Tập 15 (Quyển 351-362)

08/05/201012:00 SA(Xem: 24189)
Tập 15 (Quyển 351-362)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 15 (Quyển 351-362)

 LXI. PHẨM ĐA VẤN BẤT NHỊ

01

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, thì từ khi phát tâm trở đi, phải trải qua thời gian bao lâu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi trải qua vô số trăm ngàn ức triệu kiếp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, thì đã từng gần gũi cúng dường bao nhiêu đức phật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đã từng gần gũi cúng dường hằng hà sa số chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, đã từng gieo trồng bao nhiêu thiện căn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không lúc nào đối với bố thí Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với tịnh giới Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn; không có lúc nào đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà chẳng tinh cần tu học viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp không nội mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn; không có lúc nào đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với chơn như mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn; không có lúc nào đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với Thánh đế khổ mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn, không có lúc nào đối với Thánh đế tập, diệt, đạo mà chẳng tinh cần an trụ viên mãn

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với bốn tịnh lự mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với bốn vô lương, bốn định vô sắc mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với tám giải thoát mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với bốn niệm trụ mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp môn giải thoát không mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà chẳng tinh cần tu tập viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với năm loại mắt mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với sáu phép thần thông mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với mười lực Phật mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp không quên mất mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với tánh luôn luôn xả mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với trí nhất thiết mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với pháp môn Đà-la-ni mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với pháp môn Tam-ma-địa mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, không có lúc nào đối với hạnh Đại Bồ-tát mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn; không có lúc nào đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà chẳng tinh cần tu tâp viên mãn.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy từ khi phát tâm trở đi, gieo trồng các thứ thiện căn viên mãn như trên. Do nhân duyên này mà thành tựu phương tiện thiện xảo như thế.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, rất là hi hữu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, Đại Bồ-tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế rất là hi hữu.

Thiện Hiện nên biết! Như mặt trời, mặt trăng, lần lượt chiếu sáng thế giới bốn đại châu, làm một việc to lớn. Các loài hữu tình, phi tình trong thế giới ấy tùy theo thế lực ánh sáng ấy mà hoạt động, đều hoàn thành sự việc của mình, cũng thế, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chiếu sáng năm Ba-la-mật-đa khác làm sự việc to lớn. Năm Ba-la-mật-đa như bố thí v.v... tùy theo thế lực của Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà chuyển vận đều hoàn thành sự việc của mình.

Thiện Hiện nên biết! Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, mới được gọi là Ba-la-mật-đa; nếu lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển luân vương, nếu không có bảy loại quí báu thì không được gọi là Chuyển luân Thánh vương.; cần phải đủ bảy loại quí báu mới được gọi là Chuyển luân thánh vương; bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu chẳng phải Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, thì chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa; cần phải được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ mới được gọi là Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Như có người nữ đẹp đẽ, giàu có, nếu không có người chồng khỏe mạnh bảo vệ thì dễ bị kẻ xấu xâm phạm. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu không có sức nhiếp hộ của Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì dễ bị thiên maquyến thuộc của chúng phá hoại, gây trở ngại.

Thiện Hiện nên biết! Như có người nữ đẹp đẽ, giàu có, nếu có người chồng khỏe mạnh bảo vệ thì chẳng bị kẻ xấu xâm phạm. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu có thế lực của Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp hộ thì tất cả thiên maquyến thuộc của chúng chẳng thể phá hoại, gây trở ngại.

Thiện Hiện nên biết! Như có quân tướng khi lâm trận chuẩn bị tốt các thứ áo giáp, đao, trượng, thì oán địch lân quốc chẳng thể hại được. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, nếu chẳng xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì ma và quyến thuộc, người tăng thượng mạn, cho đến Bồ-tát, Chiên-đồ-la v.v... đều chẳng thể phá hoại được.

Thiện Hiện nên biết! Như các tiểu vương ở châu Thiệm-bộ, theo thời chầu hầu Chuyển luân Thánh vương, nhờ Chuyển luân vương, nên được du ngoạn cảnh đẹp. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, tùy thuận Bát-nhã Ba-la-mật-đa, do thế lực Bát-nhã Ba-la-mật-đa dẫn đạo nên mau đạt đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết! Như các dòng sông phía Đông của châu Thiệm-bộ, đều chảy vào sông Hằng, cùng sông Hằng đổ ra biển cả. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, đều được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp dẫn nên có thể đạt đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện nên biết! Như tay phải của người có thể làm các việc, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như thế, có khả năng dẫn phát tất cả thiện pháp thù thắng.

