĩ kia không bị thú dữ, oác tặc giết hại là vì sao vậy? Vì tráng sĩ oai phong lẫm liệt, có đủ các kỹ thuật nên không sợ gì hết.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, vì thương xót các hữu tình trong khổ sanh tử mà hướng dẫn họ đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phổ duyên cho hữu tình phát sanh bốn vô lượng tâm. Tâm câu hành an trụ với bốn vô lượng, siêng năng tu tập bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa khiến mau viên mãn. Đại Bồ-tát ấy chưa viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, vì muốn tu học trí nhất thiết trí, nhưng không chứng lậu tận. Tuy trụ vào pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng không chuyển theo thế lực đó, cũng không bị sự ngăn cản đó lôi kéo. Đối với môn giải thoát cũng không tác chứng. Vì không chứng nên chẳng rơi vào địa vị Thanh vănĐộc giác, nhất định đi đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Giống như chim cánh vàng bay lượn trên hư không, bay lượn tự do chẳng bị rơi xuống đất. Mặc dù nương hư không chơi nhưng không chiếm lấy hư không, cũng không bị hư không làm trở ngại.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng vậy, mặc dù luôn luôn tập trụ tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nhưng trong đó không chứng. Do không chứng nên chẳng rơi vào địa vị Thanh vănĐộc giác. Tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v... và vô lượng Phật pháp khác. Nếu chưa viên mãn thì không bao giờ nương vào không, vô tướng, vô nguyện để mà chứng lậu tận.

Thiện Hiện! Giống như tráng sĩ có tài bắn cung giỏi, muốn chứng minh tài năng của mình bèn giương cung lên hư không, và mục đích muốn mũi tên bay trong hư không chẳng rơi xuống đất, nên lấy mũi tên sau bắn vào đuôi mũi tên trước. Cứ lần lượt như vậy mãi, từng mũi tên nối tiếp nhau không rơi xuống được. Nếu muốn nó rơi, chỉ có cách là ngưng bắn mũi tên sau, lúc đó các mũi tên mới rơi xuống.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được phương tiện thiện xảo bảo hộ, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu căn lành chưa thành thục thì đối với trung đạo không bao giờ chứng thật tế. Còn như đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhờ tất cả căn lành được thành thục, thì bấy giờ Bồ-tát mới chứng thật tế và đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều phải quán sát thật kỹ như vậy. Như trước đã nói về thật tướng của các pháp, tu các hạnh Đại Bồ-tát mà hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thật là hi hữu, có thể làm những việc khó làm. Mặc dù luôn tu học thật tướng của các pháp, luôn tu học chơn như, pháp giới, pháp tánh cho đến cảnh giới bất tư nghì; luôn tu học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; luôn tu học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; luôn tu học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; luôn tu học ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, nhưng ở trong trung đạo chẳng rơi vào địa vị Thanh vănĐộc giác, không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thề chẳng lìa bỏ các hữu tình. Nghĩa là nguyện như vầy: Nếu các hữu tình nào chưa được giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, thì ta quyết không bao giờ bỏ gia hạnh căn lành.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát dùng nguyện lực thù thắng mà nghĩ như vầy: Nếu các hữu tình nào chưa giải thoát, trọn đời ta không lìa bỏ họ. Do phát khởi tâm rộng lớn như vậy nên chắc chắn không bị thối lui, rơi lại giữa đường.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát luôn nghĩ như vầy: Ta không nên lìa bỏ tất cả hữu tình, quyết làm cho họ được giải thoát. Nhưng các hữu tình hành theo pháp bất chánh, nên vì độ họ mà luôn sống trong sự tịch tĩnh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Mặc dù luôn sống như vậy nhưng không thủ chứng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, tuy luôn hiện khởi ba môn giải thoát cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, nhưng trong thời gian đó không chứng thật tế.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thường ưa thích quán sát chỗ sâu xa ấy, nghĩa là thích quán sát pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, đại Không, Không Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, bản tính Không, tự tướng Không, nhất thiết pháp Không, vô tính Không, vô tính tự tính Không. Cũng ưa thích quán sát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, và pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện v.v... tự tướng đều là Không.

Thiện Hiện nên biết! Quán như vậy rồi, Đại Bồ-tát nghĩ: Các loại hữu tình do năng lực của bạn ác mà có tưởng chấp về ngã, nói rộng cho đến tưởng chấp về người thấy. Do tưởng chấp này có sở đắc, cho nên luân hồi trong sanh tử, chịu các khổ. Vì đoạn tưởng chấp của các hữu tình nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình mà nói pháp thâm diệu để đoạn trừ tưởng chấp mà lìa khổ sanh tử.

Bấy giờ, tuy các Đại Bồ-tát học ba môn giải thoát nhưng không nương vào đây mà chứng thật tế. Vì không chứng thật tế nên không rơi vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề. Nhờ suy nghĩ như vậy, Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thành tựu căn lành, không chứng đắc thật tế.

Mặc dù chưa chứng thật tế nhưng không thối lui làm mất bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng không thối lui làm mất bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Cũng không thối lui làm mất pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Cũng không thối lui làm mất tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng không thối lui làm mất pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Cũng không thối lui làm mất chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cũng không thối lui làm mất Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Cũng không thối lui làm mất bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cũng không thối lui làm mất các bậc Bồ-tát. Cũng không thối lui làm mất pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Cũng không thối lui làm mất năm loại mắt, sáu phép thần thông. Cũng không thối lui làm mất mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng không thối lui làm mất đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Cũng không thối lui làm mất pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng không thối lui làm mất trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cũng không thối lui làm mất vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.

Thiện Hiện nên biết! Bấy giờ, Đại Bồ-tát ấy thành tựu tất cả pháp phần Bồ-đề, cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các công đức ấy không bao giờ suy giảm. Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo mà nhiếp giữ. Trong từng sát-na, bạch pháp tăng trưởng, các căn nhanh nhẹn, tất cả Thanh vănĐộc giác không thể sánh kịp.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát luôn suy nghĩ: Các loài hữu ngày đêm tâm thường hành bốn điên đảo, là: Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về thường. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về lạc. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về ngã. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về tịnh.

Vì các hữu tình ấy mà ta hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh Đại Bồ-tát. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nói pháp không điên đảo cho các hữu tình, nghĩa là nói sanh tử không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, chỉ có Niết-bàn vi diệu, tịch tĩnh mới đầy đủ các công đức chơn thật của thường, lạc, ngã, tịnh.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu niệm này, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo mà nhiếp giữ. Nếu chưa viên mãn mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngvô lượng, vô biên các Phật pháp khác, thì cuối cùng không chứng nhập định thù thắng của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Khi ấy, Đại Bồ-tát ấy học ba môn giải thoát ra vào tự tại nhưng chưa chứng thật tế, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhờ hành công đức nên chưa viên mãn hoàn toàn, không chứng thật tế và các công đức khác. Nếu khi nào đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mới có thể chứng đắc.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy tu tập tuy chưa viên mãn các công đức khác nhưng đã tu viên mãn pháp môn vô nguyện Tam-ma-địa.

Quyển thứ 517
HẾT

 

 

02

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ như vầy: Các loài hữu tình luôn luôn có các sở đắc. Nghĩa là chấp có ngã cho đến người thấy. Chấp có sắc uẩn cho đến thức uẩn. Chấp có nhãn xứ cho đến ý xứ. Chấp có sắc xứ cho đến pháp xứ. Chấp có nhãn giới cho đến ý giới. Chấp có sắc giới cho đến pháp giới. Chấp có nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Chấp có nhãn xúc cho đến ý xúc. Chấp có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chấp có địa giới cho đến thức giới. Chấp có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chấp có vô minh cho đến lão tử. Chấp có mười thiện nghiệp đạo. Chấp có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chấp có bốn nhiếp pháp. Chấp có các pháp thiện thù thắng khác. Vì các hữu tình, ta nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà tu các hạnh của Đại Bồ-tát. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ dạy các hữu tình đoạn hẳn những kiến chấp của sở đắc ấy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu tâm niệm này rồi, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, gìn giữ phương tiện thiện xảo. Nếu chưa viên mãn mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngvô lượng, vô biên các Phật pháp khác, thì không bao giờ chứng nhập vào thắng định của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Khi ấy, Đại Bồ-tát mặc dù học ba môn giải thoát, xuất nhập tự tại nhưng chưa có thể chứng được thật tế, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Công đức nhân hành chưa viên mãn hoàn hảo, chưa chứng thật tế và các công đức khác. Nếu đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì mới chứng đắc.

Thiện Hiện nên biết! Bấy giờ, Đại Bồ-tát mặc dù tu tập chưa viên mãn các công đức khác nhưng đối với ba môn giải thoát đã tu tập được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát luôn suy nghĩ: Các loài hữu tình luôn luôn hành các tướng. Nghĩa là chấp tướng nam, chấp tướng nữ, chấp tướng sắc, chấp tướng thanh, chấp tướng hương, chấp tướng vị, chấp tướng xúc, chấp tướng pháp, chấp các tướng ngã, tướng pháp khác. Vì các hữu tình này mà ta phải hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh của Đại Bồ-tát. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sẽ giáo hóa các hữu tình đoạn trừ hẳn các chấp tướng như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu ý niệm đó rồi, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, gìn giữ phương tiện thiện xảo. Nếu chưa viên mãn mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngvô lượng, vô biên Phật pháp khác, thì không bao giờ chứng nhập vào thắng định của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Lúc này, Đại Bồ-tát ấy tuy học ba môn giải thoát và xuất nhập tự tại nhưng nhưng chưa chứng thật tế, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Công đức nhân hành chưa được viên mãn thì không chứng thật tế và các công đức khác. Nếu khi nào đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì mới có thể chứng được.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát lúc ấy mặc dù lúc này tu chưa viên mãn các công đức khác, nhưng đối với ba môn giải thoát đã tu tập được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đã tu học hoàn hảo về bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đã an trụ hoàn hảo về pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Đã an trụ hoàn hảo về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Đã an trụ hoàn hảo về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Đã tu học hoàn hảo về bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Đã tu học hoàn hảo về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Đã tu học hoàn hảo về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đã tu học hoàn hảo về tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Đã tu học hoàn hảo về các bậc Bồ-tát. Đã tu học hoàn hảo về pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Đã tu học hoàn hảo về năm loại mắt, sáu phép thần thông. Đã tu học hoàn hảo về mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đã tu học hoàn hảo về đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Đã tu học hoàn hảo về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, và vô lượng, vô biên Phật pháp khác.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu trí kiến thù thắng như thế. Nếu đối với sanh tử mà tưởng vui hoặc nói có vui, hoặc chấp an trụ trong ba cõi thì không có việc đó.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát đã tu hành hoàn hảo pháp phần Bồ-đề thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử nên hỏi thử: “Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì làm thế nào để tu hành pháp phần Bồ-đề mà không chứng không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh thật tế? Do không chứng nên chẳng đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, nhưng lại siêng năng tu tậpkhông chấp vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.”

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khi được hỏi như vậy thì nên trả lời như vầy: “Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ cần tư duy về không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh thật tế và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, chứ không nên tu học. Đại Bồ-tát ấy chưa được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký Bất thối chuyển của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy chưa có thể khai thị thọ ký rõ ràng trụ vào tướng pháp mà Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tu học.”

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khi được hỏi như vậy thì trả lời như vầy: “Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên chánh tư duy về không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh thật tế và tất cả pháp phần Bồ-đề khác. Cũng phải phương tiện như trước đã nói, khéo léo tu học nhưng không tác chứng. Đại Bồ-tát ấy đã được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký Bất thối chuyển của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã khai thị thọ ký rõ ràng, trụ vào tướng pháp Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tu học.”

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chưa khai thị thọ ký rõ ràng, trụ vào tướng pháp Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển tu học thì nên biết Đại Bồ-tát ấy chưa tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, chưa nhập vào Bạc địa, chưa bằng Đại Bồ-tát kia trụ vào địa Bất thối chuyển, khai thị riêng biệt rõ ràng, an trụ vào tướng Bất thối chuyển. Nếu Đại Bồ-tát khai thị riêng biệt rõ ràng, trụ vào tướng các pháp Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tu học, thì nên biết Đại Bồ-tát ấy đã tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, đã nhập vào Bạc địa, giống như Đại Bồ-tát kia trụ vào địa Bất thối chuyển, khai thị riêng biệt rõ ràng, trụ vào tướng Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có Đại Bồ-tát nào chưa đắc Bất thối chuyển mà có thể như thật trả lời như thế không?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tuy chưa đắc Bất thối chuyển, nhưng ở đây có thể như thật trả lời. Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy mặc dù chưa đắc Bất thối chuyển, nhưng có thể tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và các pháp phần Bồ-đề khác, đã được thành thục, giác tuệ lanh lợi, hoặc nghe hoặc không nghe đều có thể như thật trả lời giống như Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có nhiều Đại Bồ-tát cầu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng ít người có thể như thật trả lời giống như các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đã tu hoàn hảo về Trị địa, hoặc chưa hoàn hảo về Trị địa mà vẫn an trụ.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Vì ít có Đại Bồ-tát được thọ ký trí tuệ thù thắng của địa Bất thối chuyển. Nếu có người được thọ ký như thế thì đều có thể như thật trả lời như thế.

Này Thiện Hiện! Nếu ai có thể như thật trả lời, thì nên biết đó là Đại Bồ-tát đã gieo trồng căn lành lanh lợi, sáng suốt tuyệt đỉnh, trí tuệ đã tu rất là sâu rộng. Thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... không thể nào dẫn dắt tước đoạt được. Ngược lại, chúng bị phá hoạichắc chắn Đại Bồ-tát ấy đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Cho đến trong mộng, Đại Bồ-tát ấy cũng chẳng ưa thích khen ngợi pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác. Pháp trong ba cõi cũng chẳng ưa thích khen ngợi, mà thường quán các pháp ấy giống như mộng, như tiếng vang, nói rộng cho đến như thành Tầm hương. Tuy quán sát như vậy, nhưng không chứng thật tế, nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu trong mộng, Đại Bồ-tát ấy thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng trăm ngàn triệu ức chúng cung kính vây quanh thuyết pháp. Sau khi nghe pháp rồi, tất cả đều hiểu rõ ý nghĩa. Được hiểu ý nghĩa nên tinh tấn tu hành pháp, tùy pháp hành, nhập vào Tam-ma-địa mà phát sanh tùy pháp hành. Nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát trong mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác được trang nghiêm đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, luôn có ánh sáng một tầm, chiếu rực rỡ mọi nơi, cùng vô lượng chúng vọt lên hư không, hiện đại thần thông thuyết pháp giải thoát, hóa ra nhiều thân đi đến vô lượng cõi Phật phương khác để làm Phật sự. Nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát trong mộng thấy giặc cuồng loạn phá hoại xóm làng, hoặc thấy lửa nổi lên thiêu đốt làng mạc; hoặc thấy sư tử, hổ lang, thú dữ, rắn độc, mọt v.v… muốn đến hại; hoặc thấy oan gia muốn đến chặt đầu; hoặc thấy cha mẹ, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc sắp qua đời; hoặc thấy bản thân mình bị lạnh nóng, đói khát và các khổ khác hành hạ v.v…. Thấy những việc đáng sợ như vậy nhưng chẳng kinh hãi, cũng chẳng lo buồn. Sau khi thức dậy, liền suy nghĩ: Ba cõi không thật, đều như thấy trong mộng. Khi ta đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phải nói cho hữu tình biết rằng pháp trong ba cõi đều hư vọng, giống như cảnh trong mộng. Nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ấy cho đến trong mộng thấy có các hữu tìnhđịa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, liền suy nghĩ: Ta phải siêng năng tinh tấn tu hạnh Bồ-tát, mau hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong cõi Phật của ta, không có cõi ác và tên địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi thức dậy cũng nghĩ như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khi thành Phật, ở cõi Phật nào nhất định không có cảnh ác. Vì sao? Vì các pháp ở trong mộng hoặc khi thức đều không hai, không hai phần. Nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát trong mộng thấy lửa thiêu đốt các loài hữu tình trong địa ngục v.v…; hoặc thấy thiêu đốt thành ấp xóm làng, liền phát thệ nguyện: “Nếu tôi được thọ ký Bất thối chuyển, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện lửa lớn này tức thời dập tắt, biến thành mát mẻ.”

Sau khi Bồ-tát phát nguyện, thì trong mộng thấy lửa dập tắt ngay lập tức. Nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu sau khi Bồ-tát này nguyện mà trong mộng thấy lửa chưa dập tắt thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi thức dậy, thấy lửa lớn nổi lên đốt cháy các thành ấp, hoặc thiêu cháy xóm làng, liền nghĩ như vầy: Trong mộng, hoặc khi thức, ta từng thấy mình có các tướng trạng của bậc Bất thối chuyển, nhưng chưa rõ hư thật ra sao. Nếu những điều ta thấy là thật có thì nguyện lửa lớn này tức thời dập tắt, biến thành mát mẻ.

Bồ-tát này đã phát nguyện, chí thành thiết tha như vậy thì bấy giờ lửa dữ liền bị dập tắt. Nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu Bồ-tát này phát lời nguyện chí thành tha thiết như vậy mà lửa dữ vẫn còn thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi thức thấy lửa thiêu đốt các thành ấp, hoặc thiêu đốt xóm làng, liền nghĩ: Ở trong mộng hoặc khi thức, ta từng thấy mình có các hành động tướng trạng của bậc Bất thối chuyển. Nếu những điều ta thấy chắc chắn là thật có, thì nhất định sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện lửa dữ này tức thời được dập tắt, biến thành mát mẻ.

Đại Bồ-tát ấy phát nguyện chí thành tha thiết như vậy, mà khi ấy lửa dữ không tắt, lại cháy từ nhà này lan qua nhà khác; lại cháy từ xóm này lan qua xóm khác. Cứ lần lượt như vậy, lửa kia mới tắt. Đại Bồ-tát ấy tự mình biết rõ chắc chắn đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nhưng nhà, người bị cháy là do hữu tình ấy tạo tác nhiều về nghiệp phá hoại chánh pháp. Do nghiệp ấy nên đầu tiên họ bị đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp chịu quả khổ thích đáng, nay sanh vào cõi người bị các tai ương khác. Hoặc do nghiệp này sẽ đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp bị quả báo khổ thích đáng mà nay ở cõi người ít bị tai ương.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Căn cứ theo những nhân duyên đã nói ở trên, biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Lại có vị thành tựu tướng trạng khác thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Vì ông, ta sẽ phân biệt giải nói, ông nên lắng nghe suy nghĩ thật kỹ.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Xin Thế Tôn nói cho.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thấy có người nam hay người nữ bị loài phi nhơn làm mê loạn chịu các khổ não, không thể tránh xa được, liền nghĩ: Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Biết biết ta đã được ý vui thanh tịnh, thọ ký cho ta quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển. Nếu ta phát sanh tác ý thanh tịnh lâu dài, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lìa bỏ tác ý của Thanh văn, Độc giác, không lấy tác ý của Thanh văn, Độc giáccầu chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì đương lai chắc chắn sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đến tận cùng đời vị lai làm lợi ích an lạc cho các loài hữu tình. Nếu ở mười phương thế giới thật có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nói pháp vi diệu làm lợi ích an lạc cho các hữu tình thì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đó không có điều gì không thấy, không việc gì không biết, không vấn đề nào mà không hiểu rõkhông pháp nào mà không chứng, hiện biết thấy những ý vui khác nhau của tất cả hữu tình. Cúi xin chiếu giám lòng thành tha thiết của ta. Nếu ta thật sự có thể tu Bồ-tát hạnh, nhất định đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp hữu tình ra khỏi khổ sanh tử, thì nguyện cho người nam hoặc người nữ kia không bị loài phi nhơn quấy nhiễu. Loài phi nhơn nghe lời của ta sẽ bỏ đi.

Khi Đại Bồ-tát ấy nói lời như vậy mà loài phi nhơn kia không chịu đi, thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Còn như khi Đại Bồ-tát ấy nói vậy mà loài phi nhơn kia chịu đi thì nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát chưa tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chưa an trụ hoàn hảo về pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Chưa an trụ hoàn hảo về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chưa an trụ hoàn hảo về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Chưa tu học hoàn hảo về bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Chưa tu học hoàn hảo về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chưa tu học hoàn hảo về tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Chưa tu học hoàn hảo về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Chưa tu học hoàn hảo về pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Chưa nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Chưa tu hành đầy đủ tất cả Phật pháp, xa lìa phương tiện thiện xảo của Bồ-tát. Chưa thoát khỏi ác ma làm não loạn. Chưa hiểu biết rõ về những việc của ma. Tự mình không lường căn lành của mình dày hay mỏng. Còn khi học theo lời chí thành của Bồ-tát nói thì bị ác ma lừa gạt. Đại Bồ-tát ấy thấy có người nam, người nữ đang bị loài phi nhơn làm mê loạn, chịu nhiều khổ não, không thể tránh xa được, vội vàng nói quyết chắc rằng tôi đã được quá khứ chư Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, nên khiến cho người nam, người nữ kia không bị loài phi nhơn quấy nhiễu. Theo lời tôi nói phi nhơn kia sẽ mau bỏ đi.

Sau khi Đại Bồ-tát ấy nói lời như vậy thì bấy giờ ác ma bị lừa gạt, nên đến đàn áp phi nhơn bỏ đi. Vì sao? Vì oai lực của ác ma vượt trội hơn phi nhơn kia, nên phi nhơn bị ma ra lệnh liền bỏ đi. Nếu sau khi nói như vậy, Đại Bồ-tát vui mừng khôn xiết, suy nghĩ như vầy: Nay phi nhơn bỏ đi là do oai lực của ta. Vì sao? Vì phi nhơn nghe theo lời nguyện của ta, liền thả người nam, người nữ kia ra, chứ không phải vì duyên cớ nào khác.

Đại Bồ-tát ấy không hay biết việc làm của ác ma, nói là do oai lực của chính mình và vui mừng một cách sai lầm, và ỷ vào đó mà khinh khi các Đại Bồ-tát khác: “Ta đã được chư Phật quá khứ thọ ký đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, những lời nguyện của ta phát ra đều không uổng phí. Các ngươi chưa được chư Phật thọ ký, không nên bắt chước ta nói lời chắc chắn như vậy.” Giả sử có cố mong cầu nhưng hoàn toàn rỗng không, không có kết quả. Vì Đại Bồ-tát ấy khinh khi chê bai các Bồ-tát khác, ỷ có chút tài năng sai lầm nên đối với các công đức làm tăng trưởng nhiều tăng thượng mạnxa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không thể nào chứng đắc trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát ấy không có sức phương tiện thiện xảo nên sanh trưởng nhiều tăng thượng mạn, và chê bai, khinh khi các Bồ-tát. Vì vậy, mặc dầu siêng năng tinh tấn nhưng lại rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Độc giác. Đại Bồ-tát ấy do phước đức mỏng manh, nên làm việc gì hoặc nói lời chắc chắn nào cũng đều là hành động của ma. Đại Bồ-tát ấy không thể gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc chơn thiện tri thức, không thể thỉnh hỏi hành tướng của các Bồ-tát Bất thối chuyển, không thể học hỏi các sự nghiệp của quân ác ma làm. Do đó, bị ma trói buộc càng chặt chẽ hơn.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy từ lâu không tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến xa lìa phương tiện thiện xảo, nên bị ác ma lừa gạt. Do đó, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên biết rõ ràng về các việc làm của ác ma.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì sao Đại Bồ-tát không tu hành lâu về bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến xa lìa phương tiện thiện xảo mà bị ác ma lừa gạt và khuyên các Đại Bồ-tát nên biết rõ ràng? Nghĩa là vì bị ác ma lừa gạt mà dùng phương tiện hóa đủ thứ hình tượng, đến chỗ Bồ-tát nói lời như vầy: “Ôi thiện nam tử! Ông biết không, chư Phật quá khứ đã từng thọ ký đại Bồ-đề cho ông. Với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ông quyết định sẽ đắc Bất thối chuyển. Tên họ sai khác bảy đời của chính ông, cha mẹ, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc của ông, tôi đều biết rõ. Ông sống vào xóm làng nào, thành ấp nào, nước nào, phương nào, ông sanh trong ngôi sao nào, vua nào, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào v.v…”

Như vậy, nếu ác ma thấy bẩm tánh của Bồ-tát nhu nhược, các căn chậm chạp thì liền lừa gạt mà thọ ký: “Đời trước ông đã từng thọ căn tánh như vậy rồi.”

Nếu thấy Bẩm tánh Bồ-tát cang cường, các căn lanh lợi thì ác ma lừa gạt, thọ ký: “Đời trước ông đã từng thọ căn tánh như vậy.”

Nếu thấy Bồ-tát ở nơi thanh vắng, thường đi khất thực, hoặc nhận một bữa ăn, hoặc ăn một lần, hoặc ăn một bát, hoặc ở nơi gò mả, hoặc ở nơi đất trống, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc mặc y phấn tảo, hoặc chỉ có ba y, hoặc thường ngồi không nằm, hoặc dùng phu cụ cũ, hoặc thiểu dục, hoặc hỉ túc, hoặc thích viễn ly, hoặc thích định tịch tịnh, hoặc đủ chánh niệm, hoặc đủ diệu tuệ, hoặc không trọng lợi dưỡng, hoặc không quí tiếng khen, hoặc thích tiết kiệm, chân không thoa dầu, hoặc ít ngủ nghỉ, hoặc lìa bỏ trạo cử, hoặc thích ít nói, hoặc thích lời hòa nhã v.v… Thấy các hạnh của Bồ-tát này rồi, ác ma liền dối gạt mà thọ ký: “Đời trước ông đã từng như vậy. Vì sao? Vì nay ông thành tựu công đức thù thắng như vậy mà thế gian thấy. Như vậy thì nhất định đời trước ông cũng có công đức thù thắng như vậy, nên vui mừng chứ không được khinh mình.”

Đại Bồ-tát ấy nghe ác ma này nói công đức tương lai, quá khứ của mình, và nói tên họ sai khác cùng thân thuộc hiện tại của mình, khi nghe khen ngợi những căn lành thù thắng nên vui mừng khôn xiết mà sanh tăng thượng mạn, khinh miệt, chê bai, hủy nhục các Đại Bồ-tát khác.

Bấy giờ, ác ma biết Bồ-tát kia do ám độn, sanh tăng thượng mạn mà khinh miệt người khác, lại nói: “Ông nhất định thành tựu công đức thù thắng, quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thọ ký cho ông với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhất định ông sẽ chứng đắc Bất thối chuyển, nên hiện tại có tướng đẹp đẽ như vậy.”

Khi ấy, ác ma vì muốn quấy loạn Bồ-tát mà dối gạt, hiện làm hình tướng xuất gia, hoặc dối gạt hiện làm hình tướng tại gia, hoặc dối gạt hiện làm những hình tướng của cha mẹ, anh em, chị em, thân hữu, Phạm chí, sư phụ, trời, rồng, Dược-xoa, người chẳng phải người v.v... đến chỗ Bồ-tát ấy nói như vầy: “Quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thọ ký đại Bồ-đề cho ông, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ông nhất định sẽ đắc Bất thối chuyển. Vì sao? Vì ông đều có đầy đủ tướng trạng công đức của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Hãy tôn trọng mình, chứ đừng nghi ngờ gì cả.” Nghe nói vậy, Bồ-tát này tâm tăng thượng mạn càng kiên cố.

Thiện Hiện nên biết! Như ta đã nói về việc thật đắc các hành động tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, thì Đại Bồ-tát ấy thật chẳng có.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy bị ma khống chế, bị ma lừa gạt nên không được tự do. Vì sao? Vì đối với các tướng trạng của hạnh Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thì Đại Bồ-tát này thật chưa có. Chỉ nghe danh tựcông đức v.v… của mình do ác ma dối gạt nói thì sanh tăng thượng mạn, khinh khi chê bai các Bồ-tát khác. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên giác tri rõ ràng về các việc làm của ác ma.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát bị ma khống chế, bị ma làm mê loạn, chỉ nghe danh tự sanh chấp trước sai lầm. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát trước kia chưa tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng, vô biên Phật pháp khác. Do nhân duyên này làm cho ma có cơ hội. Đại Bồ-tát ấy không thể hiểu rõ hành tướng của uẩn ma, hành tướng của tử ma, hành tướng của thiên ma, hành tướng của phiền não ma. Do đó mà làm cho ma tìm được cơ hội. Đại Bồ-tát ấy không thể hiểu rõ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩnvô lượng pháp môn khác. Cũng không hiểu rõ danh tự của các pháp và hữu tình, thật tướng cho là vô tướng. Do đó làm cho ma tìm được cơ hội, dùng phương tiện biến hóa, làm đủ thứ hình tượng nói với Đại Bồ-tát như vầy: “Sự tu hànhhạnh nguyện của ông đã viên mãn, sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi thành Phật, ông sẽ được danh hiệu tôn quý, công đức thù thắng như vậy.” Nghĩa là ác ma kia biết Bồ-tát này ngày đêm cầu nguyện: “Khi ta thành Phật sẽ được danh hiệu công đức như vậy v.v…”, rồi theo sự cầu nguyện ấy mà ác ma thọ ký nói.

Khi ấy, Bồ-tát này lìa bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo nên nghe ma nói liền suy nghĩ: Người này thật kỳ lạ thay, đã thọ ký nói ta sẽ được danh hiệu công đứcthành Phật, ứng với điều mong cầu ngày đêm của ta. Do đây nên biết quá khứ chư Phật chắc chắn đã thọ ký đại Bồ-đề cho ta. Với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhất định ta sẽ đắc Bất thối chuyển. Khi thành Phật, ta nhất định sẽ được danh hiệu tôn quý, công đức như vậy.

Đại Bồ-tát ấy bị ma, quyến thuộc của ma, hoặc ác ma khống chế. Các Sa-môn v.v... được ác ma thọ ký, nói danh hiệu thành Phật vào đương lai thì lòng kiêu mạn lại tăng lên: “Vào đời vị lai ta nhất định sẽ thành Phật, đạt được danh hiệu công đức như vậy. Các Bồ-tát khác không bằng ta.”

Thiện Hiện nên biết! Như Ta đã nói về đắc các hành động tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thì Đại Bồ-tát ấy đều chưa thành tựu, chỉ nghe ma nói hư danh thành Phật mà sanh tâm kiêu mạn, khinh khi chê bai chúng Đại Bồ-tát khác. Do có tâm kiêu mạn, khinh khi chê bai chúng Đại Bồ-tát khác, nên Đại Bồ-tát ấy lìa bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát ấy xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, vì bỏ bạn lành, nên luôn bị ma khống chế, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khi được thân này, trở lại đắc chánh niệm, chí thành sám hối, bỏ tâm kiêu mạn, luôn luôn gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc thiện hữu chơn tịnh. Người ấy mặc dù bị luân hồi sanh tử nhưng sau đó nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu để tu học thì lần lần sẽ được chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nếu được thân này mà không đắc chánh niệm, không sám hối, không bỏ tâm kiêu mạn, không thích gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc thiện hữu chơn tịnh thì vị ấy nhất định bị luân hồi trong sanh tử. Sau đó mặc dù có tinh tấn tu các nghiệp nhưng cũng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác.

