- Lời Nói Đầu
- Tập 1 (Quyển 1-15)
- Tập 1 (Quyển 16-25)
- Tập 2 (Quyển 26-37)
- Tập 2 (Quyển 38-50)
- Tập 3 (Quyển 51-63)
- Tập 3 (Quyển 64 – 75)
- Tập 4 (Quyển 76 – 90)
- Tập 4 (Quyển 90 – 100)
- Tập 5 (Quyển 101-113)
- Tập 5 (Quyển 113-125)
- Tập 6 (Quyển 126-139)
- Tập 6 (Quyển 140-150)
- Tập 7 (Quyển 151-163)
- Tập 7 (Quyển 164-175)
- Tập 8 (Quyển 176-187)
- Tập 8 (Quyển 188-200)
- Tập 9 (Quyển 201-212)
- Tập 9 (Quyển 213-225)
- Tập 10 (Quyển 226-237)
- Tập 10 (Quyển 238-250)
- Tập 11 (Quyển 251-263)
- Tập 11 (Quyển 264-275)
- Tập 12 (Quyển 276-287)
- Tập 12 (Quyển 288-300)
- Tập 13 (Quyển 301-313)
- Tập 13 (Quyển 314-325)
- Tập 14 (Quyển 326-334)
- Tập 14 (Quyển 335-350)
- Tập 15 (Quyển 351-362)
- Tập 15 (Quyển 363-375)
- Tập 16 (Quyển 376-386)
- Tập 16 (Quyển 387-400)
- Tập 17 (Quyển 401-412)
- Tập 17 (Quyển 413-425)
- Tập 18 (Quyển 426-437)
- Tập 18 (Quyển 438-450)
- Tập 19 (Quyển 451-463)
- Tập 19 (Quyển 464-475)
- Tập 20 (Quyển 476-487)
- Tập 20 (Quyển 488-500)
- Tập 21 (Quyển 501-513)
- Tập 21 (Quyển 514-525)
- Tập 22 (Quyển 526-538)
- Tập 22 (Quyển 539-550)
- Tập 23 (Quyển 551-562)
- Tập 23 (Quyển 563-575)
- Tập 24 (Quyển 576-588)
- Tập 24 (Quyển 589-600)
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
TẬP 14 (Quyển 326-334)
XXXXIX. PHẨM BẤT THỐI CHUYỂN
02
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì thành tựu nhuần nhuyễn nghiệp thân, ngữ, ý dễ thương, dễ mến, đối với các hữu tình tâm không vướng mắc.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì thường xuyên thành tựu từ, bi, hỷ, xả v.v... khởi nghiệp thân, ngữ, ý tương ưng.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì quyết định không ở chung với năm cái là tham dục, sân nhuế, hôn trầm, thùy miên, trạo cử ác tác, nghi.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì tất cả thùy miên đều đã phá hết; tất cả sự trói buộc của tùy phiền não đều vĩnh viễn chẳng thể hiện khởi được.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì vào ra qua lại, tâm chẳng mê lầm, luôn luôn an trụ chánh niệm, chánh tri, cử chỉ oai nghi, đi đứng nằm ngồi, cất bước hạ bước cũng lại như thế; đi đến nơi nào đều nhìn xuống đất, an tường hệ niệm, thẳng đường mà đi; cử động nói năng, đều không vội vàng thô tháo.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì các đồ dùng như đồ nằm, y phục đều luôn thơm sạch, không hôi hám, cũng không có mồ hôi cấu bẩn, các loại trùng trùng như rận, chí v.v… tâm ưa thanh cao, thân không tật bệnh.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì thân tâm thanh tịnh, chẳng phải như thân của người thường luôn bị tám vạn bốn ngàn hộ trùng gây hại. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy, thiện căn tăng trưởng, vượt khỏi thế gian, thọ thân hình trong ngoài thanh tịnh, nên không có các loại trùng gây hại thân thể. Thiện căn như thế, dần dần tăng trưởng, và cứ như vậy, thân tâm càng thanh tịnh. Do nhân duyên này, các Bồ-tát ấy, thân tâm kiên cố, giống như kim cương, chẳng bị nghịch duyên xâm phạm não hại.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao mà đại Bồ-tát ấy, thân tâm được thanh tịnh như thế?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy các thiện căn như thế dần dần tăng trưởng, và cứ như vậy, do sức thiện căn mà thân tâm dua nịnh quanh co được trừ diệt, cho đến tận cùng đời vị lai rốt ráo chẳng khởi lên. Do đó mà được thân tâm thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thiện căn như thế dần dần tăng trưởng, và cứ như thế, nghiệp thân, ngữ, ý vì do sức thiện căn làm trong sạch nên xa lìa tất cả uế trược tà vạy. Do đó mà thân tâm được thanh tịnh. Vì thân tâm thanh tịnh nên vượt qua địa vị Thanh-văn và Độc-giác, an trụ địa vị Bồ-tát kiên cố bất động.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển .
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì chẳng xem trọng lợi dưỡng, chẳng màng danh dự; đối với các đồ ăn uống, y phục, đồ nằm, phòng xá, của cải đều chẳng tham nhiễm. Tuy thọ mười hai công đức đầu đà nhưng hoàn toàn không ỷ lại.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì thường tu bố thí Ba-la-mật-đa, tâm xan tham rốt ráo chẳng khởi; thường tu tịnh giới Ba-la-mật-đa, tâm phạm giới rốt ráo chẳng khởi; thường tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, tâm sân giận rốt ráo chẳng khởi; thường tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, tâm giải đãi rốt ráo chẳng khởi; thường tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, tâm tán loạn rốt ráo chẳng khởi; thường tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa; tâm ngu si rốt ráo chẳng khởi. Do đó các tâm ganh ghét, dua nịnh, dối trá, kiêu căn, phóng túng, che khuất, não hại cũng vĩnh viễn chẳng khởi.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì tuệ giác kiên cố, có khả năng ngộ nhập sâu xa, lóng nghe chánh pháp cung kính tín thọ, tùy theo pháp thế và xuất thế đã nghe, đều có khả năng dùng phương tiện hội nhập nghĩa thú Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Các sự nghiệp đã tạo tác trong thế gian cũng do Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà hội nhập pháp tánh, chẳng thấy có một sự việc nào nằm ngoài pháp tánh. Nếu có pháp nào chẳng tương ưng với pháp tánh, thì cũng có khả năng dùng phương tiện hội nhập nghĩa thú Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Do đó, chẳng thấy có pháp nào nằm ngoài pháp tánh.
Này Thiên hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển .
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, thì dù có ác ma hiện ra trước, hoá ra tám đại địa ngục; lại ở trong mỗi đại địa ngục, hóa làm nhiều Bồ-tát, nhiều ngàn Bồ-tát, nhiều trăm ngàn Bồ-tát, nhiều ức Bồ-tát, nhiều trăm ức Bồ-tát, nhiều ngàn ức Bồ-tát, nhiều trăm ngàn ức Bồ-tát, nhiều trăm ngàn ức triệu Bồ-tát, đều bị lửa dữ thiêu đốt xuyên suốt, ai nấy đều chịu nỗi khổ đắng cay chua chát độc hại cùng cực; hóa làm như thế rồi, nói với các Bồ-tát Bất thối chuyển: Đây là các đại Bồ-tát đều được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký Bất thối chuyển, nên sanh vào đại địa ngục như thế, luôn luôn chịu các nỗi khổ kịch liệt như vậy. Các ông là Bồ-tát đã nhận sự thọ ký Bất thối chuyển của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng sẽ đọa vào đại địa ngục này, chịu các nỗi khổ kịch liệt. Phật thọ ký cho các ông chịu nỗi khổ cùng cực trong đại địa ngục, chứ chẳng phải thọ ký quả vị giác ngộ cao tột Bất thối chuyển cho các ông. Cho nên, các ông phải mau xả bỏ tâm đại Bồ-đề mới có thể được thoát khỏi nỗi khổ của đại địa ngục, sanh lên cõi trời, hoặc sanh vào cõi người hưởng thụ sự giàu sang, khoái lạc.
Này Thiện Hiện! Lúc bấy giờ, đại Bồ-tát Bất thối chuyển thấy nghe việc này, tâm họ bất động, cũng chẳng sợ hãi, nghi ngờ, chỉ nghĩ thế này: Đại Bồ-tát được thọ ký Bất thối chuyển mà đọa vào địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, A-tố-lạc, thì chẳng bao giờ có việc ấy. Vì sao? Vì địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển nhất định không có nghiệp bất thiện, cũng không có nghiệp thiện mà rước lấy quả khổ. Như Lai nhất định không nói lời hư dối. Những điều Phật dạy đều vì lợi lạc cho tất cả hữu tình, do tâm đại từ bi mà lưu xuất. Những điều đã thấy nghe nhất định là do ác ma làm ra, nói ra.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, giả sử có ác ma giả dạng Sa-môn đi đến chỗ vị ấy nói như thế này: Trước đây ông đã nghe nên tu bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo viên mãn, nên tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo viên mãn thì sẽ chứng quả vị giác ngộ cao tột; những điều đã nghe như thế đều là tà thuyết, phải mau xả bỏ. Lại, trước đây ông đã nghe nên đối với thiện căn công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử trong quá khứ, vị lai, hiện tại, từ khi mới phát tâm cho đến trụ pháp, đều sanh tùy hỷ, tập trung tất cả cùng với hữu tình hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Những điều đã nghe như thế cũng là tà thuyết, phải mau xả bỏ. Nếu ông xả bỏ tà pháp đã nghe, thì ta sẽ dạy ông Phật pháp chơn thật, khiến ông tu học, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Những điều ông đã nghe trước đây chẳng phải là lời chơn thật của Phật. Văn tụng ấy là loại soạn tập hư vọng. Những điều ta nói mới là lời chơn thật của Phật, thì này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nghe nói như thế, tâm chấn động sợ hãi nghi ngờ thì nên biết vị ấy chưa được chư Phật thọ ký Bất thối chuyển. Vị ấy đối với quả vị giác ngộ cao tột còn chưa quyết định. Này Thiện Hiện! Còn nếu đại Bồ-tát nghe nói như thế mà tâm bất động, cũng chẳng sợ hãi, nghi ngờ, chỉ theo pháp tánh vô tác, vô tướng, vô sanh mà an trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy có làm điều gì cũng chẳng tin lời kẻ khác, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trụ pháp không nội, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trụ chơn như, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn niệm trụ, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trụ Thánh đế khổ, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn tịnh lự, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu tám giải thoát, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp môn giải thoát không, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bậc Cực hỷ, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu năm loại mắt, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu sáu phép thần thông; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp môn Tam-ma-địa, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp môn Đà-la-ni; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu mười lực Phật, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu phép quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi chứng trí quả Dự-lưu, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi chứng trí quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi chứng trí quả vị Độc-giác; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi nhập trí bậc Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà thành thục hữu tình; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà khởi thần thông Bồ-tát; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu trí nhất thiết, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu pháp không quên mất, chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tu tánh luôn luôn xả; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà tự nhiếp thọ tuổi thọ viên mãn; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà chuyển pháp luân; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà hộ trì chánh pháp; chẳng theo sự chỉ bày của kẻ khác mà hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Như A-la-hán lậu tận có làm việc gì chẳng tin lời kẻ khác, hiện chứng pháp tánh không nghi không hoặc, tất cả ác ma chẳng có thể làm lay động. Cũng vậy, đại Bồ-tát Bất thối chuyển, tất cả Thanh-văn, Độc-giác, ngoại đạo, các ác ma v.v… chẳng thể phá hoại, lung lạc tâm họ, làm cho đối với quả vị giác ngộ cao tột sanh thối lui.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy quyết định đã trụ địa vị Bất thối chuyển, có làm việc gì đều tự tư duy, chẳng phải tin vào kẻ khác mà làm; cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có dạy bảo còn chẳng tin làm, huống là tin và làm theo lời của Thanh-văn, Độc-giác, ngoại đạo, ác ma v.v... Việc làm của Bồ-tát ấy nếu chỉ tin vào kẻ khác mà làm thì quyết không có việc đó. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có pháp nào có thể tin tưởng làm theo. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của sắc, chẳng thấy chơn như của thọ, tưởng, hành, thức có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy nhãn xứ, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của nhãn xứ, chẳng thấy chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy sắc xứ, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của sắc xứ, chẳng thấy chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy nhãn giới, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của nhãn giới, chẳng thấy chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy sắc giới, chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của sắc giới, chẳng thấy chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy nhãn thức giới, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của nhãn thức giới, chẳng thấy chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy nhãn xúc, chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của nhãn xúc, chẳng thấy chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thấy chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của địa giới, chẳng thấy chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của vô minh, chẳng thấy chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thấy chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy pháp không nội, chẳng thấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của pháp không nội, chẳng thấy chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy chơn như, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của chơn như, chẳng thấy chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy bốn niệm trụ, chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của bốn niệm trụ, chẳng thấy chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy Thánh đế khổ, chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của Thánh đế khổ, chẳng thấy chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy bốn tịnh lự, chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của bốn tịnh lự, chẳng thấy chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy tám giải thoát, chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể tin tưởng, làm theo. Cũng chẳng thấy chơn như của tám giải thoát, chẳng thấy chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy pháp môn giải thoát không, chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của pháp môn giải thoát không, chẳng thấy chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy năm loại mắt, chẳng thấy sáu phép thần thông có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của năm loại mắt, chẳng thấy chơn như của sáu phép thần thông có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thấy pháp môn Đà-la-ni có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thấy chơn như của pháp môn Đà-la-ni có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy mười lực Phật, chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của mười lực Phật, chẳng thấy chơn như của bốn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy quả Dự-lưu, chẳng thấy quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của quả Dự-lưu, chẳng thấy chơn như của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy quả vị Độc-giác có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của quả vị Độc-giác có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy trí nhất thiết, chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của trí nhất thiết, chẳng thấy chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy địa vị phàm phu, chẳng thấy địa vị Thanh-văn, địa vị Độc-giác, địa vị Bồ-tát, địa vị Như Lai có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của địa vị phàm phu, chẳng thấy chơn như của địa vị Thanh-văn, địa vị Độc-giác, địa vị Bồ-tát, địa vị Như Lai có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể tin tưởng, làm theo; cũng chẳng thấy chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể tin tưởng, làm theo.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, giả sử có ác ma giả dạng Bí-sô, đến chỗ vị ấy nói như thế này: Pháp của các ông tu hành là pháp sanh tử, chẳng phải do pháp này mà đạt được trí nhất thiết trí. Nay các ông nên tu đạo hết khổ, mau hết các khổ, chứng nhập Niết-bàn. Khi ấy, ác ma liền nói cho Bồ-tát nghe pháp tương tợ đạo, đọa sanh tử, đó là quán tưởng xương, hoặc quán tưởng xanh bầm, hoặc quán tưởng mủ vỡ ra, hoặc quán tưởng sình chướng, hoặc quán tưởng trùng ăn, hoặc quán tưởng chuyển thành màu đỏ; hoặc từ, hoặc bi, hoặc hỷ, hoặc xả; hoặc sơ thiền, hoặc cho đến đệ tứ thiền; hoặc Không vô biên xứ hoặc cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Rồi bảo Bồ-tát: Đây là chơn đạo, chơn hạnh. Ông tu đạo này, hạnh này sẽ đắc quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác. Ông do đạo này, do hạnh này mau hết tất cả sanh, lão, bệnh, tử chứ chịu khổ sanh tử lâu làm gì; thân khổ hiện tại còn nên nhàm chán vứt bỏ, huống là cầu thân khổ ở tương lai! Nên tự suy nghĩ kỹ, bỏ sự tin tưởng trước kia đi, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi nghe lời đó, tâm họ bất động, cũng chẳng sợ hãi, nghi ngờ, chỉ nghĩ thế này: Nay Bí-sô này làm lợi ích cho ta chẳng nhỏ, có thể vì ta mà nói đạo pháp tương tợ, khiến ta biết đạo này chẳng thể chứng quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác, huống là có thể chứng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Đại Bồ-tát ấy nghĩ như thế rồi, phát sanh hoan hỷ sâu sắc, lại nghĩ tiếp: Nay Bí-sô này rất ích lợi cho ta, vì ta mà phương tiện nói pháp trở ngại, khiến ta biết rõ pháp trở ngại rồi, đối với đạo ba thừa, tự tại tu học.
Này Thiện Hiện! Bấy giờ, ác ma biết Bồ-tát ấy, tâm rất vui mừng, lại nói thế này: Này thiện nam tử! Ngươi có muốn thấy các đại Bồ-tát, trải qua thời gian lâu xa, siêng năng tu hành hạnh vô ích chăng? Đó là chúng đại Bồ-tát trải qua hằng hà sa số đại kiếp dùng vô lượng các thứ y phục, đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang, của cải, hương hoa v.v… thượng diệu để cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn.
Lại ở chỗ Hằng hà sa chư Phật tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng ở chỗ Hằng hà sa chư Phật học an trụ pháp không nội, học an trụ pháp không ngoại, nội pháp không ngoại, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng ở chỗ Hằng hà sa chư Phật học an trụ chơn như, học an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu bốn niệm trụ, tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật học an trụ Thánh đế khổ, học an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu bốn tịnh lự, tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu tám giải thoát, tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu pháp môn giải thoát không, tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu bậc Cực hỷ, tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu năm loại mắt, tu sáu phép thần thông; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu pháp môn Tam-ma-địa, tu pháp môn Đà-la-ni; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu mười lực Phật, tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu pháp không quên mất, tu tánh luôn luôn xả; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu các thần thông thù thắng của Bồ-tát; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu tuổi thọ viên mãn, học chuyển pháp luân, hộ trì chánh pháp; cũng ở chỗ hằng hà sa chư Phật tu trí nhất thiết, tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Các chúng đại Bồ-tát ấy cũng gần gũi phụng sự Hằng hà sa chư Phật, ở chỗ chư Phật thỉnh vấn đạo đại Bồ-tát, nghĩa là nói như thế này: Đại Bồ-tát an trụ Đại-thừa như thế nào? Đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào? Đại Bồ-tát học an trụ pháp không nội, học an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào? Đại Bồ-tát học an trụ chơn như, học an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì như thế nào? Đại Bồ-tát tu bốn niệm trụ, tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo như thế nào? Đại Bồ-tát học an trụ Thánh đế khổ, học an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? Đại Bồ-tát tu bốn tịnh lự, tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào? Đại Bồ-tát tu tám giải thoát, tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào? Đại Bồ-tát tu pháp môn giải thoát không, tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào? Đại Bồ-tát tu bậc Cực hỷ, tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân như thế nào? Đại Bồ-tát tu năm loại mắt, tu sáu phép thần thông như thế nào? Đại Bồ-tát tu pháp môn Tam-ma-địa, tu pháp môn Đà-la-ni như thế nào? Đại Bồ-tát tu mười lực Phật, tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng? Đại Bồ-tát tu pháp không quên mất, tu tánh luôn luôn xả như thế nào? Đại Bồ-tát tu phép quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch như thế nào? Đại Bồ-tát nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình như thế nào? Đại Bồ-tát tu các thần thông thù thắng của Bồ-tát như thế nào? Đại Bồ-tát tu tuổi thọ viên mãn như thế nào? Đại Bồ-tát học chuyển đại pháp luân như thế nào? Đại Bồ-tát hộ trì chánh pháp khiến được tồn tại lâu dài như thế nào? Đại Bồ-tát tu trí nhất thiết, tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào?
