Kyabje Trulshik Rinpoche (1924 – 2011)

28/08/20163:28 SA(Xem: 13730)
Kyabje Trulshik Rinpoche (1924 – 2011)

KYABJE TRULSHIK RINPOCHE (1924 – 2011)
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

trulshik rinpoche (2)Bậc thầy – người với lòng bi mẫn lớn lao mà chúng ta hằng nhớ tưởng và biết ơn – Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, là một trong số những Đại Sư cuối cùng hoàn thành nghiêm túc sự nghiên cứu mở rộng các giáo huấnthực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng trong môi trường văn hóa đặc sắc của Tây Tạng trước thời kỳ Trung Quốc xâm lăng. Là đệ tử thân thiết của các hành giả Phật giáo vĩ đại của thế kỷ, bao gồm Đức Dilgo Khyentse Rinpoche và Đức Dudjom Rinpoche, Ngài là một trong số các bậc thầy mà Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn kính trọng, Ngài nắm giữ một truyền thừa giới luật Vinaya quan trọng và là bậc thừa kế của rất nhiều các giáo huấn và sự trao truyền quý giá.

Đức Kyabje Trulshik Rinpoche – Ngawang Chökyi Lodrö là hóa thân của Ngài Zhadeu Trulshik Dongak Lingpa Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của Đức Kim Cương Thủ và Đức Văn Thù Sư Lợi. Kể từ thời của Đức Phật, để làm lợi lạc cho chúng sinh toàn cõi Ấn Độ, Nê-pan và Tây Tạng, Ngài đã liên tục thị hiện một chuỗi dài các hóa thân, bao gồm vị thị giả đệ tử của Đức Phật, Ngài A Nan Đà Tôn giả; vị đạo sư vĩ đại người Ấn Độ Āryadeva [Tôn giả Thánh Thiên]; Thönmi Sambhota, một trong số các vị thượng thư của Vua Tùng Tán Cán Bố (Songtsen Gampo), tác giả của bộ sách đầu tiên về ngữ pháp tiếng Tạng – Ba Mươi Đoạn (sum cu pa) và Áp Dụng Các Kí Hiệu (rtags kyi ’jug pa); tu viện trưởng Śāntarakita [Tôn giả Tịch Hộ]; đại dịch giả Vairochana; Ngài Phamthingpa Vāgīśvarakīrti (Ngawang Trakpa) ở Nepal; Rechungpa, vị đệ tử thân cận của Tổ Milarepa; thành tựu giả vĩ đại Lékyi Dorje ở xứ Lhodrak; và Đức Zhadeu Trulshik Kunga Rinchen. Đây chỉ là một vài trong số các hóa thân đời trước của Đức Trulshik Rinpoche. Có rất nhiều các hóa thân được đề cập đến trong lời cầu nguyện cho lần tái sinh tiếp theo của Ngài. Nhưng thực tế là, phạm vi đầy đủ về các hoạt động của một Bậc Giác Ngộ là không thể nghĩ bàn, cho dù là các vị Đại Bồ Tát cũng không thể nào hiểu nổi, huống gì những người sơ cơ như chúng ta.

Trong lần hóa thân này, cha của Ngài tên là Tenzin Chosdrak. Gia đình bên nội của Ngài có thể truy nguyên từ một thành viên của bộ tộc Licchavi ở Ấn Độ. Vị này đã đến Latö ở Tây Tạng trên lưng của một con gấu. Con gấu này là hóa thân của vị nữ bảo hộ Palden Lhamo. Mẹ của Ngài, Bà Jamyang Wangmo, là con gái trong một gia đìnhtổ tiên là Đức Önré Dharma Senge, cháu trai của Tổ sáng lập dòng Drukpa Kagyu, Ngài Tsangpa Gyarepa. Gia đình vẫn cư ngụ tại ngôi nhà của Đức Önré ở vùng Nakartsé gần Yamdrok Taklung ở vùng hạ Tsang. Và ở đó, trong một hang động nơi mà Đức Önré đã thực hành phía bên trên ngôi nhà, Ngài Trulshik Rinpoche đã chào đời vào mùng 10 tháng 9 năm Giáp Tý (tức ngày 6/11/1924), với nhiều dấu hiệu diệu kỳ.