Ví như Bí-sô cầu Thanh văn, nếu phạm một trong bốn trọng tội thì chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải con dòng họ Thích Ca. Hiện tại vị ấy nhất định không thể đắc quả Dự lưu v.v... Bồ-tát vọng chấp hư danh cũng thế, chỉ nghe ma nói hư danh thành Phật, liền sanh tâm ngã mạn, khinh khi, chê bai các Đại Bồ-tát khác, nên biết tội của người này gấp vô lượng lần so với Bí-sô phạm bốn trọng tội kia.

Giả sử Bí-sô kia bị phạm bốn trọng tội thì tội lỗi của Bồ-tát này hơn ngũ vô gián gấp vô lượng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thật không thành tựu công đức thù thắng, chỉ nghe ác ma nói hư danh thành Phật, rồi tự kiêu mạn, khinh khi Bồ-tát khác, cho nên tội này hơn ngũ vô gián. Do đó nên biết, Đại Bồ-tát nào muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên biết rõ hoàn toàn những việc vi tế của ma đã dùng danh hiệu v.v… hư dốithọ ký như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hạnh viễn ly, nghĩa là ở ẩn nơi rừng núi, hang trống, đồng trống, ở nơi thanh vắng, ngồi tư duy. Khi ấy, có ác ma đến cung kính khen ngợi công đức về hạnh viễn ly mà nói như vầy: “Lành thay Đại sĩ! Ngài có thể tu hạnh chơn viễn ly như vậy. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều ca ngợi, được trời Đế Thích, chư thiên, thần, tiên cùng nhau bảo vệ, cúng dường tôn trọng. Ngài cứ ở đây, đừng đi nơi khác.”

Thiện Hiện nên biết! Ta chẳng khen ngợi các Bồ-tát ở nơi thanh vắng, đồng trống, núi rừng, ngồi tư duy, tu hạnh viễn ly.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát phải tu những hạnh viễn ly khác hay sao mà Phật không khen ngợi công đức về hạnh viễn ly của vị ở nơi thanh vắng, đồng trống, núi rừng, không dùng ngọa cụ tốt, ngồi tư duy?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nếu ở nơi thanh vắng, núi rừng, đồng trống, hoặc ở nơi thành ấp xóm làng, vương đô huyên náo v.v… thì chỉ có thể xa lìa phiền não nghiệp ác và các tác ý về Thanh văn, Độc giác. Còn ai hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu và tu các công đức thù thắng khác thì đó mới gọi là hạnh chơn viễn ly của Bồ-tát. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khen ngợi, được chư Phật Thế Tôn chỉ dạy, chúng Bồ-tát thường nên tu học. Bất cứ ngày đêm, nên chánh tư duy, tinh tấn tu học pháp viễn ly này. Đó gọi là Bồ-tát tu hạnh viễn ly. Hạnh viễn ly này không xen lẫn tác ý về Thanh văn, Độc giác, không xen tạp tất cả phiền não nghiệp ác, lìa các ồn ào, hoàn toàn được thanh tịnh, khiến các Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho các hữu tình không gián đoạn.

Thiện Hiện nên biết! Những người được ác ma khen ngợi ẩn cư nơi núi rừng, đồng trống, thanh vắng, không dùng ngọa cụ tốt, ngồi tư duy. Đó chẳng phải là các Bồ-tát hạnh chơn viễn ly. Vì sao? Vì hạnh viễn ly đó còn có huyên náo. Nghĩa là họ còn xen phiền não nghiệp ác, hoặc xen lẫn tác ý Thanh văn, Độc giác. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không tinh cần tin thọ tu học, không thể viên mãn trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Có Đại Bồ-tát chỉ thích tu hành pháp hạnh viễn ly mà ma khen ngợi nên có tâm kiêu mạn chẳng thanh tịnh, khinh khi, chê bai các chúng Đại Bồ-tát khác. Nghĩa là có chúng Đại Bồ-tát mặc dù ở thành ấp, xóm làng, vương đô, nhưng tâm thanh tịnh không xen tạp phiền não nghiệp áctác ý Thanh văn, Độc giác, tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Tuy ở nơi ồn náo mà tâm vẫn tịch tĩnh, luôn tinh cần tu tập hạnh chơn viễn ly. Đối với chúng Đại Bồ-tát chơn tịnh như vậy, mà vị kia sanh tâm kiêu mạn khinh khi chê bai, mắng chửi.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đã xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, nên tuy ở đồng trống một trăm do-tuần, nhưng nơi ấy tuyệt đối không có cầm thú hung dữ, rắn độc, giặc cướp, chỉ có quỷ thần, la-sát v.v... dạo chơi, cư ngụ trong đó. Người ở nơi thanh vắng kia mặc dù trải qua một năm, năm năm, mười năm, hoặc cho đến trăm ngàn ức năm, hoặc hơn số đó nữa, tu hạnh viễn ly nhưng không biết rõ về hạnh chơn viễn ly. Nghĩa là các chúng Đại Bồ-tát tuy ở chỗ ồn ào mà tâm tịch tĩnh, tránh xa các phiền não nghiệp ác và các tác ý Thanh văn, Độc giác, phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát tuy ở mãi nơi đồng trống lại xen tạp tác ý địa vị Thanh văn, Độc giác, rất ưa thíchchấp trước vào hai địa ấy, nương theo pháp hai địa ấy mà tu hạnh viễn ly, lại sanh tâm đắm chìm vào hạnh này. Người này mặc dù tu hạnh viễn ly nhưng không thuận theo tâm của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Ta khen ngợi các Đại Bồ-tát chơn hạnh viễn ly nhưng các Bồ-tát đó không thành tựu. Trong hạnh chơn viễn ly, Ta không thấy vị ấy có hành tướng tương tợ như vậy. Vì sao? Vì đối với hạnh chơn viễn ly đó, vị ấy không ưa thích, chỉ thích siêng năng tu hạnh viễn ly của Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Khi Đại Bồ-tát ấy tu hạnh không thanh tịnh thì ma đến trên hư không, vui mừng khen ngợi, nói với Đại sĩ: “Lành thay! Lành thay! Ông có thể siêng năng tu hạnh chơn viễn ly. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khen ngợi. Ông siêng năng tinh tấn tu học hạnh này thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.”

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy chấp vào pháp hạnh viễn ly của Nhị thừa, tu tập cho là tối thắng nên khinh khi, chê bai những vị trụ Bồ-tát thừa tuy ở nơi ồn náo nhưng tâm tịch tĩnh, thành tựu thiện pháp. Lại nói với Bí-sô: “Vị ấy không thể tu hạnh viễn ly, thân ở nơi ồn náo, tâm không tịch tĩnh, không thành tựu pháp lành.”

Thiện Hiện nên biết! Đối với Đại Bồ-tát được Phật khen ngợi, trụ vào hạnh chơn viễn ly thì Đại Bồ-tát kia khinh khi, chê bai, nói là ở nơi ồn náo, tâm không tịch tĩnh, không siêng năng tu hạnh chơn viễn ly.

Đối với các Bồ-tát sống trong huyên náo mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không khen ngợi, lại tôn trọng khen ngợi bảo chẳng ồn ào, phức tạp, nơi tâm tịch tĩnh, có thể chơn chánh tu hành được hạnh chơn viễn ly.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đáng lẽ phải gần gũi cúng dường, cung kính như Thế Tôn, nhưng lại không gần gũi cúng dường, cung kính, mà ngược lại còn sanh tâm khinh miệt. Đối với kẻ ấy nên xa lìa, không nên gần gũi cúng dường, cung kính bạn ác, ngược lại nên gần gũi cúng dường, cung kính như thờ Thế Tôn.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đã xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, nên vọng sanh các chấp trước riêng biệt. Vì sao? Vì người kia nghĩ như vầy: Điều ta tu học là chơn viễn ly, cho nên được loài phi nhơn khen ngợi hộ niệm. Người ở thành ấp thân tâm tán loạn thì ai sẽ hộ niệm, cung kính khen ngợi. Do đó Đại Bồ-tát ấy tâm nhiều kiêu mạn, khinh miệt các chúng Đại Bồ-tát khác, nên phiền não nghiệp ác luôn luôn tăng trưởng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này đối với chúng Đại Bồ-tát khác là Chiên-đồ-la ô uế. Mặc dù tướng giống Đại Bồ-tát nhưng đó là đại giặc lớn trong trời, người, dối gạt người, trời, A-tu-la v.v... Thân vị ấy mặc pháp y của Sa-môn nhưng tâm luôn luôn thích làm việc trộm cướp. Những người nào có tâm hướng đến Bồ-tát thừa thì không nên gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen người ác đó. Vì sao? Vì bọn người này có tâm thượng mạn, bên ngoài giống Bồ-tát nhưng bên trong nhiều phiền não.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thật sự không xả bỏ trí nhất thiết trí, không bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thâm tâm muốn cầu trí nhất thiết trí, muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì lợi ích an lạc các hữu tình thì không nên gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen người ác như thế.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nên luôn tinh tấn tu sự nghiệp của mình, nhàm chán xa lìa sanh tử, không chấp vào ba cõi. Đối với bọn người giặc ác Chiên-đồ-la ấy phải luôn luôn phát sanh từ, bi, hỷ, xả với họ mà nghĩ như vầy: Ta không nên gây ra những tội lỗi như người ác kia. Giả sử gặp phải thất niệm như hắn thì nên biết rõ để mau trừ diệt.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì phải biết rõ ràng về các việc của ác ma, nên siêng năng tinh tấn tránh xa, diệt trừ những tội lỗi như Bồ-tát kia đã tạo, nên cần cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ý lạc tăng thượng, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì thường phải gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bạn lành chơn tịnh.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những ai gọi là bạn lành chơn tịnh của Đại Bồ-tát?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là bạn lành của Đại Bồ-tát. Tất cả chúng Đại Bồ-tát cũng là bạn lành chơn tịnh của các Đại Bồ-tát. Các Thanh văn và thiện sĩ khác có thể vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng những pháp môn tương ưng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa để dễ hiểu thì cũng là bạn lành chơn tịnh của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là những bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Tám giải thoát cho đến mười biến xứ là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Năm loại mắt, sáu phép thần thông là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là bạn lành chơn tịnh các Bồ-tát.

Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Chấm dứt tất cả tập khí tương tục là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Tất cả hạnh Đại Bồ-tát là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Các pháp duyên tánh là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Các chi duyên khởi là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu rõ, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Bốn niệm trụ cho đến trí nhất thiết tướng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu rõ, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát đoạn hẳn tất cả tập khí tương tục.

Tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Các pháp duyên tánh và chi duyên khởi cũng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Vì sao? Vì tất cả chư Phật Thế Tônquá khứ, vị lai, hiện tại đều lấy bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ. Vì sao? Vì tất cả chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vị laihiện tại đều sanh trưởng từ bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ý lạc tăng thượng, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thì nên học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Đại Bồ-tát ấy đã học bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Lại phải dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp hóa các hữu tình.

Thế nào là bốn? Một là bố thí; hai là ái ngữ; ba là lợi hành; bốn là đồng sự. Do Ta quán nghĩa này nên nói: “Tất cả bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì là bậc thầy, là người dẫn đường nói rộng cho đến là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.”

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu các Đại Bồ-tát muốn đạt sự tu hành không lệ thuộc vào người khác, muốn sống không lệ thuộc vào người khác chỉ dạy, muốn đoạn trừ tất cả sự nghi ngờ của hữu tình, muốn làm viên mãn tất cả hữu tình, muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, muốn thành thục hữu tình, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì ở trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, nói rộng cho đến pháp mà Đại Bồ-tát nên học, tất cả chúng Đại Bồ-tát đều phải siêng năng tinh tấn tu học.

Quyển thứ 518
HẾT

 

03

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy gì làm tướng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy Không làm tướng, lấy vô trước làm tướng, lấy vô tướng làm tướng, lấy tịch tĩnh làm tướng, lấy viễn ly làm tướng. Vì sao? Vì tướng trong Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các tướng của các pháp đều bất khả đắc, vô sở hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có nhân duyên nên có thể nói tất cả tướng vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa, còn tất cả pháp khác cũng có tướng vi diệu như vậy hay sao?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Có nhân duyên thì có thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có tướng vi diệu và các pháp khác cũng có tướng vi diệu như thế. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy tánh Không làm tướng, pháp khác cũng lấy tánh Không làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy vô trước làm tướng, pháp khác cũng lấy vô trước làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy vô tướng làm tướng, pháp khác cũng lấy vô tướng làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy tịch tĩnh làm tướng, pháp khác cũng lấy tịch tĩnh làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy viễn ly làm tướng, pháp khác cũng lấy viễn ly làm tướng. Do nhân duyên này mà có thể nói như vầy: “Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có tướng vi diệu, các pháp khác cũng có tướng vi diệu như thế. Vì tất cả pháp đều tự tánh Không, tự tánh lìa.”

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều là tự tánh Không, tự tánh lìa, tức là tất cả pháp Không của tất cả pháp, cũng là tất cả pháp lìa tất cả pháp, thì làm sao hữu tình có thể tạo ra có nhiễm, có tịnh? Chẳng phải trong pháp tánh Không có nhiễm, có tịnh; cũng chẳng phải pháp ly có nhiễm, có tịnh. Chẳng phải pháp tánh Không có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng chẳng phải trong pháp ly có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chẳng phải trong tánh Không có pháp để đắc, cũng chẳng phải trong tánh ly cũng có pháp để đắc. Chẳng phải trong tánh Không có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng chẳng phải trong tánh ly có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Làm sao con hiểu những ý nghĩa sâu xaThế Tôn đã nói?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Hữu tình luôn luôn có tâm ngã, ngã sở, chấp ngã, ngã sở không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch thiện Thệ! Đúng vậy! Hữu tình luôn có tâm ngã, ngã sởchấp trước ngã, ngã sở.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Hữu tìnhchấp ngãngã sở đều là Không, là viễn ly không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Hữu tình chấp trước ngã và ngã sở đều là Không, là viễn ly.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Há chẳng phải các hữu tình do chấp ngã, ngã sở mà bị luân hồi trong sanh tử sao?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Các loài hữu tình do chấp ngã, ngã sở mà bị luân hồi trong sanh tử.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Như vậy, các loài hữu tình luân hồi trong sanh tử là do có tạp nhiễm, cho nên hữu tình tạo ra có tạp nhiễm. Nếu các hữu tình không có tâm chấp trước vào ngã và ngã sở, thì họ không có tạp nhiễm. Nếu khôngtạp nhiễm thì không bị luân hồi trong sanh tử. Vì luân hồi sanh tử bất khả đắc nên biết hữu tình đó xa lìa tạp nhiễm. Do không tạp nhiễm nên tạo ra có tịnh.

Cho nên, này Thiện Hiện! Mặc dù tự tánh của tất cả pháp đều Không, tự tánh đều lìa nhưng các hữu tình cũng có thể tạo ra có nhiễm, có tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát có thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy và hành tánh của tất cả pháp đều là Không, đều là lìa thì Bồ-tát ấy không hành sắc uẩn cho đến thức uẩn. Cũng không hành nhãn xứ cho đến ý xứ. Không hành sắc xứ cho đến pháp xứ. Không hành nhãn giới cho đến ý giới. Không hành sắc giới cho đến pháp giới. Không hành nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Không hành nhãn xúc cho đến ý xúc. Không hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Không hành địa giới cho đến thức giới. Không hành nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không hành vô minh cho đến lão tử. Không hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Không hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Không hành Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo.

Không hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Không hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Không hành lìa sát hại sanh mạng cho đến lìa tà kiến. Không hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Không hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Không hành Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Không hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Không hành pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Không hành năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Không hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Không hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Không hành ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Không hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Không hành quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề. Không hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Không hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao? Vì các pháp ấy đều không thể đắc, người hành, pháp được hành, thời gian hành, nơi chốn hành và do đây hành đều vô sở hữu.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát có thể hành như vậy thì không bị tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... chinh phục mà ngược lại có thể chiến thắng họ.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát có thể hành như vậy thì không bị Thanh văn, Độc giác chinh phục, ngược lại có thể chinh phục được họ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã được an trụ vào địa vị không có thể chinh phục, đó là địa vị ly sanh của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy thường trụ trong tác ý của trí nhất thiết trí nên không bị ai chinh phục.

Bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát ấy hành như vậy thì được gần gũi với trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ các loài hữu tình.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu và tướng của tất cả pháp là Không, là viễn ly thì Đại Bồ-tát ấy không hành sắc uẩn, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng. Như vậy, cho đến được gần gũi trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ các loài hữu tình.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ đều được làm người, được làm người rồi phát tâm tu học hạnh của các Bồ-tát, đều chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các thiện nam, thiện nữ v.v… suốt đời lấy những vật ưa thích của thế gian để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này. Rồi đem căn lành đã tu tập này bình đẳng cho các hữu tình và cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nhờ nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được phước nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, bày ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy. Do nhân duyên ấy mà các thiện nam, thiện nữ v.v… này được công đức nhiều hơn người trước vô lượng, vô số, không thể tính được.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Như vậy, cho đến giả sử các loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều được làm người. Sau khi được làm người lại phát tâm tu học hạnh Bồ-tát. Tất cả đều chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có thiện nam, thiện nữ v.v… suốt đời đem những thứ ưa thích trong thế gian để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Lại đem căn lành đã được tu tập bình đẳng cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… này được phước nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, bày ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và trụ trong tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy thì công đức đạt được nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể tính lường được.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ này đồng một lúc đều được làm người. Có thiện nam, thiện nữ v.v… dùng phương tiện giáo hóa hướng dẫn để họ trụ vào mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông, hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Độc giác Bồ-đề, hoặc trụ vào quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lại đem căn lành đã giáo hóa ấy bình đẳng cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được phước nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, rồi đưa ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để họ dễ hiểu và an trụ vào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được công đức nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể nào lường tính được.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Như vậy, cho đến giả sử các loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đồng một lúc đều được làm người. Có thiện nam, thiện nữ v.v… dùng phương tiện giáo hóa, dẫn dắt để họ an trụ vào mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc đem căn lành đã giáo hóa, bình đẳng cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… kia được công đức có nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, đưa ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và an trụ vào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy đạt được công đức nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể tính lường được.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ oai lực tinh tấn tăng thượng này mà đạt đến bờ kia, làm phước điền cho hữu tình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đối với pháp đã được oai lực tinh tấn tăng thượng, làm cho tất cả hữu tình không ai sánh kịp, trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thấy các hữu tình người nào không lợi ích an lạc thì sanh tâm đại từ. Thấy hữu tình đau khổ thì sanh tâm đại bi. Thấy các hữu tình được lợi ích an lạc thì sanh tâm đại hỷ. Thấy hữu tình lìa tánh lìa tướng thì sanh tâm đại xả. Còn các Thanh văn, Độc giác thì không thể có được như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đối với hữu tình thì phát sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả một cách bình đẳng nhưng tất cả đều không chấp trước, không giống với dị sanh, Thanh văn, Độc giác theo sở đắc mà sanh tâm chấp trước.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đạt được ánh sáng lớn. Nghĩa là được ánh sáng của bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy mặc dù chưa chứng đắc trí nhất thiết trí, nhưng đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được Bất thối chuyển, đạt đến bờ bên kia làm phước điền cho hữu tình, đáng nhận tất cả y phục, ăn uống, giường chiếu, thuốc thang và các vật dụng sanh sống.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thường trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho nên báo ơn thí chủ một cách rốt ráo, cũng có thể gần gũi trí nhất thiết trí. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không muốn thọ tất cả vật tín thí của quốc vương, đại thần và các hữu tình khác một cách uổng phí, muốn chỉ cho hữu tình con đường chơn tịnh, muốn làm nguồn ánh sáng cho các hữu tình, muốn giải thoát địa ngục ba cõi cho các hữu tình, muốn ban pháp nhãn thanh tịnh cho các hữu tình thì phải thường trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thường trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong lúc ấy không cho các tác ý khác khởi lên.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy luôn luôn tinh tấn trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa không bao giờ lìa bỏ. Ví như có người trước đây chưa từng có ngọc châu mạc-ni quí. Khi có được, ông ta rất vui mừng sung sướng, sau do gặp duyên cố chẳng may lại mất, nên rất khổ não, luôn luôn than thở, tiếc nuối, không lúc nào quên và luôn suy nghĩ phải tìm cách gì để lấy lại viên ngọc châu ấy. Người kia cứ nghĩ đến viên ngọc châu ấy cho nên không sao quên được. Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, phải thường an trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Nếu không trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì bị đánh mất tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tự tánh của tất cả tác ý đều Không, tự tánh của tất cả tác ý đều lìa. Các pháp cũng vậy, trong tự tánh Không, tự tánh lìa của tất cả các pháp, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc trí nhất thiết trí, hoặc các tác ý khác đều bất khả đắc. Vì sao Đại Bồ-tát không lìa tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát biết tất cả pháp, tất cả tác ý đều là tự tánh Không, tự tánh lìa như vậy, Không và lìa chẳng phải Thanh văn tạo ra, chẳng phải Độc giác tạo ra, chẳng phải Bồ-tát tạo ra, chẳng phải Như Lai tạo ra, cũng chẳng phải các hữu tình khác tạo ra, nhưng tất cả pháp, pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, pháp thường trụ như vậy, nên Đại Bồ-tát ấy không lìa bỏ tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng lại không lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, trí nhất thiết trí và các tác ý tự tánh đều Không, tự tánh đều lìa. Như vậy, Không và lìa đều không tăng không giảm. Nếu thông đạt một cách đúng đắn như vậy thì gọi là bất ly.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâutự tánh đều Không và tự tánh đều lìa, thì vì sao sau khi Đại Bồ-tát tu chứng tánh bình đẳng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì liền đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu chứng tánh bình đẳng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng phải Phật pháp có tăng, có giảm, cũng chẳng phải các pháp, pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có tăng hay giảm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chẳng phải một, chẳng phải hai, cũng chẳng phải nhiều.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, mà tâm không kinh, không sợ, không thối lui, cũng không nghi ngờ thì Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã đạt đến chỗ cứu cánh, an trụ vào địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy thì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuhư không, không có, tánh không tự tại, tánh không chắc thật, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu hư không chẳng có, tánh không tự tại, tánh không chắc thật thì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tánh Không có thể hành tánh Không được không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa tánh Không có pháp nào có thể đắc, có thể hành về Không đó được không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy thì sắc uẩn cho đến thức uẩn có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy thì nhãn xứ cho đến ý xứ có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lìa nhãn xứ cho đến ý xứ có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy thì sắc xứ cho đến pháp xứ có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lìa sắc xứ cho đến pháp xứ có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy thì nhãn giới cho đến ý giới có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lìa nhãn giới cho đến ý giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sắc giới cho đến pháp giới có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa sắc giới cho đến pháp giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa nhãn thức giới cho đến ý thức giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc cho đến ý xúc có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa nhãn xúc cho đến ý xúc có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Địa giới cho đến thức giới có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa địa giới cho đến thức giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô minh cho đến lão tử có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa vô minh cho đến lão tử có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát cho đến mười biến xứ có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa tám giải thoát cho đến mười biến xứ có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đại sĩ có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đại sĩ có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sắc uẩn cho đến thức uẩn, hư không, phi hữu, tánh không tự tại, tánh không chắc thật có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn, hư không, phi hữu, tánh không tự tại, tánh không chắc thật có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hư không, phi hữu, tánh không tự tại, tánh không chắc thật có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hư không, phi hữu, tánh không tự tại, tánh không chắc thật có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sắc uẩn cho đến thức uẩn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tuớng, trí nhất thiết tướng, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp như vậy đều là không thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì các Đại Bồ-tát làm sao để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp nào để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuhành xứ của Đại Bồ-tát phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Pháp mà ông không thấy là pháp có thể đắc không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Pháp không thể đắc là có sanh không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Thật tánh của các pháp mà ông thấy là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu Vô sanh pháp nhẫn ấy thì được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v... vô lượng, vô biên công đức thù thắng, thì gọi là người hành giả tinh tấn như thật. Nếu có thể tu hành tinh tấn như thế mà chẳng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trí nhất thiết tướng, đại trí, diệu trí thì không có việc ấy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với pháp sở đắc không thối lui, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có lấy vô sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có lấy sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có lấy sanh, vô sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có lấy tánh chẳng phải sanh, chẳng phải vô sanh của tất cả các pháp để được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy thì làm sao các Đại Bồ-tát được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp nào được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Con không thấy pháp nào được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, cũng không thấy pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có người chứng, pháp được chứng, thời gian chứng, nơi chốn chứng và do đây chứng, vì tất cả đều bất khả đắc.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thiện Hiện nên biết! Khi các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp vô sở đắc, không nghĩ: Ta có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Dùng pháp ấy đối với thời gian như vậy, nơi chốn như vậy, ta chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không còn có những phân biệt. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lìa các sự phân biệt. Nếu có phân biệt thì chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa .

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là sâu xa, khó thấy, khó hiểu, không thể suy nghĩ, vượt qua cảnh giới của suy nghĩ, vì những sở chứng của bậc trí tuệ thông minh đối với sự phân biệt về các tướng thì hoàn toàn xa lìa. Nếu các hữu tình đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này thường thích nghe, thọ trì, đọc tụng, thông đạt hoàn toàn, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác, cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không xen tạp tâm và tâm sở khác, thì nên biết các loài hữu tình ấy nhất định thành tựu vô lượng căn lành, có thể ở trong đây hoàn tất việc ấy.

Phật dạy trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này, các loài hữu tình thường thích nghe, thọ trì, đọc tụng, hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác, cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, thì nên biết các loài hữu tình như thế quyết định thành tựu vô lượng căn lành, cho đến ở trong đây sẽ hoàn tất việc ấy.

Kiều-thi-ca! Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ này, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới đều thành tựu vô lượng công đức của mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, nếu có thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này thường ưa thích nghe, thọ trì, đọc tụng, hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác thì thiện nam tử, thiện nữ v.v… đó đạt được công đức so với phước đức trước hơn trăm lần, ngàn lần, cho đến phần nhỏ nhất.

Khi ấy, trong hội có một Bí-sô nói với trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này nhiếp tâm không tán loạn, thường thích nghe, thọ trì, đọc tụng cho cực thông hiểu, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác, cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này đạt được công đức hơn tất cả hữu tình trong châu Thiệm-bộ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới đã thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v...

Khi ấy, trời Đế Thích nói với Bí-sô:

- Thiện nam, thiện nữ v.v… ấy khi mới phát tâm thì nhất niệm tương ưng với trí nhất thiết tướng, công đức đạt được hơn tất cả hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới đều thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v... gấp trăm ngàn lần, huống gì đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà nhiếp tâm không tán loạn, thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác, cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, công đức đạt được không thể nào so sánh được.

Trí tuệ công đức của thiện nam, thiện nữ v.v… này không những hơn tất cả loài hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới đã thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự v.v... mà còn vượt hơn tất cả công đức của tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.

Bí-sô nên biết! Công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ v.v… đó không những vượt hơn tất cả công đức của tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... mà còn vượt hơn tất cả công đức của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… đó mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.

Bí-sô nên biết! Công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ v.v… đó không những vượt hơn tất cả công đức của tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, mà còn vượt hơn tất cả công đức của Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tịnh lự Ba-la-mật-đa. An trụ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tu hành quán thuận nghịch mười hai nhân duyên. Thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tu các hạnh của Đại Bồ-tát và tất cả công đức của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… đó mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.

Bí-sô nên biết! Các thiện nam, thiện nữ v.v… đó công đức trí tuệ vượt hơn tất cả công đức tất cả Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v… ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.

Lại nữa, này Bí-sô! Nên biết thiện nam, thiện nữ v.v… đó tức là Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát theo lời nóitu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì có phương tiện thiện xảo, nên không bị tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... và Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn khác chinh phục. Vị này có thể kế thừa hạt giống trí nhất thiết trí, không bao giờ đoạn tuyệt, không xa lìa chư Phật, Bồ-tát, bạn lành chơn tịnh, không bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ-đề, chiến thắng tất cả quyến thuộc ác ma, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, cứu vớt các loài hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, để đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát theo lời nóitu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì có phương tiện thiện xảo, thường học pháp mà chúng Đại Bồ-tát nên học, không học pháp của Thanh vănĐộc giác.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì có phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của Đại Bồ-tát.

Bấy giờ, trời Tứ đại thiên vương thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ-tát ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và cùng nói như vầy:

- Lành thay, Đại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh vănĐộc giác. Nếu học như vậy, sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, giống như trước đây Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nhận bốn bình bát do Tứ thiên vương cúng dường, thì bấy giờ ông cũng sẽ nhận. Như xưa kia Tứ đại thiên vương hộ đời đã dâng cúng bốn bình bát, nay tôi cũng dâng cúng.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát. Thiên Đế chúng tôi đều thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ-tát ấy để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và cùng nhau nói như vầy:

- Lành thay, Đại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh vănĐộc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau an tọa tòa Bồ-đề, có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ chúng hữu tình.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát.

Diệu Thời Phận Thiên tử, Diệu Biến Hóa Thiên tử, Diệu Tự Tại Thiên tử đều thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ-tát ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, tất cả đều nói:

- Lành thay, Đại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh vănĐộc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau ngồi tòa Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ chúng hữu tình.



Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát.

Đại phạm thiên vương chủ cõi Kham Nhẫn thống lãnh chúng Phạm thiên đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, nói như vầy:

- Lành thay, Đại sĩ! Ông hãy siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh vănĐộc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau ngồi tòa Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tôi sẽ đi đến dưới cội Bồ-đề ân cần khuyến thỉnh ông chuyển diệu pháp luân, làm lợi lạc cho vô số loài hữu tình.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát.

Trời Cực quang tịnh cho đến trời Sắc cứu cánh thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, nói như vầy:

- Lành thay, Đại sĩ! Ông hãy siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh vănĐộc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau ngồi tòa Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ chúng hữu tình.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các chúng Đại Bồ-tát và các trời, rồng, A-tu-la v.v... thường theo hộ niệm. Nhờ nhân duyên này mà các Đại Bồ-tát ấy không bị hiểm nạn ở thế gian, nguy ách về thân, buồn khổ về tâm làm xâm tổn tai hại. Tất cả các bệnh phát sanh do bốn đại chống trái nhau, nghĩa là bệnh về mắt, bệnh về tai, bệnh về mũi, bệnh về lưỡi, bệnh về thân, các bệnh chi tiết khác. Như vậy tổng cộng là bốn trăm lẻ bốn chứng bệnh ở trong thân vĩnh viễn không phát sanh, chỉ trừ nghiệp nặng thì sẽ chuyển nhận quả báo nhẹ.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát theo lời nóitu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, đạt được những công đức đời hiện tại như vậy, đời sau công đức càng tăng vô lượng, vô biên.

Quyển thứ 519
HẾT

 

04

Bấy giờ, A-nan-đà thầm nghĩ: Nay trời Đế Thích dùng biện tài của mình mà khen ngợi nói công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, đó là nhờ sức oai thần của Như Lai. Biết tâm niệm của A-nan-đà, trời Đế Thích thưa:

- Thưa Đại đức! Tôi khen ngợi công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều nhờ sức oai thần của Như Lai.

Khi ấy, Phật bảo A-nan-đà:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Trời Đế Thích khen ngợi công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, ông nên biết đều nhờ thần lực của Như Lai chứ chẳng phải biện tài của vị ấy. Vì sao? Vì công đức thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nhất định chẳng phải công đức mà tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… khen ngợi.