Thỉnh vấn Hằng hà sa chư Phật Thế Tôn như thế, chư Phật vì họ lần lượt giảng thuyết. Các chúng đại Bồ-tát ấy theo lời Phật dạy, an trụ tu học, trải qua vô lượng kiếp nổ lực tinh tấn, còn chẳng thể chứng đắc trí nhất thiết trí, huống là sở tu sở học của các ông ngày nay mà có thể chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột!
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tuy nghe nói như vậy nhưng tâm không đổi khác, chẳng kinh, chẳng sợ, không nghi, không hoặc, lại càng hoan hỷ, nghĩ thế này: Nay Bí-sô này đem đến cho ta nhiều lợi ích, vì ta mà phương tiện nói pháp chướng đạo, khiến ta biết pháp chướng đạo này, quyết định chẳng có thể chứng đắc quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác, huống là có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Khi ấy ác ma kia biết tâm đại Bồ-tát ấy chẳng thối lui, không sợ hãi, không nghi hoặc, liền ngay nơi ấy hoá làm vô lượng hình tượng Bí-sô, nói với Bồ-tát: Những Bí-sô này đều ở đời quá khứ mong cầu quả vị giác ngộ cao tột, trải qua vô lượng kiếp, tu hành các hạnh khổ hạnh khó làm mà chẳng có thể chứng đắc, nay đều thối lui trụ quả vị A-la-hán, các lậu đã hết, qua khỏi biển khổ, thì làm sao mà các vị có thể chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thấy nghe như vậy rồi, liền nghĩ như thế này: Nhất định là ác ma hoá làm hình tượng Bí-sô như thế để nhiễu loạn tâm ta, nhân đó nói pháp tương tợ chướng đạo chứ không có đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cho đến địa vị viên mãn, mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, còn thối lui rơi vào địa vị Thanh-văn hoặc địa vị Độc-giác!
Lúc bấy giờ, Bồ-tát lại nghĩ thế này: Nếu đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đến chỗ viên mãn mà chẳng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chắc chắn không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát học an trụ pháp không nội, học an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát học an trụ chơn như, học an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu bốn niệm trụ, tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát học an trụ Thánh đế khổ, học an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu bốn tịnh lự, tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu tám giải thoát, tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu pháp môn giải thoát không, tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu bậc Cực hỷ, tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu năm loại mắt, tu sáu phép thần thông đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu pháp môn Tam-ma-địa, tu pháp môn Đà-la-ni đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu mười lực Phật, tu bốn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu pháp không quên mất, tu tánh luôn luôn xả đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu phép quán mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu các thần thông thù thắng của Bồ-tát đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu tuổi thọ viên mãn đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát học chuyển pháp luân, hộ trì chánh pháp đến chỗ viên mãn mà chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát tu trí nhất thiết, tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đến chỗ viên mãn mà chẳng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì quyết không có việc đó.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thường hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì luôn nghĩ thế này: Nếu đại Bồ-tát theo lời Phật dạy, tinh cần tu học, thì thường chẳng xa lìa diệu hạnh đã nhiếp thọ là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; thường chẳng xa lìa tác ý tương ứng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; thường chẳng xa lìa tác ý tương ứng với trí nhất thiết trí; thường dùng phương tiện khuyên các hữu tình tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát ấy quyết định chẳng từ bỏ bố thí Ba-la-mật-đa, quyết định chẳng từ bỏ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; quyết định chẳng từ bỏ pháp không nội, quyết định chẳng từ bỏ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; quyết định chẳng từ bỏ chơn như, quyết định chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; quyết định chẳng từ bỏ bốn niệm trụ, quyết định chẳng từ bỏ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; quyết định chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, quyết định chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo; quyết định chẳng từ bỏ bốn tịnh lự, quyết định chẳng từ bỏ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; quyết định chẳng từ bỏ giải thoát; quyết định chẳng từ bỏ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; quyết định chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát không, quyết định chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; quyết định chẳng từ bỏ bậc Cực hỷ, quyết định chẳng từ bỏ bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; quyết định chẳng từ bỏ năm loại mắt, quyết định chẳng từ bỏ sáu phép thần thông; quyết định chẳng từ bỏ pháp môn Tam-ma-địa, quyết định chẳng từ bỏ pháp môn Đà-la-ni; quyết định chẳng từ bỏ mười lực Phật, quyết định chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; quyết định chẳng từ bỏ pháp không quên mất, quyết định chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả; quyết định chẳng từ bỏ trí nhất thiết, quyết định chẳng từ bỏ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; quyết định chẳng từ bỏ quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thường hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì luôn luôn nghĩ thế này: Nếu đại Bồ-tát hiểu biết việc ma, thì chẳng theo việc ma; hiểu biết bạn ác, thì chẳng nghe lời bạn ác; hiểu biết cảnh giới, thì chẳng chuyển theo cảnh giới; đại Bồ-tát ấy quyết định chẳng từ bỏ bố thí Ba-la-mật-đa, quyết định chẳng từ bỏ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; quyết định chẳng từ bỏ pháp không nội, quyết định chẳng từ bỏ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; quyết định chẳng từ bỏ chơn như, quyết định chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; quyết định chẳng từ bỏ bốn niệm trụ, quyết định chẳng từ bỏ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; quyết định chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, quyết định chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo; quyết định chẳng từ bỏ bốn tịnh lự, quyết định chẳng từ bỏ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; quyết định chẳng từ bỏ tám giải thoát, quyết định chẳng từ bỏ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; quyết định chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát không, quyết định chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; quyết định chẳng từ bỏ bậc Cực hỷ, quyết định chẳng từ bỏ bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; quyết định chẳng từ bỏ năm loại mắt, quyết định chẳng từ bỏ sáu phép thần thông; quyết định chẳng từ bỏ pháp môn Tam-ma-địa, quyết định chẳng từ bỏ pháp môn Đà-la-ni; quyết định chẳng từ bỏ mười lực Phật, quyết định chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; quyết định chẳng từ bỏ pháp không quên mất, quyết định chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả; quyết định chẳng từ bỏ trí nhất thiết, quyết định chẳng từ bỏ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; quyết định chẳng từ bỏ quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển khi nghe pháp yếu mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nói, thì thâm tâm hoan hỷ, cung kính tín thọ, khéo hiểu nghĩa thú; tâm họ kiên cố, giống như kim cương chẳng thể lay chuyển, chẳng thể lung lạc, thường siêng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng khuyên các hữu tình tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, thì đối với cái gì thối chuyển mà gọi là Bất thối chuyển?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng sắc thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng thọ, tưởng, hành, thức thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nhãn xứ thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng sắc xứ thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nhãn giới thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng sắc giới thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nhãn thức giới thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng nhãn xúc thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng địa giới thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng thủy, hỏa, phong, không, thức giới thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng vô minh thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng tham thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; đối với tưởng sân, tưởng si, các tưởng ác kiến thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Quyển Thứ 326
HẾT
XXXXX. PHẨM PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
03
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng bố thí Ba-la-mật-đa thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng pháp không nội thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng chơn như thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng bốn niệm trụ thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng Thánh đế khổ thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng Thánh đế tập, diệt, đạo thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng bốn tịnh lự thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng bốn vô lượng, bốn định vô sắc thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng tám giải thoát thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng pháp môn giải thoát không thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng bậc Cực hỷ thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng năm loại mắt thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng sáu phép thần thông thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng pháp môn Tam-ma-địa thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng pháp môn Đà-la-ni thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng mười lực Phật thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng pháp không quên mất thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng tánh luôn luôn xả thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng quả Dự-lưu thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng quả vị Độc-giác thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng trí nhất thiết thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì đối với tưởng phàm phu thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; vì đối với tưởng Thanh-văn, tưởng Độc-giác, tưởng Bồ-tát, tưởng Như Lai thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy dùng tư tưởng không, quán tất cả pháp, đã nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát cho đến chẳng thấy một pháp nhỏ nào có thể nắm bắt được, vì chẳng thể nắm bắt được, nên không có sự tạo tác, vì không có sự tạo tác, nên rốt ráo chẳng sanh, vì rốt ráo chẳng sanh, nên gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Do chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn như thế, nên gọi là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, giả sử có ác ma đi đến chỗ vị ấy, vì để làm não hại nên nói Bồ-tát: Quả vị giác ngộ cao tột cùng với hư không như nhau, tự tướng, tự tánh đều rốt ráo không, hoàn toàn không sở hữu; tự tánh, tự tướng của các pháp cũng vậy, cùng với hư không như nhau; trong cái không rốt ráo của tự tánh, tự tướng, không có một pháp nào có thể gọi là năng chứng, không có một pháp nào có thể gọi là sở chứng, chỗ chứng, khi chứng và do pháp này chứng, cũng chẳng thể nắm bắt được. Tánh, tướng của tất cả pháp đều đã là không, cùng với hư không như nhau, thì tại sao các ngươi chịu sự cần khổ vô ích để cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột? Trước đây các ngươi đã nghe các chúng Bồ-tát nên chứng quả vị giác ngộ cao tột thì đó đều là ma thuyết, chẳng phải là lời nói chơn thật của Phật. Các ngươi nên bỏ nguyện đại Bồ-đề, chớ vì tất cả hữu tình mà chịu sự cần khổ dài lâu vì sự lợi ích giả dối; tuy hành các hạnh khổ hạnh, khó làm, muốn cầu giác ngộ nhưng chẳng bao giờ đạt được thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi nghe lời nói đó, liền quán sát kỹ việc của ác ma này là muốn cản trở phá hoại tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột của ta. Ta nay chẳng nên tin theo lời chúng. Tuy tất cả pháp cùng với hư không như nhau, tự tánh, tự tướng đều rốt ráo không, nhưng các hữu tình ở trong đêm dài sanh tử chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, chẳng tỉnh, điên đảo, phóng dật, chịu các khổ kịch liệt. Ta nên mang áo giáp đại công đức tánh tướng đều không như hư không rộng lớn, mau hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình thuyết pháp thích ứng, khiến họ giải thoát đại khổ sanh tử, đắc quả Dự-lưu, đắc quả Nhất-lai, đắc quả Bất-hoàn, đắc quả A-la-hán, đắc quả vị Độc-giác, hoặc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ khi mới phát tâm đã nghe pháp này, tâm họ kiên cố chẳng động, chẳng chuyển. Nương vào tâm kiên cố chẳng chuyển động này, luôn luôn chơn chánh tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Do tùy phần thành tựu sáu pháp này, nên đã nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Lại càng tu hành chơn chánh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Do đó được vào địa vị Bất thối chuyển. Vì vậy, tuy ác ma bày ra đủ các phương tiện dối gạt, nhưng chẳng có thể làm thối tâm đại Bồ-đề đã phát của Bồ-tát.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy có phải vì bất thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; hay là vì thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì bất thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; cũng vì thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát ấy vì bất thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển; tại sao cũng vì thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển?
Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy vượt qua địa vị Thanh-văn và Độc-giác, chẳng rơi lại vào hai địa vị ấy. Do đó nên nói vì bất thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển. Đại Bồ-tát ấy xa lìa địa vị Thanh-văn và Độc-giác, đối với hai địa vị ấy quyết định chẳng rơi lại. Do đó nên nói vì thối chuyển, nên gọi là Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển muốn nhập sơ thiền thì liền tùy ý nhập, muốn nhập đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền cũng tùy ý nhập; muốn nhập từ vô lượng liền tùy ý nhập, muốn nhập bi, hỷ, xả vô lượng cũng tùy ý nhập; muốn nhập định Không vô biên xứ liền tùy ý nhập, muốn nhập định Thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng tùy ý nhập; muốn khởi bốn niệm trụ liền tùy ý khởi, muốn khởi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng tùy ý khởi; muốn khởi sơ giải thoát liền tùy ý khởi, muốn khởi đệ nhị giải thoát cho đến đệ bát giải thoát cũng tùy ý khởi; muốn khởi sơ thắng xứ liền tùy ý khởi, muốn khởi đệ nhị thắng xứ cho đến đệ bát thắng xứ cũng tùy ý khởi; muốn nhập định sơ thiền liền tùy ý nhập, muốn nhập định đệ nhị thiền cho đến định diệt thọ tưởng cũng tùy ý nhập; muốn khởi sơ biến xứ liền tùy ý khởi, muốn khởi đệ nhị biến xứ cho đến đệ thập biến xứ cũng tùy ý khởi; muốn khởi pháp môn giải thoát không liền tùy ý khởi, muốn khởi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng tùy ý khởi; muốn biểu hiện năm phép thần thông liền tùy ý biểu hiện.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tuy nhập sơ thiền mà chẳng thọ quả sơ thiền; tuy nhập đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền mà chẳng thọ quả đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền; tuy nhập từ vô lượng mà chẳng thọ quả từ vô lượng, tuy nhập bi, hỷ, xả vô lượng mà chẳng thọ quả bi, hỷ, xả vô lượng; tuy nhập định Không vô biên xứ mà chẳng thọ quả định không vô biên xứ; tuy nhập định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà chẳng thọ quả định thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ; tuy khởi bốn niệm trụ mà chẳng thọ quả bốn niệm trụ, tuy khởi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà chẳng thọ quả bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; tuy khởi sơ giải thoát mà chẳng thọ quả sơ giải thoát, tuy khởi đệ nhị giải thoát cho đến đệ bát giải thoát mà chẳng thọ quả đệ nhị giải thoát cho đến quả đệ bát giải thoát; tuy khởi sơ thắng xứ mà chẳng thọ quả sơ thắng xứ, tuy khởi đệ nhị thắng xứ cho đến đệ bát thắng xứ mà chẳng thọ quả đệ nhị thắng xứ cho đến quả đệ bát thắng xứ; tuy nhập định sơ thiền mà chẳng thọ quả định sơ thiền, tuy nhập định đệ nhị thiền cho đến định diệt thọ tưởng mà chẳng thọ quả định đệ nhị thiền cho đến quả định diệt thọ tưởng; tuy khởi sơ biến xứ mà chẳng thọ quả sơ biến xứ, tuy khởi đệ nhị biến xứ cho đến đệ thập biến xứ mà chẳng thọ quả đệ nhị biến xứ cho đến quả đệ thập biến xứ; tuy khởi pháp môn giải thoát không mà chẳng thọ quả pháp môn giải thoát không; tuy khởi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà chẳng thọ quả pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; tuy biểu hiện năm phép thần thông mà chẳng thọ quả năm phép thần thông.
Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, đại Bồ-tát ấy chẳng theo tịnh lự vô lượng v.v… cho đến các thế lực công đức khác mà sanh, cũng chẳng chứng quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên tùy theo ý muốn tiếp nhận mà thọ thân thích ứng, tức là tùy sở nguyện của hữu tình đều có thể tiếp nhận.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thành tựu tác ý Bồ-đề Vô thượng, thì thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ-đề, chẳng quý trọng sắc, chẳng quý trọng thọ, tưởng, hành, thức; chẳng quý trọng nhãn xứ, chẳng quý trọng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng quý trọng sắc xứ, chẳng quý trọng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng quý trọng nhãn giới, chẳng quí trọng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng quý trọng sắc giới, chẳng quý trọng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng quý trọng nhãn thức giới, chẳng quý trọng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng quý trọng nhãn xúc, chẳng quý trọng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng quý trọng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng quý trọng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng quý trọng địa giới, chẳng quý trọng thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng quý trọng duyên tánh, duyên khởi; chẳng quý trọng các tướng tốt phụ thuộc; chẳng quý trọng pháp hữu sắc, vô sắc; chẳng quý trọng pháp hữu kiến, vô kiến; chẳng quý trọng pháp hữu đối, vô đối; chẳng quý trọng pháp hữu lậu, vô lậu; chẳng quý trọng pháp hữu vi, vô vi; chẳng quý trọng pháp thế gian, xuất thế gian; chẳng quý trọng ngã; chẳng quý trọng hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy; chẳng quý trọng đồ chúng, chẳng quý trọng quyến thuộc; chẳng quý trọng bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng quý trọng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng quý trọng mười thiện nghiệp đạo; chẳng quý trọng bốn tịnh lự, chẳng quý trọng bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng quý trọng năm thần thông; chẳng quý trọng bốn niệm trụ, chẳng quý trọng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng quý trọng tám giải thoát, chẳng quý trọng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng quý trọng pháp môn giải thoát không, chẳng quý trọng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng quý trọng Thánh đế khổ, chẳng quý trọng Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng quý trọng pháp không nội, chẳng quý trọng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng quý trọng chơn như, chẳng quý trọng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng quý trọng bậc Cực hỷ, chẳng quý trọng bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chẳng quý trọng năm loại mắt, chẳng quý trọng sáu phép thần thông; chẳng quý trọng mười lực Phật, chẳng quý trọng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng quý trọng pháp không quên mất, chẳng quý trọng tánh luôn luôn xả; chẳng quý trọng Thanh-văn, chẳng quý trọng Độc-giác, chẳng quý trọng Bồ-tát, chẳng quý trọng Như Lai; chẳng quý trọng quả Dự-lưu, chẳng quý trọng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chẳng quý trọng quả vị Độc-giác; chẳng quý trọng trí nhất thiết, chẳng quý trọng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng quý trọng quả vị giác ngộ cao tột; chẳng quý trọng việc nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng quý trọng việc thành thục hữu tình; chẳng quý trọng việc thấy nhiều chư Phật, chẳng quý trọng việc trồng các căn lành. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy đạt tất cả pháp ngang bằng hư không, tự tánh, tự tướng đều rốt ráo không, hoàn toàn không sở hữu, chẳng thấy có một pháp nào có thể sanh quý trọng; năng sanh, sở sanh, lúc sanh, chỗ sanh, do vậy nên sanh đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp ấy cùng với hư không như nhau, tánh tướng đều không, vì nghĩa vô sanh vậy.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thành tựu tác ý Bồ-đề Vô thượng, thường chẳng xa lìa tâm Đại Bồ-đề, thân đủ bốn oai nghi, đi, đến, vào, ra, cất bước, hạ bước tâm không tán loạn, đi đứng ngồi nằm, đến dừng đều giữ oai nghi, làm việc gì đều an trụ chánh niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì vì muốn làm lợi ích các hữu tình mà phương tiện thiện xảo hiện ở tại gia; tuy hiện hưởng thụ năm dục, nhạc cụ, mà đối với chúng, chẳng sanh nhiễm trước, đều vì cứu giúp các loài hữu tình, các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cho áo, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần thuốc men cho thuốc men, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần của cải cho của cải, tùy theo nhu cầu của hữu tình mà cho, làm cho ý nguyện của họ đều thỏa mãn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tự hành bố thí Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành bố thí Ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành bố thí Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành bố thí Ba-la-mật-đa; tự hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành tịnh giới Ba-la-mật-đa; tự hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành an nhẫn Ba-la-mật-đa; tự hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành tinh tấn Ba-la-mật-đa; tự hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành tịnh lự Ba-la-mật-đa; tự hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng khuyên người khác hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, luôn luôn ưa thích tuyên dương pháp hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoan hỷ khen ngợi người hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy hiện ở tại gia, dùng sức thần thông, hoặc sức đại nguyện thâu nạp của báu cả châu Thiệm bộ, đem cúng dường ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí các loài hữu tình nghèo thiếu; dùng sức thần thông hoặc sức đại nguyện thâu nạp của báu cả bốn đại châu, đem cúng dường ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu; dùng sức thần thông hoặc sức đại nguyện thâu nạp của báu cả thế giới Tiểu thiên, đem cúng dường ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu; dùng sức thần thông hoặc sức đại nguyện thâu nạp của báu cả thế giới Trung thiên, đem cúng dường ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu; dùng sức thần thông hoặc sức đại nguyện thâu nạp của báu cả thế giới Tam thiên đại thiên, đem cúng dường ngôi báu Phật, Pháp, Tăng và bố thí cho các loài hữu tình nghèo thiếu.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tuy hiện ở tại gia mà thường tu phạm hạnh, chẳng bao giờ thọ dụng các cảnh diệu dục; tuy hiện thâu nạp các loại của báu mà đối với chúng, chẳng khởi tham đắm, và khi thâu nạp dụng cụ dục lạc và của báu, chẳng bao giờ bức bách các loài hữu tình, làm cho họ sanh buồn khổ.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì có thần chủ Dược-xoa cầm chày kim cương thường theo hai bên ngầm bảo vệ, thường nghĩ thế này: Đại Bồ-tát này, chẳng bao lâu sẽ chứng quả vị giác ngộ cao tột. Ta nguyện luôn luôn đi theo ngầm bảo vệ cho đến khi vị ấy đắc quả vị giác ngộ cao tột. Năm chúng thần chấp Kim cang, Dược-xoa cũng theo bảo vệ, không khi nào tạm rời, làm cho nhơn phi nhơn v.v… đều chẳng thể làm tổn hại được. Các thiên, ma, phạm và các thế lực khác của thế gian cũng không có khả năng dùng pháp để phá hoại tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột đã phát. Do nhân duyên này, đại Bồ-tát ấy, cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, thân ý thái nhiên, thường không bị nhiễu loạn.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì năm căn thế gian thường không khiếm khuyết, đó là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, năm căn xuất thế gian cũng không khiếm khuyết, đó là tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy toàn thân viên mãn, tướng hảo trang nghiêm, các công đức của tâm, niệm niệm tăng trưởng cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì luôn luôn làm người hướng thượng mà không làm kẻ hướng hạ.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tại sao nói đại Bồ-tát này luôn luôn làm người hướng thượng mà chẳng bao làm kẻ hướng hạ?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy, tất cả phiền não, chẳng hiện khởi lại nữa, công đức tăng trưởng từng sát na, cho đến khi đắc quả vị giác ngộ cao tột, trong tất cả thời, tâm không tán loạn, cho nên ta nói đại Bồ-tát này luôn luôn làm người hướng thượng mà chẳng làm kẻ hướng hạ.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì thành tựu tác ý Bồ-đề Vô thượng, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ-đề; vì sinh sống thanh tịnh nên chẳng hành các việc tà mạng như chú thuật, thuốc thang, bói toán; chẳng vì danh lợi chú nguyện các quỷ thần khiến nhập vào nam nữ để hỏi việc kiết hung, cũng chẳng chú nguyện ngăn cản các loài quỉ, bàng sanh lớn nhỏ, đực cái, biểu hiện việc hy hữu; cũng chẳng xem tướng để biết tuổi thọ dài ngắn, của cải, địa vị, các việc lành dữ của nam nữ; cũng chẳng đoán trước việc lạnh nóng, được mùa, mất mùa, lành dữ, tốt xấu làm mê loạn hữu tình; cũng chẳng dùng chú thuật để pha chế thuốc thang trị bệnh theo tà đạo, giao du với người quyền quý, ngắm nhìn nam nữ vui cười trò chuyện còn chẳng nhiễm tâm, huống là các việc khác. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy biết tự tướng của tất cả pháp đều là không, vì trong cái tự tướng không chẳng thấy có tướng, chẳng thấy tướng; xa lìa tất cả các loại tà mạng như chú thuật, thuốc thang, xem tướng, chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột, rốt ráo lợi lạc cho các loại hữu tình.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì đối với văn chương, kỹ nghệ thế gian, tuy được thiện xảo nhưng chẳng mê đắm. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy đạt tất cả pháp đều rốt ráo không; trong cái rốt ráo không, văn chương, kỹ nghệ của thế gian đều chẳng thể nắm bắt được. Lại các thứ văn chương, kỹ nghệ thế gian đều là ngôn ngữ hỗn tạp thuộc về tà mạng, vì vậy Bồ-tát biết mà chẳng làm.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đối với các sách vở luận thuyết của ngoại đạo thế tục, tuy biết rành nhưng chẳng ưa sáng tác. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy hiểu rõ tánh tướng của tất cả pháp đều không; ở trong cái không này, tất cả sách vở luận thuyết đều chẳng thể nắm bắt được. Lại các lý sự đã nói trong sách vở luận thuyết của ngoại đạo thế tục, phần nhiều có sự thêm bớt, đối với đạo Bồ-tát chẳng phải là loại nên theo, chúng đều là hý luận, thuộc về loại ngôn ngữ hỗn tạp, vì vậy cho nên Bồ-tát biết mà chẳng ưa thích.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển lại có các hành, trạng, tướng khác. Ta sẽ vì ngươi mà giải thuyết phân biệt. Ngươi nên lắng nghe, phải tư duy kỹ lưỡng.
Thiện Hiện bạch: Dạ! Xin Thế Tôn chỉ dạy! Chúng con sẽ lắng lòng nghe.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì thông đạt các pháp đều không sở hữu, thường chẳng xa lìa tâm đại Bồ-đề, chẳng ưa quán sát bàn luận sắc uẩn, chẳng ưa quán sát bàn luận thọ, tưởng, hành, thức uẩn; chẳng ưa quán sát bàn luận nhãn xứ, chẳng ưa quán sát bàn luận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng ưa quán sát bàn luận sắc xứ, chẳng ưa quán sát bàn luận thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng ưa quán sát bàn luận nhãn giới, chẳng ưa quán sát bàn luận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng ưa quán sát bàn luận sắc giới, chẳng ưa quán sát bàn luận thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng ưa quán sát bàn luận nhãn thức giới, chẳng ưa quán sát bàn luận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng ưa quán sát bàn luận nhãn xúc, chẳng ưa quán sát bàn luận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng ưa quán sát bàn luận các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng ưa quán sát bàn luận các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng ưa quán sát bàn luận địa giới, chẳng ưa quán sát bàn luận thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng ưa quán sát bàn luận vô minh, chẳng ưa quán sát bàn luận hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy đối với lý rốt ráo không của uẩn, xứ, giới, duyên tánh, duyên khởi, đã khéo tư duy, khéo thông đạt.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận việc vua. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy khéo an trụ pháp không, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng hơn, kém, sang, hèn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận việc giặc cướp. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy an trụ tự tướng không, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng được, mất, cho, đoạt.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận việc quân. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy an trụ bản tánh không, chẳng thấy có tướng nhiều, ít, tụ tán của các pháp.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận việc tranh cãi. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy khéo an trụ chơn như, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng cương, nhu, thương, giận.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận nam nữ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy an trụ trong cái không của các pháp, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng tốt, xấu, thương, ghét.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận xóm làng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy an trụ thật tánh của pháp, chẳng thấy một pháp nhỏ nào có tướng tăng, giảm, tụ, tán.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận thành ấp. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy an trụ cảnh giới hư không, chẳng thấy các pháp có tướng hơn, thua, tốt, xấu.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận đất nước. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy an trụ thật tế, chẳng thấy các pháp có tướng thuộc hay chẳng thuộc nơi này, nơi kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận các tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy an trụ vô tướng, chẳng thấy các pháp có tướng tăng, giảm, sai biệt.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy an trụ pháp rốt ráo không, hoàn toàn chẳng thấy ngã cho đến cái thấy có tướng có, không, sai biệt.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng ưa quán sát bàn luận các việc thế gian như thế, chỉ ưa quán sát bàn luận Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, xa lìa các tướng, có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa lìa việc xan tham; tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa lìa việc phá giới; tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa lìa việc tức giận tranh cải; tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa lìa việc giải đãi; tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa lìa việc tán loạn; tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa lìa việc ngu si.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tuy an trụ pháp không của tất cả pháp, nhưng ưa thích chánh pháp, chẳng ưa phi pháp; tuy an trụ pháp không chẳng thể nắm bắt được, nhưng thường khen ngợi pháp tánh bất hoại làm lợi ích hữu tình; tuy an trụ chơn như, pháp giới nhưng ưa thích thiện hữu, chẳng ưa ác hữu. Thiện hữu ở đây là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ-tát, hoặc các thừa Thanh-văn, Độc-giác v.v.. có khả năng giáo hóa, an lập hữu tình, khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, cũng gọi là thiện hữu.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì muốn nghe pháp nên thường ưa gặp Phật. Nếu nghe Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở thế giới khác đang thuyết chánh pháp, thì liền dùng nguyện lực sanh về cõi ấy, cung kính, cúng dường, nghe thọ chánh pháp.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy hoặc ngày, hoặc đêm, thường chẳng xa lìa tác ý niệm Phật, thường chẳng xa lìa tác ý nghe pháp. Do nhân duyên này, tùy theo các quốc độ có chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết chánh pháp, liền nương nguyện lực đến đó thọ sanh, hoặc nương thần thông mà đến nghe pháp. Do nhân duyên ấy, các Bồ-tát này thọ sanh các cõi thường được gặp Phật, luôn luôn nghe chánh pháp không hề gián đoạn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường vì lợi lạc các hữu tình, nên tuy thường hiện khởi các định sâu sắc của thiền vô sắc, nhưng dùng phương tiện thiện xảo khởi tâm Dục giới, dạy cho các hữu tình mười thiện nghiệp đạo; cũng theo nguyện lực hiện sanh Dục giới có Phật.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì thường tu bố thí Ba-la-mật-đa, thường tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường an trụ pháp không nội, thường an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường an trụ chơn như, thường an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường tu bốn niệm trụ, thường tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường an trụ Thánh đế khổ, thường an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường tu bốn tịnh lự, thường tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường tu tám giải thoát, thường tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường tu pháp môn giải thoát không, thường tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường tu năm loại mắt, thường tu sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường tu pháp môn Tam-ma-địa, thường tu pháp môn Đà-la-ni.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường tu mười lực Phật, thường tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường tu trí nhất thiết, thường tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thường đối với địa vị của mình chẳng khởi nghi hoặc, chẳng nghĩ thế này: Ta là Bất thối chuyển, ta chẳng phải là Bất thối chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có pháp nhỏ nào có thể đối với quả vị giác ngộ cao tột nói có thối chuyển, cũng chẳng thấy có pháp nhỏ nào có thể đối với quả vị giác ngộ cao tột nói không thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đối với pháp ở địa vị mình không nghi, không hoặc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy đối với pháp ở địa vị mình đã khéo hiểu rõ, đã khéo thông đạt.
Này Thiện Hiện! Như Dự-lưu thì an trụ quả Dự-lưu; đối với pháp quả của mình không nghi, không hoặc; Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác đều an an trụ quả chứng của mình, đối với pháp quả chứng của mình cũng không nghi, không hoặc. Đại Bồ-tát ấy cũng giống như thế, đối với địa vị Bất thối chuyển mà mình an trụ và các pháp đã thâu nhiếp hiện biết, hiện thấy, không nghi, không hoặc.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển ấy, an trụ trong địa vị này, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu các công đức, nếu có ma sự khởi thì biết ngay, không bị chuyển theo thế lực của ma sự, có khả năng khéo dẹp trừ các loại ma sự, khiến cho công đức tu hành không bị chướng ngại.
Này Thiện Hiện! Thí như người tạo tác nghiệp vô gián, tâm vô gián kia luôn luôn đeo đuổi, cho đến lúc mạng chung cũng không thể bỏ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì kẻ ấy có thể cùng khởi sự trói buộc của nghiệp vô gián, thế lực càng tăng trưởng, luôn luôn chuyển theo, cho đến lúc mạng chung cũng chẳng có thể chế phục, dù có tâm khác cũng chẳng có thể ngăn cản được.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển ấy cũng giống như thế, an trụ ở địa vị của mình, tâm vị ấy không động, không có sự phân biệt. Thiên, nhơn, A-tố-lạc ở thế gian đều chẳng có thể lay chuyển được. Vì sao? Vì tâm đại Bồ-tát ấy kiên cố vượt qua các thiên, nhơn, ma, phạm, A-tố-lạc v.v… trong thế gian, đã nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, an trụ địa vị Bất thối chuyển, đã đắc thần thông của Bồ-tát Văn Thù, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, lắng nghe chánh pháp, ở chỗ các đức Phật trồng các căn lành, thỉnh vấn pháp nghĩa đã học của Bồ-tát.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy an trụ ở địa vị của mình, nếu có ma sự khởi có thể biết ngay, chẳng bao giờ bị chuyển theo ma sự, dùng sức thiện xảo dồn các ma sự lại đặt ở trong thật tế, phương tiện diệt trừ, đối với pháp ở địa vị mình không nghi, không hoặc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy biết tất cả pháp đều nhập thật tế, thông đạt thật tế, chẳng phải một, chẳng phải nhiều; ở trong thật tế không có sự phân biệt, vì đối với thật tế không nghi, không hoặc, nên đối với pháp ở địa vị mình cũng không có do dự.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy dù có chuyển thọ sanh, đối với thật tế cũng không thối chuyển, hướng về địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác. Vì sao? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy biết tự tướng của tất cả pháp đều không, ở trong pháp không này chẳng thấy có pháp hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc nhiễm, hoặc tịnh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy cho đến lúc chuyển thân cũng chẳng nghi là ta sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột hay là sẽ không đắc. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy thông đạt các pháp, tự tướng đều là không, tức là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy an trụ ở địa vị của mình không theo duyên khác, đối với pháp địa vị của mình không ai có thể phá hoại được. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy đã thành tựu trí không động, không thối chuyển, tất cả ác duyên chẳng thể khuynh đảo.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, thì giả sử có ác ma giả làm hình Phật, đến chỗ vị ấy nói thế này: Nay ngươi nên cầu quả A-la-hán, hết hẳn các lậu, chứng Bát-niết-bàn. Ngươi chưa thể kham nhận thọ ký đại Bồ-đề, cũng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Nay ngươi chưa có các hành, trạng, tướng của địa vị Bất thối chuyển, Như Lai chẳng nên thọ ký cho ngươi quả vị giác ngộ cao tột. Ngươi cần có đầy đủ các hành, trạng, tướng của địa vị Bất thối chuyển, đại Bồ-tát ấy mới có thể mong Phật thọ ký quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển ấy nghe lời ấy rồi, tâm không biến đổi, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng thối, chẳng chìm.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tự chứng biết ta ở chỗ chư Như Lai trong quá khứ quyết đã được thọ ký đại Bồ-đề. Vì sao? Vì đại Bồ-tát thành tựu thắng pháp như thế, nhất định được chư Phật thọ ký Bồ-đề; ta đã thành tựu thắng pháp như thế, tại sao chư Phật không thọ ký cho ta được! Cho nên ta ở chỗ chư Phật quá khứ chắc chắn đã được thọ ký đại Bồ-đề.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, dù có ác ma, hoặc sứ giả của ác ma giả làm hình Phật đi đến thọ ký địa vị Thanh-văn cho Bồ-tát, hoặc thọ ký địa vị Độc-giác cho Bồ-tát, nói: Này nam tử! Cần gì quả vị giác ngộ cao tột? Từ lâu đã chịu đại khổ sanh tử luân hồi, nên mau tự chứng Vô-dư Niết-bàn, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, rốt ráo an lạc, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nghe lời ấy rồi, nghĩ như thế này: Đây nhất định là ác ma hoặc sứ giả của ác ma giả hiện làm Phật nhiễu loạn tâm ta, thọ ký địa vị Thanh-văn, Độc-giác cho ta, khiến cho ta thối thất quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì nhất định không có chư Phật dạy chư Bồ-tát hướng đến địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mà xả bỏ quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, dù có ác ma hoặc sứ giả của ác ma giả hiện làm hình Phật, nói với các Bồ-tát: Kinh điển Đại-thừa mà ngươi đã thọ trì chẳng phải do Phật nói, cũng chẳng phải đệ tử của Như Lai nói, đó là các ác ma hoặc các ngoại đạo vì dối gạt mê hoặc ngươi nên nói như thế. Nay ngươi chẳng nên thọ trì, đọc tụng, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nghe lời ấy rồi, liền nghĩ thế này: Đây nhất định là ác ma hoặc quyến thuộc của ma, làm cho ta nhàm chán xả bỏ quả vị giác ngộ cao tột, cho nên nói kinh điển sâu xa của Đại-thừa chẳng phải Phật nói, cũng chẳng phải đệ tử Như Lai nói. Vì sao? Vì rời kinh điển này mà có thể chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, là việc nhất định không có.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, nên biết đã an trụ địa vị Bất thối chuyển. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, từ lâu đã thọ ký cho đại Bồ-tát ấy. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy thành tựu đầy đủ các hành, trạng, tướng của địa vị Bất thối chuyển. Nếu đại Bồ-tát thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đã được thọ ký đại giác ngộ, nhất định đã an trụ địa vị Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển khi tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, thường nghĩ thế này: Ta thà xả bỏ của báu, thân thuộc và thân mạng mình nhưng chẳng bao giờ xả bỏ chánh pháp của chư Phật. Vì sao? Vì của báu, thân thuộc và thân mạng mình đời đời thường có, rất là dễ được, nhưng Chánh pháp của chư Phật thì trăm ngàn ức triệu kiếp mới gặp được một lần, đạt được lợi lạc to lớn lâu dài.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi hộ trì chánh pháp, nghĩ thế này: Ta chẳng vì hộ trì chánh pháp của một đức Phật, hai đức Phật cho đến trăm ngàn chư Phật, mà hộ trì chánh pháp chư Phật trong mười phương, ba đời, khiến chẳng khuyết tổn.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là chánh pháp của chư Phật? Đại Bồ-tát ấy hộ trì chẳng tiếc thân mạng như thế nào?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các Bồ-tát đã nói pháp không, đó gọi là chánh pháp của chư Phật. Có hạng ngu si phỉ báng, chê bai: Đây chẳng phải là phải, chẳng phải là Tỳ-nại-da, chẳng phải là Thánh giáo của đấng Thiên Nhơn Sư đã nói, tu hành pháp này chẳng đắc Bồ-đề, chẳng chứng Niết-bàn, tịch tịnh an lạc.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, thường nghĩ thế này: Tất cả pháp không mà Như Lai đã nói là nơi quay về nương tựa của các hữu tình. Bồ-tát tu học pháp ấy mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cứu vớt nỗi khổ não lo buồn sanh, lão, bệnh, tử của các hữu tình, làm cho đắc Niết-bàn rốt ráo an lạc, cho nên phải hộ trì chẳng tiếc thân mạng.
