Tập 3 (Quyển 64 – 75)

07/05/201012:00 SA(Xem: 27526)
Tập 3 (Quyển 64 – 75)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Trí Nghiêm

 TẬP 3 (Quyển 64 – 75)


XVIII. PHẨM VÔ SỞ ĐẮC

 04

Xá Lợi Tử! Nhãn giới và tánh của nhãn giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của nhãn giới, nhãn giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi nhãn giới và tánh của cái phi nhãn giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi nhãn giới, cái phi nhãn giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tánh của cái phi sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cái phi sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính nhãn giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa nhãn giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới và tánh của nhĩ giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của nhĩ giới, nhĩ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi nhĩ giới và tánh của cái phi nhĩ giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi nhĩ giới, cái phi nhĩ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tánh của cái phi thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cái phi thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính nhĩ giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa nhĩ giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới và tánh của tỷ giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tỷ giới, tỷ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi tỷ giới và tánh của cái phi tỷ giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi tỷ giới, cái phi tỷ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tánh của cái phi hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cái phi hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính tỷ giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tỷ giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới và tánh của thiệt giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của thiệt giới, thiệt giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi thiệt giới và tánh của cái phi thiệt giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi thiệt giới, cái phi thiệt giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tánh của cái phi vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cái phi vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính thiệt giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thiệt giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Thân giới và tánh của thân giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của thân giới, thân giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi thân giới và tánh của cái phi thân giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi thân giới, cái phi thân giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tánh của cái phi xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cái phi xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính thân giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thân giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Ý giới và tánh của ý giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của ý giới, ý giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi ý giới và tánh của cái phi ý giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi ý giới, cái phi ý giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tánh của cái phi pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cái phi pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính ý giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa ý giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Địa giới và tánh của địa giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của địa giới, địa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi địa giới và tánh của cái phi địa giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi địa giới, cái phi địa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của cái phi thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cái phi thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính địa giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa địa giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính thủy, hỏa, phong, không, thức giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của Thánh đế khổ, Thánh đế khổ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi Thánh đế khổ và tánh của cái phi Thánh đế khổ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi Thánh đế khổ, cái phi Thánh đế khổ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không. Vì sao? Vì trong tánh không của Thánh đế tập, diệt, đạo, Thánh đế tập, diệt, đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của cái phi Thánh đế tập, diệt, đạo là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi Thánh đế tập, diệt, đạo, cái phi Thánh đế tập, diệt, đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính Thánh đế khổ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Thánh đế khổ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính Thánh đế tập, diệt, đạo, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Thánh đế tập, diệt, đạo, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vô minh và tánh của vô minh là không. Vì sao? Vì trong tánh không của vô minh, vô minh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi vô minh và tánh của cái phi vô minh là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi vô minh, cái phi vô minh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không. Vì sao? Vì trong tánh không của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tánh của cái phi hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cái phi hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính vô minh, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa vô minh, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa và tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của bố thí Ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi bố thí Ba-la-mật-đa và tánh của cái phi bố thí Ba-la-mật-đa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi bố thí Ba-la-mật-đa, cái phi bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tánh của cái phi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cái phi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính bố thí Ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bố thí Ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không. Vì sao? Vì trong tánh không của bốn tịnh lự, bốn tịnh lự không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi bốn tịnh lự và tánh của cái phi bốn tịnh lự là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi bốn tịnh lự, cái phi bốn tịnh lự không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Vì sao? Vì trong tánh không của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của cái phi bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cái phi bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính bốn tịnh lự, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn tịnh lự, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát và tánh của tám giải thoát là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tám giải thoát, tám giải thoát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi tám giải thoát và tánh của cái phi tám giải thoát là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi tám giải thoát, cái phi tám giải thoát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của cái phi tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cái phi tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính tám giải thoát, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tám giải thoát, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của bốn niệm trụ, bốn niệm trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi bốn niệm trụ và tánh của cái phi bốn niệm trụ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi bốn niệm trụ, cái phi bốn niệm trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Vì sao? Vì trong tánh không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tánh của cái phi bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, cái phi bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính bốn niệm trụ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn niệm trụ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không và tánh của pháp môn giải thoát không là không. Vì sao? Vì trong tánh không của pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi pháp môn giải thoát không và tánh của cái phi pháp môn giải thoát không là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi pháp môn giải thoát không, cái phi pháp môn giải thoát không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Vì sao? Vì trong tánh không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của cái phi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cái phi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính pháp môn giải thoát không, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp môn giải thoát không, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không. Vì sao? Vì trong tánh không của năm loại mắt, năm loại mắt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi năm loại mắt và tánh của cái phi năm loại mắt là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi năm loại mắt, cái phi năm loại mắt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không. Vì sao? Vì trong tánh không của sáu phép thần thông, sáu phép thần thông không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi sáu phép thần thông và tánh của cái phi sáu phép thần thông là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi sáu phép thần thông, cái phi sáu phép thần thông không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính năm loại mắt, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa năm loại mắt, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính sáu phép thần thông, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sáu phép thần thông, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật và tánh của mười lực của Phật là không. Vì sao? Vì trong tánh không của mười lực của Phật, mười lực của Phật không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi mười lực Phật và tánh cái phi mười lực của Phật là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi mười lực Phật, cái phi mười lực của Phật không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là không. Vì sao? Vì trong tánh không của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng, bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của cái phi bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng, cái phi bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính mười lực của Phật, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa mười lực của Phật, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Trí đạo tướng và tánh của trí đạo tướng là không. Vì sao? Vì trong tánh không của trí đạo tướng, trí đạo tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi trí đạo tướng và tánh của cái phi trí đạo tướng là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi trí đạo tướng, cái phi trí đạo tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính trí đạo tướng, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa trí đạo tướng, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không. Vì sao? Vì trong tánh không của pháp không quên mất, pháp không quên mất không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi pháp không quên mất và tánh của cái phi pháp không quên mất là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi pháp không quên mất, cái phi pháp không quên mất không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi tánh luôn luôn xả và tánh của cái phi tánh luôn luôn xả là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi tánh luôn luôn xả, cái phi tánh luôn luôn xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính pháp không quên mất, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp không quên mất, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính tánh luôn luôn xả, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tánh luôn luôn xả, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của cái phi tất cả pháp môn Đà-la-ni là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi tất cả pháp môn Đà-la-ni, cái phi tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của cái phi tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cái phi tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính tất cả pháp môn Đà-la-ni, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Cái không nội và tánh của cái không nội là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái không nội, cái không nội không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi cái không nội và tánh cái phi cái không nội là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi cái không nội, cái phi không nội không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh và tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh và tánh của cái phi cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, cái phi cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính cái không nội, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa cái không nội, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chơn như và tánh của chơn như là không. Vì sao? Vì trong tánh không của chơn như, chơn như không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi chơn như và tánh cái phi chơn như là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi chơn như, cái phi chơn như không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết-bàn và tánh của pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn là không. Vì sao? Vì trong tánh không của pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn, pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn và tánh của cái phi pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn, cái phi pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính chơn như, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa chơn như, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa và tánh của Thanh-văn thừa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của Thanh-văn thừa, Thanh-văn thừa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi Thanh-văn thừa và tánh của cái phi Thanh-văn thừa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi Thanh-văn thừa, cái phi Thanh-văn thừa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Độc-giác thừa, Đại-thừa và tánh của Độc-giác thừa, Đại-thừa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của Độc-giác thừa, Đại-thừa, Độc-giác thừa, Đại-thừa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi Độc-giác thừa, Đại-thừa và tánh của cái phi Độc-giác thừa, Đại-thừa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi Độc-giác thừa, Đại-thừa, cái phi Độc-giác thừa, Đại-thừa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính Thanh-văn thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Thanh-văn thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính Độc-giác thừa, Đại-thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Độc-giác thừa, Đại-thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn và tánh của Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn là không. Vì sao? Vì trong tánh không của Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn, Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn và tánh của cái phi Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn, cái phi Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa và tánh của Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa, Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa và tánh của cái phi Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa, cái phi Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là chính Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Bổ-đặc-già-la của Độc-giác, Đại-thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói, đối với tất cả pháp, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian, để cầu đại Bồ-tát, hoàn toàn không sở hữu và chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao lại khiến tôi dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa để dạy bảo, trao truyền cho các đại Bồ-tát?

Xá Lợi Tử! Vì tánh của sắc là không, nên sắc đối với sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, sắc đối với thọ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thọ là không, nên thọ đối với thọ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thọ đối với sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thọ đối với tưởng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tưởng là không, nên tưởng đối với tưởng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tưởng đối với sắc, thọ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thọ, tưởng đối với hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của hành là không, nên hành đối với hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; hành đối với sắc, thọ, tưởng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thọ, tưởng, hành đối với thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thức là không, nên thức đối với thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thức đối với sắc, thọ, tưởng, hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của nhãn xứ là không, nên nhãn xứ đối với nhãn xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn xứ đối với nhĩ xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của nhĩ xứ là không, nên nhĩ xứ đối với nhĩ xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhĩ xứ đối với nhãn xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn, nhĩ xứ đối với tỷ xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tỷ xứ là không, nên tỷ xứ đối với tỷ xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tỷ xứ đối với nhãn, nhĩ xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn, nhĩ, tỷ xứ đối với thiệt xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thiệt xứ là không, nên thiệt xứ đối với thiệt xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thiệt xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt xứ đối với thân xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thân xứ là không, nên thân xứ đối với thân xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thân xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xứ đối với ý xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của ý xứ là không, nên ý xứ đối với ý xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; ý xứ đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của sắc xứ là không, nên sắc xứ đối với sắc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc xứ đối với thanh xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thanh xứ là không, nên thanh xứ đối với thanh xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thanh xứ đối với sắc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thanh xứ đối với hương xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của hương xứ là không, nên hương xứ đối với hương xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; hương xứ đối với sắc, thanh xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, sắc, thanh, hương xứ đối với vị xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của vị xứ là không, nên vị xứ đối với vị xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vị xứ đối với sắc, thanh, hương xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thanh, hương, vị xứ đối với xúc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của xúc xứ là không, nên xúc xứ đối với xúc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; xúc xứ đối với sắc, thanh, hương, vị xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ đối với pháp xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp xứ là không, nên pháp xứ đối với pháp xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, pháp xứ đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Quyển Thứ 64

HẾT

 