Khánh Hỷ nên biết! Khi Đại Bồ-tát siêng năng học tư duy, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, thì tất cả ác ma trong ba ngàn đại thiên đều sanh nghi ngờ, và nghĩ như vầy: Đại Bồ-tát này đã chứng thật tế, trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, hay là hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, cứu độ các hữu tình?

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Khi Đại Bồ-tát không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, thì các ác ma rất lo sợ, thân tâm run rẩy, đau đớn như trúng mũi tên độc.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các ác ma đến chỗ vị ấy hóa hiện ra nhiều việc sợ hãi, nào là dao, kiếm, thú dữ, rắn độc, lửa dữ hừng hực phát lên bốn phía, muốn cho Bồ-tát ấy kinh hãi thối tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh tâm thối lui sự tu hành cho đến loạn tâm, ngăn cản quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì thâm tâm của ác ma ấy mới thỏa mãn.

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đều bị ác ma quấy loạn, hay là có vị bị quấy nhiễu, hoặc có vị không bị quấy nhiễu.

Phật dạy:

- Khánh Hỷ! Chẳng phải các Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, cũng đều bị ác ma quấy loạn, là có vị bị quấy nhiễu, có vị không bị quấy nhiễu.

Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu bị các ác ma quấy nhiễu? Những vị Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu?

Phật dạy:

- Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này tâm không tin lại chê bai, hủy báng thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu bị ác ma quấy nhiễu. Nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà tin hiểu, ca ngợi, không phỉ báng thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà nghi ngờ, do dự là hữu hay vô, là thật hay không thật thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu. Nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà tâm hoàn toàn không nghi ngờ, do dự, tin chắc chắn thật có thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này không bị ác ma quấy nhiễu

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa bạn lành, bị các bạn ác khống chế, nên không nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì do không nghe nên không hiểu rõ, không hiểu rõ nên không thể tu tập, không thể tu tập nên không thể thỉnh hỏi, không thỉnh hỏi nên không thực hành theo lời nói, không thực hành theo lời nói nên không thể chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát gần gũi bạn lành, không lệ thuộc vào bạn ác, được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, nhờ được nghe nên liền hiểu rõ. Do hiểu rõ nên có thể tu tập. Nhờ tu tập nên có thể thỉnh hỏi. Nhờ thỉnh hỏi nên làm đúng như lời dạy. Nhờ làm đúng như lời dạy nên có thể chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì khen ngợi pháp không chơn chánh vi diệu thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu. Nếu Đại Bồ-tát gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa, không hộ trì, không khen ngợi pháp không chơn chánh vi diệu thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, hủy báng chê bai chơn diệu pháp. Khi ấy, ác ma liền nghĩ: Bồ-tát này là bạn của ta. Do vị ấy hủy báng chê bai chơn diệu pháp, liền có các thiện nam tử v.v… trụ vào Bồ-tát thừa hủy báng chê bai chơn diệu pháp. Nhờ vậy mà lời nguyện của ta sẽ viên mãn, dù các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… đó giả sử siêng năng tinh tấn tu các pháp lành nhưng cũng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác và cũng làm cho người khác bị rơi như vậy, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa, khen ngợi tin thọ chơn diệu pháp, cũng làm cho vô lượng thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa khen ngợi tin thọ chơn diệu pháp. Do đó mà ác ma sầu khổ lo sợ. Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này, giả sử không tinh tấn siêng năng tu các pháp lành, nhất định cũng không làm cho người khác rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, mà chắc chắn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nói như vầy: Ý nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó giác ngộ, thì làm sao giảng nói, nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, biên chép, lưu bố kinh điển này được. Ta còn không thể đắc cội nguồn của nó, huống chi những người trí cạn phước mỏng? Lúc ấyvô lượng thiện nam tử v.v… trụ vào Bồ-tát thừa nghe lời nói của người kia như vậy nên tâm sợ hãi, liền thối lui tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Độc giác, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, liền nói như vầy: “Bát-nhã ba-la-mật-đa này ý nghĩa thâm sâu, khó thấy, khó giác ngộ, nếu không giảng nói, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, ghi chép, lưu bố mà có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chắc chắn không có điều đó. Khi ấy có vô lượng thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa nghe lời nói của vị ấy như vậy, vui mừng khôn xiết, liền thích nghe, thọ trì, đọc tụng kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, hoàn toàn thông hiểu, tư duy đúng lý, tinh tấn tu hành, giảng nói cho người khác, ghi chép, lưu bố, cầu đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát ỷ mình có công đức căn lành, khinh thường chúng Đại Bồ-tát khác, nói như vầy:

“Ta có thể tu hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, còn các người không thể.

Ta có thể an trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, còn các người không thể.

Ta có thể an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, còn các người không thể.

Ta có thể an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đại sĩ, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành thiền quán và chỉ pháp, còn các người không thể.

Ta có thể quán thuận nghịch duyên khởi, còn các người không thể.

Ta có thể quán sát các pháp tự tướng cộng tướng, còn các người không thể.

Ta có thể thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, còn các người không thể.

Ta có thể tu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, còn các người không thể.”

Bấy giờ, ác ma vui mừng nói: “Bồ-tát này là bạn bè của ta, luân hồi trong sanh tử không biết khi nào ra khỏi”, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát chẳng ỷ mình có công đức căn lành khinh khi các Đại Bồ-tát khác, tuy thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng không chấp trước vào tướng của các pháp lành ấy, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào tự ỷ tên họ nổi tiếng của mình nên khinh miệt các Đại Bồ-tát khác, thường khen đức của mình, chê bai lỗi của người, thật sự không có các hành trạng của tướng Đại Bồ-tát Bất thối chuyển mà nói rằng thật có, nên sanh các phiền não, tự khen mình chê bai người khác: “Các người không có tên họ nổi tiếng của một Bồ-tát, chỉ riêng ta là Bồ-tát nổi tiếng.” Do tăng thượng mạn mà khinh miệt chê bai các Đại Bồ-tát khác.

Khi ấy, ác ma liền nghĩ: Đại Bồ-tát này làm cho quốc độ, cung điện của ta đông đảo, càng làm tăng trưởng cho địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ. Khi ấy, ác ma giúp đỡ thần lực cho vị ấy, khiến vị ấy oai thế biện tài càng tăng trưởng. Do đó có nhiều người tin theo lời nói của vị ấy. Vì nhờ sự giúp đỡ ấy nên giống với bọn ác kiến ấy. Đồng với bọn ác kiến rồi, theo họ học tà đạo. Học tà đạo rồi, phiền não bừng cháy. Vì tâm điên đảo nên tạo ra thân, khẩu, ý nghiệp, tất cả đều chịu lấy quả khổ suy tổn không thể vui sướng. Do nguyên nhân này mà làm cho địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ càng tăng trưởng, làm cho quốc độ, cung điện của ma sung mãn. Do đó ác ma vui mừng khôn xiết, tự do làm theo ý của mình, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát không ỷ mình có tên tuổi hư dối của mình, không khinh miệt các Đại Bồ-tát khác tu thiện. Đối với các công đức lìa tăng thượng mạn, thường không khen mình cũng không chê người, có thể biết rõ ràng về các việc ác ma, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa, hủy báng, khinh khi, chê bai nhau. Khi thấy việc này, ác ma liền suy nghĩ: Bồ-tát này đã xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gần gũi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Vì sao? Vì khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau thì chẳng phải là đạo Bồ-đề, chỉ là đường hiểm ác của địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi suy nghĩ, ác ma vui mừng làm cho oai thế Bồ-tát này lớn mạnh, khiến cho vô lượng người tăng trưởng thêm nghiệp ác, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa không khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau, còn dùng phương tiện giáo hóa dẫn dắt họ hướng đến Đại thừa, hoặc khuyên họ tu theo pháp lành của mình, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát cùng thiện nam tử v.v… cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, khinh khi, đấu tranh, phỉ báng với nhau. Bấy giờ, thấy việc này rồi, ác ma liền nghĩ: Hai Bồ-tát này đều xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gần gũi với địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Vì sao? Vì khinh khi, đấu tranh phỉ báng nhau đó chẳng phải là đạo Bồ-đề, chỉ là đường hiểm nạn của địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi nghĩ như vậy, ác ma vui mừng khôn xiết, làm cho hai vị ấy tăng thêm oai thế, khiến cả hai đấu tranh không ngừng, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát cùng với thiện nam tử v.v… cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau, mà lại dạy bảo cho nhau tu các pháp lành để mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, mà đối với Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển có tâm tổn hại, khinh miệt, mắng chửi, hủy báng. Đại Bồ-tát ấy dù phát sanh bao nhiêu tâm niệm như vậy cũng không được lợi ích, ngược lại bị mất đi bao nhiêu hạnh thù thắng đã từng tu tập. Trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy tránh xa bạn lành, trở lại chịu bao nhiêu sự trói buộc trong sanh tử. Nếu không xả tâm đại Bồ-đề, trải qua bao nhiêu kiếp số đội mặc áo giáp thệ nguyện, siêng năng tu thắng hạnh, không bao giờ gián đoạn, thì sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui.

Khi ấy, Khánh Hỷ liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tâm mà Đại Bồ-tát ấy đã tạo ra nên bị tội khổ trong sanh tử, phải trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy. Nhưng trong thời gian đó cũng có người được ra khỏi? Thắng hạnh mà Đại Bồ-tát ấy đã bị thối lui, cần phải trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy, đội mặc áo giáp thệ nguyện, siêng năng tinh tấn không bao giờ gián đoạn, sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui. Trong thời gian đó cũng có người được lợi ích như cũ.

Phật dạy:

- Khánh Hỷ! Vì Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn mà Ta nói có người hết tội thì được trở lại đầy đủ pháp thiện.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, đối với các Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển có tâm làm tổn hại, đấu tranh, khinh khi, mắng nhiếc, phỉ báng, sau đó không thấy xấu hổ, cứ nghĩ điều ác mãi trong lòng, không như pháp phát lồ sám hối tội lỗi. Thì Ta nói những hạng người ấy ở trong thời gian ấy không được hết tội lỗi để bù đắp lợi ích lại như cũ, phải bị luân hồi trong sanh tử, trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc. Nếu không xả bỏ tâm đại Bồ-đề, trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy mang đội áo giáp thệ nguyện, siêng năng tinh tấn tu thắng hạnh không bao giờ gián đoạn, sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui.

Nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, đối với các Đại Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, mà có lòng sát hại, đấu tranh, khinh miệt, mắng chửi, phỉ báng. Về sau thấy xấu hổ nên không còn trói buộc vào việc ác, liền có thể như pháp phát lồ sám hối, nghĩ như vầy: Ta nay đã được thân người khó được này, sao lại tạo ra những tội lỗi như vậy để làm mất đi thiện lợi lớn. Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Tại sao trong đó lại làm những việc suy tổn. Ta nên cung kính tất cả hữu tình như nô tỳ thờ chủ, tại sao lại sanh tâm kiêu mạn, hủy nhục, khinh khi.

Ta nên nhẫn nhục chịu tất cả hữu tình đánh đập quở trách, sao lại dùng thân ngữ bạo ác để trả thù lại.

Ta nên hòa giải với tất cả hữu tình để kính yêu nhau, sao lại buông ra lời nói ác tranh cãi nhau.

Ta nên nhẫn nhục chịu sự dẫm đạp của tất cả hữu tình, giống như đường đi, cũng như cầu cống, vì sao ta lại nhục mạ họ.

Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì cứu vớt hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, để học được Niết-bàn hoàn toàn an lạc, sao ta muốn họ phải khổ.

Ta nay cho đến tận đời vị lai nên như câm, như ngọng, như đui, như điếc đối với các hữu tình không phân biệt. Dẫu có bị xử trảm, chặt đầu, chân, tay, móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa thân thể ra từng phần cũng không bao giờ có niệm ác với họ. Nếu ta nghĩ ác về họ thì đã phá hoại làm mất đi tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm chướng ngại sở cầu trí nhất thiết trí, không thể nào làm lợi ích an lạc cho các hữu tình.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát ấy, trong lúc Ta nói cũng được hết tội trở lại lợi ích như cũ, không cần trải qua kiếp số luân hồi trong sanh tử. Ác ma không thể nào quấy nhiễu người ấy được, vị ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Các Đại Bồ-tát không nên giao thiệp với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa. Giả sửgiao thiệp thì không nên sống chung. Nếu sống chung thì không nên bàn luận nghĩa lý với họ. Vì sao? Vì nếu cùng họ bàn luận nghĩa lý thì sẽ sanh tâm sân giận v.v... hoặc lại phát ra lời hung ác. Nhưng các Đại Bồ-tát đối với loài hữu tình không nên có tâm sân giận v.v... cũng không nên phát ra lời hung ác. Giả sử bị chặt đầu, tay chân, thân thể cũng không nên sân giận, ác ngôn. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát nên nghĩ như vầy: Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì cứu vớt hữu tình bị các khổ trong sanh tử để được hoàn toàn lợi ích an lạc. Vì sao ta lại làm việc ác với họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đối với các loài hữu tình, Đại Bồ-tát sanh tâm sân giận, phát lời hung ác thì làm chướng ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng là làm hư hoại vô biên pháp hành của Bồ-tát. Cho nên, chúng Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì không nên sân giận đối với các hữu tình, cũng không nên phát lời hung ác với họ.

Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm thế nào ở chung với Đại Bồ-tát?

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Các Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát sống chung, hãy xem nhau như Thế Tôn. Vì sao? Nếu Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát trên dưới xem nhau nghĩ như vầy: Họ là chơn thiện tri thức của chúng ta, là bạn của ta cùng nhau đi chung một thuyền. Chúng ta và họ, thời gian học, học xứ và pháp được học đều không khác nhau.

Nếu người kia học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học tám giải thoát cho đến mười biến xứ thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học năm loại mắt, sáu phép thần thông thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học nhân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đại sĩ thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả thì ta cũng phải học.

Nếu người kia thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì ta cũng phải học.

Lại nghĩ như vầy: Vì ta mà Đại Bồ-tát kia nói đạo đại Bồ-đề tức là bạn lành của ta, cũng là bậc đạo sư của ta. Nếu Đại Bồ-tát kia trụ vào tác ý tạp loạn, xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, thì ta sẽ không cùng họ học. Nếu Đại Bồ-tát kia lìa tác ý tạp loạn, không lìa bỏ tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, thì ta sẽ cùng học với họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát có thể học như vậy, thì sẽ mau được viên mãn tư lương Bồ-đề. Khi Đại Bồ-tát học như vậy gọi là học bình đẳng với các Đại Bồ-tát.

 
XXIV. PHẨM KHI HỌC

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Thế nào là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát mà các Đại Bồ-tát học trong đó được gọi là học bình đẳng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát học trong đó nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng nên mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc uẩn cho đến thức uẩn Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Nhãn xứ cho đến ý xứ Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Sắc xứ cho đến pháp xứ Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Nhãn giới cho đến ý giới Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Sắc giới cho đến pháp giới Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Nhãn thức giới cho đến ý thức giới Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Nhãn xúc cho đến ý xúc Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Địa giới cho đến thức giới Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Vô minh cho đến lão tử Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Tám giải thoát cho đến mười biến xứ Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Năm loại mắt, sáu phép thần thông Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đại sĩ Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả Không, là tánh bình đẳnh của Đại Bồ-tát.

Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật Không, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát.

Các Đại Bồ-tát đều học trong đó gọi là học bình đẳng. Nhờ học bình đẳng nên mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát vì sắc tận mà học, cho đếnquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật tận mà học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát vì sắc lìa mà học, cho đếnquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật lìa mà học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát vì sắc diệt mà học, cho đếnquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật diệt mà học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát vì sắc không sanh mà học, cho đếnquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không sanh mà học, là học trí nhất thiết trí phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Theo lời ông hỏi: Nếu Đại Bồ-tát vì sắc cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật tận, lìa, diệt, không sanh mà học là học trí nhất thiết trí phải không?

Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Chơn như của sắc cho đến chơn như của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có tận, lìa, diệt, đoạn không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu các Đại Bồ-tát đối với các chơn như có thể như thật mà học, đó là học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như không tận, không lìa, không diệt, không đoạn, không thể tác chứng. Nếu Đại Bồ-tát đối với các chơn như có thể như thật mà học thì đó gọi là học trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi Đại Bồ-tát học như vậy là học bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Là học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Là học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Là học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Là học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Là học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Là học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Là học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Là học Tịnh quán địa cho đến trí Như Lai địa. Là học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Là học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Là học năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Là học mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Là học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Là học nhân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đại sĩ. Là học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Là học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Là học tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Là học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát có thể học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật như thế là học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Khi Đại Bồ-tát học như vậy là đạt đến học tất cả cứu cánh bờ bên kia.

Khi Đại Bồ-tát học như vậy thì tất cả thiên ma và các ngoại đạo không thể thắng được.

Khi Đại Bồ-tát học như vậy thì mau đạt đến địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển.

Khi Đại Bồ-tát học như vậy là hành theo hành xứ của Tổ phụ Như Lai.

Khi Đại Bồ-tát học như vậy thì có thể giữ gìn chánh pháp, không cho đảo lộn, có thể làm theo pháp nên làm để lìa ám chướng.

Khi Đại Bồ-tát học như vậy thì có thể thành thục tất cả hữu tình một cách mỹ mãn, có thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật của mình một cách hoàn hảo.

Khi Đại Bồ-tát học như vậy gọi là học hoàn hảo về đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xảvô lượng, vô biên Phật pháp khác.

Khi Đại Bồ-tát học như vậy là học ba chuyển, mười hai hành tướng pháp luân Vô thượng, là học sự an ổn trăm ngàn triệu ức chúng, đối với cảnh giới Vô dư y Niết-bàn đã được Bát Niết-bàn.

Khi Đại Bồ-tát học như vậy là học không đoạn mất chủng tánh Như Lai, là học môn cam lồ của Như Lai đã khai mở, là học an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trụ pháp của ba thừa, là học thị hiện cảnh giới vô vi cứu cách, tịch diệt, chơn chánh của tất cả hữu tình, là vì tu học tất cả trí nhất thiết trí. Người nào học như vậy thì hữu tình thấp kém không thể nào học được.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn cứu giúp tất cả hữu tình khỏi đại khổ sanh tử nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi Đại Bồ-tát học như vậy quyết định không đọa vào cảnh giới địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ. Quyết định không sanh vào biên địa mọi rợ. Quyết định không sanh vào nhà đồ tể, nhà hạ tiện và những nhà bần cùng hạ tiện bất luật nghi, không bị mù, điếc, câm, ngọng, què, các căn tàn tật, lưng gù, điên, ung thư, ghẻ lỡ, bệnh trĩ, bệnh hủi, không cao, không thấp, không đen nám và không có những bệnh nhọt ghê gớm.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát học như vậy, thì đời đời thường được quyến thuộc đông đảo, dung mạo đẹp đẽ, nói năng hoà nhã, oai phong tuấn tú, nhiều người đều thương kính. Sanh ra nơi nào lìa nghiệp giết sanh mạng cho đến tà kiến, không bao giờ lệ thuộc vào pháp tà hư vọng. Không dùng pháp tà để nuôi sống, cũng không kết bạn với bọn hữu tình phá giới, ác kiến, phỉ báng chánh pháp.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát học như vậy thì không bao giờ sanh vào nơi tham đắm dục lạc, ở cõi trời Trường thọ ít trí tuệ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thành tựu thế lực của phương tiện thiện xảo. Nhờ thế lực phương tiện thiện xảo này, mặc dù luôn nhập vào tịnh lự, vô lượngđịnh vô sắc nhưng không tùy theo thế lực ấy mà thọ sanh. Vì nhiếp thọ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thành tựu phương tiện thiện xảo. Trong các định mặc dù thường đạt được xuất nhập tự do nhưng không theo thế lực của các định đó mà sanh vào trời Trường thọ, phế bỏ sự tu hạnh Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi Đại Bồ-tát học như vậy đối với tất cả pháp đều được thanh tịnh. Nhờ thanh tịnh nên không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu bản tánh của tất cả pháp là thanh tịnh, thì làm sao khi Đại Bồ-tát học như vậy đối với tất cả pháp lại được thanh tịnh?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Bản tánh thanh tịnh của các pháp xưa naythanh tịnh. Đại Bồ-tát ấy ở trong bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp mà tinh tấn siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thông đạt như thật, tâm không trầm trệ, không chướng ngại, xa lìa tất cả chấp trước phiền não nên nói, khi Bồ-tát học như vậy, đối với tất cả pháp đều được thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tuy bản tánh của tất cả pháp là thanh tịnh nhưng các phàm phu không biết, không thấy, không hiểu. Đại Bồ-tát ấy vì muốn cho người kia biết, thấy, hiểu để tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi Đại Bồ-tát học như vậy, đối với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v... đều được viên mãn hoàn toàn thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát học như vậy thì đối với tâm hành sai khác của các hữu tình đều có thể thông đạt đến cùng tột bờ bên kia, dùng phương tiện thiện xảo làm cho các hữu tình biết bản tánh của tất cả pháp đều thanh tịnh, để họ chứng đắc Niết-bàn hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Ví như đại địa ít nơi phát sanh những của báu như vàng, bạc v.v… mà lại nhiều chỗ phát sanh cát, đá, gạch, ngói. Các loài hữu tình cũng như vậy, phần ít có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, phần nhiều học theo pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện! Ví như loài người, phần ít tu nghiệp Chuyển luân vương, phần nhiều học hành theo nghiệp của các tiểu quốc vương. Các loài hữu tình cũng như vậy, phần ít tu đạo trí nhất thiết trí, phần nhiều hành theo đạo của Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Chúng Đại Bồ-tát cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phần ít được chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phần nhiều rơi vào Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Những thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa, nếu không xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nhất địnhthể nhập vào địa vị Bất thối chuyển. Nếu người nào xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì chắc chắn sẽ thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cho nên, chúng Đại Bồ-tát muốn đạt được địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, muốn nhập vào số Bồ-tát Bất thối chuyển, phải tinh tấn tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, thì không bao giờ có tương ưng với hành động về xan tham, phá giới, sân giận, biếng nhác, tán động và ác tuệ, cũng không có tâm tương ưng với hành động về tham dục, sân giận, ngu si, kiêu mạn, cũng không có tâm tương ưng với hành động về phóng dật, mê lầmtội lỗi khác, cũng không có tâm tương ưng với hành động về sự chấp trước sắc uẩn cho đến thức uẩn. Nói rộng cho đến cũng không có tâm tương ưng với hành động về sự chấp trước quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, không thấy có pháp nào có thể đắc. Vì không thể đắc nên không có tâm chấp trước các pháp như sắc v.v…

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế thì có thể bao gồm tất cả Ba-la-mật-đa, có thể chứa nhóm tất cả Ba-la-mật-đa, có thể dẫn dắt tất cả Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã bao hàm tất cả Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Giống như thân kiến có thể bao gồm sáu mươi hai kiến. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng lại như vậy, bao hàm tất cả Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện! Ví như người chết vì mạng căn diệt nên các căn cũng theo đó diệt. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng lại như vậy, tất cả Ba-la-mật-đa đã học được đều từ đó mà ra. Nếu khôngBát-nhã ba-la-mật-đa thì không có tất cả Ba-la-mật-đa.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đạt đến cứu cánh bờ bên kia của tất cả Ba-la-mật-đa thì nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đối với các hữu tình là bậc tối cao, tối thắng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy có thể siêng năng tu học pháp Vô thượng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tất cả loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới này có nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ còn nhiều vô số, huống gì các loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới sao không cho là nhiều được.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thiện Hiện nên biết! Giả sử loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đồng một lúc được làm người. Sau khi làm người, đồng một lúc phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh của Đại Bồ-tát. Sau khi tu hành viên mãn, đồng một lúc đều đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có Đại Bồ-tát trọn đời dùng các vật ưa thích thượng diệu để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này. Ý ông thế nào? Nhờ nhân duyên này, Đại Bồ-tát ấy được công đức có nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà thích nghe, thọ trì, đọc tụng, hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, y theo giáo pháp tu hành, ghi chép, lưu truyền. Vị này được công đức nhiều hơn người trước vô lượng, vô số. Vì sao? Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đủ nghĩa dụng lớn, có thể khiến cho chúng Đại Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đứng đầu tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình thì làm người cứu hộ cho người không ai cứu hộ, làm chỗ nương tựa cho người không chỗ nương tựa, làm mắt sáng cho người không mắt, làm ánh sáng cho chỗ không có ánh sáng, chỉ đúng đường cho người lạc đường, người chưa đạt Niết-bàn thì khiến họ được Niết-bàn, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn sống cảnh giới của chư Phật đã sống, muốn dạo chơi nơi chư Phật đã dạo chơi, muốn rống lên tiếng Sư tử của Như Lai, muốn đánh trống pháp Vô thượng của chư Phật, muốn gõ chuông pháp Vô thượng của chư Phật, muốn thổi kèn pháp Vô thượng của chư Phật, muốn thăng pháp tòa Vô thượng của chư Phật, muốn diễn nghĩa pháp Vô thượng của chư Phật, muốn chặt đứt lưới nghi của các hữu tình, muốn nhập cảnh giới pháp cam lồ của chư Phật, muốn thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật, muốn chứng công đức viên tịnh của chư Phật, thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy.

Lại nữa này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế thì không có tất cả công đức căn lành nào mà không đạt được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu làm chỗ nương tựa của tất cả công đức căn lành.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, há có thể đắc công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác, chúng Đại Bồ-tát này cũng có thể đắc được, nhưng không trụ, không chấp vào nó. Dùng thắng trí quán sát đúng dắn rồi vượt hơn địa vị Thanh văn, Độc giác, hướng đến nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát này không có tất cả công đức căn lành nào mà không đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi Đại Bồ-tát học như vậy là gần gũi với trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi Đại Bồ-tát học như vậy thì làm ruộng phước chơn thật cho tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... vượt trên ruộng phước của xuất thế gian, Sa-môn, Phạm chí, Thanh văn, Độc giác, mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi Đại Bồ-tát học như vậy, sanh ra nơi nào cũng không bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, luôn luôn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì nên biết vị ấy đối với trí nhất thiết trí đã được Bất thối chuyển, đối với tất cả pháp đều giác tri đúng đắn, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…, gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nghĩ như vầy: Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là thời gian tu hành, đây là nơi chốn tu hành, ta có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Ta nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu ấy mà xả bỏ pháp nên xả bỏ thì nhất định sẽ chứng đắc trí nhất thiết trí, thì Đại Bồ-tát ấy chẳng hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể hiểu rõ ràng. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không nghĩ: Ta là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là thời gian tu, đây là nơi chốn tu, đây là người tu, đây là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa viễn ly, đây là pháp mà Bát-nhã ba-la-mật-đa chiếu rõ, đây là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng. Nếu biết như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nghĩ như vầy: Đây chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây chẳng phải thời gian tu hành, đây chẳng phải nơi chốn tu hành, đây chẳng phải người tu hành, chẳng phải do Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa tất cả pháp cần bỏ lìa, chẳng phải do Bát-nhã ba-la-mật-đa nhất định có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ vào chơn như, pháp giới, pháp tánh, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Trong đây tất cả đều không khác nhau.

Thiện Hiện nên biết! Khi Đại Bồ-tát học như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Quyển thứ 520
HẾT

 
XXV. PHẨM THẤY BẤT ĐỘNG

01

Khi ấy, trời Đế Thích thầm nghĩ như vầy: Nếu Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng, còn vượt trên tất cả hữu tình, huống gì đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các hữu tình nghe nói danh tự trí nhất thiết trí, tin hiểu một cách sâu sắc, còn được thiện lợi trong cõi người và được sống rất lâu trong thế gian, huống gì phát tâm hướng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Nếu các hữu tình có thể phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà nghe kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, công đức đạt được của các hữu tình này đều thích đáng, thế gian trời, người, A-tu-la v.v... đều không thể sánh kịp.

Biết được tâm niệm của trời Đế Thích, Thế Tôn nói:

- Đúng vậy! Đúng như điều ông đã nghĩ.

Khi ấy, trời Đế Thích rất vui mừng, liền lấy hương hoa thượng diệu ở cõi trời rải cúng dường Như Lai và các Bồ-tát. Rải hoa cúng dường xong, trời Đế Thích nguyện: “Nếu các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ta đem công đức căn lành đã gieo trồng làm cho những sở nguyện của vị ấy mau thành tựu, mau chứng đắc trí nhất thiết trí, khiến cho Vô thượng Phật pháp mà vị ấy đã cầu mau được viên mãn, khiến cho pháp tự nhiên của vị ấy đã cầu mau được viên mãn, khiến cho pháp vô lậu chơn chánh mà vị ấy đã cầu mau được viên mãn, khiến cho tất cả pháp mà vị ấy muốn nghe đều được như ý. Nếu ai cầu Thanh văn, Độc giác thừa cũng khiến cho sở nguyện mau được viên mãn.” Nguyện như vậy xong, Thiên Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… đã phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, con không bao giờ sanh một tâm niệm nào khác làm cho vị ấy thối chuyển tâm đại Bồ-đề, con cũng không sanh một tâm niệm nào khác để làm cho các Bồ-tát nhàm chán xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mà rơi trở lại địa vị Thanh văn, Độc giác.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà thâm tâm đã ưa thích, thì con nguyện cho tâm vị ấy càng tinh tấn để mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện cho Đại Bồ-tát ấy thấy được các khổ trong sanh tử, vì muốn làm lợi lạc cho thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... mà phát những đại nguyện kiên cố:

“Ta tự mình vượt qua biển lớn sanh tử, và tinh tấn cố gắng độ người chưa độ. Ta đã tự giải thoát ra khỏi sự trói buộc sanh tử, và sẽ siêng năng tinh tấn giải thoát cho người chưa giải thoát. Đối với những sự sợ hãi trong sanh tử, ta đã được an ổn, và cũng sẽ siêng năng tinh tấn làm an ổn cho người chưa an ổn. Ta đã chứng Niết-bàn rốt ráo, và cũng siêng năng tinh tấn khuyến khích người chưa chứng cùng chứng.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… đối với công đức của Bồ-tát mới phát tâmthâm tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức? Đối với công đức của Bồ-tát phát tâm lâu mà thâm tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức? Đối với công đức của Bồ-tát Bất thối chuyểnthâm tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức? Đối với công đức của Bồ-tát còn bị ràng buộc trong một đờithâm tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Bốn đại châu giới có thể lường, những phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được.

Này Kiều-thi-ca! Tiểu thiên thế giới có thể lường được, nhưng phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được.

Này Kiều-thi-ca! Trung thiên thế giới có thể lường được, nhưng phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được.

Này Kiều-thi-ca! Ba ngàn đại thiên thế giới này có thể lường được, nhưng phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được.

Này Kiều-thi-ca! Giả sử ba ngàn đại thiên thế giới hợp lại thành một biển, có người lấy một sợi tóc chẻ ra làm một trăm phần, đem đầu của phần nhỏ nhúng vào biển, có thể biết bao nhiêu giọt nước, nhưng phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được. Vì sao? Vì phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… ấy không bờ bến.

