Tập 12 (Quyển 288-300)

08/05/201012:00 SA(Xem: 26372)
Tập 12 (Quyển 288-300)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 12 (Quyển 288-300)

 XXXVI. PHẨM TRƯỚC VÀ
CHẲNG TRƯỚC TƯỚNG

02

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Đại-thừa, nếu lấy có sở đắc làm phương tiện từ lúc mới phát tâm đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khởi tưởng chấp trước hành; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với pháp không nội khởi tưởng chấp trước hành, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với chơn như khởi tưởng chấp trước hành, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với Thánh đế khổ khởi tưởng chấp trước hành, đối với thánh đế tập, diệt, đạo khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với bốn tịnh lự khởi tưởng chấp trước hành, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với tám giải thoát khởi tưởng chấp trước hành, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với bốn niệm trụ khởi tưởng chấp trước hành, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với pháp môn giải thoát không khởi tưởng chấp trước hành, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với mười địa Bồ-tát khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với năm loại mắt khởi tưởng chấp trước hành, đối với sáu phép thần thông khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với mười lực Phật khởi tưởng chấp trước hành, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với pháp không quên mất khởi tưởng chấp trước hành, đối với tánh luôn luôn xả khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với trí nhất thiết khởi tưởng chấp trước hành, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni khởi tưởng chấp trước hành, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với quả Dự-lưu khởi tưởng chấp trước hành, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với quả vị Độc-giác khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật khởi tưởng chấp trước hành. Này Xá Lợi Tử, khi đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu khôngphương tiện khéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, khởi tưởng chấp trước các pháp như thế thì gọi là trước tướng.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Như trước ông đã hỏi, thế nào là đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, không trước tướng thì này Xá Lợi Tử, đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, có phương tiện khéo léo, đối với sắc không khởi tưởng không hay bất không, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với nhãn xứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với sắc xứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với nhãn giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với nhĩ giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với tỷ giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với thiệt giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với thân giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với ý giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với địa giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với vô minh không khởi tưởng không hay bất không, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với bố thí Ba-la-mật-đa không khởi tưởng không hay bất không, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với pháp không nội không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với chơn như không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với Thánh đế khổ không khởi tưởng không hay bất không, đối với thánh đế tập, diệt, đạo cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với bốn tịnh lự không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với tám giải thoát không khởi tưởng không hay bất không, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với bốn niệm trụ không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với pháp môn giải thoát không không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với mười địa Bồ-tát không khởi tưởng không hay bất không; đối với năm loại mắt không khởi tưởng không hay bất không, đối với sáu phép thần thông cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với mười lực Phật không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với pháp không quên mất không khởi tưởng không hay bất không, đối với tánh luôn luôn xả cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với trí nhất thiết không khởi tưởng không hay bất không, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không khởi tưởng không hay bất không, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với quả Dự-lưu không khởi tưởng không hay bất không, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với quả vị Độc-giác không khởi tưởng không hay bất không; đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát không khởi tưởng không hay bất không; đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không khởi tưởng không hay bất không; đối với pháp quá khứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp vị lai, hiện tại không khởi tưởng không hay bất không.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, không nghĩ thế này: Ta bố thí, kẻ kia nhận, đây là vật bố thíý nghĩa của sự bố thí; không nghĩ: Ta giữ giới, đây là giới được giữ; không nghĩ: Ta tu nhẫn, đây pháp ta nhẫn; không nghĩ: Ta tinh tấn, đây là pháp tinh tấn; không nghĩ: Ta nhập định, đây là pháp định; không nghĩ: Ta tu tuệ, đây là pháp tuệ; không nghĩ: Ta gieo phước, đây là phước được gieo và quả đạt được; không nghĩ: Ta nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát; không nghĩ: Ta thành thục hữu tình; không nghĩ: Ta nghiêm tịnh cõi Phật; không nghĩ: Ta chứng đắc trí nhất thiết trí; không nghĩ: Ta trụ không, chứng thật tánh của pháp; không nghĩ: Ta tu tập các hạnh Bồ-tát; không nghĩ: Ta chứng đủ các công đức Phật.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát có phương tiện khéo léo, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện thì không có tất cả vọng tưởng phân biệt chấp trước như thế; do khéo thông đạt pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nên, này Xá Lợi Tử, gọi đó là đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa có phương tiện khéo léo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, không có tướng chấp trước.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

Thưa Đại đức! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, trước tướng như thế nào?

Thiện Hiện đáp:

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, không có phương tiện khéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, khởi tưởng chấp trước tâm, khởi tưởng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, khởi tưởng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa; khởi tưởng chấp trước pháp không nội, khởi tưởng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; khởi tưởng chấp trước chơn như, khởi tưởng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; khởi tưởng chấp trước Thánh đế khổ, khởi tưởng chấp trước thánh đế tập, diệt, đạo; khởi tưởng chấp trước bốn tịnh lự, khởi tưởng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc; khởi tưởng chấp trước tám giải thoát, khởi tưởng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; khởi tưởng chấp trước bốn niệm trụ, khởi tưởng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; khởi tưởng chấp trước pháp môn giải thoát không, khởi tưởng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; khởi tưởng chấp trước mười địa Bồ-tát; khởi tưởng chấp trước năm loại mắt, khởi tưởng chấp trước sáu phép thần thông; khởi tưởng chấp trước mười lực Phật, khởi tưởng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; khởi tưởng chấp trước pháp không quên mất, khởi tưởng chấp trước tánh luôn luôn xả; khởi tưởng chấp trước trí nhất thiết, khởi tưởng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; khởi tưởng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, khởi tưởng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa; khởi tưởng chấp trước quả Dự-lưu, khởi tưởng chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; khởi tưởng chấp trước quả vị Độc-giác; khởi tưởng chấp trước tất cả hạnh đại Bồ-tát; khởi tưởng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; khởi tưởng chấp trước chư đại Bồ-tát; khởi tưởng chấp trước Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; khởi tưởng chấp trước về các thiện căn Phật đã gieo trồng; khởi tưởng chấp trước đem các thiện căn đã gieo trồng như thế hòa hiệp hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Kiều Thi Ca, đó gọi là các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa không có phương tiện khéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, là trước tướng sở hữu.

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, do tưởng chấp trước nên không thể tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa không chấp trước và hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao vậy? Này Kiều Thi Ca! Vì chẳng phải bản tánh của sắc có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của nhãn xứ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của sắc xứ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của nhãn giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của nhĩ giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của tỷ giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của thiệt giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của thân giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của ý giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của địa giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của vô minh có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể hồi hướng.

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của pháp không nội có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của chơn như có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của Thánh đế khổ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thánh đế tập, diệt, đạo có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của bốn tịnh lự có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của tám giải thoát có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của bốn niệm trụ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của pháp môn giải thoát không có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của mười địa Bồ-tát có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của năm loại mắt có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của sáu phép thần thông có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của mười lực Phật có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của pháp không quên mất có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của tánh luôn luôn xả có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của trí nhất thiết có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của quả Dự-lưu có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của quả vị Độc-giác có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể hồi hướng.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát đối với quả vị giác ngộ cao tột, muốn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen gợi cho các hữu tình khác thì nên y như thật tướngthị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi. Lại nên thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi như thế này: Khi hành bố thí Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang bố thí, hoặc khi hành tịnh giới Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang hộ giới; hoặc khi hành an nhẫn Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tu nhẫn; hoặc khi hành tinh tấn Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tinh tấn; hoặc khi hành tịnh lự Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang nhập định; hoặc khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tập tuệ; hoặc khi hành pháp không nội, không nên phân biệt ta đang trụ pháp không nội; hoặc khi hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không nên phân biệt ta đang trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; hoặc khi hành chơn như, không nên phân biệt ta đang trụ chơn như; hoặc khi hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không nên phân biệt ta đang trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc khi hành Thánh đế khổ, không nên phân biệt ta đang trụ Thánh đế khổ; hoặc khi hành Thánh đế tập, diệt, đạo không nên phân biệt ta đang trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc khi hành bốn tịnh lự, không nên phân biệt ta đang tu bốn tịnh lự; hoặc khi hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nên phân biệt ta đang tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc khi hành tám giải thoát, không nên phân biệt ta đang tu tám giải thoát; hoặc khi hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không nên phân biệt ta đang tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc khi hành bốn niệm trụ, không nên phân biệt ta đang tu bốn niệm trụ; hoặc khi hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không nên phân biệt ta đang tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; hoặc khi hành pháp môn giải thoát không, không nên phân biệt ta đang tu pháp môn giải thoát không; hoặc khi hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không nên phân biệt ta đang tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc khi hành mười địa Bồ-tát không nên phân biệt ta đang tu mười địa Bồ-tát; hoặc khi hành năm loại mắt, không nên phân biệt ta đang tu năm loại mắt; hoặc khi hành sáu phép thần thông không nên phân biệt ta đang tu sáu phép thần thông; hoặc khi hành mười lực Phật, không nên phân biệt ta đang tu mười lực Phật; hoặc khi hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không nên phân biệt ta đang tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc khi hành pháp không quên mất, không nên phân biệt ta đang tu pháp không quên mất; hoặc khi hành tánh luôn luôn xả không nên phân biệt ta đang tu tánh luôn luôn xả; hoặc khi hành trí nhất thiết, không nên phân biệt ta đang tu trí nhất thiết; hoặc khi hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không nên phân biệt ta đang tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc khi hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, không nên phân biệt ta đang tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; hoặc khi hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa không nên phân biệt ta đang tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc khi hành pháp tương tợ quả Dự-lưu, không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tợ quả Dự-lưu; hoặc khi hành pháp tương tợ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tợ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc khi hành pháp tương tợ quả vị Độc-giác không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tợ quả vị Độc-giác; hoặc khi hành tất cả hạnh đại Bồ-tát không nên phân biệt ta đang tu tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc khi hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không nên phân biệt ta đang tu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Kiều Thi Ca! Các đại Bồ-tát đối với quả vị giác ngộ cao tột, nên thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi như thế với các hữu tình khác. Nếu đại Bồ-tát đối với quả vị giác ngộ cao tột luôn luôn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi với các loại hữu tình khác như thế thì chẳng tổn hại mình, cũng chẳng tổn hại người như chư Như Lai đã từng hứa khả thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi các loại hữu tình.

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu luôn luôn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi như thế thì các loại hữu tình hướng đến Bồ-tát thừa, liền có thể xa lìa tất cả tưởng chấp trước.

Bấy giờ, Thế Tôn khen cụ thọ Thiện Hiện: Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói thì nay ông có thể khéo vì các Bồ-tát nói về tướng chấp trước.

Này Thiện Hiện! Lại có tướng chấp trước vi tế này, ta sẽ vì ông mà nói, ông nên lắng nghe và tư duy chín chắn.

Thiện Hiện bạch: Dạ! Xin Ngài nói cho! Chúng con muốn nghe!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột mà đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chấp tướng, nhớ nghĩ thì đó là chấp trước; hoặc đối với công đức vô trước của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại và các thiện căn đó được từ khi mới phát tâm cho đến trụ pháp đều chấp tướng nhớ nghĩ và đã nhớ nghĩ rồi, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì tất cả sự chấp tướng nhớ nghĩ như thế đều gọi là chấp trước; hoặc đối với thiện pháp đã tu của tất cả đệ tử Như Laihữu tình khác đều chấp tướng nhớ nghĩ, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, tất cả như thế cũng gọi là chấp trước. Vì sao? Vì đối với công đức vô trước, thiện căn có được của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chẳng nên chấp tướng và nhớ nghĩ; đối với thiện pháp có được của đệ tử Phật và hữu tình khác, chẳng nên chấp tướng và nhớ nghĩ, vì các sự chấp tướng đều là hư vọng.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là rất sâu xa.

Phật dạy: Như vậy là do bản tánh của tất cả các pháp là viễn ly.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy đều nên kính lễ.

Phật dạy: Như vậy là được nhiều công đức, nhưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa này là pháp không tạo, không tác, không thể biết được.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch: Bạch Thế Tôn! Tánh của tất cả pháp đều khó có thể biết.

Phật dạy:Như vậy là vì tất cả pháp nhất tánh chẳng phải hai. Này Thiện Hiện! Nên biết, các pháp nhất tánh tức là vô tánh; các pháp vô tánh tức là nhất tánh. Như vậy là các pháp nhất tánh vô tánh, không tạo, không tác. Nếu đại Bồ-tát có khả năng biết như thật các pháp hiện hữu là nhất tánh vô tánh, không tạo, không tác thì có thể viễn ly tất cả chấp trước.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy khó có thể biết rõ.

Phật dạy: Đúng vậy! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này là pháp không thể thấy, không thể nghe, không thể biết, không thể hiểu, lìa tướng chứng đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là không thể nghĩ bàn.