05

Xá Lợi Tử! Vì tánh của nhãn giới là không, nên nhãn giới đối với nhãn giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn giới đối với sắc giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của sắc giới là không, nên sắc giới đối với sắc giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc giới đối với nhãn giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn giới, sắc giới đối với nhãn thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của nhãn thức giới là không, nên nhãn thức giới đối với nhãn thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn thức giới đối với nhãn giới, sắc giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới đối với nhãn xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của nhãn xúc là không, nên nhãn xúc đối với nhãn xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhãn xúc đối với nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, nên các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đối với nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của nhĩ giới là không, nên nhĩ giới đối với nhĩ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhĩ giới đối với thanh giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thanh giới là không, nên thanh giới đối với thanh giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thanh giới đối với nhĩ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhĩ giới, thanh giới đối với nhĩ thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của nhĩ thức giới là không, nên nhĩ thức giới đối với nhĩ thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhĩ thức giới đối với nhĩ giới, thanh giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới đối với nhĩ xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của nhĩ xúc là không, nên nhĩ xúc đối với nhĩ xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhĩ xúc đối với nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc đối với các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, nên các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đối với nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, và nhĩ xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợ i Tử! Vì tánh của tỷ giới là không, nên tỷ giới đối với tỷ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tỷ giới đối với hương giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của hương giới là không, nên hương giới đối với hương giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; hương giới đối với tỷ giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tỷ giới, hương giới đối với tỷ thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tỷ thức giới là không, nên tỷ thức giới đối với tỷ thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tỷ thức giới đối với tỷ giới, hương giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới đối với tỷ xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tỷ xúc là không, nên tỷ xúc đối với tỷ xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tỷ xúc đối với tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc đối với các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, nên các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đối với tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới, và tỷ xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của thiệt giới là không, nên thiệt giới đối với thiệt giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thiệt giới đối với vị giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của vị giới là không, nên vị giới đối với vị giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vị giới đối với thiệt giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thiệt giới, vị giới đối với thiệt thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thiệt thức giới là không, nên thiệt thức giới đối với thiệt thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thiệt thức giới đối với thiệt giới, vị giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới đối với thiệt xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thiệt xúc là không, nên thiệt xúc đối với thiệt xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thiệt xúc đối với thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc đối với các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, nên các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đối với thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, và thiệt xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của thân giới là không, nên thân giới đối với thân giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thân giới đối với xúc giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của xúc giới là không, nên xúc giới đối với xúc giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, xúc giới đối với thân giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thân giới, xúc giới đối với thân thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thân thức giới là không, nên thân thức giới đối với thân thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thân thức giới đối với thân giới, xúc giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thân giới, xúc giới, thân thức giới đối với thân xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thân xúc là không, nên thân xúc đối với thân xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thân xúc đối với thân giới, xúc giới, thân thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc đối với các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, nên các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đối với thân giới, xúc giới, thân thức giới, và thân xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của ý giới là không, nên ý giới đối với ý giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; ý giới đối với pháp giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp giới là không, nên pháp giới đối với pháp giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp giới đối với ý giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; ý giới, pháp giới đối với ý thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của ý thức giới là không, nên ý thức giới đối với ý thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; ý thức giới đối với ý giới, pháp giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; ý giới, pháp giới, ý thức giới đối với ý xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của ý xúc là không, nên ý xúc đối với ý xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; ý xúc đối với ý giới, pháp giới, ý thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc đối với các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, nên các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đối với các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đối với ý giới, pháp giới, ý thức giới, và ý xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của địa giới là không, nên địa giới đối với địa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; địa giới đối với thủy giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thủy giới là không, nên thủy giới đối với thủy giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thủy giới đối với địa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; địa, thủy giới đối với hỏa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của hỏa giới là không, nên hỏa giới đối với hỏa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; hỏa giới đối với địa, thủy giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; địa, thủy, hỏa giới đối với phong giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của phong giới là không, nên phong giới đối với phong giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, phong giới đối với địa, thủy, hỏa giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, địa, thủy, hỏa, phong giới đối với không giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của không giới là không, nên không giới đối với không giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; không giới đối với địa, thủy, hỏa, phong giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; địa, thủy, hỏa, phong, không giới đối với thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thức giới là không nên thức giới đối với thức giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thức giới đối với địa, thủy, hỏa, phong, không giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của Thánh đế khổ là không, nên Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế khổ đối với Thánh đế tập không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Thánh đế tập là không, nên Thánh đế tập đối với Thánh đế tập không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế tập đối với Thánh đế khổ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế khổ, tập đối với Thánh đế diệt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Thánh đế diệt là không, nên Thánh đế diệt đối với Thánh đế diệt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế diệt đối với Thánh đế khổ, tập không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế khổ, tập, diệt đối với Thánh đế đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Thánh đế đạo là không, nên Thánh đế đạo đối với Thánh đế đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế đạo đối với Thánh đế khổ, tập, diệt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của vô minh là không, nên vô minh đối với vô minh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh đối với hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của hành là không, nên hành đối với hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, hành đối với vô minh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành đối với thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thức là không, nên thức đối với thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thức đối với vô minh, hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức đối với danh sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của danh sắc là không, nên danh sắc đối với danh sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; danh sắc đối với vô minh, hành, thức không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức, danh sắc đối với lục xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của lục xứ là không, nên lục xứ đối với lục xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lục xứ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ đối với xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của xúc là không, nên xúc đối với xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Xúc đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc đối với thọ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thọ là không, nên thọ đối với thọ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thọ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ đối với ái không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của ái là không, nên ái đối với ái không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; ái đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái đối với thủ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thủ là không, nên thủ đối với thủ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thủ đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ đối với hữu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của hữu là không, nên hữu đối với hữu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; hữu đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu đối với sanh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của sanh là không, nên sanh đối với sanh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sanh đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh đối với lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, nên lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đối với lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đối với vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không, nên bố thí Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tịnh giới Ba-la-mật-đa là không, nên tịnh giới Ba-la-mật-đa đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tịnh giới Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bố thí, tịnh giới Ba-la-mật-đa đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của an nhẫn Ba-la-mật-đa là không, nên an nhẫn Ba-la-mật-đa đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; an nhẫn Ba-la-mật-đa đối với bố thí, tịnh giới Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bố thí, tịnh giới, an nhẫn Ba-la-mật-đa đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tinh tấn Ba-la-mật-đa là không, nên tinh tấn Ba-la-mật-đa đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tinh tấn Ba-la-mật-đa đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tịnh lự Ba-la-mật-đa là không, nên tịnh lự Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tịnh lự Ba-la-mật-đa đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không, nên Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của bốn tịnh lự là không, nên bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn tịnh lự đối với bốn vô lượng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bốn vô lượng là không, nên bốn vô lượng đối với bốn vô lượng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn vô lượng đối với bốn tịnh lự không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn tịnh lự, bốn vô lượng đối với bốn định vô sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bốn định vô sắc là không, nên bốn định vô sắc đối với bốn định vô sắc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn định vô sắc đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của tám giải thoát là không, nên tám giải thoát đối với tám giải thoát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tám giải thoát đối với tám thắng xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tám thắng xứ là không, nên tám thắng xứ đối với tám thắng xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tám thắng xứ đối với tám giải thoát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tám giải thoát, tám thắng xứ đối với chín định thứ đệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của chín định thứ đệ là không, nên chín định thứ đệ đối với chín định thứ đệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chín định thứ đệ đối với tám giải thoát, tám thắng xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ đối với mười biến xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của mười biến xứ là không, nên mười biến xứ đối với mười biến xứ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười biến xứ đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của bốn niệm trụ là không, nên bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn niệm trụ đối với bốn chánh đoạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bốn chánh đoạn là không, nên bốn chánh đoạn đối với bốn chánh đoạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn chánh đoạn đối với bốn niệm trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn đối với bốn thần túc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bốn thần túc là không, nên bốn thần túc đối với bốn thần túc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn thần túc đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc đối với năm căn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của năm căn là không, nên năm căn đối với năm căn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; năm căn đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn đối với năm lực không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của năm lực là không, nên năm lực đối với năm lực không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; năm lực đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực đối với bảy chi đẳng giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bảy chi đẳng giác là không, nên bảy chi đẳng giác đối với bảy chi đẳng giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bảy chi đẳng giác đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác đối với tám chi thánh đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tám chi thánh đạo là không, nên tám chi thánh đạo đối với tám chi thánh đạo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tám chi thánh đạo đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của pháp môn giải thoát không là không, nên pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát vô tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp môn giải thoát vô tướng là không, nên pháp môn giải thoát vô tướng đối với pháp môn giải thoát vô tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải thoát vô tướng đối với pháp môn giải thoát không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải thoát không, vô tướng đối với pháp môn giải thoát vô nguyện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp môn giải thoát vô nguyện là không, nên pháp môn giải thoát vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô nguyện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải thoát vô nguyện đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của năm loại mắt là không, nên năm loại mắt đối với năm loại mắt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; năm loại mắt đối với sáu phép thần thông không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của sáu phép thần thông là không, nên sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sáu phép thần thông đối với năm loại mắt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của mười lực Phật là không, nên mười lực của Phật đối với mười lực của Phật không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, mười lực của Phật đối với bốn điều không sợ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bốn điều không sợ là không, nên bốn điều không sợ đối với bốn điều không sợ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ đối với mười lực của Phật không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười lực của Phật, bốn điều không sợ đối với bốn sự hiểu biết thông suốt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bốn sự hiểu biết thông suốt là không, nên bốn sự hiểu biết thông suốt đối với bốn sự hiểu biết thông suốt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn sự hiểu biết thông suốt đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt đối với đại từ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của đại từ là không, nên đại từ đối với đại từ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại từ đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ đối với đại bi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của đại bi là không, nên đại bi đối với đại bi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại bi đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi đối với đại hỷ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của đại hỷ là không, nên đại hỷ đối với đại hỷ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại hỷ đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ đối với đại xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của đại xả là không, nên đại xả đối với đại xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại xả đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đối với mười tám pháp Phật bất cộng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của mười tám pháp Phật bất cộng là không, nên mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười tám pháp Phật bất cộng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của trí nhất thiết là không, nên trí nhất thiết đối với trí nhất thiết không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; trí nhất thiết đối với trí đạo tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của trí đạo tướng là không, nên trí đạo tướng đối với trí đạo tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; trí đạo tướng đối với trí nhất thiết không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; trí nhất thiết, trí đạo tướng đối với trí nhất thiết tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của trí nhất thiết tướng là không, nên trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của pháp không quên mất là không, nên pháp không quên mất đối với pháp không quên mất không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp không quên mất đối với tánh luôn luôn xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tánh luôn luôn xả là không, nên tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được và tánh luôn luôn xả đối với pháp không quên mất không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của cái không nội là không, nên cái không nội đối với cái không nội không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội đối với cái không ngoại không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không ngoại là không, nên cái không ngoại đối với cái không ngoại không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không ngoại đối với cái không nội không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội, cái không ngoại đối với cái không nội ngoại không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không nội ngoại là không, nên cái không nội ngoại đối với cái không nội ngoại không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội ngoại đối với cái không nội, cái không ngoại không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại đối với cái không không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không không là không, nên cái không không đối với cái không không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không không đối với cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không không đối với cái không lớn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không lớn là không, nên cái không lớn đối với cái không lớn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không lớn đối với cái không nội cho đến cái không không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không lớn đối với cái không thắng nghĩa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không thắng nghĩa là không, nên cái không thắng nghĩa đối với cái không thắng nghĩa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không thắng nghĩa đối với cái không nội cho đến cái không lớn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không thắng nghĩa đối với cái không hữu vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không hữu vi là không, nên cái không hữu vi đối với cái không hữu vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không hữu vi đối với cái không nội cho đến cái không thắng nghĩa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không hữu vi đối với cái không vô vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không vô vi là không, nên cái không vô vi đối với cái không vô vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không vô vi đối với cái không nội cho đến cái không hữu vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không vô vi đối với cái không rốt ráo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không rốt ráo là không, nên cái không rốt ráo đối với cái không rốt ráo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không rốt ráo đối với cái không nội cho đến cái không vô vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không rốt ráo đối với cái không không biên giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không không biên giới là không, nên cái không không biên giới đối với cái không không biên giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không không biên giới đối với cái không nội cho đến cái không rốt ráo không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không không biên giới đối với cái không tản mạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không tản mạn là không, nên cái không tản mạn đối với cái không tản mạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không tản mạn đối với cái không nội cho đến cái không không biên giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không tản mạn đối với cái không không đổi khác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không không đổi khác là không, nên cái không không đổi khác đối với cái không không đổi khác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không không đổi khác đối với cái không nội cho đến cái không tản mạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không không đổi khác đối với cái không bản tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không bản tánh là không, nên cái không bản tánh đối với cái không bản tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không bản tánh đối với cái không nội cho đến cái không không đổi khác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không bản tánh đối với cái không tự tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không tự tướng là không, nên cái không tự tướng đối với cái không tự tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không tự tướng đối với cái không nội cho đến cái không bản tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không tự tướng đối với cái không cộng tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không cộng tướng là không, nên cái không cộng tướng đối với cái không cộng tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không cộng tướng đối với cái không nội cho đến cái không tự tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không cộng tướng đối với cái không tất cả pháp không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không tất cả pháp là không, nên cái không tất cả pháp đối với cái không tất cả pháp không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không tất cả pháp đối với cái không nội cho đến cái không cộng tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không tất cả pháp đối với cái không chẳng thể nắm bắt được không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không chẳng thể nắm bắt được là không, nên cái không chẳng thể nắm bắt được đối với cái không chẳng thể nắm bắt được không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không chẳng thể nắm bắt được đối với cái không nội cho đến cái không tất cả pháp không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không chẳng thể nắm bắt được đối với cái không không tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không không tánh là không, nên cái không không tánh đối với cái không không tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không không tánh đối với cái không nội cho đến cái không chẳng thể nắm bắt được không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không không tánh đối với cái không tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không tự tánh là không, nên cái không tự tánh đối với cái không tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không tự tánh đối với cái không nội cho đến cái không không tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không nội cho đến cái không tự tánh đối với cái không không tánh tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cái không không tánh tự tánh là không, nên cái không không tánh tự tánh đối với cái không không tánh tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái không không tánh tự tánh đối với cái không nội cho đến cái không tự tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của chơn như là không, nên chơn như đối với chơn như không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như đối với pháp giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp giới là không, nên pháp giới đối với pháp giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp giới đối với chơn như không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như, pháp giới đối với pháp tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp tánh là không, nên pháp tánh đối với pháp tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp tánh đối với chơn như, pháp giới không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như, pháp giới, pháp tánh đối với tánh chẳng hư vọng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tánh chẳng hư vọng là không, nên tánh chẳng hư vọng đối với tánh chẳng hư vọng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tánh chẳng hư vọng đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến tánh chẳng hư vọng đối với tánh chẳng đổi khác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tánh chẳng đổi khác là không, nên tánh chẳng đổi khác đối với tánh chẳng đổi khác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tánh chẳng đổi khác đối với chơn như cho đến tánh chẳng hư vọng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến tánh chẳng đổi khác đối với cảnh giới bất tư nghì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới bất tư nghì là không, nên cảnh giới bất tư nghì đối với cảnh giới bất tư nghì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới bất tư nghì đối với chơn như cho đến tánh chẳng đổi khác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đối với cảnh giới hư không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới hư không là không, nên cảnh giới hư không đối với cảnh giới hư không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới hư không đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới hư không đối với cảnh giới đoạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới đoạn là không, nên cảnh giới đoạn đối với cảnh giới đoạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới đoạn đối với chơn như cho đến cảnh giới hư không không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới đoạn đối với cảnh giới ly không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới ly là không, nên cảnh giới ly đối với cảnh giới ly không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới ly đối với chơn như cho đến cảnh giới đoạn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới ly đối với cảnh giới diệt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới diệt là không, nên cảnh giới diệt đối với cảnh giới diệt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới diệt đối với chơn như cho đến cảnh giới ly không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới diệt đối với tánh bình đẳng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tánh bình đẳng là không, nên tánh bình đẳng đối với tánh bình đẳng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tánh bình đẳng đối với chơn như cho đến cảnh giới diệt không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến tánh bình đẳng đối với tánh ly sanh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tánh ly sanh là không, nên tánh ly sanh đối với tánh ly sanh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tánh ly sanh đối với chơn như cho đến tánh bình đẳng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến tánh ly sanh đối với pháp định không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp định là không, nên pháp định đối với pháp định không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp định đối với chơn như cho đến tánh ly sanh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến pháp định đối với pháp trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp trụ là không, nên pháp trụ đối với pháp trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp trụ đối với chơn như cho đến pháp định không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến pháp trụ đối với cảnh giới vô tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới vô tánh là không, nên cảnh giới vô tánh đối với cảnh giới vô tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới vô tánh đối với chơn như cho đến pháp trụ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới vô tánh đối với cảnh giới vô tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới vô tướng là không, nên cảnh giới vô tướng đối với cảnh giới vô tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới vô tướng đối với chơn như cho đến cảnh giới vô tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới vô tướng đối với cảnh giới vô tác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới vô tác là không, nên cảnh giới vô tác đối với cảnh giới vô tác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới vô tác đối với chơn như cho đến cảnh giới vô tướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới vô tác đối với cảnh giới vô vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới vô vi là không, nên cảnh giới vô vi đối với cảnh giới vô vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới vô vi đối với chơn như cho đến cảnh giới vô tác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới vô vi đối với cảnh giới an ổn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới an ổn là không, nên cảnh giới an ổn đối với cảnh giới an ổn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới an ổn đối với chơn như cho đến cảnh giới vô vi không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới an ổn đối với cảnh giới tịch tịnh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cảnh giới tịch tịnh là không, nên cảnh giới tịch tịnh đối với cảnh giới tịch tịnh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cảnh giới tịch tịnh đối với chơn như cho đến cảnh giới an ổn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến cảnh giới tịch tịnh đối với bổn vô không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bổn vô là không, nên bổn vô đối với bổn vô không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bổn vô đối với chơn như cho đến cảnh giới tịch tịnh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến bổn vô đối với thật tế không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thật tế là không, nên thật tế đối với thật tế không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thật tế đối với chơn như cho đến bổn vô không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; chơn như cho đến thật tế đối với cứu cánh Niết-bàn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của cứu cánh Niết-bàn là không, nên cứu cánh Niết-bàn đối với cứu cánh Niết-bàn không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cứu cánh Niết-bàn đối với chơn như cho đến thật tế không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của pháp bậc Cực hỷ là không, nên pháp bậc Cực hỷ đối với pháp bậc Cực hỷ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, pháp bậc Cực hỷ đối với pháp bậc Ly cấu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Ly cấu là không, nên pháp bậc Ly cấu đối với pháp bậc Ly cấu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, pháp bậc Ly cấu đối với pháp bậc Cực hỷ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu đối với pháp bậc Phát quang không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Phát quang là không, nên pháp bậc Phát quang đối với pháp bậc Phát quang không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Phát quang đối với pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang đối với pháp bậc Diệm tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Diệm tuệ là không, nên pháp bậc Diệm tuệ đối với pháp bậc Diệm tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Diệm tuệ đối với pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ đối với pháp bậc Cực nan thắng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Cực nan thắng là không, nên pháp bậc Cực nan thắng đối với pháp bậc Cực nan thắng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực nan thắng đối với pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng đối với pháp bậc Hiện tiền không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Hiện tiền là không, nên pháp bậc Hiện tiền đối với pháp bậc Hiện tiền không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Hiện tiền đối với pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền đối với pháp bậc Viễn hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Viễn hành là không, nên pháp bậc Viễn hành đối với pháp bậc Viễn hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Viễn hành đối với pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành đối với pháp bậc Bất động không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Bất động là không, nên pháp bậc Bất động đối với pháp bậc Bất động không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Bất động đối với pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động đối với pháp bậc Thiện tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Thiện tuệ là không, nên pháp bậc Thiện tuệ đối với pháp bậc Thiện tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Thiện tuệ đối với pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ đối với pháp bậc Pháp vân không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Pháp vân là không, nên pháp bậc Pháp vân đối với pháp bậc Pháp vân không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Pháp vân đối với pháp bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của bậc Cực hỷ là không, nên bậc Cực hỷ đối với bậc Cực hỷ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, bậc Cực hỷ đối với bậc Ly cấu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Ly cấu là không, nên bậc Ly cấu đối với bậc Ly cấu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Ly cấu đối với bậc Cực hỷ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực hỷ, Ly cấu đối với bậc Phát quang không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Phát quang là không, nên bậc Phát quang đối với bậc Phát quang không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Phát quang đối với bậc Cực hỷ, Ly cấu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang đối với bậc Diệm tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Diệm tuệ là không, nên bậc Diệm tuệ đối với bậc Diệm tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Diệm tuệ đối với bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ đối với bậc Cực nan thắng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Cực nan thắng là không, nên bậc Cực nan thắng đối với bậc Cực nan thắng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực nan thắng đối với bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng đối với bậc Hiện tiền không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Hiện tiền là không, nên bậc Hiện tiền đối với bậc Hiện tiền không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Hiện tiền đối với bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền đối với bậc Viễn hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Viễn hành là không, nên bậc Viễn hành đối với bậc Viễn hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Viễn hành đối với bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành đối với bậc Bất động không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Bất động là không, nên bậc Bất động đối với bậc Bất động không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Bất động đối với bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động đối với bậc Thiện tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Thiện tuệ là không, nên bậc Thiện tuệ đối với bậc Thiện tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Thiện tuệ đối với bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ đối với bậc Pháp vân không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Pháp vân là không, nên bậc Pháp vân đối với bậc Pháp vân không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Pháp vân đối với bậc Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Quyển Thứ 65