Khi ấy, Tứ Thiên Vương bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đối với công đức thù thắng của các Bồ-tát, nếu các hữu tình không tùy hỷ, thì nên biết người ấy bị ma khống chế, bị ma làm mê loạn, là bè đảng của ma, là ma ở cõi trời chết sanh vào nơi đây. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát cầu đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh của Đại Bồ-tát, nếu có ai phát tâm đối với công đức của vị ấy mà sanh lòng tùy hỷ sâu sắc thì những người ấy có thể phá hoại tất cả quyến thuộc cung điện quân ma.

Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình thâm tâm kính mến Phật, Pháp, Tăng bảo, dù sanh ra nơi nào cũng muốn thường thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng, thì đối với công đức căn lành của chúng Đại Bồ-tát nên tùy hỷ sâu sắc. Sau khi tùy hỷ rồi, hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng không nên có tư tưởng hai hay không hai. Nếu có thể làm được như vậy thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích cho hữu tình và phá tan quân ma.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Này Kiều-thi-ca! Đối với công đức căn lành của Đại Bồ-tát, nếu các hữu tình thâm tâm tùy hỷ, hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các hữu tình ấy mau viên mãn các hạnh của Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đối với công đức căn lành Đại Bồ-tát, nếu các hữu tình thâm tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các hữu tình ấy đầy đủ đại oai lực, luôn phụng thờ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácthiện tri thức, luôn nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu và biết rõ ý nghĩa của kinh. Các hữu tình này thành tựu công đức căn lành của sự tùy hỷ hồi hướng như vậy, nên sanh ra nơi nào cũng thường được tất cả trời, người, A-tu-la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, không thấy sắc xấu, không nghe tiếng ác, không ngửi mùi hôi thối, không nếm vị dở, không cảm giác những sự xúc chạm khó chịu, không nghĩ pháp ác, không bao giờ xa lìa chư Phật Thế Tôn. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, luôn gần gũi với chư Phật để gieo trồng các căn lành, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các hữu tình ấy đối với vô lượng công đức căn lành của Bồ-tát mới phát tâmthâm tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đối với vô lượng công đức căn lành của các Bồ-tát đã trụ vào sơ địa cho đến thập địathâm tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đối với vô lượng công đức căn lành của các Bồ-tát còn sanh lại một đờithâm tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhờ nhân duyên này nên các căn lành của các hữu tình ấy càng tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đã chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề rồi, có thể thật sự làm lợi ích cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đến tận đời vị lai, để họ trụ vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn.

Cho nên, này Kiều-thi-ca! Những thiện nam tử v.v… trụ vào Bồ-tát thừa, đối với công đức căn lành của Bồ-tát mới phát tâm, đối với công đức căn lành của Bồ-tát phát tâm lâu, đối với công đức căn lành của Bồ-tát Bất thối chuyển, đối với công đức căn lành của các Bồ-tát còn sanh trở lại một đời, đều nên tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi sanh tùy hỷhồi hướng mà không nên chấp trước tức tâm lìa tâm tùy hỷ hồi hướng, không nên chấp trước tức tâm tu hành, lìa tâm tu hành. Nếu không chấp trướctùy hỷ hồi hướng như vậy tức là tu hành hạnh của các Đại Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, độ tất cả trời, người, A-tu-la v.v... giúp họ thoát khỏi sanh tử đắc Vô dư Niết-bàn.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Ngài nói các pháp như huyễn thì tại sao chúng Đại Bồ-tát lấy tâm như huyễn để đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông có thấy tâm như huyễn của Đại Bồ-tát không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Con không thấy huyễn cũng không thấy tâm như huyễn.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu trường hợp không có huyễn, không có tâm như huyễn, thì ông thấy có tâm ấy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Con không thấy có trường hợp không huyễn, không có tâm như huyễn, lại có tâm ấy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu trường hợp lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, ông thấy có pháp ấy để đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Con không thấy có trường hợp lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, lại có pháp ấy để đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Con không thấy có pháp ngay tâm lìa tâm thì nói những pháp nào có, pháp nào không? Vì tất cả pháp hoàn toàn lìa. Nếu tất cả pháp hoàn toàn lìa, thì không thể đưa ra pháp này là có, pháp này là không. Nếu pháp không thể đưa ra có, không thì không thể nói có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chẳng phải pháp vô sở hữu có thể đắc Bồ-đề.

Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, tánh vô sở đắc, không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa đều hoàn toàn lìa. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng hoàn toàn lìa. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng hoàn toàn lìa. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng hoàn toàn lìa. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng hoàn toàn lìa. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng hoàn toàn lìa. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng hoàn toàn lìa. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng hoàn toàn lìa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng hoàn toàn lìa. Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng hoàn toàn lìa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng hoàn toàn lìa. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng hoàn toàn lìa. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng hoàn toàn lìa. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp cũng hoàn toàn lìa. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng hoàn toàn lìa. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng hoàn toàn lìa. Tất cả hạnh của Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng hoàn toàn lìa. Trí nhất thiết trí cũng hoàn toàn lìa.

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp hoàn toàn lìa thì không nên tu pháp ấy, cũng không nên từ bỏ và cũng không nên phát sanh. Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu hoàn toàn lìa, nên đối với pháp không cần phải phát sanh.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã hoàn toàn lìa, thì làm sao có thể nói các Đại Bồ-tát y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng hoàn toàn lìa, thì tại sao lìa pháp mà có thể đắc pháp lìa? Cho nên, Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nói chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa hoàn toàn lìa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí cũng hoàn toàn lìa.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn lìa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí cũng hoàn toàn lìa nên có thể nói Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật hoàn toàn lìa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải hoàn toàn lìa thì chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến nếu trí nhất thiết trí chẳng phải hoàn toàn lìa thì chẳng phải trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn lìa nên được gọi Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến vì trí nhất thiết trí hoàn toàn lìa nên được gọi trí nhất thiết trí.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đều y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuchứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Mặc dù không lìa pháp mà có thể đắc pháp lìa, nhưng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đều y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Cho nên, chúng Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ý nghĩa của các Đại Bồ-tát hành là rất sâu xa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Ý nghĩa mà các Đại Bồ-tát hành là rất sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát có thể làm việc khó làm, mặc dù hành ý nghĩa sâu xa như vậy nhưng không chứng pháp của Thanh văn, Độc giác.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Theo con hiểu ý nghĩa của Ngài nói thì việc mà các Đại Bồ-tát làm không khó, không nên nói họ có thể làm việc khó làm. Vì sao? Ý nghĩ mà các Đại Bồ-tát chứng đều bất khả đắc, năng chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc, pháp chứng, người chứng, nơi chốn chứng, thời gian chứng cũng bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát quán thấy tất cả pháp đã bất khả đắc, thì có ý nghĩa nào để làm sở chứng? Có Bát-nhã ba-la-mật-đa nào có thể năng chứng, lại có những gì để tạo ra những gì để chứng, pháp chứng, người chứng, nơi chốn chứng, thời gian chứng cũng lại như vậy. Tại sao chấp do đây mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề còn không thể chứng đắc thì làm sao chứng đắc pháp của hàng Thanh văn, Độc giác.

Bạch Thế Tôn! Nếu hành như vậy thì gọi là Bồ-tát hành bất khả đắc. Nếu các Đại Bồ-tát có thể hành hạnh bất khả đắc như vậy thì không bị cản trở mê muội đối với tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Nếu các Đại Bồ-tát nghe nói như vậy tâm chẳng lo buồn, hối hận, sợ sệt, thối lui thì đó là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát hành như vậy không thấy các tướng, không thấy ta tu hành, không thấy không tu hành, không thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa là pháp ta tu hành, không thấy quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là pháp ta chứng, cũng lại không thấy nơi chốn chứng, thời gian chứng v.v…

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không nghĩ như vầy: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ví như hư không, không nghĩ như vầy: Ta cách vật này gần hay xa. Vì sao? Vì hư không không di động, cũng không sai biệt, không phân biệt. Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không nghĩ như vầy: Ta xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt các pháp.

Giống người huyễn hóa không nghĩ như vầy: Vật chất được huyễn hóa, thầy huyễn hóa thì gần ta, pháp mà tương tợ huyễn hóa thì cách xa ta. Mọi người tụ tập xem cũng gần mà cũng xa. Vì sao? Vì người huyễn hóa không có phân biệt.

Các Đại Bồ-tát cũng vậy, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không nghĩ như vầy: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt các pháp.

Ví như ảnh tượng không nghĩ như vầy: Ta nhờ vật kia mà hiện thì gần ta, pháp không nhờ đó để hiện thì cách xa ta. Vì sao? Hiện ảnh tượng không có phân biệt.

Các Đại Bồ-tát cũng vậy, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không nghĩ như vầy: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt các pháp.

Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, không thương, không ghét. Vì sao? Vì tự tánh của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu và tất cả pháp thương ghét bất khả đắc. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp không thương, không ghét.

Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng vậy, đối với tất cả pháp không thương, không ghét. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều đoạn trừ thương ghét.

Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đoạn trừ hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng như vậy, chiến thắng đoạn trừ tất cả vọng tưởng phân biệt. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt các pháp.

Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không nghĩ như vầy: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng vậy, không nghĩ: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp thì chư Phật, Bồ-tát, Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt.

Như người do Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa ra, không nghĩ như vầy: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì người do chư Phật biến hóa không phân biệt.

Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng vậy, không nghĩ như vầy: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt các pháp.

Như chư Phật muốn làm sự việc gì đó thì biến hóa ra nhiều thân nhiều người để nó làm việc ấy. Nhưng người được hóa ra không nghĩ như vầy: Ta có thể tạo ra sự nghiệp như vậy. Vì sao? Vì đối với sự nghiệp đã tạo, người được hóa ra không có phân biệt.

Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng vậy, vì công việc nên siêng năng tu học. Tu học rồi, mặc dù thành tựu các sự nghiệp nhưng đối với việc làm không phân biệt. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt các pháp.

Ví như người thợ mộc hoặc đệ tử của ông ta vì công việc nên tạo ra các máy móc như: Người nam, hoặc người nữ, hoặc voi, ngựa v.v... Các máy móc này mặc dù có làm việc nhưng đối với những việc đó họ không phân biệt. Vì sao? Vì máy móc đó không phân biệt.

Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng vậy, vì cần làm việc nên có sự thành lập. Sau khi thành lập rồi, mặc dù thành công nhiều sự nghiệp nhưng trong đó họ đều không phân biệt. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt các pháp.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Đối với tất cả pháp chỉ riêng Bát-nhã ba-la-mật-đa không có sự phân biệt, hay là tịnh lự v.v… năm Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp cũng không phân biệt?

Thiện Hiện trả lời:

- Không những Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không phân biệt, mà tịnh lự v.v... năm Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp cũng không phân biệt.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Sáu pháp Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không phân biệt, còn sắc uẩn cho đến thức uẩn đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; nhãn xứ cho đến ý xứ đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; sắc xứ cho đến pháp xứ đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; nhãn giới cho đến ý giới đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; sắc giới cho đến pháp giới đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; nhãn thức giới cho đến ý thức giới đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; nhãn xúc cho đến ý xúc đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; địa giới cho đến thức giới đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; vô minh cho đến lão tử đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; tám giải thoát cho đến mười biến xứ đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; năm loại mắt, sáu phép thần thông đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; tất cả hạnh của Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi đối với tất cả pháp cũng không phân biệt hay sao?

Thiện Hiện trả lời:

- Không những sáu pháp Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không phân biệt, mà sắc cho đến cảnh giới vô vi đối với tất cả pháp cũng không phân biệt. Vì sao? Vì tánh tướng của tất cả pháp đều là không, không phân biệt.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu tất cả pháp đều không phân biệt, vậy sao có sự khác nhau giữa năm đường sanh tử? Sao có sự khác nhau của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát và Như Lai?

Thiện Hiện trả lời:

- Vì hữu tình phiền não điên đảo mà tạo ra các nghiệp thuộc về thân, khẩu, ý, do đó nên chiêu cảm lấy quả báo. Dục là nghiệp căn bản tạo ra quả dị thục, rồi căn cứ vào đó mà có sự khác nhau giữa năm đường: trời, người, địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ.

Lại hỏi:

- Sao lại có sự sai khác giữa các Thánh vị như quả Dự lưu v.v…?

- Này Xá-lợi Tử! Vì không phân biệt nên có Dự lưu và quả Dự lưu. Vì không phân biệt nên có Nhất lai và quả Nhất lai. Vì không phân biệt nên có Bất hoàn và quả Bất hoàn. Vì không phân biệt nên có A-la-hán và quả A-la-hán. Vì không phân biệt nên có Độc giác và quả Độc giác. Vì không phân biệt nên có Đại Bồ-tát và hạnh của Đại Bồ-tát. Vì không phân biệt nên có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Này Xá-lợi Tử! Quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do không phân biệt, đoạn trừ phân biệt nên đưa ra có. Vị lai Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do không phân biệt, đoạn trừ phân biệt nên đưa ra có. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại mười phương thế giới chư Phật cũng không phân biệt, đoạn trừ phân biệt nên đưa ra có.

Này Xá-lợi Tử! Do đó mà biết các pháp đều không phân biệt. Do không phân biệt nên chơn như, pháp giới nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì làm định lượng.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không phân biệt như vậy thì có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thanh tịnh không phân biệt, và có thể luôn làm lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuhành pháp bền chắc hay hành pháp không bền chắc?

Thiện Hiện trả lời:

- Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuhành pháp bền chắc, chứ không hành pháp không bền chắc. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến bố thí Ba-la-mật-đa là pháp không bền chắc. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là pháp không bền chắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là pháp không bền chắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là pháp không bền chắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạopháp không bền chắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắcpháp không bền chắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyệnpháp không bền chắc. Tám giải thoát cho đến mười biến xứpháp không bền chắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địapháp không bền chắc. Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là pháp không bền chắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thôngpháp không bền chắc. Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộngpháp không bền chắc. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xảpháp không bền chắc. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là pháp không bền chắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là pháp không bền chắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là pháp không bền chắc.

Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng còn không thấy có pháp không bền chắc để đắc, thì làm sao có pháp bền chắc để đắc.

Bấy giờ, có vô lượng Thiên tửDục giớiSắc giới đều nghĩ như vầy: Thiện nam, thiện nữ v.v… nào phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề theo những ý nghĩa trong Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói mà thực hành thì không chứng thật tế, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... Nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy rất là hiếm có, làm việc khó làm, cần phải kính lễ vị ấy. Biết tâm niệm của các Thiên tử, Thiện Hiện liền nói:

- Thiện nam, thiện nữ v.v… ấy chẳng chứng thật tế, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, thì chẳng phải là hiếm có, cũng chưa gọi là khó. Nếu các Đại Bồ-tát biết tất cả pháp và các hữu tình đều bất khả đắc nhưng phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mặc áo giáp tinh tấn, thệ độ vô lượng, vô số hữu tình, giúp họ nhập vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn, thì Đại Bồ-tát đó mới là rất hiếm có, làm việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát mặc dù biết hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, nhưng phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mặc áo giáp tinh tấn, vì muốn điều phục các hữu tình giống như hữu vi muốn điều phục hư không. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hư không lìa, nên biết tất cả hữu tình cũng lìa. Vì hư không là Không, nên biết tất cả hữu tình cũng Không. Vì hư không không bền chắc, nên biết tất cả hữu tình cũng không bền chắc. Vì hư không vô sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này, Đại Bồ-tát ấy mới là rất hiếm có, có thể làm việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát ấy mặc áo giáp đại nguyện, vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, giống như có người mặc áo giáp chiến đấu với hư không.

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại nguyện ấy, vì muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình và áo giáp đại nguyện ấy đều bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình lìa, nên biết áo giáp đại nguyện này cũng lìa. Vì hữu tình Không, nên biết áo giáp đại nguyện cũng Không. Vì hữu tình không bền chắc, nên biết áo giáp đại nguyện cũng không bền chắc. Vì hữu tình vô sở hữu, nên biết áo giáp đại nguyện cũng vô sở hữu.

Thiên tử nên biết! Việc Đại Bồ-tát ấy điều phục làm lợi ích cho các hữu tình cũng bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình lìa, nên biết việc điều phục làm lợi ích này cũng lìa. Vì hữu tình Không, nên biết việc điều phục làm lợi ích cũng đều Không. Vì hữu tình không bền chắc, nên biết việc điều phục làm lợi ích cũng không bền chắc. Vì hữu tình vô sở hữu, nên biết việc điều phục làm lợi ích cũng vô sở hữu.

Thiên tử nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình lìa, nên biết các Đại Bồ-tát cũng lìa. Vì hữu tình Không, nên biết các Đại Bồ-tát cũng Không. Vì hữu tình không bền chắc, nên biết các Đại Bồ-tát cũng không bền chắc. Vì hữu tình vô sở hữu, nên biết các Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu.

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát nào nói như vậy mà không buồn lo, sợ sệt, thối lui, thì nên biết Đại Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vì sao?

Này các Thiên tử! Vì sắc uẩn cho đến thức uẩn lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì nhãn xứ cho đến ý xứ lìa nên hữu tình cũng lìa.

sắc xứ cho đến pháp xứ lìa nên hữu tình cũng lìa.

nhãn giới cho đến ý giới lìa nên hữu tình cũng lìa.

sắc giới cho đến pháp giới lìa nên hữu tình cũng lìa.

nhãn thức giới cho đến ý thức giới lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì nhãn xúc cho đến ý xúc lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra lìa nên hữu tình cũng lìa.

địa giới cho đến thức giới lìa nên hữu tình cũng lìa.

nhân duyên cho đến tăng thượng duyên lìa nên hữu tình cũng lìa.

vô minh cho đến lão tử lìa nên hữu tình cũng lìa.

bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không lìa nên hữu tình cũng lìa.

chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì lìa nên hữu tình cũng lìa.

Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc lìa nên hữu tình cũng lìa.

pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện lìa nên hữu tình cũng lìa.

tám giải thoát cho đến mười biến xứ lìa nên hữu tình cũng lìa.

Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa lìa nên hữu tình cũng lìa.

Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa lìa nên hữu tình cũng lìa.

pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa lìa nên hữu tình cũng lìa.

năm loại mắt, sáu phép thần thông lìa nên hữu tình cũng lìa.

mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng lìa nên hữu tình cũng lìa.

đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả lìa nên hữu tình cũng lìa.

ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp lìa nên hữu tình cũng lìa.

pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì tất cả hạnh của Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật lìa nên hữu tình cũng lìa.

Vì trí nhất thiết trí lìa nên hữu tình cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì sắc uẩn lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnthức uẩn lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnsắc uẩn lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnthức uẩn lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì nhãn xứ lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếný xứ lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đến vì nhãn xứ lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếný xứ lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì sắc xứ lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnpháp xứ lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnsắc xứ lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnpháp xứ lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì nhãn giới lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếný giới lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnnhãn giới lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếný giới lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì sắc giới lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnpháp giới lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnsắc giới lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnpháp giới lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì nhãn thức giới lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếný thức giới lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnnhãn thức giới lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếný thức giới lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì nhãn xúc lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đến vì ý xúc lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cùng lìa. Nói rộng cho đến vì nhãn xúc lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đến vì ý xúc lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đến vì các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đến vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đến vì các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì địa giới lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnthức giới lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnđịa giới lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnthức giới lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì nhân duyên lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếntăng thượng duyên lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cùng lìa. Nói rộng cho đếnnhân duyên lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếntăng thượng duyên lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì vô minh lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnlão tử lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnvô minh lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnlão tử lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì bố thí Ba-la-mật-đa lìa nên pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng lìa, cho đếnBát-nhã ba-la-mật-đa lìa nên pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng lìa. Nói rộng cho đếnbố thí Ba-la-mật-đa lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnBát-nhã ba-la-mật-đa lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì pháp nội Không lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đến vì pháp vô tính tự tính Không lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đến vì pháp nội Không lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đến vì pháp vô tính tự tính Không lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì chơn như lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếncảnh giới bất tư nghì lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnchơn như lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếncảnh giới bất tư nghì lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì Thánh đế khổ lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, tập diệt đạo Thánh đế lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnThánh đế khổ lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, tập diệt đạo Thánh đế lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì bốn niệm trụ lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đến vì tám chi thánh đạo lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đến vì bốn niệm trụ lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đến vì tám chi thánh đạo lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì bốn tịnh lự lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa; bốn vô lượng, bốn định vô sắc lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đến vì bốn tịnh lự lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa; bốn vô lượng, bốn định vô sắc lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì pháp môn giải thoát không lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnpháp môn giải thoát không lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì tám giải thoát lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnmười biến xứ lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếntám giải thoát lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnmười biến xứ lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì Tịnh quán địa lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnNhư Lai địa lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnTịnh quán địa lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnNhư Lai địa lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì Cực hỷ địa lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnPháp vân địa lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnCực hỷ địa lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnPháp vân địa lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì pháp môn Đà-la-ni lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, pháp môn Tam-ma-địa lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnpháp môn Đà-la-ni lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, pháp môn Tam-ma-địa lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì năm loại mắt lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Sáu phép thần thông lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnnăm loại mắt lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, sáu phép thần thông lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì mười lực Như Lai lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đến vì mười tám pháp Phật bất cộng lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnmười lực Như Lai lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đến vì mười tám pháp Phật bất cộng lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì đại từ lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa; đại bi, đại hỷ, đại xả lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnđại từ lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa; đại bi, đại hỷ, đại xả lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì ba mươi hai tướng tốt lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, tám mươi vẻ đẹp lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnba mươi hai tướng tốt lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, tám mươi vẻ đẹp lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì pháp không quên mất lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, tánh luôn luôn xả lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đếnpháp không quên mất lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, tánh luôn luôn xả lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì trí nhất thiết lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đến vì trí nhất thiết lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì quả Dự lưu lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa, cho đếnĐộc giác Bồ-đề lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đến vì quả Dự lưu lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa, cho đếnĐộc giác Bồ-đề lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Vì tất cả hạnh của Đại Bồ-tát lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật lìa nên sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng lìa. Nói rộng cho đến vì tất cả hạnh của Đại Bồ-tát lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa. Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật lìa nên trí nhất thiết trí cũng lìa.

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát nào khi nghe nói các pháp đều lìa như vậy mà tâm họ không kinh ngạc, không sợ sệt, không lo lắng, không hối hận, không thối lui thì nên biết Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Bấy giờ, Thế Tôn dạy Thiện Hiện:

- Vì lý do gì mà đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tâm các Đại Bồ-tát không thối lui?

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều là viễn ly, đều tịch tĩnh, đều không có sanh diệt, đều không có tánh tướng. Cho nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tâm các Đại Bồ-tát không thối lui.

Bạch Thế Tôn! Do những nhân duyên như vậy, mà tâm các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không thối lui. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp, các Đại Bồ-tát hay thối lui, bị thối lui, nơi chốn thối lui, thời gian thối lui, người thối lui, do đây thối lui đều bất khả đắc. Vì tất cả pháp đều bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nghe nói như vậy tâm không thối lui cũng không kinh ngạc, sợ sệt, lo lắng, hối hận thì nên biết Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy quán thấy tất cả pháp đều bất khả đắc, không kiến lập, hay thối lui, bị thối lui, nơi chốn thối lui, thời gian thối lui, người thối lui, do đây thối lui. Do đó, các Đại Bồ-tát nghe nói việc như vậy tâm không thối lui, cũng không kinh ngạc, sợ sệt, lo lắng, hối hận.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy thì các trời Đế Thích, Đại Phạm, Thiên Vương, chủ thế giới v.v… thường lễ bái, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, không những được các trời Đế Thích, Đại Phạm, Thiên Vương, chủ thế giới v.v… cùng nhau lễ bái, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen mà Đại Bồ-tát ấy còn hơn thế nữa. Nghĩa là được các vị trời Cực quang tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Tịnh cư và trời, rồng A-tu-la v.v... khác cùng nhau lễ bái, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Đại Bồ-tát này có thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy thì cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương thường cùng nhau hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, thì khiến cho bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nói rộng cho đến khiến cho trí nhất thiết trí mau được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy thường được chư Phật, các Bồ-tát và chư thiên, rồng, A-tu-la v.v... bảo vệ, nhớ nghĩ, mau viên mãn tất cả công đức. Nên biết Đại Bồ-tát ấy hành nơi chỗ mà Phật nên hành, cũng chân chánh tu hành những hạnh mà Phật đã hành, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên biết vị ấy không khác gì Phật Thế Tôn.

Quyển thứ 521
HẾT

 

02

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tâm của Đại Bồ-tát ấy kiên cố hơn chất kim cương. Giả sử tất cả hữu tình trong hằng hà sa thế giới chư Phật khắp mười phương đều hóa làm ác ma. Mỗi mỗi chúng ma ấy lại hóa ra nhiều ác ma như vậy. Các ác ma này đều có vô số thần lực. Nếu các ác ma này có sử dụng hết thần lực thì cũng không thể nào cản trở Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì biết tất cả pháp đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu hai pháp thì tất cả ác ma không thể nào làm cản trở vị ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được. Thế nào là hai? Một là quán sát các pháp đều không; hai là không xả bỏ các loại hữu tình.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu hai pháp thì tất cả ác ma không thể làm trở ngại vị ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được. Thế nào là hai? Một là nói ra điều gì đều có thể làm được; hai là thường được chư Phật hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, thì các Thiên tử thường đến lễ kính, gần gũi, cúng dường, thăm hỏi, khuyến khích, nói như vầy: “Lành thay, Đại sĩ! Muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì phải siêng năng trụ vào không, vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Này thiện nam tử! Nếu siêng năng trụ vào không, vô tướng, vô nguyện, thì có thể làm chỗ cậy nhờ cho tất cả hữu tình không có chỗ cậy nhờ, làm chỗ quay về cho kẻ không chỗ quay về, làm người cứu giúp cho kẻ không người cứu giúp, làm chỗ hướng về cho kẻ không chỗ hướng về, làm nhà cửa cho kẻ không nhà cửa, làm hòn đảo cho kẻ không hòn đảo, làm ánh sáng cho người tối tăm, làm tai mắt cho người điếc mù. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì an trụ vào không, vô tướng, vô nguyện như vậy, tức là an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Nếu có thể an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát có thể trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, thì được chư Phật hiện tại trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương ở trong đại chúng, tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức của Đại Bồ-tát ấy, gọi là an trụ vào công đức chơn tịnh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Thiện Hiện nên biết! Như Ta ngày nay giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cho đại chúng, ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức của các Đại Bồ-tát Bửu Tràng, Bồ-tát Thi Khí v.v… và các Đại Bồ-tát khác hiện đang ở chỗ Phật Bất Động để tịnh tu phạm hạnh, trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Gọi đó là an trụ vào công đức chơn tịnh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng, vô số thế giới phương Đông hiện đang giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cho đại chúng. Ở đó cũng có các Đại Bồ-tát tịnh tu phạm hạnh, chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy đều ở giữa đại chúng đều tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức của Đại Bồ-tát ấy. Gọi đó là công đức chơn tịnh chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới cũng như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Có Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, lần lần viên mãn đạo đại Bồ-đề, lần lần viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, cho đến sắp đắc trí nhất thiết tướng, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng, vô số, vô biên thế giới chư Phật khắp mười phương, ở trong đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức của Đại Bồ-tát ấy. Gọi đó là công đức chơn tịnh tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy làm những việc khó làm, không làm mất hạt giống của Phật, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những Đại Bồ-tát nào được Phật Thế Tôn ở trong đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức? Đó là vị Bất thối chuyển hay Thối chuyển?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát trụ vào Bất thối chuyển hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, được Phật Thế Tôn ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức. Lại có Đại Bồ-tát mặc dù chưa được thọ ký nhưng tu phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng được chư Phật ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những vị nói ở đây là Bồ-tát nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát theo Phật Bất Động làm Bồ-tát lúc nào ở đâu cũng tu và học, đã được an trụ vào ngôi vị Bất thối chuyển. Đại Bồ-tát ấy được Phật Thế Tôn ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức.

Lại có Đại Bồ-tát theo Đại Bồ-tát Bửu Tràng, Đại Bồ-tát Thi Khí để tu học. Đại Bồ-tát ấy mặc dù chưa được thọ ký, nhưng siêng năng tinh tấn thực hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, cũng được chư Phật ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đối với tất cả pháp là tánh vô sanh, mặc dù tin hiểu sâu sắc nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, mặc dù tin hiểu sâu sắc nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đối với tất cả pháp hoàn toàntánh Không, mặc dù tin hiểu sâu sắc nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đối với tất cả pháp đều là tánh tịch tĩnh, mặc dù tin hiểu sâu sắc nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đối với tánh của tất cả pháp đều là viễn ly, mặc dù tin hiểu sâu sắc nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đối với tánh tất cả pháp hoàn toàn không sở hữu, mặc dù tin hiểu sâu sắc nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đối với tất cả pháp là tánh chẳng tự tại, mặc dù tin hiểu sâu sắc nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đối với tất cả pháp là tánh không chắc thật, mặc dù tin hiểu sâu sắc nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.

Này Thiện Hiện! Những Đại Bồ-tát ấy cũng được chư Phật ở trong đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát được Phật Thế Tôn ở trong đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức thì Đại Bồ-tát ấy vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác, chắc chắn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, được Phật Thế Tôn ở giữa đại chúng, tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức thì Đại Bồ-tát ấy nhất định sẽ an trụ vào địa vị Bất thối chuyển. Sau khi an trụ vào địa vị ấy rồi thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nghe nói tất cả ý nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy mà không nghi ngờ, không mê loạn, chỉ nghĩ như vầy: Như Phật nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, lý của nó rõ ràng đúng, không có điên đảo. Đại Bồ-tát ấy nhờ có niềm tin thanh tịnh sâu sắc vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, lần lần sẽ được ở chỗ Phật Bất Động và các Đại Bồ-tát nghe hết Bát-nhã ba-la-mật-đa và tin hiểu sâu sắc vào ý nghĩa của kinh. Sau khi tin hiểu sâu sắc rồi sẽ được trụ vào địa vị Bất thối chuyển. Trụ vào địa vị này rồi, sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát chỉ nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy màlòng tin hiểu, không phỉ báng mà còn đạt được nhiều căn lành thù thắng, huống là có thể thọ trì, đọc tụng thông suốt, y vào lý chơn nhưchánh niệm tư duy, an trụ vào chơn như để tinh tấn tu học thì Đại Bồ-tát ấy mau được an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật tánh của tất cả pháp đều bất khả đắc, như vậy sao nói các Đại Bồ-tát an trụ vào chơn như để tinh tấn tu học, thì sẽ mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Được Phật giáo hóa an trụ vào chơn như, tu hạnh của các Đại Bồ-tát, thì sẽ mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, an trụ vào chơn như, tu hạnh Đại Bồ-tát, sẽ mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sự giáo hóa của Như Lai đều không sở hữu, pháp lìa chơn như lại bất khả đắc, vậy ai an trụ vào chơn như tu Bồ-tát hạnh? Ai sẽ an trụ vào địa vị Bất thối chuyển? Ai chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Ai làm lợi ích lớn cho các hữu tình?

