QUI SƠN CẢNH
SÁCH
Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
Phần 2
Chánh Văn:
“Phụ mẫu bất cung cam
chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế
tự. Miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng
bất tránh chi đức. Huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly”
Dịch:
Đối cha mẹ chẳng dâng ngon
ngọt, với lục thân chí quyết bỏ lìa. Không thể an nước trị dân, nghiệp nhà trọn
không nối dõi. Xa làng biệt xóm, cắt tóc theo thầy. Trong thường nhớ nghĩ công
phu. Ngoài rộng mở hạnh hòa kính. Thoát hẳn thế trần, mong cầu giải thoát.
Giảng:
Đoạn này Tổ trách những người
xuất gia không nỗ lực cố gắng tu.
“Phụ mẫu bất cung
cam chỉ”, đối với cha mẹ chúng ta không nuôi dưỡng món ngon vật lạ.
“Lục thân cố dĩ
khí ly”. Lục thân là chỉ cho thân bằng quyến thuộc. Theo sách Nho hồi xưa chia
ra làm sáu: cha, mẹ, anh, em, vợ, con. Câu này nói đối với thân bằng quyến
thuộc lại cố xa lìa.
“Bất năng an quốc
trị bang. Gia nghiệp đốn quyên kế tự”. Không thể an nước trị dân, sự nghiệp gia
đình chúng ta đều buông bỏ, không nối giòng kế tự
“Miến ly hương
đảng”, tức là xa lìa làng xóm.
“Thế phát bẩm
sư”, tức là cạo tóc theo Thầy học đạo.
Đoạn này Tổ chỉ cho chúng ta
thấy cái gan dạ siêu xuất của người xuất gia. Thông thường, theo Nho giáo thì
cho rằng trách nhiệm lớn lao của người con hiếu là nuôi dưỡng cha mẹ, kế tục sự
nghiệp gia đình. Bây giờ chúng ta đi tu là bỏ cha mẹ, bỏ quyến thuộc bạn bè.
Đối với quốc gia chúng ta không phải là tôi trung, đối với gia đình thì không
sanh con để nối nghiệp. Bỏ lìa tất cả để cạo tóc theo Thầy học đạo, tức là
chúng ta không muốn làm theo hạnh nghiệp thế gian mà muốn cái siêu xuất thế
gian. Nhưng vào chùa một thời gian, chúng ta lại đi kết tình chị em với người
này, kết tình cha mẹ với người kia. Buông cái này bắt cái kia, bỏ cha mẹ ruột
để kết tình cha mẹ nuôi với thí chủ. Như vậy xuất gia để cầu cái gì? Có phải
cầu luân hồi hay không? Có người lại đi xin một đứa nhỏ về nuôi làm con. Thật
vô lý làm sao! Cha mẹ đã không nuôi, con không sanh lại đi nuôi con của người
rồi xưng là con mình. Tình chân chính đối với cha mẹ đã cắt đứt, lại đi kết ái
từ đâu đâu… Thành ra vào chùa một thời gian lại trở thành thế tục. Như vậy,
thật là phản bội với ý nguyện xuất gia của mình, phản bội với lý tưởng cao siêu
giải thoát. Mà cái sai lầm này hầu như đầy khắp cửa chùa. Đó là cái vô minh từ
vô thỉ đến giờ nó đang che mờ chúng ta. Đã biết cuộc đời là vô thường, ái là
gốc luân hồi sanh tử. Tại sao vô chùa lại cột thêm dây ái khác, để rồi cũng
buồn, giận, khóc, than? Như huynh đệ lâu lâu giận nhau cũng khóc… Cứ như vậy
ngày qua tháng lại thì tu được cái gì? Giải thoát chỗ nào mà dám xưng ta đây là
Thích tử, là người xuất gia, dạy đạo giải thoát, trong khi mình đang bị cột
hằng trăm mối phiền não? Quí vị phải nhận thức kỹ điều này. Đừng phản bội lại
lý tưởng siêu thoát của mình. Cạo tóc theo thầy học đạo, thì phải làm sao cho
xứng đáng!