Lại nghĩ thế này: Ta cũng sẽ có mặt trong số Phật vị lai, vì Phật đã thọ ký đại Bồ-đề cho ta. Do nhân duyên này, chánh pháp của chư Phật tức là pháp của ta, ta phải hộ trì, chẳng tiếc thân mạng. Vào đời vị lai, khi ta thành Phật, cũng sẽ thuyết các pháp không này.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thấy nghĩa lợi này, nên hộ trì chánh pháp Như Lai đã thuyết chẳng tiếc thân mạng.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển nghe chánh pháp mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết, không nghi, không hoặc, nghe rồi thọ trì, không bao giờ quên cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì Bồ-tát ấy đã khéo chứng đắc Đà-la-ni.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy đã đắc Đà-la-ni nào, mà nghe khế kinh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết đều chẳng quên mất, không nghi, không hoặc?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đã đắc Đà-la-ni tự tạng, Đà-la-ni hải ấn, Đà-la-ni liên hoa chúng tạng v.v… nên khi nghe khế kinh mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết đều chẳng quên mất, không nghi, không hoặc.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy chỉ nghe chánh pháp mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thuyết, không nghi, không hoặc, nghe rồi thọ trì chẳng thể quên mất, cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, hay còn vì nghe chánh pháp mà Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, thiên, long, Dược-xoa, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v… đã nói, cũng có thể đối với pháp ấy chẳng nghi, chẳng hoặc, nghe rồi thọ trì không bao giờ quên mất cho đến khi chứng đắc quả vị đại giác ngộ chăng?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nghe hết nghĩa lý văn tự, âm thanh của tất cả các loài hữu tình đều có thể hiểu rõ, không nghi, không hoặc, cho đến cùng tận đời vị lai không có quên mất. Vì sao? Vì đã đắc Đà-la-ni tự tạng v.v.. ghi giữ lời nói, khiến chẳng quên mất.
Này Thiện Hiện! Nếu thành tựu các hành, trạng, tướng như thế, thì nên biết đó là đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Quyển Thứ 327
HẾT
XXXXX. PHẨM PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
01
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển ấy thành tựu nhóm công đức to lớn thù thắng.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển ấy thành tựu nhóm công đức vô lượng thù thắng.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển ấy thành tựu nhóm công đức vô biên thù thắng.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển ấy thành tựu nhóm công đức vô số chẳng thể nghĩ bàn?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển ấy nhóm công đức thù thắng rộng lớn vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm, khó nghĩ bàn. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy đã chứng đắc trí rộng lớn vô lượng, vô biên, chẳng thể tính đếm, khó nghĩ bàn, khác với trí Thanh-văn và Độc-giác. Đại Bồ-tát ấy an trụ trong trí này, biểu hiện bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng. Do bốn sự hiểu biết thông suốt thù thắng này, mà trời, người, A-tố-lạc v.v… trong thế gian không có thể vấn nạn, làm cho trí tuệ biện tài của Bồ-tát này đạt đến chỗ cùng tận.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có thể nói các hành, trạng, tướng của đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển cả Hằng hà sa kiếp. Do sự trình bày các hành, trạng, tướng này, mà làm rõ sự thành tựu các loại công đức thù thắng của đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển. Cuối xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì Bồ-tát mà nói chỗ sâu xa, khiến các Bồ-tát an trụ trong đó, để có thể tu bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, có thể tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để mau được viên mãn; có thể an trụ pháp không nội để mau được viên mãn, có thể an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để mau được viên mãn; có thể an trụ chơn như để mau được viên mãn, có thể an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để mau được viên mãn; có thể tu bốn niệm trụ để mau được viên mãn, có thể tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để mau được viên mãn; có thể an trụ Thánh đế khổ để mau được viên mãn, có thể an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo để mau được viên mãn; có thể tu bốn tịnh lự để mau được viên mãn, có thể bốn vô lượng, bốn định vô sắc để mau được viên mãn; có thể tu tám giải thoát để mau được viên mãn, có thể tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để mau được viên mãn; có thể tu pháp môn giải thoát không để mau được viên mãn, có thể tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để mau được viên mãn; có khả năng tu bậc Cực hỷ để mau được viên mãn, có thể tu bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để mau được viên mãn; có thể tu năm loại mắt để mau được viên mãn, có thể tu sáu phép thần thông để mau được viên mãn; có thể tu pháp môn Tam-ma-địa để mau được viên mãn, có thể tu pháp môn Đà-la-ni để mau được viên mãn; có thể tu mười lực Phật để mau được viên mãn, có thể tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để mau được viên mãn; có thể tu pháp không quên mất để mau được viên mãn, có thể tu tánh luôn luôn xả để mau được viên mãn; có thể tu trí nhất thiết để mau được viên mãn, có thể tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để mau được viên mãn.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay! Nay ông mới có thể vì các Bồ-tát mà hỏi chỗ sâu xa, khiến các Bồ-tát an trụ trong đó, tu hành công đức mau được viên mãn.
Này Thiện Hiện! Chỗ sâu xa đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, tịch tịnh, Niết-bàn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, các pháp như thế là chỗ sâu xa.
Này Thiện Hiện! Tên của chỗ sâu xa đã nói như vậy đều chỉ rõ Niết-bàn là chỗ sâu xa.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có Niết-bàn mới gọi là sâu xa, hay còn các pháp khác cũng gọi là sâu xa?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Tất cả các pháp khác cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Sắc cũng gọi là sâu xa, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Nhãn xứ cũng gọi là sâu xa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Sắc xứ cũng gọi là sâu xa, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Nhãn giới cũng gọi là sâu xa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Sắc giới cũng gọi là sâu xa, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Nhãn thức giới cũng gọi là sâu xa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Nhãn xúc cũng gọi là sâu xa, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là sâu xa, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là sâu xa.
Thiện Hiện! Địa giới cũng gọi là sâu xa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vô minh cũng gọi là sâu xa, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cũng gọi là sâu xa, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Pháp không nội cũng gọi là sâu xa, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Chơn như cũng gọi là sâu xa, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ cũng gọi là sâu xa, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ cũng gọi là sâu xa, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự cũng gọi là sâu xa, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Tám giải thoát cũng gọi là sâu xa, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không cũng gọi là sâu xa, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Bậc Cực hỷ cũng gọi là sâu xa, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nam thắng, bậc Hiền tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Năm loại mắt cũng gọi là sâu xa, sáu phép thần thông cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là sâu xa, pháp môn Đà-la-ni cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Mười lực Phật cũng gọi là sâu xa, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất cũng gọi là sâu xa, tánh luôn luôn xả cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Quả Dự-lưu cũng gọi là sâu xa, quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Quả vị Độc-giác cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết cũng gọi là sâu xa, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Tất cả hạnh đại Bồ-tát cũng gọi là sâu xa.
Này Thiện Hiện! Quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng gọi là sâu xa.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc cũng gọi là sâu xa? Vì sao thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao nhãn xứ cũng gọi là sâu xa? Vì sao nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc xứ cũng gọi là sâu xa? Vì sao thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao nhãn giới cũng gọi là sâu xa? Vì sao nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc giới cũng gọi là sâu xa? Vì sao thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao nhãn thức giới cũng gọi là sâu xa? Vì sao nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao nhãn xúc cũng gọi là sâu xa? Vì sao nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là sâu xa? Vì sao các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao địa giới cũng gọi là sâu xa? Vì sao thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao vô minh cũng gọi là sâu xa? Vì sao hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao bố thí Ba-la-mật-đa cũng gọi là sâu xa? Vì sao tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao pháp không nội cũng gọi là sâu xa? Vì sao pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như cũng gọi là sâu xa? Vì sao pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao bốn niệm trụ cũng gọi là sâu xa? Vì sao bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao Thánh đế khổ cũng gọi là sâu xa? Vì sao Thánh đế tập, diệt, đạo cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao bốn tịnh lự cũng gọi là sâu xa? Vì sao bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao tám giải thoát cũng gọi là sâu xa? Vì sao tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao pháp môn giải thoát không cũng gọi là sâu xa? Vì sao pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao bậc Cực hỷ cũng gọi là sâu xa? Vì sao bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao năm loại mắt cũng gọi là sâu xa? Vì sao sáu phép thần thông cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là sâu xa? Vì sao pháp môn Đà-la-ni cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao mười lực Phật cũng gọi là sâu xa? Vì sao bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao pháp không quên mất cũng gọi là sâu xa? Vì sao tám luôn luôn xả cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao quả Dự-lưu cũng gọi là sâu xa? Vì sao quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao quả vị Độc-giác cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao trí nhất thiết cũng gọi là sâu xa? Vì sao trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả hạnh đại Bồ-tát cũng gọi là sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng gọi là sâu xa?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như của sắc sâu xa nên sắc cũng sâu xa; vì chơn như của thọ, tưởng, hành, thức sâu xa nên thọ, tưởng, hành, thức cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của nhãn xứ sâu xa nên nhãn xứ cũng sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của sắc xứ sâu xa nên sắc xứ cũng sâu xa; vì chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa nên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của nhãn giới sâu xa nên nhãn giới cũng sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sâu xa nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của sắc giới sâu xa nên sắc giới cũng sâu xa; vì chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sâu xa nên thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của nhãn thức giới sâu xa nên nhãn thức giới cũng sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sâu xa nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của nhãn xúc sâu xa nên nhãn xúc cũng sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sâu xa nên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng sâu xa; vì chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra sâu xa nên các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của địa giới sâu xa nên địa giới cũng sâu xa; vì chơn như của thủy hoả phong không thức giới sâu xa nên thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của vô minh sâu xa nên vô minh cũng sâu xa; vì chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não sâu xa nên hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa sâu xa nên bố thí Ba-la-mật-đa cũng sâu xa; vì chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của pháp không nội sâu xa nên pháp không nội cũng sâu xa; vì chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh sâu xa nên pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của chơn như sâu xa nên chơn như cũng sâu xa; vì chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì sâu xa nên pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của bốn niệm trụ sâu xa nên bốn niệm trụ cũng sâu xa; vì chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo sâu xa nên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của Thánh đế khổ sâu xa nên Thánh đế khổ cũng sâu xa; vì chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo sâu xa nên Thánh đế tập, diệt, đạo cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của bốn tịnh lự sâu xa nên bốn tịnh lự cũng sâu xa; vì chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc sâu xa nên bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của tám giải thoát sâu xa nên tám giải thoát cũng sâu xa; vì chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ sâu xa nên tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của pháp môn giải thoát không sâu xa nên pháp môn giải thoát không cũng sâu xa; vì chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện sâu xa nên vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của bậc Cực hỷ sâu xa nên bậc Cực hỷ cũng sâu xa; vì chơn như của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân sâu xa nên bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của năm loại mắt sâu xa nên năm loại mắt cũng sâu xa; vì chơn như của sáu phép thần thông sâu xa nên sáu phép thần thông cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của pháp môn Tam-ma-địa sâu xa nên pháp môn Tam-ma-địa cũng sâu xa; vì chơn như của pháp môn Đà-la-ni sâu xa nên pháp môn Đà-la-ni cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của mười lực Phật sâu xa nên mười lực Phật cũng sâu xa; vì chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi,đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa nên bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của pháp không quên mất sâu xa nên pháp không quên mất cũng sâu xa; vì chơn như của tánh luôn luôn xả sâu xa nên tánh luôn luôn xả cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của quả Dự-lưu sâu xa nên quả Dự-lưu cũng sâu xa; vì chơn như của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán sâu xa nên quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của quả vị Độc-giác sâu xa nên quả vị Độc-giác cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của trí nhất thiết sâu xa nên trí nhất thiết cũng sâu xa; vì chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng sâu xa nên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của tất cả hạnh đại Bồ-tát sâu xa nên tất cả hạnh đại Bồ-tát cũng sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật sâu xa nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng sâu xa.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của sắc sâu xa? Vì sao chơn như của thọ, tưởng, hành, thức sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của nhãn xứ sâu xa? Vì sao chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của sắc xứ sâu xa? Vì sao chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của nhãn giới sâu xa? Vì sao chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của sắc giới sâu xa? Vì sao chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của nhãn thức giới sâu xa? Vì sao chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của nhãn xúc sâu xa? Vì sao chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra sâu xa? Vì sao chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của địa giới sâu xa? Vì sao chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của vô minh sâu xa? Vì sao chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa sâu xa? Vì sao chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của pháp không nội sâu xa? Vì sao chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của chơn như sâu xa? Vì sao chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của bốn niệm trụ sâu xa? Vì sao chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của Thánh đế khổ sâu xa? Vì sao chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của bốn tịnh lự sâu xa? Vì sao chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của tám giải thoát sâu xa? Vì sao chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của pháp môn giải thoát không sâu xa? Vì sao chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của năm loại mắt sâu xa? Vì sao chơn như của sáu phép thần thông sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của pháp môn Tam-ma-địa sâu xa? Vì sao chơn như của pháp môn Đà-la-ni sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của mười lực Phật sâu xa? Vì sao chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của pháp không quên mất sâu xa? Vì sao chơn như của tánh luôn luôn xả sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của quả Dự-lưu sâu xa? Vì sao chơn như của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của quả vị Độc-giác sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của trí nhất thiết sâu xa? Vì sao chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của tất cả hạnh đại Bồ-tát sâu xa?
Bạch Thế Tôn! Vì sao chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật sâu xa?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì chơn như của sắc chẳng phải là sắc, chẳng phải lìa sắc, cho nên sâu xa; vì chơn như của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của nhãn xứ chẳng phải là nhãn xứ, chẳng xa lìa nhãn xứ, cho nên sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của sắc xứ chẳng phải là sắc xứ, chẳng phải lìa sắc xứ, cho nên sâu xa; vì chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng phải lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của nhãn giới chẳng phải là nhãn giới, chẳng phải lìa nhãn giới, cho nên sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của sắc giới chẳng phải là sắc giới, chẳng phải lìa sắc giới, cho nên sâu xa; vì chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng phải lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của nhãn thức giới chẳng phải là nhãn thức giới, chẳng phải lìa nhãn thức giới, cho nên sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của nhãn xúc chẳng phải là nhãn xúc, chẳng phải lìa nhãn xúc, cho nên sâu xa; vì chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng phải lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho nên sâu xa; vì chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của địa giới chẳng phải là địa giới, chẳng phải lìa địa giới, cho nên sâu xa; vì chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng phải lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của vô minh chẳng phải là vô minh, chẳng phải lìa vô minh, cho nên sâu xa; vì chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng phải lìa hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa bố thí Ba-la-mật-đa, cho nên sâu xa; vì chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng phải lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của pháp không nội chẳng phải là pháp không nội, chẳng phải lìa pháp không nội, cho nên sâu xa; vì chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng phải là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng phải lìa pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của chơn như chẳng phải là chơn như, chẳng phải lìa chơn như, cho nên sâu xa; vì chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, chẳng phải lìa pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của bốn niệm trụ chẳng phải là bốn niệm trụ, chẳng phải lìa bốn niệm trụ, cho nên sâu xa; vì chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, chẳng phải lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của Thánh đế khổ chẳng phải là Thánh đế khổ, chẳng phải lìa Thánh đế khổ, cho nên sâu xa; vì chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng phải lìa Thánh đế tập, diệt, đạo, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của bốn tịnh lự chẳng phải là bốn tịnh lự, chẳng phải lìa bốn tịnh lự, cho nên sâu xa; vì chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng phải lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của tám giải thoát chẳng phải là tám giải thoát, chẳng phải lìa tám giải thoát, cho nên sâu xa; vì chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng phải lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của pháp môn giải thoát không chẳng phải là pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa pháp môn giải thoát không, cho nên sâu xa; vì chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải là vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, chẳng phải lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của bậc Cực hỷ chẳng phải là bậc Cực hỷ, chẳng phải lìa bậc Cực hỷ, cho nên sâu xa; vì chơn như của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chẳng phải là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, chẳng phải lìa bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của năm loại mắt chẳng phải là năm loại mắt, chẳng phải lìa năm loại mắt, cho nên sâu xa; vì chơn như của sáu phép thần thông chẳng phải là sáu phép thần thông, chẳng phải lìa sáu phép thần thông, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải là pháp môn Tam-ma-địa, chẳng phải lìa pháp môn Tam-ma-địa, cho nên sâu xa; vì chơn như của pháp môn Đà-la-ni chẳng phải là pháp môn Đà-la-ni, chẳng phải lìa pháp môn Đà-la-ni, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của mười lực Phật chẳng phải là mười lực Phật, chẳng phải lìa mười lực Phật, cho nên sâu xa; vì chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng phải lìa bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của pháp không quên mất chẳng phải là pháp không quên mất, chẳng phải lìa pháp không quên mất, cho nên sâu xa; vì chơn như của tánh luôn luôn xả chẳng phải là tánh luôn luôn xả, chẳng phải lìa tánh luôn luôn xả, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của quả Dự-lưu chẳng phải là quả Dự-lưu, chẳng phải lìa quả Dự-lưu, cho nên sâu xa; vì chơn như của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng phải là quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, chẳng phải lìa quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của quả vị Độc-giác chẳng phải là quả vị Độc-giác, chẳng phải lìa quả vị Độc-giác, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của trí nhất thiết chẳng phải là trí nhất thiết, chẳng phải lìa trí nhất thiết, cho nên sâu xa; vì chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng phải lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng phải là tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng phải lìa tất cả hạnh đại Bồ-tát, cho nên sâu xa.
Này Thiện Hiện! Vì chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng phải lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cho nên sâu xa.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận các sắc chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận thọ, tưởng, hành, thức chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận nhãn xứ chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận sắc xứ chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận nhãn giới chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận sắc giới chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận nhãn thức giới chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận nhãn xúc chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận địa giới chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận thủy, hỏa, phong, không, thức giới chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận vô minh chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận bố thí Ba-la-mật-đa chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận pháp không nội chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận chơn như chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận bốn niệm trụ chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận Thánh đế khổ chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận Thánh đế tập, diệt, đạo chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận bốn tịnh lự chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận bốn vô lượng, bốn định vô sắc chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận tám giải thoát chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận pháp môn giải thoát không chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận bậc Cực hỷ chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận năm loại mắt chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận sáu phép thần thông chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận pháp môn Tam-ma-địa chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận pháp môn Đà-la-ni chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận mười lực Phật chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận pháp không quên mất chỉ rõ Niết-bàn, ngăn chận tánh luôn luôn xả chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận quả Dự-lưu chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận quả vị Độc-giác chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận trí nhất thiết chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận tất cả hạnh đại Bồ-tát chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chỉ rõ Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Ngài dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận tất cả pháp hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc cộng, hoặc bất cộng, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận các sắc, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận thọ, tưởng, hành, thức, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận nhãn xứ, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận sắc xứ, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận nhãn giới, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận sắc giới, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận nhãn thức giới, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận nhãn xúc, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận địa giới, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận vô minh, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận bố thí Ba-la-mật-đa, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận pháp không nội, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận chơn như, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận bốn niệm trụ, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận Thánh đế khổ, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận Thánh đế tập, diệt, đạo, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận bốn tịnh lự, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận tám giải thoát, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận pháp môn giải thoát không, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận bậc Cực hỷ, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận năm loại mắt, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận sáu phép thần thông, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận pháp môn Tam-ma-địa, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận pháp môn Đà-la-ni, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận mười lực Phật, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận pháp không quên mất, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận tánh luôn luôn xả, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận quả Dự-lưu, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận quả vị Độc-giác, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận trí nhất thiết, chỉ rõ Niết-bàn; ngăn chận trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận tất cả hạnh đại Bồ-tát, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chỉ rõ Niết-bàn.
Phật dùng phương tiện rất là vi diệu, vì đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển mà ngăn chận tất cả pháp hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc cộng, hoặc bất cộng, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, chỉ rõ Niết-bàn.