Bạch Thế Tôn! Chơn như còn bất khả đắc thì làm sao có thể an trụ vào chơn như tu Bồ-tát hạnh, mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình được? Vậy nếu có điều đó thì thật phi lý.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Sự giáo hóa của Như Lai đều không sở hữu, pháp lìa chơn như lại bất khả đắc thì ai an trụ vào chơn như tu Bồ-tát hạnh? Ai sẽ an trụ vào địa vị Bất thối chuyển? Ai chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Ai làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Này Thiện Hiện! Chơn như còn bất khả đắc thì làm sao có thể an trụ vào chơn như tu Bồ-tát hạnh, để mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Vậy nếu có điều đó thì thật phi lý.

Vì sao? Vì nếu Như Laixuất hiện hay không xuất hiện ở đời thì các pháp vẫn là pháp như vậy, không lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Quyết định không có an trụ vào chơn như tu Bồ-tát hạnh, mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Vì sao? Vì các pháp chơn như là không sanh, không diệt, cũng không trụ vào phần nhỏ khác nào có thể đắc.

Thiện Hiện! Nếu pháp không sanh, không diệt, cũng không trụ vào chút phần nhỏ khác nào có thể đắc thì ai an trụ vào trong đó để tu Bồ-tát hạnh? Ai sẽ an trụ vào địa vị Bất thối chuyển? Ai chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Ai làm lợi ích lớn cho các hữu tình? Vậy nếu có điều đó thì thật phi lý, chỉ là đối với thế tục giả nói là có.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này vi diệu sâu xa rất khó tin hiểu. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, mặc dù biết các pháp đều bất khả đắc nhưng vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình là việc rất khó làm. Vì sao? Vì quyết định không có an trụ vào chơn như tu Bồ-tát hạnh, mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nhưng khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu quán sát tất cả pháp hoàn toàn không sở hữu, đối với tánh của pháp sâu xa tâm không thối lui, không nghi ngờ, không sợ hãi, cũng không mê loạn. Những việc như vậy rất là hiếm có.

Thiện Hiện nói với trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Như lời ông nói, các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, quán tất cả pháp hoàn toàn không sở hữu. Với tánh của pháp sâu xa, tâm không thối lui, không nghi ngờ, chẳng sợ sệt, cũng không mê loạn. Những việc như vậy rất hiếm có.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu quán bản tánh tất cả pháp đều không. Ở trong cái không ấy hoàn toàn vô sở hữu, vậy ai thối lui? Ai nghi ngờ? Ai kinh hãi? Ai mê loạn? Cho nên, khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đối với bản tánh của pháp sâu xa tâm không thối lui, không nghi ngờ, không kinh hãi, không mê loạn, rất là hiếm có.

Trời Đế Thích thưa Thiện Hiện:

- Tôn giả đã nói đều căn cứ vào Không, cho nên những gì nói ra thường không bị chướng ngại. Ví như lấy mũi tên bắn lên hư không, nếu bắn gần hay xa đều không bị chướng ngại. Những gì Tôn giả nói cũng vậy, ở trong đó ai dám làm chướng ngại.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nói như vậy, khen như vậy, ghi nhận như vậy là thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tùy pháp đối với pháp thì có ghi nhận chân chánh không?

Phật dạy trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Ông nói như vậy, khen như vậy, ghi nhận như vậy đều thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tùy pháp đối với pháp không ghi nhận điên đảo.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Những gì đại đức Thiện Hiện nói đều căn cứ vào không, vô tướng, vô nguyện. Cũng căn cứ vào bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Căn cứ vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Căn cứ vào tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Căn cứ vào bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Căn cứ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Căn cứ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Căn cứ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Căn cứ vào bậc Đại Bồ-tát. Căn cứ vào tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Căn cứ vào năm loại mắt, sáu phép thần thông. Căn cứ vào mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Căn cứ vào đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Căn cứ vào ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Căn cứ vào pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Căn cứ vào trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Căn cứ vào hạnh của Đại Bồ-tát và quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Thế Tôn dạy trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện trụ vào Không của các pháp mà quán bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa còn bất khả đắc thì làm sao có người hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể đắc.

Quán bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo còn bất khả đắc, thì làm sao có người tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể đắc.

Quán bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn bất khả đắc, thì làm sao có người tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể đắc.

Quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ còn bất khả đắc, thì làm sao có người tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ có thể đắc.

Quán pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không còn bất khả đắc, thì làm sao có người trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không có thể đắc.

Quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì còn bất khả đắc, thì làm sao có người trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể đắc.

Quán Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo còn bất khả đắc, thì làm sao có người trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có thể đắc.

Quán pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện còn bất khả đắc, thì làm sao có người tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể đắc.

Quán địa của các Đại Bồ-tát còn bất khả đắc, thì làm sao có người tu địa của các Đại Bồ-tát có thể đắc.

Quán pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa còn bất khả đắc, thì làm sao có người tu pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có thể đắc.

Quán năm loại mắt, sáu phép thần thông còn bất khả đắc, thì làm sao có người dẫn phát năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể đắc.

Quán mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng còn bất khả đắc, thì làm sao có người dẫn phát mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể đắc.

Quán đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả còn bất khả đắc, thì làm sao có người an trụ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả có thể đắc.

Quán ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp còn bất khả đắc, thì làm sao có người lấy các tướng hảo trang nghiêm thân này có thể đắc.

Quán pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả còn bất khả đắc, thì làm sao có người dẫn phát pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có thể đắc.

Quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng còn bất khả đắc, thì làm sao có người dẫn phát trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc.

Quán tất cả hạnh của Đại Bồ-tát còn bất khả đắc, thì làm sao có người có thể hành tất cả hạnh của Đại Bồ-tát có thể đắc.

Quán quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật còn bất khả đắc, thì làm sao có người năng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể đắc.

Quán trí nhất thiết trí còn bất khả đắc, thì làm sao có người có thể đắc trí nhất thiết trí có thể đắc.

Quán chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác còn bất khả đắc, thì làm sao có người chuyển vô thượng pháp luân có thể đắc.

Quán pháp vô sanh diệt còn bất khả đắc, làm sao có người chứng pháp vô sanh diệt có thể đắc. Vì sao?

Này Kiều-thi-ca! Vì đối với tất cả pháp, cụ thọ Thiện Hiện trụ vào nơi viễn ly, trụ vào nơi tịch tĩnh, trụ vào nơi vô sở hữu, trụ vào nơi vô sở đắc, trụ vào nơi không, trụ vào nơi vô tướng, trụ vào nơi vô nguyện.

Này Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với sự trụ của tất cả pháp có vô lượng thắng trụ như vậy, so với sự trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vi diệu của các Đại Bồ-tát trụ thì trăm phần, ngàn phần, cho đến phần nhỏ nhất cũng không bằng một. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trừ sự trụ của chư Phật ra thì sự trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu của các Đại Bồ-tát so với sự trụ của Thanh văn, Độc giác rất là tối thắng, là tôn quí, là vi diệu, là vô thượng.

Cho nên, này Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát muốn trụ trên tất cả hữu tình thì nên trụ vào sự hành trụ của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các Đại Bồ-tát trụ trong trụ này thì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, mau viên mãn tất cả Phật pháp, đoạn hẳn sự tương tục của tập khí phiền não, mau chứng đắc trí nhất thiết trí, được gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoàn toàn làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, khiến họ trụ nhập vào Tam thừa giải thoát của trời, người.

Lúc ấy, trong chúng hộivô lượng, vô số cõi trời thứ Ba mươi ba hoan hỷ khôn xiết, đều lấy hương hoa vi diệu của trời dâng rải cúng dường Như Lai và các đệ tử.

Trong chúng hội có tám trăm Bí-sô đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, trịch bày y vai hữu, quì gối sát đất, cúi đầu cung kính, chấp tay hướng về Phật, chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt không rời. Nhờ thần lực của Phật nên trong lòng bàn tay họ tự nhiên có đầy hương hoa vi diệu. Chúng Bí-sô ấy hết sức vui mừng, vì có thứ chưa từng có. Mọi người lấy hoa ấy dâng lên cúng dường Phật và các Bồ-tát. Rải hoa xong, họ cùng phát nguyện: “Chúng con đem sức căn lành thù thắng này, nguyện luôn an trụ vào sự hành trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuThanh văn, Độc giác không thể trụ được và mau hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.”

Khi ấy, biết chúng Bí-sô vui vẻ thanh tịnh, nhất định không thối chuyển, Như Lai liền mỉm cười. Theo thường pháp của Phật khi mỉm cười từ miệng phóng ra những loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, xanh biếc, xanh lục, vàng, bạc, pha lê chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Ánh sáng ấy thu trở lại vòng quanh thân Phật, quay ba vòng rồi nhập vào trên đỉnh Phật.

Thấy điềm lành này, A-nan-đà quá vui mừng liền đứng dậy lễ Phật, chấp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười như vậy? Chư Phật mỉm cười đều có nhân duyên. Cúi xin đức Như Lai thương xót nói cho.

Phật dạy:

- A-nan-đà! Các Bí-sô này vào đời tương lai trong kiếp Tinh Dụ đều được thành Phật cùng tên là Tán Hoa, có đầy đủ mười hiệu. Tuổi thọ, quốc độ, đệ tử Bí-sô của các vị Phật ấy tất cả đều như nhau. Chư Như Lai ấy đều sống một ngàn tuổi, khi đản sanh, khi xuất gia và sau khi thành Phật ở chỗ nào, dù ngày hay đêm cũng thường mưa hương hoa vi diệu năm màu. Do đó mà Ta mỉm cười.

Cho nên, này Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát muốn được an trụ vào sự trụ tối thắng thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn được an trụ vào sự trụ của Như Lai thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đời trước từ trong cõi người qua đời, sanh trở lại vào nơi đây, hoặc từ cõi trời Đổ-sử-đa đến sanh vào nhơn gian đây. Đời trước người ấy ở trong cõi người, hay ở trên trời, do từng nghe rộng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nên đời này có thể siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Khánh Hỷ nên biết! Như Lai hiện thấy thiện nam, thiện nữ v.v... nào siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đối với thân mạng, của cải không tiếc muối, thì biết vị ấy chắc chắn là Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Thiện nam, thiện nữ v.v... ưa thích nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng nói khai thị, truyền trao, dạy bảo cho thiện nam tử Bồ-tát thừa thì nên biết người đó là Đại Bồ-tát, ở quá khứ đã từng gần gũi Như Lai nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy. Nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, cũng giảng nói khai thị, truyền trao, dạy bảo Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cho người khác, nên đời này có thể thành tựu việc ấy.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v... đó đã từng gieo trồng các căn lành với vô lượng Phật quá khứ, nên đời này có thể làm việc ấy. Thiện nam, thiện nữ v.v... nên nghĩ như vầy: Đời trước ta không nghe Thanh văn, Độc giác nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, nhất định là nghe chư Phật nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu ấy. Đời trước ta không gần gũi cúng dường trồng các căn lành đối với Thanh văn, Độc giác, nhất định là ta gần gũi cúng dường trồng các căn lành đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Do nhân duyên này, nên nay được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, ưa thích, thọ trì, đọc tụng thông suốt, tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng nói cho các hữu tình không mệt mỏi.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào ưa thích nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, đối với pháp, nghĩa, văn, ý của kinh đều thông suốt rõ ràng, tùy thuận theo đó mà tu hành thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy được thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác của chúng ta.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào nghe nói tất cả ý nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tin hiểu, không hủy báng, không làm trở ngại, phá hoại thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo trồng nhiều căn lành với chư Phật, cũng được vô lượng bạn tốt hộ trì.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v... đã gieo trồng các căn lành vào ruộng phước thù thắng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuy nhất định sẽ đắc quả Thanh văn, Độc giác, Như Lai nhưng muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhưng cần phải thông đạt ý nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không chướng ngại, tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. An trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành bậc Đại Bồ-tát. Tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoàn toàn viên mãn.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát có thể thông đạt ý nghĩa thâm sâu của Bát-nhã ba-la-mật-đa một cách không chướng ngại, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng để viên mãn hoàn toàn mà Đại Bồ-tát ấy không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ trụ vào địa vị Thanh văn, Độc giác thì nhất định không có điều đó. Cho nên, chúng Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên thông đạt hoàn toàn ý nghĩa sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa một cách không chướng ngại, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng hoàn toàn viên mãn.

Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu giao phó cho ông, ông nên thọ trì đúng đắn, đọc tụng thông suốt đừng để quên mất.

Khánh Hỷ nên biết! Ngoài kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nếu thọ trì kinh điển khác, dầu có quên mất pháp Ta nói ra thì tội ấy còn nhẹ. Nhưng đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không thọ trì cẩn thận, cho đến quên mất một câu thì tội ấy rất nặng.

Khánh Hỷ nên biết! Đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu dù một câu có thể thọ trì cẩn thận không quên mất thì đạt được phước vô lượng. Còn như đối với kinh điến Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không thọ trì cẩn thận, thậm chí quên mất chỉ một câu thì bị tội rất nặng bằng lượng phước ở trước.

Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu ân cần giao phó cho ông, ông hãy thọ trì đúng đắn, đọc tụng thông suốt, tư duy đúng lý, giảng nói cho người khác, phân biệt khai thị, để họ thọ trì hiểu rõ hoàn toàn ý nghĩa của lời văn.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, giảng nói cho người khác, phân biệt khai thị chỉ dạy để họ hiểu rõ, thì thọ trì gìn giữ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v... có tâm ân cần thanh tịnh, hiện đang ở chỗ Ta muốn đem những thứ vòng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen không giải đãi, mệt mỏi, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, giảng nói cho người khác, phân biệt chỉ dạy để họ hiểu rõ, hoặc biên chép, trang nghiêm nhiều vật báu, luôn dùng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen không ngừng nghỉ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy thì hiện tại đã cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Ta và ba đời chư Phật khắp mười phương.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có tâm ân cần thanh tịnh, cung kính ưa thích, tức là ân cần thanh tịnh, cung kính ưa thích quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácquá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng.

Này Khánh Hỷ! Nếu ông ưa thích Ta, không lìa bỏ Ta thì cũng nên ưa thích và không lìa bỏ kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, cho đến một câu cũng đừng để quên mất.

Này Khánh Hỷ! Ta nói nhân duyên giao phó kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, mặc dù trải qua trăm ngàn đại kiếp cũng không cùng tận, giống như Ta đã là Đại sư của các ông, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng là Đại sư của các ông. Các ông cùng trời, người cung kính, tôn trọng Ta thì cũng nên cung kính, tôn trọng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta dùng vô lượng phương tiện thiện xảo giao phó kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này cho ông, ông nên thọ trì đừng để quên mất. Nay trước trời, người, A-tu-la v.v... vô lượng đại chúng, Ta đem Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này giao phó cho ông, ông hãy thọ trì đúng đắn đừng để quên mất.

Này Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật cho ông biết: Người nào có lòng tin thanh tịnh, muốn không bỏ Phật, không bỏ Pháp, không bỏ Tăng, không muốn lìa bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà chư Phật ba đời đã chứng thì nhất định không nên lìa bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Như vậy gọi là pháp mà chư Phật truyền trao, dạy bảo cho các đệ tử.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... ưa thích lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, dùng vô lượng pháp môn để giảng nói cho người, phân biệt khai thị, trình bày kiến lập để họ hiểu rõtinh tấn tu hành thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gần viên mãn trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, trí nhất thiết trí đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà sanh.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà sanh ra quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cho nên, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì phải siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là mẹ của các Đại Bồ-tát, sanh ra các Đại Bồ-tát.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát siêng học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba-la-mật-đa đây lại giao phó cho ông, ông nên thọ trì đúng đắn đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa là kho Pháp bảo vô lượng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả Phật pháp từ đây sanh ra.

Khánh Hỷ nên biết! Pháp giải thoát mà chư Phật Thế Tôn ba đời nói ra đều lưu xuất ra từ vô lượng Pháp tạng của sáu pháp Ba-la-mật-đa ấy.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật Thế Tôn ba đời khắp mười phương cũng đều nương vào vô lượng Pháp tạng của sáu pháp Ba-la-mật-đa mà siêng năng tinh tấn tu học, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết! Đệ tử Thanh văn chư Phật Thế Tôn ba đời khắp mười phương đều nương vào vô tận Pháp tạng của sáu pháp Ba-la-mật-đa mà siêng năng tinh tấn tu học, đã, đang và sẽ nhập vào Vô dư Niết-bàn.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Giả sử ông vì hàng Thanh văn thừa nói pháp Thanh văn, nhờ pháp này mà tất cả hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều đắc quả A-la-hán, thì vẫn chưa vì Ta mà làm việc đáng làm của người Phật tử. Nếu ông vì hàng Bồ-tát thừa mà giảng nói pháp tương ưng một câu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, mới gọi là vì Ta làm việc nên làm của người Phật tử. Đối với việc này, Ta sanh lòng tùy hỷ sâu sắc hơn là việc ông giáo hóa tất cả hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều đắc quả A-la-hán. Lại nữa Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới nhờ năng lực giáo hóa của người khác cùng một lúc đều được làm người, đồng thời chứng đắc quả A-la-hán thì đối với tất cả nghiệp phước đức do sự bố thí, trì giới, và tu tập của các A-la-hán ấy thì ý ông thế nào, nghiệp phước đức ấy nhiều không?

Khánh Hỷ thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước đức nghiệp sự của vị ấy vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Nếu có Thanh văn nào giảng nói pháp tương ưng với sáu Ba-la-mật-đa cho Bồ-tát thì phước đức đạt được trong một ngày đêm nhiều hơn phước người kia.

Khánh Hỷ nên biết! Gát một ngày đêm qua một bên, chỉ còn một ngày. Gát một ngày qua một bên chỉ còn nửa ngày, gát nửa ngày qua một bên chỉ còn một giờ, gát một giờ qua một bên chỉ thời gian như khoảng bữa ăn, gát khoảng chừng bữa ăn qua một bên chỉ còn chốc lát, gát chốc lát qua một bên chỉ còn một thoáng, gát một thoáng qua một bên chỉ còn lại một khảy móng tay, người Thanh văn ấy có thể giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho Bồ-tát, phước đức đạt được nhiều hơn trước. Vì sao? Vì phước đức của vị Thanh văn này đạt được vượt qua các căn lành của tất cả Thanh văn, Độc giác.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát giảng nói pháp Thanh văn thừa cho hàng Thanh văn, giả sử tất cả hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới nhờ pháp này mà đều được chứng đắc quả A-la-hán, đều đầy đủ tất cả công đức thù thắng. Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát ấy nhờ nhân duyên này được phước đức nhiều không?

Khánh Hỷ thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Đại Bồ-tát ấy đạt được phước đức vô lượng, vô biên.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát giảng nói pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa cho Thanh văn thừa, Độc giác thừathiện nam Vô thượng thừa thì trong một ngày đêm, đạt được phước đức nhiều hơn trước.

Khánh Hỷ nên biết! Gát một ngày đêm qua một bên, chỉ trải qua một ngày, gát một ngày qua một bên chỉ còn nửa ngày, gát nửa ngày qua một bên chỉ còn một giờ, gát một giờ qua một bên chỉ còn lại khoảng chừng bữa ăn, gát khoảng chừng bữa ăn qua một bên chỉ còn chốc lát, gát chốc lát qua một bên chỉ còn một thoáng, gát một thoáng qua một bên chỉ còn lại một khảy móng tay, Đại Bồ-tát ấy có thể giảng nói pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa cho thiện nam ba thừa, đạt được phước đức nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu vượt hơn tất cả pháp thí tương ưng với Thanh văn, Độc giác và các căn lành của ba thừa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy tự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng lấy pháp tương ưng Đại thừa thị hiện, chỉ dạy, khuyến khích, khen ngợi. Các chúng sanh khác đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được đắc Bất thối chuyển.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát ấy tự tu sáu pháp Ba-la-mật-đa, cũng dạy người khác tu sáu pháp Ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến tự tu trí nhất thiết trí, cũng dạy người khác tu trí nhất thiết trí. Do đó mà căn lành được tăng trưởng. Đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nếu có sự thối chuyển thì không có điều đó.

Bấy giờ, có bốn chúng vây quanh, Thế Tôn ca ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, và giao cho A-nan-đà thọ trì rồi, lại ở trước hội chúng tất cả trời, rồng, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ngài hiện sức thần thông khiến chúng đều thấy Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có đại chúng Thanh văn, Bồ-tát vây quanh, đang giảng nói diệu pháp cho hội Hải Dụ, và thấy tướng trang nghiêm thanh tịnh của cõi ấy. Thanh văn Tăng ở đó đều là A-la-hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn tự tại, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, giống như ngựa khôn được điều phục, và như rồng lớn. Việc cần làm đã làm xong, việc thành tựu đã thành tựu rồi, quăng bỏ các gánh nặng, chứng đắc tự lợi, không còn các kiết sử, chánh tri giải thoát, chí tâm tự tại, cứu cánh đệ nhất. Tất cả Bồ-tát Tăng ở đó đều nổi tiếng đã đắc Đà-la-ni và biện tài vô ngại, thành tựu vô lượng công đức thù thắng. Phật thâu thần lực lại làm cho trời, rồng, A-tu-la, Càn-thát-bà trong chúng hội này không thấy Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Bồ-tát, Thanh văn cùng đại chúng khác, và tướng trang nghiêm thanh tịnh của cõi Phật ấy. Chúng hội Phật ấy và cõi trang nghiêm thanh tịnh chẳng phải đối tượng của mắt ở cõi này. Vì sao? Vì Phật thâu thần thông, nên đối với cảnh xa không có điều kiện để thấy.

Khi ấy, Phật dạy A-nan-đà:

- Ông còn thấy chúng hộiquốc độ của Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nữa không?

A-nan-đà thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy việc ấy nữa, vì đó chẳng phải là sự hoạt động của mắt ở cõi này.

Phật dạy cụ thọ A-nan-đà:

- Như chúng hội, quốc độ của Như Lai kia chẳng phải là cảnh giới hoạt động của mắt ở cõi này. Nên biết các pháp cũng như vậy, chẳng phải cảnh giới hoạt động của mắt.

Khánh Hỷ nên biết! Pháp thì không hành pháp, pháp thì không thấy pháp, pháp thì không biết pháp, pháp thì không chứng pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tánh của tất cả các pháp không ai có thể hành, không ai có thể thấy, không ai có thể biết, không ai có thể chứng, không ai có thể tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tác dụng, vì người giữ và được giữ là tánh viễn ly. Vì tất cả pháp không thể suy nghĩ, người suy nghĩ, pháp được suy nghĩ là tánh viễn ly. Tất cả pháp như huyễn hóa, nhờ các sự hòa hợp lại nên giống như thật có. Vì tất cả pháp không có người tạo tác, người thọ nhận, vì vọng hiện ra giống như có thật, nhưng thật ra không bền chắc.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát nào có thể hành như vậy, thấy như vậy, biết như vậy, chứng như vậy đó là người hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không chấp trước tướng của các pháp này.

Khánh Hỷ nên biết! Khi Đại Bồ-tát hành như vậy đó là học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn đạt được tất cả Ba-la-mật-đa, mau chóng viên mãn tất cả pháp đến cứu cánh bờ bên kia thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì pháp học này đối với các sự học là tối thắng, là tôn quí, là vi diệu, là vô thượng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, làm chỗ nương tựa cứu giúp cho ai không có chỗ nương tựa cứu giúp. Chư Phật Thế Tôn chấp nhận khen ngợi người tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật, Bồ-tát học như vậy, đã trụ trong học này có thể dùng ngón tay phải, hoặc ngón chân phải nâng lấy ba ngàn đại thiên thế giới quăng bỏ phương khác, hoặc đem về chỗ cũ, mà hữu tình trong đó không hay biết, không tổn hại, không sợ sệt. Vì sao? Vì oai lực công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không thể nghĩ bàn. Chư Phật và các Bồ-tát ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều học Bát-nhã ba-la-mật-đa này, đối với quá khứ, hiện tại, vị laipháp vô vi tất cả đều đạt được trí kiến vô ngại.

Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta nói ai có thể học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này đối với trong các sự học đó rất là tối thắng, rất là tôn quí, là rất vi diệu, rất là vô thượng.

Khánh Hỷ nên biết! Người nào muốn giữ lấy số lượng giới hạn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì giống như người ngu si muốn giữ lấy số lượng giới hạn hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuvô lượng, không giới hạn.

Khánh Hỷ nên biết! Ta không bao giờ nói công đức thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, như danh từ v.v… có số lượng, có giới hạn. Vì sao? Vì danh từ, câu, chữ là pháp có số lượng, còn công đức thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là pháp chẳng có hạn lượng. Chẳng phải danh từ v.v… mà có thể lường được công đức lợi ích của Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà dùng danh từ để tính lường được.

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là vô lượng?

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Tánh của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuvô tận, vì tánh viễn ly, tánh tịch tĩnh, như thật tế, như hư không, nên nói là vô lượng.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều học Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoàn toàn viên mãn, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, giảng nói khai thị cho các hữu tình, nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này luôn luôn không diệt tận. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu giống như hư không, không cùng tận. Người nào muốn cùng tận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là muốn tận ngằn mé của hư không.

Khánh Hỷ nên biết! Bố thí v.v… sáu pháp Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến trí nhất thiết trí đều không thể tận, chẳng phải đều đã tận, đang tận và sẽ tận. Vì sao? Vì những pháp không sanh, không diệt, cũng không có trụ và thay đổi thì làm sao có thể đưa ra là có tận.

Bấy giờ, từ miệng Như Lai hiện ra tướng lưỡi rộng dài che khắp cả mặt. Hiện tướng lưỡi rồi thâu trở lại vào miệng và nói với Khánh Hỷ:

- Ý ông thế nào? Ở thế gian, người có tướng lưỡi như vậy có nói lời hư dối không?

Khánh Hỷ thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Từ nay trở đi ông nên nói rõ Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy cho bốn chúng, hãy phân biệt khai thị, giảng giải trình bày thế nào để họ dễ hiểu.

Khánh Hỷ nên biết! Trong Mật tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này có nói rộng tất cả pháp phần Bồ-đề và tướng của các pháp. Cho nên tất cả thiện nam v.v… cầu Thanh văn thừa, cầu Độc giác thừa, cầu Vô thượng thừa đều phải y vào pháp môn của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói, siêng năng tu học, đừng nhàm chán, mỏi mệt. Nếu ai thường tinh tấn tu học như vậy thì sẽ mau chứng đắc ý nghĩa mà mình cầu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể ngộ nhập vào tất cả pháp môn, có thể ngộ nhập vào tất cả văn tự, có thể ngộ nhập vào pháp môn Đà-la-ni. Các Đại Bồ-tát đối với pháp môn Đà-la-ni phải siêng năng tinh tấn tu học. Nếu Đại Bồ-tát thọ trì pháp môn Đà-la-ni như vậy thì mau chứng đắc tất cả biện tài, các hiểu biết vô ngại.

Khánh Hỷ nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chính là kho Pháp bảo vô tận của chư Phật Thế Tôn đời quá khứ, vị lai, hiện tại, nó giữ gìn tất cả Phật pháp vi diệu. Cho nên, nay Ta phân biệt nói rõ ràng cho ông. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này nếu có người nào thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, thì đó là thọ trì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của ba đời chư Phật đã đắc.

Khánh Hỷ nên biết! Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy là đôi chân kiên cố của người có thể đi đến đạo Bồ-đề. Các ông nếu có thể thọ trì Đà-la-ni Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là nắm giữ tất cả Phật pháp, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Quyển thứ 522
HẾT

 
XXVI. PHẨM PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO

01

Bấy giờ, Thiện Hiện suy nghĩ: Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là sâu xa, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng sâu xa. Ta sẽ hỏi Phật hai nghĩa sâu xa này. Nghĩ vậy xong, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tức là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều rất thâm sâu không cùng tận. Vậy vì sao nói hai việc này là vô tận?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều như hư không, không cùng tận nên nói là vô tận.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát phải làm thế nào để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên quán sắc vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên quán thọ, tưởng, hành, thức vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến phải quán trí nhất thiết trí vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên quán sắc như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên quán thọ, tưởng, hành, thức như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến nên quán trí nhất thiết trí như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên quán vô minh duyên hành như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán hành duyên thức như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thức duyên danh sắc như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán danh sắc duyên lục xứ như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán lục xứ duyên xúc như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán xúc duyên thọ như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thọ duyên ái như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán ái duyên thủ như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thủ duyên hữu như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán hữu duyên sanh như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán sanh duyên lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát quán sát mười hai duyên khởi xa lìa nhị biên, đó là diệu quán bất cộng của chúng Đại Bồ-tát ấy.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát ngồi tòa kim cương dưới cội Bồ-đề, như thật quán sát mười hai duyên khởi giống như hư không, không cùng tận nên liền chứng đắc trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát lấy hành tướng như hư không vô tận mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, như thật quán sát mười hai duyên khởi thì vị ấy không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nếu bị thối chuyển đều là do không nương vào tác ý phương tiện thiện xảo để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa, do đó nên không hiểu rõ. Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào để lấy hành tướng như hư không vô tận, mà như thật quán sát mười hai duyên khởi để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Thiện nam tử v.v… trụ vào Bồ-tát thừa đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nếu có ai thối chuyển là đều do xa lìa phương tiện thiện xảo để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà không bị thối chuyển, là do tất cả đều nương vào phương tiện thiện xảo để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy nhờ vào phương tiện thiện xảo này mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, lấy hành tướng như hư không vô tận để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa, như thật quán sát mười hai duyên khởi. Nhờ nhân duyên này, Đại Bồ-tát ấy mau viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát khi quán sát pháp duyên khởi như vậy không thấy có pháp nào sanh ra mà không có nhân. Không thấy có pháp diệt mà không có nhân. Không thấy có pháp nào có tánh tướng thường trụ, không sanh, không diệt. Không thấy pháp nào có ngã, hữu tình, nói rộng cho đến người biết, người thấy. Không thấy có pháp nào là thường hay vô thường, là vui hay khổ, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát luôn quán sát duyên khởi như vậy để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Có lúc Đại Bồ-tát như thật quán sát pháp môn duyên khởi để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ấy, Đại Bồ-tát không thấy sắc uẩn cho đến thức uẩnthường hay vô thường, là vui hay khổ, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly. Nói rộng cho đến không thấy trí nhất thiết tríthường hay vô thường, là vui hay khổ, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly.