“Nội cần khắc
niệm chi công”tức bên trong phải ghi nhớ phương pháp tu của mình, không bao giờ
lơi lỏng. Như trong kinh Bát Nhã dạy hàng giờ hàng phút dùng Trí huệ Bát Nhã
quán chiếu thấy ngũ uẩn lục trần đều không thật để đừng mê lầm.
“Ngoại hoằng bất
tránh chi đức”, tức là bên ngoài mở rộng đức không tranh. Đối với đại chúng
phải sống theo tinh thần lục hòa, sống lục hòa mới đúng tư cách của người xuất gia.
Bây giờ chúng ta xét lại coi có mấy ai được như thế? Bên trong thì tính đủ
chuyện lăng xăng là đã mất “khắc niệm chi công”. Còn bên ngoài thì chỉ hai
huynh đệ ở chung nhau cũng không hòa, như vậy thì đâu còn “vô tranh” nữa, mà là
“hữu tranh” rồi. Trong loạn tưởng ngoài đấu tranh, sống như thế, thì đạo lý ở
chỗ nào? Thế nên người xuất gia chúng ta phải nhớ bên trong không xao lãng tu,
bên ngoài sống đúng lục hòa… được vậy thì Tăng đoàn mới vững mạnh lâu dài và
đời tu của mình mới có y nghĩa. Chỉ một câu này thôi cũng quá đầy đủ cho chúng
ta tu hành. Chúng ta phải luôn luôn nhớ: Mạng người trong hơi thở, thì có gì
đâu mà tranh nhau! Chuyện gì cũng nên xí xóa cho nhau để tu, thời gian đâu có
đợi mà ở đó tranh hơn thua, thế mới là người thức tỉnh. Còn ngược lại ở trong
chùa mà người ta nói hơn một tiếng cũng không được, thấy ai hành động có vẻ
khinh mình là không ưa, cứ chống chọi nhau hết cả thời giờ. Tuy mang hình thức
xuất gia mà tâm niệm hoàn toàn thế tục. Tu hành lơ láo như thế, thì dù một trăm
năm cũng chẳng ra gì.
Trong kinh A-Hàm đức Phật có
nói bài kinh “Tứ niệm xứ” tức là bốn chỗ nhớ niệm:
1.Quán thân
bất tịnh.
2.Quán thọ
là khổ.
3.Quán tâm
vô thường.
4.Quán
pháp vô ngã.
Phật nói bốn pháp
đó nếu người nào luôn niệm không quên, thì trong một tháng chứng quả A-La-Hán,
trong bảy ngày chứng quả A-Na-Hàm, trong một ngày chứng quả Tư-Đà-Hàm, người
nào trong một giờ không quên cũng chứng được quả Tu-Đà-Hoàn. Theo tinh thần Bát
Nhã, ở đây tôi có thể nói, người nào hằng nhớ Trí tuệ Bát Nhãmột tháng không
quên, tức đã vào Thánh địa, một ngày không quên đã bước vào bực Tam thiền,
người nào một giờ không quên đã bước vào Chánh vị. Vì thế, tu là phải luôn luôn
như chữ khắc vào đá không mờ, thì tu mới tiến được. Còn chúng ta thì chợt nhớ
chợt quên, một ngày trôi qua chỉ thoáng nhớ vài ba khắc là cùng, vì thế mà tuy
tu đã lâu, rốt cuộc cũng chỉ loanh quanh trong phiền não mà thôi.