HẾT

 

06

Xá Lợi Tử! Vì tánh của pháp bậc phàm phu là không, nên pháp bậc phàm phu đối với pháp bậc phàm phu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu đối với pháp bậc chủng tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc chủng tánh là không, nên pháp bậc chủng tánh đối với pháp bậc chủng tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc chủng tánh đối với pháp bậc phàm phu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu, chủng tánh đối với pháp bậc Đệ bát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Đệ bát là không, nên pháp bậc Đệ bát đối với pháp bậc Đệ bát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Đệ bát đối với pháp bậc phàm phu, chủng tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát đối với pháp bậc Cụ kiến không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Cụ kiến là không, nên pháp bậc Cụ kiến đối với pháp bậc Cụ kiến không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Cụ kiến đối với pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến đối với pháp bậc Bạc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Bạc là không, nên pháp bậc Bạc đối với pháp bậc Bạc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Bạc đối với pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc đối với pháp bậc Ly dục không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Ly dục là không, nên pháp bậc Ly dục đối với pháp bậc Ly dục không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Ly dục đối với pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục đối với pháp bậc Dĩ biện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Dĩ biện là không, nên pháp bậc Dĩ biện đối với pháp bậc Dĩ biện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Dĩ biện đối với pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện đối với pháp bậc Độc-giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Độc-giác là không, nên pháp bậc Độc-giác đối với pháp bậc Độc-giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Độc-giác đối với pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện, Độc-giác đối với pháp bậc Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Bồ-tát là không, nên pháp bậc Bồ-tát đối với pháp bậc Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Bồ-tát đối với pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện, Độc-giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện, Độc-giác, Bồ-tát đối với pháp bậc Như lai không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp bậc Như lai là không, nên pháp bậc Như lai đối với pháp bậc Như lai không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp bậc Như lai đối với pháp bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện, Độc-giác, Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của bậc phàm phu là không, nên bậc phàm phu đối với bậc phàm phu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu đối với bậc chủng tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc chủng tánh là không, nên bậc chủng tánh đối với bậc chủng tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc chủng tánh đối với bậc phàm phu không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu, chủng tánh đối với bậc Đệ bát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Đệ bát là không, nên bậc Đệ bát đối với bậc Đệ bát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Đệ bát đối với bậc phàm phu, chủng tánh không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát đối với bậc Cụ kiến không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Cụ kiến là không, nên bậc Cụ kiến đối với bậc Cụ kiến không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Cụ kiến đối với bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến đối với bậc Bạc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Bạc là không, nên bậc Bạc đối với bậc Bạc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Bạc đối với bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc đối với bậc Ly dục không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Ly dục là không, nên bậc Ly dục đối với bậc Ly dục không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Ly dục đối với bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục đối với bậc Dĩ biện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Dĩ biện là không, nên bậc Dĩ biện đối với bậc Dĩ biện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Dĩ biện đối với bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện đối với bậc Độc-giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Độc-giác là không, nên bậc Độc-giác đối với bậc Độc-giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Độc-giác đối với bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện, Độc-giác đối với bậc Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Bồ-tát là không, nên bậc Bồ-tát đối với bậc Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Bồ-tát đối với bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện, Độc-giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện, Độc-giác, Bồ-tát đối với bậc Như lai không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bậc Như lai là không, nên bậc Như lai đối với bậc Như lai không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bậc Như lai đối với bậc phàm phu, chủng tánh, Đệ bát, Cụ kiến, Bạc, Ly dục, Dĩ biện, Độc-giác, Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của pháp Dự-lưu hướng là không, nên pháp Dự-lưu hướng đối với pháp Dự-lưu hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng đối với pháp Dự-lưu quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp Dự-lưu quả là không, nên pháp Dự-lưu quả đối với pháp Dự-lưu quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu quả đối với pháp Dự-lưu hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng, pháp Dự-lưu quả đối với pháp Nhất-lai hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp Nhất-lai hướng là không, nên pháp Nhất-lai hướng đối với pháp Nhất-lai hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Nhất-lai hướng đối với pháp Dự-lưu hướng, pháp Dự-lưu quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Nhất-lai hướng đối với pháp Nhất-lai quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp Nhất-lai quả là không, nên pháp Nhất-lai quả đối với pháp Nhất-lai quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Nhất-lai quả đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Nhất-lai hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Nhất-lai quả đối với pháp Bất-hoàn hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp Bất-hoàn hướng là không, nên pháp Bất-hoàn hướng đối với pháp Bất-hoàn hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Bất-hoàn hướng đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Nhất-lai quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Bất-hoàn hướng đối với pháp Bất-hoàn quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp Bất-hoàn quả là không, nên pháp Bất-hoàn quả đối với pháp Bất-hoàn quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Bất-hoàn quả đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Bất-hoàn hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Bất-hoàn quả đối với pháp A-la-hán hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp A-la-hán hướng là không, nên pháp A-la-hán hướng đối với pháp A-la-hán hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp A-la-hán hướng đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Bất-hoàn quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp A-la-hán hướng đối với pháp A-la-hán quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp A-la-hán quả là không, nên pháp A-la-hán quả đối với pháp A-la-hán quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp A-la-hán quả đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp A-la-hán hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp A-la-hán quả đối với pháp Độc-giác hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp Độc-giác hướng là không, nên pháp Độc-giác hướng đối với pháp Độc-giác hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Độc-giác hướng đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp A-la-hán quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Độc-giác hướng đối với pháp Độc-giác quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp Độc-giác quả là không, nên pháp Độc-giác quả đối với pháp Độc-giác quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Độc-giác quả đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Độc-giác hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Độc-giác quả đối với pháp đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp đại Bồ-tát là không, nên pháp đại Bồ-tát đối với pháp đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp đại Bồ-tát đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp Độc-giác quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp đại Bồ-tát đối với pháp Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của pháp Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác là không, nên pháp Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác đối với pháp Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; pháp Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác đối với pháp Dự-lưu hướng cho đến pháp đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của Dự-lưu hướng là không, nên Dự-lưu hướng đối với Dự-lưu hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng đối với Dự-lưu quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Dự-lưu quả là không, nên Dự-lưu quả đối với Dự-lưu quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu quả đối với Dự-lưu hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả đối với Nhất-lai hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Nhất-lai hướng là không, nên Nhất-lai hướng đối với Nhất-lai hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Nhất-lai hướng đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng cho đến Nhất-lai hướng đối với Nhất-lai quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Nhất-lai quả là không, nên Nhất-lai quả đối với Nhất-lai quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Nhất-lai quả đối với Dự-lưu hướng cho đến Nhất-lai hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Dự-lưu hướng cho đến Nhất-lai quả đối với Bất-hoàn hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Bất-hoàn hướng là không, nên Bất-hoàn hướng đối với Bất-hoàn hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Bất-hoàn hướng đối với Dự-lưu hướng cho đến Nhất-lai quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng cho đến Bất-hoàn hướng đối với Bất-hoàn quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Bất-hoàn quả là không, nên Bất-hoàn quả đối với Bất-hoàn quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Bất-hoàn quả đối với Dự-lưu hướng cho đến Bất-hoàn hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng cho đến Bất-hoàn quả đối với A-la-hán hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của A-la-hán hướng là không, nên A-la-hán hướng đối với A-la-hán hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; A-la-hán hướng đối với Dự-lưu hướng cho đến Bất-hoàn quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng cho đến A-la-hán hướng đối với A-la-hán quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của A-la-hán quả là không, nên A-la-hán quả đối với A-la-hán quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; A-la-hán quả đối với Dự-lưu hướng cho đến A-la-hán hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng cho đến A-la-hán quả đối với Độc-giác hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Độc-giác hướng là không, nên Độc-giác hướng đối với Độc-giác hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Độc-giác hướng đối với Dự-lưu hướng cho đến A-la-hán quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng cho đến Độc-giác hướng đối với Độc-giác quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Độc-giác quả là không, nên Độc-giác quả đối với Độc-giác quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Độc-giác quả đối với Dự-lưu hướng cho đến Độc-giác hướng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng cho đến Độc-giác quả đối với đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của đại Bồ-tát là không, nên đại Bồ-tát đối với đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ-tát đối với Dự-lưu hướng cho đến Độc-giác quả không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Dự-lưu hướng cho đến đại Bồ-tát đối với Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác là không, nên Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác đối với Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác đối với Dự-lưu hướng cho đến đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vì tánh của đại Bồ-tát là không, nên đại Bồ-tát đối với đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không, nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ-tát, Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với sự dạy bảo, trao truyền cho không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của sự dạy bảo, trao truyền cho là không, nên sự dạy bảo, trao truyền cho đối với sự dạy bảo, trao truyền không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sự dạy bảo, trao truyền đối với đại Bồ-tát, Bát-nhã-ba-la-mật-đa không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đối với các pháp như vậy, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát, cũng không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đối với tất cả pháp, tôi dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát nhưng hoàn toàn không thấy và rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao lại khiến tôi dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa để dạy bảo, trao truyền cho các đại Bồ-tát?

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi là vì duyên cớ gì mà đại Bồ-tát chỉ có giả danh? Xá Lợi Tử! Vì danh đại Bồ-tát chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp.

Khi ấy Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói là danh đại Bồ-tát chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp?

Thiện Hiện đáp: Như danh của tất cả pháp chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ đâu; trong tất cả pháp không có danh, trong danh không có tất cả pháp, chẳng phải hợp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tất cả pháp cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc tất cả pháp, hoặc là danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp. Ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu, trong đại Bồ-tát không có danh, trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hợp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh sắc, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong sắc không có danh, trong danh không có sắc, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì sắc cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc sắc, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh thọ, tưởng, hành, thức, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong thọ, tưởng, hành, thức không có danh, trong danh không có thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc là danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh nhãn xứ, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong nhãn xứ không có danh, trong danh không có nhãn xứ, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì nhãn xứ cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc nhãn xứ, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có danh, trong danh không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh sắc xứ, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong sắc xứ không có danh, trong danh không có sắc xứ, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì sắc xứ cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc sắc xứ, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có danh, trong danh không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, ở đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh nhãn giới, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong nhãn giới không có danh, trong danh không có nhãn giới, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì nhãn giới cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc nhãn giới, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có danh, trong danh không có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh nhĩ giới, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong nhĩ giới không có danh, trong danh không có nhĩ giới, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì nhĩ giới cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc nhĩ giới, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không có danh, trong danh không có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh tỷ giới, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong tỷ giới không có danh, trong danh không có tỷ giới, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tỷ giới cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc tỷ giới, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không có danh; trong danh không có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh thiệt giới, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong thiệt giới không có danh, trong danh không có thiệt giới, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì thiệt giới cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc thiệt giới, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không có danh. Trong danh không có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh thân giới, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong thân giới không có danh, trong danh không có thân giới, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì thân giới cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc thân giới, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không có danh, trong danh không có xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh ý giới, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong ý giới không có danh, trong danh không có ý giới, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì ý giới cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc ý giới, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có danh, trong danh không có pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh địa giới, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong địa giới không có danh; trong danh không có địa giới, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì địa giới cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc địa giới, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có danh; trong danh không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh Thánh đế khổ, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong Thánh đế khổ không có danh, trong danh không có Thánh đế khổ, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì Thánh đế khổ cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc Thánh đế khổ, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh Thánh đế tập, diệt, đạo, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong Thánh đế tập, diệt, đạo không có danh; trong danh không có Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh vô minh, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong vô minh không có danh; trong danh không có vô minh, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì vô minh cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc vô minh, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chỉ là cái bên ngoài được thu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không có danh, trong danh không có hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh bốn tịnh lự, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bốn tịnh lự không có danh; trong danh không có bốn tịnh lự, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bốn tịnh lự cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bốn tịnh lự, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có danh; trong danh không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh tám giải thoát, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong tám giải thoát không có danh; trong danh không có tám giải thoát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tám giải thoát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc tám giải thoát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không có danh; trong danh không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh bốn niệm trụ, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bốn niệm trụ không có danh; trong danh không có bốn niệm trụ, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bốn niệm trụ, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không có danh. Trong danh không có bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh, đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Quyển Thứ 66

HẾT

 

07

Xá Lợi Tử! Như cái danh pháp môn giải thoát không, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong pháp môn giải thoát không không có danh; trong danh không có pháp môn giải thoát không, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có danh; trong danh không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh năm loại mắt, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong năm loại mắt không có danh; trong danh không có năm loại mắt, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì năm loại mắt cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc năm loại mắt, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh sáu phép thần thông, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong sáu phép thần thông không có danh; trong danh không có sáu phép thần thông, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì sáu phép thần thông cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc sáu phép thần thông, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh mười lực của Phật, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong mười lực của Phật không có danh; trong danh không có mười lực của Phật, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì mười lực của Phật cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc mười lực của Phật, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không có danh; trong danh không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh trí nhất thiết, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong trí nhất thiết không có danh; trong danh không có trí nhất thiết, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì trí nhất thiết cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc trí nhất thiết, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có danh; trong danh không có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh pháp không quên mất, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong pháp không quên mất không có danh; trong danh không có pháp không quên mất, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì pháp không quên mất cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc pháp không quên mất, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh tánh luôn luôn xả, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong tánh luôn luôn xả không có danh; trong danh không có tánh luôn luôn xả, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tánh luôn luôn xả cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc tánh luôn luôn xả, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh tất cả pháp môn Đà-la-ni, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong tất cả pháp môn Đà-la-ni không có danh; trong danh không có tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có danh; trong danh không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh không nội, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong cái không nội không có danh; trong danh không có cái không nội, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì cái không nội cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc cái không nội, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh không ngoại, không nội ngoại, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không không đổi khác, không bổn tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không có danh; trong danh không có cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh chơn như, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong chơn như không có danh; trong danh không có chơn như, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì chơn như cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc chơn như, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết-bàn, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong pháp giới cho đến cứu cánh Niết-bàn không có danh; trong danh không có pháp giới cho đến cứu cánh Niết-bàn, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì pháp giới cho đến cứu cánh Niết-bàn cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc pháp giới cho đến cứu cánh Niết-bàn, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh bậc Cực hỷ, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bậc Cực hỷ không có danh; trong danh không có bậc Cực hỷ, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bậc Cực hỷ cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bậc Cực hỷ, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân không có danh; trong danh không có bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh bậc phàm phu, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bậc phàm phu không có danh; trong danh không có bậc phàm phu, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bậc phàm phu cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bậc phàm phu, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong bậc chủng tánh cho đến bậc Như lai không có danh; trong danh không có bậc chủng tánh cho đến bậc Như lai, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì bậc chủng tánh cho đến bậc Như lai cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc bậc chủng tánh cho đến bậc Như lai, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Xá Lợi Tử! Như cái danh Thanh-văn thừa, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong Thanh-văn thừa không có danh; trong danh không có Thanh-văn thừa, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc Thanh-văn thừa, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Như cái danh Độc-giác thừa, Đại-thừa, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong Độc-giác thừa, Đại-thừa không có danh; trong danh không có Độc-giác thừa, Đại-thừa, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì Độc-giác thừa, Đại-thừa cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc Độc-giác thừa, Đại-thừa, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ-tát cũng lại như vậy, chỉ là cái bên ngoài được thâu nhiếp, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ-tát không có danh; trong danh không có đại Bồ-tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ-tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ-tát, hoặc danh đều không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát chỉ có giả danh.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi: Vì duyên cớ gì mà nói, như nói là ngã v.v... rốt ráo đều chẳng sanh?