Thiện Hiện nên biết! Có lúc Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, khi ấy mặc dù Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng không thấy có sự hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng lại không thấy có pháp có thể thấy sự hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không thấy có sự không thấy như vậy. Mặc dù hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, nhưng không thấy có sự hành tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, cũng không thấy có pháp có thể thấy sự hành tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa, cũng không thấy có sự không thấy như vậy. Nói rộng cho đến mặc dù tu trí nhất thiết trí, nhưng không thấy có việc tu trí nhất thiết trí; cũng không thấy có pháp có thể thấy việc tu trí nhất thiết trí, cũng không thấy có sự không thấy như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Đối với tất cả pháp, các Đại Bồ-tát lấy vô sở đắc để làm phương tiện nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Có lúc đối với tất cả pháp, Đại Bồ-tát lấy vô sở đắc để làm phương tiện tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, khi ấy ác ma rất đau khổ, giống như trúng mũi tên độc. Ví như có người, cha mẹ qua đời nên thân tâm đau khổ thì ác ma cũng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Một ác ma thấy các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp lấy vô sở đắc làm phương tiện để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì rất đau khổ, giống như trúng mũi tên độc, hay tất cả ác ma khắp ba ngàn đại thiên thế giới cũng như vậy?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả ác ma khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới cũng như vậy. Tất cả ác ma ngồi không yên nơi chỗ của mình.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát thường phải an trụ hạnh trụ chơn tịnh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Các Đại Bồ-tát thường an trụ vào hành trụ chơn tịnh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nếu có thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... rình tìm chỗ dở của các vị ấy thì không bao giờ được, cũng không thể nào quấy nhiễu làm chướng ngại được.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì phải siêng năng tinh tấn an trụ vào hạnh trụ chơn tịnh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát trụ đúng đắn vào hạnh trụ chơn tịnh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì có thể tu hành viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát tu hành đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì liền có thể tu viên mãn đầy đủ tất cả Ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu hành đúng đắn với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế nào thì có thể tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không điên đảo, đem tâm tương ưng với trí nhất thiết trí mà hành bố thí cho đến Bát-nhã, đem công đức này cho tất cả hữu tình cùng nhau hồi hướng đến trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát tu hành đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì có thể tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà Đại Bồ-tát an trụ vào bố thí Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh giới cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Đại Bồ-tát lấy tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí, đem bố thí này cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến trí nhất thiết trí. Đối với các hữu tình thì có lòng từ nơi thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệplìa bỏ ác giới. Đó là Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh giới Ba-la-mật-đa. Khi Đại Bồ-tát lấy tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí, đem bố thí này cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến trí nhất thiết trí, nếu bị người nhận hoặc các hữu tình khác hủy báng, nhục mạ làm hại một cách phi lý, thì Bồ-tát không sanh tâm sân hận, không muốn báo thù làm hại họ bằng thân, khẩu, chỉ sanh lòng từ bi thương xót họ, đem lời hòa nhã hổ thẹn xin lỗi. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào bố thí Ba-la-mật-đa gồm cả an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát đem tâm không ái nhiễm, không xan tham hành bố thí, đem bố thí này cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến trí nhất thiết trí. Nếu bị người nhận hoặc các hữu tình khác hủy báng, nhục mạ một cách phi lý thì bấy giờ Bồ-tát liền nghĩ: Mọi người tạo ra những loại nghiệp như vậy, trở lại tự mình nhận lấy quả báo như vậy. Ta không nên tính toán, hơn thua với họ, để rồi phế bỏ sự tu nghiệp của mình. Lại nghĩ: Đối với người ấy và các hữu tình khác ta nên làm tăng trưởng tâm xả, tâm bố thí, không luyến tiếc. Nghĩ vậy xong thân tâm thanh tịnh, tinh tấn thực hành bố thí. Đó là Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa gồm cả tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát lấy tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí, đem bố thí này bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến trí nhất thiết trí. Đối với những người thọ nhận và cảnh giới khác tâm không tán loạn, không cầu các dục ở ba cõiNhị thừa, chỉ cầu quả vị Phật. Đó là Đại Bồ-tát an trụ bố thí Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát lấy tâm không ái nhiễm, không xan tham để hành bố thí, đem bố thí này cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến trí nhất thiết trí. Quán các người thọ nhận, người bố thí, vật bố thí đều như huyễn. Không thấy sự bố thí này có tổn giảm hay lợi ích đối với các hữu tình, thông đạt tất cả pháp hoàn toàn đều không, bất khả đắc. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào bố thí Ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa gồm cả bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa thân đầy đủ luật nghi, ngữ đầy đủ luật nghi, ý đầy đủ luật nghi mà tạo các nghiệp phước. Nhờ nghiệp phước này lìa việc sát sanh cho đến tà kiến. Không mong cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Bấy giờ, Bồ-tát an trụ vào tịnh giới để thực hành rộng rãi tuệ thí, các hữu tình cần thức ăn cho thức ăn, cần thức uống cho thức uống, cần đồ đạc gì cho đồ đạc đó. Lại đem căn lành bố thí này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa gồm cả bố thí Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa, giả sử các hữu tình tranh nhau đến cắt xẻ thân Bồ-tát ra từng khúc rồi mang đi. Bồ-tát không sanh một niệm sân giận nào với người đó, chỉ nghĩ: Nay ta đạt được lợi ích lớn, nghĩa là đã xả bỏ thân hôi thối, nguy ách này mà được thân kim cương thanh tịnh của Phật. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa gồm cả an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa, thân tâm tinh tấn thường không gián đoạn, mặc áo giáp đại bi, phát lời thề rộng lớn: “Tất cả hữu tình bị chìm đắm trôi lăn trong biển khổ, con sẽ cứu vớt họ đưa đến bờ Niết-bàn cam lồ.” Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa gồm cả tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa, mặc dù nhập vào sơ tịnh lự cho đến định Diệt tưởng thọ, nhưng không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cũng không chứng thật tế, nhờ nguyện lực xưa mà được tồn tại. Lại nghĩ như vầy: Các loài hữu tình bị chìm đắm trong biển khổ, tự mình không thể đưa ra được. Nay ta đã trụ vào giới thanh tịnh, dùng phương tiện để phát sanh thần thông tịnh lự, nhất định sẽ cứu vớt chúng sanh đặt lên bờ Niết-bàn thường lạc. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa, không thấy pháp nào là hữu vi hay vô vi, hoặc thuộc hữu tướng hay vô tướng, hoặc thuộc hữu số hay vô số. Chỉ quán các pháp không lìa chơn như nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Những chơn như v.v… này cũng bất khả đắc. Nhờ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà vị ấy không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh giới Ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà Đại Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa gồm cả bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi tòa Bồ-đề. Trong thời gian ấy nếu có các loài hữu tình đến hủy báng, khinh khi, nhục mạ một cách phi lý, cho đến cắt xẻ thân ra từng khúc mang đi. Khi ấy, Bồ-tát hoàn toàn không sân giận, chỉ nghĩ: Các loài hữu tình này rất đáng thương, bị phiền não độc hại quấy loạn thân tâm, không được tự do, không chỗ nương tựa, không người cứu giúp, bị bần cùng nghèo khổ hành hạ. Ta hãy bố thí cho họ những vật cần dùng như thức ăn, nước uống, áo quần và các thứ đồ đạc khác. Sau đó, đem căn lành của sự bố thí này bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lấy vô sở đắc để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa gồm cả bố thí Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ-đề, trong thời gian ấy, cho đến vì tự cứu mạng sống thì không nên làm tổn hại đến các hữu tình. Cho đến không có các ác tà kiến. Khi Bồ-tát tu tịnh giới như vậy, không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác. Lại đem căn lành tịnh giới ấy, bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa phát sanh dõng mãnh, tinh tấn tăng thượng, thường nghĩ: Nếu một hữu tình ở ngoài một do-tuần, ngoài mười, một trăm cho đến vô lượng do-tuần, hoặc ở ngoài một thế giới, hoặc ngoài mười, một trăm cho đến vô lượng thế giới có thể độ được, ta nhất định sẽ đến dùng phương tiện giáo hóa để họ thọ trì tám học xứ, hoặc năm học xứ, hoặc mười học xứ, hoặc cụ túc học giới, hoặc khiến họ trụ vào quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, hoặc trụ vào Độc giác Bồ-đề, hoặc khiến họ trụ vào địa vị Bồ-tát cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ta còn chẳng mỏi mệt, huống chi giáo hóa cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đều đạt được lợi ích an lạc mà lại mỏi mệt. Lại đem căn lành tinh tấn bình đẳng cho các hữu tình và cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa gồm cả tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa tâm chẳng loạn, lìa bỏ pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỉ lạc, nhập vào sơ tịnh lự, nói rộng cho đến định Diệt tưởng thọ. Trong các định này phát sanh tâm và tâm sở pháp đều hòa hợp với tất cả căn lành, lại bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đối với các tịnh lự và chi tịnh lự hoàn toàn vô sở đắc. Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong các pháp trụ pháp quán trên pháp, tuy lấy hành tướng của viễn ly, hoặc lấy hành tướng của tịch tĩnh, hoặc lấy hành tướng vô tận, hoặc lấy hành tướng vĩnh viễn diệt, dù quán tất cả pháp, nhưng đối với các pháp tánh không thể tác chứng, cho đến ngồi tòa Bồ-đề chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Rời khỏi tòa này rồi chuyển diệu pháp luân làm lợi ích an lạc cho các hữu tình. Lại đem căn lành diệu tuệ này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy, phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào an nhẫn Ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa gồm cả bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa, thân tâm tinh tấn không giải đãi, cầu các pháp lành cũng không mỏi mệt, luôn nghĩ: Ta nhất định sẽ đắc trí nhất thiết trí, không thể không đắc. Đại Bồ-tát ấy vì muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình nên phát nguyện: “Nếu có một hữu tình ở ngoài một do-tuần, hoặc mười, một trăm cho đến vô lượng do-tuần, hoặc ở ngoài một thế giới, hoặc ngoài mười, một trăm cho đến vô lượng các thế giới. Người nào đáng độ, ta nhất định đến đó dùng phương tiện giáo hóa. Nếu thiện nam tử Bồ-tát thừa thì khiến vị ấy trụ vào quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu là thiện nam Thanh văn thừa thì khiến họ trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Nếu thiện nam Độc giác thừa thì khiến vị ấy an trụ Độc giác Bồ-đề. Nếu các hữu tình khác thì khiến họ an trụ vào mười thiện nghiệp đạo. Như vậy ta đều lấy đầy đủ pháp thí, tài thíphương tiện làm cho họ được sung túc đầy đủ. Lại đem căn lành bố thí này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa gồm cả bố thí Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi tòa Bồ-đề, tự lìa sát sanh cho đến tà kiến, cũng khuyến khích người lìa bỏ sát sanh cho đến tà kiến, tùy thuận và khen ngợi sự bỏ sát sanh cho đến tà kiến, vui mừng hoan hỉ với người không sát sanh cho đến tà kiến. Đại Bồ-tát ấy giữ tịnh giới Ba-la-mật-đa này không cầu quả Nhị thừaquả báo ba cõi, chỉ đem căn lành tịnh giới này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa, từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ-đề, trong thời gian ấy, người chẳng phải người v.v… tranh nhau đến xúc não, hoặc chặt thân thể ra từng khúc rồi tự tiện đem đi. Khi ấy, Bồ-tát không nghĩ: Ai đâm chém ta? Ai chặt đứt ta? Ai mang đi? Chỉ nghĩ: Nay ta được lợi ích lớn, các hữu tình đó vì làm lợi ích cho ta nên đến chặt xẻo thân thể ta ra từng phần. Nhưng ta vốn vì tất cả hữu tình mà thọ thân này. Họ đến tự lấy tất cả vật của ta là để thành tựu việc cho ta. Bồ-tát tư duy thật tướng các pháp rất kỹ như vậy để tu an nhẫn. Rồi đem căn lành thù thắng của an nhẫn này không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành an nhẫn này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc để làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa gồm cả an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa, siêng năng tu học các định, nghĩa là lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỉ lạc nhập vào sơ tịnh lự, cho đến nhập vào định thứ tư. Luôn có tư tưởng ban vui cho các hữu tình vào từ vô lượng, nói rộng cho đến nhập vào xả vô lượng. Đối với các sắc luôn có tưởng nhàm chán sự thô và nhập vào định Không vô biên xứ, nói rộng cho đến nhập vào định Diệt tưởng thọ. Đại Bồ-tát ấy mặc dù nhập vào tịnh lự, vô lượng, vô sắc, diệt định như vậy nhưng không nhận lấy quả dị thục của nó. Chỉ theo hữu tình nào đáng được giáo hóa làm lợi ích thì sanh ở nơi đó. Đã sanh vào đó rồi, dùng bốn nhiếp pháp, sáu Ba-la-mật-đa mà làm lợi ích cho họ. Đại Bồ-tát ấy nương vào các tịnh lự phát sanh thần thông thù thắng, đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác để gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi tánh tướng các pháp sâu xa, siêng năng tinh tấn mà phát sanh căn lành thù thắng. Đem căn lành này lấy vô sở đắc làm phương tiện, bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa, không thấy bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là danh, sự, tánh, tướng. Không thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo là danh, sự, tánh, tướng. Cho đến không thấy trí nhất thiết trí là danh, sự, tánh, tướng. Cũng không thấy tất cả pháp là danh, sự, tánh, tướng. Trong tất cả các pháp không có niệm về tướng, không chấp trước, lời nói đi đôi với việc làm. Lại đem căn lành diệu tuệ này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tinh tấn Ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa gồm cả bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa, thực hành tài thí, pháp thí cho hữu tình, nghĩa là lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỉ lạc nhập vào sơ tịnh lự, nói rộng cho đến nhập vào định Diệt tưởng thọ. Đại Bồ-tát ấy đem tâm không tán loạn mà giảng nói chánh pháp về sự hành tài thí, pháp thí cho các hữu tình. Đại Bồ-tát ấy tự mình hành tài thí, pháp thí, cũng thường khuyến hóa người khác thực hành tài thí, pháp thí, thường khen ngợi pháp hành tài thí, pháp thí một cách đúng đắn, luôn luôn hoan hỉ, khen ngợi người thực hành tài thí, pháp thí. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ đem căn lành bố thí này bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát ấy an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa gồm cả bố thí Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa, thọ trì tịnh giới không bao giờ có tâm tương ưng với hành động về tham, sân, si và hại. Cũng không có tâm tương với với hành động về xan tham, tật đố, phá giới, chỉ luôn phát sanh tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Lại đem căn lành tịnh giới này không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa gồm cả tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa tu hành an nhẫn, quán sắc như đống bọt, quán thọ như bong bóng, quán tưởng như sóng nắng, quán hành như cây chuối, quán thức như việc huyễn hóa. Khi quán như vậy, đối với năm thủ uẩn luôn hiện quán về tưởng không bền chắc. Lại nghĩ: Các pháp đều là Không, nó lìa ngã và ngã sở, sắc là sắc của ai? Thọ là thọ của ai? Tưởng là tưởng của ai? Hành là hành của ai? Thức là thức của ai? Khi quán như vậy, lại nghĩ: Các pháp đều Không, không có ngã và ngã sở, thì ai cắt chặt? Ai bị cắt chặt? Ai hủy nhục? Ai bị hủy nhục? Ở trong đó ai nổi sân hận? Bồ-tát nương vào tịnh lự như vậy, khi quán sát thật kỹ thì an nhẫn hoàn toàn. Lại đem căn lành an nhẫn này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa gồm cả an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa siêng năng tinh tấn, lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỉ lạc nhập vào sơ tịnh lự, nói rộng cho đến nhập vào thiền thứ tư. Khi Bồ-tát tu tịnh lự như vậy đối với các tịnh lự và chi tịnh lự đều không chấp tướng. Phát sanh những Thần cảnh trí thông, có thể làm vô biên việc biến hóa lớn. Hoặc phát sanh Thiên nhĩ trí thông, sáng suốt thanh tịnh siêu nhân, có thể như thật nghe tất cả âm thanh các loài hữu tình trong mười phương thế giới. Hoặc phát sanh Tha tâm trí thông, có thể như thật biết tâm và tâm sở pháp các hữu tình trong mười phương thế giới. Hoặc phát sanh Túc trụ trí thông, như thật nhớ biết các việc đời trước của hữu tình trong mười phương thế giới. Hoặc phát sanh Thiên nhãn trí thông, sáng suốt thanh tịnh siêu nhân, có thể như thật thấy biết sắc tượng cho đến nghiệp quả của hữu tình, vô tình trong mười phương thế giới. Đại Bồ-tát ấy an trụ vào năm thần thông thanh tịnh này thì có thể từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi pháp nghĩa sâu xa của Như Lai, gieo trồng vô lượng căn lành chơn chánh thanh tịnh, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, siêng năng tu thắng hạnh của Bồ-tát. Đem căn lành này không cầu quả ba cõiNhị thừa, bình đẳng cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa gồm cả tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa quán sắc uẩn cho đến thức uẩn bất khả đắc. Nói rộng cho đến quán trí nhất thiết trí cũng bất khả đắc. Quán cảnh giới hữu vi bất khả đắc, quán cảnh giới vô vi cũng bất khả đắc. Như vậy, Bồ-tát quán tất cả pháp bất khả đắc nên không tạo tác. Vì không tạo tác nên không sanh, không diệt. Vì không sanh, không diệt nên không thủ, không xả. Vì không thủ, không xả nên hoàn toàn thanh tịnh thường trụ không biến đổi. Vì sao? Vì tất cả pháp chư Phật có ra đời hay không ra đời đều an trụ vào pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, không sanh, không diệt, thường không biến đổi. Đại Bồ-tát ấy tâm không bao giờ tán loạn, luôn luôn an trụ vào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, như thật quán sát thấy tánh tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu. Lại đem căn lành diệu tuệ này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả bố thí cho đến tịnh lự Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa quán tất cả pháp đều Không, vô sở hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa quán tất cả pháp đều Không, vô sở hữu?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa quán pháp nội Không (Không của các pháp nội tại), tánh của pháp nội Không bất khả đắc. Quán pháp ngoại Không (Không của các pháp ngoại tại), tánh của pháp ngoại Không bất khả đắc. Quán pháp nội ngoại Không (Không của các pháp nội ngoại tại), tánh của pháp nội ngoại Không bất khả đắc. Quán pháp đại Không (Không lớn), tánh của pháp đại Không bất khả đắc. Quán pháp Không Không (Không của Không), tánh của pháp Không Không bất khả đắc. Quán pháp thắng nghĩa Không (Không của chân lý cứu cánh), tánh của pháp thắng nghĩa Không bất khả đắc. Quán pháp hữu vi Không (Không của các pháp hữu vi), tánh của pháp hữu vi Không bất khả đắc. Quán pháp vô vi Không (Không của các pháp vô vi), tánh của pháp vô vi Không bất khả đắc. Quán pháp tất cánh Không (Không tối hậu ‘rốt ráo’), tánh của pháp tất cánh Không bất khả đắc. Quán pháp vô tế Không (Không không biên tế), tánh của pháp vô tế Không bất khả đắc. Quán pháptán Không (Không của sự không phân tán), tánh của pháp vô tán Không bất khả đắc. Quán pháp bản tính Không (Không của bản tính ‘tự nhiên tính’), tánh của pháp bản tính Không bất khả đắc. Quán pháp tướng Không, tánh của pháp tướng Không bất khả đắc. Quán pháp nhất thiết pháp Không (Không của vạn hữu), tánh của pháp nhất thiết pháp Không bất khả đắc. Đại Bồ-tát ấy an trụ trong mười bốn Không như vậy không đắc sắc hoặc Không, hoặc bất Không; không đắc thọ, tưởng, hành, thức hoặc Không, hoặc bất Không. Nói rộng cho đến không đắc trí nhất thiết trí hoặc Không, hoặc bất Không. Không đắc cảnh giới hữu vi hoặc Không, hoặc bất Không. Không đắc cảnh giới vô vi hoặc Không, hoặc bất Không. Đại Bồ-tát ấy an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, bố thí cho tất cả các hữu tình thức ăn, thức uống và các đồ đạc khác, quán tất cả là Không. Tất cả người bố thí, được bố thí, phước bố thí, quả bố thí quán cũng là Không. Khi ấy, Bồ-tát nhờ an trụ vào Không mà quán ái nhiễm, xan lận đều không cho khởi. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ-đề, như vậy tất cả phân biệt không cho sanh khởi. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không bao giờ khởi tâm ái, tâm xan tham. Đại Bồ-tát này cũng vậy, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa vĩnh viễn không bao giờ sanh tâm ái nhiễm, tâm xan tham.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa này là thầy của Đại Bồ-tát, có thể khiến cho chúng Đại Bồ-tát không sanh khởi tất cả vọng tưởng phân biệt, không nhiễm trước vào việc bố thí. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này, lấy vô sở đắc làm phương tiện bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả bố thí Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì tịnh giới thì không để sanh tâm của tất cả Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy quán các địa vị Thanh văn, Độc giác đều bất khả đắc, tâm hồi hướng kia cũng bất khả đắc, hồi hướng bậc kia luật nghi thân ngữ cũng bất khả đắc. Đại Bồ-tát ấy an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ-đề. Trong thời gian ấy tự lìa sát sanh cho đến tà kiến, cũng khuyến khích người khác lìa bỏ sát sanh cho đến tà kiến, không có tâm trái ngược với pháp, luôn xiển dương việc lìa bỏ sát sanh cho đến tà kiến, hoan hỉ khen ngợi người lìa bỏ sát sanh cho đến tà kiến. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành do tịnh giới này phát sanh không cầu quả Nhị thừaba cõibình đẳng cho hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả tịnh giới Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sanh nhẫn tùy thuận. Đã đắc được nhẫn này rồi luôn nghĩ như vầy: Trong tất cả pháp không có một pháp nào là khởi hay diệt; hoặc sanh, lão, bệnh, tử, hoặc người mắng, người bị mắng, người phỉ báng, người bị phỉ báng, người cắt, xẻ đâm, đánh, trói, xúc não gia hại, hoặc bị cắt xẻ, đâm, đánh, trói. Tất cả tánh tướng này đều là Không, trong đó không nên vọng tưởng phân biệt. Đại Bồ-tát ấy đắc nhẫn này nên từ khi mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ-đề, trong thời gian này giả sử tất cả loài hữu tình đều đến mắng chửi hủy báng, mạ nhục, lấy đao trượng, gạch ngói đá làm tổn hại đánh đập cắt xẻo, cho đến phân chẻ thân ra từng khúc, nhưng tâm Bồ-tát lúc ấy không biến đổi, chỉ nghĩ: Thật kỳ lạ thay! Trong tánh của các pháp hoàn toàn không có những việc hủy báng chửi mắng, mạ nhục, làm hại nhưng do hữu tình vọng tưởng phân biệt cho là thật có, nên tạo ra nghiệp ác phiền não, đời hiện tại, đương lai chịu các khổ não. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả an nhẫn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa dõng mãnh tinh tấn giảng nói chánh pháp cho các hữu tình, để họ trụ vào bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hoặc khiến họ trụ vào bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Hoặc khiến an trụ vào các công đức khác. Đại Bồ-tát ấy thành tựu những phương tiện thiện xảo, thân tâm tinh tấn dùng sức thần thông đi đến chỗ các hữu tìnhmột thế giới, hoặc mười, một trăm cho đến vô lượng, vô biên thế giới, để giảng nói chánh pháp, dùng phương tiện giáo hóa khiến họ trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Hoặc khiến họ an trụ vào Độc giác Bồ-đề, hoặc khiến họ chứng đắc trí nhất thiết trí. Đại Bồ-tát ấy mặc dù làm việc này nhưng không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi. Lại đem căn lành tinh tấn này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngoài định của chư Phật ra, đối với thắng định của tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát đều tự do xuất nhập tùy ý. Đại Bồ-tát ấy an trụ vào thắng định tự tại của Bồ-tát, đối với tám giải thoát đều có thể tự tại mà xuất nhập thuận nghịch. Nghĩa là có sắc quán các sắc giải thoát cho đến Diệt tưởng thọ giải thoát. Đại Bồ-tát ấy lại đối với chín định thứ đệ hoặc nghịch hoặc thuận đều vào ra tự tại, đó là bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, định Diệt tưởng thọ. Đối với tám giải thoát, chín định thứ đệ, Đại Bồ-tát ấy thuận nghịch xuất nhập đã thành thục hoàn toàn rồi có thể vào Sư tử tần thân Tam-ma-địa của Đại Bồ-tát.

Thế nào gọi là Sư tử tần thân Tam-ma-địa của Đại Bồ-tát?

Nghĩa là Đại Bồ-tát lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỉ lạc nhập vào sơ tịnh lự, tuần tự cho đến vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào định Diệt tưởng thọ. Lại ra khỏi định Diệt tưởng thọ vào lại định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tuần tự cho đến nhập vào sơ tịnh lự. Đó là Sư tử tần thân Tam-ma-địa của Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát ấy đối với Sư tử tần thân Tam-ma-địa đã thành thục hoàn hảo rồi, lại nhập vào Tập tán Tam-ma-địa của Đại Bồ-tát.

Thế nào gọi là Tập tán Tam-ma-địa của Đại Bồ-tát?

Nghĩa là Đại Bồ-tát lìa pháp dục, ác, bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc nhập vào sơ tịnh lự.

Ra khỏi sơ tịnh lự tuần tự cho đến nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào sơ tịnh lự.

Ra khỏi sơ tịnh lự nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào tịnh lự thứ hai.

Ra khỏi tịnh lự thứ hai nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào tịnh lự thứ ba.

Ra khỏi tịnh lự thứ ba nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào tịnh lự thứ tư.

Ra khỏi tịnh lự thứ tư nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào định Không vô biên xứ.

Ra khỏi định Không vô biên xứ nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào định Thức vô biên xứ.

Ra khỏi định Thức vô biên xứ nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào định Vô sở hữu xứ.

Ra khỏi định Vô sở hữu xứ nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ nhập vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Ra khỏi định Phi tưởng phi phi tưởng xứ nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ lại nhập vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Ra khỏi định Phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định trở lại nhập vào định Diệt tưởng thọ.

Ra khỏi định Diệt tưởng thọ trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định nhập vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Ra khỏi định Phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định nhập vào định Vô sở hữu xứ.

Ra khỏi định vô sở hữu trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định nhập vào định Thức vô biên xứ.

Ra khỏi định Thức vô biên xứ trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định nhập vào định Không vô biên xứ.

Ra khỏi định Không vô biên xứ trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định nhập vào tịnh lự thứ tư.

Ra khỏi tịnh lự thứ tư trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định nhập vào tịnh lự tứ ba.

Ra khỏi tịnh lự thứ ba trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định nhập vào tịnh lự thứ hai.

Ra khỏi tịnh lự thứ hai trụ vào tâm bất định.

Từ tâm bất định nhập vào sơ tịnh lự.

Ra khỏi sơ tịnh lự trụ vào tâm bất định.

Đó là Tập tán Tam-ma-địa của Đại Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát an trụ vào Tập tán Tam-ma-địa như vậy thì đắc thật tánh bình đẳng của tất cả pháp. Đại Bồ-tát ấy lại đem căn lành tịnh lự này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện. Khi hồi hướng đại Bồ-đề như vậy phải xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng về đâu, lấy gì hồi hướng? Đó là Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa gồm cả tịnh lự Ba-la-mật-đa.

Quyển thứ 523
HẾT

02

 

 

 

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã trải qua bao nhiêu thời gian?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã trải qua vô số trăm ngàn triệu ức kiếp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, đã từng gần gũi cúng dường bao nhiêu đức Phật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đã từng gần gũi cúng dường hằng hà sa chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, đã trồng những căn lành vi diệu gì?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ lúc phát tâm đến nay, không có căn lành nào xuất phát từ bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa mà không siêng năng tinh tấn tu hành viên mãn. Nhờ đó mà thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo được như vậy rất là hi hữu.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Các Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo được như vậy rất là hi hữu.

Thiện Hiện nên biết! Giống như mặt trời, mặt trăng vận chuyển chiếu sáng khắp bốn đại châu thế giới để làm các sự nghiệp. Tất cả các loài hữu tình, vô tình theo thế lực của ánh sáng ấy mà di chuyểnthành tựu việc của mình. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa chiếu sáng năm Ba-la-mật-đa khác để làm các sự nghiệp. Năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v… theo thế lực của Bát-nhã ba-la-mật-đadi chuyển thành tựu việc của mình.

Thiện Hiện nên biết! Năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì nên mới gọi là Ba-la-mật-đa. Giống như Chuyển luân vương, nếu khôngbảy báu thì chẳng gọi là Chuyển luân vương, cần phải đầy đủ bảy báu mới gọi là Chuyển luân vương. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v..., nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa, phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì mới được gọi là Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Ví như có người nữ xinh đẹp giàu có, nếu không được chồng mạnh khoẻ bảo vệ thì dễ bị người xấu lăng nhục. Nếu cô ta được chồng bảo vệ thì không bị người xấu lăng nhục. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v..., nếu khôngBát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì thì dễ bị thiên maquyến thuộc của chúng phá hoại, ngăn cản. Nếu được Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì thì tất cả thiên maquyến thuộc của chúng không thể nào phá hoạingăn cản được.

Thiện Hiện nên biết! Ví như quân tướng dũng mãnh, giỏi binh pháp, khéo chuẩn bị những loại áo giáp, đao, gậy kiên cố, thì oán địch nước bên cạnh không thể nào xâm lăng được. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... nếu không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì quyến thuộc thiên ma, kẻ tăng thượng mạn, cho đến những Bồ-tát thuộc Chiên-đà-la không thể nào phá hoại được.

Thiện Hiện nên biết! Ví như các vua nhỏ trong châu Thiệm-bộ, tùy thời đến triều kiến Chuyển luân thánh vương. Họ nương nhờ vào Chuyển luân thánh vương để được ở chỗ cao tột. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... theo hộ trợ Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhờ thế lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa hướng dẫn nên mau hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Ví như các con sông ở phía Đông châu Thiệm-bộ đều chảy về sông Hằng, từ sông Hằng chảy vào biển lớn. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... đều được Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì nên có thể đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Ví như tay phải của người có thể làm ra mọi việc. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể làm ra tất cả pháp thiện thù thắng.

Thiện Hiện nên biết! Ví như tay trái của người làm việc không thuận tiện. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa trước không thể phát sanh pháp thiện thù thắng.

Thiện Hiện nên biết! Ví như các giòng nuớc, bất cứ lớn nhỏ, nếu chảy vào biển lớn đều cùng một vị mặn. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa đều chứng đắc trí nhất thiết trí. Nhờ sự chứng đắc này nên gọi là đến bờ bên kia.

Thiện Hiện nên biết! Ví như Chuyển luân vương đi đến đâu đều có bốn bộ quân đi theo, có bánh xe báu ở trước dẫn đầu. Nếu vua và bốn bộ quân nghĩ đến ăn uống thì bánh xe báu liền dừng lại. Sau khi ăn uống xong, vua nghĩ muốn khởi hành thì bánh xe liền đi trước. Bánh xe ấy đi hay dừng đều theo ý muốn của vua. Khi đến nơi, bánh xe ấy không đi trước nữa. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v..., cùng các pháp lành muốn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa dẫn đầu, tiến hay dừng song hành không bao giờ lìa bỏ nhau. Khi đến quả vị Phật mới không đi trước.

Thiện Hiện nên biết! Ví như Chuyển luân vương đầy đủ bảy báu, muốn đến đâu bốn bộ quân bảy báu đều đi theo. Bấy giờ, tuy bánh xe báu đi đầu tiên nhưng nó không phân biệt tướng trước sau. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa trước cùng với pháp lành muốn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhất định để Bát-nhã ba-la-mật-đa dẫn đầu. Nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này không nghĩ như vầy: Ta dẫn đầu năm Ba-la-mật-đa trước và các pháp ấy đi theo ta. Năm Ba-la-mật-đa cũng không nghĩ: Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu ở trước chúng ta, chúng ta đi theo sau. Vì sao? Vì tự tánh của sáu pháp Ba-la-mật-đa và tự tánh các pháp đều chậm lụt, không thể làm gì được cả, không có chủ tể, là hư giả chẳng thật, trống không, không có sở hữu, không có tướng tự tại. Ví như sóng nắng, bóng phản chiếu, trăng dưới nước, sự huyễn hóa, mộng v.v…, trong đó hoàn toàn không có tác dụng phân biệtthể tướng chơn thật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tự tánh của tất cả pháp đều Không, hoàn toàn không có tác dụng phân biệtthể tướng chơn thật thì các Đại Bồ-tát làm sao tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v… để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa, thường nghĩ: Hữu tìnhthế gian, tâm luôn luôn bị điên đảo, đắm chìm trong khổ sanh tử, không thể tự thoát được. Nếu ta chẳng tu thắng hạnh bằng phương tiện thiện xảo thì không thể cứu vớt khổ sanh tử cho họ. Ta phải vì các loài hữu tình mà siêng năng tu phương tiện thiện xảo về bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, mau hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu vớt đại khổ sanh tử cho các hữu tình.

