- Lời Nói Đầu
- Tập 1 (Quyển 1-15)
- Tập 1 (Quyển 16-25)
- Tập 2 (Quyển 26-37)
- Tập 2 (Quyển 38-50)
- Tập 3 (Quyển 51-63)
- Tập 3 (Quyển 64 – 75)
- Tập 4 (Quyển 76 – 90)
- Tập 4 (Quyển 90 – 100)
- Tập 5 (Quyển 101-113)
- Tập 5 (Quyển 113-125)
- Tập 6 (Quyển 126-139)
- Tập 6 (Quyển 140-150)
- Tập 7 (Quyển 151-163)
- Tập 7 (Quyển 164-175)
- Tập 8 (Quyển 176-187)
- Tập 8 (Quyển 188-200)
- Tập 9 (Quyển 201-212)
- Tập 9 (Quyển 213-225)
- Tập 10 (Quyển 226-237)
- Tập 10 (Quyển 238-250)
- Tập 11 (Quyển 251-263)
- Tập 11 (Quyển 264-275)
- Tập 12 (Quyển 276-287)
- Tập 12 (Quyển 288-300)
- Tập 13 (Quyển 301-313)
- Tập 13 (Quyển 314-325)
- Tập 14 (Quyển 326-334)
- Tập 14 (Quyển 335-350)
- Tập 15 (Quyển 351-362)
- Tập 15 (Quyển 363-375)
- Tập 16 (Quyển 376-386)
- Tập 16 (Quyển 387-400)
- Tập 17 (Quyển 401-412)
- Tập 17 (Quyển 413-425)
- Tập 18 (Quyển 426-437)
- Tập 18 (Quyển 438-450)
- Tập 19 (Quyển 451-463)
- Tập 19 (Quyển 464-475)
- Tập 20 (Quyển 476-487)
- Tập 20 (Quyển 488-500)
- Tập 21 (Quyển 501-513)
- Tập 21 (Quyển 514-525)
- Tập 22 (Quyển 526-538)
- Tập 22 (Quyển 539-550)
- Tập 23 (Quyển 551-562)
- Tập 23 (Quyển 563-575)
- Tập 24 (Quyển 576-588)
- Tập 24 (Quyển 589-600)
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
TẬP 15 (Quyển 351-362)
LXI. PHẨM ĐA VẤN BẤT NHỊ
01
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, thì từ khi phát tâm trở đi, phải trải qua thời gian bao lâu?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi trải qua vô số trăm ngàn ức triệu kiếp.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, thì đã từng gần gũi cúng dường bao nhiêu đức phật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đã từng gần gũi cúng dường hằng hà sa số chư Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, đã từng gieo trồng bao nhiêu thiện căn?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không lúc nào đối với bố thí Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp không nội mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn; không có lúc nào đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với chơn như mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn; không có lúc nào đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với Thánh đế khổ mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn, không có lúc nào đối với Thánh đế tập, diệt, đạo mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với bốn tịnh lự mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với bốn vô lương, bốn định vô sắc mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với tám giải thoát mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với bốn niệm trụ mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp môn giải thoát không mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà chẳng tinh cần tu tập viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với năm loại mắt mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với sáu phép thần thông mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với mười lực Phật mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp không quên mất mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với tánh luôn luôn xả mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với trí nhất thiết mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp môn Đà-la-ni mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với pháp môn Tam-ma-địa mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với hạnh Đại Bồ-tát mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, gieo trồng các thứ thiện căn viên mãn như trên. Do nhân duyên này mà thành tựu phương tiện thiện xảo như thế.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, rất là hi hữu?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, Đại Bồ-tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế rất là hi hữu.
Thiện Hiện nên biết! Như mặt trời, mặt trăng, lần lượt chiếu sáng thế giới bốn đại châu, làm một việc to lớn. Các loài hữu tình, phi tình trong thế giới ấy tùy theo thế lực ánh sáng ấy mà hoạt động, đều hoàn thành sự việc của mình, cũng thế, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chiếu sáng năm Ba-la-mật-đa khác làm sự việc to lớn. Năm Ba-la-mật-đa như bố thí v.v... tùy theo thế lực của Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà chuyển vận đều hoàn thành sự việc của mình.
Thiện Hiện nên biết! Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mới được gọi là Ba-la-mật-đa; nếu lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa.
Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển luân vương, nếu không có bảy loại quí báu thì không được gọi là Chuyển luân Thánh vương.; cần phải đủ bảy loại quí báu mới được gọi là Chuyển luân thánh vương; bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu chẳng phải Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, thì chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa; cần phải được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ mới được gọi là Ba-la-mật-đa.
Thiện Hiện nên biết! Như có người nữ đẹp đẽ, giàu có, nếu không có người chồng khỏe mạnh bảo vệ thì dễ bị kẻ xấu xâm phạm. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu không có sức nhiếp hộ của Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì dễ bị thiên ma và quyến thuộc của chúng phá hoại, gây trở ngại.
Thiện Hiện nên biết! Như có người nữ đẹp đẽ, giàu có, nếu có người chồng khỏe mạnh bảo vệ thì chẳng bị kẻ xấu xâm phạm. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu có thế lực của Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp hộ thì tất cả thiên ma và quyến thuộc của chúng chẳng thể phá hoại, gây trở ngại.
Thiện Hiện nên biết! Như có quân tướng khi lâm trận chuẩn bị tốt các thứ áo giáp, đao, trượng, thì oán địch lân quốc chẳng thể hại được. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu chẳng xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì ma và quyến thuộc, người tăng thượng mạn, cho đến Bồ-tát, Chiên-đồ-la v.v... đều chẳng thể phá hoại được.
Thiện Hiện nên biết! Như các tiểu vương ở châu Thiệm-bộ, theo thời chầu hầu Chuyển luân Thánh vương, nhờ Chuyển luân vương, nên được du ngoạn cảnh đẹp. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, tùy thuận Bát-nhã Ba-la-mật-đa, do thế lực Bát-nhã Ba-la-mật-đa dẫn đạo nên mau đạt đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện nên biết! Như các dòng sông phía Đông của châu Thiệm-bộ, đều chảy vào sông Hằng, cùng sông Hằng đổ ra biển cả. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, đều được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp dẫn nên có thể đạt đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện nên biết! Như tay phải của người có thể làm các việc, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, có khả năng dẫn phát tất cả thiện pháp thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Như tay trái của người làm việc bất tiện, bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, chẳng có thể dẫn sanh thiện pháp thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Thí như các dòng sông hoặc lớn, hoặc nhỏ, đều chảy vào biển cả, đồng một vị mặn, bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, đều được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, cũng đạt đến quả vị giác ngộ cao tột. Do đó, đều gọi là đáo bỉ ngạn.
Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển luân vương, muốn đi tuần thú, bốn thứ binh chủng đi theo, Bánh xe báu ở trước, tới vua và bốn loại binh chủng, vua nghĩ muốn ăn uống, bánh xe liền dừng lại; ăn uống xong, vua nghĩ muốn đi, bánh xe liền đi trước. Bánh xe đi, dừng là tùy theo ý vua muốn, khi đến đích rồi không còn đi tới nữa. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, cùng các thiện pháp muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột, cần phải nhờ vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa để dẫn đường, tiến dừng đều theo, chẳng lìa bỏ nhau; khi đạt đến quả Phật rồi thì không dẫn đường nữa.
Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển luân vương đầy đủ bảy loại quí báu, đó là bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, bề tôi báu, chủ kho tàng báu, nữ báu, tướng báu, ngọc như ý báu. Chuyển luân vương ấy muốn đến nơi nào, bốn thứ binh và bảy loại báu tùy tùng sau trước. Bấy giờ, bánh xe báu tuy ở trước hết, nhưng chẳng phân biệt tướng trước sau. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, cùng với các thiện pháp muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột, quyết dùng Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm pháp dẫn đầu. Nhưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa này chẳng nghĩ thế này: Đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa ta là pháp dẫn đầu, các pháp kia theo ta. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa chẳng nghĩ thế này: Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa ở trước chúng ta, chúng ta tùy tùng pháp ấy. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Ba-la-mật-đa và tất cả pháp, tự tánh đều trì độn, không làm được gì, hư vọng chẳng thật, rỗng không, không sở hữu, tướng chẳng tự tại, giống như bóng nắng, trăng dưới nước, hình trong gương v.v... ở trong đó hoàn toàn không có tự thể chơn thật phân biệt tác dụng.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp, tự tánh đều không, thì tại sao Đại Bồ-tát tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát đối với sáu phép Ba-la-mật-đa này, khuyên tu học, thường nghĩ thế này: hữu tình thế gian, tâm đều điên đảo, bị khổ sanh tử, chẳng thể tự thoát. Nếu ta không tu phương tiện thiện xảo, thì chẳng có thể giải thoát khổ sanh tử kia. Ta sẽ vì các loài hữu tình ấy, tinh cần tu học thiện xảo phương tiện bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nghĩ thế xong, vì các hữu tình xả bỏ vật bên trong, bên ngoài; xả bỏ rồi lại nghĩ thế này, ta đối với vật này hoàn toàn không có sự xả bỏ. Vì sao? Vì vật này tự tánh trong ngoài đều là không, chẳng quan hệ với ta, chẳng thể xả bỏ.
Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, vì các hữu tình chẳng bao giờ phạm giới. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà giết hại sanh mạng, không cho mà lấy, dâm dục tà hạnh là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà nói lời hư dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời hỗn tạp là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà phát khởi tham muốn, sân hận, tà kiến là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà cầu cảnh giới diệu dục, cầu sự giàu có an vui cõi trời, cầu làm Đế thích, ma, phạm vương v.v... là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà cầu an trụ Thanh văn hoặc Độc giác là điều chẳng nên.
Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình chẳng khởi sân hận; giả sử thường bị hủy báng, lăng nhục bằng lời đau đớn, cay đắng, cắt đứt tim tủy, chẳng bao giờ phát khởi một niệm sân hận. Lại dù thường bị các vật đao, trượng, gạch, đá, gậy, đất vụn v.v... đánh đụng vào thân, cắt, xẻo, chích, đâm, xẻ từng bộ phận cơ thể, cũng chẳng phát khởi một niệm ác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy quán sát tất cả âm thanh như tiếng vang trong hang núi, sắc như bọt bèo. Ta vì lợi ích cho tất cả hữu tình, chẳng nên đối với sự việc này mà vọng khởi sân hận.
Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình siêng cầu thiện pháp cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, ở khoảng giữa thường không giải đãi. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Nếu ta giải đãi, thì chẳng có thể cứu giúp sanh lão bệnh tử của các loại hữu tình, cũng chẳng có thể đạt được sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình tu các định thù thắng, cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, không bao giờ phát khởi tâm tán loạn: Tham, sân, si v.v.... Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Nếu ta phát khởi tâm câu hành tham, tâm câu hành sân, tâm câu hành si và tâm tán loạn đối với các sự việc khác, thì chẳng có thể thành tựu sự việc lợi ích cho người khác, cũng chẳng có thể đạt được sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình, thường chẳng xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, thường siêng tu học trí tuệ thù thắng vi diệu thế gian và xuất thế gian. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Nếu làm sai khác Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng bao giờ thành tựu sự việc lợi lạc cho người khác, cũng chẳng có thể đạt được sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu sáu phép Ba-la-mật-đa, tướng không sai biệt, thì đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa tu thành tựu viên mãn, nên hợp thành một Ba-la-mật-đa, đó là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tại sao có thể nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí v.v... Ba-la-mật-đa là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời ông nói, bố thí v.v... sáu phép Ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt; nếu không có Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì bố thí v.v... năm pháp chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa, cần nhờ Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà bố thí v.v... năm pháp mới được gọi là Ba-la-mật-đa. Do vì năm Ba-la-mật-đa trước này đều thâu gồm trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên chỉ có một Ba-la-mật-đa đó là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì vậy, tất cả Ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt.
Thiện Hiện nên biết! Như các hữu tình, tuy có các loại thân tướng sai khác, nhưng nếu gần gũi với núi chúa Diệu cao thì đều cùng một sắc; Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, tuy có các phẩm loại sai biệt, nhưng vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, nên đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu hành thành tựu viên mãn, nương vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mới có thể nhập vào trí nhất thiết trí, mới được gọi là đến bờ bên kia, đều đồng một vị, tướng không sai biệt, chẳng thể an lập đây là bố thí Ba-la-mật-đa, đây là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sáu phép Ba-la-mật-đa như thế có thể cùng hướng nhập trí nhất thiết trí, có thể đến bờ bên kia, tướng không sai biệt. Do nhân duyên ấy, bố thí v.v... sáu phép Ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Ba-la-mật-đa và tất cả pháp, nếu theo thật nghĩa, đều không có sự sai biệt đây, kia, hơn, kém, thì do nhân duyên gì mà nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với bố thí v.v... các Ba-la-mật-đa là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, nếu theo thật nghĩa thì Ba-la-mật-đa và tất cả pháp đều không có sự sai biệt đây, kia, hơn, kém; nương thế tục nên nói có tác dụng, nói có sai biệt kia, đây, hơn, thua, thiết lập bố thí Ba-la-mật-đa, thiết lập tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn độ thoát sanh lão bệnh tử có tác dụng thế tục của các loại hữu tình. Nhưng sự sanh lão bệnh tử của các hữu tình đều chẳng phải thật có, chỉ giả đặt ra mà thôi. Vì sao? Vì hữu tình không có, nên biết các pháp cũng không có sở hữu, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa liễu đạt tất cả, hoàn toàn không có sở hữu, có thể có tác dụng cứu vớt hữu tình thế tục khỏi sanh lão bệnh tử. Do đó nên nói: Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí Ba-la-mật-đa v.v… là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.
Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển luân vương có ngọc nữ quí báu, đối với người nữ trong nhân gian, là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng; Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vậy, đối với bố thí Ba-la-mật-đa v.v… là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Vì nhân duyên gì mà Phật chỉ tuyên nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với bố thí Ba-la-mật-đa v.v… là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do Bát-nhã Ba-la-mật-đa này có khả năng khéo nhiếp thủ tất cả thiện pháp hòa hợp hướng nhập trí nhất thiết trí, an trụ bất động, dùng vô sở trụ làm phương tiện.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, đối với các thiện pháp có thủ xả chăng?
Phật dạy:
- Không! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không thủ, không xả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều chẳng thể thủ, chẳng thể xả.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với những pháp nào không thủ không xả?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc, không thủ không xả; đối với thọ, tưởng, hành, thức, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xứ, không thủ không xả; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc xứ, không thủ không xả; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn giới, không thủ không xả; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc giới, không thủ không xả; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn thức giới, không thủ không xả; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xúc, không thủ không xả; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không thủ không xả; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với địa giới, không thủ không xả; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với vô minh, không thủ không xả; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí Ba-la-mật-đa, không thủ không xả; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không nội, không thủ không xả; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với chơn như, không thủ không xả; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với Thánh đế khổ, không thủ không xả; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn tịnh lự, không thủ không xả; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tám giải thoát, không thủ không xả; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn niệm trụ, không thủ không xả; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp môn giải thoát không, không thủ không xả; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với năm loại mắt, không thủ không xả; đối với sáu phép thần thông, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với mười lực Phật, không thủ không xả; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không quên mất, không thủ không xả; đối với tánh luôn luôn xả, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với trí nhất thiết, không thủ không xả; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, không thủ không xả; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả Dự lưu, không thủ không xả; đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị Độc giác, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không thủ không xả.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc, không thủ không xả? Tại sao đối với thọ, tưởng, hành, thức, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn xứ, không thủ không xả? Tại sao đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc xứ, không thủ không xả? Tại sao đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn giới, không thủ không xả? Tại sao đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc giới, không thủ không xả? Tại sao đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn thức giới, không thủ không xả? Tại sao đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn xúc, không thủ không xả? Tại sao đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không thủ không xả? Tại sao đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với địa giới, không thủ không xả? Tại sao đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với vô minh, không thủ không xả? Tại sao đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bố thí Ba-la-mật-đa, không thủ không xả? Tại sao đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với pháp không nội, không thủ không xả? Tại sao đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với chơn như, không thủ không xả? Tại sao đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với Thánh đế khổ, không thủ không xả? Tại sao đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bốn tịnh lự, không thủ không xả? Tại sao đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tám giải thoát, không thủ không xả? Tại sao đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bốn niệm trụ, không thủ không xả? Tại sao đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với pháp môn giải thoát không, không thủ không xả? Tại sao đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với năm loại mắt, không thủ không xả? Tại sao đối với sáu phép thần thông, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với mười lực Phật, không thủ không xả? Tại sao đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với pháp không quên mất, không thủ không xả? Tại sao đối với tánh luôn luôn xả, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với trí nhất thiết, không thủ không xả? Tại sao đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, không thủ không xả? Tại sao đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả Dự lưu, không thủ không xả? Tại sao đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả vị Độc giác, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không thủ không xả.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc, vì vậy đối với sắc không thủ, không xả; chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức, vì vậy đối với thọ, tưởng, hành, thức không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xứ, vì vậy đối với nhãn xứ không thủ, không xả; chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, vì vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc xứ, vì vậy đối với sắc xứ không thủ, không xả; chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, vì vậy đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn giới, vì vậy đối với nhãn giới không thủ, không xả; chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, vì vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc giới, vì vậy đối với sắc giới không thủ, không xả; chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, vì vậy đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn thức giới, vì vậy đối với nhãn thức giới không thủ, không xả; chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, vì vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xúc, vì vậy đối với nhãn xúc không thủ, không xả; chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, vì vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, vì vậy đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không thủ, không xả; chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, vì vậy đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy địa giới, vì vậy đối với địa giới không thủ, không xả; chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, vì vậy đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy vô minh, vì vậy đối với vô minh không thủ, không xả; chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, vì vậy đối với hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, vì vậy đối với bố thí Ba-la-mật-đa không thủ, không xả; chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì vậy đối với tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp không nội, vì vậy đối với pháp không nội không thủ, không xả; chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, vì vậy đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy chơn như, vì vậy đối với chơn như không thủ, không xả; chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vì vậy đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy Thánh đế khổ, vì vậy đối với Thánh đế khổ không thủ, không xả; chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo, vì vậy đối với Thánh đế tập, diệt, đạo không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bốn tịnh lự, vì vậy đối với bốn tịnh lự không thủ, không xả; chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, vì vậy đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tám giải thoát, vì vậy đối với tám giải thoát không thủ, không xả; chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, vì vậy đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bốn niệm trụ, vì vậy đối với bốn niệm trụ không thủ, không xả; chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, vì vậy đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, vì vậy đối với pháp môn giải thoát không không thủ, không xả; chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, vì vậy đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy năm loại mắt, vì vậy đối với năm loại mắt không thủ, không xả; chẳng tư duy sáu phép thần thông, vì vậy đối với sáu phép thần thông không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy mười lực Phật, vì vậy đối với mười lực Phật không thủ, không xả; chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất công, vì vậy đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp không quên mất, vì vậy đối với pháp không quên mất không thủ, không xả; chẳng tư duy tánh luôn luôn xả, vì vậy đối với tánh luôn luôn xả không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy trí nhất thiết, vì vậy đối với trí nhất thiết không thủ, không xả; chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vì vậy đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, vì vậy đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không thủ, không xả; chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, vì vậy đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả Dự lưu, vì vậy đối với quả Dự lưu không thủ, không xả; chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, vì vậy đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả vị Độc giác, vì vậy đối với quả vị Độc giác không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, vì vậy đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, vì vậy đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không thủ, không xả.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc như thế nào? Chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xứ như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc xứ như thế nào? Chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn giới như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc giới như thế nào? Chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn thức giới như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xúc như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy địa giới như thế nào? Chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy vô minh như thế nào? Chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào? Chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp không nội như thế nào? Chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy chơn như như thế nào? Chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy Thánh đế khổ như thế nào? Chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bốn tịnh lự như thế nào? Chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tám giải thoát như thế nào? Chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bốn niệm trụ như thế nào? Chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp môn giải thoát không như thế nào? Chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy năm loại mắt như thế nào? Chẳng tư duy sáu phép thần thông như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy mười lực Phật như thế nào? Chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp không quên mất như thế nào? Chẳng tư duy tánh luôn luôn xả như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy trí nhất thiết như thế nào? Chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào? Chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả Dự lưu như thế nào? Chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả vị Độc giác như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào?