Xá Lợi Tử! Ngã rốt ráo hoàn toàn không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ rốt ráo hoàn toàn không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Sắc xứ rốt ráo hoàn toàn không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Nhãn giới rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Tỷ giới, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Thiệt giới, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Thân giới, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Ý giới, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Địa giới, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Thủy, hỏa, phong, không, thức giới, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Vô minh, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Cái không nội, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Bốn vô lượng, bốn định vô sắc, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Sáu phép thần thông, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Tánh luôn luôn xả, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Tất cả pháp môn Tam-ma-địa, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa, rốt ráo không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh? Độc-giác thừa, Đại-thừa, rốt ráo đều không sở hữu, đã chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có sanh?

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là ngã v.v... rốt ráo chẳng sanh.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh?

Xá Lợi Tử! Các pháp đều không tự tánh hòa hiệp. Vì sao? Vì hòa hợp nên có pháp, tự tánh là không.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào không có tự tánh hòa hiệp?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc khôngtự tánh hòa hiệp; thọ, tưởng, hành, thức đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ không có tự tánh hòa hiệp; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ không có tự tánh hòa hiệp; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới không có tự tánh hòa hiệp; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới không có tự tánh hòa hiệp; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới khôngtự tánh hòa hiệp; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới khôngtự tánh hòa hiệp; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Thân giới không có tự tánh hòa hiệp; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Ý giới không có tự tánh hòa hiệp; Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Địa giới đều không có tự tánh hòa hiệp; thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Vô minh không có tự tánh hòa hiệp; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Cái không nội khôngtự tánh hòa hiệp; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa không có tự tánh hòa hiệp; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự không có tự tánh hòa hiệp; bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát không có tự tánh hòa hiệp; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ không có tự tánh hòa hiệp; Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không khôngtự tánh hòa hiệp; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt không có tự tánh hòa hiệp; sáu phép thần thông không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật không có tự tánh hòa hiệp; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết khôngtự tánh hòa hiệp; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất không có tự tánh hòa hiệp; tánh luôn luôn xả không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni đều không có tự tánh hòa hiệp; tất cả pháp môn Tam-ma-địa đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ không có tự tánh hòa hiệp; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu không có tự tánh hòa hiệp; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa không có tự tánh hòa hiệp; Độc-giác thừa, Đại-thừa đều không có tự tánh hòa hiệp.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều có không tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp chẳng phải thường, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp chẳng phải thường thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào chẳng phải thường, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng phải thường, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chẳng phải thường, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ chẳng phải thường, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới chẳng phải thường, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chẳng phải thường, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới chẳng phải thường, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới chẳng phải thường, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới chẳng phải thường, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới chẳng phải thường, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới chẳng phải thường, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ chẳng phải thường, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh chẳng phải thường, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội chẳng phải thường, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự chẳng phải thường, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chẳng phải thường, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chẳng phải thường, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không chẳng phải thường, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt chẳng phải thường, cũng không tan mất; sáu phép thần thông chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật chẳng phải thường, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết chẳng phải thường, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất chẳng phải thường, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải thường, cũng không tan mất; Tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ chẳng phải thường, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu chẳng phải thường, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa chẳng phải thường, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa chẳng phải thường, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp chẳng phải lạc, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp chẳng phải lạc, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào chẳng phải lạc, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng phải lạc, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chẳng phải lạc, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ chẳng phải lạc, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới chẳng phải lạc, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chẳng phải lạc, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới chẳng phải lạc, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới chẳng phải lạc, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới chẳng phải lạc, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới chẳng phải lạc, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới chẳng phải lạc, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ chẳng phải lạc, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh chẳng phải lạc, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội chẳng phải lạc, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải lạc, cũng không tan mất;

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải lạc, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự chẳng phải lạc, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chẳng phải lạc, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chẳng phải lạc, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không chẳng phải lạc, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt chẳng phải lạc, cũng không tan mất; sáu phép thần thông chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật chẳng phải lạc, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết chẳng phải lạc, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất chẳng phải lạc, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải lạc, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ chẳng phải lạc, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu chẳng phải lạc, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa chẳng phải lạc, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa chẳng phải lạc, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp chẳng phải ngã, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp chẳng phải ngã, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào chẳng phải ngã, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng phải ngã, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chẳng phải ngã, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ chẳng phải ngã, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới chẳng phải ngã, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chẳng phải ngã, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới chẳng phải ngã, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới chẳng phải ngã, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới chẳng phải ngã, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới chẳng phải ngã, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới chẳng phải ngã, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ chẳng phải ngã, cũng không tan mất; thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh chẳng phải ngã, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội chẳng phải ngã, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Quyển Thứ 67

HẾT

 

08

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải ngã, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chẳng phải ngã, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không chẳng phải ngã, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt chẳng phải ngã, cũng không tan mất; sáu phép thần thông chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết chẳng phải ngã, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất chẳng phải ngã, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải ngã, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu chẳng phải ngã, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa chẳng phải ngã, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa chẳng phải ngã, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp tịch tịnh, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp tịch tịnh, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là tịch tịnh, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc tịch tịnh, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ tịch tịnh, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ tịch tịnh, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới tịch tịnh, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới tịch tịnh, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới tịch tịnh, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới tịch tịnh, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới tịch tịnh, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới tịch tịnh, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới tịch tịnh, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ tịch tịnh, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh tịch tịnh, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội tịch tịnh, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa tịch tịnh, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự tịch tịnh, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát tịch tịnh, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ tịch tịnh, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không tịch tịnh, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt tịch tịnh, cũng không tan mất; sáu phép thần thông tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật tịch tịnh, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết tịch tịnh, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất tịch tịnh, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni tịch tịnh, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ tịch tịnh, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu tịch tịnh, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa tịch tịnh, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa tịch tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp viễn ly, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp viễn ly, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào viễn ly, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc viễn ly, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ viễn ly, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ viễn ly, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới viễn ly, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới viễn ly, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới viễn ly, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới viễn ly, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới viễn ly, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới viễn ly, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới viễn ly, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ viễn ly, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh viễn ly, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội viễn ly, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa viễn ly, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự viễn ly, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát viễn ly, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ viễn ly, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không viễn ly, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt viễn ly, cũng không tan mất; sáu phép thần thông viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật viễn ly, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết viễn ly, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất viễn ly, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni viễn ly, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ viễn ly, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu viễn ly, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa viễn ly, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa viễn ly, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp không, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp không, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là không, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là không, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là không, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là không, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là không, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là không, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là không, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là không, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là không, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là không, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là không, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là không, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là không, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là không, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là không, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là không, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là không, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là không, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là không, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là không, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là không, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là không, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là không, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là không, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là không, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là không, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là không, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô tướng, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô tướng, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô tướng, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô tướng, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô tướng, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứvô tướng, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giớivô tướng, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giớivô tướng, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô tướng, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô tướng, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giớivô tướng, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giớivô tướng, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giớivô tướng, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô tướng, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minhvô tướng, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô tướng, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánhvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô tướng, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đavô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lựvô tướng, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắcvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoátvô tướng, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô tướng, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạovô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô tướng, cũng không tan mất; pháp môn giải thoátvô tướng, vô nguyệnvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắtvô tướng, cũng không tan mất; sáu phép thần thôngvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô tướng, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiếtvô tướng, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô tướng, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô tướng, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷvô tướng, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vânvô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phuvô tướng, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như laivô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô tướng, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô tướng, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô nguyện, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô nguyện, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô nguyện, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô nguyện, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô nguyện, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứvô nguyện, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giớivô nguyện, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giớivô nguyện, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô nguyện, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô nguyện, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giớivô nguyện, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giớivô nguyện, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giớivô nguyện, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô nguyện, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minhvô nguyện, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô nguyện, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánhvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô nguyện, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đavô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lựvô nguyện, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắcvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoátvô nguyện, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô nguyện, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạovô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô nguyện, cũng không tan mất; pháp môn giải thoátvô tướng, là vô nguyệnvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắtvô nguyện, cũng không tan mất; sáu phép thần thôngvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô nguyện, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiếtvô nguyện, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô nguyện, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô nguyện, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷvô nguyện, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vânvô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phuvô nguyện, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như laivô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô nguyện, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô nguyện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là thiện, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là thiện, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là thiện, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là thiện, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là thiện, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là thiện, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là thiện, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là thiện, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là thiện, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là thiện, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là thiện, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là thiện, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là thiện, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là thiện, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là thiện, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là thiện, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là thiện, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là thiện, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là thiện, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là thiện, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là thiện, cũng không tan mất; pháp môn giải thoátvô tướng, là vô nguyện là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là thiện, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là thiện, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là thiện, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là thiện, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là thiện, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là thiện, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc là thiện tuệ, bậc Pháp vân là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là thiện, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là thiện, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là thiện, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô tội, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô tội, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô tội, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô tội, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô tội, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là vô tội, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là vô tội, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là vô tội, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô tội, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô tội, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giới là vô tội, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giới là vô tội, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giới là vô tội, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô tội, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minh là vô tội, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô tội, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô tội, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là vô tội, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là vô tội, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô tội, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô tội, cũng không tan mất; pháp môn giải thoátvô tướng, là vô nguyện là vô tội, cũng không tan mất. Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là vô tội, cũng không tan mất; sáu phép thần thông là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô tội, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là vô tội, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô tội, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô tội, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ là vô tội, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc là thiện tuệ, bậc Pháp vân là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu là vô tội, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như lai là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô tội, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô tội, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô lậu, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô lậu, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô lậu, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô lậu, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô lậu, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứvô lậu, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giớivô lậu, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giớivô lậu, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô lậu, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô lậu, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giớivô lậu, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giớivô lậu, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giớivô lậu, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô lậu, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minhvô lậu, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô lậu, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánhvô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô lậu, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đavô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lựvô lậu, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắcvô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoátvô lậu, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứvô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô lậu, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạovô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô lậu, cũng không tan mất; pháp môn giải thoátvô tướng, là vô nguyệnvô lậu, cũng không tan mất. Xá Lợi Tử! Năm loại mắtvô lậu, cũng không tan mất; sáu phép thần thôngvô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô lậu, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngvô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiếtvô lậu, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô lậu, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô lậu, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷvô lậu, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc là thiện tuệ, bậc Pháp vânvô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phuvô lậu, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như laivô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô lậu, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô lậu, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô nhiễm, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô nhiễm, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô nhiễm, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô nhiễm, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô nhiễm, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứvô nhiễm, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giớivô nhiễm, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giớivô nhiễm, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô nhiễm, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giớivô nhiễm, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giớivô nhiễm, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giớivô nhiễm, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô nhiễm, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minhvô nhiễm, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô nhiễm, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánhvô nhiễm, cũng không tan mất.

 

Quyển Thứ 68

HẾT

 

09

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô nhiễm, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đavô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lựvô nhiễm, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắcvô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoátvô nhiễm, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứvô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô nhiễm, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạovô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô nhiễm, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnvô nhiễm, cũng không tan mất. Xá Lợi Tử! Năm loại mắtvô nhiễm, cũng không tan mất; sáu phép thần thôngvô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô nhiễm, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngvô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiếtvô nhiễm, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô nhiễm, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô nhiễm, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷvô nhiễm, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vânvô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phuvô nhiễm, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Laivô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô nhiễm, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô nhiễm, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là thanh tịnh, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là thanh tịnh, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là thanh tịnh, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là thanh tịnh, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là thanh tịnh, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứthanh tịnh, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giớithanh tịnh, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giớithanh tịnh, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là thanh tịnh, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giớithanh tịnh, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giớithanh tịnh, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giớithanh tịnh, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giớithanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là thanh tịnh, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minhthanh tịnh, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là thanh tịnh, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánhthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là thanh tịnh, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đathanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lựthanh tịnh, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắcthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoátthanh tịnh, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là thanh tịnh, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạothanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là thanh tịnh, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắtthanh tịnh, cũng không tan mất; sáu phép thần thôngthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là thanh tịnh, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiếtthanh tịnh, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là thanh tịnh, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là thanh tịnh, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷthanh tịnh, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vânthanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phuthanh tịnh, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Laithanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là thanh tịnh, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là thanh tịnh, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là xuất thế gian, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là xuất thế gian, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là xuất thế gian, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là xuất thế gian, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là xuất thế gian, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứxuất thế gian, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giớixuất thế gian, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giớixuất thế gian, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là xuất thế gian, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giớixuất thế gian, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giớixuất thế gian, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giớixuất thế gian, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giớixuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là xuất thế gian, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minhxuất thế gian, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là xuất thế gian, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánhxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là xuất thế gian, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đaxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lựxuất thế gian, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắcxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoátxuất thế gian, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là xuất thế gian, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạoxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là xuất thế gian, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắtxuất thế gian, cũng không tan mất; sáu phép thần thôngxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là xuất thế gian, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiếtxuất thế gian, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là xuất thế gian, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là xuất thế gian, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷxuất thế gian, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vânxuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phuxuất thế gian, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Laixuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là xuất thế gian, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là xuất thế gian, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp là vô vi, cũng không tan mất. Vì sao? Vì nếu pháp là vô vi, thì không có tánh chấm dứt.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào là vô vi, cũng không tan mất?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là vô vi, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là vô vi, cũng không tan mất; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Sắc xứvô vi, cũng không tan mất; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhãn giớivô vi, cũng không tan mất; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giớivô vi, cũng không tan mất; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là vô vi, cũng không tan mất; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là vô vi, cũng không tan mất; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thân giớivô vi, cũng không tan mất; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Ý giớivô vi, cũng không tan mất; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Địa giớivô vi, cũng không tan mất; thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là vô vi, cũng không tan mất; Thánh đế tập, diệt, đạo là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Vô minhvô vi, cũng không tan mất; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là vô vi, cũng không tan mất; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánhvô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là vô vi, cũng không tan mất; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đavô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lựvô vi, cũng không tan mất; bốn vô lượng, bốn định vô sắcvô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoátvô vi, cũng không tan mất; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứvô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là vô vi, cũng không tan mất; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạovô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là vô vi, cũng không tan mất; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnvô vi, cũng không tan mất. Xá Lợi Tử! Năm loại mắtvô vi, cũng không tan mất; sáu phép thần thôngvô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là vô vi, cũng không tan mất; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngvô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiếtvô vi, cũng không tan mất; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là vô vi, cũng không tan mất; tánh luôn luôn xả là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô vi, cũng không tan mất; tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷvô vi, cũng không tan mất; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vânvô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phuvô vi, cũng không tan mất; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Laivô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa là vô vi, cũng không tan mất; Độc-giác thừa, Đại-thừa là vô vi, cũng không tan mất.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp chẳng phải thường, chẳng phải hoại.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì sao tất cả pháp chẳng phải thường, chẳng phải hoại?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Thân giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Ý giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Địa giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Vô minh chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Cái không nội chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; sáu phép thần thông chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; tánh luôn luôn xả chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bậc Cực hỷ chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Bậc phàm phu chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Thanh-văn thừa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy; Độc-giác thừa, Đại-thừa chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Nói tóm lại, tất cả pháp thiện chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp phi thiện chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp hữu ký chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp vô ký chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp hữu lậu chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp vô lậu chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp hữu vi chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy. Tất cả pháp vô vi chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Vì sao? Vì bản tánh là như vậy.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là các pháp cũng như vậy, đều không có tự tánh.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói sắc v.v… các pháp rốt ráo chẳng sanh?