Lên bốn tuổi, Kyabje Trulshik Rinpoche đi thăm một vùng được gọi là Dzarong Phu, ở quận Shelkar xứ Latö, theo lời đề nghị của Dzatrul Rinpoche Ngawang Tenzin Norbu, vị đệ tử thân thiết của lần hóa thân trước đó của Ngài. Trong đời trước, hóa thân của Ngài có Thánh danh là Trulshik Donga Lingpa, và cũng được biết đến như là Zhadeu Kunzang Thongdröl Dorje. Ở đó, trí nhớ về các sự kiện trong đời trước bỗng trào dâng trong tâm trí Ngài. Ngài kể lại chúng một cách chi tiết – trước sự ngạc nhiên của Dzatrul Rinpoche, người đã chứng kiến tận mắt những sự kiện này. Tin chắc rằng, cậu bé chính là hóa thân của Ân Sư Trulshik Donga Lingpa, Dzatrul Rinpoche công nhận và làm lễ tấn phong cho Ngài, và sau đó, truyền lại cho Ngài mọi giáo pháp của vị tiền nhiệm.

Kyabje Trulshik Rinpoche đã nghiên cứu sâu rộngtu viện Mindrolling, trụ xứ vĩ đại của truyền thống Cựu Dịch. Cũng ở đó, từ bậc thầy Trikhen Chung Rinpoche và Minling Khenchen Khyentse Norbu Rinpoche, Ngài nhận trọn vẹn giới Cụ túc theo dòng truyền thừa giới luật từ Đức Lachen Gongpa Rabsel và trở thành một trong những vị trì giữ dòng truyền thừa đó và nổi tiếnggiới hạnh thanh tịnh.

Ngài cũng đã thọ nhận và nghiên cứu chi tiết nhiều giáo lý về Kinh điển, Mật điển cùng các nhánh kiến thức khác từ hơn ba mươi vị thầy quan trọng. Trong đó có các vị đạo sư của truyền thống Nyingma, như Đức Minling Dodzin Rinpoche, vị nữ đạo sư nổi tiếng Shuksep Jetsun Rinpoche, Đức Dudjom Rinpoche Jikdrel Yeshe Dorje, và Đức Dilgo Khyentse Rinpoche; và với các đạo sư của dòng Gelug như: Đức Lhundrup Tsöndru Rinpoche của tu viện Ganden, Đức Phurchok Jamgon Rinpoche, Đức Gendun Tashi Rinpoche của tu viện Drepung, và vị nắm giữ pháp tòa Ganden – Ling Rinpoche, Đức Đạt Lai Lạt Ma và thầy giáo thọ Serkong Rinpoche; từ Đức Sakya Drolma Podrang Rinpoche, Phuntsok Podrang Dakchen Rinpoche, Ngor Luding Khenchen Jamyang Tenpai Nyima Rinpoche và đặc biệt từ vị đạo sư bất bộ phái Dzongsar Khyentse Rinpoche Chökyi Lodrö vĩ đại.

Ngài không chỉ nghiên cứu mà còn thực hành tất cả các giáo huấn và trao truyền quan trọng. Ngài hoàn thành rất nhiều đợt nhập thất ba năm cẩn mậtsử dụng mọi thời gian có thể để thực hànhnghiên cứu. Tựu chung lại, Kyabje Trulshik Rinpoche đã dành ít nhất là 60 năm trong đời để nhập thất.