Thiện Hiện nên biết! Như tay trái của người làm việc bất tiện, bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, chẳng có thể dẫn sanh thiện pháp thù thắng.

Thiện Hiện nên biết! Thí như các dòng sông hoặc lớn, hoặc nhỏ, đều chảy vào biển cả, đồng một vị mặn, bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, đều được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, cũng đạt đến quả vị giác ngộ cao tột. Do đó, đều gọi là đáo bỉ ngạn.

Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển luân vương, muốn đi tuần thú, bốn thứ binh chủng đi theo, Bánh xe báu ở trước, tới vua và bốn loại binh chủng, vua nghĩ muốn ăn uống, bánh xe liền dừng lại; ăn uống xong, vua nghĩ muốn đi, bánh xe liền đi trước. Bánh xe đi, dừng là tùy theo ý vua muốn, khi đến đích rồi không còn đi tới nữa. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, cùng các thiện pháp muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột, cần phải nhờ vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa để dẫn đường, tiến dừng đều theo, chẳng lìa bỏ nhau; khi đạt đến quả Phật rồi thì không dẫn đường nữa.

Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển luân vương đầy đủ bảy loại quí báu, đó là bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, bề tôi báu, chủ kho tàng báu, nữ báu, tướng báu, ngọc như ý báu. Chuyển luân vương ấy muốn đến nơi nào, bốn thứ binh và bảy loại báu tùy tùng sau trước. Bấy giờ, bánh xe báu tuy ở trước hết, nhưng chẳng phân biệt tướng trước sau. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như thế, cùng với các thiện pháp muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột, quyết dùng Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm pháp dẫn đầu. Nhưng Bát-nhã Ba-la-mật-đa này chẳng nghĩ thế này: Đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa ta là pháp dẫn đầu, các pháp kia theo ta. Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa chẳng nghĩ thế này: Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa ở trước chúng ta, chúng ta tùy tùng pháp ấy. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Ba-la-mật-đa và tất cả pháp, tự tánh đều trì độn, không làm được gì, hư vọng chẳng thật, rỗng không, không sở hữu, tướng chẳng tự tại, giống như bóng nắng, trăng dưới nước, hình trong gương v.v... ở trong đó hoàn toàn không có tự thể chơn thật phân biệt tác dụng.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp, tự tánh đều không, thì tại sao Đại Bồ-tát tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ-tát đối với sáu phép Ba-la-mật-đa này, khuyên tu học, thường nghĩ thế này: hữu tình thế gian, tâm đều điên đảo, bị khổ sanh tử, chẳng thể tự thoát. Nếu ta không tu phương tiện thiện xảo, thì chẳng có thể giải thoát khổ sanh tử kia. Ta sẽ vì các loài hữu tình ấy, tinh cần tu học thiện xảo phương tiện bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nghĩ thế xong, vì các hữu tình xả bỏ vật bên trong, bên ngoài; xả bỏ rồi lại nghĩ thế này, ta đối với vật này hoàn toàn không có sự xả bỏ. Vì sao? Vì vật này tự tánh trong ngoài đều là không, chẳng quan hệ với ta, chẳng thể xả bỏ.

Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành bố thí Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, vì các hữu tình chẳng bao giờ phạm giới. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà giết hại sanh mạng, không cho mà lấy, dâm dục tà hạnh là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà nói lời hư dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời hỗn tạp là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà phát khởi tham muốn, sân hận, tà kiến là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà cầu cảnh giới diệu dục, cầu sự giàu có an vui cõi trời, cầu làm Đế thích, ma, phạm vương v.v... là điều chẳng nên. Ta vì hữu tình cầu đạt quả vị giác ngộ cao tột, mà cầu an trụ Thanh văn hoặc Độc giác là điều chẳng nên.

Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa này, mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình chẳng khởi sân hận; giả sử thường bị hủy báng, lăng nhục bằng lời đau đớn, cay đắng, cắt đứt tim tủy, chẳng bao giờ phát khởi một niệm sân hận. Lại dù thường bị các vật đao, trượng, gạch, đá, gậy, đất vụn v.v... đánh đụng vào thân, cắt, xẻo, chích, đâm, xẻ từng bộ phận cơ thể, cũng chẳng phát khởi một niệm ác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy quán sát tất cả âm thanh như tiếng vang trong hang núi, sắc như bọt bèo. Ta vì lợi ích cho tất cả hữu tình, chẳng nên đối với sự việc này mà vọng khởi sân hận.

Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình siêng cầu thiện pháp cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, ở khoảng giữa thường không giải đãi. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Nếu ta giải đãi, thì chẳng có thể cứu giúp sanh lão bệnh tử của các loại hữu tình, cũng chẳng có thể đạt được sở cầuquả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình tu các định thù thắng, cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, không bao giờ phát khởi tâm tán loạn: Tham, sân, si v.v.... Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Nếu ta phát khởi tâm câu hành tham, tâm câu hành sân, tâm câu hành si và tâm tán loạn đối với các sự việc khác, thì chẳng có thể thành tựu sự việc lợi ích cho người khác, cũng chẳng có thể đạt được sở cầuquả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy vì các hữu tình, thường chẳng xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, cho đến khi đạt quả vị giác ngộ cao tột, thường siêng tu học trí tuệ thù thắng vi diệu thế gianxuất thế gian. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát ấy thường nghĩ thế này: Nếu làm sai khác Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng bao giờ thành tựu sự việc lợi lạc cho người khác, cũng chẳng có thể đạt được sở cầuquả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Do đó, Đại Bồ-tát ấy quán sát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu sáu phép Ba-la-mật-đa, tướng không sai biệt, thì đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa tu thành tựu viên mãn, nên hợp thành một Ba-la-mật-đa, đó là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tại sao có thể nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí v.v... Ba-la-mật-đa là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời ông nói, bố thí v.v... sáu phép Ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt; nếu khôngBát-nhã Ba-la-mật-đa thì bố thí v.v... năm pháp chẳng được gọi là Ba-la-mật-đa, cần nhờ Bát-nhã Ba-la-mật-đabố thí v.v... năm pháp mới được gọi là Ba-la-mật-đa. Do vì năm Ba-la-mật-đa trước này đều thâu gồm trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên chỉ có một Ba-la-mật-đa đó là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì vậy, tất cả Ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt.

Thiện Hiện nên biết! Như các hữu tình, tuy có các loại thân tướng sai khác, nhưng nếu gần gũi với núi chúa Diệu cao thì đều cùng một sắc; Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cũng giống như vậy, tuy có các phẩm loại sai biệt, nhưng vì được Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp thọ, nên đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đatu hành thành tựu viên mãn, nương vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mới có thể nhập vào trí nhất thiết trí, mới được gọi là đến bờ bên kia, đều đồng một vị, tướng không sai biệt, chẳng thể an lập đây là bố thí Ba-la-mật-đa, đây là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sáu phép Ba-la-mật-đa như thế có thể cùng hướng nhập trí nhất thiết trí, có thể đến bờ bên kia, tướng không sai biệt. Do nhân duyên ấy, bố thí v.v... sáu phép Ba-la-mật-đa không có tướng sai biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Ba-la-mật-đa và tất cả pháp, nếu theo thật nghĩa, đều không có sự sai biệt đây, kia, hơn, kém, thì do nhân duyên gì mà nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với bố thí v.v... các Ba-la-mật-đa là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, nếu theo thật nghĩa thì Ba-la-mật-đa và tất cả pháp đều không có sự sai biệt đây, kia, hơn, kém; nương thế tục nên nói có tác dụng, nói có sai biệt kia, đây, hơn, thua, thiết lập bố thí Ba-la-mật-đa, thiết lập tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì muốn độ thoát sanh lão bệnh tửtác dụng thế tục của các loại hữu tình. Nhưng sự sanh lão bệnh tử của các hữu tình đều chẳng phải thật có, chỉ giả đặt ra mà thôi. Vì sao? Vì hữu tình không có, nên biết các pháp cũng không có sở hữu, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa liễu đạt tất cả, hoàn toàn không có sở hữu, có thể có tác dụng cứu vớt hữu tình thế tục khỏi sanh lão bệnh tử. Do đó nên nói: Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí Ba-la-mật-đa v.v… là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Thiện Hiện nên biết! Như Chuyển luân vươngngọc nữ quí báu, đối với người nữ trong nhân gian, là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng; Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vậy, đối với bố thí Ba-la-mật-đa v.v… là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Vì nhân duyên gì mà Phật chỉ tuyên nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với bố thí Ba-la-mật-đa v.v… là tối, là thắng, là trưởng, là tôn, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do Bát-nhã Ba-la-mật-đa này có khả năng khéo nhiếp thủ tất cả thiện pháp hòa hợp hướng nhập trí nhất thiết trí, an trụ bất động, dùng vô sở trụ làm phương tiện.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, đối với các thiện pháp có thủ xả chăng?