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của sắc cho đến thức chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhãn xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhãn giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhĩ giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tỷ giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thiệt giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thân giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của ý giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của địa giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của địa giới cho đến thức giới chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thánh đế khổ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của vô minh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của cái không nội rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn tịnh lự rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tám giải thoát rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của tám giải thoát cho đến mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn niệm trụ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp môn giải thoát không rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của năm loại mắt rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của sáu phép thần thông rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của mười lực Phật rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của trí nhất thiết rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp không quên mất rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của tánh luôn luôn xả rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của pháp không quên mất thất, tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc Cực hỷ rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc phàm phu rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của bậc phàm phu cho đến bậc Như Lai chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thanh-văn thừa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Bản tánh của Độc-giác thừa, Đại-thừa rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải được tạo tác. Tại sao? Tại vì tác giả của Thanh-văn thừa, Độc-giác thừa, Đại-thừa chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là sắc v.v… các pháp rốt ráo chẳng sanh.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như lời Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là nếu rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng gọi là sắc v.v…?

Xá Lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng gọi là sắc v.v... Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của sắc là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhãn xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là nhãn xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhãn giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là nhãn giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của nhĩ giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là nhĩ giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tỷ giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tỷ giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thiệt giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thiệt giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thân giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thân giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.



Xá Lợi Tử! Bản tánh của ý giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là ý giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của địa giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là địa giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thánh đế khổ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Thánh đế khổ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của vô minh là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là vô minh.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của cái không nội là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là cái không nội.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bố thí Ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn tịnh lự là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn tịnh lự.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tám giải thoát là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tám giải thoát.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tám thắng xứ cho đến mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn niệm trụ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn niệm trụ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp môn giải thoát không là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp môn giải thoát không.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

 

Quyển Thứ 69

HẾT

 

10

Xá Lợi Tử! Bản tánh của năm loại mắt là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là năm loại mắt.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của sáu phép thần thông là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của mười lực Phật là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là mười lực của Phật.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của trí nhất thiết là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là trí nhất thiết.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp không quên mất là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp không quên mất

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tánh luôn luôn xả là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tất cả pháp môn Đà-la-ni.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc Cực hỷ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bậc Cực hỷ.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc phàm phu là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bậc phàm phu.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bậc Chủng tánh cho đến bậc Như Lai.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thanh-văn thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Thanh-văn thừa.

Xá Lợi Tử! Bản tánh của Độc-giác thừa, Đại-thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Độc-giác thừa, Đại-thừa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc v.v… vì pháp không, vô sanh, bất khả thuyết.

Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói, tôi đâu có thể dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh, để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát rốt ráo chẳng sanh?

Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là Bát-nhã-ba-la-mật-đa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì rốt ráo chẳng sanh cùng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là đại Bồ-tát; đại Bồ-tát tức là rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì rốt ráo chẳng sanh cùng với đại Bồ-tát không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là tôi đâu có thể dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát rốt ráo chẳng sanh.

Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có đại Bồ-tát nào có thể tu hành quả vị giác ngộ cao tột?

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy Bát-nhã-ba-la-mật-đa khác với rốt ráo chẳng sanh, cũng chẳng thấy đại Bồ-tát khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc đại Bồ-tát cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy sắc khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì sắc cho đến thức cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhãn xứ khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy sắc xứ khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhãn giới khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhĩ giới khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tỷ giới khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy thiệt giới khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy thân giới khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy ý giới khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy địa giới khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì địa giới cho đến thức giới cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy Thánh đế khổ khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy vô minh khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy cái không nội khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn tịnh lự khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tám giải thoát khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì tám giải thoát cho đến mười biến xứ cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn niệm trụ khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp môn giải thoát không khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy năm loại mắt khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy sáu phép thần thông khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy mười lực của Phật khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì mười lực của Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy trí nhất thiết khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp không quên mất khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy tánh luôn luôn xả khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bậc Cực hỷ khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bậc phàm phu khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì bậc phàm phu cho đến bậc Như Lai cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy Thanh-văn thừa khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy Độc-giác thừa, Đại-thừa khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa, Độc-giác thừa, Đại-thừa cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói lìa rốt ráo chẳng sanh không có Bồ-tát nào có thể tu hành quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là nếu đại Bồ-tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, nên biết đó là đại Bồ-tát có khả năng tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy các pháp có giác, có dụng mà thấy tất cả pháp như sự huyễn, như cảnh mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như bóng nước, như hoa hư không, như ảo thành, như trò biến hóa, đều chẳng phải thật có. Nghe nói bản tánh của các pháp đều không, trong lòng rất hoan hỷ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là nếu đại Bồ-tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc thì nên biết đó là đại Bồ-tát có khả năng tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
XIX. PHẨM QUÁN HẠNH

01

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với sắc chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là sắc; đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhãn xứ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn xứ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với sắc xứ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có sắc xứ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhãn giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhãn giới; đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với nhĩ giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có nhĩ giới; đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tỷ giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tỷ giới; đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với thiệt giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thiệt giới; đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với thân giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thân giới; đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với ý giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có ý giới; đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với địa giới chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có địa giới; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với Thánh đế khổ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có Thánh đế khổ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với vô minh chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có vô minh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có hành, cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với cái không nội chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có cái không nội; đối với cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bố thí Ba-la-mật-đa; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với bốn tịnh lự chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn tịnh lự; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tám giải thoát chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tám giải thoát; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với bốn niệm trụ chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn niệm trụ; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với pháp môn giải thoát không chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp môn giải thoát không; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với năm loại mắt chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có năm loại mắt; đối với sáu phép thần thông, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với mười lực của Phật chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có mười lực của Phật; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với chơn như chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có chơn như; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với quả vị giác ngộ cao tột chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có quả vị giác ngộ cao tột; đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với pháp không quên mất chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có pháp không quên mất; đối với tánh luôn luôn xả, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tất cả pháp môn Đà-la-ni; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thọ, chẳng thủ, chẳng chấp, chẳng trước, cũng chẳng cho là thật có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc. Vì sao? Vì tánh của sắc là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhãn xứ. Vì sao? Vì tánh của nhãn xứ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc xứ. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhãn giới. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy nhĩ giới. Vì sao? Vì tánh của nhĩ giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy tỷ giới. Vì sao? Vì tánh của tỷ giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy thiệt giới. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy thân giới. Vì sao? Vì tánh của thân giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy ý giới. Vì sao? Vì tánh của ý giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy địa giới. Vì sao? Vì tánh của địa giới là không, không sanh diệt. Chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy Thánh đế khổ. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế khổ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy vô minh. Vì sao? Vì tánh của vô minh là không, không sanh diệt. Chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy cái không nội. Vì sao? Vì tánh của cái không nội là không, không sanh diệt. Chẳng thấy cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy bốn tịnh lự. Vì sao? Vì tánh của bốn tịnh lự là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy tám giải thoát. Vì sao? Vì tánh của tám giải thoát là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ,. Vì sao? Vì tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy bốn niệm trụ. Vì sao? Vì tánh của bốn niệm trụ là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo,. Vì sao? Vì tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp môn giải thoát không. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát không là không, không sanh diệt. Chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy năm loại mắt. Vì sao? Vì tánh của năm loại mắt là không, không sanh diệt. Chẳng thấy sáu phép thần thông. Vì sao? Vì tánh của sáu phép thần thông là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy mười lực của Phật. Vì sao? Vì tánh của mười lực của Phật là không, không sanh diệt. Chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy chơn như. Vì sao? Vì tánh của chơn như là không, không sanh diệt. Chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì,. Vì sao? Vì tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không, không sanh diệt. Chẳng thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng,. Vì sao? Vì tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp không quên mất. Vì sao? Vì tánh của pháp không quên mất là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì tánh của tánh luôn luôn xả là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, không sanh diệt. Chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng sanh thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thọ, tưởng, hành, thức cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc chẳng sanh, thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ chẳng sanh thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì nhãn giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn giới chẳng sanh, thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì nhĩ giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhĩ giới chẳng sanh, thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Tỷ giới chẳng sanh thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì tỷ giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tỷ giới chẳng sanh, thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Thiệt giới chẳng sanh thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì thiệt giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên thiệt giới chẳng sanh, thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Thân giới chẳng sanh thì chẳng phải là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì thân giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên thân giới chẳng sanh, thì chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Ý giới chẳng sanh thì chẳng phải là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì ý giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên ý giới chẳng sanh, thì chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Địa giới chẳng sanh thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sanh, thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên địa giới chẳng sanh, thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sanh, thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ chẳng sanh thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên Thánh đế khổ chẳng sanh, thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Vô minh chẳng sanh thì chẳng phải là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì vô minh cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên vô minh chẳng sanh, thì chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Bạch Thế Tôn! Cái không nội chẳng sanh thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng sanh, thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì cái không nội cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên cái không nội chẳng sanh, thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng sanh, thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Quyển Thứ 70

HẾT

 

02

Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba-la-mật-đa là pháp chẳng sanh thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng sanh, thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bố thí Ba-la-mật-đa chẳng sanh, thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng sanh, thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự chẳng sanh thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì bốn tịnh lự cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bốn tịnh lự chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát chẳng sanh thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tám giải thoát cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tám giải thoát chẳng sanh, thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ chẳng sanh thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bốn niệm trụ chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không chẳng sanh thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên pháp môn giải thoát không chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt chẳng sanh thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng sanh, thì chẳng phải là sáu phép thần thông. Vì sao? Vì năm loại mắt cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; sáu phép thần thông cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên năm loại mắt chẳng sanh, thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng sanh, thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật chẳng sanh thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực của Phật cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên mười lực của Phật chẳng sanh, thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Chơn như chẳng sanh thì chẳng phải là chơn như; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì chơn như cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên chơn như chẳng sanh, thì chẳng phải là chơn như; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Quả vị Giác ngộ cao tột chẳng sanh thì chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh, thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ cao tột cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên quả vị Giác ngộ cao tột chẳng sanh, thì chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh, thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất chẳng sanh thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng sanh, thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; tánh luôn luôn xả cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên pháp không quên mất chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng sanh, thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sanh thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng sanh, thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sanh, thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng sanh, thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng diệt, thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt, thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì Sắc cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; thọ, tưởng, hành, thức cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc chẳng diệt chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì Nhãn xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn xứ chẳng diệt chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì Sắc xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc xứ chẳng diệt chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới chẳng diệt, thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì Nhãn giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn giới chẳng diệt chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới chẳng diệt, thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì Nhĩ giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhĩ giới chẳng diệt chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Tỷ giới chẳng diệt, thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì Tỷ giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tỷ giới chẳng diệt chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Thiệt giới chẳng diệt, thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì thiệt giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên thiệt giới chẳng diệt chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Thân giới chẳng diệt, thì chẳng phải là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì thân giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên thân giới chẳng diệt chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Ý giới chẳng diệt, thì chẳng phải là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì ý giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên ý giới chẳng diệt chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Địa giới chẳng diệt, thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt, thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên địa giới chẳng diệt chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ chẳng diệt, thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt, thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên Thánh đế khổ chẳng diệt chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Vô minh chẳng diệt, thì chẳng phải là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng diệt, thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì vô minh cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên vô minh chẳng diệt chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng diệt chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Bạch Thế Tôn! Cái không nội chẳng diệt, thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng diệt, thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì cái không nội cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên cái không nội chẳng diệt chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng diệt chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng diệt, thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng diệt, thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bố thí Ba-la-mật-đa chẳng diệt chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng diệt chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì bốn tịnh lự cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bốn tịnh lự chẳng diệt chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng diệt chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát chẳng diệt, thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tám giải thoát cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tám giải thoát chẳng diệt chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng diệt chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bốn niệm trụ chẳng diệt chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng diệt chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên pháp môn giải thoát không chẳng diệt chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng diệt chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt chẳng diệt, thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng diệt, thì chẳng phải là sáu phép thần thông. Vì sao? Vì năm loại mắt cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; sáu phép thần thông cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên năm loại mắt chẳng diệt chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng diệt chẳng phải là sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật chẳng diệt, thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực của Phật cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên mười lực của Phật chẳng diệt chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng diệt chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Chơn như chẳng diệt, thì chẳng phải là chơn như; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì chơn như cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên chơn như chẳng diệt chẳng phải là chơn như; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng diệt chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Quả vị Giác ngộ cao tột chẳng diệt, thì chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng diệt, thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ cao tột cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên quả vị Giác ngộ cao tột chẳng diệt chẳng phải là quả vị Giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng diệt chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng diệt, thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; tánh luôn luôn xả cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên pháp không quên mất chẳng diệt chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng diệt chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng diệt, thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng diệt, thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vì sao? Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng diệt chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng diệt chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Bạch Thế Tôn! Sắc bất nhị thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức bất nhị thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ bất nhị thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất nhị thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ bất nhị thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ bất nhị thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới bất nhị thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới bất nhị thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Tỷ giới bất nhị thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Thiệt giới bất nhị thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Thân giới bất nhị thì chẳng phải là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Ý giới bất nhị thì chẳng phải là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Địa giới bất nhị thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới bất nhị thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ bất nhị thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo bất nhị thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Vô minh bất nhị thì chẳng phải là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não bất nhị thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Bạch Thế Tôn! Cái không nội bất nhị thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh bất nhị thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba-la-mật-đa bất nhị thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa bất nhị thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự bất nhị thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất nhị thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát bất nhị thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ bất nhị thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ bất nhị thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo bất nhị thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không bất nhị thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện bất nhị thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt bất nhị thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông bất nhị thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật bất nhị thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng bất nhị thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Chơn như bất nhị thì chẳng phải là chơn như; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì bất nhị thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Quả vị Giác ngộ cao tột bất nhị thì chẳng phải là Quả vị Giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất nhị thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất bất nhị thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả bất nhị thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà-la-ni bất nhị thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa bất nhị thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Bạch Thế Tôn! Sắc nhập bất nhị pháp số không rối; thọ, tưởng, hành, thức nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ nhập bất nhị pháp số không rối; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ nhập bất nhị pháp số không rối; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới nhập bất nhị pháp số không rối; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới nhập bất nhị pháp số không rối; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Tỷ giới nhập bất nhị pháp số không rối; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Thiệt giới nhập bất nhị pháp số không rối; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Thân giới nhập bất nhị pháp số không rối; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Ý giới nhập bất nhị pháp số không rối; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Địa giới nhập bất nhị pháp số không rối; thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ nhập bất nhị pháp số không rối; Thánh đế tập, diệt, đạo nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Vô minh nhập bất nhị pháp số không rối; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Cái không nội nhập bất nhị pháp số không rối; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba-la-mật-đa nhập bất nhị pháp số không rối; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự nhập bất nhị pháp số không rối; bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát nhập bất nhị pháp số không rối; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ nhập bất nhị pháp số không rối; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không nhập bất nhị pháp số không rối; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt nhập bất nhị pháp số không rối; sáu phép thần thông nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật nhập bất nhị pháp số không rối; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Chơn như nhập bất nhị pháp số không rối; pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Quả vị Giác ngộ cao tột nhập bất nhị pháp số không rối; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất nhập bất nhị pháp số không rối; tánh luôn luôn xả nhập bất nhị pháp số không rối.