Theo lời khuyên của Dzatrul Rinpoche, Ngài tiếp quản nhiệm vụ tu viện trưởng ở tu viện Dzarong Dongak Chöling, gìn giữ, bảo vệ và hoằng dương giáo pháp. Đặc biệt, mỗi năm ở Tây Tạng (và sau đó là ở tu viện Thubten Chöling ở Nê-pan), Ngài hướng dẫn cho các đệ tử – Tăng, Ni và Phật tử trong các khóa nhập thất theo mùa về sự thực hành theo những sắp xếp của Dzatrul Rinpoche về Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo của Tổ Gyalse Thogme, các thực hành tiên yếu Jowo Thugje Chenpo – Trừ ám Minh Đăng Đại Bi Quan Thế Âm và các pháp của Kho Tàng Phương Bắc Jangter.

Khi Tây Tạng bị xâm chiếm vào năm 1959, Trulshik Rinpoche rời khỏi đất nước và xây dựng một tu viện ở miền hẻo lánh Solo Khumbu của Nê-pan, gần Everest. Nơi đây, Ngài đã thiết lập vị tríbản như là người đứng đầu của một cộng đồng đông đảo các Tăng, Ni và Phật tử.

Khi Trulshik Rinpoche ở tuổi 38, Ngài nhận các quán đỉnh, trao truyền qua sự đọc và sự giải thích toàn thể Kahma của dòng Nyingma [Nyingma Kahma] từ Đức Dudjom Rinpoche ở Kalimpong, Đông Bắc Ấn Độ. Ngài cũng là người bảo trợ cho các giáo pháp quan trọng đó. Đây là cơ hội đầu tiên Ngài được hạnh ngộ Đức Dilgo Khyentse Rinpoche. Chính trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, từ vị đạo sư vĩ đại, Ngài nhận được những chú giải về Thư Gửi Bạn của Tổ Long Thọ, như là một sự kết nối quan trọng. Khyentse Rinpoche sau đó trao cho Ngài về kho tàng do chính Đức Khyentse phát lộ – Nyakluk Phurba, và sau đó, trở thành bậc thầy thân thiết của Ngài. Trulshik Rinpoche coi Dilgo Khyentse Rinpoche là một vị đạođặc biệt theo đúng nghĩa, và đồng thời với việc nhận các giáo lý, Ngài cũng trao truyền cho Dilgo Khyentse Rinpoche một vài giáo huấn hiếm có mà Ngài nắm giữ. Mối quan hệ đạo sưđệ tử mà các Ngài phát triển thật là phi thường, giáo pháp được truyền từ người này sang người khác như cam lồ quý báu bên trong chiếc bình này được rót sang chiếc bình khác. Trulshik Rinpoche nhận từ Dilgo Khyentse Rinpoche một lượng lớn các giáo pháp, bao gồm trọn vẹn pho Dam-ngak Dzö và các bộ pháp quan trọng khác. Trulshik Rinpoche trở thành người nắm giữ các giáo pháp của chính Đức Dilgo Khyentse Rinpoche. Là một trong số các đệ tử thân thiếtthành tựu nhất của vị Khyentse này, Ngài đã đảm nhiệm công việc tìm kiếm hóa thân và tổ chức lễ đăng quang cho vị hóa thân Yangsi Khyentse mới.