Phật dạy: Đúng vậy! Vì sao? Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy chẳng thể dùng tâm để biết vì lìa tướng của tâm vậy; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng sắc để biết, vì lìa tướng của sắc, chẳng thể dùng thọ, tưởng, hành, thức để biết, vì lìa tướng của thọ, tưởng, hành, thức; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng nhãn xứ để biết, vì lìa tướng của nhãn xứ, chẳng thể dùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để biết, vì lìa tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng sắc xứ để biết, vì lìa tướng của sắc xứ, chẳng thể dùng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để biết, vì lìa tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng nhãn giới để biết, vì lìa tướng của nhãn giới, chẳng thể dùng sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của sắc giới cho đến tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng nhĩ giới để biết, vì lìa tướng của nhĩ giới, chẳng thể dùng thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của thanh giới cho đến tướng của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng tỷ giới để biết, vì lìa tướng của tỷ giới, chẳng thể dùng hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của hương giới cho đến tướng của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng thiệt giới để biết, vì lìa tướng của thiệt giới, chẳng thể dùng vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của vị giới cho đến tướng của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng thân giới để biết, vì lìa tướng của thân giới, chẳng thể dùng xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của xúc giới cho đến tướng của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng ý giới để biết, vì lìa tướng của ý giới, chẳng thể dùng pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của pháp giới cho đến tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng địa giới để biết, vì lìa tướng của địa giới, chẳng thể dùng thủy, hỏa, phong, không, thức giới để biết, vì lìa tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng vô minh để biết, vì lìa tướng của vô minh, chẳng thể dùng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để biết, vì lìa tướng của hành cho đến tướng của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng bố thí Ba-la-mật-đa để biết, vì lìa tướng của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể dùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để biết, vì lìa tướng của tịnh giới cho đến tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng cái không nội để biết, vì lìa tướng của pháp không nội, chẳng thể dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để biết, vì lìa tướng của pháp không ngoại cho đến tướng của pháp không không tánh tự tánh; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng chơn như để biết, vì lìa tướng của chơn như, chẳng thể dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để biết, vì lìa tướng của pháp giới cho đến tướng của cảnh giới bất tư nghì; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng Thánh đế khổ để biết, vì lìa tướng của Thánh đế khổ, chẳng thể dùng Thánh đế tập, diệt, đạo để biết, vì lìa tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng bốn tịnh lự để biết, vì lìa tướng của bốn tịnh lự, chẳng thể dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc để biết, vì lìa tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng tám giải thoát để biết, vì lìa tướng của tám giải thoát, chẳng thể dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để biết, vì lìa tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng bốn niệm trụ để biết, vì lìa tướng của bốn niệm trụ, chẳng thể dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để biết, vì lìa tướng của bốn chánh đoạn cho đến tướng của tám chi thánh đạo; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng pháp môn giải thoát không để biết, vì lìa tướng của pháp môn giải thoát không, chẳng thể dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để biết, vì lìa tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng mười địa Bồ-tát để biết, vì lìa tướng của mười địa Bồ-tát; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng năm loại mắt để biết, vì lìa tướng của năm loại mắt, chẳng thể dùng sáu phép thần thông để biết, vì lìa tướng của sáu phép thần thông; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng mười lực Phật để biết, vì lìa tướng của mười lực Phật, chẳng thể dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để biết, vì lìa tướng của bốn điều không sợ cho đến tướng của mười tám pháp Phật bất cộng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng pháp không quên mất để biết, vì lìa tướng của pháp không quên mất, chẳng thể dùng tánh luôn luôn xả để biết, vì lìa tướng của tánh luôn luôn xả; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng trí nhất thiết để biết, vì lìa tướng của trí nhất thiết, chẳng thể dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để biết, vì lìa tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng tất cả pháp môn Đà-la-ni để biết, vì lìa tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thể dùng tất cả pháp môn Tam-ma-địa để biết, vì lìa tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng quả Dự-lưu để biết, vì lìa tướng của quả Dự-lưu, chẳng thể dùng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán để biết, vì lìa tướng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng quả vị Độc-giác để biết, vì lìa tướng của quả vị Độc-giác; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng tất cả hạnh đại Bồ-tát để biết, vì lìa tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để biết, vì lìa tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, không có sự tạo tác.

Phật dạy: Đúng vậy! Vì các sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được

Này Thiện Hiện! Vì các sự tạo tác và các pháp sắc v.v… chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế không có sự tạo tác.

Quyển Thứ 288
HẾT

XXXVI. PHẨM TRƯỚC VÀ

CHẲNG TRƯỚC TƯỚNG

03

 Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành sắc là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của sắc còn không có sở hữu huống là có sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của thọ, tưởng, hành, thức còn không có sở hữu huống là có thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành nhãn xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhãn xứ hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của nhãn xứ còn không có sở hữu huống là có nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ còn không có sở hữu huống là có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành sắc xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc xứ hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của sắc xứ còn không có sở hữu huống là có sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ còn không có sở hữu huống là có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành nhãn giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhãn giới hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhãn giới hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhãn giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của nhãn giới còn không có sở hữu huống là có nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của sắc giới cho đến tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra còn không có sở hữu huống là có sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành nhĩ giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhĩ giới hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhĩ giới hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhĩ giới hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhĩ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của nhĩ giới còn không có sở hữu huống là có nhĩ giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của thanh giới cho đến tánh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra còn không có sở hữu huống là có thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành tỷ giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tỷ giới hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tỷ giới hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tỷ giới hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tỷ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của tỷ giới còn không có sở hữu huống là có tỷ giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của hương giới cho đến tánh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra còn không có sở hữu huống là có hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành thiệt giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thiệt giới hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thiệt giới hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thiệt giới hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thiệt giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của thiệt giới còn không có sở hữu huống là có thiệt giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của vị giới cho đến tánh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra còn không có sở hữu huống là có vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành thân giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thân giới hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thân giới hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thân giới hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thân giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của thân giới còn không có sở hữu huống là có thân giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của xúc giới cho đến tánh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra còn không có sở hữu huống là có xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành ý giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành ý giới hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành ý giới hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành ý giới hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành ý giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của ý giới còn không có sở hữu huống là có ý giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của pháp giới cho đến tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra còn không có sở hữu huống là có pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành địa giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành địa giới hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành địa giới hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành địa giới hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành địa giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của địa giới còn không có sở hữu huống là có địa giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới còn không có sở hữu huống là có thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành vô minh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành vô minh hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành vô minh hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành vô minh hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành vô minh hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của vô minh còn không có sở hữu huống là có vô minh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của hành cho đến tánh của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não còn không có sở hữu huống là có hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của bố thí Ba-la-mật-đa còn không có sở hữu huống là có bố thí Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của tịnh giới cho đến tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa còn không có sở hữu huống là có tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành pháp không nội là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không nội hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không nội hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không nội hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không nội hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của pháp không nội còn không có sở hữu huống là có pháp không nội hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của pháp không ngoại cho đến tánh của pháp không không tánh tự tánh còn không có sở hữu huống là có pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành chơn như là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành chơn như hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành chơn như hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành chơn như hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành chơn như hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của chơn như còn không có sở hữu huống là có chơn như hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của pháp giới cho đến tánh của cảnh giới bất tư nghì còn không có sở hữu huống là có pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành Thánh đế khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành Thánh đế khổ hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành Thánh đế khổ hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành Thánh đế khổ hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành Thánh đế khổ hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của Thánh đế khổ còn không có sở hữu huống là có Thánh đế khổ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo còn không có sở hữu huống là có Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành bốn tịnh lự là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn tịnh lự hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn tịnh lự hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn tịnh lự hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn tịnh lự hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của bốn tịnh lự còn không có sở hữu huống là có bốn tịnh lự hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn không có sở hữu huống là có bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành tám giải thoát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tám giải thoát hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tám giải thoát hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tám giải thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của tám giải thoát còn không có sở hữu huống là có tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ còn không có sở hữu huống là có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành bốn niệm trụ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn niệm trụ hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn niệm trụ hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của bốn niệm trụ còn không có sở hữu huống là có bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của bốn chánh đoạn cho đến tánh của tám chi thánh đạo còn không có sở hữu huống là có bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành pháp môn giải thoát không là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp môn giải thoát không hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp môn giải thoát không hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp môn giải thoát không hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp môn giải thoát không hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của pháp môn giải thoát không còn không có sở hữu huống là có pháp môn giải thoát không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện còn không có sở hữu huống là có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành mười địa Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành mười địa Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành mười địa Bồ-tát hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành mười địa Bồ-tát hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành mười địa Bồ-tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Tánh của mười địa Bồ-tát còn không có sở hữu huống là có mười địa Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành năm loại mắt là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sáu phép thần thông là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành năm loại mắt hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sáu phép thần thông hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành năm loại mắt hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sáu phép thần thông hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành năm loại mắt hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sáu phép thần thông hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành năm loại mắt hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành sáu phép thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của năm loại mắt còn không có sở hữu huống là có năm loại mắt hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của sáu phép thần thông còn không có sở hữu huống là có sáu phép thần thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành mười lực Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành mười lực Phật hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành mười lực Phật hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành mười lực Phật hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành mười lực Phật hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của mười lực Phật còn không có sở hữu huống là có mười lực Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của bốn điều không sợ cho đến tánh của mười tám pháp Phật bất cộng còn không có sở hữu huống là có bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành pháp không quên mất là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh luôn luôn xả là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không quên mất hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh luôn luôn xả hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không quên mất hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh luôn luôn xả hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không quên mất hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh luôn luôn xả hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không quên mất hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh luôn luôn xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của pháp không quên mất còn không có sở hữu huống là có pháp không quên mất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của tánh luôn luôn xả còn không có sở hữu huống là có tánh luôn luôn xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Quyển Thứ 289
HẾT

XXXVI. PHẨM TRƯỚC VÀ

CHẲNG TRƯỚC TƯỚNG

04

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành trí nhất thiết là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí nhất thiết hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí nhất thiết hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí nhất thiết hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của trí nhất thiết còn không có sở hữu huống là có trí nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng còn không có sở hữu huống là có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni còn không có sở hữu huống là có tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa còn không có sở hữu huống là có tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành quả Dự-lưu là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Dự-lưu hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Dự-lưu hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Dự-lưu hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Dự-lưu hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của quả Dự-lưu còn không có sở hữu huống là có quả Dự-lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán còn không có sở hữu huống là có quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành quả vị Độc-giác là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị Độc-giác hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị Độc-giác hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị Độc-giác hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị Độc-giác hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của quả vị Độc-giác còn không có sở hữu huống là có quả vị Độc-giác hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát còn không có sở hữu huống là có tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa nếu chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc lạc hoặc khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc ngã hoặc vô ngã là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật còn không có sở hữu huống là có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu sắc viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là sắc; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thọ, tưởng, hành, thức viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhãn xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu nhãn xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là nhãn xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu sắc xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là sắc xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhãn giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu nhãn giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là nhãn giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhĩ giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu nhĩ giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là nhĩ giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tỷ giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tỷ giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tỷ giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thiệt giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thiệt giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thiệt giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thân giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thân giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thân giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành ý giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu ý giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là ý giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành địa giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu địa giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là địa giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu thủy, hỏa, phong, không, thức giới viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành vô minh viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu vô minh viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là vô minh; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bố thí Ba-la-mật-đa viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bố thí Ba-la-mật-đa; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không nội viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp không nội viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp không nội; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành chơn như viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu chơn như viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là chơn như; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành Thánh đế khổ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu Thánh đế khổ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là Thánh đế khổ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành Thánh đế tập, diệt, đạo viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu Thánh đế tập, diệt, đạo viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn tịnh lự viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn tịnh lự viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn tịnh lự; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn vô lượng, bốn định vô sắc viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tám giải thoát viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tám giải thoát viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tám giải thoát; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn niệm trụ viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn niệm trụ viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn niệm trụ; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp môn giải thoát không viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp môn giải thoát không viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp môn giải thoát không; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành mười địa Bồ-tát viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu mười địa Bồ-tát viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là mười địa Bồ-tát; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành năm loại mắt viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu năm loại mắt viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là năm loại mắt; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sáu phép thần thông viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu sáu phép thần thông viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là sáu phép thần thông; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành mười lực Phật viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu mười lực Phật viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là mười lực Phật; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không quên mất viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu pháp không quên mất viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là pháp không quên mất; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tánh luôn luôn xả viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tánh luôn luôn xả viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tánh luôn luôn xả; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành trí nhất thiết viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu trí nhất thiết viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là trí nhất thiết; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tất cả pháp môn Đà-la-ni viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tất cả pháp môn Tam-ma-địa viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả Dự-lưu viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu quả Dự-lưu viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là quả Dự-lưu; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả vị Độc-giác viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu quả vị Độc-giác viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là quả vị Độc-giác; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu tất cả hạnh đại Bồ-tát viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là tất cả hạnh đại Bồ-tát; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. 

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật viên mãn và chẳng viên mãn là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật viên mãn và chẳng viên mãn đều chẳng gọi là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; cũng chẳng hành như thế là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Rất đặc biệt! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn Đại-thừa, tuyên thuyết các loại trước và chẳng trước tướng.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn Đại-thừa, tuyên thuyết các loại trước và chẳng trước tướng, khiến cho người học Bát-nhã-ba-la-mật-đa lìa các nhiễm trước, mau đạt cứu cánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhãn xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành sắc xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhãn giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành nhĩ giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tỷ giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thiệt giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành thân giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành ý giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành địa giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thủy, hỏa, phong, không, thức giới trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành vô minh trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bố thí Ba-la-mật-đa trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không nội trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành chơn như trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành Thánh đế khổ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành thánh đế tập, diệt, đạo trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn tịnh lự trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tám giải thoát trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành bốn niệm trụ trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp môn giải thoát không trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành mười địa Bồ-tát trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

 

Quyển Thứ 290
HẾT

XXXVI. PHẨM TRƯỚC VÀ

CHẲNG TRƯỚC TƯỚNG

05

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành năm loại mắt trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành sáu phép thần thông trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành mười lực Phật trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành pháp không quên mất trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh luôn luôn xả trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành trí nhất thiết trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả pháp môn Đà-la-ni trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả Dự-lưu trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả vị Độc-giác trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành tất cả hạnh đại Bồ-tát trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu chẳng hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật trước và chẳng trước tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với sắc, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với nhãn xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với sắc xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với nhãn giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với nhĩ giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tỷ giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với thiệt giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với thân giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với ý giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với địa giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với vô minh, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp không nội, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với chơn như, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với Thánh đế khổ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bốn tịnh lự, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tám giải thoát, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bốn niệm trụ, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp môn giải thoát không, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với mười địa Bồ-tát, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với năm loại mắt, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với sáu phép thần thông, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với mười lực Phật, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp không quên mất, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với tánh luôn luôn xả, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với trí nhất thiết, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả Dự-lưu, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả vị Độc-giác, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng khởi tưởng trước và chẳng trước là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Rất đặc biệt! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là pháp tánh sâu xa, hoặc nói hoặc chẳng nói đều chẳng tăng chẳng giảm.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế là pháp tánh sâu xa, hoặc nói hoặc chẳng nói đều chẳng tăng chẳng giảm.

Này Thiện Hiện! Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trọn đời khen hay chê hư không thì hư không kia vẫn không tăng không giảm, Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, pháp tánh sâu xa cũng giống như vậy, hoặc khen hay chê chẳng tăng chẳng giảm.