Quyển Thứ 351
HẾT
02
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy sắc; đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhãn xứ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy sắc xứ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhãn giới; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy sắc giới; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn thức giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhãn thức giới; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xúc, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhãn xúc; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với địa giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy địa giới; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với vô minh, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy vô minh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không nội, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp không nội; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với chơn như, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy chơn như; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, cảnh giới bất tư nghì, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với Thánh đế khổ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy Thánh đế khổ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn tịnh lự, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn tịnh lự; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tám giải thoát, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tám giải thoát; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn niệm trụ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn niệm trụ; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp môn giải thoát không, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp môn giải thoát không; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với năm loại mắt, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy năm loại mắt; đối với sáu phép thần thông, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy sáu phép thần thông. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với mười lực Phật, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy mười lực Phật; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất công, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không quên mất, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp không quên mất; đối với tánh luôn luôn xả, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tánh luôn luôn xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với trí nhất thiết, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy trí nhất thiết; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả Dự lưu, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy quả Dự lưu; đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị Độc giác, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy quả vị Độc giác. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc, cũng chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xứ, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc xứ, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc giới, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn thức giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xúc, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy địa giới, cũng chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy vô minh, cũng chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không nội, cũng chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy chơn như, cũng chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy Thánh đế khổ, cũng chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn tịnh lự, cũng chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tám giải thoát, cũng chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn niệm trụ, cũng chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, cũng chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy năm loại mắt, cũng chẳng tư duy sáu phép thần thông thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy mười lực Phật, cũng chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không quên mất, cũng chẳng tư duy tánh luôn luôn xả thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy trí nhất thiết, cũng chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả Dự lưu, cũng chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị Độc giác thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc, cũng chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xứ, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc xứ, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc giới, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn thức giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xúc, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy địa giới, cũng chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy vô minh, cũng chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không nội, cũng chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy chơn như, cũng chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy Thánh đế khổ, cũng chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn tịnh lự, cũng chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy tám giải thoát, cũng chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn niệm trụ, cũng chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, cũng chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy năm loại mắt, cũng chẳng tư duy sáu phép thần thông thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy mười lực Phật, cũng chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không quên mất, cũng chẳng tư duy tánh luôn luôn xả thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy trí nhất thiết, cũng chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả Dự lưu, cũng chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị Độc giác thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì sao?
Này Thiện Hiện! Vì các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc, cũng chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn xứ, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc xứ, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc giới, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn thức giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn xúc, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy địa giới, cũng chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy vô minh, cũng chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp không nội, cũng chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy chơn như, cũng chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy Thánh đế khổ, cũng chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bốn tịnh lự, cũng chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tám giải thoát, cũng chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bốn niệm trụ, cũng chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, cũng chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy năm loại mắt, cũng chẳng tư duy sáu phép thần thông mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy mười lực Phật, cũng chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp không quên mất, cũng chẳng tư duy tánh luôn luôn xả mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy trí nhất thiết, cũng chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả Dự lưu, cũng chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả vị Độc giác mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc, cũng chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn xứ, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc xứ, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc giới, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn thức giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn xúc, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy địa giới, cũng chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy vô minh, cũng chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp không nội, cũng chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy chơn như, cũng chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy Thánh đế khổ, cũng chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bốn tịnh lự, cũng chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tám giải thoát, cũng chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bốn niệm trụ, cũng chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, cũng chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy năm loại mắt, cũng chẳng tư duy sáu phép thần thông mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy mười lực Phật, cũng chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp không quên mất, cũng chẳng tư duy tánh luôn luôn xả mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy trí nhất thiết, cũng chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả Dự lưu, cũng chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả vị Độc giác mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?
Quyển Thứ 352
HẾT
03
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc, tư duy thọ, tưởng, hành, thức, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc, chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn xứ, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xứ, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc xứ, tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc xứ, chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn giới, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn giới, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc giới, tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc giới, chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn thức giới, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn thức giới, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn xúc, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xúc, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy địa giới, tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy địa giới, chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy vô minh, tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy vô minh, chẳng tư duy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp không nội, tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không nội, chẳng tư duy pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy chơn như, tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy chơn như, chẳng tư duy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy Thánh đế khổ, tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy Thánh đế khổ, chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bốn tịnh lự, tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn tịnh lự, chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tám giải thoát, tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tám giải thoát, chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có khả năng tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bốn niệm trụ, tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn niệm trụ, chẳng tư duy bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp môn giải thoát không, tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy năm loại mắt, tư duy sáu phép thần thông, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy năm loại mắt, chẳng tư duy sáu phép thần thông, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy mười lực Phật, tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy mười lực Phật, chẳng tư duy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp không quên mất, tư duy tánh luôn luôn xả, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không quên mất, chẳng tư duy tánh luôn luôn xả, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy trí nhất thiết, tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy trí nhất thiết, chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả Dự lưu, tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả Dự lưu, chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả vị Độc giác, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị Độc giác, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên an trụ ở đâu?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả vị Độc giác.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả vị Độc giác?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát?
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, vì đối với tất cả pháp, không chấp trước nên chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông; chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả; chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng nên trụ quả vị Độc giác; chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có pháp nào có thể ở trong đó mà khởi chấp trước và an trụ.
Này Thiện Hiện! Như vậy là Đại Bồ-tát dùng sự không chấp trước và không an trụ mà làm phương tiện để tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nghĩ thề này: Nếu có khả năng không chấp trước, không an trụ như thế mà hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu có khả năng không chấp trước, không an trụ như thế mà tu sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Ta nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế; ta nên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do nghĩ như thế, nên thủ tướng chấp trước, xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì xa lìa tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; cũng xa lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng xa lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng xa lìa Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng xa lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng xa lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng xa lìa pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng xa lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng xa lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng xa lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không có sự chấp trước, chẳng phải là tánh có chấp trước của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn không có tự tánh để có thể đối với các pháp có sự chấp trước. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp và Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đều không chấp trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa khởi tưởng như thế này: Đây là Bát-nhã Ba-la-mật-đa; ta hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là hành khắp thật tướng các pháp.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng này nên từ bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu từ bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì từ bỏ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; cũng từ bỏ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng từ bỏ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng từ bỏ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng từ bỏ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng từ bỏ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng từ bỏ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng từ bỏ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng từ bỏ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng từ bỏ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng từ bỏ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng từ bỏ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng từ bỏ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng từ bỏ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa là tất cả hạt giống của bạch pháp. Nếu từ bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là từ bỏ tất cả bạch pháp.