Sau khi nghĩ vậy, Đại Bồ-tát vì các hữu tình mà xả bỏ tất cả những vật bên trong lẫn bên ngoài. Xả bỏ rồi, lại nghĩ: Đối với những vật này, ta hoàn toàn không có gì để xả bỏ. Vì sao? Vì tự tánh của vật trong lẫn ngoài này đều không, chẳng phải của riêng ta. Nhờ sự quán sát này, Đại Bồ-tát ấy tu hành bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát ấy trọn đời chẳng phạm giới. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ như vầy: Ta vì các hữu tình mà cầu hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, quyết định không nên sát sanh cho đến tà kiến. Cũng nhất định không cầu cảnh diệu dục và lạc thú của chư Thiên, cũng nhất định không cầu địa vị Nhị thừa, chỉ tự mình giải thoát. Nhờ sự quán sát này, Đại Bồ-tát ấy tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát ấy không tức giận các hữu tình. Giả sử luôn bị người hủy báng, lăng nhục, cắt xẻ thân ra từng mảnh, chịu nhiều khổ não, cũng không có một tâm niệm ác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy quan sát tất cả âm thanh như tiếng vọng trong hang, sắc như chùm bọt nước, nên không sân giận. Nhờ sự quán sát này, Đại Bồ-tát ấy tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình mà siêng năng cầu pháp lành, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong thời gian ấy, không bao giờ giải đãi. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ: Nếu ta giải đãi thì không thể cứu vớt tất cả hữu tình xa lìa khổ lớn sanh tử, cũng không thể nào đắc trí nhất thiết trí. Nhờ sự quán sát này, Đại Bồ-tát ấy tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình nên siêng năng tinh tấn tu thắng định, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bao giờ có tâm loạn động, tham, sân, si v.v... Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ: Nếu ta có tâm loạn động, tham, sân, si thì không thể thành tựu việc làm lợi ích cho mọi người, cũng không thể chứng quả vị Phật. Nhờ sự quán sát này, Đại Bồ-tát ấy tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến khi đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, luôn siêng năng tinh tấn tu học thắng tuệ vi diệu. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ: Nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ta không thể thành thục các hữu tình, cũng không thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhờ sự quán sát này, Đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Do nhân duyên này, mặc dù tự tánh của tất cả pháp đều Không, hoàn toàn không có tác dụng, thể tướng chơn thật, nhưng các Đại Bồ-tát siêng năng tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa thì cũng chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sáu pháp Ba-la-mật-đa này, tánh không khác nhau. Tất cả đều được Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì thì tại sao nói Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với năm Ba-la-mật-đa là tối thắng, là tôn quí, là vi diệu, là vô thượng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Sáu pháp Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v… tánh không khác nhau, tất cả đều được Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì. Nếu khôngBát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì thì năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v… không được gọi là Ba-la-mật-đa, phải nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v… mới được gọi là Ba-la-mật-đa,

Thiện Hiện nên biết! Có loài hữu tình mặc dù có những thân thể với màu sắc khác nhau, nhưng đến gần với núi chúa Diệu Cao (Tu-di sơn) thì đều cùng một màu. Như vậy, năm Ba-la-mật-đa trước mặc dù có những phẩm loại khác nhau, nhưng đều được Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì. Tất cả đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đatu hành được thành tựu. Tất cả đều nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thể đưa ra những tên họ sai khác.

Lại nữa, năm Ba-la-mật-đa trước nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, mới được gọi là đến bờ bên kia. Cho nên sáu pháp Ba-la-mật-đa đều đồng một vị, tánh không khác nhau, không thể đưa ra đây là bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì sáu Ba-la-mật-đa đều có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, đều đến bờ bên kia, tánh không khác nhau. Do đó mà sáu pháp Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... không thể đưa ra tên họ khác nhau.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ba-la-mật-đa và tất cả pháp đúng với thật nghĩa thì đều không có sự khác nhau giữa đây kia, hơn kém. Vậy sao nói Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với năm Ba-la-mật-đa là tối là thắng, là tôn quí, là vi diệu, là vô thượng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Nếu theo thật nghĩa Ba-la-mật-đa và tất cả pháp đều không khác nhau giữa đây kia, hơn kém thì đây chỉ căn cứ vào sự tác dụng của thế tục mà nói có sự khác nhau giữa đây kia, hơn kém và đưa ra có bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì muốn độ thoát các loài hữu tình, nên nói về tác dụng của thế tục là sanh, lão, bệnh, tử. Nhưng sanh, lão, bệnh, tử của các loài hữu tình đều chẳng thật có, chỉ là giả lập mà thôi. Vì sao? Vì hữu tình không biết các pháp đều vô sở hữu. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thông đạt tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, nên có thể cứu vớt tác dụng thế tục sanh, lão, bệnh, tử của các hữu tình. Do đây nên nói đối với năm Ba-la-mật-đa thì Bát-nhã ba-la-mật-đa là rất tối thắng, tôn quí, vi diệu, vô thượng.

Thiện Hiện nên biết! Ví như Chuyển luân vương có nữ báu, đối với loài người thì nữ báu ấy rất tối thắng, tôn quí, vi diệu, vô thượng. Cũng vậy, đối với năm Ba-la-mật-đa thì Bát-nhã ba-la-mật-đa rất tối thắng, tôn quí, vi diệu, vô thượng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai luôn khen nói: Đối với năm Ba-la-mật-đa thì Bát-nhã ba-la-mật-đa rất tối thắng, tôn quí, vi diệu, vô thượng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này hộ trì tất cả pháp lành, hòa hợp nhập vào trí nhất thiết trí, an trụ bất động, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa có nắm lấy, xả bỏ các pháp lành không?

Phật dạy:

- Không! Đối với tất cả pháp, Bát-nhã ba-la-mật-đa không nắm bắt, không xả bỏ. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn không nắm bắt, không xả bỏ.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa không nắm bắt, không xả bỏ những pháp nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa không nắm bắt, không xả bỏ sắc cho đến trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa không nắm bắt, không xả bỏ sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí. Cho nên không nắm bắt, không xả bỏ sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này đối với sắc cho đến trí nhất thiết trí không tư duy tất cả tướng, cũng không tư duy về tất cả sở duyên. Cho nên không tư duy về tất cả sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí thì làm sao tăng trưởng sự gieo căn lành? Nếu căn lành chẳng tăng trưởng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu không viên mãn Ba-la-mật-đa thì làm sao chứng đắc trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát ấy có thể làm tăng trưởng sự gieo trồng căn lành. Vì căn lành đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa. Vì Ba-la-mật-đa được viên mãn, nên liền chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí thì mới có thể tu đầy đủ các hạnh của Đại Bồ-tát và chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ hiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí mới có thể tu đầy đủ các hạnh của Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nếu tư duy sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí thì có sở đắc. Vì có sở đắc nên bị vướng vào ba cõi. Nếu vướng vào ba cõi thì không thể tu đầy đủ các hạnh của Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát không tư duy về sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí thì không có sở đắc. Vì không có sở đắc nên không bị vướng vào ba cõi. Vì không bị vướng vào ba cõi nên tu đầy đủ các hạnh của Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu đầy đủ các hạnh của Đại Bồ-tát và mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì phải siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, không nên tư duy đắm nhiễm vào các pháp

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát muốn siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu phải trụ vào đâu?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì không nên trụ vào sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì mà các Đại Bồ-tát muốn siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không nên trụ vào sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì không nên chấp trước vào tất cả pháp, không nên trụ vào sắc, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy không thấy có pháp nào để chấp trước và để an trụ.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát lấy không nhiễm trước và không an trụ để làm phương tiện thì có thể siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: Không chấp trước, không an trụ mà siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì đó là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu ta không chấp trước, không an trụ, siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, đó là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy nếu nghĩ chấp tướng, tức xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đaxa lìa bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không chấp trước đối với tất cả pháp. Chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có sự chấp trước và tánh chấp trước. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không có tự tánh để chấp trước các pháp.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đối với tất cả pháp và Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều không chấp trước.

Thiện Hiện nên biết! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tưởng như vầy: Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa, ta thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, tức là hành hết thảy thật tướng của tất cả pháp. Do tưởng như vậy nên Đại Bồ-tát liền thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là thối lui bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâucăn bản của tất cả pháp trắng. Nếu thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa là thối lui tất cả pháp trắng.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này bao gồm bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát ấy làm thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không thể hộ trì bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể giữ gìn hết thảy pháp phần Bồ-đề và có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: An trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nhất định được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do nghĩ như vậy, Đại Bồ-tát ấy đã làm thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nghĩ: An trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể phát sanh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến phát sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Do nghĩ như vậy, Đại Bồ-tát ấy liền thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không thể phát sanh bố thí Ba-la-mật-đa cho đến không thể phát sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vì sao? Vì không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể phát sanh an trụ thắng pháp.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát suy nghĩ: Phật biết các pháp không có tướng chấp giữ, nên tự chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chứng Bồ-đề rồi giảng nói khai thị thật tướng các pháp cho các hữu tình. Do nghĩ như vậy, Đại Bồ-tát ấy làm thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Vì sao? Vì đối với pháp, Như Lai không biết, không hay, không nói, không chỉ dạy. Vì sao? Vì thật tánh của các pháp không thể nào hay, biết, không thể đưa ra, thì làm sao có người hay, biết, chỉ dạy tất cả pháp. Nếu nói thật sự có người hay, biết, chỉ dạy tất cả pháp thì không có điều đó.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu làm thế nào để xa lìa các sai lầm đó?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nghĩ như vầy: Tất cả pháp đều vô sở hữu nên không thể chấp thủ. Nếu các pháp đều vô sở hữu nên không thể chấp thủ thì cũng không có người đang chứng Đẳng giác, cũng không có sự giảng nói, chỉ dạy. Nếu hành được như vậy, tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, lìa bỏ các lỗi lầm. Nếu Đại Bồ-tát chấp pháp vô sở hữu, không thể chấp thủ, tức là lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không chấp trước, không hộ trì tất cả pháp. Nếu có chấp trước, có hộ trì các pháp tức là lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đaviễn ly hay không viễn ly? Cho đến bố thí Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa là viễn ly hay không viễn ly? Nói rộng cho đến trí nhất thiết trí đối với trí nhất thiết tríviễn ly hay không viễn ly?

Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa dầu viễn ly hay không viễn ly thì làm thế nào Đại Bồ-tát không chấp trước để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa? Cho đến bố thí Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa dầu viễn ly hay không viễn ly thì làm thế nào Đại Bồ-tát không chấp trước để phát sanh bố thí Ba-la-mật-đa? Nói rộng cho đến trí nhất thiết trí đối với trí nhất thiết trí dầu viễn ly hay không viễn ly thì làm thế nào Đại Bồ-tát ấy không chấp trước để phát sanh trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng viễn ly, chẳng phải không viễn ly, cho nên Đại Bồ-tát không chấp trước để phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Như vậy, cho đến bố thí Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa chẳng viễn ly, chẳng phải không viễn ly. Cho nên, Đại Bồ-tát không chấp trước để phát sanh bố thí Ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến trí nhất thiết trí đối với trí nhất thiết trí chẳng viễn ly, chẳng phải không viễn ly. Cho nên, Đại Bồ-tát không chấp trước để phát sanh trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì chẳng phải tự tánh, chẳng phải lìa tự tánh mà có thể đưa đến an trụ vào tự tánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không chấp trước sắc, nói đây là sắc, sắc thuộc về cái kia. Nói rộng cho đến không chấp trước trí nhất thiết trí, nói đây là trí nhất thiết trí, trí nhất thiết trí này thuộc về cái kia. Vì Đại Bồ-tát không chấp trước tất cả pháp ấy nên có thể phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến có thể phát sanh trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâuchấp trước vào các pháp, nói đây là pháp, pháp này thuộc về cái kia, thì không thể tùy ý phát sanh an trụ vào công đức thù thắng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, không quán sắc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là viễn ly hay không viễn ly. Cho đến không quán trí nhất thiết tríthường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là viễn ly hay không viễn ly. Đại Bồ-tát ấy không quán tất cả pháp như vậy thì có thể phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến có thể phát sanh trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu quán sát các pháp là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là viễn ly hay không viễn ly, thì không thể phát sanh, an trụ vào công đức thù thắng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tức là hành bố thí Ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến cũng tu hành trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đi chỗ nào thì tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề đều đi theo. Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đến đâu thì tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác cũng đến đó. Giống như Chuyển luân vương đi đâu thì đều có bốn bộ quân dũng mãnh tùy tùng. Nếu Chuyển luân vương đến đâu thì đều có bốn bộ quân dũng mãnh theo đến. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu cũng như vậy, đi đâu, đến đâu thì năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... và các pháp phần Bồ-đề khác đều đi theo, hoàn toàn đạt đến trí nhất thiết trí. Giống như người điều phục giỏi, điều phục xe tứ mã tránh xa đường hiểm, đi vào đường chánh, đều theo ý muốn mà đi đến nơi đến chốn. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này điều phục rất giỏi về tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, để tránh xa con đường nguy hiểm sanh tử Niết-bàn, mà đi trên con đường chân chánh, tự lợi, lợi tha để đạt đến trí nhất thiết trí đã cầu.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm sao biết được đạo hay phi đạo?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đạo của Thanh văn, Độc giác, đạo của phàm phu chẳng phải là đạo của Đại Bồ-tát, vì nương vào đó không thể đến trí nhất thiết trí. Nên Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu phát sanh tất cả pháp phần Bồ-đề. Đạo của Đại Bồ-tát ấy dựa vào đây, nhất định đạt đến trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu xuất hiện trên thế gian là một đại sự. Gọi đó là thị hiện tướng đạo, phi đạo của chúng Đại Bồ-tát, để các Đại Bồ-tát ấy biết đạo hay phi đạo mà mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu xuất hiện trên thế gian là một đại sự. Gọi đó là thị hiện tướng đạo, phi đạo của các Đại Bồ-tát, để các Đại Bồ-tát ấy biết đạo hay phi đạo mà mau chóng chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu xuất hiện ra đời là một việc lớn. Nghĩa là độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình để đạt được lợi ích an lạc thù thắng.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mặc dù làm ra vô lượng việc lợi lạc cho người, nhưng không chấp thủ vào đó.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mặc dù thị hiện làm sự nghiệp nhưng không chấp lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không chấp lấy trí nhất thiết trí. Cũng lại không chấp lấy những sự nghiệp của Thanh văn, Độc giác làm ra.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu mặc dù dẫn đầu tất cả chúng Đại Bồ-tát để hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, nhưng đối với các pháp thì không sanh, không diệt, vì lấy tánh của pháp trụ làm định lượng.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đối với tất cả pháp không sanh, không diệt. Vậy thì tại sao khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu vì các hữu tình phải hành bố thí, giữ tịnh giới, chịu an nhẫn, siêng năng tinh tấn, nhập tịnh lự, tu Bát-nhã?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình nên hành bố thí, giữ tịnh giới, chịu an nhẫn, siêng năng tinh tấn, nhập tịnh lự, tu Bát-nhã. Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này bình đẳng cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát ấy đem căn lành này hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tức là tu sáu pháp Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, cũng tu từ, bi, hỉ, xả của Bồ-tát mau được viên mãn. Nhờ vậy, mau đắc trí nhất thiết trí, cho đến ngồi tòa Bồ-đề không bao giờ xa lìa sáu pháp Ba-la-mật-đa tức là không xa lìa trí nhất thiết trí.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí thì phải siêng năng tinh tấn tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa, phải siêng năng tinh tấn tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy, thì tất cả căn lành mau được viên mãn, mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát luôn luôn tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa không được tạm rời.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để Đại Bồ-tát luôn luôn tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa không được tạm rời?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật quán sắc chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng, như thật quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Nói rộng cho đến như thật quán trí nhất thiết trí chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Đại Bồ-tát ấy luôn tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa không bao giờ tạm rời.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ: Ta không nên trụ vào sắc, cũng không nên trụ vào phi sắc. Nói rộng cho đến ta không nên trụ vào trí nhất thiết trí, cũng không nên trụ vào phi trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì sắc chẳng phải trụ, chẳng phải được trụ. Nói rộng cho đến trí nhất thiết trí cũng chẳng phải trụ, chẳng phải được trụ. Đại Bồ-tát ấy luôn tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa không bao giờ tạm rời.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát dùng phương tiện vô trụ ấy tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Như người muốn ăn quả xoài, quả na, trước tiên phải lấy hạt của nó trồng ở ruộng đất tốt, theo thời gian chăm bón, săn sóc, sửa sang, lần lần nó phát triển mầm chồi, thân, cành, lá. Gặp thời tiết hòa hợp nó trổ hoa, kết trái. Sau khi quả chín, hái ăn.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trước tiên phải học sáu pháp Ba-la-mật-đa. Lại đem bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để giúp đỡ các hữu tình. Giúp đỡ họ rồi, dạy bảo họ an trụ vào bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, khiến họ an trụ vào pháp phần Bồ-đề như bốn niệm trụ v.v… Sau khi an trụ, được giải thoát tất cả khổ lớn sanh tử, chứng đắc an lạc thường trụ tịch tĩnh. Bồ-tát ấy sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đến tận đời vị lai luôn làm lợi ích cho tất cả.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với các pháp không muốn nhờ vào duyên khác mà là tự khai ngộ, muốn thành thục các hữu tình, muốn trang nghiêm thanh tịnh được cõi Phật, muốn an ổn ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, muốn chinh phục ác ma, muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí, muốn chuyển pháp luân độ chúng hữu tình thì nên học sáu pháp Ba-la-mật-đa, dùng bốn nhiếp pháp làm phương tiện để hộ trì các loài hữu tình, giúp họ giải thoát các khổ sanh tử. Khi Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học như vậy thì nên luôn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phật dạy Bồ-tát nên siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa ư?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Ta nói Bồ-tát nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp muốn được tự tại thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có đầy đủ oai lực lớn, có thể làm cho các Đại Bồ-tát được tự tại đối với tất cả pháp.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là cửa mà các pháp lành hướng đến. Ví như biển lớn là cửa của tất cả dòng nước chảy về.

Cho nên, này Thiện Hiện! Hoặc thiện nam Thanh văn thừa, hoặc thiện nam Độc giác thừa, hoặc thiện nam Bồ-tát thừa, đều phải siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này.

Thiện Hiện nên biết! Khi các Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này thì cũng phải siêng năng tinh tấn tu học bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cho đến siêng năng tinh tấn tu học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Ví như người bắn giỏi, mặc áo giáp kiên cố, cầm cung tên tốt không sợ kẻ thù. Cũng vậy, các Đại Bồ-tát giữ gìn phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí, làm cho quân ma, ngoại đạo và những luận phái khác không thể nào thắng được.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân độ chúng hữu tình thì phải siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì được chư Phật Thế Tônquá khứ, vị lai, hiện tại luôn luôn hộ niệm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, tức là tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí, nên được chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát ấy tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí như thế nào để được chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Khi Đại Bồ-tát ấy tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí; quán bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí đều bất khả đắc, nên được chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại cùng hộ niệm.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại mặc dù thường hộ niệm Đại Bồ-tát ấy nhưng không lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí để phát sanh hộ niệm, vì sắc cho đến trí nhất thiết trí bất khả đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát mặc dù nhiều học xứ nhưng không có học xứ.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Các Đại Bồ-tát mặc dù nhiều học xứ nhưng không có học xứ. Vì sao? Vì thật sự không có pháp nào để chúng Đại Bồ-tát tu học.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Phật giảng nói pháp tóm lược hay sâu rộng tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa cho chúng Đại Bồ-tát? Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân độ chúng hữu tình, đối với pháp tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa này, dù tóm lược hay sâu rộng, phải đều lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, để được thông suốt. Thông suốt rồi tư duy đúng lý. Sau khi tư duy phải quán sát rõ ràng, đúng đắn. Quán sát làm cho tâm và tâm sở đối với tướng sở duyên đều không bị lay động.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông đã nói.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với các pháp tương ưng với sáu Ba-la-mật-đa mà Phật Thế Tôn đã nói dù tóm lược hay sâu rộng, các Đại Bồ-tát đều phải siêng năng tu học, phải như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát làm thế nào để như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật biết rõ tướng chơn như của sắc, như thật biết rõ tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến như thật biết rõ tướng chơn như của trí nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của sắc? Thế nào là tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức? Nói rộng cho đến thế nào là tướng chơn như của trí nhất thiết trí để các Đại Bồ-tát như thật biết rõ mà học, như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Chơn như của sắc không sanh, không diệt, không trụ, cũng không thay đổi nhưng mà có thể thành lập, đó gọi là tướng chơn như của sắc.

Chơn như của thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh, không diệt, không trụ, cũng không thay đổi nhưng có thể thành lập, đó gọi là tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức.

Nói rộng cho đến chơn như của trí nhất thiết trí không sanh, không diệt, không trụ, cũng không thay đổi nhưng có thể thành lập, đó gọi là tướng chơn như của trí nhất thiết trí.

Các Đại Bồ-tát nên như thật biết rõ để học, phải như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật biết rõ tướng thật tế của sắc, như thật biết rõ tướng thật tế của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến như thật biết rõ tướng thật tế của trí nhất thiết trí. Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp như vậy.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của sắc? Thế nào là tướng thật tế của thọ, tưởng, hành, thức? Nói rộng cho đến thế nào là tướng thật tế của trí nhất thiết trí để các Đại Bồ-tát như thật biết rõ mà tu học, để như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không có biên giới của sắc, gọi là tướng thật tế sắc.

Không có biên giới của thọ, tưởng, hành, thức, gọi là tướng thật tế thọ, tưởng, hành, thức.

Nói rộng cho đến không có biên giới của trí nhất thiết trí, gọi là tướng thật tế trí nhất thiết trí.

Các Đại Bồ-tát như thật biết rõ để học, như thật biết rõ về tướng rộng hẹp của các pháp.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát như thật biết rõ tướng pháp giới của sắc, như thật biết rõ tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến như thật biết rõ tướng pháp giới của trí nhất thiết trí. Đại Bồ-tát ấy như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của sắc? Thế nào là tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức? Nói rộng cho đến thế nào là tướng pháp giới của trí nhất thiết trí để các Đại Bồ-tát như thật biết rõ mà học, để như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Sắc như hư không, không chướng ngại, không sanh, không diệt, không gián đoạn không liên tục nhưng không thành lập, gọi đó là tướng pháp giới của sắc.

Thọ, tưởng, hành, thức như hư không, không chướng ngại, không sanh, không diệt, không gián đoạn không liên tục mà có thể thành lập, gọi đó là tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức.

Nói rộng cho đến trí nhất thiết trí như hư không, không chướng ngại, không sanh, không diệt, không gián đoạn, không liên tục có thể thành lập, gọi đó là tướng pháp giới của trí nhất thiết trí.

Các Đại Bồ-tát như thật biết rõ để học, như thật biết rõ tướng rộng hẹp của các pháp.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm thế nào để biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát như thật biết rõ về tất cả pháp không hợp, không tan thì Đại Bồ-tát ấy sẽ biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp không hợp, không tan là những pháp nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Sắc không hợp, không tan; thọ, tưởng, hành, thức không hợp, không tan.

Nói rộng cho đến trí nhất thiết trí không hợp, không tan.

Tham dục, sân giận, ngu si không hợp, không tan.

Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới không hợp, không tan.

Cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi không hợp, không tan.

Vì sao? Vì các pháp ấy không có tự tánh. Nếu khôngtự tánh thì không sở hữu. Nếu không sở hữu thì không thể nói có hợp có tan.

Các Đại Bồ-tát biết rõ tất cả pháp như vậy thì biết rõ tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Quyển thứ 524
HẾT

 

03

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa được thâu nhiếp tóm lược. Các Đại Bồ-tát học trong đó có thể làm được nhiều việc. Bát-nhã ba-la-mật-đa được thâu nhiếp tóm lược như vậy, chúng tân học Bồ-tát cần nên học, cho đến Đại Bồ-tát trụ địa thứ mười cũng phải siêng năng tinh tấn tu học. Nếu Đại Bồ-tát luôn siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa được thâu nhiếp tóm lược như vậy thì có thể như thật biết tướng rộng hẹp của tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâu nhiếp tóm lược là pháp môn vi diệu, chỉ có chúng Đại Bồ-tát lợi căn mới có thể ngộ nhập được.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Pháp môn ấy, hàng Đại Bồ-tát căn lanh lợi, căn trung bình, căn ám độn v.v… đều có thể ngộ nhập pháp môn ấy không bị chướng ngại. Các Đại Bồ-tát căn định hay không định, nếu chuyên tâm tu học thì cũng đều ngộ nhập.

Thiện Hiện nên biết! Pháp môn ấy rất vi diệu thanh tịnh. Những người biếng nhác, ít tinh tấn, mất chánh niệm, tâm tán loạn, tu tập ác tuệ thì không thể ngộ nhập được. Còn những ai không giải đãi, luôn tinh tấn, đầy đủ chánh niệm, khéo nhiếp tâm, tu tập diệu tuệ mới có thể ngộ nhập.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn trụ vào hàng Bồ-tát Bất thối chuyển, lần lượt đến địa thứ mười thì phải siêng năng phương tiện nhập vào pháp môn này. Nếu Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí, phải siêng năng phương tiện nhập vào pháp môn này.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát theo học những gì đã nói trong kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì Đại Bồ-tát đó có thể học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cũng có thể học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Cũng có thể học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cũng có thể học Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo. Cũng có thể học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Cũng có thể học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng có thể học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Cũng có thể học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng có thể học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Cũng có thể học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Cũng có thể học năm loại mắt, sáu phép thần thông. Cũng có thể học mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng có thể học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Cũng có thể học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng có thể học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cũng có thể học tất cả hạnh của Đại Bồ-tát. Cũng có thể học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Cũng có thể học trí nhất thiết trí. Sau khi Đại Bồ-tát ấy đã học như vậy rồi có thể chứng đắc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát học theo những gì đã nói trong kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì tất cả ma sự Đại Bồ-tát ấy đều giác tri, nên vừa sanh khởi liền diệt ngay.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn mau diệt trừ tất cả nghiệp chướng, muốn gìn giữ phương tiện thiện xảo thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Có lúc Đại Bồ-tát siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa thì lúc ấy Đại Bồ-tát liền được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại đang nói chánh phápvô lượng, vô biên thế giới cùng hộ niệm. Vì sao? Vì chư Phật ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà sanh ra.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên nghĩ như vầy: Pháp mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc, ta cũng sẽ chứng đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát phải siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát không nên xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tùy thuận tu hành, dù trong khảy móng tay, thì Đại Bồ-tát ấy đạt được phước đức rất nhiều. Giả sử có người dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa tất cả hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều khiến họ an trụ vào bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; hoặc khiến họ an trụ vào thanh tịnh giải thoát, giải thoát trí kiến; hoặc khiến họ an trụ vào quả Dự lưu cho đến A-la-hán, hoặc khiến họ an trụ vào Độc giác Bồ-đề. Người ấy mặc dù được phước đức nhiều vô lượng, nhưng vẫn không bằng phước đức của người tùy thuận tu hành kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chỉ trong khảy móng tay. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; có thể sanh tất cả thanh tịnh giải thoát, giải thoát trí kiến; có thể sanh tất cả quả Dự lưu cho đến A-la-hán, có thể sanh tất cả Độc giác Bồ-đề. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà được xuất hiện, độ thoát vô lượng, vô biên hữu tình.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trong chừng chốc lát, hoặc trải qua nửa ngày, một ngày, nửa tháng, một tháng, một mùa, một năm, trăm năm, một kiếp, trăm kiếp, cho đến vô số đại kiếp, thì phước đức Đại Bồ-tát ấy đạt được nhiều hơn phước đức của người giáo hóa các loài hữu tình trong hằng hà sa thế giới khắp mười phương, khiến họ an trụ vào bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; hoặc khiến họ an trụ vào thanh tịnh giải thoát, giải thoát trí kiến; khiến họ an trụ vào quả Dự lưu cho đến A-la-hán; khiến họ an trụ vào Độc giác Bồ-đề đạt được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sanh ra tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại, vì các hữu tình đưa ra bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không điên đảo; đưa ra sự thanh tịnh giải thoát, giải thoát trí kiến không điên đảo; đưa ra quả Dự lưu cho đến A-la-hán không điên đảo, đưa ra quả Độc giác Bồ-đề không điên đảo, đưa ra quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không điên đảo, phước đức này hơn hẳn phước kia.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát trụ sống theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói, thì nên biết, Đại Bồ-tát ấy đã trụ vào địa vị Bất thối chuyển, thường được chư Phật hộ niệm, thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng. Vị ấy đã từng gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen vô lượng triệu ức Phật. Đã gieo trồng vô lượng căn lành thắng diệu đối với chư Phật. Đã được vô lượng thiện hữu chơn tịnh bảo vệ. Từ lâu đã tu tập sáu pháp Ba-la-mật-đa như bố thí v.v…, nói rộng cho đến trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy trụ vào địa vị Đồng chơn, tất cả sự nguyện cầu đều được viên mãn, luôn gặp chư Phật không bao giờ tạm rời, không bao giờ xa lìa các căn lành, luôn thành thục các hữu tình, thường trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác luôn cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, nghe và thọ trì tu hành giáo pháp của Bồ-tát thừa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đã đắc vô đoạn vô tận biện tài, đã đắc pháp môn Đà-la-ni thù thắng, thành tựu sắc thân vi diệu tối thượng. Đã được chư Phật thọviên mãn, tùy theo sở thích mà vì các hữu tình thọ các loại thân, đều được tự tại.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khéo nhập sở duyên, khéo nhập hành tướng.

Khéo nhập tất cả môn của chữ, hoặc chẳng phải chữ, khéo nhập pháp nghĩa của hữu ngôn, vô ngôn.

Khéo nhập một, hai và nhiều khái niệm.

Khéo nhập nữ, nam, chẳng phải hai khái niệm.

Khéo nhập các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại.

Khéo nhập các văn, khéo nhập các nghĩa.

Khéo nhập các uẩn, khéo nhập các xứ, khéo nhập các giới.

Khéo nhập duyên khởi và chi duyên khởi.

Khéo nhập thế gian, khéo nhập Niết-bàn.

Khéo nhập tướng pháp giới, khéo nhập tướng hữu vi, khéo nhập tướng vô vi.

Khéo nhập hành tướng, khéo nhập phi hành tướng.

Khéo nhập tướng của tướng, khéo nhập tướng của phi tướng.