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà-la-ni nhập bất nhị pháp số không rối; tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhập bất nhị pháp số không rối.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Nói là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa khi quán các pháp thì cái gì gọi là đại Bồ-tát, cái gì gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cái gì gọi là quán các pháp?

Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Xá Lợi Tử: Như tôn giả đã hỏi, cái gì gọi là đại Bồ-tát? Xá Lợi Tử! Đó là loại hữu tình cầu quả vị đại giác ngộ và cũng đã giác ngộ nên gọi là Bồ-tát, có khả năng biết như thật tất cả pháp tướng nhưng chẳng chấp trước nên lại gọi là đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là đại Bồ-tát có khả năng biết như thật tất cả pháp tướng, nhưng chẳng chấp trứơc?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của sắc nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của thọ, tưởng, hành, thức nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của nhãn xứ nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của sắc xứ nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của nhãn giới nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của nhĩ giới nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của tỷ giới nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của thiệt giới nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của thân giới nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của ý giới nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của địa giới nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của Thánh đế khổ nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của vô minh nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của cái không nội nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của bố thí Ba-la-mật-đa nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của bốn tịnh lự nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của tám giải thoát nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của bốn niệm trụ nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của pháp môn giải thoát không nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của năm loại mắt nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của sáu phép thần thông nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của mười lực Phật nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của chơn như nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của quả vị Giác ngộ cao tột nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của pháp không quên mất nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của tánh luôn luôn xả nhưng chẳng chấp trước.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát biết như thật tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni nhưng chẳng chấp trước; biết như thật tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng chẳng chấp trước.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Những gì gọi là tất cả pháp tướng?

Thiện Hiện đáp: Nếu do tướng trạng của các hành như vậy mà biết rõ các pháp là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp, là nội, là ngoại, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi thì những thứ này gọi là tất cả pháp tướng.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, cái gì gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa? Xá Lợi Tử! Có trí tuệ thắng diệu vĩnh viễn có cái để xa lìa, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử hỏi: Trí này đối với pháp nào mà được vĩnh viễn xa lìa?

Thiện Hiện đáp: Trí này đối với tất cả phiền não, kiến, thú được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với sáu cõi, bốn loài được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với tất cả uẩn, xứ, giới v.v… được vĩnh viễn xa lìa, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Có trí thắng diệu vĩnh viễn có chỗ đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử hỏi: Trí này đối với pháp nào được vĩnh viễn đạt đến?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của sắc được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thọ, tưởng, hành, thức được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của nhãn xứ được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của sắc xứ được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của nhãn giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của nhĩ giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của tỷ giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của thiệt giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của thân giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của ý giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của địa giới được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của Thánh đế khổ được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của vô minh mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của cái không nội mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thậtến; đối với thậtông ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của bố thí Ba-la-mật-đa mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của bốn tịnh lự mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của tám giải thoát mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của bốn niệm trụ mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của pháp môn giải thoát không mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của năm loại mắt mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của sáu phép thần thông mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của mười lực Phật mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của chơn như mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của quả vị Giác ngộ cao tột mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của pháp không quên mất mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của tánh luôn luôn xả mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Trí này đối với thật tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni mà được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Như vậy gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 

Quyển Thứ 71

HẾT

 

 

03

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, thế nào gọi là quán các pháp? Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa quán sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán sắc chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán sắc chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán sắc chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán sắc chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán sắc chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán sắc chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán sắc chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán sắc chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhãn xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán nhãn xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán nhãn xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán nhãn xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán nhãn xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán nhãn xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán nhãn xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán nhãn xứ chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán nhãn xứ chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán sắc xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán sắc xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán sắc xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán sắc xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán sắc xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán sắc xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán sắc xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán sắc xứ chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán sắc xứ chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhãn giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán nhãn giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán sắc giới, nhãn thức giới và nh thức giới và nhthọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán nhãn giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán nhãn giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán nhãn giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán nhãn giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán nhãn giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán nhãn giới chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán nhãn giới chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhĩ giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán nhĩ giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán nhĩ giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán nhĩ giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán nhĩ giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán nhĩ giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán nhĩ giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán nhĩ giới chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán nhĩ giới chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tỷ giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán tỷ giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán tỷ giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán tỷ giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán tỷ giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán tỷ giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán tỷ giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán tỷ giới chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán tỷ giới chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán thiệt giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán thiệt giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán thiệt giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán thiệt giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán thiệt giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán thiệt giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán thiệt giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán thiệt giới chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán thiệt giới chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán thân giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán thân giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán thân giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán thân giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán thân giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán thân giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán thân giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán thân giới chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán thân giới chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán ý giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán ý giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán ý giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán ý giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán ý giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán ý giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán ý giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán ý giới chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán ý giới chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán địa giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán địa giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán địa giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán địa giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán địa giới chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán địa giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán địa giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán địa giới chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán địa giới chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán Thánh đế khổ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán Thánh đế khổ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán Thánh đế khổ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán Thánh đế khổ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán Thánh đế khổ chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán Thánh đế khổ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán Thánh đế khổ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán Thánh đế khổ chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán Thánh đế khổ chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán vô minh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán vô minh chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán vô minh chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán vô minh chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán vô minh chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán vô minh chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán vô minh chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán vô minh chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán vô minh chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán cái không nội chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán cái không nội chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán cái không nội chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán cái không nội chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán cái không nội chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán cái không nội chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán cái không nội chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán cái không nội chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán cái không nội chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bốn tịnh lự chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán bốn tịnh lự chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán bốn tịnh lự chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán bốn tịnh lự chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán bốn tịnh lự chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán bốn tịnh lự chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán bốn tịnh lự chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán bốn tịnh lự chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán bốn tịnh lự chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tám giải thoát chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán tám giải thoát chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán tám giải thoát chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán tám giải thoát chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán tám giải thoát chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán tám giải thoát chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán tám giải thoát chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán tám giải thoát chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán tám giải thoát chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bốn niệm trụ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán bốn niệm trụ chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán bốn niệm trụ chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán bốn niệm trụ chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán bốn niệm trụ chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán bốn niệm trụ chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán bốn niệm trụ chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán bốn niệm trụ chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán bốn niệm trụ chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán pháp môn giải thoát không chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán pháp môn giải thoát không chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán pháp môn giải thoát không chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán pháp môn giải thoát không chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán pháp môn giải thoát không chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán pháp môn giải thoát không chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán pháp môn giải thoát không chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán pháp môn giải thoát không chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán pháp môn giải thoát không chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán năm loại mắt chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán sáu phép thần thông chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán năm loại mắt chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán sáu phép thần thông chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán năm loại mắt chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán sáu phép thần thông chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán năm loại mắt chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán sáu phép thần thông chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán năm loại mắt chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán sáu phép thần thông chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán năm loại mắt chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán sáu phép thần thông chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán năm loại mắt chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán sáu phép thần thông chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán năm loại mắt chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán sáu phép thần thông chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán năm loại mắt chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán sáu phép thần thông chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán mười lực của Phật chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán mười lực của Phật chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán mười lực của Phật chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải ngã, chẳng phải ngã, chẳng phảười lực của Phật chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán mười lực của Phật chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán mười lực của Phật chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán mười lực của Phật chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán mười lực của Phật chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán mười lực của Phật chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán chơn như chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán chơn như chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán chơn như chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán chơn như chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán chơn như chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán chơn như chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán chơn như chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán chơn như chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán chơn như chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán quả vị giác ngộ cao tột chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán pháp không quên mất chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán pháp không quên mất chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán pháp không quên mất chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán pháp không quên mất chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán pháp không quên mất chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán pháp không quên mất chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán pháp không quên mất chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán pháp không quên mất chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán pháp không quên mất chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán tánh luôn luôn xả chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải lạc, chẳng phải khổ; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải lạc, chẳng phải khổ. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải không, chẳng phải bất không; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải không, chẳng phải bất không. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải hữu nguyện, chẳng phải vô nguyện. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải tịch tịnh, chẳng phải bất tịch tịnh. Quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải viễn ly, chẳng phải bất viễn ly.

Xá Lợi Tử! Như thế gọi là quán các pháp.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên quán các pháp như thế.

Quyển Thứ 72

HẾT

 

04

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói là sắc v.v… chẳng sanh thì chẳng phải là sắc v.v…?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc và tánh của sắc là không; trong tánh không này không có sanh, không có sắc. Thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không này, không có sanh, không có thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói sắc chẳng sanh thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ và tánh của nhãn xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ và tánh của sắc xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là sắc xứ chẳng sanh thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sanh thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới và tánh của nhãn giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới và tánh của nhĩ giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có nhĩ giới. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhĩ giới chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới và tánh của tỷ giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có tỷ giới. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tỷ giới chẳng sanh thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới và tánh của thiệt giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có thiệt giới. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thiệt giới chẳng sanh thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Thân giới và tánh của thân giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thân giới chẳng sanh thì chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Ý giới và tánh của ý giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có ý giới. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là ý giới chẳng sanh thì chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Địa giới và tánh của địa giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; trong tánh không này không có sanh, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là địa giới chẳng sanh thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sanh thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không; trong tánh không này không có sanh, không có Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không; trong tánh không này không có sanh, không có Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là Thánh đế khổ chẳng sanh thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Vô minh và tánh của vô minh là không; trong tánh không này không có sanh, không có vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không; trong tánh không này không có sanh, không có hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là vô minh chẳng sanh thì chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Cái không nội và tánh của cái không nội là không; trong tánh không này không có sanh, không có cái không nội. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh và tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không; trong tánh không này không có sanh, không có cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là cái không nội chẳng sanh thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng sanh thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa và tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có sanh, không có bố thí Ba-la-mật-đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có sanh, không có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bố thí Ba-la-mật-đa chẳng sanh thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng sanh thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn tịnh lự chẳng sanh thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng sanh thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát và tánh của tám giải thoát là không; trong tánh không này không có sanh, không có tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không; trong tánh không này không có sanh, không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tám giải thoát chẳng sanh thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng sanh thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn niệm trụ chẳng sanh thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng sanh thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không và tánh của pháp môn giải thoát không là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp môn giải thoát không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp môn giải thoát không chẳng sanh thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng sanh thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không; trong tánh không này không có sanh, không có năm loại mắt. Sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không; trong tánh không này không có sanh, không có sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là năm loại mắt chẳng sanh thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng sanh thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật và tánh của mười lực của Phật là không; trong tánh không này không có sanh, không có mười lực của Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không; trong tánh không này không có sanh, không có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là mười lực của Phật chẳng sanh thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sanh thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Chơn như và tánh của chơn như là không; trong tánh không này không có sanh, không có chơn như. Pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là chơn như chẳng sanh thì chẳng phải là chơn như; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng sanh thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Quả vị giác ngộ cao tột và tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không; trong tánh không này không có sanh, không có quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không; trong tánh không này không có sanh, không có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là quả vị giác ngộ cao tột chẳng sanh thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không; trong tánh không này không có sanh, không có pháp không quên mất. Tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không; trong tánh không này không có sanh, không có tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không quên mất chẳng sanh thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng sanh thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; trong tánh không này không có sanh, không có tất cả pháp môn Đà-la-ni. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; trong tánh không này không có sanh, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sanh thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng sanh thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói là sắc v.v… chẳng diệt thì chẳng phải là sắc v.v…?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc và tánh của sắc là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc. Thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không; trong tánh không này không có diệt, không có thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói sắc chẳng diệt thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ và tánh của nhãn xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn xứ chẳng diệt thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ và tánh của sắc xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là sắc xứ chẳng diệt thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới và tánh của nhãn giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn giới chẳng diệt thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới và tánh của nhĩ giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có nhĩ giới. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhĩ giới chẳng diệt thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới và tánh của tỷ giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có tỷ giới. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tỷ giới chẳng diệt thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới và tánh của thiệt giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thiệt giới. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thiệt giới chẳng diệt thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Thân giới và tánh của thân giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thân giới chẳng diệt thì chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Ý giới và tánh của ý giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có ý giới. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là ý giới chẳng diệt thì chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Địa giới và tánh của địa giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; trong tánh không này không có diệt, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là địa giới chẳng diệt thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không; trong tánh không này không có diệt, không có Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không; trong tánh không này không có diệt, không có Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là Thánh đế khổ chẳng diệt thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Vô minh và tánh của vô minh là không; trong tánh không này không có diệt, không có vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không; trong tánh không này không có diệt, không có hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là vô minh chẳng diệt thì chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng diệt thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Cái không nội và tánh của cái không nội là không; trong tánh không này không có diệt, không có cái không nội. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh và tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không; trong tánh không này không có diệt, không có cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là cái không nội chẳng diệt thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng diệt thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa và tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có diệt, không có bố thí Ba-la-mật-đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa và tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không; trong tánh không này không có diệt, không có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bố thí Ba-la-mật-đa chẳng diệt thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng diệt thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn tịnh lự chẳng diệt thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng diệt thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát và tánh của tám giải thoát là không; trong tánh không này không có diệt, không có tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không; trong tánh không này không có diệt, không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tám giải thoát chẳng diệt thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng diệt thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn niệm trụ chẳng diệt thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng diệt thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không và tánh của pháp môn giải thoát không là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp môn giải thoát không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp môn giải thoát không chẳng diệt thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng diệt thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không; trong tánh không này không có diệt, không có năm loại mắt. Sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không; trong tánh không này không có diệt, không có sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là năm loại mắt chẳng diệt thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông chẳng diệt thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật và tánh của mười lực của Phật là không; trong tánh không này không có diệt, không có mười lực của Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không; trong tánh không này không có diệt, không có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là mười lực của Phật chẳng diệt thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng diệt thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Chơn như và tánh của chơn như là không; trong tánh không này không có diệt, không có chơn như. Pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là chơn như chẳng diệt thì chẳng phải là chơn như; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng diệt thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Quả vị giác ngộ cao tột và tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không; trong tánh không này không có diệt, không có quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không; trong tánh không này không có diệt, không có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là quả vị giác ngộ cao tột chẳng diệt thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng diệt thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không; trong tánh không này không có diệt, không có pháp không quên mất. Tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không; trong tánh không này không có diệt, không có tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không quên mất chẳng diệt thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả chẳng diệt thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; trong tánh không này không có diệt, không có tất cả pháp môn Đà-la-ni. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; trong tánh không này không có diệt, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng diệt thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng diệt thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói là sắc v.v… bất nhị thì chẳng phải là sắc v.v…?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Hoặc sắc, hoặc bất nhị; hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói sắc bất nhị thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức bất nhị thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Hoặc nhãn xứ, hoặc bất nhị; hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn xứ bất nhị thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất nhị thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Hoặc sắc xứ, hoặc bất nhị; hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là sắc xứ bất nhị thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ bất nhị thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Hoặc nhãn giới, hoặc bất nhị; hoặc sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn giới bất nhị thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc nhĩ giới, hoặc bất nhị; hoặc thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhĩ giới bất nhị thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc tỷ giới, hoặc bất nhị; hoặc hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tỷ giới bất nhị thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc thiệt giới, hoặc bất nhị; hoặc vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thiệt giới bất nhị thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc thân giới, hoặc bất nhị; hoặc xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thân giới bất nhị thì chẳng phải là thân giới; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc ý giới, hoặc bất nhị; hoặc pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là ý giới bất nhị thì chẳng phải là ý giới; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất nhị thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Hoặc địa giới, hoặc bất nhị; hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là địa giới bất nhị thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới bất nhị thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Hoặc Thánh đế khổ, hoặc bất nhị; hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là Thánh đế khổ bất nhị thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo bất nhị thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Hoặc vô minh, hoặc bất nhị; hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là vô minh bất nhị thì chẳng phải là vô minh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não bất nhị thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không nội, hoặc bất nhị; hoặc cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là cái không nội bất nhị thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh bất nhị thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Hoặc bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc bất nhị; hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bố thí Ba-la-mật-đa bất nhị thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa bất nhị thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Hoặc bốn tịnh lự, hoặc bất nhị; hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn tịnh lự bất nhị thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất nhị thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Hoặc tám giải thoát, hoặc bất nhị; hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tám giải thoát bất nhị thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ bất nhị thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Hoặc bốn niệm trụ, hoặc bất nhị; hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn niệm trụ bất nhị thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo bất nhị thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc bất nhị; hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp môn giải thoát không bất nhị thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện bất nhị thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Hoặc năm loại mắt, hoặc bất nhị; hoặc sáu phép thần thông, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là năm loại mắt bất nhị thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông bất nhị thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Hoặc mười lực của Phật, hoặc bất nhị; hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là mười lực của Phật bất nhị thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất nhị thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Hoặc chơn như, hoặc bất nhị; hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là chơn như bất nhị thì chẳng phải là chơn như; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì bất nhị thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Hoặc quả vị giác ngộ cao tột, hoặc bất nhị; hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là quả vị giác ngộ cao tột bất nhị thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất nhị thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Hoặc pháp không quên mất, hoặc bất nhị; hoặc tánh luôn luôn xả, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không quên mất bất nhị thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả bất nhị thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc bất nhị; hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa, hoặc bất nhị, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tất cả pháp môn Đà-la-ni bất nhị thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa bất nhị thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Quyển Thứ 73