Trulshik Rinpoche trao truyền quán đỉnh cho Đức Dalai LamaTrước khi thị tịch nhiều năm, Dilgo Khyentse Rinpoche đã trao truyền một bộ các giáo pháp quan trọng của dòng Nyingma cho đương kim Đạt Lai Lạt Ma, bao gồm các bộ pháp cơ bản về Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga trong Mật thừa. Vinh dự tiếp tục trao truyền những phần còn lại của giáo pháp chính là của Đức Trulshik Rinpoche, Ngài sẽ tiếp tục trao truyền các quán đỉnhgiáo pháp cho Đức Đạt Lai Lạt ma, bao gồm bộ pháp của Druptap Döjo’i Pumzang, được kết tập bởi Minling Terchen Rinpoche (người đã trao truyền các giáo lý của dòng Nyingma cho Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ V), và các bản văn quan trọng của Tổ Longchen Rabjampa, như là Ngalso Khorsum, Thất Bảo TạngNyingtik Yabzhi. Đồng thời với những giáo huấn quan trọng từ dòng Nyingma, còn có rất nhiều các giáo huấn của dòng Gelug mà Đức Trulshik Rinpoche là bậc nắm giữ duy nhất cũng được truyền cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Trulshik Rinpoche đã dạy rất nhiều vị thầy vĩ đại khác. Ví dụ, Ngài là một trong số các đạo sư của Đức Sakya Trizin[1]; Ngài truyền bộ pháp Rinchen Terdzo cho Đức Gyalwang Drukpa[2]tu viện Thubten Chöling; và Ngài cũng truyền các tập giáo lý quan trọng cho Dilgo Khyentse Yangsi Rinpoche, Dudjom Yangsi Rinpoche và nhiều bậc trì giữ các dòng truyền thừa khác của Tây Tạngtu viện Shechen ở Nê-pan, bao gồm Dam-ngak Dzö, Nyingma KahmaNyingtik Yabzhi.

Ngài tiếp tục thúc đẩy việc giữ gìn và hoằng bá giáo lý và sự thực hành Phật Pháp. Ngài đi đến khắp nơi trên thế giới trong những năm cuối đời, và được các vị Lạt ma của mọi truyền thống coi như là một hình mẫu của sự tham chiếu, nghiên cứu rộng lớn, tính trung thực, sự giản dị và trên tất thảy là những kinh nghiệm và sự chứng ngộ sâu sắc của Ngài mà không ai có thể sánh nổi trong thời đại hiện nay.

Trulshik Rinpoche đi đến rất nhiều nơi ở châu Á, bao gồm Nhật Bản, Thái Lan và Ma-lai-xi-a, và Ngài cũng đã đến Hoa Kỳ. Ngài đi thăm châu Âu rất nhiều lần, trong đó có Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Phần Lan và Hà Lan, và đặc biệt Ngài đã từ bi chấp thuận lời mời đến thăm nước Pháp nhiều năm trước và chăm sóc tất cả chúng tôi, ban các giáo huấn cho những đệ tử may mắn trong cuộc nhập thất ba năm nghiêm mật song song với các cuộc nhập thất theo nhóm và cho đại chúng. Ngài đã hoàn thành sự trao truyền Druptap Küntü cũng như là các quán đỉnh từ terma được phát lộ bởi Kangyur Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche và Dudjom Rinpoche. Một lần, trong khi đang ban quán đỉnh Pháp Tsigdun LadrubCơn Mưa Gia Trì trong kho tàng của Kangyur Rinpoche (Bộ pháp này Ngài đã nhận được từ Đức Dilgo Khyentse Rinpoche), Ngài nhận thấy Ngài đã nhận nó trực tiếp từ Đức Kangyur Rinpoche. Vì trong lần đầu tiên gặp Kangyur Rinpoche và nghe thấy giọng nói của vị Terton này ở Kalimpong trong một buổi giảng pháp về pho Kahma của dòng Nyingma, Ngài nói rằng Ngài đã nhận được ân phước gia trì về thân, khẩu và ý, và tâm của các Ngài đã tan hòa.

Bước sang tuổi tám mươi, Trulshik Rinpoche vẫn tiếp tục các hoạt động giác ngộ không mệt mỏi nhằm làm lợi lạc cho Thánh Pháp và giúp đỡ tất cả chúng sinh có kết nối với Ngài, với một năng lượng và lòng nhiệt thành không hề suy giảm. Trong những năm cuối đời, dù sức khỏe dần dần suy giảm, Ngài tiếp tục ban các giáo huấn cho chúng đệ tử ở châu Á, châu Âu, và dành thời giantu viện Thubten Chöling để hướng dẫn một cộng đồng lớn gồm Tăng, Ni và các hành giả nhập thất ở đó.