Quyển Thứ 353
HẾT
04
- Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng nhiếp thọ khắp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng nhiếp thọ khắp pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng nhiếp thọ khắp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng nhiếp thọ khắp Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng nhiếp thọ khắp bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng nhiếp thọ khắp tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng nhiếp thọ khắp bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng nhiếp thọ khắp pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng nhiếp thọ khắp năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng nhiếp thọ khắp mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng nhiếp thọ khắp pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng nhiếp thọ khắp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng nhiếp thọ khắp tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng nhiếp thọ khắp tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng nhiếp thọ khắp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ấy nghĩ như thế thì thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì chẳng có khả năng nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà có thể nhiếp thọ khắp thiện pháp thù thắng và chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: An trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì đối với quả vị giác ngộ cao tột, nhất định được thọ ký.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu nghĩ như thế thì bị thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì đối với quả vị giác ngộ cao tột chẳng được thọ ký. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà đối với quả vị giác ngộ cao tột có thể được thọ ký.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: An trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì dẫn phát khắp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng an trụ khắp pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng an trụ khắp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng an trụ khắp Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng dẫn phát khắp bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng dẫn phát khắp tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng dẫn phát khắp bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng dẫn phát khắp pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng dẫn phát khắp năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng dẫn phát khắp mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng dẫn phát khắp pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng dẫn phát khắp tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng dẫn phát khắp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng dẫn phát khắp đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, nếu nghĩ như thế thì thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng có khả năng dẫn phát bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng có khả năng an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng có khả năng an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng có khả năng an trụ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng có khả năng dẫn phát bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng có khả năng dẫn phát tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng có khả năng dẫn phát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng chẳng có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng có khả năng dẫn phát năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng chẳng có khả năng dẫn phát mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng có khả năng dẫn phát pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng chẳng có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng có khả năng dẫn phát trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng chẳng có khả năng dẫn phát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà có khả năng dẫn phát an trụ thiện pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ thế này:
- Phật biết các pháp không có tướng nhiếp thọ, tự chứng quả vị giác ngộ cao tột, đã đắc Bồ-đề rồi, vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị thật tướng các pháp.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, nếu nghĩ như thế thì bị thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Như Lai đối với pháp, không biết, không hiểu, không tuyên thuyết, không khai thị. Vì sao? Vì thật tướng các pháp chẳng thể hiểu biết, chẳng thể an lập, thì làm sao đạt được cái có hiểu, có biết, có tuyên thuyết, có khai thị, đối với tất cả pháp. Nếu nói thật có cái hiểu, biết, tuyên thuyết, khai thị tất cả pháp, thì không có việc đó.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì làm sao xa lìa các thứ lầm lỗi như thế?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nghĩ thế này: Các pháp không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt; nếu pháp không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được thì không có khả năng biểu hiện sự hiểu biết, cũng không có khả năng tuyên thuyết, khai thị. Nếu hành như thế là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, xa lìa các lầm lỗi. Nếu Đại Bồ-tát chấp trước pháp không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt, thì xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp, không có sự chấp trước, không có sự nhiếp thọ. Nếu đối với các pháp có sự chấp trước, có sự nhiếp thọ thì xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa là xa lìa hay chẳng xa lìa? tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Pháp không nội đối với pháp không nội là xa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Chơn như đối với chơn như là xa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ là xa lìa hay chẳng xa lìa? Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự là xa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát đối với tám giải thoát là xa lìa hay chẳng xa lìa? Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ là xa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không là xa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt đối với năm loại mắt là xa lìa hay chẳng xa lìa? Sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Mười lực Phật đối với mười lực Phật là xa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất đối với pháp không quên mất là xa lìa hay chẳng xa lìa? Tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni là xa lìa hay chẳng xa lìa? Tất cả pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết đối với trí nhất thiết là xa lìa hay chẳng xa lìa? Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là xa lìa hay chẳng xa lìa?
Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa?
Bạch Thế Tôn! Nếu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không nội đối với pháp không nội dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không nội?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh?
Bạch Thế Tôn! Nếu chơn như đối với chơn như dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ chơn như?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì?
Bạch Thế Tôn! Nếu Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế khổ?
Bạch Thế Tôn! Nếu Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo?
Bạch Thế Tôn! Nếu bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn tịnh lự?
Bạch Thế Tôn! Nếu bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc?
Bạch Thế Tôn! Nếu tám giải thoát đối với tám giải thoát dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám giải thoát?
Bạch Thế Tôn! Nếu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?
Bạch Thế Tôn! Nếu bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn niệm trụ?
Bạch Thế Tôn! Nếu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát không?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?
Bạch Thế Tôn! Nếu năm loại mắt đối với năm loại mắt dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát năm loại mắt?
Bạch Thế Tôn! Nếu sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát sáu phép thần thông?
Bạch Thế Tôn! Nếu mười lực Phật đối với mười lực Phật dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát mười lực Phật?
Bạch Thế Tôn! Nếu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?
Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không quên mất đối với pháp không quên mất dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp không quên mất?
Bạch Thế Tôn! Nếu tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tánh luôn luôn xả?
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni?
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa?
Bạch Thế Tôn! Nếu trí nhất thiết đối với trí nhất thiết dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí nhất thiết?
Bạch Thế Tôn! Nếu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Pháp không nội đối với pháp không nội chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không nội.
Này Thiện Hiện! Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện! Chơn như đối với chơn như chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ chơn như.
Này Thiện Hiện! Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế khổ.
Này Thiện Hiện! Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn tịnh lự.
Này Thiện Hiện! Bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Này Thiện Hiện! Tám giải thoát đối với tám giải thoát chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám giải thoát.
Này Thiện Hiện! Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn niệm trụ?
Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.
Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát không.
Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Này Thiện Hiện! Năm loại mắt đối với năm loại mắt chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát năm loại mắt.
Này Thiện Hiện! Sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện! mười lực Phật đối với mười lực Phật chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát mười lực Phật.
Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất đối với pháp không quên mất chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp không quên mất.
Này Thiện Hiện! Tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa, vì vậy Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni.
Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa, vì vậy Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết đối với trí nhất thiết chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí nhất thiết.