HẾT

 

05

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Do duyên cớ gì mà nói là sắc v.v… nhập bất nhị, pháp số không rối?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác sắc; sắc tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là thọ, tưởng, hành, thức.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là sắc nhập bất nhị, pháp số không rối; thọ, tưởng, hành, thức nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác nhãn xứ; nhãn xứ tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn xứ nhập bất nhị, pháp số không rối; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác sắc xứ; sắc xứ tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là sắc xứ nhập bất nhị, pháp số không rối; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác nhãn giới; nhãn giới tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhãn giới nhập bất nhị, pháp số không rối; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác nhĩ giới; nhĩ giới tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là nhĩ giới. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là nhĩ giới nhập bất nhị, pháp số không rối; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác tỷ giới; tỷ giới tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là tỷ giới. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tỷ giới nhập bất nhị, pháp số không rối; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác thiệt giới; thiệt giới tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là thiệt giới. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thiệt giới nhập bất nhị, pháp số không rối; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Thân giới chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác thân giới; thân giới tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là thân giới nhập bất nhị, pháp số không rối; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Ý giới chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác ý giới; ý giới tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là ý giới. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là ý giới nhập bất nhị, pháp số không rối; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Địa giới chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác địa giới; địa giới tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác thủy, hỏa, phong, không, thức giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là địa giới nhập bất nhị, pháp số không rối; thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác Thánh đế khổ; Thánh đế khổ tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác Thánh đế tập, diệt, đạo; Thánh đế tập, diệt, đạo tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là Thánh đế khổ nhập bất nhị, pháp số không rối; Thánh đế tập, diệt, đạo nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Vô minh chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác vô minh; vô minh tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là vô minh nhập bất nhị, pháp số không rối; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Cái không nội chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác cái không nội; cái không nội tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là cái không nội. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là cái không nội nhập bất nhị, pháp số không rối; cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác bố thí Ba-la-mật-đa; bố thí Ba-la-mật-đa tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là bố thí Ba-la-mật-đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bố thí Ba-la-mật-đa nhập bất nhị, pháp số không rối; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác bốn tịnh lự; bốn tịnh lự tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là bốn tịnh lự nhập bất nhị, pháp số không rối; bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác tám giải thoát; tám giải thoát tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tám giải thoát nhập bất nhị, pháp số không rối; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác bốn niệm trụ; bốn niệm trụ tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nóớ này nên tôi nóụ nhập bất nhị, pháp số không rối; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát không tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là pháp môn giải thoát không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp môn giải thoát không nhập bất nhị, pháp số không rối; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác năm loại mắt; năm loại mắt tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là năm loại mắt. Sáu phép thần thông chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác sáu phép thần thông; sáu phép thần thông tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là sáu phép thần thông.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là năm loại mắt nhập bất nhị, pháp số không rối; sáu phép thần thông nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác mười lực của Phật; mười lực của Phật tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là mười lực của Phật nhập bất nhị, pháp số không rối; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Chơn như chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác chơn như; chơn như tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là chơn như. Pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là chơn như nhập bất nhị, pháp số không rối; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Quả vị giác ngộ cao tột chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác quả vị giác ngộ cao tột; quả vị giác ngộ cao tột tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là quả vị giác ngộ cao tột nhập bất nhị, pháp số không rối; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác pháp không quên mất; pháp không quên mất tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là pháp không quên mất. Tánh luôn luôn xả chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác tánh luôn luôn xả; tánh luôn luôn xả tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là tánh luôn luôn xả.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là pháp không quên mất nhập bất nhị, pháp số không rối; tánh luôn luôn xả nhập bất nhị, pháp số không rối.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Đà-la-ni tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là tất cả pháp môn Đà-la-ni. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng khác vô sanh diệt, vô sanh diệt chẳng khác tất cả pháp môn Tam-ma-địa; tất cả pháp môn Tam-ma-địa tức là vô sanh diệt, vô sanh diệt tức là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là tất cả pháp môn Đà-la-ni nhập bất nhị, pháp số không rối; tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhập bất nhị, pháp số không rối.

XX. PHẨM VÔ SANH

01

Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa khi quán các pháp vì thấy ngã là vô sanh nên rốt ráo thanh tịnh; vì thấy hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy sắc là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy thọ, tưởng, hành, thức là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy nhãn xứ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy sắc xứvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy nhãn giớivô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy nhĩ giớivô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy tỷ giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy thiệt giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy thân giớivô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy ý giớivô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy địa giớivô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy Thánh đế khổ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy Thánh đế tập, diệt, đạo là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy vô minhvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy cái không nội là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánhvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy bố thí Ba-la-mật-đa là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy bốn tịnh lựvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắcvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy tám giải thoátvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy bốn niệm trụ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạovô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy pháp môn giải thoát không là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy năm loại mắtvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy sáu phép thần thôngvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy mười lực của Phật là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy trí nhất thiếtvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy pháp không quên mất là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy tánh luôn luôn xả là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy phàm phuvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy pháp phàm phuvô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy Dự-lưu là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy pháp Dự-lưu là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy Nhất-lai là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy pháp Nhất-lai là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy Bất-hoàn là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy pháp Bất-hoàn là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy A-la-hán là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy pháp A-la-hán là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy Độc-giác là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; pháp Độc-giác là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy Bồ-tát là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; pháp Bồ-tát là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khi quán các pháp, vì thấy Như Laivô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh; thấy pháp Như Lai là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử nói với Thiện Hiện: Như tôi hiểu nghĩa Ngài vừa nói là ngã, hữu tình v.v… là vô sanh; sắc, thọ v.v… là vô sanh cho đến Như Lai, pháp Như Lai là vô sanh. Nếu là như vậy, sự thọ sanh của sáu loài lẽ ra không sai biệt, thì chẳng cần Dự-lưu đắc quả Dự-lưu, Nhất-lai đắc quả Nhất-lai, Bất-hoàn đắc quả Bất-hoàn, A-la-hán đắc quả A-la-hán; chẳng cần Độc-giác đắc quả Độc-giác; chẳng cần đại Bồ-tát đắc trí nhất thiết tướng, cũng chẳng cần đắc năm loại Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp nhất địnhvô sanh thì vì duyên cớ gì Dự-lưu vì quả Dự-lưu mà tu phương pháp đoạn trừ ba kiết; vì duyên cớ gì Nhất-lai vì quả Nhất-lai mà tu phương pháp làm mỏng tham, sân, si; vì duyên cớ gì Bất-hoàn vì quả Bất-hoàn mà tu phương pháp đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần; vì duyên cớ gì A-la-hán vì quả A-la-hán mà tu phương pháp đoạn trừ năm kiết thượng thuận phần; vì duyên cớ gì Độc-giác vì quả Độc-giác mà tu phương pháp ngộ duyên khởi; vì duyên cớ gì mà đại Bồ-tát vì việc độ vô lượng các hữu tình mà tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chịu đủ vô biên các loại khổ kịch liệt; vì duyên cớNhư Lai chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; vì duyên cớ gì chư Phật vì hữu tìnhchuyển pháp luân mầu nhiệm?

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Xá Lợi Tử: Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có sự sai biêt về việc thọ sanh của sáu loài; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có người có khả năng nhập vào cảnh thánh đế hiện quán; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Dự-lưu đắc quả Dự-lưu, Nhất-lai đắc quả Nhất-lai, Bất-hoàn đắc quả Bất-hoàn, A-la-hán đắc quả A-la-hán; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Độc-giác đắc quả vị Độc-giác; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có đại Bồ-tát đắc trí nhất thiết tướng và năm loại Bồ-đề.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Dự-lưu vì quả Dự-lưu mà tu phương pháp đoạn trừ ba kiết; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Nhất-lai vì quả Nhất-lai mà tu phương pháp làm mỏng tham, sân, si; chẳng thấy ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Bất-hoàn vì quả Bất-hoàn mà tu phương pháp đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có A-la-hán vì quả A-la-hán mà tu phương pháp đoạn trừ năm loại kiết thuận thượng phần; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Độc-giác vì quả vị Độc-giác mà tu phương pháp ngộ Duyên khởi; chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có đại Bồ-tát vì độ vô lượng các hữu tình mà tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chịu đủ vô biên các thứ khổ kịch liệt, nhưng các đại Bồ-tát cũng lại chẳng khởi tưởng về hạnh khổ khó làm. Vì sao? Vì chẳng phải trụ ở cái tưởng về hạnh khổ khó làm luôn luôn vì vô lượng, vô số, vô biên hữu tình mà làm những việc lợi ích.

Xá Lợi Tử! Nhưng các đại Bồ-tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với tất cả hữu tình khởi tâm đại bi, trụ ở tưởng như cha mẹ, tưởng như anh em, tưởng như vợ chồng, tưởng như thân mình. Cứ như vậy, cho đến luôn luôn vì vô lượng, vô số, vô biên hữu tình mà làm việc lợi ích lớn.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ-tát nên khởi tâm như vậy. Như tự tánh của ngã, đối với tất cả pháp, dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu cái chẳng thể nắm bắt được. Các pháp nội ngoại cũng lại như vậy, hoàn toàn không sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì các đại Bồ-tát, nếu trụ ở tưởng này mà tu các hạnh khổ khó làm thì có khả năng làm những việc lợi ích cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Cho nên đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không nên chấp thọ.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có chư Phật chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Nay Ngài vì muốn dùng pháp sanh chứng pháp sanh, vì muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh chăng?

Thiện Hiện đáp: Tôi thật chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp sanh, cũng thật chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.

Xá Lợi Tử hỏi: Nếu vậy thì nay Ngài vì muốn dùng pháp sanh chứng pháp vô sanh, vì muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh chăng?

Thiện Hiện đáp: Tôi cũng chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp vô sanh cũng lại chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh.

Xá Lợi Tử hỏi: Nếu như vậy thì đâu phải hoàn toàn không đắc, không hiện quán?

Thiện Hiện đáp: Tuy có đắc, có hiện quán nhưng chẳng dùng hai pháp này để chứng.

Xá Lợi Tử! Chỉ tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có đắc, có hiện quám, chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có đắc, có hiện quán. Chỉ tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có Dự-lưu, có quả Dự-lưu, có Nhất-lai, có quả Nhất-lai, có Bất-hoàn, có quả Bất-hoàn, có A-la-hán, có quả A-la-hán, có Độc-giác, có quả vị Độc-giác, có đại Bồ-tát, có quả vị giác ngộ cao tột chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có Dự-lưu cho đến quả vị giác ngộ cao tột.

Xá Lợi Tử hỏi: Nếu tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có đắc, có hiện quán v.v.. chứ chẳng phải là thắng nghĩa thì sự sai biệt của sáu loài cũng tùy theo thế gian đặt bày ra lời nói mà có, chứ chẳng phải là thắng nghĩa chăng?

Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì ở trong thắng nghĩa, không có nghiệp, không có dị thục, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Nay Ngài muốn khiến pháp bất sanh sanh, vì muốn khiến pháp đã sanh sanh chăng?

Thiện Hiện đáp: Tôi chẳng muốn khiến pháp bất sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp đã sanh sanh.

Xá Lợi Tử hỏi: Những pháp nào là pháp bất sanh mà Ngài chẳng muốn khiến những pháp ấy sanh?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thân giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Ý giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Địa giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thánh đế tập, diệt, đạo là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vô minh là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Sáu phép thần thông là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tánh luôn luôn xả là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Phàm phu là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp phàm phu là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Dự-lưu là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Dự-lưu là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhất-lai là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Nhất-lai là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bất-hoàn là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Bất-hoàn là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! A-la-hán là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp A-la-hán là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Độc-giác là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Độc-giác là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bồ-tát là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Bồ-tát là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Như Lai là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Như Lai là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử hỏi: Những pháp nào là pháp đã sanh mà Ngài chẳng muốn khiến pháp ấy sanh?

Thiện Hiện đáp: Sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thân giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Ý giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Địa giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thánh đế tập, diệt, đạo là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vô minh là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Cái không nội là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Quyển Thứ 74

 

HẾT

 

02

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Sáu phép thần thông là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn chúng nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tánh luôn luôn xả là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Tất cả pháp môn Tam-ma-địa là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn chúng nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Phàm phu là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp phàm phu là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Dự-lưu là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Dự-lưu là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhất-lai là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Nhất-lai là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bất-hoàn là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Bất-hoàn là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! A-la-hán là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp A-la-hán là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Độc-giác là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Độc-giác là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bồ-tát là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Bồ-tát là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Như Lai là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Pháp Như Lai là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn nó sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Nay Ngài vì muốn khiến pháp sanh nó sanh, hay vì muốn khiến pháp bất sanh nó sanh?

Thiện Hiện đáp: Tôi chẳng muốn khiến pháp sanh nó sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp bất sanh nó sanh. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì pháp sanh cùng với pháp bất sanh, hai pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi cũng chẳng muốn khiến pháp sanh nó sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp bất sanh nó sanh.

Khi ấy Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Đối với pháp vô sanh đã nói, Ngài ưa biện thuyết tướng vô sanh chăng?