Này Thiện Hiện! Thí như ảo thuật gia đối với việc khen hay chê chẳng tăng chẳng giảm không buồn, không vui, Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, pháp tánh sâu xa cũng giống như thế, hoặc nói hoặc chẳng nói vẫn như như không khác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa là việc rất khó, bởi vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, hoặc tu hoặc chẳng tu không tăng không giảm, cũng không thuận, trái, thế mà chuyên cần tu học Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế cho đến quả vị giác ngộ cao tột không hề thối chuyển. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như tu hư không, hoàn toàn không có sở hữu. Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có sắc có thể an lập, không có thọ, tưởng, hành, thức có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có nhãn xứ có thể an lập, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có sắc xứ có thể an lập, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có nhãn giới có thể an lập, không có sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có nhĩ giới có thể an lập, không có thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có tỷ giới có thể an lập, không có hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có thiệt giới có thể an lập, không có vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có thân giới có thể an lập, không có xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có ý giới có thể an lập, không có pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có địa giới có thể an lập, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có vô minh có thể an lập, không có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có bố thí Ba-la-mật-đa có thể an lập, không có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có pháp không nội có thể an lập, không có pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có chơn như có thể an lập, không có pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có Thánh đế khổ có thể an lập, không có thánh đế tập, diệt, đạo có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có bốn tịnh lự có thể an lập, không có bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có tám giải thoát có thể an lập, không có tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có bốn niệm trụ có thể an lập, không có bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có pháp môn giải thoát không có thể an lập, không có pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có mười địa Bồ-tát có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có năm loại mắt có thể an lập, không có sáu phép thần thông có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có mười lực Phật có thể an lập, không có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có pháp không quên mất có thể an lập, không có tánh luôn luôn xả có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có trí nhất thiết có thể an lập, không có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể an lập, không có tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có quả Dự-lưu có thể an lập, không có quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có quả vị Độc-giác có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trong hư không, không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể an lập; việc tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như vậy.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy có khả năng mặc áo giáp đại công đức như thế, chúng con và hữu tình đều nên kính lễ.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì các hữu tình mặc áo giáp đại công đức, chuyên cần tinh tấn thì giống như vì hư không mặc áo giáp đại công đức phát khởi chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì muốn thành thục, giải thoát hữu tình, mặc áo giáp đại công đức, chuyên cần tinh tấn thì giống như vì hư không, thành thục giải thoát mặc áo giáp đại công đức, phát khởi chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì tất cả pháp mà mặc áo giáp đại công đức, chuyên cần tinh tấn thì như vì hư không mặc áo giáp đại công đức, phát khởi chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì cứu vớt hữu tình, khiến ra khỏi sanh tử mặc áo giáp đại công đức, chuyên cần tinh tấn thì như vì nhấc hư không đặt lên chỗ rất cao mà mặc áo giáp đại công đức, phát khởi chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đắc đại tinh tấn Bát-nhã-ba-la-mật-đa vì các loài hữu tình như hư không, mau thoát sanh tử, phát khởi hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đắc đại thần lực chẳng thể nghĩ bàn, không sánh kịp, vì các biển pháp tánh như hư không mặc áo giáp đại công đức, phát khởi hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát vô cùng dõng mãnh vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như hư không, mặc áo giáp công đức, phát khởi sự chuyên cần tinh tấn.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát vì các loài hữu tình như hư không cần tu khổ hạnh, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột rất là ít có. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Giả sử chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đầy cả thế giới ba lần ngàn nhiều như rừng tre, mè, lau, mía v.v… hoặc trải qua một kiếp hay hơn một kiếp, vì các hữu tình thường nói chánh pháp để độ vô lượng, vô biên hữu tình, khiến nhập Niết-bàn, rốt ráo an lạc nhưng thế giới hữu tình chẳng tăng, chẳng giảm. Vì sao? Vì các hữu tình đều không có sở hữu, bản tánh viễn ly.

Bạch Thế Tôn! Giả sử chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp trong mười phương thế giới như cát sông Hằng, nhiều như các rừng tre, mè, lau, mía v.v… hoặc trải qua một kiếp hay hơn một kiếp, vì các hữu tình, thường thuyết chánh pháp để độ vô lượng vô biên hữu tình, khiến nhập Niết-bàn, rốt ráo an lạc nhưng thế giới hữu tình chẳng tăng chẳng giảm. Vì sao? Vì các hữu tình đều không có sở hữu, bản tánh viễn ly.

Bạch Thế Tôn! Giả sử chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp tất cả mười phương thế giới nhiều như rừng tre, mè, lau, mía, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp, vì các hữu tình thường nói chánh pháp, để độ vô lượng vô biên hữu tình, khiến vào Niết-bàn, rốt ráo an lạc nhưng thế giới hữu tình chẳng tăng chẳng giảm. Vì sao? Vì các hữu tình đều không có sở hữu, bản tánh viễn ly.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên ấy, con nói thế này, đại Bồ-tát vì các loài hữu tình như hư không, thành thục giải thoát, cần tu khổ hạnh, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột rất là ít có.

Bấy giờ, trong pháp hội có một Bí-sô thầm nghĩ thế này, ta nên kính lễ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Trong đây tuy là không có các pháp sanh diệt nhưng mà có giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn có thể an lập được; cũng có quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể an lập được; cũng có quả vị Độc-giác có thể an lập được; cũng có quả vị giác ngộ cao tột có thể an lập được; cũng có ngôi báu Phật, Pháp, Tăng có thể an lập được; cũng có sự chuyển vận bánh xe pháp mầu nhiệm, độ các loài hữu tình có thể an lập được.

Đức Phật biết ý nghĩ ấy, bảo rằng:

Này Bí-sô! Đúng vậy! Đúng vậy! Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa vi diệu khó lường.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

Thưa Đại đức! Nếu đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên học như thế nào?

Thiện Hiện đáp: Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì nên học như hư không.

Khi ấy, Thiên Đế Thích lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã diễn nói này, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, vì người khác diễn nói, thì con sẽ làm thế nào để bảo vệ? Cúi xin Thế Tôn rũ lòng thương chỉ giáo.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích:

Này Kiều Thi Ca! Ông thấy có pháp có thể bảo vệ chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Dạ không, thưa Đại đức! tôi không thấy có pháp để có thể bảo vệ.

Thiện Hiện nói: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào an trú như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã diễn nói tức là thủ hộ. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào an trú như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã diễn nói, thường chẳng xa lìa thì nên biết tất cả nhơn và phi nhơn v.v… muốn rình tìm chỗ sơ hở để làm hại, hoàn toàn không thể được.

Này Kiều Thi Ca! Nếu muốn bảo vệ các Bồ-tát an trú Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như đã diễn nói, thì như muốn bảo vệ hư không không khác.

Này Kiều Thi Ca! Nếu muốn bảo vệ các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì đó là sự hoang tưởng nhọc mệt, hoàn toàn không ích lợi.

Này Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao, có thể bảo vệ ảo thuật, chiêm bao, tiếng vang, ảnh tượng, bóng nắng, ánh chớp, sự biến hóa và ảo thành chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Dạ không! Thưa Đại đức!

Thiện Hiện nói: Này Kiều Thi Ca! Muốn bảo vệ các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như thế, hoang tưởng mệt nhọc hoàn toàn không lợi ích.

Này Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao? Có thể bảo vệ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các việc biến hóa mà Phật đã làm chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Dạ không, thưa Đại đức!

Thiện Hiện nói: Này Kiều Thi Ca! Nếu muốn bảo vệ các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như thế, hoang tưởng, mệt nhọc, hoàn toàn không lợi ích.

Này Kiều Thi Ca! Theo ý ông thì sao? Có thể bảo vệ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Dạ không, thưa Đại đức!

Thiện Hiện nói: Này Kiều Thi Ca! Nếu muốn bảo vệ các Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng như thế, hoang tưởng, mệt nhọc hoàn toàn không lợi ích.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

Thưa Đại đức! Thế nào là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh, như chiêm bao, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng nắng, như bóng sáng, như sự biến hóa, như ảo thành mà đại Bồ-tát ấy chẳng chấp là ảo ảnh, là chiêm bao, là tiếng vang, là ảnh tượng, là bóng nắng, là bóng sáng, là sự biến hóa, là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh, do chiêm bao, do tiếng vang, do ảnh tượng, do bóng nắng, do bóng sáng, do sự biến hóa, do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh, thuộc chiêm bao, thuộc tiếng vang, thuộc ảnh tượng, thuộc bóng nắng, thuộc bóng sáng, thuộc sự biến hóa, thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh, nương chiêm bao, nương tiếng vang, nương ảnh tượng, nương bóng nắng, nương bóng sáng, nương sự biến hóa, nương ảo thành?

Thiện Hiện đáp: Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng chấp do sắc, do thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng chấp thuộc sắc, thuộc thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng chấp nương sắc, nương thọ, tưởng, hành, thức là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là nhãn xứ, là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng chấp do nhãn xứ, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng chấp thuộc nhãn xứ, thuộc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng chấp nương nhãn xứ, nương nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là sắc xứ, là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng chấp do sắc xứ, do thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng chấp thuộc sắc xứ, thuộc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng chấp nương sắc xứ, nương thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là nhãn giới, là sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp do nhãn giới, do sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc nhãn giới, thuộc sắc giới cho đến thuộc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương nhãn giới, nương sắc giới cho đến nương các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là nhĩ giới, là thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do nhĩ giới, do thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc nhĩ giới, thuộc thanh giới cho đến thuộc các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương nhĩ giới, nương thanh giới cho đến nương các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là tỷ giới, là hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do tỷ giới, do hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc tỷ giới, thuộc hương giới cho đến thuộc các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương tỷ giới, nương hương giới cho đến nương các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là thiệt giới, là vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do thiệt giới, do vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc thiệt giới, thuộc vị giới cho đến thuộc các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương thiệt giới, nương vị giới cho đến nương các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là thân giới, là xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do thân giới, do xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc thân giới, thuộc xúc giới cho đến thuộc các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương thân giới, nương xúc giới cho đến nương các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là ý giới, là pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng chấp do ý giới, do pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp thuộc ý giới, thuộc pháp giới cho đến thuộc các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; cũng chẳng chấp nương ý giới, nương pháp giới cho đến nương các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là địa giới, là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng chấp do địa giới, do thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng chấp thuộc địa giới, thuộc thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng chấp nương địa giới, nương thủy, hỏa, phong, không, thức giới là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là vô minh, là hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng chấp do vô minh, do hành cho đến do lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng chấp thuộc vô minh, thuộc hành cho đến thuộc lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng chẳng chấp nương vô minh, nương hành cho đến nương lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là bố thí Ba-la-mật-đa, là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng chấp do bố thí Ba-la-mật-đa, do tịnh giới cho đến do Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng chấp thuộc bố thí Ba-la-mật-đa, thuộc tịnh giới cho đến thuộc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng chấp nương bố thí Ba-la-mật-đa, nương tịnh giới cho đến nương Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là pháp không nội, là pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng chấp do pháp không nội, do pháp không ngoại cho đến do pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng chấp thuộc pháp không nội, thuộc pháp không ngoại cho đến thuộc pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng chấp nương pháp không nội, nương pháp không ngoại cho đến nương pháp không không tánh tự tánh là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là chơn như, là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng chấp do chơn như, do pháp giới cho đến do cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng chấp thuộc chơn như, thuộc pháp giới cho đến thuộc cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng chấp nương chơn như, nương pháp giới cho đến nương cảnh giới bất tư nghì là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là Thánh đế khổ, là Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng chấp do Thánh đế khổ, do Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng chấp thuộc Thánh đế khổ, thuộc Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng chấp nương Thánh đế khổ, nương Thánh đế tập, diệt, đạo là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là bốn tịnh lự, là bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng chấp do bốn tịnh lự, do bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng chấp thuộc bốn tịnh lự, thuộc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng chấp nương bốn tịnh lự, nương bốn vô lượng, bốn định vô sắc là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

 

Quyển Thứ 291
HẾT

XXXVI. PHẨM TRƯỚC VÀ

CHẲNG TRƯỚC TƯỚNG

06

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là tám giải thoát, là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chẳng chấp do tám giải thoát, do tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chẳng chấp thuộc tám giải thoát, thuộc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chẳng chấp nương tám giải thoát, nương tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là bốn niệm trụ, là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng chẳng chấp do bốn niệm trụ, do bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, cũng chẳng chấp thuộc bốn niệm trụ, thuộc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, cũng chẳng chấp nương bốn niệm trụ, nương bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là pháp môn giải thoát không, là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng chấp do pháp môn giải thoát không, do pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng chấp thuộc pháp môn giải thoát không, thuộc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng chấp nương pháp môn giải thoát không, nương pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là mười địa Bồ-tát, cũng chẳng chấp do mười địa Bồ-tát, cũng chẳng chấp thuộc mười địa Bồ-tát, cũng chẳng chấp nương mười địa Bồ-tát là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là năm loại mắt, là sáu phép thần thông, cũng chẳng chấp do năm loại mắt, do sáu phép thần thông, cũng chẳng chấp thuộc năm loại mắt, thuộc sáu phép thần thông, cũng chẳng chấp nương năm loại mắt, nương sáu phép thần thông là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là mười lực Phật, là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng chấp do mười lực Phật, do bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng chấp thuộc mười lực Phật, thuộc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng chấp nương mười lực Phật, nương bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là pháp không quên mất, là tánh luôn luôn xả, cũng chẳng chấp do pháp không quên mất, do tánh luôn luôn xả, cũng chẳng chấp thuộc pháp không quên mất, thuộc tánh luôn luôn xả, cũng chẳng chấp nương pháp không quên mất, nương tánh luôn luôn xả là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là trí nhất thiết, là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chẳng chấp do trí nhất thiết, do trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chẳng chấp thuộc trí nhất thiết, thuộc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chẳng chấp nương trí nhất thiết, nương trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là tất cả pháp môn Đà-la-ni, là tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng chấp do tất cả pháp môn Đà-la-ni, do tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng chấp thuộc tất cả pháp môn Đà-la-ni, thuộc tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng chấp nương tất cả pháp môn Đà-la-ni, nương tất cả pháp môn Tam-ma-địa là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là quả Dự-lưu, là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng chẳng chấp do quả Dự-lưu, do quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng chẳng chấp thuộc quả Dự-lưu, thuộc quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng chẳng chấp nương quả Dự-lưu, nương quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là quả vị Độc-giác, cũng chẳng chấp do quả vị Độc-giác, cũng chẳng chấp thuộc quả vị Độc-giác, cũng chẳng chấp nương quả vị Độc-giác là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là tất cả hạnh đại Bồ-tát, cũng chẳng chấp do tất cả hạnh đại Bồ-tát, cũng chẳng chấp thuộc tất cả hạnh đại Bồ-tát, cũng chẳng chấp nương tất cả hạnh đại Bồ-tát là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng chấp là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng chẳng chấp do quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng chẳng chấp thuộc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng chẳng chấp nương quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy biết các pháp như ảo ảnh cho đến như ảo thành mà chẳng chấp là ảo ảnh cho đến là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh cho đến do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh cho đến thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh cho đến nương ảo thành.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, tuy biết các pháp như ảo ảnh, như chiêm bao, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng nắng, như bóng sáng, như sự biến hóa, như ảo thành mà đại Bồ-tát ấy chẳng chấp là ảo ảnh, là chiêm bao, là tiếng vang, là ảnh tượng, là bóng nắng, là bóng sáng, là sự biến hóa, là ảo thành, cũng chẳng chấp do ảo ảnh, do chiêm bao, do tiếng vang, do ảnh tượng, do bóng nắng, do bóng sáng, do sự biến hóa, do ảo thành, cũng chẳng chấp thuộc ảo ảnh, thuộc chiêm bao, thuộc tiếng vang, thuộc ảnh tượng, thuộc bóng nắng, thuộc bóng sáng, thuộc sự biến hóa, thuộc ảo thành, cũng chẳng chấp nương ảo ảnh, nương chiêm bao, nương tiếng vang, nương ảnh tượng, nương bóng nắng, nương bóng sáng, nương sự biến hóa, nương ảo thành.