Này Thiện Hiện! Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải chính tự tánh, chẳng phải lìa tự tánh, mà có thể an trụ, dẫn phát tự tánh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc, cho đây là sắc, sắc này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức, cho đây là thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn xứ, cho đây là nhãn xứ, nhãn xứ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc xứ, cho đây là sắc xứ, sắc xứ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cho đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn giới, cho đây là nhãn giới, nhãn giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc giới, cho đây là sắc giới, sắc giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cho đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn thức giới, cho đây là nhãn thức giới, nhãn thức giới này thuộc kia., chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, Cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn xúc, cho đây là nhãn xúc, nhãn xúc này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cho đây là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước địa giới, cho đây là địa giới, địa giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cho đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước vô minh, cho đây là vô minh, vô minh này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cho đây là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, cho đây là bố thí Ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đây là tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp không nội, cho đây là pháp không nội, pháp không nội này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cho đây là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước chơn như, cho đây là chơn như, chơn như này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cho đây là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước Thánh đế khổ, cho đây là Thánh đế khổ, Thánh đế khổ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo, cho đây là Thánh đế tập, diệt, đạo, Thánh đế tập, diệt, đạo này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bốn tịnh lự, cho đây là bốn tịnh lự, bốn tịnh lự này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cho đây là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tám giải thoát, cho đây là tám giải thoát, tám giải thoát này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cho đây là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bốn niệm trụ, cho đây là bốn niệm trụ, bốn niệm trụ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cho đây là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát không, cho đây là pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát không này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cho đây là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước năm loại mắt, cho đây là năm loại mắt, năm loại mắt này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước sáu phép thần thông, cho đây là sáu phép thần thông, sáu phép thần thông này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước mười lực Phật, cho đây là mười lực Phật, mười lực Phật này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cho đây là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp không quên mất, cho đây là pháp không quên mất, pháp không quên mất này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả, cho đây là tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước trí nhất thiết, cho đây là trí nhất thiết, trí nhất thiết này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cho đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, cho đây là tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đà-la-ni này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cho đây là tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Tam-ma-địa này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả Dự lưu, cho đây là quả Dự lưu, quả Dự lưu này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cho đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả vị Độc-giác, cho đây là quả vị Độc-giác, quả vị Độc-giác này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cho đây là tất cả hạnh Bồ-tát, tất cả hạnh Đại Bồ-tát này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cho đây là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật này thuộc kia.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng có thể dẫn phát tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ pháp không nội; cũng có thể an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ chơn như; cũng có thể an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ Thánh đế khổ; cũng có thể an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát bốn tịnh lự; cũng có thể dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát tám giải thoát; cũng có thể dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát bốn niệm trụ; cũng có thể dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát pháp môn giải thoát không; cũng có thể dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế hông chấp trước, nên có thể dẫn phát năm loại mắt; cũng có thể dẫn phát sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát mười lực Phật; cũng có thể dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát pháp không quên mất; cũng có thể phát tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát trí nhất thiết; cũng có thể dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với các pháp có sự chấp trước cho đây là pháp, pháp này thuộc kia, thì chẳng thể tùy ý dẫn phát, an trụ công đức thù thắng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thuờng hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hơặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán địa giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ hoặc ngã hơặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường hoặc vô thường hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán vô minh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán hành thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Quyển Thứ 354
HẾT
05
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp không nội hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán chơn như hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp giới, phát tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán Thánh đế khổ hoặc thường hoặc vô thường; hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bốn tịnh lự hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp môn giải thoát không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán năm loại mắt hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán sáu phép thần thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán mười lực Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp không quên mất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tánh luôn luôn xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán trí nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả Dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả vị Độc giác hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng có khả năng dẫn phát tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ pháp không nội; cũng có khả năng an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ chơn như; cũng có khả năng an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ Thánh đế khổ; cũng có khả năng an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát bốn tịnh lự; cũng có khả năng dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát tám giải thoát; cũng có khả năng dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát bốn niệm trụ; cũng có khả năng dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát không; cũng có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát năm loại mắt; cũng có khả năng dẫn phát sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát mười lực Phật; cũng có khả năng dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát pháp không quên mất; cũng có khả năng dẫn phát tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát trí nhất thiết; cũng có khả năng dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các pháp, có sự quán sát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly, thì chẳng thể tùy ý dẫn phát, an trụ công đức thù thắng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa; cũng là tu hành tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp không nội; cũng là tu hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành chơn như; cũng là tu hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành Thánh đế khổ, cũng là tu hành Thánh đế tập, diệt, đạo.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành bốn tịnh lự; cũng là tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tám giải thoát; cũng là tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành bốn niệm trụ; cũng là tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp môn giải thoát không; cũng là tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành năm loại mắt; cũng là tu hành sáu phép thần thông.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành mười lực Phật; cũng là tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp không quên mất; cũng là tu hành tánh luôn luôn xả.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng là tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành trí nhất thiết; cũng là tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tùy theo chỗ đi mà sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác đều đi theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa; tùy theo chỗ đến mà sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác đều theo chỗ đến.
Này Thiện Hiện! Như chuyển luân thánh vương có bốn đội quân dõng mãnh tùy theo vị Luân vương ấy đi đâu thì bốn đội quân dõng mãnh ấy đều đi theo; tùy theo vị Luân vương ấy đến chỗ nào thì bốn đội quân dõng mãnh ấy đều theo đến. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, tùy chỗ có đi và tùy chỗ có đến, sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và các pháp phần Bồ-đề khác đều đi theo, cứu cánh là đến trí nhất thiết trí.
Này Thiện Hiện! Như người đánh xe giỏi, đánh xe tứ mã, tránh được đường hiểm, đi trên đường chánh, tùy theo ý mình, có thể đến được chỗ đến. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, khéo điều khiển tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, tránh được đường hiểm sanh tử, Niết-bàn, đi trên đường chánh tự lợi lợi tha, đến chỗ sở cầu là trí nhất thiết trí.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đạo, thế nào là chẳng đạo của Đại Bồ-tát?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đạo của các phàm phu, chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo của các Thanh văn chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo của các Độc giác chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát. Đạo tự lợi lợi tha là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo trí nhất thiết trí là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo chẳng trụ sanh tử và Niết-bàn là đạo của các Đại Bồ-tát.
Này Thiện Hiện! Đó là đạo và chẳng phải đạo của Đại Bồ-tát.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là chỉ rõ cho các Đại Bồ-tát tướng đạo và chẳng phải đạo, làm cho các Đại Bồ-tát biết đó là đạo, đó chẳng phải là đạo, để có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là chỉ rõ cho các Đại Bồ-tát tướng đạo và chẳng phải đạo để cho các Đại Bồ-tát biết đó là đạo, đó chẳng phải là đạo, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đạt được lợi ích an lạc.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy đem lại vô biên sự lợi lạc cho người, nhưng đối với sự việc này không thủ trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thọ, tưởng, hành, thức nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn xứ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc xứ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn xúc nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của địa giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của vô minh nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bố thí Ba-la-mật-đa nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không nội nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của chơn như nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của Thánh đế khổ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của Thánh đế tập, diệt, đạo nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn tịnh lự nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tám giải thoát nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn niệm trụ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp môn giải thoát không nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của mười địa Bồ-tát nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của năm loại mắt nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của sáu phép thần thông nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của mười lực Phật nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không quên mất nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tánh luôn luôn xả nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của trí nhất thiết nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả pháp môn Đà-la-ni nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả Dự lưu nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả vị Độc giác nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật nhưng đối với việc này không chấp trước.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, dẫn đạo Đại Bồ-tát khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, nhất định chẳng thối chuyển nửa chừng.
Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy khiến Đại Bồ-tát xa lìa các bậc Thanh văn, Độc giác, thân cận quả vị giác ngộ cao tột, nhưng đối với các pháp không khởi không diệt, vì lấy tánh an trụ của pháp làm định lượng.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không khởi không diệt, thì tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu bố thí Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tịnh giới Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu an nhẫn Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tinh tấn Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tịnh lự Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu bố thí Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tịnh giới Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu an nhẫn Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tinh tấn Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tịnh lự Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đem thiện căn này cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi hồi hướng xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đem thiện căn này hồi hướng mong cầu quả vị giác ngộ cao tột như thế thì tu sáu phép Ba-la-mật-đa mới mau được viên mãn; cũng tu từ, bi, hỷ, xả của Bồ-tát mau được viên mãn. Do đó, chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, cho đến an tọa tòa Bồ-đề nhiệm mầu, thường chẳng xa lìa sáu phép Ba-la-mật-đa như thế.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa thì chẳng lìa trí nhất thiết trí. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn được mau chứng sở cầu quả vị giác ngộ cao tột thì phải siêng năng tinh tấn tu học sáu phép Ba-la-mật-đa, phải siêng năng tinh tấn tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu học, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa như thế, thì tất cả thiện căn mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên cùng thường tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng nên lìa nhau.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thọ, tưởng, hành, thức chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn thức giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn xúc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về địa giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về vô minh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp không nội chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về chơn như chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về Thánh đế khổ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bốn tịnh lự chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tám giải thoát chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bốn niệm trụ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp môn giải thoát không chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về năm loại mắt chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về sáu phép thần thông chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về mười lực Phật chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp không quên mất chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tánh luôn luôn xả chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về trí nhất thiết chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả Dự lưu chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả vị Độc giác chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Quyển Thứ 355
HẾT
06
- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì nhãn giới chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì sắc giới chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì nhãn thức giới chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa giới chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì vô minh chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp không nội chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì chơn như chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì bốn tịnh lự chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tám giải thoát chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì bốn niệm trụ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông. Vì sao? Vì năm loại mắt chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; sáu phép thần thông cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực Phật chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí nhất thiết chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì quả Dự lưu chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ quả vị Độc giác. Vì sao? Vì quả vị Độc giác chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ tất cả hạnh đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường dùng phương tiện vô trụ như thế, để tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Thí như có người muốn ăn quả Am-một-la (quả xoài), hoặc quả Bán-na-ta (giống quả bí đao), thì trước hết lấy hạt của nó, trồng xuống chỗ đất tốt, tùy thời tưới tẩm, chăm sóc giữ gìn; dần dần hạt sẽ nẩy mầm, sanh cành lá; thời tiết thích hợp sẽ có hoa quả, khi quả đã chín thì hái ăn. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát cũng như thế, muốn đắc quả vị giác ngộ cao tột, trước học sáu phép Ba-la-mật-đa; lại đối với hữu tình hoặc dùng bố thí, hoặc dùng ái ngữ, hoặc dùng lợi hành, hoặc dùng đồng sự mà nhiếp thọ họ; đã nhiếp thọ rồi, dạy bảo khiến họ an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; đã an trụ rồi giải thoát tất cả sanh lão bệnh tử, chứng đắc an lạc rốt ráo thường trụ. Bồ-tát như thế sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với các pháp, chẳng nhờ duyên khác mà tự liễu ngộ, muốn có thể thành thục tất cả hữu tình, muốn có thể nghiêm tịnh cõi Phật, muốn mau an tọa tòa Bồ-đề mầu nhiệm, muốn có khả năng hàng phục tất cả ma quân, muốn chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, muốn chuyển pháp luân cứu thoát sanh lão bệnh tử cho loài hữu tình, thì nên học sáu phép Ba-la-mật-đa, dùng bốn sự nhiếp hóa phương tiện nhiếp thọ các loại hữu tình. Bồ-tát như thế, khi tinh cần tu học thì nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà thường tinh cần tu học.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phật dạy Đại Bồ-tát nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thường tinh cần tu học chăng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Ta dạy Đại Bồ-tát nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thường tinh cần tu học.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với các pháp muốn được đại tự tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, có khả năng khiến cho Bồ-tát đối với tất cả pháp được tự tại.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa là phương tiện sanh trưởng, là cửa ngõ hướng đến của các pháp lành. Thí như biển cả là phương tiện cho các bảo vật sanh trưỏng và cửa hướng đến của tất cả dòng sông. Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa là phương tiện sanh trưởng, là cửa ngõ hướng đến của các thiện pháp. Vì vậy, này Thiện Hiện! Chúng sanh cầu Thanh-văn thừa, chúng sanh cầu Độc giác thừa, chúng sanh cầu Bồ-tát thừa đều nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này thường tinh cần tu học.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này khi tinh cần tu học thì nên tinh cần tu học bố thí Ba-la-mật-đa, nên tinh cần tu học tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh tự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nên tinh cần an trụ pháp không nội, nên tinh cần an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nên tinh cần an trụ chơn như, nên tinh cần an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; nên tinh cần an trụ Thánh đế khổ, nên tinh cần an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nên tinh cần tu học bốn tịnh lự, nên tinh cần tu học bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nên tinh cần tu học tám giải thoát, nên tinh cần tu học tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nên tinh cần tu học bốn niệm trụ, nên tinh cần tu học bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; nên tinh cần tu học pháp môn giải thoát không, nên tinh cần tu học pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nên tinh cần tu học năm loại mắt, nên tinh cần tu học sáu phép thần thông; nên tinh cần tu học mười lực Phật, nên tinh cần tu học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nên tinh cần tu học pháp không quên mất, nên tinh cần tu học tánh luôn luôn xả; nên tinh cần tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, nên tinh cần tu học tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nên tinh cần tu học trí nhất thiết, nên tinh cần tu học trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Này Thiện Hiện! Như người bắn tên giỏi, có áo mũ bền chắc, cầm cung tên tốt, chẳng sợ oán địch. Đại Bồ-tát cũng giống như thế, nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ pháp không nội, nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nhiếp thọ chơn như, nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; nhiếp thọ Thánh đế khổ, nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ bốn tịnh lự, nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tám giải thoát, nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ bốn niệm trụ, nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ năm loại mắt, nhiếp thọ sáu phép thần thông; nhiếp thọ mười lực Phật, nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nhiếp thọ pháp không quên mất, nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ trí nhất thiết, nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Khi nhiếp thọ các công đức như thế đều lấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phương tiện. Do nhân duyên này, tất cả ma quân, ngoại đạo, các luận thuyết khác đều chẳng thể hàng phục được. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột thì nên tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, mà thường hành bố thí Ba-la-mật-đa, thường hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành pháp không nội, thường hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành chơn như, thường hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành Thánh đế khổ, thường hành Thánh đế tập, diệt, đạo, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành bốn tịnh lự, thường hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành tám giải thoát, thường hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành bốn niệm trụ, thường hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành pháp môn giải thoát không, thường hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành năm loại mắt, thường hành sáu phép thần thông, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành mười lực Phật, thường hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành pháp không quên mất, thường hành tánh luôn luôn xả, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, thường hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, thường hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành trí nhất thiết, thường hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành bố thí Ba-la-mật-đa thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành pháp không nội thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành chơn như thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành Thánh đế khổ thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành Thánh đế tập, diệt, đạo thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành bốn tịnh lự thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì được chư Phật quá khứ, vị lai tại hộ niệm.