Khéo nhập hữu tánh, khéo nhập vô tánh, khéo nhập tự tánh, khéo nhập tha tánh.

Khéo nhập trói buộc, khéo nhập tháo bỏ, khéo nhập trói buộc tháo bỏ.

Khéo nhập tương ưng, khéo nhập không tương ưng.

Khéo nhập tương ưng không tương ưng.

Khéo nhập chơn như, khéo nhập tánh chẳng hư vọng, khéo nhập tánh chẳng đổi khác.

Khéo nhập pháp tánh, khéo nhập pháp giới, khéo nhập pháp định, khéo nhập pháp trụ.

Khéo nhập tánh nhơn, khéo nhập tánh phi nhơn.

Khéo nhập tánh của duyên, khéo nhập tánh phi duyên.

Khéo nhập Thánh đế.

Khéo nhập tịnh lự, khéo nhập vô lượng, khéo nhập vô sắc.

Khéo nhập bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khéo nhập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Khéo nhập pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Khéo nhập tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Khéo nhập tất cả pháp môn Đà-la-ni, khéo nhập tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Khéo nhập năm loại mắt, khéo nhập sáu phép thần thông.

Khéo nhập địa vị Đại Bồ-tát.

Khéo nhập mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Khéo nhập đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Khéo nhập các tướng, khéo nhập tướng tốt.

Khéo nhập pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Khéo nhập trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Khéo nhập cảnh giới hữu vi, khéo nhập cảnh giới vô vi.

Khéo nhập cảnh giới, khéo nhập phi cảnh giới.

Khéo nhập Không, khéo nhập bất Không.

Khéo nhập tác ý sắc cho tác ý đến thức, nói rộng cho đến khéo nhập tác ý trí nhất thiết trí.

Khéo nhập sắc tướng Không cho đến thức tướng Không, nói rộng cho đến khéo nhập trí nhất thiết trí tướng Không.

Khéo nhập đạo khinh an, khéo nhập đạo không khinh an.

Khéo nhập vào sanh, khéo nhập vào diệt, khéo nhập vào trụ, dị.

Khéo nhập chánh kiến, khéo nhập tà kiến.

Khéo nhập kiến, khéo nhập phi kiến.

Khéo nhập tham, sân, si.

Khéo nhập vô tham, vô sân, vô si.

Khéo nhập kiến chấp tùy miên kiết sử, khéo nhập sự đoạn diệt của chúng.

Khéo nhập danh, khéo nhập sắc, khéo nhập danh sắc.

Khéo nhập sở duyên duyên, khéo nhập tăng thượng duyên, khéo nhập nhân duyên, khéo nhập đẳng vô gián duyên.

Khéo nhập hành tướng, khéo nhập nhân quả.

Khéo nhập khổ, tập, diệt, đạo.

Khéo nhập năm đường, khéo nhập đạo của năm đường.

Khéo nhập quả Dự lưu và đạo của quả Dự lưu.

Khéo nhập quả Nhất lai và đạo của quả Nhất lai.

Khéo nhập quả Bất hoàn và đạo của quả Bất hoàn.

Khéo nhập quả A-la-hán và đạo của quả A-la-hán.

Khéo nhập Độc giác Bồ-đề và đạo của Độc giác Bồ-đề.

Khéo nhập quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và đạo của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khéo nhập trí nhất thiết và đạo của trí nhất thiết, khéo nhập trí đạo tướng và đạo của trí đạo tướng, khéo nhập trí nhất thiết tướng và đạo của trí nhất thiết tướng.

Khéo nhập căn và căn viên mãn, khéo nhập căn thắng liệt.

Khéo nhập trí tuệ nhanh chóng, trí tuệ lanh lợi, trí tuệ may mắn, trí tuệ thông đạt, trí tuệ quảng đại, trí tuệ thâm sâu, trí tuệ lớn, trí tuệ không chướng ngại.

Khéo nhập quá khứ, vị lai, hiện tại.

Khéo nhập phương tiện.

Khéo nhập ý lạc, ý lạc tăng thượng.

Khéo nhập văn nghĩa.

Khéo nhập phương tiện an lập của Tam thừa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì đạt được vô lượng, vô biên công đức thù thắng như vậy.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên quán sắc uẩn cho đến thức uẩntịch tĩnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể nó là hư ngụy, không bền chắc, để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nói rộng cho đến nên quán trí nhất thiết trítịch tĩnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể nó là hư ngụy, không bền chắc, để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Ông hỏi các Đại Bồ-tát đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Các Đại Bồ-tát đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như theo hư không của hư không.

Này Thiện Hiện! Ông hỏi các Đại Bồ-tát tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Các Đại Bồ-tát tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như tu hạnh trừ bỏ.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phải mất bao lâu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi tòa Bồ-đề, nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát trụ vào những tâm nào để không gián đoạn việc hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cho đến cứu cánh không dung chứa những tác ý nào khác dù chỉ tạm thời, chỉ luôn luôn an trụ vào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy cho đến khiến tâm và tâm sở pháp không lay chuyển đối với cảnh, mới được gọi là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đi theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành, đi theo, tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có đắc trí nhất thiết trí không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát không hành, không đi theo, không tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có đắc trí nhất thiết trí không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành, đi theo, tu, và không hành, không đi theo, không tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì đắc trí nhất thiết trí không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát không hành, không đi theo, không tu, chẳng phải không hành, không đi theo, không tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì đắc trí nhất thiết trí không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm sao đắc trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đắc trí nhất thiết trí phải như chơn như.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phải như chơn như?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phải như thật tế.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phải như thật tế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phải như pháp giới.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phải như pháp giới?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phải như ngã giới cho đến Bổ-đặc-già-la giới.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phải như ngã giới cho đến Bổ-đặc-già-la giới?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ngã cho đến Bổ-đặc-già-la có thể đắc không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu ngã cho đến Bổ-đặc-già-la đã bất khả đắc, thì làm sao Ta đưa ra cảnh giới ngã cho đến cảnh giới của Bổ-đặc-già-la?

Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không đưa ra Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không đưa ra trí nhất thiết trí, cũng không đưa ra tất cả pháp, thì Đại Bồ-tát ấy nhất định sẽ chứng đắc trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể đưa ra, hay các Ba-la-mật-đa như tịnh lự v.v… cũng không thể đưa ra?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không những Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể đưa ra mà Ba-la-mật-đa như tịnh lự v.v… cũng không thể đưa ra. Hoặc pháp của Thanh văn, pháp của Độc giác, pháp của Bồ-tát, pháp của chư Phật, pháp hữu vi, pháp vô vi v.v… tất cả pháp ấy đều không thể đưa ra.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không thể đưa ra, vậy tại sao đưa ra đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là ngạ quỷ, đây là người, đây là trời, đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn, đây là A-la-hán, đây là Độc giác, đây là Bồ-tát, đây là chư Phật, đây là tất cả pháp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Hữu tình được đưa ra và pháp được đưa ra thật có thể đắc không?

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu hữu tình được đưa ra thật bất khả đắc, thì tại sao Ta có thể đưa ra đây là địa ngục, nói rộng cho đến đây là tất cả pháp? Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học tất cả pháp đều không thể đưa ra, để hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng lẽ không nên học sắc, chẳng lẽ không nên học thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến chẳng lẽ không nên học trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học sắc không tăng, không giảm, nên học thọ, tưởng, hành, thức không tăng, không giảm. Nói rộng cho đến nên học trí nhất thiết trí không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học sắc không tăng, không giảm như thế nào, nên học thọ, tưởng, hành, thức không tăng, không giảm như thế nào? Nói rộng cho đến nên học trí nhất thiết trí không tăng, không giảm như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lấy vô sanh, vô diệt để học sắc, lấy vô sanh, vô diệt để học thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến lấy vô sanh, vô diệt để học trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm thế nào lấy vô sanh, vô diệt để học sắc, làm thế nào lấy vô sanh, vô diệt để học thọ, tưởng, hành, thức? Nói rộng cho đến làm thế nào lấy vô sanh, vô diệt để học trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên học không tạo, không tác, các hành hoặc bỏ, hoặc tu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì sao nên học không tạo, không tác, các hành hoặc bỏ, hoặc tu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán tự tướng của tất cả pháp đều Không, nên học không tạo, không tác, các hành hoặc bỏ, hoặc tu?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán tự tướng của tất cả pháp đều Không như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán sắc bằng tướng Không của sắc; nên quán thọ, tưởng, hành, thức bằng tướng Không của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến nên quán quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật bằng tướng Không của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Nên quán trí nhất thiết trí bằng tướng Không của trí nhất thiết trí.

Như vậy, này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán tự tướng của các pháp đều Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu quán sắc bằng tướng Không của sắc; quán thọ, tưởng, hành, thức, bằng tướng Không của thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến quán quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật bằng tướng Không của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Quán trí nhất thiết trí bằng tướng Không của trí nhất thiết trí thì làm sao Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu các Đại Bồ-tát hoàn toàn không có sự hành thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao mà Đại Bồ-tát hoàn toàn không có sự hành, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bất khả đắc, các Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc, sự hành cũng bất khả đắc, người có thể hành, do đây mà hành, thời gian hành, nơi chốn hành đều bất khả đắc.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hoàn toàn không có sự hành, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì trong đó tất cả hý luận đều bất khả đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu Đại Bồ-tát hoàn toàn không có sự hành, thì đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tân học Đại Bồ-tát làm sao hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tân học Đại Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm, đối với tất cả pháp luôn luôn học không sở đắc. Học như vậy xong, dùng không sở đắc để làm phương tiện nên tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến dùng không sở đắc làm phương tiện để tu trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là có sở đắc? Sao gọi là không sở đắc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Có hai thì gọi là có sở đắc, không có hai thì gọi là không sở đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Vì sao có hai thì gọi là có sở đắc? Vì sao không có hai thì gọi là không sở đắc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nhãn và sắc là hai, cho đến ý và pháp là hai, nói rộng cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật và chư Phật là hai. Tất cả có hý luận như vậy đều gọi là hai mà hễ có hai thì đều có sở đắc. Phi nhãn và phi sắc là không hai, nói rộng cho đến phi ý, phi pháp là không hai. Nói rộng cho đến phi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, phi Phật là không hai. Tất cả lìa hý luận như vậy đều gọi là không hai mà không hai thì đều không sở đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do có sở đắc nên không sở đắc, hay do không sở đắc nên không sở đắc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải do có sở đắc nên không sở đắc, cũng chẳng phải do không sở đắc nên không sở đắc. Nhưng có sở đắc và không sở đắc tánh đều bình đẳng, nên gọi là không sở đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên siêng năng tu học trong tánh bình đẳng của có sở đắc và không sở đắc.

Thiện Hiện nên biết! Khi các Đại Bồ-tát học như vậy gọi là học nghĩa không sở đắc của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì xa lìa được các lỗi lầm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không chấp trước có sở đắc, không chấp trước không sở đắc thì Đại Bồ-tát ấy làm sao tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để có thể từ địa vị này tiến lên địa vị khác, lần lượt được viên mãn, nhờ đây chứng đắc trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng trụ vào có sở đắc, chẳng trụ vào không sở đắc để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể từ địa này tiến lên địa khác, từ từ được viên mãn cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không sở đắc, trí nhất thiết trí cũng không sở đắc. Người hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nơi chốn hành, thời gian hành cũng không sở đắc. Không sở đắc này cũng không sở đắc.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bất khả đắc, trí nhất thiết trí cũng bất khả đắc, người hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nơi chốn hành, thời gian hành cũng bất khả đắc. Bất khả đắc này cũng bất khả đắc, vậy thì khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì sao các Đại Bồ-tát ưa thích lựa chọn tất cả pháp? Nói đây là sắc; đây là thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến đây là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đây là trí nhất thiết trí thanh tịnh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mặc dù ưa thích lựa chọn các pháp nhưng không đắc sắc, không đắc thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không đắc trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu không đắc sắc, không đắc thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không đắc trí nhất thiết trí thì làm sao có thể viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa? Nếu không viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể nhập vào địa vị Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Nếu không nhập địa vị Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát thì làm sao có thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình? Nếu không thể trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình thì làm sao đắc trí nhất thiết trí. Nếu không đắc trí nhất thiết trí, thì làm sao có thể chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự? Nếu không thể chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự, thì làm sao giải thoát hữu tình khỏi các khổ sanh tử, để họ được Niết-bàn rốt ráo an lạc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không vì sắc mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không vì thọ, tưởng, hành, thức mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nói rộng cho đến không vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Không vì trí nhất thiết trí mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát vì việc gì để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát không có làm việc gì để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không tạo, hoàn toàn không tác. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không tạo, không tác. Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng không tạo, không tác. Các Đại Bồ-tát cũng không tạo, không tác. Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát lấy không tạo, không tác làm phương tiện hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không tạo, không tác thì không nên thành lập sự khác nhau của ba thừaThanh văn thừa, Độc giác thừaVô thượng thừa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu pháp không tạo, không tác thì không thể thành lập được. Pháp cần phải có tạo, có tác mới thành lập được. Vì sao? Vì các hữu tình phàm phu ngu si thiếu trí chấp trước các sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nói rộng cho đến trí nhất thiết trí. Niệm sắc mà đắc sắc, niệm thọ, tưởng, hành, thức đắc thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến niệm trí nhất thiết trí đắc trí nhất thiết trí. Do niệm đắc cho nên suy nghĩ như vầy: Ta nhất định sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, độ thoát các hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử để đắc Niết-bàn rốt ráo an lạc.

Thiện Hiện nên biết! Kẻ phàm phu ngu si thiếu trí ấy do điên đảo nên suy nghĩ như vậy, đó là phỉ báng Phật. Vì sao? Vì Phật dùng năm loại mắt tìm cầu sắc bất khả đắc, tìm cầu thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc. Cho đến tìm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng bất khả đắc, tìm cầu hữu tình cũng bất khả đắc. Các phàm phu ngu si thiếu trí ấy mù mịt không có mắt tuệ nên chấp trước vào các pháp. Nếu sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, độ thoát các hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, được Niết-bàn thường lạc rốt ráo, thì chắc chắn không có điều đó.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều dùng năm loại mắt tìm cầu sắc bất khả đắc, tìm cầu thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc, cho đến tìm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng bất khả đắc, tìm cầu các hữu tình cũng bất khả đắc, thì đúng ra sẽ không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, độ thoát các hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, để đắc Niết-bàn thường lạc rốt ráo. Nếu vậy thì làm sao Thế Tôn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, an lập hữu tình thàmh ba nhóm khác nhau, đó là nhóm chánh tánh định, nhóm tà tánh định và nhóm bất định?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta dùng năm loại mắt quán sát như thật, quyết định: Ta thật không chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau. Nhưng các hữu tìnhngu si điên đảo nên đối với pháp chẳng thật mà tưởng pháp thật; đối với hữu tình chẳng thật mà tưởng hữu tình thật. Để diệt trừ kiến chấp hư vọng đó, Ta căn cứ vào thế tục mà nói chứ không căn cứ vào thắng nghĩa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! chẳng lẽ Như Lai không an trụ vào thắng nghĩa để chứng đại Bồ-đề hay sao?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! chẳng lẽ Như Lai không an trụ vào vọng tưởng điên đảo để chứng đại Bồ-đề hay sao?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Như Lai không an trụ vào thắng nghĩa chứng đại Bồ-đề, cũng không an trụ vào vọng tưởng điên đảo chứng đại Bồ-đề, lẽ nào Như Lai không chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Không! Mặc dù Ta chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng không có chỗ trụ. Nghĩa là không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi.

Thiện Hiện nên biết! Ví như những người do chư Phật biến hóa, tuy không trụ vào cảnh giới hữu vi, cũng không trụ vào cảnh giới vô vi, nhưng có những việc đi, đến, ngồi, nằm. Người do chư Phật biến hóa, hoặc hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hoặc trụ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ; tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa; tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tu hạnh Đại Bồ-tát. Hoặc chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển bánh xe diệu pháp, làm các Phật sự. Người được biến hóa lại chuyển hóa làm vô lượng hữu tình, trong đó an lập thành ba nhóm khác nhau. Ý ông thế nào? Người do chư Phật biến hóa đó thật có những việc đi, đến, ngồi, nằm, cho đến thật có an lập hữu tình thành ba nhóm khác nhau không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Chư Phật Thế Tôn biết tất cả pháp đều giống như biến hóa, nói tất cả pháp cũng như biến hóa, mặc dù làm ra nhưng không chơn thật, tuy độ hữu tình nhưng không có người được độ, giống như người biến hóa lại hóa độ cho hữu tình khác.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phải giống như người do Phật biến hóa, mặc dù có hành động nhưng không chấp trước.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như sự biến hóa thì chư Phật cũng vậy. Như vậy, chư Phật và người được biến hóa có gì khác nhau?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Phật và người được biến hóa cùng tất cả pháp thật sự không khác nhau. Vì sao? Vì tất cả sự nghiệp chư Phật đã làm thì người do Phật biến hóa cũng đều có thể làm. Sự nghiệp mà người do Phật biến hóa đã làm thì chư Phật Thế Tôn cũng có thể làm ra. Cho nên, chư Phật và người được biến hóa cùng tất cả pháp thật sự không khác nhau.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu không có người do chư Phật biến hóa thì riêng Phật có thể làm ra sự nghiệp được không? Còn nếu không có chư Phật thì người được hóa kia có thể riêng mình làm các việc được không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Họ cũng có thể làm được.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Việc ấy như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Như có Như Lai hiệu là Thiện Tịch Huệ, đã độ xong những người đáng được độ. Khi ấy, không có Bồ-tát nào được Phật thọ ký, Ngài liền hóa một vị Phật để trụ thế gian, rồi tự nhập vào cõi cảnh giới Vô dư y đại Niết-bàn. Hóa Phật đó làm các Phật sự trong nửa kiếp, qua hơn nửa kiếp rồi, thọ ký đại Bồ-đề cho một Bồ-tát rồi hiện nhập Niết-bàn. Khi đó chư thiên, người, A-tu-la v.v… đều cho rằng Phật ấy nay nhập Niết-bàn, nhưng thân của hóa Phật ấy thật không sanh diệt.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên tin các pháp đều như biến hóa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu thân chư Phật không khác với thân biến hóa thì làm sao có thể làm ruộng phước chơn tịnh? Nếu các hữu tìnhgiải thoát nên cung kính, cúng dường chư Phật, cho đến khi Niết-bàn thì phước đức ấy vô tận. Đối với hóa Phậtcung kính, cúng dường thì phước đức ấy cũng phải cứu cánh vô tận?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Thân chư Phật là do pháp tánh, có thể làm ruộng phước chơn tịnh cho thí chủ. Hóa thân của Phật cũng như vậy, đều khiến cho thí chủ cung kính, cúng dường đến khi chấm dứt sanh tử, được phước đức vô tận.

Thiện Hiện nên biết! Hãy gác phước đức thu được do cung kính, cúng dường chư Phật và hóa thân Phật qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... đối với chư Phật có lòng từ, cung kính, suy nghĩ, nhớ đến công đức chơn tịnh thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đến khi chấm dứt sanh tử căn lành vẫn vô tận.

Thiện Hiện nên biết! Lại gác phước đức đạt được do có lòng từ cung kính, tâm suy nghĩ nhớ các công đức chơn tịnh qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... vì cúng dường Phật thậm chí rải một cánh hoa trong hư không thì các thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đến tận lúc chấm dứt sanh tử được căn lành vô lượng.

Thiện Hiện nên biết! Lại gác phước đức đạt được vì muốn cúng dường Phật, thậm chí rải một cánh hoa trong hư không qua một bên. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... thậm chí xưng “Nam mô Phật-đà đại từ bi”, thì các thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đến lúc chấm dứt sanh tử căn lành vẫn vô tận, luôn được hưởng thọ phước lạc trong cõi trời, cho đến cuối cùng đắc Niết-bàn.

Như vậy, này Thiện Hiện! Cung kính, cúng dường chư Phật và hóa thân Phật đạt được những lợi ích rộng lớn như vậy. Cho nên, này Thiện Hiện! Chư Phật và hóa thân Phật đều là ruộng phước chơn tịnh không khác nhau của thí chủ, vì lấy pháp tánh của các pháp làm định lượng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát lấy pháp tánh của các pháp ấy để làm định lượng, làm phương tiện thiện xảo hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Sau khi nhập vào pháp tánh của các pháp rồi, nhưng đối với các pháp không làm hư hoại pháp tánh. Nghĩa là không phân biệt đây là Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Đây là pháp tánh của Bát-nhã cho đến bố thí Ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến đây là trí nhất thiết trí, đây là pháp tánh của trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên phân biệt sự sai khác pháp tánh của các pháp mà làm hư hoại pháp tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nên phân biệt pháp tánh của các pháp, mà làm hư hoại pháp tánh thì tại sao Thế Tôn tự nói pháp tánh khác nhau của các pháp và làm hư hoại pháp tánh? Nghĩa là Phật thường nói: Đây là sắc cho đến thức. Đây là nhãn xứ cho đến ý xứ. Đây là sắc xứ cho đến pháp xứ. Đây là nhãn giới cho đến ý giới. Đây là sắc giới cho đến pháp giới. Đây là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Đây là sáu xúc, đây là sáu thọ, đây là sáu giới. Đây là nhân duyên. Đây là vô minh cho đến lão tử. Đây là nội pháp, đây là ngoại pháp. Đây là pháp lành, đây là pháp ác. Đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu. Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian. Đây là pháp cộng, đây là pháp bất cộng. Đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi v.v… Phật đã thường nói những pháp khác nhau như vậy chẳng lẽ Thế Tôn tự hoại tánh của pháp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta không tự hoại pháp tánh của các pháp, chỉ dùng danh tướng làm phương tiện giả nói, để các hữu tình ngộ vào pháp tánh bình đẳng của các pháp, thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết-bàn.

Cho nên, này Thiện Hiện! Mặc dù Như Lai nói các pháp khác nhau nhưng không gọi là làm hư hoại pháp tánh của các pháp.

Cụ thọ Tiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật chỉ dùng danh tướng để giả nói pháp tánh của các pháp, khiến các hữu tình ngộ nhập vào pháp tánh bình đẳng thì tại Phật dùng danh tướng để nói các pháp không danh tướng mà nói không hư hoại?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta theo thế tục, đối với các pháp giả lập ra danh tướng, vì các hữu tình mà dùng phương tiện để giảng nói, vì không chấp trước nên không hư hoại.

Thiện Hiện nên biết! Giống như những kẻ ngu si nghe nói các khổ liền chấp trước danh tướng mà không hiểu rõ đó là giả nói. Chẳng phải chư Như Laiđệ tử Phật nghe nói các khổ rồi chấp trước danh tướng. Nhưng thật biết đó là theo thế tục mà nói thì không có danh tướng các pháp chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các bậc Thánh đối với danh mà chấp trước danh, đối với tướng mà chấp trước tướng, thì đối với không cũng chấp trước không, đối với vô tướng chấp trước vô tướng, đối với vô nguyện chấp trước vô nguyện, đối với chơn như chấp trước chơn như, đối với thật tế chấp trước thật tế, đối với pháp giới chấp trước pháp giới, đối với vô vi chấp trước vô vi.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả pháp ấy chỉ có giả danh, chỉ có giả tướng, không chơn thật. Trong đó, bậc Thánh cũng không chấp trước chỉ mượn danh tướng.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát trụ vào tất cả pháp nhưng chỉ mượn danh tướng, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nhưng trong đó không chấp trước.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu các pháp chỉdanh tướng thì các Đại Bồ-tát vì việc gì mà phát tâm Bồ-đề chịu các khổ cực để hành hạnh Bồ-tát. Nghĩa là tự mình chịu khổ cực để tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nói rộng cho đến khổ cực tu hành trí nhất thiết trí đều được viên mãn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả pháp chỉ có danh và tướng. Danh tướng ấy chỉ là giả tạo, tánh của danh tướng là Không. Các loài hữu tìnhđiên đảo vọng chấp nên bị luân hồi sanh tử, chịu các khổ não, không thể giải thoát. Cho nên, Bồ-tát vì làm lợi ích cho họ mà phát tâm Bồ-đề, chịu các khổ cực hành hạnh Bồ-tát, lần lượt chứng đắc trí nhất thiết trí, chuyển bánh xe diệu pháp, lấy pháp ba thừa làm phương tiện để cứu giúp họ ra khỏi sanh tử, mà trụ vào cảnh giới Niết-bàn. Nhưng vì các danh tướng không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác, nên đưa ra có thể đắc.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phật nói trí nhất thiết trí là trí nhất thiết trí phải không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta nói trí nhất thiết trí là trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thường nói trí nhất thiết trí tóm lược có ba, đó là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Ba loại trí này tướng của nó có khác nhau không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Trí nhất thiết nghĩa là trí chung của Thanh vănĐộc giác.

Trí đạo tướng là trí chung của Đại Bồ-tát.

Trí nhất thiết tướng là diệu trí riêng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao trí nhất thiết là trí chung của Thanh văn và Độc giác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Trí nhất thiếtpháp môn sai biệt của pháp nội, ngoại. Thanh văn, Độc giác cũng có thể biết rõ pháp môn sai biệt của pháp nội, ngoại nhưng không thể biết tướng của trí nhất thiết và tất cả loại tướng của tất cả pháp. Nên trí nhất thiết là trí chung của Thanh vănĐộc giác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao trí đạo tướng là trí chung của Đại Bồ-tát?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên học biết khắp tướng của tất cả đạo. Nghĩa là tướng của đạo Thanh văn, tướng của đạo Độc giác, tướng của đạo Bồ-tát, tướng của đạo Như Lai. Đối với các đạo này, các Đại Bồ-tát luôn tu học để được viên mãn, mặc dù làm cho các đạo này làm việc cần phải làm nhưng không thể làm cho họ chứng thật tế, nên trí đạo tướng là trí chung của Đại Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu đạo của Như Lai, sau khi được viên mãn, lẽ nào chẳng chứng thật tế hay sao?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, nếu tu các đại nguyện chưa viên mãn thì vẫn chưa chứng thật tế. Nếu đã viên mãn thì mới có thể chứng thật tế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát trụ vào đạo mà chứng thật tế phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát trụ vào phi đạochứng thật tế phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát trụ vào đạo và phi đạochứng thật tế phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát vì trụ vào phi đạo và chẳng phải phi đạochứng thật tế phải không?

Phật dạy:

Thiện Hiện! Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì các Đại Bồ-tát trụ vào đâu để chứng thật tế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nhờ trụ vào đạo mà ông dứt sạch lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không.

- Này Thiện Hiện! Nhờ trụ vào phi đạo mà ông dứt sạch lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ông trụ vào đạo, phi đạo mà dứt sạch lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ông trụ vào phi đạo, chẳng phải phi đạo mà dứt sạch lậu hoặc, tâm giải thoát phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vậy ông trụ vào đâu để dứt sạch lậu hoặc, tâm hoàn toàn giải thoát?

Thiện Hiện thưa:

- Con chẳng trụ để dứt sạch lậu hoặc, tâm hoàn toàn giải thoát. Con dứt sạch lậu hoặc, tâm được hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn không có chỗ trụ.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cũng vậy, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn không có chỗ trụ mà chứng thật tế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao trí nhất thiết tướng là trí nhất thiết tướng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì biết tất cả pháp đồng một tướng, đó là tướng tịch diệt, cho nên gọi là trí nhất thiết tướng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các tướng trạng của hành có thể biểu lộ các pháp. Như Lai như thật biết rõ tất cả nên gọi là trí nhất thiết tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hoặc trí nhất thiết, hoặc trí đạo tướng, hoặc trí nhất thiết tướng, ba trí này các phiền não được đoạn trừ có khác nhau không? Có hữu dư đoạn, vô dư đoạn không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải các phiền não đoạn có khác nhau. Nhưng chư Như Lai đã đoạn hẳn tất cả tập khí tương tục của phiền não. Còn Thanh văn, Độc giác thì chưa đoạn hẳn tập khí tương tục.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các phiền não đã đoạn trừ có đắc vô vi không?

Phật nói:

- Có.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thanh văn, Độc giác không đắc vô vi, phiền não đoạn trừ không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trong pháp vô vi có sự khác nhau không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu pháp vô vi không khác nhau thì vì sao Phật nói tất cả đã đoạn hẳn tập khí tương tục, Thanh văn, Độc giác vẫn vẫn chưa đoạn hẳn tập khí tương tục?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tập khí tương tục thật sự chẳng phải phiền não. Nhưng các Thanh văn, Độc giác đã đoạn phiền não nhưng vẫn còn có một phần nhỏ tướng trạng giống như tham, sân, si phát ra từ thân, ngữ, nên nói: Đây là tập khí tương tục. Chính tương tục này làm cho pháp phàm phu ngu si phát sanh bất lợi; không sanh bất lợi ở sự tập khí tương tục của Thanh văn, Độc giác. Như vậy, Như Lai đã đoạn hẳn tất cả tập khí tương tục.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đạo và Niết-bàn đều không có tự tánh. Vậy tại sao Phật nói đây là Dự lưu cho đến Độc giác, đây là Bồ-tát, đây là Như Lai.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hoặc là vị Dự lưu cho đến Độc giác, hoặc là Bồ-tát, hoặc là Như Lai, tất cả đều là sự hiển bày của vô vi.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trong pháp vô vi, thật sự có khác nhau giữa Dự lưu cho đến Như Lai không?

Phật dạy:

- Không.

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì tại sao Phật nói Dự lưu cho đến Như Lai tất cả đều là sự hiển bày của vô vi?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ta căn cứ theo thế tục mà nói để hiển bàyDự lưu v.v… Sự hiển bày khác nhau đều không căn cứ theo thắng nghĩa, vì trong thắng nghĩa không có thể hiển bày rõ ràng. Vì sao vậy? Vì trong thắng nghĩa có đạo nói năng hay trí tuệ phân biệt, hoặc gồm cả hai loại. Bởi vì nhờ mỗi lời thế tục trình bày các pháp đoạn, lại mỗi mỗi lời nói của thế tục trình bày giai đoạn sau của các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tự tướng của tất cả pháp đều Không, khoảng trước còn không thì làm sao có khoảng sau? Vậy tại sao đưa ra có khoảng sau?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Tự tướng của tất cả pháp đều Không, khoảng trước còn không có thì làm sao có khoảng sau? Nếu khoảng sau thật có thì điều đó chắc chắn không xảy ra. Nhưng các hữu tình không hiểu rõ tự tướng của tất cả các pháp đều Không. Vì làm lợi ích cho họ nên dùng phương tiện giả nói đây là khoảng trước, đây là khoảng sau. Nhưng trong tự tướng Không của tất cả pháp thì các khoảng trước, khoảng sau đều bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đã thông đạt tự tướng của tất cả pháp là Không để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát thông đạt tự tướng của tất cả pháp đều Không, nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xakhông chấp trước vào các pháp. Nghĩa là không chấp trước nội hay ngoại, thiện hay bất thiện, thế gian hay xuất thế gian, hữu lậu hay vô lậu, hữu vi hay vô vi, pháp Thanh văn hay pháp Độc giác, pháp Bồ-tát hay pháp chư Phật, chỉ căn cứ vào thế tục mà đưa ra là có, không căn cứ vào thắng nghĩa nên không chấp trước.

Quyển thứ 525
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.