 

XXXVII. PHẨM NÓI TƯỚNG BÁT-NHÃ

01

Lúc bấy giờ, do thần lực của Phật nên ở trong thế giới ba lần ngàn này, có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha- hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh, các vị trời ấy, đều dùng bột hương chiên đàn vi diệu cõi trời, từ xa rải cúng đức Phật, rồi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, lui đứng một bên.

Khi ấy, chủ cõi trời Tứ-thiên-vương là trời Đế Thích, chủ cõi trời Ta-bà là trời Đại-phạm-thiên-vương, trời Cực-quang-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng-quả, và trời Tịnh-cư v.v… do thần lực khéo nhớ nghĩ của Phật nên đều thấy ngàn Phật ở mười phương tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nghĩa phẩm danh tự đều đồng. Ở đó, các Bí-sô thượng thủ thỉnh Phật nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa đều có tên là Thiện Hiện, các vị đứng đầu Thiên chúng vấn nạn Bát-nhã-ba-la-mật-đa đều có tên là Đế Thích.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo cụ thọ Thiện Hiện:

Đại Bồ-tát Di Lặc khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng ở nơi đây, tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Trong hiền kiếp này, chư Phật tương lai, cũng ở nơi đây, tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phât:

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng pháp gì và các hành tướng nào để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng nhãn xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng sắc xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng nhãn giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng nhĩ giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng tỷ giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng thiệt giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng thân giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng ý giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng địa giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng vô minh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng pháp không nội chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng chơn như chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng Thánh đế khổ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng bốn tịnh lự chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng tám giải thoát chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng bốn niệm trụ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng pháp môn giải thoát không chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng mười địa Bồ-tát chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng năm loại mắt chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng sáu phép thần thông chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng mười lực Phật chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng pháp không quên mất chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng tánh luôn luôn xả chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng trí nhất thiết chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng quả Dự-lưu chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế; sẽ dùng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng quả vị Độc-giác chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ dùng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải tĩnh lặng, chẳng phải chẳng tĩnh lặng, chẳng phải viễn ly, chẳng phải chẳng viễn ly, chẳng phải buộc, chẳng phải mở, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại để tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là chứng những pháp gì, và nói những pháp gì?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Di Lặc khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột sẽ chứng pháp sắc rốt ráo thanh tịnh và nói pháp sắc rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo thanh tịnh và nói pháp thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp nhãn xứ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp nhãn xứ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp sắc xứ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp sắc xứ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp nhãn giới rốt ráo thanh tịnh và nói pháp nhãn giới rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh và nói sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp nhĩ giới rốt ráo thanh tịnh và nói pháp nhĩ giới rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh và nói pháp thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tỷ giới rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tỷ giới rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh và nói pháp hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp thiệt giới rốt ráo thanh tịnh và nói pháp thiệt giới rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh và nói pháp vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp thân giới rốt ráo thanh tịnh và nói pháp thân giới rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh và nói pháp xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp ý giới rốt ráo thanh tịnh và nói pháp ý giới rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh và nói pháp pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp địa giới rốt ráo thanh tịnh và nói pháp địa giới rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp thủy, hỏa, phong, không, thức giới rốt ráo thanh tịnh và nói pháp thủy, hỏa, phong, không, thức giới rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp vô minh rốt ráo thanh tịnh và nói pháp vô minh rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não rốt ráo thanh tịnh và nói pháp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não rốt ráo thanh tịnh.

 

Quyển Thứ 292
HẾT

XXXVII. PHẨM NÓI TƯỚNG BÁT-NHÃ

02

Chứng pháp bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp không nội rốt ráo thanh tịnh và nói pháp không nội rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh rốt ráo thanh tịnh và nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp chơn như rốt ráo thanh tịnh và nói pháp chơn như rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì rốt ráo thanh tịnh và nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp Thánh đế khổ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp Thánh đế khổ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp Thánh đế tập, diệt, đạo rốt ráo thanh tịnh và nói pháp Thánh đế tập, diệt, đạo rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn tịnh lự rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn tịnh lự rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn vô lượng, bốn định vô sắc rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn vô lượng, bốn định vô sắc rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tám giải thoát rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tám giải thoát rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn niệm trụ rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn niệm trụ rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp môn giải thoát không rốt ráo thanh tịnh và nói pháp môn giải thoát không rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo thanh tịnh và nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp mười địa Bồ-tát rốt ráo thanh tịnh và nói pháp mười địa Bồ-tát rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp năm loại mắt rốt ráo thanh tịnh và nói pháp năm loại mắt rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp sáu phép thần thông rốt ráo thanh tịnh và nói pháp sáu phép thần thông rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp mười lực Phật rốt ráo thanh tịnh và nói pháp mười lực Phật rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo thanh tịnh và nói pháp bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp không quên mất rốt ráo thanh tịnh và nói pháp không quên mất rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tánh luôn luôn xả rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tánh luôn luôn xả rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp trí nhất thiết rốt ráo thanh tịnh và nói pháp trí nhất thiết rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo thanh tịnh và nói pháp trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo thanh tịnh; chứng tất cả pháp môn Đà-la-ni rốt ráo thanh tịnh và nói tất cả pháp môn Đà-la-ni rốt ráo thanh tịnh; chứng tất cả pháp môn Tam-ma-địa rốt ráo thanh tịnh và nói tất cả pháp môn Tam-ma-địa rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp quả Dự-lưu rốt ráo thanh tịnh và nói pháp quả Dự-lưu rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán rốt ráo thanh tịnh và nói pháp quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp quả vị Độc-giác rốt ráo thanh tịnh và nói pháp quả vị Độc-giác rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp tất cả hạnh đại Bồ-tát rốt ráo thanh tịnh và nói pháp tất cả hạnh đại Bồ-tát rốt ráo thanh tịnh; chứng pháp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật rốt ráo thanh tịnh và nói pháp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật rốt ráo thanh tịnh.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế thanh tịnh như thế nào?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì nhãn xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì sắc xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì nhãn giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhĩ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì nhĩ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tỷ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tỷ giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thiệt giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thiệt giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thân giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thân giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thân giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thân giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì ý giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì ý giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ý giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì ý giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì địa giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì địa giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì địa giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì địa giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì vô minh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì vô minh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì vô minh không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì vô minh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bố thí Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không nội thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp không nội thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì chơn như thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì chơn như không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì chơn như thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tám giải thoát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tám giải thoát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì mười địa Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì năm loại mắt thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì năm loại mắt thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười lực Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì mười lực Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không quên mất thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì pháp không quên mất thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì trí nhất thiết thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì trí nhất thiết thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả Dự-lưu thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì quả Dự-lưu thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giácthanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị Độc-giácthanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giáckhông sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì quả vị Độc-giácthanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì tất cả hạnh đại Bồ-tát thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh, vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì hư không không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh nên thanh tịnh; vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì nhãn xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì sắc xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì nhãn giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhĩ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì nhĩ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tỷ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tỷ giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thiệt giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thiệt giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thân giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thân giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thân giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì ý giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì ý giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì ý giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì địa giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì địa giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì địa giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì vô minh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì vô minh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì vô minh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bố thí Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bố thí Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không nội không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp không nội không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì chơn như không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì chơn như không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì Thánh đế khổ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì Thánh đế khổ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì Thánh đế tập, diệt, đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn tịnh lự không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bốn tịnh lự không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Quyển Thứ 293

HẾT

 

XXXVII. PHẨM NÓI TƯỚNG BÁT-NHÃ

03

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tám giải thoát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tám giải thoát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn niệm trụ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bốn niệm trụ không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp môn giải thoát không không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp môn giải thoát không không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười địa Bồ-tát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì mười địa Bồ-tát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì năm loại mắt không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sáu phép thần thông không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì năm loại mắt không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì sáu phép thần thông không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười lực Phật không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì mười lực Phật không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không quên mất không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì pháp không quên mất không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tánh luôn luôn xả không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì trí nhất thiết không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì trí nhất thiết không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả Dự-lưu không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì quả Dự-lưu không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giáckhông nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị Độc-giáckhông nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giácchẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì quả vị Độc-giáckhông nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả hạnh đại Bồ-tát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì tất cả hạnh đại Bồ-tát không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì hư không chẳng thể nắm bắt được nên không nhiễm ô, vì hư không không nhiễm ô nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, Này Thiện Hiện! Vì sắc chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, sắc cho đến thức cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì sắc cho đến thức chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, nhãn xứ cho đến ý xứ cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì nhãn xứ cho đến ý xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, sắc xứ cho đến pháp xứ cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì sắc xứ cho đến pháp xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhĩ giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tỷ giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thiệt giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thân giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thân giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì ý giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì ý giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì địa giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì địa giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, địa giới cho đến thức giới cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì địa giới cho đến thức giới chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì vô minh chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì vô minh chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bố thí Ba-la-mật-đa chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không nội chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì chơn như chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì Thánh đế khổ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn tịnh lự chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tám giải thoát chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn niệm trụ chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp môn giải thoát không chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?


Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười địa Bồ-tát chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, mười địa Bồ-tát cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì mười địa Bồ-tát chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì năm loại mắt chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sáu phép thần thông chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì năm loại mắt, sáu phép thần thông chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười lực Phật chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không quên mất chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì trí nhất thiết chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả Dự-lưu chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, quả Dự-lưu cho đến quả A-la-hán cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì quả Dự-lưu cho đến quả A-la-hán chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị Độc-giác chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, quả vị Độc-giác cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì quả vị Độc-giác chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, tất cả hạnh đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng như vậy, chỉ có giả nói, vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, Này Thiện Hiện! Vì hư không chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì hư không chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Như hai loại tiếng vanghiện tượng nương hư không, chỉ có giả nói nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì thọ, tưởng, hành, thức là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giớipháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhĩ giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giớipháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tỷ giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thiệt giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thân giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thân giớipháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì ý giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ý giớipháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì địa giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì địa giớipháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giớipháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì vô minh chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì vô minhpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đapháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không nội chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánhpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì chơn như chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì chơn nhưpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì Thánh đế khổ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn tịnh lự chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lựpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắcpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tám giải thoát chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoátpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn niệm trụ chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạopháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp môn giải thoát không chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười địa Bồ-tát chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Quyển Thứ 294
HẾT

 

XXXVII. PHẨM NÓI TƯỚNG BÁT-NHÃ

04

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì năm loại mắt chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sáu phép thần thông chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắtpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì sáu phép thần thôngpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười lực Phật chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không quên mất chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì tánh luôn luôn xả là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì trí nhất thiết chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiếtpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả Dự-lưu chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giácchẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị Độc-giácchẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giáclà pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là pháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì hư không chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì hư không chẳng thể diễn đạt nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì hư khôngpháp không thể diễn đạt nên chẳng thể diễn đạt, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì thọ, tưởng, hành, thức là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giớipháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhĩ giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giớipháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tỷ giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thiệt giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thân giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thân giớipháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì ý giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ý giớipháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì địa giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì địa giớipháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giớipháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì vô minh chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì vô minhpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đapháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không nội chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánhpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì chơn như chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì chơn nhưpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì Thánh đế khổ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn tịnh lự chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lựpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắcpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tám giải thoát chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoátpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn niệm trụ chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạopháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp môn giải thoát không chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười địa Bồ-tát chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì năm loại mắt chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sáu phép thần thông chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắtpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì sáu phép thần thôngpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười lực Phật chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không quên mất chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì tánh luôn luôn xả là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì trí nhất thiết chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiếtpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả Dự-lưu chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị Độc-giác chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là pháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì hư không chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì hư không chẳng thể đạt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì hư khôngpháp không thể đạt được nên chẳng thể đạt được, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì sắc xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhãn giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì nhĩ giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tỷ giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thiệt giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì thân giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì thân giới rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì ý giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì ý giới rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì địa giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì địa giới rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì vô minh chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì vô minh rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không nội chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì chơn như chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì chơn như rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì Thánh đế khổ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn tịnh lự chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tám giải thoát chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì bốn niệm trụ chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp môn giải thoát không chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười địa Bồ-tát chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Quyển Thứ 295
HẾT

XXXVII. PHẨM NÓI TƯỚNG BÁT-NHÃ

05

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì sáu phép thần thông chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì năm loại mắt chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì sáu phép thần thông chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì sáu phép thần thông rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì mười lực Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tánh luôn luôn xả chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì pháp không quên mất chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tánh luôn luôn xả chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì tánh luôn luôn xả rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì trí nhất thiết chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả Dự-lưu chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh, vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị Độc-giác chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì hư không chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Tại sao vì hư không chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh?