Quyển Thứ 328
HẾT
XXXXX. PHẨM PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
02
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát đối với các chỗ sâu xa như thế, nên nương vào ý nghĩa tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà thẩm xét, tư duy, suy lường quán sát, nên nghĩ thế này: Nay ta nên an trụ như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã nói, nay ta nên học như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã nói.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với các chỗ sâu xa như thế, thường nương vào ý nghĩa tương ưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thẩm xét, tư duy, suy lường quán sát, an trụ như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã nói, học như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã nói thì đại Bồ-tát ấy do thường tinh cần tu học như vậy, nương vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, khởi tâm nhất niệm, còn có khả năng thâu nhiếp vô số, vô lượng, vô biên công đức, vượt vô lượng kiếp sanh tử lưu chuyển, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, huống là thường tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa không gián đoạn, thường an trụ tác ý tương ưng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Như người mê đắm ái dục cùng với người con gái đẹp, hai bên yêu nhau, cùng nhau hẹn ước. Người con gái kia bị trở ngại, không đến chỗ đúng hẹn được. Người này dục tâm bừng cháy, liên tục lưu chuyển thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Dục niệm của người ấy chuyển về nơi nào?
Bạch Thế Tôn! Dục niệm của người ấy hướng về người nữ, người ấy nghĩ thế này: Khi nào nàng sẽ đến đây để cùng nhau vui chơi.
Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Nếu cả ngày đêm thì người ấy có bao nhiêu dục niệm phát sanh?
Bạch Thế Tôn! Kể cả ngày đêm thì người ấy sanh dục niệm rất nhiều!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, khởi một niệm học như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy thì số kiếp vượt thoát sanh tử lưu chuyển, so với số lượng dục niệm của người đam mê ái dục đã khởi trải qua một ngày một đêm bằng nhau.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nương theo nghĩa lý mà Bát-nhã-ba-la-mật-đa đã dạy, tư duy, tu học, theo đó có khả năng giải thoát những lầm lỗi chướng ngại cho quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, đại Bồ-tát ấy nương vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa tinh cần tu học để chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát an trụ như Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy, trải qua một ngày một đêm thì công đức đạt được này giả sử hữu tình, thì cả hằng hà sa Tam thiên đại thiên thế giới chư Phật, cũng chẳng thể dung nạp hết. Giả sử các công đức khác đầy cả hằng hà sa Tam thiên đại thiên thế giới của chư Phật, so với công đức này chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần nghìn, chẳng bằng một phần trăm nghìn, chẳng bằng một phần trăm ức, chẳng bằng một phần ngàn ức, chẳng bằng một phần trăm ngàn ức, chẳng bằng một phần trăm triệu, chẳng bằng một phần ngàn triệu, chẳng bằng một phần trăm ngàn triệu, số phần, toán phần, kế phần, dụ phần nói rộng như thế cho đến chẳng bằng một phần của cực số.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp bố thí cúng dường ngôi báu Phật, Pháp, Tăng, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua một ngày một đêm như lời dạy mà tu học, thì công đức đạt được còn nhiều hơn công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa là cổ xe của các đại Bồ-tát ấy cưỡi lên cổ xe này mau đến quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, cung kính cúng dường Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác, Bồ-tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thện! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua một ngày một đêm như lời dạy mà tu học, thì công đức đạt được hơn công đức kia rất nhiều. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chư đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vượt qua địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Lại có khả năng tu hành các hạnh Bồ-tát mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ấy nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì công đức đạt được hơn công đức kia rất nhiều. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa là mẹ các đại Bồ-tát. Vì sao? Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng sanh ra chúng đại Bồ-tát. Tất cả chúng đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa mau chóng viên mãn tất cả Phật pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, dùng pháp bố thí cho tất cả hữu tình, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm, dùng pháp bố thí cho tất cả hữu tình, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là xa lìa trí nhất thiết trí; nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là chẳng xa lìa trí nhất thiết trí. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thối chuyển thì việc này có thật. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, an trụ chơn như; an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm an trụ chơn như, an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có thối lui thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối lui thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bốn niệm trụ, tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành bốn niệm trụ, tu hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối lui thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột có sự thối lui thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối lui thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối lui thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối lui thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối lui thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu tám giải thoát, tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu tám giải thoát, tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành pháp môn giải thoát không, tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu pháp môn giải thoát không, tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành mười lực Phật, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành mười lực Phật, tu hành bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả, thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức kia. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành trí nhất thiết, tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, dù chỉ trải qua một ngày một đêm tu hành trí nhất thiết, tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì công đức đạt được hơn công đức kia rất nhiều. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì không có việc đó. Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đối với quả vị giác ngộ cao tột mà có sự thối chuyển thì đó là việc dĩ nhiên. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành các môn tài thí, pháp thí, ở chỗ thanh vắng gắn chặc tư duy với việc tu hành trước, khắp vì tất cả hữu tình hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành các môn tài thí, pháp thí, ở chỗ thanh vắng gắn chặc tư duy với việc tu hành trước, khắp vì tất cả chúng sanh hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành các môn tài thí, pháp thí, ở chỗ thanh vắng gắn chặc tư duy với việc tu hành trước, khắp vì tất cả chúng sanh hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì công đức đạt được hơn công đức kia rất nhiều. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nương vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa mà phát khởi sự hồi hướng, nên biết đó là sự hồi hướng tối thắng. Còn xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà phát khởi hồi hướng, thì nên biết không gọi là sự hồi hướng tối thắng. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa để tu hành, vì khắp tất cả hữu tình mà hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp, duyên khắp thiện căn công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại, hòa hợp tùy hỷ, vì khắp tất cả hữu tình hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước ấy vô số, vô lượng, vô biên.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nương vào lời dạy của Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà an trụ, trải qua một ngày một đêm duyên khắp thiện căn công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử ở quá khứ, vị lai, hiện tại, hòa hợp tùy hỷ, vì khắp tất cả hữu tình hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì công đức đạt được hơn công đức kia rất nhiều. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả thiện căn công đức mà tùy hỷ hồi hướng đều lấy Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa làm đầu. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì chẳng nên xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, mà đối với các thiện căn hòa hợp tùy hỷ, vì khắp tất cả hữu tình hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, thì phân biệt việc làm đều chẳng phải thật có, thì vì nhân duyên gì mà các đại Bồ-tát ấy được phước vô số, vô lượng, vô biên?
Bạch Thế Tôn! Phân biệt việc làm chẳng có thể phát khởi chánh kiến chơn thật, chẳng có thể hướng vào Chánh tánh ly sanh, chẳng có thể đắc quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác, cũng chẳng có thể đắc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Phân biệt việc làm chẳng có thể phát khởi chánh kiến chơn thật, chẳng có thể hướng vào Chánh tánh ly sanh, chẳng có thể đắc quả Dự-lưu, hoặc quả Nhất-lai, hoặc quả Bất-hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc-giác, cũng chẳng có thể đắc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì biết tất cả các loại phân biệt việc làm là không, không có sở hữu, hư vọng chẳng thật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các đại Bồ-tát khéo học pháp không nội, khéo học pháp không ngoại, khéo học nội pháp không ngoại, khéo học pháp không không, khéo học pháp không lớn, khéo học pháp không thắng nghĩa, khéo học pháp không hữu vi, khéo học pháp không vô vi, khéo học pháp không rốt ráo, khéo học pháp không không biên giới, khéo học pháp không tản mạn, khéo học pháp không không đổi khác, khéo học pháp không bản tánh, khéo học pháp không tự tướng, khéo học pháp không cộng tướng, khéo học pháp không tất cả pháp, khéo học pháp không chẳng thể nắm bắt được, khéo học pháp không không tánh, khéo học pháp không tự tánh, khéo học pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy an trụ pháp không rồi, quán sát đúng như thật sự phân biệt việc làm là không, không có sở hữu, hư vọng chẳng thật như thế, tức là chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, như thật chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế nên mới được phước vô số, vô lượng, vô biên.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vô số, vô lượng, vô biên có gì sai biệt?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nói vô số là số chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể đếm ở trong cảnh giới hữu vi, chẳng thể đếm ở trong cảnh giới vô vi. Nói vô lượng là lượng chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể lường ở trong pháp quá khứ, chẳng thể lường ở trong pháp vị lai, chẳng thể lường ở trong pháp hiện tại. Nói vô biên là biên giới chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể đo lường giới hạn kia vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì có nhân duyên nào không mà sắc cũng vô số, vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô số, vô lượng, vô biên?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì có nhân duyên nên sắc cũng vô số, vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô số, vô lượng, vô biên.
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà sắc cũng vô số, vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô số, vô lượng, vô biên?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì sắc là không, nên vô số, vô lượng, vô biên; vì thọ, tưởng, hành, thức là không, nên cũng vô số, vô lượng, vô biên.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có sắc là không, thọ, tưởng, hành, thức là không, hay tất cả pháp cũng là không?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Trước đây ta đã chẳng nói tất cả pháp đều là không không ư?
Thiện Hiện đáp: Phật tuy đã nói tất cả pháp đều là không, nhưng các hữu tình chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, cho nên con nay phải hỏi lại như thế.
Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức cũng là không. Như Lai thường nói nhãn xứ là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng là không. Như Lai thường nói sắc xứ là không; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng là không. Như Lai thường nói nhãn giới là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng là không. Như Lai thường nói sắc giới là không; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng là không. Như Lai thường nói nhãn thức giới là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng là không. Như Lai thường nói nhãn xúc là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng là không. Như Lai thường nói các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng là không. Như Lai thường nói địa giới là không; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng là không. Như Lai thường nói tánh của nhân duyên là không; tánh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng là không. Như Lai thường nói vô minh là không; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng là không. Như Lai thường nói ngã là không; hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy cũng là không. Như Lai thường nói bố thí Ba-la-mật-đa là không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng là không. Như Lai thường nói pháp không nội là không; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng là không. Như Lai thường nói chơn như là không; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư là không; cảnh giới bất tư nghì cũng là không. Như Lai thường nói bốn niệm trụ là không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng là không. Như Lai thường nói Thánh đế khổ là không; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng là không. Như Lai thường nói bốn tịnh lự là không; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng là không. Như Lai thường nói tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng là không. Như Lai thường nói pháp môn giải thoát không là không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng là không. Như Lai thường nói bậc Cực hỷ là không; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng là không. Như Lai thường nói năm loại mắt là không; sáu phép thần thông cũng là không. Như Lai thường nói pháp môn Tam-ma-địa là không; pháp môn Đà-la-ni cũng là không. Như Lai thường nói mười lực Phật là không; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng là không. Như Lai thường nói pháp không quên mất là không; tánh luôn luôn xả cũng là không. Như Lai thường nói trí nhất thiết là không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng là không. Như Lai thường nói quả Dự-lưu là không; quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng là không; an trụ như Lai thường nói quả vị Độc-giác là không. Như Lai thường nói tất cả hạnh Bồ-tát là không. Như Lai thường nói quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không. Như Lai thường nói bậc phàm phu là không; bậc Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai cũng là không. Như Lai thường nói pháp hữu sắc, pháp vô sắc là không; pháp hữu kiến, pháp vô kiến, pháp hữu đối, pháp vô đối, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi cũng là không. Như Lai thường nói pháp quá khứ, vị lai, hiện tại là không; pháp thiện, bất thiện, vô ký, hệ pháp Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; pháp học, vô học, phi học, phi vô học; pháp kiến sở đoạn, tu sở đoạn, phi sở đoạn cũng là không.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Ta đã thường nói các pháp này đều là không.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp là không tức là vô tận, cũng là vô số, cũng là vô lượng, cũng là vô biên.
Bạch Thế Tôn! Trong cái không của các pháp, cái tận chẳng thể nắm bắt được, số chẳng thể nắm bắt được, lượng chẳng thể nắm bắt được, biên chẳng thể nắm bắt được. Do nhân duyên này, mà vô tận, vô số, vô lượng, vô biên, văn nghĩa không phân biệt.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Vô tận, vô số, vô lượng, vô biên, văn nghĩa không phân biệt, đều cùng làm sáng tỏ cái không của các pháp.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp không đều bất khả thuyết. Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô số, hoặc nói vô lượng, hoặc nói vô biên, hoặc nói là không, hoặc nói vô tướng, hoặc nói vô nguyện, hoặc nói vô tác, hoặc nối vô sanh, hoặc nói vô diệt, hoặc nói ly nhiễm, hoặc nói tịch diệt, hoặc nói Niết-bàn, hoặc nói chơn như, hoặc nói pháp giới, hoặc nói pháp tánh, hoặc nói thật tế; các nghĩa như thế đều là do Như Lai phương tiện diễn nói.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như Lai dùng phương tiện rất là khéo léo, thật tướng của các pháp chẳng thể diễn nói, nhưng vì hữu tình mà phương tiện chỉ rõ.
Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật đã nói là tánh của tất cả pháp đều bất khả thuyết?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Tánh của tất cả pháp đều bất khả thuyết. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp đều rốt ráo không, không có thể diễn nói cái không rốt ráo.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nghĩa bất khả thuyết có tăng giảm chăng?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm, thì bố thí Ba-la-mật-đa cũng nên không tăng, không giảm; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì bốn bốn niệm trụ cũng nên không tăng, không giảm; bốn chánh đoạn, bốn thần thông, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì bốn tịnh lự cũng nên không tăng, không giảm; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì tám giải thoát cũng nên không tăng, không giảm; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì pháp môn giải thoát không cũng nên không tăng, không giảm; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì bậc Cực hỷ cũng nên không tăng, không giảm; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì năm loại mắt cũng nên không tăng, không giảm; sáu phép thần thông cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì pháp môn Tam-ma-địa cũng nên không tăng, không giảm; pháp môn Đà-la-ni cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì mười lực Phật cũng nên không tăng, không giảm; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì pháp không quên mất cũng nên không tăng, không giảm; tánh luôn luôn xả cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì trí nhất thiết cũng nên không tăng, không giảm; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng nên không tăng, không giảm.
Bạch Thế Tôn! Nếu bố thí Ba-la-mật-đa không tăng, không giảm; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu bốn niệm trụ không tăng, không giảm; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành bốn niệm trụ, tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu bốn tịnh lự không tăng, không giảm; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu tám giải thoát không tăng, không giảm; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát không không tăng, không giảm; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành pháp môn giải thoát không, tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu bậc Cực hỷ không tăng, không giảm; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành bậc Cực hỷ, tu hành bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu năm loại mắt không tăng, không giảm; sáu phép thần thông cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn Tam-ma-địa không tăng, không giảm; pháp môn Đà-la-ni cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành pháp môn Tam-ma-địa, tu hành pháp môn Đà-la-ni chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu mười lực Phật không tăng, không giảm; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành mười lực Phật, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không quên mất không tăng, không giảm; tánh luôn luôn xả cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Nếu trí nhất thiết không tăng, không giảm; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không tăng, không giảm thì tại sao đại Bồ-tát tu hành trí nhất thiết, tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Quyển Thứ 329
HẾT
XXXXX. PHẨM PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
03
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm, bố thí Ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm; bốn bốn niệm trụ cũng không tăng, không giảm, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không tăng, không giảm; bốn tịnh lự cũng không tăng, không giảm, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không tăng, không giảm; tám giải thoát cũng không tăng, không giảm, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không tăng, không giảm; pháp môn giải thoát không cũng không tăng, không giảm, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không tăng, không giảm; bậc Cực hỷ cũng không tăng, không giảm, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không tăng, không giảm; năm loại mắt cũng không tăng, không giảm, sáu phép thần thông cũng không tăng, không giảm; pháp môn Tam-ma-địa cũng không tăng, không giảm, pháp môn Đà-la-ni cũng không tăng, không giảm; mười lực Phật cũng không tăng, không giảm, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không tăng, không giảm; pháp không quên mất cũng không tăng, không giảm, tánh luôn luôn xả cũng không tăng, không giảm; trí nhất thiết cũng không tăng, không giảm, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không tăng, không giảm.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, an trụ phương tiện thiện xảo Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nghĩ thế này: Ta đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa hoặc tăng hoặc giảm; chẳng nghĩ thế này: Ta đối với tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa hoặc tăng hoặc giảm, chỉ nghĩ thế này: Chỉ có ý niệm về danh xưng là Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chỉ nghĩ thế này: Chỉ có ý niệm về danh xưng là tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, đem tác ý câu hành với bố thí này và tâm cùng thiện căn nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột sâu xa vi diệu của Phật mà phát khởi hồi hướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, đem tác ý câu hành với tịnh giới này và tâm cùng thiện căn nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, đem tác ý câu hành với an nhẫn này và tâm cùng thiện căn nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, đem tác ý câu hành với tinh tấn này và tâm cùng thiện căn nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, đem tác ý câu hành với tịnh lự này và tâm cùng thiện căn nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đem tác ý câu hành với Bát-nhã Ba-la-mật-đa này và tâm cùng thiện căn nương đây mà khởi, ban cho các hữu tình cùng có như nhau sự hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, như quả vị giác ngộ cao tột vi diệu sâu xa của Phật mà phát khởi hồi hướng. Do sức phương tiện thiện xảo hồi hướng này, mà chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Sao gọi là quả vị giác ngộ cao tột?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Chơn như của các pháp là quả vị giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch: Bạch Thế Tôn! Chơn như của các pháp nào mà nói là chơn như của các pháp là quả vị giác ngộ cao tột?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của thọ, tưởng, hành, thức là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn xứ là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc xứ là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn giới là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc giới là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn thức giới là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn xúc là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của địa giới là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của tánh nhân duyên là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của vô minh là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp không nội là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của chơn như là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư là không, cảnh giới bất tư nghì là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của bốn bốn niệm trụ là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của Thánh đế khổ là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của bốn tịnh lự là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của tám giải thoát là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp môn giải thoát không là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của bậc Cực hỷ là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của năm loại mắt là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của sáu phép thần thông là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp môn Tam-ma-địa là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của pháp môn Đà-la-ni là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của mười lực Phật là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp không quên mất là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của tánh luôn luôn xả là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của quả Dự-lưu là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của quả vị Độc-giác là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của trí nhất thiết là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của sanh tử là quả vị giác ngộ cao tột; chơn như của Niết-bàn là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Chơn như của các pháp không tăng, không giảm, nên quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không tăng, không giảm;
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát chẳng xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thường ưa an trụ chơn như của các pháp, hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào có tăng có giảm. Do nhân duyên này, nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm; bố thí Ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm; bốn bốn niệm trụ cũng không tăng, không giảm, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không tăng, không giảm; bốn tịnh lự cũng không tăng, không giảm, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không tăng, không giảm; tám giải thoát cũng không tăng, không giảm, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không tăng, không giảm; pháp môn giải thoát không cũng không tăng, không giảm, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không tăng, không giảm; bậc Cực hỷ cũng không tăng, không giảm, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không tăng, không giảm; năm loại mắt cũng không tăng, không giảm, sáu phép thần thông cũng không tăng, không giảm; pháp môn Tam-ma-địa cũng không tăng, không giảm, pháp môn Đà-la-ni cũng không tăng, không giảm; mười lực Phật cũng không tăng, không giảm, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không tăng, không giảm; pháp không quên mất cũng không tăng, không giảm, tánh luôn luôn xả cũng không tăng, không giảm; trí nhất thiết cũng không tăng, không giảm, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không tăng, không giảm.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát nương vào sự không tăng, không giảm này mà phương tiện tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Do pháp môn này, tập hợp các công đức mà chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát nương vào sự không tăng, không giảm, phương tiện tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa và do pháp môn này, tập hợp tất cả công đức, để chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì đại Bồ-tát ấy đã dùng sơ tâm để chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột hay dùng hậu tâm để chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột? Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy nếu dùng sơ tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì khi sơ tâm khởi, hậu tâm chưa khởi, không có tính hòa hợp; còn nếu dùng hậu tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì khi hậu tâm khởi thì tiền tâm đã diệt, không có tính hòa hợp. Như vậy thì tâm, tâm sở pháp trước sau, tấn thối, trồi sụt không có tính hòa hợp, thì làm sao có thể chứa nhóm thiện căn được? Nếu chẳng thể chứa nhóm các thiện căn được, thì làm sao Bồ-tát có thể chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ta sẽ nói một thí dụ ngắn gọn, khiến người có trí theo ý nghĩa diễn đạt, có thể dễ dàng hiểu được.
Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, như khi thắp đèn, thì ngọn lửa ban đầu đốt tim hay ngọn lửa sau đốt tim?
Bạch Thế Tôn! Theo chỗ con hiểu thì chẳng phải ngọn lửa ban đầu đốt tim, cũng chẳng lìa ngọn lửa ban đầu mà có thể đốt tim; chẳng phải ngọn lửa sau đốt tim, cũng chẳng lìa ngọn lửa sau mà có thể đốt tim.
Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, cái tim bị đốt chăng?
Bạch Thế Tôn! Theo cái thấy thông thường thì cái tim bị đốt thật.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát cũng giống như thế, chẳng dùng sơ tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa sơ tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải dùng hậu tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa hậu tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do vậy, các đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát từ sơ phát tâm tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa viên mãn mười bậc, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phât: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu học mười bậc nào viên mãn, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát tu hành bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân làm cho viên mãn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; cũng học bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, làm cho viên mãn, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát đối với mười bậc này tinh cần tu học, khi được viên mãn, chẳng phải dùng sơ tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa sơ tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải dùng hậu tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng lìa hậu tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do đó các đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Duyên khởi như thế rất sâu xa, rất vi diệu, đó là các đại Bồ-tát chẳng phải dùng sơ tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chẳng phải lìa sơ tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột; chẳng phải dùng hậu tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chẳng phải lìa hậu tâm chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Do đó các đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, nếu tâm đã diệt có thể sanh lại chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, nếu tâm đã sinh thì có pháp diệt chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, có tâm diệt pháp, chẳng phải nên diệt chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, tâm trụ là như, tâm là chơn như chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, tâm an trụ như chơn như, là như thật tế chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, chơn như thật tế là sâu xa chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, chính chơn như là tâm chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, lìa chơn như có tâm chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, chính tâm là chơn như chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, lìa tâm có chơn như chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, chơn như thấy chơn như chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, nếu đại Bồ-tát năng tu hành như thế, là tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa chăng?
Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát năng tu hành như thế là tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, nếu đại Bồ-tát năng tu hành như thế là tu hành chỗ nào?
Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát năng tu hành thì hoàn toàn không có chỗ tu hành. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nếu đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì không có tâm hiện hành, không có chỗ hiện hành. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì trong việc an trụ chơn như hoàn toàn không hiện hành và không có chỗ hiện hành.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, nếu đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa là tu hành ở chỗ nào?
Thiện Hiện đáp: Nếu đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì tu hành ở thắng nghĩa đế, nơi đây, hiện hành và chỗ hiện hành đều không có sở hữu, không có năng thủ, sở thủ, chẳng thể nắm bắt được.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, nếu đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì trong việc tu hành thắng nghĩa đế, tuy chẳng chấp thủ tướng mà tu hành tướng chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy khi tu hành sâu xa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì trong việc tu hành thắng nghĩa đế là hoại tướng chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, đại Bồ-tát ấy khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì trong việc tu hành thắng nghĩa đế, hoại ý tưởng về tướng chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng hoại tướng, cũng chẳng cũng chẳng hoại ý tưởng về tướng chăng?
Thiện Hiện đáp: Đại Bồ-tát ấy khi tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ hoại tướng và hoại ý tưởng về tướng; cũng chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ hoại vô tướng và hoại ý tưởng vô tướng, vì đối với tất cả pháp không có phân biệt vậy.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy có thể xa lìa các sự phân biệt như thế, nhưng vì đối với vô lượng thù thắng công đức của mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng v.v… chưa viên mãn nên chưa chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo vi diệu; do sức phương tiện thiện xảo này nên đối với tất cả pháp chẳng thủ, chẳng hoại. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ-tát ấy biết tự tướng của tất cả pháp là không.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy an trụ trong tự tướng không của tất cả pháp vì nguyện lực đại bi độ các hữu tình nhập vào ba pháp pháp Tam-ma-địa, thôi thúc nên dùng ba thứ định này thành thục hữu tình.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy vì sao nhập ba pháp Tam-ma-địa này để thành thục hữu tình?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy an trụ Tam-ma-địa không, thấy các hữu tình phần nhiều chấp ngã, nên dùng sức phương tiện giáo hóa, khiến an trụ Tam-ma-địa không.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy an trụ Tam-ma-địa vô tướng, thấy các hữu tình, phần nhiều tu hành hình thức nên dùng phương tiện giáo hóa, khiến an trụ Tam-ma-địa vô tướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy an trụ Tam-ma-địa vô nguyện, thấy các hữu tình phần nhiều mong muốn an vui, nên dùng sức phương tiện giáo hóa, khiến an trụ Tam-ma-địa vô nguyện.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nhập ba pháp Tam-ma-địa này thành thục hữu tình như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện: Thưa ngài Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ở trong mộng nhập ba pháp Tam-ma-địa này, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có tăng thêm lợi ích chăng?
Thiện Hiện đáp: Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát vào lúc ban ngày nhập ba pháp Tam-ma-địa này, thì đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa có tăng thêm lợi ích, thì ở trong mộng họ có nhập cũng có tăng thêm lợi ích. Vì sao? Thưa ngài Xá Lợi Tử! Vì ban ngày cùng trong mộng không sai biệt.
Thưa ngài Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát ban ngày tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà đã gọi là tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa thì đại Bồ-tát ấy, trong mộng tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng gọi là tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; ba pháp Tam-ma-địa đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, có thể làm tăng thêm lợi ích cũng giống như vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Các đại Bồ-tát trong mộng tạo nghiệp, có tăng thêm, hoặc tổn giảm lợi ích chăng?
Phật dạy: Hữu vi là hư vọng chẳng thật như việc làm trong mộng, thì tại sao hành động kia có thể tăng hoặc giảm? Vì sao? Vì chẳng phải đối với các việc đã làm trong mộng có thể tăng thêm lợi ích, hoặc có thể tổn giảm, mà ngay đến khi tỉnh, nhớ tưởng phân biệt việc làm trong mộng cũng có sự tăng giảm?
Thiện Hiện đáp: Có các người ban ngày giết hại sanh mạng kẻ khác, rồi vào ban đêm, trong mộng nhớ nghĩ phân biệt, tự mình rất vui sướng; hoặc có người mộng thấy giết người tưởng là khi tỉnh, phát sanh vui mừng; hai nghiệp như thế, theo ý Ngài thì sao?
Xá Lợi Tử đáp: Không có cái sở duyên thì hoặc suy nghĩ, hoặc hành động đều chẳng phát sanh được, cần có sở duyên thì suy nghĩ và hành động mới phát khởi. Trong mộng suy nghĩ và hành động duyên vào đâu mà sanh?
Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Hoặc mộng, hoặc tỉnh, không có cái sở duyên thì suy nghĩ và hành động chẳng sanh; cần có sở duyên thì suy nghĩ và hành động mới hiện khởi. Vì sao? Thưa ngài Xá Lợi Tử! Hoặc mộng, hoặc tỉnh cần phải ở trong pháp kiến văn giác tri, có sự chuyển biến của nhận thức, do đó mới khởi nhiễm, hoặc khởi tịnh. Nếu không có các pháp thấy, nghe, hiểu, biết, thì không có sự chuyển biến của nhận thức, cũng không nhiễm không tịnh. Do đó nên biết hoặc mộng, hoặc tỉnh, có cái sở duyên thì suy nghĩ và hành động mới khởi; không có cái sở duyên thì suy nghĩ và hành động chẳng phát sanh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Phật dạy tư duy và tạo tác đều lìa tự tánh, thì tại sao có thể nói có sở duyên hiện khởi?
Thiện Hiện đáp: Tuy các tư duy, tạo tác và pháp sở duyên, tự tánh đều là không, nhưng do tự tâm thủ tướng phân biệt nên nói tư duy tạo tác có sở duyên mới sanh. Nếu không có sở duyên, thì tư duy và tạo tác không khởi.
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử lại hỏi cụ thọ Thiện Hiện: Nếu đại Bồ-tát trong mộng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, đem thiện căn này ban cho các hữu tình đều có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì đại Bồ-tát ấy có phải thật hồi hướng đại Bồ-đề chăng?
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện nói với Xá Lợi Tử: Đại Bồ-tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký Bất thối chuyển, chỉ còn cách một đời nữa, nhất định sẽ thành Phật, đủ khả năng khéo léo trả lời tất cả nạn vấn. Hiện tại trong pháp hội này, ta nên thỉnh vấn Ngài. Bổ xứ Từ Tôn nhất định sẽ trả lời.
Khi ấy, Xá Lợi Tử theo lời Thiện Hiện cung kính thỉnh vấn Bồ-tát Từ Thị.
Khi ấy, Bồ-tát Từ Thị nói với Xá Lợi Tử: Gọi tên là những pháp gì để Từ Thị ta có thể giải đáp: Là sắc chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là cái không của sắc chăng? Là cái không của thọ, tưởng, hành, thức chăng? Vả lại sắc chẳng có thể giải đáp, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có thể giải đáp. Cái không của sắc chẳng có thể giải đáp; cái không của thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có thể giải đáp. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Ta hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào năng giải đáp, có pháp nào sở giải đáp; chỗ giải đáp, thời gian giải đáp và do đó mà giải đáp cũng đều chẳng thấy. Ta hoàn toàn chẳng thấy có pháp năng thọ ký, có pháp sở thọ ký, chỗ thọ ký, thời gian thọ ký và do đó mà được thọ ký cũng đều chẳng thấy. Vì bản tánh của tất cả pháp đều không, hoàn toàn không sở hữu, không hai, không phân biệt, rốt ráo suy vi chẳng thể nắm bắt được.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại hỏi đại Bồ-tát Từ Thị: Pháp mà Ngài đã nói có phải đúng như Ngài đã chứng chăng?
Đại Bồ-tát Từ Thị nói: Pháp mà Ta đã nói chẳng phải như pháp đã chứng. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì pháp mà Ta đã chứng là bất khả thuyết.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại nghĩ thế này: Đại Bồ-tát Từ Thị trí tuệ sâu rộng, tu tất cả pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn từ lâu, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với các câu hỏi, có thể giải đáp như thế.
Lúc bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử: Này Xá Lợi Tử! Theo ý ông thì sao, ông do pháp ấy mà chứng đắc quả A-la-hán, có thể thấy pháp này là có thể nói chăng?
Xá Lợi Tử đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: này Xá Lợi Tử! Các pháp đã chứng của các đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng lại như vậy.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát ấy chẳng nghĩ thế này: Ta do pháp này sẽ được thọ ký; ta do pháp này hiện được thọ ký; ta do pháp này đã được thọ ký. Chẳng nghĩ thế này: Ta do pháp này sẽ được chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát ấy tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng sanh do dự là ta đối với quả vị giác ngộ cao tột là đắc hay là chẳng đắc. Chỉ nghĩ thế này: Ta đối với quả vị giác ngộ cao tột nhất định sẽ chứng đắc.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát ấy tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nghe pháp sâu xa, tâm vị ấy chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ đối với sự chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng sợ sệt, quyết định tự biết là ta sẽ chứng đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột.
XXXXXI. PHẨM HẠNH NGUYỆN
01
Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị đói khát bức bách, y phục rách rưới, đồ nằm thiếu thốn. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình ấy, khiến họ lìa xan tham, không còn thiếu thốn. Đã nghĩ như vậy rồi phát nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc đến thân mạng, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, sẽ không có các loại hữu tình thiếu thốn các đồ dùng như thế. Như chúng trời Tứ-thiên-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại thọ dụng các loại nhạc cụ thượng diệu, trong cõi Phật của ta, chúng sanh cũng được thọ dụng các thứ nhạc cụ thượng diệu như thế.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do bố thí Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị phiền não thiêu đốt, sát hại nhau, trộm cắp, dâm dục, tà hạnh, nói lời dối trá, nói lời thô ác, nói lời chia rẽ, nói lời hỗn tạp, phát khởi các thứ tham lam, sân giận, tà kiến. Do nhân duyên này, chết yểu, nhiều bệnh, nhan sắc tiều tụy, không có oai đức, của cải thiếu thốn, sanh vào nhà hạ tiện, thân thể xấu xí tật nguyền, hôi hám, nói ra điều gì không ai tin theo, nói năng thô tục, thân hữu trái ý, chia lìa; phàm trình bày điều gì thảy đều quê tục; xan tham, tật đố, ác kiến thiêu đốt, phỉ báng chánh pháp, chê bai Thánh Hiền.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đã thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa các quả ác nghiệp, đã suy nghĩ rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hạnh tịnh giới Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, sẽ không có các loại hữu tình có các quả ác nghiệp như thế. Tất cả hữu tình đều hành thập thiện, được sống lâu, hưởng quả báo thắng diệu.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do tịnh giới Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình giận dữ, mắng nhiếc, lăng nhục lẫn nhau, dùng dao gậy, ngói đá, côn quyền, đất cục v.v... tàn hại lẫn nhau cho đến mất mạng, nhất quyết không bỏ.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đã thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình ấy, khiến họ xa lìa các việc ác như thế. Đã suy nghĩ rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có ác nghiệp phiền não như thế. Tất cả hữu tình lần lần gần gũi nhau như cha mẹ, như anh em, như chị em, như nam nữ, như bạn bè thương yêu nhau, làm lợi ích cho nhau.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do an nhẫn Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, thấy các loài hữu tình, lười biếng, uể oải, chẳng siêng tinh tấn, xả bỏ ba thừa, cũng chẳng thường tu thiện nghiệp trời, người.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa biếng lười uể oải. Đã nghĩ như thế rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình biếng lười uể oải như thế, tất cả hữu tình đều tinh tấn dõng mãnh, siêng tu đường thiện và nhân Ba thừa, sanh vào cõi trời người, mau chứng giải thoát.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do tinh tấn Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình tham dục, sân giận, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, ác tác, nghi cái che lấp; thất niệm, phóng dật, đối với bốn tịnh lự và bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn chẳng năng tu, huống là năng tu định để được xuất thế gian.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu vớt các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa các thứ che lấp, tán loạn, lay động. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình đủ các thứ che lấp, tán loạn, lay động như thế. Tất cả hữu tình tự tại du hý trong các loại định tịnh lự, vô lượng, vô sắcv.v...