Ngài cũng đảm trách việc xây dựng tu viện mới, Dzarong Mindrol Thubten Dongak Choling ở trên một ngọn núi vùng Sitapaila, ngoại ô Kathmandu. Đích thân Ngài tiến hành các buổi lễ quan trọng trong quá trình xây dựng, ví dụ như lễ ban phước cho mặt đất hay là việc đặt các bình, hình ảnh, thần chú, linh phù (yantra) vào trong cột trụ và xà của ngôi chùa chính … Ngài thường dạy rằng, việc Ngài xây tu viện này là để xua tan chướng ngại cho thế giới nói chung và đặc biệt cho dân chúng quanh vùng Hy Mã Lạp Sơn. Vì vậy, Ngài chọn vị trí đặc biệt này để có thể nhìn thấy ba bảo tháp quan trọng ở thung lũng Kathmandu, Swayambhū, Namo Buddha, và Boudha. Từ trên ngọn đồi mà tu viện có thể nhìn bao quát toàn cảnh thung lũng được gắn kết với Phật Tỳ Lô Giá Na, ngọn đồi gần đó ở Swayambhū gắn liền với Đức Kim Cương Tát Đỏa, ngọn đồi của tu viện Tergar là Đức Bảo Sinh Như Lai, và ngọn đồi của Đức Vô Lượng Quang ở phía sau, ngọn đồi cao, đầy cây cối của Ngài Long Thọ hướng về phía Bắc thì gắn liền với Bất Không Thành Tựu Như Lai.

Cũng ở đó, phía bên trên tu viện, nơi Ngài cư ngụ ở Phakmai Gatsal (khu vườn của Thánh Cứu Độ Mẫu), vào ngày 2 tháng 9 năm 2011, Ngài đã an nhiên thị tịch ở tuổi 87.

Bất kỳ ai có kết nối với vị Đại Sư này, dù đã gặp Ngài hay chưa, sẽ được Ngài hướng dẫn cho đến khi đạt giác ngộ. Vì vậy, việc quan trọng là phải cầu nguyện đến Ngài, hòa tâm mình với tâm Ngài. Các lời cầu nguyện hay thực hành chúng ta làm không phải vì Trulshik Rinpoche, mà là vì chính chúng ta, để chúng ta có thể tiếp tục nhận được lợi lạc từ các hoạt động giác ngộ của Ngài. Trulshik Rinpoche là một Đạo Sư giác ngộ, Ngài đã thị hiện trên thế gian này để hướng dẫn chúng ta với lòng bi mẫn cho đến ngày chúng tathể không tách rời với tâm giác ngộ của Ngài.

Trulshik Rinpoche luôn luôn nói rằng, các thực hành của Ngài là theo đoạn thơ của Bồ Tát Tịch Thiên:

Hư không còn,

Chúng sinh còn,

Thì ta còn,

Để xua tan những khổ đau của thế giới này.

Chúng ta biết rằng đây là lời phát nguyên của Đức Trulshik Rinpoche. Vì thế, chúng ta tự tin Ngài sẽ nhanh chóng trở lại tiếp tục các hoạt động giác ngộlợi lạc của chúng sinh.

 

Dựa trên bản tiểu sử của Đức Trulshik Rinpoche viết bởi cháu của Ngài, cũng là thị giả chính, Kusho Ngawang Tsephel, bản tiểu sử này được chỉnh sửa lại bởi Đức Jigme Khyentse Rinpoche và Đức Pema Wangyal Rinpoche vào tháng chín năm 2011. Nhóm Padmakara dịch sang Anh ngữ và hiệu đính.

 

 

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

Mọi sai sót trong quá trình chuyển dịch là lỗi của người dịch, xin thành tâm sám hối trước Tam Bảo, Tam Gốc.

Mọi công đức có được xin hồi hướng cho tất thảy hữu tình chúng sinh.

 



[1] Đức Sakya Trizin là bậc trì giữ Pháp tòa của truyền thống Sakya thuộc Phật giáo Tây Tạng.

[2] Đức Gyalwang Drukpa là vị đứng đầu dòng truyền thừa Drukpa Kagyu.







Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.