Này Thiện Hiện! Vì hư không rốt ráo không nên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, do đó Bát-nhã-ba-la-mật-đa thanh tịnh.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy vì người diễn nói thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, sáu căn không bệnh, tứ chi đầy đủ, thân không suy yếu cũng không chết yểu, thường được vô lượng trăm nghìn thiên thần cung kính vây quanh, đi theo hộ niệm. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, vào mỗi tháng nhằm ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày rằm đọc tụng tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, khi ấy chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh các chúng trời ấy, đều tụ tập đến chỗ pháp sư này để nghe và thọ trì Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy do đọc tụng tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ở trong đại hội vô lượng ấy, mà được công đức thù thắng vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy lường.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, thọ trì đọc tụng, như lý tư duy, vì người diễn nói, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, sáu căn không bệnh, tứ chi đầy đủ, thân không suy yếu cũng không chết yểu, thường được vô lượng trăm nghìn thiên thần cung kính vây quanh, theo sau hộ niệm. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, mỗi tháng vào ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày rằm đọc tụng tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, khi ấy chúng trời Tứ-đại-vương cho đến trời Sắc-cứu-cánh đều tập trung đến chỗ Pháp sư này để nghe và thọ trì Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, do đọc tụng, tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa ở trong đại hội vô lượng ấy mà được công đức thù thắng vô lượng, vô số, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy lường. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này là kho báu lớn, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này là kho báu lớn nên có khả năng cứu thoát vô lượng, vô biên hữu tình khỏi sự bần cùng đại khổ của địa ngục, bàng sanh, quỉ giới, loài ngườichư thiên có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của dòng họ lớn Sát-đế-lợi, dòng họ lớn Bà-la-môn, dòng họ lớn Trưởng giả, dòng họ lớn Cư sĩ; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí khoái lạc của trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, quả vị Độc-giác; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì trong kho báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy rộng nói khai thị mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc; rộng nói khai thị bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, ba pháp môn giải thoát, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, bốn Thánh đế ngôi báu Phật, Pháp, Tăng; rộng nói khai thị bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, xảo, nguyện, lực, trí Ba-la-mật-đa, mười địa Bồ-tát, tất cả hạnh đại Bồ-tát, pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; rộng nói khai thị năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; đối với vô lượng pháp lớn quí báu như thế, vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ sanh vào dòng họ lớn Sát-đế-lợi, dòng họ lớn Bà-la-môn, dòng họ lớn Trưởng giả, dòng họ lớn Cư sĩ; vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ sanh vào trời Tứ-đại-vương cho đến trời Tha-hóa-tự-tại; vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ sanh vào cõi trời Phạm-chúng cho đến trời Sắc-cứu-cánh; vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ sanh vào cõi trời Không-vô-biên-xứ cho đến trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ đắc quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ đắc quả vị Độc-giác; vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ chứng nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát; vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Này Thiện Hiện! Vì nhơn duyên này nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy được gọi là kho báu lớn.

Này Thiện Hiện! Trong kho báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng nói một mảy may pháp có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có thủ, có xả. Vì sao? Vì không có một mảy may pháp có thể sanh, có thể diệt, có thể nhiễm, có thể tịnh, có thể thủ, có thể xả.

Này Thiện Hiện! Trong kho báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, không nói có pháp nào là thiện, là chẳng phải thiện, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu lậu, là vô lậu, là có tội, là vô tội, là tạp nhiễm, là thanh tịnh, là hữu vi, là vô vi.

Này Thiện Hiện! Vì nhơn duyên này nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy được gọi là kho báu pháp lớn vô sở đắc.

Này Thiện Hiện! Trong kho báu lớn Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng nói mảy may pháp nào là có thể nhiễm ô. Vì sao? Vì không có mảy may pháp nào có thể nhiễm ô.

Này Thiện Hiện! Vì nhơn duyên này nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy được gọi là kho báu pháp lớn không nhiễm ô.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa không khởi tưởng, không phân biệt, không thủ đắc, không lý luận thế này: Ta đang hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, ta đang tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì đại Bồ-tát ấy có khả năng tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thật, cũng có khả năng gần gũi, lễ kính phụng sự chư Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, du hóa khắp các cõi Phật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu các hạnh đại Bồ-tát, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp chẳng thuận, chẳng trái, chẳng dẫn, chẳng bỏ, chẳng thủ chẳng xả, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi, chẳng vào, chẳng ra, chẳng tăng, chẳng giảm.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế chẳng vượt cõi Dục, chẳng ở cõi Dục; chẳng vượt cõi Sắc, chẳng ở cõi Sắc; chẳng vượt cõi Vô-sắc, chẳng ở cõi Vô-sắc.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bố thí Ba-la-mật-đa chẳng cùng chẳng bỏ; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, xảo, nguyện, lực, trí Ba-la-mật-đa chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp không nội chẳng cùng chẳng bỏ; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với chơn như chẳng cùng chẳng bỏ; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với Thánh đế khổ chẳng cùng chẳng bỏ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bốn tịnh lự chẳng cùng chẳng bỏ; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tám giải thoát chẳng cùng chẳng bỏ; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với bốn niệm trụ chẳng cùng chẳng bỏ; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp môn giải thoát không chẳng cùng chẳng bỏ; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với mười địa Bồ-tát chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với năm loại mắt chẳng cùng chẳng bỏ; đối với sáu phép thần thông chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với mười lực Phật chẳng cùng chẳng bỏ; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp không quên mất chẳng cùng chẳng bỏ; đối với tánh luôn luôn xả chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với trí nhất thiết chẳng cùng chẳng bỏ; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng cùng chẳng bỏ; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả Dự-lưu chẳng cùng chẳng bỏ; đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả vị Độc-giác chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng cùng chẳng bỏ.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng cùng pháp Thanh-văn, chẳng bỏ pháp Dị sanh, chẳng cùng pháp Độc-giác, chẳng bỏ pháp Thanh-văn, chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp Đôc-giác, chẳng cùng pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi. Vì sao? Này Thiện Hiện! Hoặc Phật xuất thế, hoặc không xuất thế, các pháp như thế thường hằng không biến đổi. Tất cả Như Lai Đẳng Giác hiện quán pháp tánh, pháp giới, pháp định, pháp trụ. Bậc Đẳng Giác đã tự hiện quán rồi vì các hữu tình tuyên thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng, khiến cùng ngộ nhập, lìa các vọng tưởng phân biệt điên đảo.

Bấy giờ, vô lượng trăm ngàn thiên tử ở trong hư không, vui mừng nhảy nhót, đem các hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng sẵn có ở cõi trời, mùi thơm vi diệucác loại hương bột rải trên đức Phật, cùng nhau vui mừng, đồng thanh xướng rằng: Chúng con hôm nay ở châu Thiệm bộ thấy Phật chuyển pháp luân mầu nhiệm lần thứ hai. Trong đây có vô lượng trăm nghìn thiên tử nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa cùng lúc chứng đắc vô sanh pháp nhẫn.

Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện!

Pháp luân như thế chẳng phải chuyển lần thứ nhất, chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Này Thiện Hiện! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp, chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế gian. Vì sao? Vì vô tánh tự tánh không?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì những pháp nào vô tánh tự tánh không nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế đối với tất cả pháp, chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế gian?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa và tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không vậy; vì tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa và tánh của tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa là không.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội và tánh của pháp không nội là không; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như và tánh của chơn như là không; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không; vì Thánh đế tập, diệt, đạo và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát và tánh của tám giải thoát là không; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không và tánh của pháp môn giải thoát không là không; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa và tánh của Bồ-tát mười địa Bồ-tát là không.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không; vì sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật và tánh của mười lực Phật là không; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất và tánh của pháp không quên mất là không; vì tánh luôn luôn xả và tánh của tánh luôn luôn xả là không.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết và tánh của trí nhất thiết là không; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni và tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu và tánh của quả Dự-lưu là không; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán và tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là không.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác và tánh của quả vị Độc-giác là không.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát và tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát là không.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không.

Này Thiện Hiện! Vì những pháp ấy vô tánh tự tánh không nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì đạt đến tự tánh không của tất cả pháp, tuy đạt được tự tánh của tất cả pháp đều không nhưng các đại Bồ-tát nhơn Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà chứng quả vị giác ngộ cao tột và chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng; tuy chứng quả vị giác ngộ nhưng không có đối tượng chứng đắc, chứng pháp không chứng chẳng thể nắm bắt được; tuy chuyển pháp luân nhưng không có đối tượng chuyển, pháp chuyển, pháp hoàn chẳng thể nắm bắt được; tuy độ hữu tình nhưng không có đối tượng độ, pháp thấy, chẳng thấy, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Trong Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, việc chuyển pháp luân rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, vì tất cả pháp đều vĩnh viễn chẳng sanh. Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện lại có thể có việc năng chuyển và năng hoàn.

Bạch Thế Tôn! Đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nếu có khả năng tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng như thế, khiến dễ ngộ nhập thì gọi là thiện tịnh tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa; trong đó hoàn toàn không có người nói và người nhận; đã không có người nói và người nhận thì các người chứng cũng chẳng thể nắm bắt được, vì không có người chứng, cũng không có người đắc Niết-bàn; ở trong pháp Bát-nhã-ba-la-mật-đa khéo nói này, cũng không có phước điền, người cho, người nhận và vật cho đều là tánh không.

XXXVIII. PHẨM BA-LA-MẬT-ĐA

01

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô biên.

Phật dạy: Như vậy là vì giống như hư không, không có giới hạn.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bình đẳng.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp tánh đều bình đẳng.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa viễn ly.

Phật dạy: Như vậy là vì rốt ráo không.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa khó khuất phục.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp tánh đều chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không dấu vết.

Phật dạy: Như vậy là vì không có danh thể.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa hư không.

Phật dạy: Như vậy là vì thở vào thở ra chẳng nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa chẳng thể diễn nói.

Phật dạy: Như vậy là vì trong đó sự tầm từ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không có tên gọi.

Phật dạy: Như vậy là vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô hành.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp không đến, không đi.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa chẳng thể đoạt.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp chẳng thể nắm giữ.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa cùng tận.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp rốt ráo cùng tận.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa chẳng sanh diệt.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp không sanh diệt.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không tạo tác.

Phật dạy: Như vậy là vì các sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô tri.

Phật dạy: Như vậy là vì các sự hiểu biết chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không dời đổi.

Phật dạy: Như vậy là vì sự sanh tử chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không hư mất.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp không hư mất.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa như mộng.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp như chiêm bao, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa như tiếng vang.

Phật dạy: Như vậy là vì năng, sở, văn, thuyết đều chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa như ảnh tượng.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp đều như cảnh hiện trong gương, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa như bóng nắng, như ảo ảnh.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp như tướng trạng của dòng nước, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa như sự biến hóa.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp đều như sự biến hóa.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa như ảo thành.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp đều như ảo thành.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không nhiễm, không tịnh.

Phật dạy: Như vậy là vì các nhơn nhiễm, tịnh, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không sở đắc.

Phật dạy: Như vậy là vì chỗ nương của các pháp chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa hý luận.

Phật dạy: Như vậy là vì phá tan tất cả sự hý luận.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không kiêu mạn, chấp trước.

Phật dạy: Như vậy là vì phá tan tất cả sự kiêu mạn chấp trước.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không chuyển động.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp giới an trú.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa xa lìa nhiễm trước.

Phật dạy: Như vậy là vì biết tất cả pháp chẳng hư vọng.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không khởi đẳng cấp.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp không phân biệt.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô cùng tĩnh lặng.

Phật dạy: Như vậy là vì đối với các pháp tướng không có sở đắc.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không tham dục.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp tham dục chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không sân nhuế.

Phật dạy: Như vậy là vì phá tan tất cả sự sân nhuế.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không ngu si.

Phật dạy: Như vậy là vì diệt trừ các sự ngu si hắc ám.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không phiền não.

Phật dạy: Như vậy là vì xa lìa sự phân biệt.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa xa lìa hữu tình.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được cái vô sở hữu của các hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không đoạn, không hoại.

Phật dạy: Như vậy là vì đối với tất cả pháp không khởi đẳng cấp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô nhị biên.

Phật dạy: Như vậy là vì xa lìa nhị biên.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không tạp, không hoại.

Phật dạy: Như vậy là vì biết tất cả pháp không tạp, không hoại.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không chấp trước.

Phật dạy: Như vậy là vì vượt qua địa vị Thanh-văn, Độc-giác.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không phân biệt.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả sự phân biệt chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không phân biệt, không đo lường.

Phật dạy: Như vậy là vì sự phân chia hạn định các pháp chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa như hư không.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được sự không ngăn ngại của tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô thường.

Phật dạy: Như vậy là vì có khả năng vĩnh viễn hoại diệt tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa khổ.

Phật dạy: Như vậy là vì có khả năng vĩnh viễn xua đuổi tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô ngã.

Phật dạy: Như vậy là vì đối với tất cả pháp không chấp trước.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa rỗng không.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được cái không sở đắc của tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô tướng.

Phật dạy: Như vậy là vì chứng tướng vô sanh của tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa nội không.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt nội pháp chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa ngoại không.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt ngoại pháp chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa nội ngoại không.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt pháp nội ngoại chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không không.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt pháp không không, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại không.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt pháp đại không chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa thắng nghĩa không.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không thắng nghĩa chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa hữu vi không.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp hữu vi chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô vi không.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp vô vi chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa rốt ráo không.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không rốt ráo chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô tế không.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không không biên giới chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tán không.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp không tản mạn chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô biến dị không.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không không đổi khác chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bản tánh không.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp hữu vivô vi, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tự tướng không.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được tất cả pháp lìa tự tướng.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa cộng tướng không.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được tất cả pháp lìa cộng tướng.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa nhất thiết pháp không.

Phật dạy: Như vậy là vì biết pháp nội ngoại chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bất khả đắc không.

Phật dạy: Như vậy là vì tất cả pháp tánh chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô tánh không.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không không tánh chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tự tánh không.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không tự tánh chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô tánh tự tánh không.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa chơn như.

Phật dạy: Như vậy là vì biết tánh chơn như chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa pháp giới.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được các pháp giới chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa pháp tánh.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được tánh của các pháp chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bất hư vọng tánh.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh không hư vọng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bất biến dị tánh.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh chẳng đổi khác chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bình đẳng tánh.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được tánh bình đẳng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa ly sanh tánh.

Phật dạy: Như vậy là vì biết tánh ly sanh chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa pháp định.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt pháp định chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa pháp trụ.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt pháp trụ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa thật tế.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt tánh thật tế chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa hư không giới.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt cảnh giới hư không chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bất tư nghì giới.