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do tịnh lự Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình ngu si, ác tuệ; đối với chánh kiến thế và xuất thế đều mất, bát cho là không có nghiệp và nghiệp quả thiện ác, chấp đoạn, chấp thường, chấp một, chấp khác, câu, chẳng câu v.v... đủ các loại tà pháp.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát, thấy việc này rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm gì để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến xa lìa ác kiến, tà chấp. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có ác tuệ, tà chấp như thế; tất cả hữu tình thành tựu chánh kiến, đủ các loại diệu tuệ, đầy đủ ba minh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có ba nhóm sai biệt: Một là nhóm tà định, hai là nhóm chánh định, ba là nhóm bất định.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến xa lìa nhóm tà định và bất định. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có nhóm tà định và bất định. Các loại hữu tình cũng không có đủ cả ba nhóm tên gọi như thế, tất cả hữu tình đều chỉ có nhóm chánh định thôi.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà chóng được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu hành đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình đọa trong ba đường ác: Một là địa ngục, hai là bàng sanh, ba là quỷ giới.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ vĩnh viễn xa lìa cái khổ của ba đường ác. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng không có tên của ba đường ác như thế. Tất cả hữu tình đều gồm thâu trong đường thiện.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình, do nghiệp chướng ác, chỗ ở trên quả đất cao thấp chẳng bằng, gò, đồi, khe, hầm, cỏ dại, cây trụi, gai gốc nhọn độc, dẫy đầy đồ bất tịnh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ vĩnh viễn diệt các nghiệp chướng ác, chỗ ở đất bằng như bàn tay, không có các loại cỏ dại, cây trụi v.v... Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các đại địa do nghiệp cảm uế tạp như thế. Nơi ở của hữu tình đất đai bằng phẳng, vườn rừng ao suối, các hương hoa vi diệu, xen lẫn trang nghiêm, rất dễ ưa thích.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình, vì phước đức cạn mỏng nên chỗ ở trên địa cầu, không có các trân bảo, chỉ có các loại đất, đá, ngói gạch.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào cứu giúp các loại hữu tình nhiều tội, ít phước như thế, khiến chỗ ở của họ có nhiều châu báu. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi nước của ta không có các loài hữu tình nhiều tội ít phước như thế, mà có cát vàng rải đất, khắp nơi đều có ngọc phệ lưu ly v.v… các loại ngọc kỳ lạ, vi diệu các hữu tình thọ dụng mà không nhiễm trước.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình khi thâu nhận cái gì đều sanh luyến trước, khởi các việc ác.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình thâu nhận điều ác như vậy, khiến họ vĩnh viễn xa lìa ác nghiệp luyến trước. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta không có các loại hữu tình thâu nhận các điều ác như thế; tất cả hữu tình đối với các cảnh sắc v.v… hoàn toàn không thâu nhận, chẳng sanh luyến trước.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có bốn dòng dõi quý tiện sai biệt: Một là Sát-đế-lợi, hai là Bà-la-môn, ba là Phệ-xá, bốn là Thú-đạt-la.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải dùng phương tiện thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có bốn dòng dõi quý tiện sai biệt như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta không có bốn dòng dõi quý tiện sai biệt như thế; tất cả hữu tình đồng một dòng dõi, thảy đều tôn quý, thuộc về loài người.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có gia tộc thượng, trung, hạ sai biệt.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có gia tộc bậc thượng, trung, hạ sai biệt. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có gia tộc bậc thượng, trung, hạ sai biệt, tất cả hữu tình đều đồng bậc thượng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình đẹp đẽ, xấu xí, hình sắc sai biệt.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc ấy rồi, nghĩ thế này: Ta phải dùng phương tiện như thế nào để cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có hình sắc sai biệt như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các loại hữu tình có hình sắc sai biệt như vậy. Tất cả các hữu tình đều là sắc vàng ròng, đẹp đẽ tuyệt vời, ai cũng ưa nhìn, thành tựu sắc thân viên mãn thanh tịnh đệ nhất.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Quyển Thứ 330
HẾT
XXXXXI. PHẨM HẠNH NGUYỆN
02
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình bị hệ thuộc người làm chủ, có làm việc gì chẳng được tự do.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến họ được tự do. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có ai làm chủ, ai muốn làm việc gì đều được tự do, cho đến chẳng thấy hình tượng chủ tể, cũng chẳng nghe danh tự chủ tể, chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng pháp thống nhiếp gọi là Pháp Vương.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có các đường sai biệt.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến không có các đường thiện ác sai biệt. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có các đường thiện ác sai biệt, cho đến không có danh tự địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, A-tố-lạc, nhơn, thiên. Tất cả hữu tình đều cùng một loài, cùng tu một pháp đó là cùng hòa hợp tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; an trụ chơn như, an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; tu hành bốn niệm trụ, tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tu hành pháp môn giải thoát không, tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; tu hành năm loại mắt, tu hành sáu phép thần thông; tu hành pháp môn Tam-ma-địa, tu hành pháp môn Đà-la-ni; tu hành mười lực Phật, tu hành bốn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành trí nhất thiết, tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; tu hành hạnh đại Bồ-tát; tu hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có bốn loài sai biệt: Một là noãn sanh, hai là thai sanh, ba là thấp sanh, bốn là hóa sanh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến không có bốn loài sai biệt như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có bốn loài hữu tình sai biệt như thế. Các loài hữu tình đều cùng hóa sanh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình không có năm loại thần thông, đối với việc làm không được tự tại.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loài hữu tình đều khiến đạt được năm tuệ thần thông. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình có năm tuệ thần thông đều được tự tại.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thọ dụng đoàn thực, thân có các thứ đại tiểu tiện, máu mủ hôi thối, thật đáng chán bỏ.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta nên làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình thọ dụng đoàn thực như thế, khiến trong thân họ không có các loại dơ uế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các hữu tình đều cùng thọ dụng món an diệu pháp hỷ, thân thể thơm sạch, không có các việc đại tiểu tiện dơ uế.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình thân không ánh sáng, có làm việc gì phải nhờ đến ánh sáng bên ngoài.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến rời bỏ thân không ánh sáng như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, thân các loài hữu tình đầy đủ ánh sáng, chẳng nhờ ánh sáng bên ngoài.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy nơi cư ngụ của các hữu tình có ngày có đêm, có tháng nửa tháng, thời tiết số năm, chuyển biến chẳng thường.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến chỗ ở của họ không có ngày đêm và các việc thay đổi. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có ngày đêm, và tháng nửa tháng, thời tiết năm số cho đến không có từ ngày, đêm v.v…
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình tuổi thọ ngắn ngủi.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến xa lìa tuổi thọ ngắn ngủi như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, tuổi thọ của các loài hữu tình dài lâu, khó biết kiếp số.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình không có các tướng tốt.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến được tướng tốt. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc viên mãn trang nghiêm, hữu tình trông thấy sanh niềm vui thanh thoát.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy loài hữu tình xa lìa các căn lành.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình như thế khiến đủ căn lành. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình, tất cả đều thành tựu căn lành vi diệu thù thắng. Do căn lành này, thường sắm sửa các món cúng dường thượng diệu để cúng dường chư Phật, nương vào phước lực này, tùy theo chỗ thọ sanh, lại thường cúng dường chư Phật Thế Tôn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình có đủ các bệnh về thân tâm; thân bệnh có bốn: Một là bệnh phong, hai là bệnh nhiệt, ba là bệnh đàm, bốn là đủ các loại bệnh phức tạp về phong. Tâm bệnh cũng có bốn: Một là bệnh tham, hai là bệnh sân, ba là bệnh si, bốn là bệnh mạn v.v... các thứ bệnh phiền não.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình có bệnh khổ thân, tâm như thế. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình, thân tâm thanh tịnh, không có nỗi khổ về bệnh, cho đến không nghe tên của các bệnh phong, nhiệt, đàm, và các bệnh phong phức tạp khác; cũng chẳng nghe các bệnh phiền não như tham, sân, si, mạn v.v…
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy có hữu tình có đủ các ý thích: Hoặc có người thích hướng đến Thanh-văn thừa, hoặc có người thích hướng đến Độc-giác thừa, hoặc có người thích hướng đến Vô thượng thừa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến từ bỏ ý thích hướng đến Thanh-văn, Độc-giác thừa, chỉ khiến thích hướng đến Vô thượng Đại-thừa. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột, chẳng ưa quả Thanh-văn, Độc-giác thừa cho đến không có tên Nhị thừa, chỉ nghe các thứ công đức của Đại-thừa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình khởi tăng thượng mạn; chưa có thể thật sự xa lìa sự giết hại sanh mạng mà cho là ta thật sự xa lìa sự giết hại sanh mạng; chưa có thể thật sự xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục tà hạnh mà cho là ta thật sự xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục tà hạnh; chưa có thể thật sự xa lìa lời nói hư dối mà cho là ta thật sự xa lìa lời nói hư dối; chưa có thể thật sự xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói chia rẽ, xa lìa lời nói hỗn tạp mà cho là ta thật sự xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói chia rẽ, xa lìa lời nói hỗn tạp; chưa có thể thật sự xa lìa tham dục mà cho là ta thật sự xa lìa tham dục; chưa có thể thật sự xa lìa sân giận và xa lìa tà kiến mà cho là ta thật sự xa lìa sân giận và xa lìa tà kiến; chưa đắc sơ thiền mà cho là đắc sơ thiền; chưa đắc đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền mà cho là đắc đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền; chưa đắc định Không-vô-biên xứ mà cho là đắc định Không-vô-biên xứ; chưa đắc định Thức-vô-biên xứ, Vô-sở-hữu xứ, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ mà cho là đắc định Thức-vô-biên xứ, Vô-sở-hữu xứ, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ; chưa đắc từ vô lượng mà cho là đắc từ vô lượng; chưa đắc bi, hỷ, xả vô lượng mà cho là đắc bi, hỷ, xả vô lượng; chưa đắc thần cảnh trí chứng thông mà cho là đắc thần cảnh trí chứng thông; chưa đắc thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm trí chứng thông mà cho là đắc thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm trí chứng thông; chưa đắc quán bất tịnh mà cho là đắc quán bất tịnh; chưa đắc quán lĩnh vực sai biệt của từ bi niệm tức duyên khởi mà cho là đắc quán lĩnh vực sai biệt của từ bi niệm tức duyên khởi; chưa đắc bậc chỉ quán mà cho là đắc bậc chỉ quán; chưa đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện mà cho là đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện; chưa đắc quả vị Độc-giác mà cho là đắc quả vị Độc-giác; chưa đắc bố thí Ba-la-mật-đa mà cho là đắc bố thí Ba-la-mật-đa, chưa đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà cho là đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chưa chứng pháp không nội mà cho là chứng pháp không nội, chưa chứng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà cho là chứng pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; chưa chứng chơn như mà cho là chứng chơn như, chưa chứng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà cho là chứng pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; chưa chứng Thánh đế khổ mà cho là chứng Thánh đế khổ, chưa chứng Thánh đế tập, diệt, đạo mà cho là chứng Thánh đế tập, diệt, đạo; chưa đắc bốn niệm trụ mà cho là đắc bốn niệm trụ, chưa đắc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà cho là đắc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; chưa đắc bốn tịnh lự mà cho là đắc bốn tịnh lự, chưa đắc bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà cho là đắc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chưa đắc tám giải thoát mà cho là đắc tám giải thoát, chưa đắc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà cho là đắc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chưa đắc pháp môn giải thoát không mà cho là đắc pháp môn giải thoát không, chưa đắc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà cho là đắc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chưa đắc bậc Cực hỷ mà cho là đắc bậc Cực hỷ, chưa đắc bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân mà cho là đắc bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân; chưa đắc năm loại mắt mà cho là đắc năm loại mắt, chưa đắc sáu phép thần thông mà cho là đắc sáu phép thần thông; chưa đắc pháp môn Tam-ma-địa mà cho là đắc pháp môn Tam-ma-địa, chưa đắc pháp môn Đà-la-ni mà cho là đắc pháp môn Đà-la-ni; chưa đắc mười lực Phật mà cho là đắc mười lực Phật, chưa đắc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà cho là đắc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chưa đắc pháp không quên mất mà cho là đắc pháp không quên mất, chưa đắc tánh luôn luôn xả mà cho là đắc tánh luôn luôn xả; chưa đắc trí nhất thiết mà cho là đắc trí nhất thiết, chưa đắc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà cho là đắc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chưa nghiêm tịnh cõi Phật mà cho là nghiêm tịnh cõi Phật, chưa thành thục hữu tình mà cho là thành thục hữu tình; chưa hiểu kỹ nghệ khéo léo của thế gian mà cho là hiểu kỹ nghệ khéo léo của thế gian; chưa tu hạnh đại Bồ-tát mà cho là tu hạnh đại Bồ-tát; chưa đắc quả vị giác ngộ cao tột mà cho là đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa sự kết buộc của tăng thượng mạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, không có hạng tăng thượng mạn như thế, tất cả hữu tình lìa tăng thượng mạn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình chấp trước các pháp, đó là chấp trước sắc, chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chấp trước nhãn xứ, chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chấp trước sắc xứ, chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chấp trước nhãn giới, chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chấp trước sắc giới, chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chấp trước nhãn thức giới, chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chấp trước nhãn xúc, chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chấp trước địa giới, chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chấp trước tánh nhân duyên, chấp trước tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chấp trước vô minh, chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; chấp trước ngã, chấp trước hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy; chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chấp trước pháp không nội, chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chấp trước chơn như, chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chấp trước Thánh đế khổ, chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; chấp trước bốn niệm trụ, chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chấp trước bốn tịnh lự, chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chấp trước tám giải thoát, chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chấp trước pháp môn giải thoát không, chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chấp trước bậc Cực hỷ, chấp trước bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; chấp trước năm loại mắt, chấp trước sáu phép thần thông; chấp trước pháp môn Tam-ma-địa, chấp trước pháp môn Đà-la-ni; chấp trước mười lực Phật, chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chấp trước pháp không quên mất, chấp trước tánh luôn luôn xả; chấp trước trí nhất thiết, chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chấp trước quả Dự-lưu, chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; chấp trước quả vị Độc-giác; chấp trước hạnh đại Bồ-tát; chấp trước quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến xa lìa chấp trước. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình không có các loại chấp trước như thế.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hào quang giới hạn, tuổi thọ giới hạn, các chúng đệ tử số lượng giới hạn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta làm thế nào để được hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, và các chúng đệ tử số lượng không giới hạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Bấy giờ, thân ta hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, các chúng đệ tử số đông vô lượng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà cõi Phật chu vi giới hạn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta làm thế nào để được cõi Phật vô lượng. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột, như hằng hà sa số đại thiên thế giới ở mười phương hiệp lại thành một cõi, Ta trụ trong đó thuyết pháp giáo hóa vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ-tát tu đủ sáu phép Ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình, sanh tử dài lâu, các thế giới hữu tình, số lượng vô biên.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Giới hạn của sanh tử giống như hư không, thế giới hữu tình cũng giống như thế. Tuy không chơn thật, nhưng các loại hữu tình lưu chuyển sanh tử, hoặc đắc Niết-bàn, nên các hữu tình vọng chấp là có luân hồi sanh tử, thọ khổ vô biên. Ta phải làm thế nào để phương tiện cứu giúp họ. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình nói pháp Vô thượng, đều khiến giải thoát khổ lớn sanh tử, cũng khiến chứng biết sanh tử, giải thoát hoàn toàn không sở hữu, đều rốt ráo không.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do sáu phép Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị giác ngộ cao tột.
XXXXXII. PHẨM CĂNG-GIÀ-THIÊN
Lúc bấy giờ, trong pháp hội có một thiên nữ tên là Căng-già-thiên, từ chỗ ngồi đứng dậy, phủ che vai bên trái, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay hướng về Phật bạch:
Bạch Thế Tôn! Con sẽ tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Cõi Phật mà con cầu như cõi Phật mà hiện nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các đại chúng đã nói đầy đủ tất cả cảnh tướng cõi ấy, ở trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa này.
Khi ấy, Căng-già-thiên nói như vậy rồi, liền lấy các thứ hoa vàng, hoa bạc, hoa tươi trên bờ, dưới nước, các đồ trang nghiêm và cầm một chiếc thiên y màu vàng, cung kính chí thành mà rải trên Phật. Do thần lực của Phật, thiên y bay vọt lên hư không, xoay qua phía bên phải, ở trên đỉnh Phật, biến thành đài báu có bốn trụ, bốn góc, thêu dệt trang trí rất dễ ưa thích.
Khi ấy, Thiên nữ cầm đài báu này ban cho các hữu tình đều có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột.
Lúc bấy giờ, Như Lai biết thiên nữ kia, chí nguyện sâu rộng, liền mỉm cười, thường pháp của chư Phật khi mỉm cười thì có các thứ hào quang từ miệng phóng ra, nay Phật cũng vậy, từ trong diện môn của Ngài, phóng ra các thứ hào quang xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, biếc, tía, lục, chiếu khắp vô lượng, vô biên, vô số thế giới trong mười phương, rồi trở lại cõi này, hiện đại thần biến, vòng quanh Phật ba vòng, nhập vào đỉnh Phật.
Lúc bấy giờ, A-nan thấy việc ấy rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, gối phải quì xuống đất, chấp tay hướng về Phật bạch:
Bạch Thế Tôn! Do nhơn duyên gì mà Ngài mỉm cười, vì chư Phật mỉm cười, chẳng phải là không nhơn duyên?
Phật bảo A-nan: Nay Thiên nữ này, ở đời vị lai sẽ được làm Phật, kiếp tên Tinh Dụ, hiệu Phật là Kim Hoa Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc Già Phạm. A-nan nên biết, nay thiên nữ này, tức là nữ thân cuối cùng phải thọ; bỏ thân này rồi, liền thọ nam thân, tận đời vị lai, chẳng thọ lại thân nữ; từ đây chết rồi, sanh vào thế giới rất dễ ưa thích của đức Phật Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở phương Đông. Tại cõi Phật kia, siêng tu phạm hạnh. Vị nữ này ở thế giới ấy cũng có tên là Kim Hoa, tu các hạnh đại Bồ-tát.
Này A-nan! Đại Bồ-tát Kim Hoa này, ở cảnh giới ấy chết rồi lại sanh phương khác, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, sanh ở bất kỳ cõi nào thường chẳng xa Phật. Như chuyển luân vương từ đài quán này đến đài quán khác, vui vẻ hưởng lạc cho đến mạng chung, chân chẳng chạm đất, Bồ-tát Kim Hoa cũng lại như vậy, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cho đến quả vị giác ngộ cao tột, ở trong đời nào thường không xa Phật, nghe thọ Chánh pháp, tu hạnh Bồ-tát.
Lúc bấy giờ, A-nan thầm nghĩ thế này: Bồ-tát Kim Hoa, khi thành Phật cũng nên tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa. Chúng đại Bồ-tát ở pháp hội ấy, số nhiều hay ít giống như hội chúng Bồ-tát của Phật này.
Phật biết ý nghĩ ấy, bảo A-nan: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nghĩ, Bồ-tát Kim Hoa khi thành Phật cũng vì chúng hội tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Chúng đại Bồ-tát ở pháp hội kia, số nhiều hay ít cũng như hội chúng Bồ-tát của Phật này.
Này A-nan! Nên biết, đại Bồ-tát Kim Hoa ấy, khi thành Phật, thì thế giới của Phật ấy, số lượng đệ tử xuất gia rất nhiều, chẳng thể tính đếm, đó là chẳng thể tính đếm: Hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ngàn, hoặc ức, hoặc trăm ức, hoặc ngàn ức, hoặc trăm ngàn ức, hoặc triệu, hoặc trăm triệu, hoặc ngàn triệu, hoặc trăm ngàn triệu chúng đại Bí-sô, chỉ có thể nói tóm lại là vô số, vô lượng, vô biên trăm ngàn ức triệu chúng đại Bí-sô.
Này A-nan! Nên biết, đại Bồ-tát Kim Hoa ấy, khi thành Phật, ở cõi Phật ấy, không có nhiều tội lỗi như trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đã nói.
Bấy giờ, cụ thọ A-nan lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nay thiên nữ này, trước đây, đối với đức Phật nào, đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng mà nay được gặp Phật, cung kính cúng dường, để được thọ ký Bất thối chuyển?
Phật bảo A-nan: Nay thiên nữ này, ở chỗ Phật Nhiên Đăng đã phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng cho nên nay gặp ta, cung kính cúng dường để được thọ ký Bất thối chuyển.
Này A-nan! Nên biết, ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng thời quá khứ, dùng năm cành hoa để rải cúng Phật, phát nguyện hồi hướng. Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết căn cơ của ta đã thành thục nên thọ ký cho ta. Bấy giờ, thiên nữ nghe Phật thọ ký đại Bồ-tát cho ta, vui mừng nhảy nhót, liền dùng hoa vàng rải cúng trên Phật, và phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng, khiến ta ở đời vị lai, khi Bồ-tát này thành Phật thì cũng như Phật hiện tiền hôm nay thọ ký đại Bồ-đề cho ta. Cho nên ta nay thọ ký cho thiên nữ ấy.
Cụ thọ A-nan nghe Phật nói xong, vui mừng nhảy nhót, lại bạch Phật:
Nay thiên nữ này, từ lâu, vì quả vị giác ngộ cao tột, trồng cội phước đức, nay được thành thục nên được Phật thọ ký.
Phật bảo A-nan: Đúng vậy! Đúng vậy! Nay thiên nữ này, từ lâu đã vì quả vị giác ngộ cao tột, trồng cội phước đức, nay đã thành thục nên được ta thọ ký.