“Huýnh thoát trần
thế, ký kỳ xuất ly”,”Huýnh thoát” là ra khỏi, “ký kỳ” là hẹn ngày. Nghĩa là
chúng ta nhất định có ngày thoát khỏi cõi trần. Hai câu trước nói bổn phận của người
xuất gia, hai câu này khuyên chúng ta lập chí giải thoát, nhất quyết tu đời này
cho liễu ngộ, đừng nói rằng: Thôi tu được bao nhiêu hay bấy nhiêu, đời sau tu
tiếp nữa. Còn hẹn lần hồi như, đấy là người chưa hiểu đạo. Phải nhất quyết đời
này thoát khỏi luân hồi sanh tử. Chúng ta nói thế có cao vọng lắm không? Nhiều
người cho rằng: Trong kinh Phật nói phải tu ba A tăng kỳ kiếp, còn mình tu một
đời này chắc gì giải thoát? Nghĩ như vậy rồi thối tâm, cứ tu lơ là cho qua
ngày, sợ ráng tu quá thì đổ nghiệp. Vì thế, khuya thức dậy tụng một thời công
phu, kế xuống lo ăn uống, ăn xong lo đi thăm tín đồ hoặc đi lo vài công việc
trong chùa, chừng về mệt quá mở radio nằm nghe một hồi, rồi ngủ một giấc, thức
dậy lại ăn cơm, ăn xong lại ngủ v.v… Cứ thế mà tiếp diễn ngày này qua ngày khác
cuộn tròn trong vòng say mê ấy, hỏi chừng nào mới giải thoát? Trong kinh Pháp
Hoa, Phật đã nói: Ngài cùng Bồ Tát Di-Lặc xuất gia tu hành một lúc, mà Ngài thì
tinh tấn nên sớm thành Phật, còn Bồ Tát Di-Lặc cứ mãi la cà những nơi sang
giàu, nên lần khần mãi đến nay cũng còn là Bồ Tát. Nhờ tinh tấn mà vượt qua bao
nhiêu số kiếp, còn giải đãi thì không biết đến chừng nào? Thuở Phật còn tại
thế, cũng có một số Tăng sĩ thấy mình không kham tiến tu được nên xin hoàn tục.
Đối với những vị ấy, tuy sống trong thời chánh pháp mà chẳng khác chi mạt pháp,
vì không tiến được. Còn chúng ta ngày nay tuy sống trong đời mạt pháp, mà y
theo lời Phật Tổ dạy nỗ lực tiến tu, khắc một chữ Tử trên trán, không sợ chết,
quyết định tu một đời này cho liễu ngộ, ấy là chúng ta đã chuyển mạt pháp thành
chánh pháp. Chánh pháp hay mạt pháp cũng gốc tại lòng mình. Quyết chí tiến tu, ấy
là chánh pháp, khởi lòng lui sụt, ấy là mạt pháp. Phật đâu không từng nói:
“Người tuy ở xa ta ngàn dặm mà nghe lời ta dạy y cứ tu hành thì chẳng khác nào
ở cạnh ta”. Như vậy chúng ta tuy cách Phật hơn 2.500 năm mà y theo lời Phật dạy
thực hành thì cũng giống như được sống trong thời có Phật. Sở dĩ nói thời mạt
pháp khó tu, là vì chúng ta giải đãi là một, ý chí yếu hèn là hai. Nếu ở thời mạt
pháp mà chúng ta lập chí cho vững, tinh tấn không dừng thì mạt pháp đã trở
thành chánh pháp.
Thí dụ: xứ mình là xứ nóng, nhưng người xứ lạnh sang đây ở, họ trang bị
phòng có máy lạnh thì họ đâu còn thấy nóng nữa. Như vậy họ đã chuyển nóng thành
mát, đổi xấu thành tốt. Đó là nói về
vật chất huống nữa là
tinh thần. Như trong
thời khó tu nếu
ý chí chúng ta mạnh thì có thể đổi hết. Người có chí việc khó
biến thành dễ, người không có chí việc dễ
biến thành khó. Vì thế quí vị không nên
than phiền, mình sống trong
thời mạt pháp khó tu, mà chỉ nên
than phiền sao
chúng ta lười biếng đua đòi! Như thấy người ta sắm radio nghe vui vui, mình
cũng bắt chước sắm theo;
đua đòi như thế tất bị
chi phối, khi đã bị
chi phối rồi
thì việc tu càng ngày càng bê trể, đó là bệnh của
chúng ta chớ không phải bệnh
của
thời đại.
Thời đại cũng là một
yếu tố làm cho
chúng ta khó tu,song biết đâu
nếu chí
chúng ta mạnh thì đó cũng là cái hay giúp
chúng ta tiến tu. Đừng
bi
quan vì nghĩ là đời
mạt pháp, mà chỉ nên tự thẹn mình không có chí. Vì thế, Tổ
dạy
chúng ta phải
lập chí giải thoát,
nhất định chúng ta sẽ ra khỏi
cõi trần
một ngày
gần đây, chớ không để đắm chìm
mãi mãi.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ
áp
dụng bốn câu này vào đời tu của mình, mới thật là người
xuất gia chân chánh.