Thiện Hiện đáp: Đối với pháp vô sanh đã nói, tôi cũng chẳng ưa biện thuyết tướng vô sanh. Vì sao? Vì hoặc là pháp vô sanh, hoặc là tướng vô sanh, hoặc là ưa biện thuyết, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Xá Lợi Tử hỏi: Đối với pháp bất sanh, khởi lên lời nói bất sanh, thì lời nói bất sanh này cũng bất sanh chăng?

Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì sắc bất sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ bất sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ bất sanh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới bất sanh; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhĩ giới bất sanh; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tỷ giới bất sanh; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thiệt giới bất sanh; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thân giới bất sanh; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Ý giới bất sanh; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Địa giới bất sanh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ bất sanh; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Vô minh bất sanh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Cái không nội bất sanh; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa bất sanh; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự bất sanh; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát bất sanh; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ bất sanh; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không bất sanh; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt bất sanh; sáu phép thần thông cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật bất sanh; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết bất sanh; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất bất sanh; tánh luôn luôn xả cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni bất sanh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Phàm phu bất sanh; pháp phàm phu cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Dự-lưu bất sanh; pháp Dự-lưu cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhất-lai bất sanh; pháp Nhất-lai cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bất-hoàn bất sanh; pháp Bất-hoàn cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! A-la-hán bất sanh; pháp A-la-hán cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Độc-giác bất sanh; pháp Độc-giác cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Bồ-tát bất sanh; pháp Bồ-tát cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Như Lai bất sanh; pháp Như Lai cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Thân hành bất sanh; ngữ hành, ý hành cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả bản tánh là không.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên đối với pháp bất sanh, khởi lên lời nói bất sanh, cũng không có nghĩa là sanh.

Xá Lợi Tử! Vì hoặc pháp sở thuyết, hoặc lời năng thuyết, người thuyết, người nghe đều bất sanh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử nói với Thiện Hiện: Trong những vị thuyết pháp, Ngài là người đệ nhất. Vì sao? Vì tùy theo sự vặn hỏi đều có thể giải đáp, không bị ngập ngừng lúng túng.

Thiện Hiện nói: Đệ tử của chư Phật, đối với tất cả pháp đều không có cái nương tựa đắm trước. Do vậy, nên có khả năng, tùy theo sự vặn hỏi mà tất cả đều được giải đáp tự tại vô úy. Vì sao? Vì tất cả pháp không có chỗ nương tựa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì sao các pháp đều không có chỗ nương?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của sắc là không, nên trong, ngoài, hai bên, khoảng giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của nhãn xứ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của sắc xứ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của nhãn giới là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của nhĩ giới là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của tỷ giới là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của thiệt giới là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của thân giới là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của ý giới là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của địa giới là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Thánh đế khổ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của thánh đế tập, diệt, đạo là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của vô minh là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của cái không nội là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của bốn tịnh lự là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của tám giải thoát là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của bốn niệm trụ là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của pháp môn giải thoát không là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của năm loại mắt là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của sáu phép thần thông là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của mười lực Phật là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của trí nhất thiết là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của pháp không quên mất là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của tánh luôn luôn xả là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của phàm phu là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp phàm phu là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Dự-lưu là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp Dự-lưu là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Nhất-lai là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp Nhất-lai là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Bất-hoàn là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp Bất-hoàn là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của A-la-hán là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp A-la-hán là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Độc-giác là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp Độc-giác là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Bồ-tát là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp Bồ-tát là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì bản tánh của Như Lai là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được. Vì bản tánh của pháp Như Lai là không, nên trong, ngoài, khoảng giữa, hai bên đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi nói là các pháp đều không có chỗ nương.

 
XXI. PHẨM TỊNH ĐẠO

 

01

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nói với Xá Lợi Tử: Các đại Bồ-tát, khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa nên sắc thanh tịnh; nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh; nên nhãn xứ thanh tịnh; nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh; nên sắc xứ thanh tịnh; nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh; nên nhãn giới thanh tịnh; nên sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên nhĩ giới thanh tịnh; nên thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên tỷ giới thanh tịnh; nên hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên thiệt giới thanh tịnh; nên vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên thân giới thanh tịnh; nên xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên ý giới thanh tịnh; nên pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh; nên địa giới thanh tịnh; nên thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh; nên Thánh đế khổ thanh tịnh; nên Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh; nên vô minh thanh tịnh; nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh; nên cái không nội thanh tịnh; nên cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh thanh tịnh; nên bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh; nên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; nên bốn tịnh lự thanh tịnh; nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh; nên tám giải thoát thanh tịnh; nên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh; nên bốn niệm trụ thanh tịnh; nên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thanh tịnh; nên pháp môn giải thoát không thanh tịnh; nên pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh; nên năm loại mắt thanh tịnh; nên sáu phép thần thông thanh tịnh; nên mười lực của Phật thanh tịnh; nên bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh; nên pháp không quên mất thanh tịnh; nên tánh luôn luôn xả thanh tịnh; nên tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh; nên tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh; nên trí nhất thiết thanh tịnh; nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh; nên đạo Bồ-đề thanh tịnh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Thế nào là đại Bồ-tát, khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, đạo Bồ-đề thanh tịnh?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sáu phép Ba-la-mật-đa, mỗi phép đều có hai thứ: Một là thế gian, hai là xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát là đại thí chủ, thì luôn luôn bố thí cho tất cả Sa-môn, Bà-là-môn, người nghèo, người bệnh, người cô độc, người lỡ đường, người hành khất, họ cần ăn, cho ăn, cần uống cho uống, cần xe cho xe, cần y phục cho y phục, cần hương cho hương, cần hoa cho hoa, cần đồ trang sức cho đồ trang sức, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần thuốc men cho thuốc men, cần ánh sáng cho ánh sáng, cần đồ ngồi nằm cho đồ ngồi nằm, tất cả thứ ấy, tùy theo nhu cầu về sự sinh sống của họ mà cho đầy đủ. Hoặc lại có người đến xin con trai, cho con trai, xin con gái cho con gái, xin vợ cho vợ, xin chức quan cho chức quan, xin đất nước cho đất nước, xin ngôi vua cho ngôi vua, xin đầu mắt cho đầu mắt, xin tay chân cho tay chân, xin các phần trong thân cho các phần trong thân, xin máu thịt cho máu thịt, xin xương tủy cho xương tủy, xin tai mũi cho tai mũi, xin tôi tớ cho tôi tớ, xin của báu cho của báu, xin vàng bạc cho vàng bạc, tất cả các thứ ấy, tùy theo nhu cầu của họ, các vật ở trong, ngoài đều cho hết. Tuy làm việc bố thí như vậy nhưng có chỗ nương tựa, nghĩa là nghĩ thế này: Ta cho, người kia nhận; ta là thí chủ; ta chẳng xan tham; ta nghe theo lời Phật dạy; có thể xả bỏ tất cả; ta hành bố thí Ba-la-mật-đa. Trong khi kẻ ấy hành bố thí, vì lấy sở đắc làm phương tiện, nên cùng với các hữu tình hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột. Lại nghĩ thế này: Ta đem phước này cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y Niết-bàn. Kẻ kia chấp trước vào ba luân mà hành bố thí: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về vật cho. Do chấp trước ba luân này, mà hành bố thí, nên gọi là thế gian bố thí Ba-la-mật-đa. Vì duyên cớ gì mà sự bố thí này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, chẳng đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy gọi là bố thí Ba-la-mật-đa thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi hành bố thí, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta là người cho, hai là chẳng chấp kẻ kia là người nhận, ba là chẳng chấp việc bố thí và kết quả bố thí, thì đó là đại Bồ-tát khi thực hành bố thí, ba luân thanh tịnh.

Lại, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát lấy đại bi làm đầu, đem phước bố thí đã tu cho khắp hữu tình, thì đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà hành bố thí, nên gọi là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì mà việc bố thí này gọi là xuất thế gian. Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể đạt đến pháp xuất thế gian, nên gọi là bố thí Ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá Lợi Tử! Thế nào là tịnh giới Ba-la-mật-đa thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, tuy thọ trì tịnh giới, mà có chỗ nương, nghĩa là nghĩ thế này: Ta vì lợi ích của tất cả hữu tìnhthọ trì tịnh giới; ta làm theo lời Phật dạy, đối với tịnh giới không có gì vi phạm; ta hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, thì trong khi vị ấy trì giới, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột. Lại khởi lên ý nghĩ thế này: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y Niết-bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà thọ trì giới: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về giới. Do chấp trước ba luân này, mà thọ trì giới, nên gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì mà tịnh giới này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian, như vậy gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh giới Ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi thọ trì giới, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta năng trì giới, hai là chẳng chấp hữu tình được phòng hộ, ba là chẳng chấp giới và kết quả của giới, thì gọi là đại Bồ-tát khi thọ trì giới, ba luân thanh tịnh.

Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi làm đầu, đem phước đã trì giới bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà thọ trì giới, nên gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì mà tịnh giới này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy gọi là tịnh giới Ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là an nhẫn Ba-la-mật-đa thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, tuy tu an nhẫn, mà có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ thế này: Ta vì sự lợi ích của tất cả hữu tình mà tu an nhẫn; ta theo lời Phật dạy, đối với an nhẫn thù thắng, thường tu tập đúng đắn; ta tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì vị ấy khi tu hành an nhẫn, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột; lại khởi lên ý nghĩ thế này: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y Niết-bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà tu hành an nhẫn: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về nhẫn. Do chấp trước ba luân này, mà tu an nhẫn nên gọi là an nhẫn Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì mà an nhẫn này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian; như vậy, gọi là an nhẫn Ba-la-mật-đa thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là an nhẫn Ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành an nhẫn, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu nhẫn, hai là chẳng chấp đối tượng nhẫn là hữu tình, ba là chẳng chấp trước nhẫn và kết quả của nhẫn, thì đó là đại Bồ-tát, khi tu hành an nhẫn, ba luân thanh tịnh.

Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi làm đầu, đem phước đã tu hành an nhẫn bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc, tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu an nhẫn, nên gọi là an nhẫn Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì gọi an nhẫn này là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể đạt tới pháp xuất thế gian, như vậy gọi là an nhẫn Ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tinh tấn Ba-la-mật-đa thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, tuy dốc lòng tinh tấn, nhưng có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ thế này: Ta vì lợi ích tất cả hữu tình mà dốc lòng tinh tấn; ta theo lời Phật dạy, sách tấn thân tâm không hề giải đãi; ta hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì vị ấy khi hành tinh tấn, lấy hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y Niết-bàn. Vị ấy chấp trước vào ba luân mà dốc lòng tinh tấn: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về tinh tấn. Do chấp trước ba luân này, mà tu tinh tấn, nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớtinh tấn này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian; như vậy, gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tinh tấn Ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi dốc lòng tinh tấn, làm cho ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tinh tấn, hai là chẳng chấp vào cái vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào sự tinh tấn và kết quả tinh tấn, thì đó là đại Bồ-tát khi dốc lòng tinh tấn, ba luân thanh tịnh.

Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi làm đầu, đem phước tinh tấn đã tu bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy có một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà lại dốc lòng tinh tấn, nên gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớtinh tấn này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là tinh tấn Ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh lự Ba-la-mật-đa thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, tuy tu tịnh lự, nhưng có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta vì lợi ích tất cả hữu tình mà tu tịnh lự; ta theo lời Phật dạy, đối với các đẳng trì thù thắng luôn luôn tu tập đúng đắn; ta hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, thì vị ấy, khi tu định, lấy hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột; lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y Niết-bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà tu tịnh lự: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về tịnh lự. Do chấp trước ba luân này, mà tu tịnh lự, nên gọi là tịnh lự Ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớtịnh lự này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là tịnh lự Ba-la-mật-đa thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là tịnh lự Ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi tu tịnh lự, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu định, hai là chẳng chấp cái vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào tịnh lự và kết quả tịnh lự, thì đó là đại Bồ-tát, khi tu tịnh lự, ba luân thanh tịnh.

Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi làm đầu, đem phước đã tu tịnh lự bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn không sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu tịnh lự, nên gọi là tịnh lự Ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì mà tịnh lự này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là tịnh lự Ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là Bát-nhã-ba-la-mật-đa thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã, mà có chỗ nương, nghĩa là khởi lên ý nghĩ: Ta vì lợi ích cho tất cả hữu tình mà tu Bát-nhã; ta theo lời Phật dạy, đối với Bát-nhã thù thắng, thường tu hành đúng đắn, ta thường ăn năn trừ bỏ điều ác mình đã làm, ta thấy điều ác kẻ khác, hoàn toàn chẳng chê trách, ta luôn luôn tùy hỷ sự tu phước của kẻ khác, ta thường thỉnh Phật chuyển pháp luân nhiệm mầu, ta tùy theo điều đã nghe, luôn luôn chọn lựa đúng đắn, ta tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì vị ấy khi tu tuệ, lấy hữu sở đắc mà làm phương tiện, cùng với các hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột; lại khởi lên ý nghĩ: Ta đem phước này bố thí cho các hữu tình, khiến đời này, đời khác được an vui cho đến chứng đắc Vô-dư-y Niết-bàn. Vị ấy chấp trước ba luân mà tu Bát-nhã: Một là tưởng về mình, hai là tưởng về người, ba là tưởng về Bát-nhã. Do chấp trước ba luân này, mà hành Bát-nhã nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa thế gian. Vì duyên cớ gì Bát-nhã này gọi là thế gian? Vì cùng làm như thế gian, vì chẳng đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa thế gian.

Xá Lợi Tử hỏi: Thế nào là Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã, ba luân thanh tịnh: Một là chẳng chấp ta thường tu tuệ, hai là chẳng chấp cái vì hữu tình, ba là chẳng đắm vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa và kết quả Bát-nhã, thì đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã, ba luân thanh tịnh.

Lại, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát lấy đại bi làm đầu, đem phước đã tu hành Bát-nhã bố thí khắp hữu tình, đối với các hữu tình hoàn toàn vô sở đắc. Tuy cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng về quả vị giác ngộ cao tột, nhưng ở trong đó, chẳng thấy một chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà tu hành Bát-nhã, nên gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất thế gian. Vì duyên cớ gì Bát-nhã này gọi là xuất thế gian? Vì chẳng cùng làm như thế gian, vì có thể đạt đến pháp xuất thế gian. Như vậy, gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa xuất thế gian.

Xá Lợi Tử! Như vậy là đại Bồ-tát khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa làm thanh tịnh đạo Bồ-đề.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Những gì gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Cái không nội gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Chơn như gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Thánh đế khổ gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; Thánh đế tập, diệt, đạo gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Bốn tịnh lự gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; bốn vô lượng, bốn định vô sắc gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Tám giải thoát gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Pháp môn giải thoát không gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Năm loại mắt gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; sáu phép thần thông gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Mười lực của Phật gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Pháp không quên mất gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; tánh luôn luôn xả gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Tất cả pháp môn Đà-la-ni gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; tất cả pháp môn Tam-ma-địa gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Trí nhất thiết gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Xá Lợi Tử! Vô lượng, vô biên các nhóm công đức lớn như vậy gọi là đạo Bồ-đề của đại Bồ-tát.

Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện: Hay thay! Hay thay! Đúng như Ngài đã nói! Công đức như vậy là do những thế lực Ba-la-mật-đa nào mà đạt được?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Công đức như vậy đều do thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đạt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy luôn luôn là mẹ của tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai đều từ đó mà sanh.

Xá Lợi Tử! Bát-nhã-ba-la-mật-đa này có khả năng nhiếp thọ khắp tất cả thiện pháp. Thiện pháp của Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai đều nương nơi đây mà an trú.

Xá Lợi Tử! Chư Phật quá khứ tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì đạt đến chỗ viên mãn rốt ráo, nên đã chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật vị lai tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì đạt đến viên mãn rốt ráo, nên sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật hiện tại trong mười phương thế giới tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì đạt đến viên mãn rốt ráo, nên hiện chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Quyển Thứ 75

HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.