XXXXXIII. PHẨM KHÉO HỌC
01
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, làm thế nào tập gần Tam-ma-địa Không, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Không? Làm thế nào tập gần Tam-ma-địa Vô tướng, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Vô tướng? Làm thế nào tập gần Tam-ma-địa Vô nguyện, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Vô nguyện? Làm thế nào tập gần bốn niệm trụ, làm thế nào tu bốn niệm trụ? Làm thế nào tập gần bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, làm thế nào tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo? Làm thế nào tập gần mười lực Phật, làm thế nào tu mười lực Phật? Làm thế nào tập gần bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, làm thế nào tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa nên quán sắc là không, nên quán thọ, tưởng, hành, thức là không; nên quán nhãn xứ là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; nên quán sắc xứ là không, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; nên quán nhãn giới là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không; nên quán sắc giới là không, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là không; nên quán nhãn thức giới là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, thức giới là không; nên quán nhãn xúc là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là không; nên quán địa giới là không, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; nên quán vô minh là không, nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là không; nên quán bố thí Ba-la-mật-đa là không, nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không; nên quán pháp không nội là không, nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là không; nên quán chơn như là không, nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là không; nên quán Thánh đế khổ là không, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo là không; nên quán bốn tịnh lự là không, nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không; nên quán tám giải thoát là không, nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không; nên quán bốn niệm trụ là không, nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không; nên quán pháp môn giải thoát không là không, nên quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không; nên quán mười địa Bồ-tát của Ba thừa là không; nên quán năm loại mắt là không, nên quán sáu phép thần thông là không; nên quán mười lực Phật là không, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không; nên quán pháp không quên mất là không, nên quán tánh luôn luôn xả là không; nên quán trí nhất thiết là không, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không; nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; nên quán quả Dự-lưu là không, nên quán quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là không; nên quán quả vị Độc-giác là không; nên quán tất cả hạnh đại Bồ-tát là không; nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không; nên quán pháp hữu lậu là không, nên quán pháp vô lậu pháp là không; nên quán pháp thế gian là không, nên quán pháp xuất thế gian là không; nên quán pháp hữu vi là không, nên quán pháp vô vi là không; nên quán pháp quá khứ là không, nên quán pháp vị lai, hiện tại là không; nên quán pháp thiện là không, nên quán pháp bất thiện, vô ký là không; nên quán pháp Dục giới là không, nên quán pháp Sắc, Vô sắc giới là không.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi quán như vậy, khiến tâm chẳng loạn; nếu tâm chẳng loạn thì chẳng thấy pháp; nếu chẳng thấy pháp thì chẳng chứng đắc. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khéo học tự tướng các pháp đều là không, không có pháp nào có thể tăng, không có pháp nào có thể giảm, cho nên đối với chẳng thấy, chẳng chứng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ở trong thắng nghĩa đế của tất cả pháp, năng chứng, sở chứng, chỗ chứng, thời gian chứng và do pháp đó được chứng, hoặc hiệp, hoặc ly đều chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể thấy được.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như Phật đã dạy, các đại Bồ-tát đối với cái không của các pháp, chẳng nên chứng đắc. Bạch Thế Tôn! Vì sao các đại Bồ-tát an trụ cái không của các pháp mà chẳng chứng đắc?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát khi quán cái không của pháp thì trước hết nghĩ thế này: Ta nên quán các tướng của pháp đều không, chẳng nên chứng đắc. Ta vì học nên quán cái không của các pháp chứ chẳng vì chứng đắc mà quán cái không của các pháp. Nay là lúc học chứ chẳng phải là lúc chứng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, chưa nhập định vị, buộc tâm ở sở duyên; khi đã nhập định thì chẳng để tâm nơi cảnh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, ở trong lúc này, chẳng từ bỏ bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp không nội, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ chơn như, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn tịnh lự, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tám giải thoát, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn niệm trụ, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát không, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ năm loại mắt, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ sáu phép thần thông, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ mười lực Phật, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp không quên mất, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ trí nhất thiết, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ hạnh đại Bồ-tát, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ quả vị giác ngộ cao tột, chẳng chứng lậu tận. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy thành tựu đại trí vi diệu như thế, khéo an trụ pháp không và tất cả pháp Bồ-đề phần, nghĩ thế này: Bây giờ nên học chẳng phải là lúc chứng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa nên nghĩ thế này: Ta đối với bố thí Ba-la-mật-đa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp không nội, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với chơn như, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với Thánh đế khổ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với bốn tịnh lự, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tám giải thoát, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với bốn niệm trụ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp môn giải thoát không, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với năm loại mắt, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với sáu phép thần thông, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với mười lực Phật, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp không quên mất, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tánh luôn luôn xả, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với trí nhất thiết, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với quả vị giác ngộ cao tột, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta nay nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả Dự-lưu. Ta nay nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Ta nay nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả vị Độc-giác.
Quyển Thứ 331
HẾT
XXXXXIII. PHẨM KHÉO HỌC
02
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tu hành sâu xa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nên tập gần Tam-ma-địa Không, nên an trụ Tam-ma-địa Không, nên tu hành Tam-ma-địa Không nhưng đối với thật tế chẳng nên chứng đắc. Nên tập gần Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện, nên an trụ Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện, nên tu hành Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện nhưng đối với thật tế chẳng nên chứng đắc. Nên tập gần bốn niệm trụ, nên an trụ bốn niệm trụ, nên tu hành bốn niệm trụ, nhưng đối với thật tế chẳng nên chứng đắc; nên tập gần bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nên an trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, nên tu hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, nhưng đối với thật tế chẳng nên chứng đắc. Như vậy cho đến nên tập gần mười lực Phật, nên hướng đến mười lực Phật, nên tu hành mười lực Phật, nhưng đối với thật tế chẳng nên chứng đắc. Nên tập gần bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên hướng đến bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên tu hành bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nhưng đối với thật tế chẳng nên chứng đắc.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tuy tập gần Tam-ma-địa Không, an trụ Tam-ma-địa Không, tu hành Tam-ma-địa Không, nhưng chẳng chứng quả Dự-lưu, cũng chẳng chứng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị Độc-giác. Tuy tập gần Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện; an trụ Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện, tu hành Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện, nhưng chẳng chứng quả Dự-lưu, cũng chẳng chứng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị Độc-giác. Tuy tập gần bốn niệm trụ, an trụ bốn niệm trụ, tu hành bốn niệm trụ, nhưng chẳng chứng quả Dự-lưu, cũng chẳng chứng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị Độc-giác; tuy tập gần bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, an trụ bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, tu hành bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, nhưng chẳng chứng quả Dự-lưu, cũng chẳng chứng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng lại chẳng chứng quả vị Độc-giác.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do nhân duyên này, chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Thí như vị tráng sĩ, oai dũng mạnh mẽ, tướng mạo đoan nghiêm, người thấy hoan hỷ, đầy đủ quyến thuộc, rất thanh tịnh viên mãn, đối với các binh pháp, học đến chỗ rốt ráo, khéo cầm khí trượng, vững chắc bất động, sáu mươi bốn tài năng, mười tám loại kinh thư, tất cả kỹ thuật đều làu thông, mọi người nhìn vào thảy đều kính phục; vì việc làm khéo léo nên công ít mà lợi nhiều. Do đó mà mọi người cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Bấy giờ, người ấy càng thêm vui mừng, phấn khởi tự bằng lòng với mình. Vì có duyên sự, người ấy dẫn đưa người già yếu và thân quyến đi đến địa phương khác; giữa đường ngang qua cánh đồng hoang vắng đầy hiểm nạn, nơi ấy có nhiều ác thú, giặc cướp, oan gia, tiềm phục các việc khiếp sợ. Thân quyến lớn nhỏ đều sợ hãi kinh hoàng. Người ấy tự trông cậy vào sức mạnh uy mãnh của mình, có nhiều kỹ thuật nên thân ý thư thái, an ủi cha mẹ cùng thân quyến chớ lo sợ, sẽ làm cho hết khổ. Khi ấy, người ấy dùng xảo thuật khéo léo, đưa các thân quyến đến chỗ an ổn. Đã thoát nạn hiểm rồi, mừng vui thọ lạc, nhưng vị tráng sĩ ấy, ở nơi chốn đồng hoang, ác thú oán tặc không có ý làm hại. Vì sao? Vì tự trông cậy vào sức mạnh, đủ các kỹ thuật không hề sợ sệt.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát cũng lại như thế, vì thương yêu các hữu tình bị khổ sanh tử, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, duyên khắp hữu tình, khởi bốn vô lượng, an trụ tâm câu hành với bốn vô lượng, tinh cần tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, khiến mau viên mãn. Đại Bồ-tát ấy đối với sáu phép Ba-la-mật-đa này, ở vị chưa viên mãn, vì muốn tu học trí nhất thiết trí, nên chẳng chứng lậu tận. Tuy an trụ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nhưng chẳng theo thế lực của pháp môn ấy, cũng chẳng bị dẫn dắt theo sự chướng ngại ấy; đối với pháp môn giải thoát cũng chẳng chứng đắc. Vì chẳng chứng nên chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, chắc chắn hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Như con chim có đôi cánh khỏe bay trên hư không, tự tại bay lượn đùa giỡn, chẳng rơi xuống đất. Tuy nương hư không đùa giỡn nhưng chẳng chiếm cứ hư không, cũng chẳng bị hư không ngăn ngại.
Này Thiện Hiện! Nên biết, các đại Bồ-tát cũng lại như vậy, tuy đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện luôn luôn tập gần, an trụ, tu hành nhưng chẳng chứng đắc; do chẳng chứng đắc nên chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác. Tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết trí, nếu chưa viên mãn thì chẳng bao giờ nương ba pháp Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện mà chứng lậu tận.
Này Thiện Hiện! Thí như người khỏe mạnh thông thạo nghệ thuật bắn cung, muốn biểu diễn tài nghệ của mình, ngước bắn lên hư không, vì muốn mũi tên ở trên không, không rơi xuống đất, nên dùng mũi tên sau bắn mũi tên trước. Cứ như vậy, lần lượt trải qua nhiều thời gian, mũi tên này nối đuôi mũi tên kia chẳng cho rơi xuống; nếu muốn cho rơi xuống thì dừng mũi tên sau; khi ấy, các tên liền rơi xuống đất.
Này Thiện Hiện! Nên biết, các đại Bồ-tát cũng giống như thế, vì tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo nhiếp thọ, cho đến quả vị giác ngộ cao tột, nhơn tu hành căn lành chưa thành thục, nên chẳng bao giờ nửa chừng mà chứng thật tế. Nếu muốn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì nhơn tu hành căn lành, tất cả đều thành thục, bấy giờ Bồ-tát mới chứng thật tế, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đều nên quán xét kỹ lưỡng về thật tướng của các pháp như trước đã nói.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát thường làm việc khó làm, tuy học các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; tuy học các pháp không nội, không ngoại, không nội ngoại, không không, không lớn, không thắng nghĩa, không hữu vi, không vô vi, không rốt ráo, không không biên giới, không tản mạn, không đổi khác, không bổn tánh, không tự tướng, không cộng tướng, không tất cả pháp, không chẳng thể nắm bắt được, không không tánh, không tự tánh, không không tánh tự tánh; tuy học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tuy học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; tuy học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nhưng nửa chừng chẳng rơi vào địa vị Thanh-văn và Độc-giác, thối thất quả vị giác ngộ cao tột.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy rất là hiếm có.
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Vì các đại Bồ-tát ấy đối với các hữu tình, thề chẳng rời bỏ. Họ nguyện: Nếu các hữu tình chưa được giải thoát, thì ta quyết chẳng bỏ gia hạnh đã khởi.
Này Thiện Hiện! Nguyện lực của các đại Bồ-tát thù thắng, thường nghĩ: Tất cả hữu tình nếu chưa giải thoát, thì ta quyết chẳng bỏ họ. Do phát khởi tâm rộng lớn như thế, nên nửa chừng quyết chẳng thối lui.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát thường nghĩ thế này: Ta chẳng nên bỏ tất cả hữu tình, quyết khiến họ giải thoát. Nhưng các hữu tình làm việc bất chánh, ta vì độ họ nên luôn chỉ dẫn pháp môn giải thoát tịch tịnh là không, vô tướng, vô nguyện. Tuy luôn luôn chỉ dẫn mà chẳng thủ chứng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì thành tựu sức phương tiện thiện xảo, nên tuy luôn luôn hiện khởi ba pháp môn giải thoát, nhưng nửa chừng chẳng chứng thật tế, cho đến chưa chứng đắc trí nhất thiết trí, cần phải chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột thì mới thủ chứng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát thường ưa quán xét chỗ sâu xa, đó là ưa quan sát pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng ưa quan sát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện v.v... đều là tự tánh không.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy quán sát như vậy rồi, sanh khởi ý nghĩ thế này: Các loại hữu tình do sức của bạn ác, ở trong đêm dài khởi tưởng chấp ngã, tưởng chấp hữu tình, tưởng chấp dòng sanh mạng, tưởng chấp khả năng sanh khởi, tưởng chấp sự dưỡng dục, tưởng chấp sự trưởng thành, tưởng chấp chủ thể luân hồi, tưởng chấp ý sanh, tưởng chấp nho đồng, tưởng chấp khả năng làm việc, tưởng chấp khả năng thọ quả báo, tưởng chấp cái biết, tưởng chấp cái thấy. Do tưởng chấp này mà việc làm có sở đắc luân hồi sanh tử, chịu đủ các khổ. Vì dứt trừ các tưởng chấp như thế của hữu tình nên ta hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; vì các hữu tình mà nói pháp sâu xa mầu nhiệm, khiến đoạn tưởng chấp, lìa khổ sanh tử.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, bấy giờ, tuy tu tập pháp môn giải thoát không, nhưng chẳng nương vào pháp này mà chứng thật tế; tuy tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhưng chẳng nương vào đó mà chứng thật tế; vì đối với thật tế chẳng thủ chứng, nên chẳng rơi vào quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, cũng lại chẳng rơi vào quả vị Độc-giác.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy do nghĩ như thế, nên tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa thành tựu căn lành, chẳng chứng thật tế; tuy đối với thật tế chưa chứng đắc ngay, nhưng chẳng từ bỏ bốn tịnh lự, cũng chẳng từ bỏ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng từ bỏ bốn niệm trụ, cũng chẳng từ bỏ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng chẳng từ bỏ tám giải thoát, cũng chẳng từ bỏ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng từ bỏ pháp không nội, cũng chẳng từ bỏ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng từ bỏ chơn như, cũng chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, cũng chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng từ bỏ bố thí Ba-la-mật-đa; cũng chẳng từ bỏ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng từ bỏ năm loại mắt, cũng chẳng từ bỏ sáu phép thần thông; cũng chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng từ bỏ mười lực Phật, cũng chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng từ bỏ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; cũng chẳng từ bỏ pháp không quên mất, cũng chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả; cũng chẳng từ bỏ trí nhất thiết, cũng chẳng từ bỏ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, bấy giờ, thành tựu tất cả pháp phần Bồ-đề, cho đến chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, đối với các công đức chẳng hề suy giảm.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa vì dùng phương tiện thiện xảo nhiếp thọ, cho nên trong từng sát na, bạch pháp tăng trưởng, các căn lanh lợi, vượt qua tất cả Thanh-văn, Độc-giác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát thường nghĩ thế này: Các loại hữu tình ở trong đêm dài, tâm họ thường bị bốn món đảo làm điên đảo, đó là thường: Tâm điên đảo, kiến điên đảo; hoặc tưởng điên đảo lạc: Tâm điên đảo, kiến điên đảo; hoặc tưởng điên đảo ngã: Tâm điên đảo, kiến điên đảo; hoặc tưởng điên đảo tịnh: Tâm điên đảo, kiến điên đảo, tưởng điên đảo. Ta vì các hữu tình như vậy, nên hướng đến quả vị giác ngộ, tu các hạnh đại Bồ-tát. Khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình nói pháp không điên đảo: Nói sanh tử là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, chỉ có Niết-bàn là tịch tịnh vi diệu, đầy đủ các loại công đức chơn thật Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thành tựu niệm này: Tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì dùng phương tiện thiện xảo nhiếp thọ, nên đối mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nếu chưa viên mãn thì chẳng bao giờ nhập thắng định của Như Lai.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, bấy giờ, tuy tu tập pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhập xuất tự tại, nhưng đối với thật tế, chưa chứng đắc ngay, cho đến quả vị giác ngộ cao tột; vì công đức tu hành chưa hoàn toàn viên mãn, nên chẳng chứng đắc thật tế và các công đức khác, khi cầu chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột mới chứng đắc.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, bấy giờ, tuy đối với các công đức khác, tu chưa viên mãn, nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa vô nguyện, tu đã viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Các loại hữu tình ở trong đêm dài, tu hành có sở đắc, đó là chấp có ngã, hoặc chấp có hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy; hoặc chấp có sắc, hoặc chấp có thọ, tưởng, hành, thức; hoặc chấp có nhãn xứ, hoặc chấp có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc chấp có sắc xứ, hoặc chấp có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc chấp có nhãn giới, hoặc chấp có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; hoặc chấp có sắc giới, hoặc chấp có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; hoặc chấp có nhãn thức giới, hoặc chấp có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; hoặc chấp có nhãn xúc, hoặc chấp nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; hoặc chấp có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc chấp có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; hoặc chấp có địa giới, hoặc chấp có thủy, hỏa, phong, không, thức giới; hoặc chấp có vô minh, hoặc chấp có hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; hoặc chấp có mười thiện nghiệp đạo; hoặc chấp có bốn tịnh lự, hoặc chấp có bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chấp có bốn chánh sự. Ta vì các hữu tình như thế, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, tu các hạnh đại Bồ-tát; khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các hữu tình vĩnh viễn dứt trừ các chấp có sở đắc như thế.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thành tựu tâm niệm này, tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì dùng phương tiện thiện xảo nhiếp thọ nên đối với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nếu chưa viên mãn thì chẳng chứng thật tế.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, bấy giờ, tuy đối với pháp môn Tam-ma-địa Vô tướng, Vô nguyện, chẳng phải chẳng tu tập nhưng chỉ đối với pháp môn Tam-ma-địa không, tu đã viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thấy các hữu tình do sức bạn ác, trong đêm dài chấp trước vô lượng các loại tướng, đó là chấp trước tướng nữ, tướng nam, tướng sắc, tướng thanh, tướng hương, tướng vị, tướng xúc, tướng pháp, nên luôn luôn nghĩ: Ta vì các loài hữu tình như thế nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, tu các hạnh đại Bồ-tát, khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, khiến các hữu tình vĩnh viễn không có sự chấp trước các tướng như thế.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thành tựu tâm niệm này, tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, vì dùng phương tiện thiện xảo nhiếp thọ, nên đối với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nếu chưa viên mãn thì chẳng chứng thật tế.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, bấy giờ, tuy đối với pháp môn Tam-ma-địa Không, Vô nguyện, chẳng phải chẳng tu tập, nhưng đối với pháp môn Tam-ma-địa Vô tướng, tu đã viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc đại Bồ-tát đã tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; đã an trụ hoàn hảo pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; đã an trụ hoàn hảo chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; đã an trụ hoàn hảo Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; đã tu học hoàn hảo bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; đã tu tập hoàn hảo pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; đã tu học hoàn hảo cho đến mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên Phật pháp khác.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy thành tựu công đức trí tuệ như thế, nếu đối với sanh tử phát khởi ý tưởng ưa thích, hoặc nói là ưa thích, hoặc đối với ba cõi, chấp trước an trụ thì không có việc đó.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đã tu học hoàn hảo pháp Bồ-đề phần, thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ-tát đáng lẽ nên hỏi thử: Nếu đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, làm thế nào tu học pháp Bồ-đề phần mà chẳng chứng không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh, thật tế? Do chẳng chứng nên chẳng rơi vào quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, quả vị Độc-giác mà siêng năng tu Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, thường không chấp trước?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi được hỏi câu này, nếu trả lời thế này: Các đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, chỉ nên tư duy không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh, thật tế, tất cả pháp Bồ-đề phần khác, chẳng nên tu học, thì này Thiện Hiện! Nên biết, đại Bồ-tát ấy chưa được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký quả vị giác ngộ cao tột Bất thối chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy chưa có thể khai thị ký biệt, và biểu lộ rõ là đại Bồ-tát trụ ở địa vị Bất thối chuyển tu học pháp tướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy khi được hỏi câu này, nếu trả lời là các đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột nên tư duy đúng đắn không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh, thật tế và tất cả pháp Bồ-đề phần khác, cũng nên phương tiện thiện xảo như trước đã nói mà tu học nhưng chẳng chứng đắc thì này Thiện Hiện! Nên biết, đại Bồ-tát ấy đã được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký quả vị giác ngộ cao tột Bất thối chuyển. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy đã có khả năng khai thị ký biệt, biểu lộ rõ là đại Bồ-tát trụ ở địa vị Bất thối chuyển tu học pháp tướng.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chưa có khả năng khai thị, ký biệt biểu lộ rõ là đại Bồ-tát trụ địa vị Bất thối chuyển tu học pháp tướng, thì nên biết đại Bồ-tát ấy chưa tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, pháp Bồ-đề phần, chưa nhập địa vị Bạc, chưa giống như các đại Bồ-tát trụ địa vị Bất thối chuyển khác, khai thị ký biệt, biểu lộ rõ là an trụ địa vị Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát có khả năng khai thị, ký biệt biểu lộ rõ là đại Bồ-tát trụ ở địa vị Bất thối chuyển tu học pháp tướng, thì nên biết đại Bồ-tát ấy đã tu học