Phật dạy: Như vậy là vì cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn Thánh đế.

Phật dạy: Như vậy là vì liễu đạt bốn Thánh đế chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn niệm trụ.

Phật dạy: Như vậy là vì thân, thọ, tâm, pháp chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn chánh đoạn.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp thiệnbất thiện chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn thần túc.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh của bốn thần túc chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa năm căn.

Phật dạy: Như vậy là vì tự tánh của năm căn chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa năm lực.

Phật dạy: Như vậy là vì tự tánh của năm lực chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bảy chi đẳng giác.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh của bảy chi đẳng giác chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tám chi thánh đạo.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh của tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa không giải thoát môn.

Phật dạy: Như vậy là vì cái không lìa hành tướng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô tướng giải thoát môn.

Phật dạy: Như vậy là vì hành tướng tĩnh lặng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa vô nguyện giải thoát môn.

Phật dạy: Như vậy là vì hành tướng vô nguyện chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tám giải thoát.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh của tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tám thắng xứ.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh của tám thắng xứ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa chín định thứ đệ.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh của chín định thứ đệ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa mười biến xứ.

Phật dạy: Như vậy là vì tánh của mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bố thí.

Phật dạy: Như vậy là vì bố thíkeo kiệt chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tịnh giới.

Phật dạy: Như vậy là vì trì giớiphạm giới chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa an nhẫn.

Phật dạy: Như vậy là vì nhẫn nhụcsân nhuế chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tinh tấn.

Phật dạy: Như vậy là vì tinh tấngiải đãi chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tịnh lự.

Phật dạy: Như vậy là vì tịnh lựtán loạn chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa Bát-nhã.

Phật dạy: Như vậy là vì thiện tuệ và ác tuệ chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa phương tiện thiện xảo.

Phật dạy: Như vậy là vì phương tiện thiện xảo và không phương tiện thiện xảo chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa nguyện.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp nguyện và không nguyện chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa lực.

Phật dạy: Như vậy là vì lực và vô lực chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa trí.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp trívô trí chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa mười địa Bồ-tát.

Phật dạy: Như vậy là vì mười địa và mười chướng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn tịnh lự.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn vô lượng.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp bốn vô lượng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn định vô sắc.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa năm loại mắt.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa sáu phép thần thông.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được.
Quyển Thứ296
HẾT

XXXVIII. PHẨM BA-LA-MẬT-ĐA

02

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa mười lực Phật.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được tất cả pháp khó khuất phục.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn điều không sợ.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được trí đạo tướng không thối lui.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa bốn sự hiểu biết thông suốt.

Phật dạy: Như vậy là vì đạt được trí nhất thiết tướng không ngăn ngại.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại từ.

Phật dạy: Như vậy là vì làm an lạc tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại bi.

Phật dạy: Như vậy là vì làm lợi ích tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại hỷ.

Phật dạy: Như vậy là vì chẳng bỏ tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa đại xả.

Phật dạy: Như vậy là vì tâm bình đẳng đối với các hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa mười tám pháp Phật bất cộng.

Phật dạy: Như vậy là vì siêu vượt tất cả pháp Thanh-văn, Độc-giác.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa pháp không quên mất.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tánh luôn luôn xả.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tất cả pháp môn Đà-la-ni.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp tổng trì chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Phật dạy: Như vậy là vì các pháp đẳng trì chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa trí nhất thiết.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa trí đạo tướng.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp trí đạo tướng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa trí nhất thiết tướng.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Phật dạy: Như vậy là vì pháp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa Như Lai.

Phật dạy: Như vậy là vì có khả năng nói như thật tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa tự nhiên.

Phật dạy: Như vậy là vì đối với tất cả pháp được tự tại.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là Ba-la-mật-đa Chánh Đẳng Giác.

Phật dạy: Như vậy là vì đối với tất cả pháp có khả năng giác ngộ chơn chánh bình đẳng tất cả tướng.

XXXIX. PHẨM KHÓ NGHE CÔNG ĐỨC

01

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ thế này: Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đã từng đối với vô lượng các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, thân cận cúng dường, pháp nguyện rộng lớn, trồng các căn lành, được nhiều thiện tri thức nhiếp thọ thì nay mới được nghe danh tự công đức Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, huống là thường sao chép, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, vì người diễn nói, hoặctùy sức như thuyết tu hành, nên biết người ấy đã ở chỗ vô lượng chư Phật trong quá khứ, thân cận thừa sự, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, trồng các cội đức, từng nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa; nghe rồi thọ trì, tư duy, đọc tụng, vì người diễn nói, như giáo tu hành; hoặc đối với kinh này thường hỏi, đáp, do phước lực này, nên nay được như vậy.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đã từng cúng dường vô lượng các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, công đức thuần tịnh, nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, nghe rồi tin ưa, như thuyết tu hành, thì nên biết người ấy nhiều ức kiếp đã từng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho nên đời nay thành tựu được việc này.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, nghe rồi sao chép, đọc tụng, thọ trì, như lý tư duy, vì người diễn nói, hoặc lại tùy lực như giáo tu hành, thì nên biết người ấy như các đại Bồ-tát ở địa vị bất thối. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy nghĩa thú sâu xa, rất khó tin hiểu; nếu đời trước chẳng tu tập lâu dài bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì đâu có thể được nghe và tức thời tin hiểu.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà chê bai phỉ báng thì nên biết người ấy đời trước đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này cũng đã từng hủy báng. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, do tập khí đời trước, nên chẳng tin, chẳng ưa, tâm chẳng thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chưa từng thân cận chư Phật Bồ-tát và chúng đệ tử, chưa từng thưa hỏi là nên hành bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào, nên hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào; nên trụ pháp không nội như thế nào, nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào; nên trụ chơn như như thế nào, nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì như thế nào; nên trụ Thánh đế khổ như thế nào, nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào; nên tu bốn tịnh lự như thế nào, nên tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào; nên tu tám giải thoát như thế nào, nên tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào; nên tu bốn niệm trụ như thế nào, nên tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo như thế nào; nên tu pháp môn giải thoát không như thế nào, nên tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào; nên tu năm loại mắt như thế nào, nên tu sáu phép thần thông như thế nào; nên tu mười lực Phật như thế nào, nên tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào; nên tu pháp không quên mất như thế nào, nên tu tánh luôn luôn xả như thế nào; nên tu trí nhất thiết như thế nào, nên tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào; nên tu tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào, nên tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào; nên tu tất cả hạnh đại Bồ-tát như thế nào; nên tu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào, nên nay nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì chê bai, phỉ báng, chẳng tin, chẳng ưa, tâm chẳng thanh tịnh.

Bấy giờ, trời Đế Thích thưa với Xá Lợi Tử: Thưa Đại đức! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy, nghĩa thú sâu xa rất khó tin, khó hiểu. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chưa tu tập thì nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, từ lâu chưa từng tin hiểu, từ lâu chẳng an trụ thì nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chưa an trụ thì nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với bốn Thánh đế từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng an trụ thì khi nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, hoặc pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, hoặc mười địa Bồ-tát từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì khi nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào đối với các hạnh đại Bồ-tát, hoặc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật từ lâu chưa tin hiểu, từ lâu chẳng tu tập thì khi nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng là việc có thể xảy ra.

Thưa Đại đức! Con nay kính lễ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; kính lễ Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là kính lễ trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông nói, kính lễ Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là kính lễ trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết trí của chư Phật Thế Tôn đều từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được phát sanh.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn an trụ trí nhất thiết trí của chư Phật thì nên an trụ Bát-nhã-ba-la-mật-đa muốn khởi trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa; muốn đoạn tất cả phiền não tập khí thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa; muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng, thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình ở quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác, hoặc muốn tự học thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tìnhquả vị giác ngộ cao tột của Phật thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào muốn dùng phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình ở các hạnh đại Bồ-tát khiến không thối chuyển, hoặc muốn tự tu hành thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn hàng phục chúng ma, dẹp bỏ ngoại đạo thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Nếu đại Bồ-tát muốn khéo nhiếp thọ các Bí-sô Tăng thì nên học Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì an trụ sắc như thế nào, an trụ thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? Tu tập sắc như thế nào, tu tập thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? An trụ nhãn xứ như thế nào, an trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như thế nào? Tu tập nhãn xứ như thế nào, tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như thế nào? An trụ sắc xứ như thế nào, an trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế nào? Tu tập sắc xứ như thế nào, tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế nào? An trụ nhãn giới như thế nào, an trụ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập nhãn giới như thế nào, tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ nhĩ giới như thế nào, an trụ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập nhĩ giới như thế nào, tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ tỷ giới như thế nào, an trụ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập tỷ giới như thế nào, tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ thiệt giới như thế nào, an trụ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập thiệt giới như thế nào, tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ thân giới như thế nào, an trụ xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập thân giới như thế nào, tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ ý giới như thế nào, an trụ pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Tu tập ý giới như thế nào, tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra như thế nào? An trụ địa giới như thế nào, an trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? Tu tập địa giới như thế nào, tu tập thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? An trụ vô minh như thế nào, an trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như thế nào? Tu tập vô minh như thế nào, tu tập hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như thế nào? An trụ bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào, an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào? Tu tập bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào, tu tập tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào? An trụ pháp không nội như thế nào, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào? Tu tập pháp không nội như thế nào, tu tập pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh như thế nào? An trụ chơn như như thế nào, an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì như thế nào? Tu tập chơn như như thế nào, tu tập pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì như thế nào? An trụ Thánh đế khổ như thế nào, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? Tu tập Thánh đế khổ như thế nào, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? An trụ bốn tịnh lự như thế nào, an trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào? Tu tập bốn tịnh lự như thế nào, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào? An trụ tám giải thoát như thế nào, an trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào? Tu tập tám giải thoát như thế nào, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào? An trụ bốn niệm trụ như thế nào, an trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo như thế nào? Tu tập bốn niệm trụ như thế nào, tu tập bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo như thế nào? An trụ pháp môn giải thoát không như thế nào, an trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào? Tu tập pháp môn giải thoát không như thế nào, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào? An trụ mười địa Bồ-tát như thế nào? Tu tập mười địa Bồ-tát như thế nào? An trụ năm loại mắt như thế nào, an trụ sáu phép thần thông như thế nào? Tu tập năm loại mắt như thế nào, tu tập sáu phép thần thông như thế nào? An trụ mười lực Phật như thế nào, an trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? Tu tập mười lực của Phật như thế nào, tu tập bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? An trụ pháp không quên mất như thế nào, an trụ tánh luôn luôn xả như thế nào? Tu tập pháp không quên mất như thế nào, tu tập tánh luôn luôn xả như thế nào? An trụ trí nhất thiết như thế nào, an trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào? Tu tập trí nhất thiết như thế nào, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào? An trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào, an trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào? Tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào? An trụ quả Dự-lưu như thế nào, an trụ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán như thế nào? Tu tập quả Dự-lưu như thế nào, tu tập quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán như thế nào? An trụ quả vị Độc-giác như thế nào? Tu tập quả vị Độc-giác như thế nào? An trụ tất cả hạnh đại Bồ-tát như thế nào? Tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát như thế nào? An trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào? Tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Hay thay! Hay thay! Ông nay nương vào thần lực của Phật nên có thể hỏi Như Lai ý nghĩa sâu xa như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghĩ chín chắn, ta sẽ nói cho ông nghe.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc; nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì sắc cho đến thức để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhãn xứ; nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì nhãn xứ cho đến ý xứ để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc xứ; nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì sắc xứ cho đến pháp xứ để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhãn giới; nếu đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhĩ giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhĩ giới; nếu đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tỷ giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tỷ giới; nếu đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với thiệt giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thiệt giới; nếu đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với thân giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thân giới; nếu đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với ý giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập ý giới; nếu đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với địa giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập địa giới; nếu đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì địa giới cho đến thức giới để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với vô minh chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập vô minh; nếu đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bố thí Ba-la-mật-đa chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bố thí Ba-la-mật-đa; nếu đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không nội chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không nội; nếu đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với chơn như chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập chơn như; nếu đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với Thánh đế khổ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập Thánh đế khổ; nếu đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn tịnh lự chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn tịnh lự; nếu đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tám giải thoát chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tám giải thoát; nếu đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì tám giải thoát cho đến mười biến xứ để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn niệm trụ chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn niệm trụ; nếu đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp môn giải thoát không chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp môn giải thoát không; nếu đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với mười địa Bồ-tát chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập mười địa Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì mười địa Bồ-tát để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với năm loại mắt chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập năm loại mắt; nếu đối với sáu phép thần thông chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sáu phép thần thông. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với mười lực Phật chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập mười lực Phật; nếu đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không quên mất chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không quên mất; nếu đối với tánh luôn luôn xả chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tánh luôn luôn xả. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với trí nhất thiết chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập trí nhất thiết; nếu đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni; nếu đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả Dự-lưu chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả Dự-lưu; nếu đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị Độc-giác chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả vị Độc-giác. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì quả vị Độc-giác để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng an trụ, chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để an trụ, tu tập ấy, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc; nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán sắc cho đến thức ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhãn xứ; nếu đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán nhãn xứ cho đến ý xứ ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với sắc xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc xứ; nếu đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán sắc xứ cho đến pháp xứ ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhãn giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhãn giới; nếu đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với nhĩ giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập nhĩ giới; nếu đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tỷ giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tỷ giới; nếu đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với thiệt giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thiệt giới; nếu đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với thân giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thân giới; nếu đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với ý giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập ý giới; nếu đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với địa giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập địa giới; nếu đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán địa giới cho đến thức giới ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với vô minh chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập vô minh; nếu đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bố thí Ba-la-mật-đa chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bố thí Ba-la-mật-đa; nếu đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không nội chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không nội; nếu đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Quyển Thứ 297
HẾT

XXXIX. PHẨM KHÓ NGHE CÔNG ĐỨC

02

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với chơn như chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập chơn như; nếu đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với Thánh đế khổ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập Thánh đế khổ; nếu đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn tịnh lự chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn tịnh lự; nếu đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tám giải thoát chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tám giải thoát; nếu đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với bốn niệm trụ chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn niệm trụ; nếu đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp môn giải thoát không chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp môn giải thoát không; nếu đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với mười địa Bồ-tát chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập mười địa Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán mười địa Bồ-tát ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với năm loại mắt chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập năm loại mắt; nếu đối với sáu phép thần thông chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập sáu phép thần thông. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán năm loại mắt, sáu phép thần thông ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với mười lực Phật chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập mười lực Phật; nếu đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với pháp không quên mất chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập pháp không quên mất; nếu đối với tánh luôn luôn xả chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tánh luôn luôn xả. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với trí nhất thiết chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập trí nhất thiết; nếu đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni; nếu đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả Dự-lưu chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả Dự-lưu; nếu đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị Độc-giác chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả vị Độc-giác. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán quả vị Độc-giác ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán tất cả hạnh đại Bồ-tát ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng an trụ, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng tu tập tức là an trụ, tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ-tát ấy quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ở khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa.