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành tám giải thoát thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành bốn niệm trụ thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành pháp môn giải thoát không thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành năm loại mắt thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành sáu phép thần thông thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành mười lực Phật thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành pháp không quên mất thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành tánh luôn luôn xả thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành tất cả pháp môn Đà-la-ni thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành trí nhất thiết thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành bố thí Ba-la-mật-đa, quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành pháp không nội, quán pháp không nội chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, quán pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành chơn như, quán chơn như chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, quán pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành Thánh đế khổ, quán Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành Thánh đế tập, diệt, đạo, quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành bốn tịnh lự, quán bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành tám giải thoát, quán tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành bốn niệm trụ, quán bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; quán bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành pháp môn giải thoát không, quán pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành năm loại mắt, quán năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành sáu phép thần thông, quán sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành mười lực Phật, quán mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; quán bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành pháp không quên mất, quán pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành tánh luôn luôn xả, quán tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành trí nhất thiết, quán trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như sắc, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như nhãn xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như sắc xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như nhãn giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như sắc giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như nhãn thức giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như nhãn xúc, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như địa giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như vô minh, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như pháp không nội, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như chơn như, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như Thánh đế khổ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như bốn tịnh lự, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như tám giải thoát, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như bốn niệm trụ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như pháp môn giải thoát không, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như năm loại mắt, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như sáu phép thần thông, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như mười lực Phật, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như pháp không quên mất, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như tánh luôn luôn xả, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như trí nhất thiết, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như quả Dự lưu, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như quả vị Độc giác, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì sắc, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì thọ, tưởng, hành, thức, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì nhãn xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì sắc xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì nhãn giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì sắc giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì nhãn thức giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì nhãn xúc, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì địa giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì vô minh, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì bố thí Ba-la-mật-đa, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì pháp không nội, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì chơn như, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì Thánh đế khổ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì Thánh đế tập, diệt, đạo, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì bốn tịnh lự, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì tám giải thoát, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Quyển Thứ 356
HẾT
07
- Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì bốn niệm trụ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì pháp môn giải thoát không, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì năm loại mắt, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì sáu phép thần thông, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì mười lực Phật, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì pháp không quên mất, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì tánh luôn luôn xả, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì trí nhất thiết, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì quả Dự lưu, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì quả vị Độc giác, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tuy học nhiều điều mà không có điều gì để học.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các Đại Bồ-tát tuy học nhiều điều mà không có điều gì để học. Vì sao? Này Thiện Hiện! Thật không có pháp nào có thể khiến Đại Bồ-tát đối với pháp ấy mà tu học.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai vì các Đại Bồ-tát hoặc nói lược, hoặc nói rộng, pháp tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì đối với giáo pháp tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa này hoặc tóm lược, hoặc quảng diễn, đều nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, làm cho thông lợi; đã thông lợi rồi, như lý tư duy, đã tư duy rồi, quán sát kỹ lưỡng; khi quán sát tâm, tâm sở pháp, đối với tướng sở duyên đều chẳng lay động.
Phật dạy:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với giáo pháp tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa mà chư Như Lai đã nói, hoặc tóm lược, hoặc quảng diễn thì khi tinh cần tu học, nên đối với các pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của sắc; như thật rõ biết tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của nhãn xứ; như thật rõ biết tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của sắc xứ; như thật rõ biết tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của nhãn giới; như thật rõ biết tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của sắc giới; như thật rõ biết tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của nhãn thức giới; như thật rõ biết tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của nhãn xúc; như thật rõ biết tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; như thật rõ biết tướng chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của địa giới; như thật rõ biết tướng chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của vô minh; như thật rõ biết tướng chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa; như thật rõ biết tướng chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của pháp không nội; như thật rõ biết tướng chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của chơn như; như thật rõ biết tướng chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của Thánh đế khổ; như thật rõ biết tướng chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của bốn tịnh lự; như thật rõ biết tướng chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của tám giải thoát; như thật rõ biết tướng chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của bốn niệm trụ; như thật rõ biết tướng chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của pháp môn giải thoát không; như thật rõ biết tướng chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của năm loại mắt; như thật rõ biết tướng chơn như của sáu phép thần thông, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của mười lực Phật; như thật rõ biết tướng chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của pháp không quên mất; như thật rõ biết tướng chơn như của tánh luôn luôn xả, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của trí nhất thiết; như thật rõ biết tướng chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni; như thật rõ biết tướng chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của quả Dự lưu; như thật rõ biết tướng chơn như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của quả vị Độc giác, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của sắc, thế nào là tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của sắc; chơn như của thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của nhãn xứ, thế nào là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhãn xứ; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của sắc xứ, thế nào là tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của sắc xứ; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của nhãn giới, thế nào là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhãn giới; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của sắc giới, thế nào là tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của sắc giới; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của nhãn thức giới, thế nào là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn thức giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhãn thức giới; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của nhãn xúc, thế nào là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn xúc không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhãn xúc; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, thế nào là tướng chơn như các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết cần phải tu học để đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của địa giới, thế nào là tướng chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của địa giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của địa giới; chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết cần phải tu học để đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của vô minh, thế nào là tướng chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, tủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, sầu, than, khổ, ưu, não để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của vô minh không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của vô minh; chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết cần phải tu học để đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, thế nào là tướng chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa; chơn như của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của pháp không nội, thế nào là tướng chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp không nội không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp không nội; chơn như của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của chơn như, thế nào là tướng chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, cảnh giới bất tư nghì để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của chơn như không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của chơn như; chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của Thánh đế khổ, thế nào là tướng chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của Thánh đế khổ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của Thánh đế khổ; chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của bốn tịnh lự, thế nào là tướng chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của bốn tịnh lự không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn tịnh lự; chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của tám giải thoát, thế nào là tướng chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của tám giải thoát không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tám giải thoát; chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của bốn niệm trụ; thế nào là tướng chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của bốn niệm trụ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn niệm trụ; chơn như của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của pháp môn giải thoát không, thế nào là tướng chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp môn giải thoát không không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp môn giải thoát không; chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của năm loại mắt, thế nào là tướng chơn như của sáu phép thần thông để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của năm loại mắt không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của năm loại mắt; chơn như của sáu phép thần thông không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của sáu phép thần thông, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của mười lực Phật, thế nào là tướng chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của mười lực Phật không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của mười lực Phật; chơn như của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của pháp không quên mất, thế nào là tướng chơn như của tánh luôn luôn xả để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết, tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp không quên mất không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp không quên mất; chơn như của tánh luôn luôn xả không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tánh luôn luôn xả, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của trí nhất thiết, thế nào là tướng chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?
Này Thiện Hiện! Chơn như của trí nhất thiết không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng