Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần 1
Qui Sơn Cảnh Sách
“Phù
nghiệphệ thọ thân , vị miển hình lụy. Bẩmphụ mẫuchi di thể, giả chúng duyên nhi
cộng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi bội. Vô thường lão bịnh bấtdữ
nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc
hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất
sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?”.
Bởi
do nghiệp trói buộc mà có thân, tức chưa khỏi khổ lụy về thân. Bẩm thụ tinh cha
huyết mẹ, tạm mượn các duyên hợp thành. Tuy nhờ tứ đại giử gìn, nhưng chúng
thường trái nghịch.Vô thường, già, bịnh chẳng hẹn cùng người. Sáng còn tối mất,
chỉ trong khoảng sát na đã qua đời khác. Ví như sương mùa xuân, mốc sáng sớm,
phút chốc liền tan. Cây bên bờ vực, dây trong miệng giếng há được lâu bền. Niệm
niệm qua nhanh, chỉ trong khoảng sát na, chuyển hơi thở đã là đời sau, sao lại
an nhiên để ngày tháng trôi suông vô ích?.
“Phù nghiệp hệ thọ thân, vị
miển hình lụy”. Do nghiệp trói buộc lôi cuốn nên chúng ta phải thọ nhận thân
này. Sau khi thọ nhận thân này rồi thì sao? “Vị miển hình lụy”, tức chưa khỏi
được cái khổ lụy về thân. Ngài nói có sự trùng hợp với Lão Tử: “Ngô hữu đại
hoạn vị ngô hữu thân”, vì ta có thân nên có họa lớn. Lão Tử thấy do có thân nên
có họa, song chưa nói đến nguyên do nào mà có thân.Tổ Qui Sơn nhìn theo con mắt
của nhà tu Phật. Ngài thấy thân chúng ta sở dĩ có đây không phải ngẩu nhiên mà có,
mà là do nghiệp chướng buộc lôi kéo chúng ta ra đây thì không thể nào tránh
khỏi đau khổ. Đó là Ngài chỉ rõ nguyên nhân của sự đau khổ khi mang thân này.
Nhưng tại sao nghiệp lôi mình được và sao mình dại dột để cho nghiệp lôi? Vấn
đề này tôi sẽ dẫn vài thí dụ nhỏ để quý vị thấy. Đây là chúng ta tìm tột cùng
cái nguyên nhân thuở trước, khi chúng ta chưa có thân này, do cái gì thúc đẩy lôi
cuốn chúng ta có thân? “ Cái thúc đẩy lôi cuốn” trong nhà Phật gọi là “
nghiệp”. Nhưng nó lôi cuốn bằng cách nào? Kinh Phật nói, con người có ba nghiệp
là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân, miệng, ý tạo tác thành nghiệp rồi,
thì nghiệp thúc đẩy lôi cuốn chúng ta phải thọ thân sau và tùy theo nghiệp
thiện hay ác mà dẫn chúng ta đến chỗ tốt hay xấu. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là
động tác của thân, miệng, ý; động tác ấy lập đi lập lại nhiều lần thành thói
quen, và khi đã thành thói quen, thì nó có sức mạnh chi phối, dắt dẫn con người
theo nó. Với mắt phàm tục thì không thấy biết nghiệp, nhưng đối với bậc thánh
giả thì thấy có bạchnghiệp và hắc nghiệp. Nên khi nhìn người, bậc thánh giả
biết người ấy có chủng nghiệp lành hay dữ. Do trước kia tạo nghiệp lành hay dữ,
khi sanh thân hoặc khổ hoặc vui; đó là nói theo tương đối thế gian. Còn nói
theo đây thì dù cho thân sang hèn nghèo giàu gì cũng đều khổ hết, đó là tinh
thần khổ đế của đạo Phật. Như vậy, do tạo nghiệp mà phải thọ thân sau, nên quí
vị không lấy làm lạ, khi nghe các vị tu hành đắc đạo nói quá khứ, vị lai của
một người nào đó, là do mắt huệ của các Ngài thấy được thiện nghiệp hay ác
nghiệp của vị đó, và cũng không làm lạ đối với những nhà tướng số, căn cứ trên
phước tướng nhiều ít mà đoán đúng hậu vận của con người. Thế nên nhiều người cho
rằng mình có sẵn số mạng như thế nên thầy coi trúng. Nhưng trúng với ai và trật
với ai? Chỉ trúng với những người dung thường, khi sanh ra họ cứ theo nghiệp cũ
mà sống, không biết chuyển đổi nghiệp. Nhưng đối với những người hơi phi thường
thì số mạng có đổi; chẳng hạn như những người xuất gia. Tử vi của mọi người
chung chung là lớn lên lập gia đình có con cái, có chức phận v.v… Nhưng với người
khoảng 15 tuổi xuất gia thì không có gia đình, không có con, không có chức
phận, như vậy là đã cải số rồi. Nếu cho số mạng là cái định sẵn mà mọi người
phải y theo đó để sống, không thể chuyển đổi thì quá lầm lẫn. Nghiệp có thể
chuyển được, chuyển từ nghiệp dữ thành nghiệp lành và ngược lại. Thế nên có lắm
người trước thì say mê trong dục lạc, sau bừng tỉnh xa lìa dục lạc trở thành
người cao thượng, và cũng có người tốt, gặp duyên bạn bè hư đốn quyến rủ chạy
theo làm điều xấu ác. Nói đến nghiệp là nói đến động tác của thân, khẩu, ý và
động tác ấy có thể chuyển đổi từ xấu trở thành tốt và từ tốt trở thành xấu.
Nay nên biết nghiệp chi phối
lôi kéo con người như thế nào? Thí dụ một người có thói quen mở radio nghe
nhạc, vào mỗi tối lúc 8 giờ, đêm nào cũng thế, thành thói quen. Bỗng một hôm
radio hư không nghe được nhạc, người ấy cảm thấy buồn buồn, ngay lúc đó nhà
hàng xóm mở radio, thói quen thúc đẩy người ấy tìm tới để nghe nhạc. Thói quen
(nghiệp) không có hình tướng nhưng có sức mạnh thúc đẩy, chi phối con người làm
theo nó. Đó là thói quen của tai. Bây giờ là thói quen của miệng, có ngườikhi nghe
nhạc thì miệng huýt sáo ca hát, tay chân nhịp theo điệu nhạc. Một hôm đến chỗ
trang nghiêm. Lý đáng phải ngồi nghiêm chỉnh, nhưng ngồi một hồi cảm thấy buồn
bèn nhịp đùi huýt sáo, vì đã thành thói quen rồi. Còn có những thói quen tệ hơn
nữa là hút thuốc, ăn trầu, uống rượu, hút á phiện v.v… Vậy động lực nào bắt con
người hút thuốc, ăn trầu, uống rượu? Có phải tại thói quen chăng? Thói quen trở
thành tập nhiễm và có sức mạnh thôi thúc khiến con người làm theo nó. Nhà Phật
gọi đó là nghiệp, chính nghiệp mình tạo rồi trói buộc và mình đi thọ sanh mà
mình không hay biết, tưởng lý do này lý do kia bắt mình sinh ra đời, bắt mình
chịu khổ. Tất cả chỉ là cái duyên bên ngoài, mà động lực chính là nghiệp lành
hay nghiệp dữ khiến cho mình khổ hay vui. Điều mà mọi người phải ghi nhớ là
thân không tạo nghiệp ác mà tạo nghiệp thiện, miệng không nói lời hung dữ mà
nói lời lành, ý không nghĩ ác mà nghĩ thiện; cứ như thế mà chuyển nghiệp thì
mình làm chủ được mình không bị nghiệp sai sử. Và chúng ta có đủ can đảm, đủ sức
mạnh xây dựng, sắp đặt cho cuộc sống ngày mai của chính mình và chịu đựng những
gì xảy đến, mà không than trách ai cả. Nếu không hiểu như thế cứ để cho dòng
định mệnh lôi cuốn tới đâu thì tới. Người hiểu rõ nghiệp và biết tu thì phải
gắng mà chuyển nghiệp, người tu là những con thuyền vững lái, gió mặc gió, nước
mặc nước, chúng ta cứ nhắm đích mà tiến, chớ để gió dập nước cuốn. Nói đến
nghiệp là nói đến sức mạnh tự chủ, không phải là thái độ yếu đuối phó mặc cho
số mệnh, để rồi việc không xong, hỏng thì đổ thừa cho nghiệp.
Đây, Tổ Qui Sơn chỉ cho chúng
ta thấy cái nhân có thân này là do nghiệp, hoặc nghiệp lành nghiệp dữ; nếu thọ
thân trong cảnh tốt được sung sướng an vui là do tạo nghiệp thiện, còn thọ thân
trong cảnh xấu chịu khổ đau là do tạo nghiệp ác. Biết được khổ vui là do nghiệp
mình tạo, để gan dạ chịu, không than oán khi gặp khổ, và cố gắng chuyển nghiệp ác
thành nghiệp thiện, nếu ta còn luân hồi. Hoặc gan dạ cắt dứt mọi trói buộc của
nghiệp để được tự tại trong tam giới, đó là tu. Ngược lại biết rõ nghiệp, mà vẫn
đầu hàng, phó mặc cho nó chi phối lôi trì, là không biết tu vậy. Còn taọ nghiệp
là phải thọ thân, mà có thân thì khổ, vì thân này vô thường hoại diệt, dù là
vua chúa hay ăn mày cũng không thoát khỏi vô thường, nên gọi là hình lụy. Có thân
là có đủ các nỗi khổ nào là sanh, già, bịnh, chết, thương yêu xa lìa, thù oán
gặp gỡ… Chỉ khi nào cắt dứt nghiệp thì không thọ thân và dứt luân hồi sanh tử. Không
thọ thân không có nghĩa trở thành hư không, mà lúc ấy muốn độ ai thì tùy nguyện
đến cứu giúp họ. Khi làm xong việc rồi đi một cách tự tại, chớ không bị nghiệp chi
phối ép ngặt.
-Mạng người sống được bao lâu?
Tỳ
Kheo trả lời:
-Mạng người sống được vài hôm.
Phật
nói:
-Ông chưa rõ đạo.
Phật
hỏi vị khác, vị ấy trả lời:
-Mạng người sống chừng bữa ăn.
Phật
cũng nói:
-Ông chưa thấy đạo
Phật
lại hỏi vị khác nữa, vị ấy trả lời:
-Mạng người chỉ trong hơi thở
Phật
nói:
-Ông đã thấy đạo.
Chúng ta
thở ta hít vô được thì còn sống, nếu thở ra mà không hít vô thì chết ngay. Đó
là một lẽ thật, tất cả mọi người đều chết như vậy. Trong nửa chừng bữa ăn, nếu thở
ra mà không hít vô cũng ngã ra chết, thì đâu trọn bữa ăn. Thường chúng ta nghĩ
cuộc sống là chặng đường dài bảy tám mươi năm, nếu ngắn nhất là đôi ba ngày
hoặc chừng bữa ăn. Nhưng dưới mắtPhật, mạng sống chỉ trong hơi thở. Thế nên còn
thở ra hít vô được, thì chúng ta ráng tu, kẻo ngày nào đó thở ra mà không hít
vô, thì tu không kịp. Nếu cứ lo tính chuyện trăm năm là kẻ si mê không thấy
đạo, đức Phật đã chỉ cho chúng ta một lẽ thật. Thấy được lẽ thật là tỉnh giác,
không thấy lẽ thật là si mê. Mạng người đã không lâu bền tại sao chúng ta lại
hẹn? Nên nhớ rằng vô thường không hẹn với mình, thì mình cũng không có quyền
hẹn với ai hết. Ngày nào còn sống là ngày đó phải hạ thủ công phu để tự lợi,
lợi tha cho đầy đủ. Chớ nói ba năm nữa hãy bắt đầu làm việc này việc nọ đó là
si mê. Chúng ta phải luôn luôn giác ngộ lẽ này.
Tóm lại, Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân đưa đẩy con người sanh ra đời, là do nghiệp dẫn, nên không thể tránh khỏi sự đau khổ về nỗi vô thường hư hoại của thân. Sở dĩ con người có ra và tồn tại là nhờ các duyên chung hợp, bốn đại hỗ tương. Nhưng bốn đại vẫn chống đối nhau khiến thân này tiêu mòn dần…chỉ trong khoảng sát na, một hơi thở ra không hít vào là đã qua đời khác. Vậy thì: “Đâu thể an nhiên để ngày tháng qua suông vô ích”. Lời trách cứ này của Tổ, chẳng khác nào ngọn roi quất mạnh, khiến chúng ta thức tỉnh mà cố gắng tu.