Phật dạy: Đúng vậy! Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của sắc sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa: vì chơn như của thọ, tưởng, hành, thức sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhãn xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của sắc xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhãn giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhĩ giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tỷ giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của thiệt giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của thân giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của ý giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của địa giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của vô minh sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp không nội sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của chơn như sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của Thánh đế khổ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của thánh đế tập, diệt, đạo sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bốn tịnh lự sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tám giải thoát sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bốn niệm trụ sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp môn giải thoát không sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của mười địa Bồ-tát sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của năm loại mắt sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của sáu phép thần thông sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của mười lực Phật sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp không quên mất sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của tánh luôn luôn xả sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của trí nhất thiết sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả Dự-lưu sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; vì chơn như của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả vị Độc-giác sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tất cả hạnh đại Bồ-tát sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật sâu xa nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế khó có thể suy lường.

Phật dạy: Đúng vậy! Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của sắc khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của thọ, tưởng, hành, thức khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhãn xứ khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của sắc xứ khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhãn giới khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhĩ giới khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tỷ giới khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của thiệt giới khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của thân giới khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của ý giới khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của địa giới khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của vô minh khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp không nội khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của chơn như khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của Thánh đế khổ khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của thánh đế tập, diệt, đạo khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bốn tịnh lự khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tám giải thoát khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bốn niệm trụ khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp môn giải thoát không khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của mười địa Bồ-tát khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của năm loại mắt khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của sáu phép thần thông khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của mười lực Phật khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp không quên mất khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của tánh luôn luôn xả khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của trí nhất thiết khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả Dự-lưu khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường; vì chơn như của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả vị Độc-giác khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tất cả hạnh đại Bồ-tát khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật khó suy lường nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa khó có thể suy lường.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế rất là vô lượng.

Phật dạy: Đúng vậy! Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của sắc vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của thọ, tưởng, hành, thức vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhãn xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của sắc xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhãn giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của nhĩ giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tỷ giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của thiệt giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của thân giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của ý giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của địa giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của vô minh vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp không nội vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của chơn như vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của Thánh đế khổ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của thánh đế tập, diệt, đạo vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bốn tịnh lự vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tám giải thoát vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của bốn niệm trụ vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp môn giải thoát không vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của mười địa Bồ-tát vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của năm loại mắt vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của sáu phép thần thông vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của mười lực Phật vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của pháp không quên mất vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của tánh luôn luôn xả vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của trí nhất thiết vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả Dự-lưu vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng; vì chơn như của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả vị Độc-giác vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của tất cả hạnh đại Bồ-tát vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Này Xá Lợi Tử! Vì chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật vô lượng nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô lượng.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của sắc là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của sắc thì chẳng phải là sắc; vì tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của nhãn xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của nhãn xứ thì chẳng phải là nhãn xứ; vì tánh sâu xa của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của sắc xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của sắc xứ thì chẳng phải là sắc xứ; vì tánh sâu xa của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của nhãn giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của nhãn giới thì chẳng phải là nhãn giới; vì tánh sâu xa của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của nhĩ giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của nhĩ giới thì chẳng phải là nhĩ giới; vì tánh sâu xa của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của tỷ giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của tỷ giới thì chẳng phải là tỷ giới; vì tánh sâu xa của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của thiệt giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của thiệt giới thì chẳng phải là thiệt giới; vì tánh sâu xa của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của thân giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của thân giới thì chẳng phải là thân giới; vì tánh sâu xa của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của ý giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của ý giới thì chẳng phải là ý giới; vì tánh sâu xa của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của địa giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của địa giới thì chẳng phải là địa giới; vì tánh sâu xa của thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của vô minh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của vô minh thì chẳng phải là vô minh; vì tánh sâu xa của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của bố thí Ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của bố thí Ba-la-mật-đa thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; vì tánh sâu xa của tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng phải là tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của pháp không nội là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của pháp không nội thì chẳng phải là pháp không nội; vì tánh sâu xa của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thì chẳng phải là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của chơn như là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của chơn như thì chẳng phải là chơn như; vì tánh sâu xa của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của Thánh đế khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của Thánh đế tập, diệt, đạo là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của Thánh đế khổ thì chẳng phải là Thánh đế khổ; vì tánh sâu xa của Thánh đế tập, diệt, đạo thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của bốn tịnh lự là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của bốn tịnh lự thì chẳng phải là bốn tịnh lự; vì tánh sâu xa của bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của tám giải thoát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của tám giải thoát thì chẳng phải là tám giải thoát; vì tánh sâu xa của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của bốn niệm trụ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của bốn niệm trụ thì chẳng phải là bốn niệm trụ; vì tánh sâu xa của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của pháp môn giải thoát không là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của pháp môn giải thoát không thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; vì tánh sâu xa của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của mười địa Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của mười địa Bồ-tát thì chẳng phải là mười địa Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của năm loại mắt là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của sáu phép thần thông là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của năm loại mắt thì chẳng phải là năm loại mắt; vì tánh sâu xa của sáu phép thần thông thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Quyển Thứ 298
HẾT

XXXIX. PHẨM KHÓ NGHE CÔNG ĐỨC

03

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của mười lực Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của mười lực Phật thì chẳng phải là mười lực Phật; vì tánh sâu xa của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của pháp không quên mất là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của tánh luôn luôn xả là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của pháp không quên mất thì chẳng phải là pháp không quên mất; vì tánh sâu xa của tánh luôn luôn xả thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của trí nhất thiết là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của trí nhất thiết thì chẳng phải là trí nhất thiết; vì tánh sâu xa của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của tất cả pháp môn Đà-la-ni là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của tất cả pháp môn Đà-la-ni thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì tánh sâu xa của tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của quả Dự-lưu là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh sâu xa của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của quả Dự-lưu thì chẳng phải là quả Dự-lưu; vì tánh sâu xa của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thì chẳng phải là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của quả vị Độc-giác là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của quả vị Độc-giác thì chẳng phải là quả vị Độc-giác.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của tất cả hạnh đại Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của tất cả hạnh đại Bồ-tát thì chẳng phải là tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh sâu xa của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh sâu xa của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của sắc là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của sắc thì chẳng phải là sắc; vì tánh khó suy lường của thọ, tưởng, hành, thức thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của nhãn xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của nhãn xứ thì chẳng phải là nhãn xứ; vì tánh khó suy lường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của sắc xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của sắc xứ thì chẳng phải là sắc xứ; vì tánh khó suy lường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của nhãn giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của nhãn giới thì chẳng phải là nhãn giới; vì tánh khó suy lường của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của nhĩ giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của nhĩ giới thì chẳng phải là nhĩ giới; vì tánh khó suy lường của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của tỷ giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của tỷ giới thì chẳng phải là tỷ giới; vì tánh khó suy lường của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của thiệt giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của thiệt giới thì chẳng phải là thiệt giới; vì tánh khó suy lường của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của thân giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của thân giới thì chẳng phải là thân giới; vì tánh khó suy lường của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của ý giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của ý giới thì chẳng phải là ý giới; vì tánh khó suy lường của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của địa giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của địa giới thì chẳng phải là địa giới; vì tánh khó suy lường của thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của vô minh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của vô minh thì chẳng phải là vô minh; vì tánh khó suy lường của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của bố thí Ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của bố thí Ba-la-mật-đa thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; vì tánh khó suy lường của tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng phải là tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của pháp không nội là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của pháp không nội thì chẳng phải là pháp không nội; vì tánh khó suy lường của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thì chẳng phải là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của chơn như là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của chơn như thì chẳng phải là chơn như; vì tánh khó suy lường của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của Thánh đế khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của Thánh đế tập, diệt, đạo là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của Thánh đế khổ thì chẳng phải là Thánh đế khổ; vì tánh khó suy lường của Thánh đế tập, diệt, đạo thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của bốn tịnh lự là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của bốn tịnh lự thì chẳng phải là bốn tịnh lự; vì tánh khó suy lường của bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của tám giải thoát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của tám giải thoát thì chẳng phải là tám giải thoát; vì tánh khó suy lường của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của bốn niệm trụ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của bốn niệm trụ thì chẳng phải là bốn niệm trụ; vì tánh khó suy lường của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của pháp môn giải thoát không là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của pháp môn giải thoát không thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; vì tánh khó suy lường của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của mười địa Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của mười địa Bồ-tát thì chẳng phải là mười địa Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của năm loại mắt là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của sáu phép thần thông là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của năm loại mắt thì chẳng phải là năm loại mắt; vì tánh khó suy lường của sáu phép thần thông thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của mười lực Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của mười lực Phật thì chẳng phải là mười lực Phật; vì tánh khó suy lường của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của pháp không quên mất là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của tánh luôn luôn xả là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của pháp không quên mất thì chẳng phải là pháp không quên mất; vì tánh khó suy lường của tánh luôn luôn xả thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của trí nhất thiết là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của trí nhất thiết thì chẳng phải là trí nhất thiết; vì tánh khó suy lường của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của tất cả pháp môn Đà-la-ni là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của tất cả pháp môn Đà-la-ni thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì tánh khó suy lường của tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của quả Dự-lưu là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh khó suy lường của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của quả Dự-lưu thì chẳng phải là quả Dự-lưu; vì tánh khó suy lường của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thì chẳng phải là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của quả vị Độc-giác là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của quả vị Độc-giác thì chẳng phải là quả vị Độc-giác.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của tất cả hạnh đại Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của tất cả hạnh đại Bồ-tát thì chẳng phải là tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh khó suy lường của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh khó suy lường của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của sắc là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của sắc thì chẳng phải là sắc; vì tánh vô lượng của thọ, tưởng, hành, thức thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của nhãn xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của nhãn xứ thì chẳng phải là nhãn xứ; vì tánh vô lượng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của sắc xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của sắc xứ thì chẳng phải là sắc xứ; vì tánh vô lượng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của nhãn giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của nhãn giới thì chẳng phải là nhãn giới; vì tánh vô lượng của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của nhĩ giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của nhĩ giới thì chẳng phải là nhĩ giới; vì tánh vô lượng của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của tỷ giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của tỷ giới thì chẳng phải là tỷ giới; vì tánh vô lượng của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của thiệt giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của thiệt giới thì chẳng phải là thiệt giới; vì tánh vô lượng của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của thân giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của thân giới thì chẳng phải là thân giới; vì tánh vô lượng của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của ý giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của ý giới thì chẳng phải là ý giới; vì tánh vô lượng của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của địa giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của địa giới thì chẳng phải là địa giới; vì tánh vô lượng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của vô minh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của vô minh thì chẳng phải là vô minh; vì tánh vô lượng của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của bố thí Ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của bố thí Ba-la-mật-đa thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; vì tánh vô lượng của tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng phải là tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của pháp không nội là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của pháp không nội thì chẳng phải là pháp không nội; vì tánh vô lượng của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thì chẳng phải là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của chơn như là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của chơn như thì chẳng phải là chơn như; vì tánh vô lượng của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của Thánh đế khổ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của Thánh đế tập, diệt, đạo là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của Thánh đế khổ thì chẳng phải là Thánh đế khổ; vì tánh vô lượng của Thánh đế tập, diệt, đạo thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của bốn tịnh lự là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của bốn tịnh lự thì chẳng phải là bốn tịnh lự; vì tánh vô lượng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của tám giải thoát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của tám giải thoát thì chẳng phải là tám giải thoát; vì tánh vô lượng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của bốn niệm trụ là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của bốn niệm trụ thì chẳng phải là bốn niệm trụ; vì tánh vô lượng của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của pháp môn giải thoát không là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của pháp môn giải thoát không thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; vì tánh vô lượng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của mười địa Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của mười địa Bồ-tát thì chẳng phải là mười địa Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của năm loại mắt là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của sáu phép thần thông là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của năm loại mắt thì chẳng phải là năm loại mắt; vì tánh vô lượng của sáu phép thần thông thì chẳng phải là sáu phép thần thông.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của mười lực Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của mười lực Phật thì chẳng phải là mười lực Phật; vì tánh vô lượng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của pháp không quên mất là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của tánh luôn luôn xả là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của pháp không quên mất thì chẳng phải là pháp không quên mất; vì tánh vô lượng của tánh luôn luôn xả thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của trí nhất thiết là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của trí nhất thiết thì chẳng phải là trí nhất thiết; vì tánh vô lượng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của tất cả pháp môn Đà-la-ni là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của tất cả pháp môn Đà-la-ni thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; vì tánh vô lượng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của quả Dự-lưu là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng hành tánh vô lượng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của quả Dự-lưu thì chẳng phải là quả Dự-lưu; vì tánh vô lượng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thì chẳng phải là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của quả vị Độc-giác là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của quả vị Độc-giác thì chẳng phải là quả vị Độc-giác.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của tất cả hạnh đại Bồ-tát là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của tất cả hạnh đại Bồ-tát thì chẳng phải là tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hành tánh vô lượng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tánh vô lượng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế đã rất sâu xa, khó suy lường, vô lượng, khó có thể tin hiểu thì chẳng nên nói trước hàng Bồ-tát tân học Đại-thừa, vì khi họ thoáng nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, lòng sanh kinh hoàng, sợ hãi, nghi hoặc, chẳng thể tin, hiểu; chỉ nên nói trước hàng Bồ-tát ở địa vị Bất-thối-chuyển vì khi họ nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, lòng chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, cũng không nghi hoặc; nghe rồi tin, hiểu, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, vì người diễn nói.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử: Thưa Đại-đức! Nếu ở trước hàng Bồ-tát tân học Đại-thừa mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì có lỗi gì?

Xá Lợi Tử đáp: Này Kiều Thi Ca! Nếu ở trước hàng Bồ-tát tân học Đại-thừa mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì khi nghe họ sẽ kinh hoàng, sợ hãi, nghi hoặc, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng; do đó tăng trưởng sự tạo tác, chiêu cảm nghiệp đọa ác thú, chìm đắm ba đường ác, ở lâu trong sanh tử, khó đạt được quả vị giác ngộ cao tột. Vì thế chẳng nên ở trước Bồ-tát tân học kia mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Bấy giờ, trời Đế Thích lại hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử: Thưa Đại đức! Có vị đại Bồ-tát nào chưa được thọ ký mà khi nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi chăng?

Xá Lợi Tử đáp: Có! Này Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát ấy chẳng bao lâu sẽ được thọ ký đại Bồ-đề. Này Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế mà tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi thì nên biết đại Bồ-tát ấy đã được thọ ký quả vị giác ngộ cao tột. Nếu chưa được thọ ký thì chẳng qua một hoặc hai cảnh giới Phật, nhất định sẽ được thọ ký quả đại giác ngộ.

Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử: Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát từ lâu đã học Đại-thừa, từ lâu đã phát nguyện, từ lâu đã tu sáu phép Ba-la-mật-đa, từ lâu đã cúng dường chư Phật, từ lâu đã phụng sự các thiện hữu, thì khi nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi; nghe rồi tin hiểu, thọ trì đọc tụng, như lý tư duy, vì người diễn nói, hoặc tùy sức tu hành như điều đã nói.

Quyển Thứ 299
HẾT

XXXIX. PHẨM KHÓ NGHE CÔNG ĐỨC

04

Bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói thí dụ về Bồ-tát.

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Tùy ý, ông cứ nói.

Xá Lợi Tử bạch: Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Đại-thừa như ở trong mộng tu hành Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, ngồi ở đạo tràng, chứng vô thượng giác, thì biết thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy còn gần quả vị giác ngộ cao tột, huống là đại Bồ-tát khi tỉnh vì cầu quả vị giác ngộ cao tột tu hành Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa mà chẳng mau thành quả vị giác ngộ cao tột sao!

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy chẳng bao lâu sẽ ngồi dưới cội Bồ-đề chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, thọ trì, đọc tụng, như giáo tu hành thì nên biết thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy từ lâu đã học Đại-thừa, thiện căn thành thục, cúng dường nhiều chư Phật, phụng sự nhiều thiện hữu, trồng các gốc đức mới có thể thành thục được việc như vậy.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập, như lý tư duy, vì người diễn nói, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy hoặc đã được thọ ký quả vị đại giác ngộ, hoặc sắp được thọ ký quả vị đại giác ngộ.

Bạch Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy như đại Bồ-tát trụ địa vị bất thối, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; do đó được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, có thể tin hiểu sâu xa, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, theo giáo tu hành, vì người diễn nói.

Bạch Thế Tôn! Thí như có người đi qua cánh đồng trống vắng, ngang qua đường hiểm hàng trăm do tuần, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm trăm do tuần, thấy các cảnh quang báo trước có thành ấp, kinh đô, đó là cảnh mục đồng chăn trâu, vườn rừng, ruộng nương v.v… thấy các cảnh ấy rồi liền nghĩ là thành ấp, kinh đô cách đây chẳng bao xa; nghĩ như vậy rồi, thân tâm thư thái, chẳng sợ ác thú, ác tặc, đói khát … Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát cũng lại như vậy, nếu được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, phát sanh tin hiểu sâu xa thì nên biết chẳng bao lâu sẽ được thọ ký, hoặc đã được thọ ký mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Đại Bồ-tát ấy không sợ rơi vào địa vị Thanh-văn, Độc-giác. Vì sao? Vì đại Bồ-tát ấy đã được thấy, nghe cung kính, cúng dường Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cảnh giới của quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử: Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Ông hãy nương vào Phật lực để tiếp tục diễn nói.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thí như có người muốn xem biển cả, lần lượt đi đến trải qua nhiều thời gian, chẳng thấy núi rừng, liền nghĩ rằng, nay thấy hiện tượng này, biển cả chẳng còn bao xa. Vì sao? Vì hễ gần bờ biển thì đất thấp dần, nhất định không có núi rừng. Khi ấy, người kia tuy chưa thấy biển nhưng thấy hiện tượng gần biển, hoan hỷ nhảy nhót. Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát cũng lại như vậy, nếu được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, phát sanh sự tin hiểu sâu xa thì đại Bồ-tát ấy tuy chưa được Phật hiện tiền thọ ký: “Người vào đời sau, trải qua số kiếp như thế, hoặc trải qua trăm kiếp, hoặc trải qua ngàn kiếp, hoặc trải qua trăm ngàn kiếp cho đến hoặc trải qua trăm ngàn ức kiếp, sẽ được chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột” nhưng nên tự biết việc được thọ ký chẳng còn xa. Vì sao? Vì đại Bồ-tát ấy đã được thấy, nghe hiện tượng của quả vị giác ngộ cao tột trước đó mà cung kính, cúng dường thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.

Bạch Thế Tôn! Thí như cây cối hoa quả mùa xuân, sau khi lá đã rụng, cành nhánh tươi nhuận. Mọi người trông thấy liền nói thế này: Hoa, quả, lá mới chẳng bao lâu sẽ nảy sinh. Vì sao? Vì những cây này, hiện tượng của hoa, quả, lá mới đã hiện ra trước. Người châu Thiệm bộ, nam nữ lớn nhỏ, thấy hiện tượng này rồi vui mừng nhảy nhót, đều nghĩ thế này; Chẳng còn bao lâu, chúng ta sẽ được thấy hoa quả này tươi tốt. Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát cũng giống như thế, nếu đã được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, phát sanh tin hiểu sâu xa, thì nên biết, đời trước thiện căn thành thục, cúng dường nhiều đức Phật, phụng sự nhiều thiện hữu, chẳng còn bao lâu sẽ được thọ ký quả vị đại giác ngộ.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy nên nghĩ thế này: Nhất định trước đây vì ta có thiện căn thù thắng, có thể dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột nên nay thấy nghe cung kính cúng dưòng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, đọc tụng, thọ trì, phát sanh sự tin hiểu sâu xa, như lý tư duy tùy sức tu tập.

Bạch Thế Tôn! Trong pháp hội này có các Thiên tử đã thấy Phật quá khứ nói pháp như thế, đều sanh hoan hỷ cùng bàn luận rằng: Xưa các Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa liền được thọ ký. Nay các Bồ-tát đã nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, nhất định chẳng bao lâu sẽ được thọ ký quả vị giác ngộ.

Bạch Thế Tôn! Thí như người nữ mang thai lâu ngày, thân thể trở nên nặng nề, đi đứng bất an, ăn uống ngủ nghỉ giảm thiểu, chẳng ưa nói nhiều, chán việc thường làm, vì chịu sự thống khổ nên bỏ hết các việc. Người đàn bà khác thấy hiện tượng ấy liền biết người này sắp sanh.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát cũng giống như thế, đời trước gieo trồng căn lành, cúng dường nhiều Phật, phụng sự thiện hữu lâu dài, vì thiện căn thành thục nên nay được nghe Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa này, thọ trì đọc tụng, như lý tư duy, phát sanh tin hiểu sâu xa, tùy sức tu tập.

Bạch Thế Tôn! Nên biết đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này, chẳng còn bao lâu sẽ được thọ ký quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, Phật khen Xá Lợi Tử! Hay thay! Hay thay! Ông thật khéo diễn đạt. Được nghe những thí dụ về Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, nên biết là đều do sức oai thần của Phật.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật là hy hữu, khéo phó chúc các đại Bồ-tát, khéo nhiếp thọ các đại Bồ-tát!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, vì lợi lạc cho các hữu tình; vì thương yêu, làm nhiều lợi ích cho hàng thiên nhơn. Các đại Bồ-tát ấy khi hành Bồ-tát đạo vì muốn làm lợi ích vô lượng trăm ngàn ức loài hữu tình nên dùng bốn nhiếp pháp mà nhiếp thọ họ đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự; cũng an lập họ khiến siêng năng tu tập mười thiện nghiệp đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tự hành bốn tịnh lự, cũng dạy người hành bốn tịnh lự; tự hành bốn vô lượng, cũng dạy người hành bốn vô lượng; tự hành bốn định vô sắc, cũng dạy người hành bốn định vô sắc; tự hành sáu phép Ba-la-mật-đa, cũng dạy người hành sáu phép Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy y chỉ Bát-nhã-ba-la-mật-đa dùng sức phương tiện thiện xảo, tuy dạy hữu tình chứng quả Dự-lưu nhưng tự mình chẳng chứng; tuy dạy hữu tình chứng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán nhưng tự mình chẳng chứng; tuy dạy hữu tình chứng quả Độc-giác nhưng tự mình chẳng chứng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tự tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng khuyên vô lượng trăm ngàn ức đại Bồ-tát tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; tự an trụ địa vị Bất thối chuyển, cũng khuyên họ an trụ địa vị Bất thối chuyển; tự nghiêm tịnh cõi Phật, cũng khuyên họ nghiêm tịnh cõi Phật; tự thành thục hữu tình, cũng khuyên họ thành thục hữu tình; tự khởi thần thông Bồ-tát, cũng khuyên họ khởi thần thông Bồ-tát; tự tu pháp môn Đà-la-ni, cũng khuyên họ tu pháp môn Đà-la-ni; tự tu pháp môn Tam-ma-địa, cũng khuyên họ tu pháp môn Tam-ma-địa; tự đủ biện tài vô ngại, cũng khuyên họ đủ biện tài vô ngại; tự đủ sắc thân vi diệu, cũng khuyên họ đủ sắc thân vi diệu; tự đủ các tướng tốt, cũng khuyên họ đủ các tướng tốt; tự đủ hạnh đồng chơn, cũng khuyên họ đủ hạnh đồng chơn; tự tu bốn niệm trụ, cũng dạy họ tu bốn niệm trụ; tự tu bốn chánh đoạn, cũng dạy họ tu bốn chánh đoạn; tự tu bốn thần túc, cũng dạy họ tu bốn thần túc; tự tu năm căn, cũng dạy họ tu năm căn; tự tu năm lực, cũng dạy họ tu năm lực; tự tu bảy chi đẳng giác, cũng dạy họ tu bảy chi đẳng giác; tự tu tám chi thánh đạo, cũng dạy họ tu tám chi thánh đạo; tự an trụ pháp không nội, cũng dạy họ an trụ pháp không nội; tự an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng dạy họ an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; tự an trụ chơn như, cũng dạy họ an trụ chơn như; tự an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng dạy họ an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; tự an trụ Thánh đế khổ, cũng dạy họ an trụ Thánh đế khổ; tự an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng dạy họ an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; tự tu bốn tịnh lự, cũng dạy họ tu bốn tịnh lự; tự tu bốn vô lượng, cũng dạy họ tu bốn vô lượng; tự tu bốn định vô sắc, cũng dạy họ tu bốn định vô sắc; tự tu tám giải thoát, cũng dạy họ tu tám giải thoát; tự tu tám thắng xứ, cũng dạy họ tu tám thắng xứ; tự tu chín định thứ đệ, cũng dạy họ tu chín định thứ đệ; tự tu mười biến xứ, cũng dạy họ tu mười biến xứ; tự tu ba pháp môn giải thoát, cũng dạy họ tu ba pháp môn giải thoát; tự tu mười địa Bồ-tát, cũng dạy họ tu mười địa Bồ-tát, Tự tu năm loại mắt, cũng dạy họ tu năm loại mắt; tự tu sáu phép thần thông, cũng dạy họ tu sáu phép thần thông; tự tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng dạy họ tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; tự tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng dạy họ tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; tự tu mười lực Phật, cũng dạy họ tu mười lực Phật; tự tu bốn điều không sợ, cũng dạy họ tu bốn điều không sợ; tự tu bốn sự hiểu biết thông suốt, cũng dạy họ tu bốn sự hiểu biết thông suốt; tự tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, cũng dạy họ tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; tự tu mười tám pháp Phật bất cộng, cũng dạy họ tu mười tám pháp Phật bất cộng; tự tu trí nhất thiết, cũng dạy họ tu trí nhất thiết; tự tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng dạy họ tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tự tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, cũng dạy họ tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tự đoạn tất cả phiền não, tập khí, cũng dạy họ đoạn tất cả phiền não, tập khí; tự chứng quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng, cũng dạy họ chứng quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Rất kỳ đặc! Bạch Thiện Thệ! Rất hy hữu! Đại Bồ-tát ấy thành tựu nhóm công đức lớn như thế là vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế nào để mau đựợc viên mãn?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy sắc hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhãn xứ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy sắc xứ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhãn giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy nhĩ giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tỷ giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy thiệt giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy thân giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy ý giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy địa giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy vô minh hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp không nội hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy chơn như hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy Thánh đế khổ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn tịnh lự hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tám giải thoát hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn niệm trụ hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp môn giải thoát không hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy mười địa Bồ-tát hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy năm loại mắt hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy sáu phép thần thông hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy mười lực Phật hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp không quên mất hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tánh luôn luôn xả hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy trí nhất thiết hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy quả Dự-lưu hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy quả vị Độc-giác hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tất cả hạnh đại Bồ-tát hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp đúng, chẳng thấy pháp sai, chẳng thấy hữu lậu, chẳng thấy vô lậu, chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy quá khứ, chẳng thấy hiện tại, chẳng thấy vị lai, chẳng thấy thiện, chẳng thấy bất thiện, chẳng thấy vô ký, chẳng thấy Dục giới, chẳng thấy Sắc giới, chẳng thấy Vô sắc giới, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp không nội, chẳng thấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy chơn như, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy Thánh đế khổ, chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn niệm trụ, chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy bốn tịnh lự, chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tám giải thoát, chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp môn giải thoát không, chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy năm loại mắt, chẳng thấy sáu phép thần thông, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thấy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy pháp không quên mất, chẳng thấy tánh luôn luôn xả, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy mười lực Phật, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thấy trí nhất thiết, chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp khôngtánh tướng, không có tác dụng, chẳng thể chuyển động, hư vọng giả dối, tánh chẳng chắc chắn, chẳng tự tại, không tri giác, không cảm thọ, xa lìa ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh … cho đến cái biết, cái thấy.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những điều Như Lai đã nói chẳng thể nghĩ bàn.

Phật bảo Thiện Hiện: Đúng vậy! Đúng vậy! Những điều Như Lai đã nói thì chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì sáu phép thần thông chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với sắc chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với nhãn xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với sắc xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với nhãn giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với nhĩ giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với tỷ giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với thiệt giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với thân giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với ý giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với địa giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với vô minh chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ-tát ấy tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Quyển Thứ 300
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.