Phật dạy:

- Không! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không thủ, không xả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều chẳng thể thủ, chẳng thể xả.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với những pháp nào không thủ không xả?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc, không thủ không xả; đối với thọ, tưởng, hành, thức, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xứ, không thủ không xả; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc xứ, không thủ không xả; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn giới, không thủ không xả; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc giới, không thủ không xả; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn thức giới, không thủ không xả; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xúc, không thủ không xả; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không thủ không xả; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với địa giới, không thủ không xả; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với vô minh, không thủ không xả; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí Ba-la-mật-đa, không thủ không xả; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không nội, không thủ không xả; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với chơn như, không thủ không xả; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với Thánh đế khổ, không thủ không xả; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn tịnh lự, không thủ không xả; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tám giải thoát, không thủ không xả; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn niệm trụ, không thủ không xả; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp môn giải thoát không, không thủ không xả; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với năm loại mắt, không thủ không xả; đối với sáu phép thần thông, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với mười lực Phật, không thủ không xả; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không quên mất, không thủ không xả; đối với tánh luôn luôn xả, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với trí nhất thiết, không thủ không xả; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, không thủ không xả; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả Dự lưu, không thủ không xả; đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị Độc giác, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, không thủ không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không thủ không xả.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc, không thủ không xả? Tại sao đối với thọ, tưởng, hành, thức, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn xứ, không thủ không xả? Tại sao đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc xứ, không thủ không xả? Tại sao đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn giới, không thủ không xả? Tại sao đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với sắc giới, không thủ không xả? Tại sao đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn thức giới, không thủ không xả? Tại sao đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với nhãn xúc, không thủ không xả? Tại sao đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không thủ không xả? Tại sao đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với địa giới, không thủ không xả? Tại sao đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với vô minh, không thủ không xả? Tại sao đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bố thí Ba-la-mật-đa, không thủ không xả? Tại sao đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với pháp không nội, không thủ không xả? Tại sao đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với chơn như, không thủ không xả? Tại sao đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với Thánh đế khổ, không thủ không xả? Tại sao đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bốn tịnh lự, không thủ không xả? Tại sao đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tám giải thoát, không thủ không xả? Tại sao đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với bốn niệm trụ, không thủ không xả? Tại sao đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với pháp môn giải thoát không, không thủ không xả? Tại sao đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với năm loại mắt, không thủ không xả? Tại sao đối với sáu phép thần thông, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với mười lực Phật, không thủ không xả? Tại sao đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với pháp không quên mất, không thủ không xả? Tại sao đối với tánh luôn luôn xả, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với trí nhất thiết, không thủ không xả? Tại sao đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, không thủ không xả? Tại sao đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả Dự lưu, không thủ không xả? Tại sao đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả vị Độc giác, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, không thủ không xả? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tại sao đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không thủ không xả.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc, vì vậy đối với sắc không thủ, không xả; chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức, vì vậy đối với thọ, tưởng, hành, thức không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xứ, vì vậy đối với nhãn xứ không thủ, không xả; chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, vì vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc xứ, vì vậy đối với sắc xứ không thủ, không xả; chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, vì vậy đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn giới, vì vậy đối với nhãn giới không thủ, không xả; chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, vì vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc giới, vì vậy đối với sắc giới không thủ, không xả; chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, vì vậy đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn thức giới, vì vậy đối với nhãn thức giới không thủ, không xả; chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, vì vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xúc, vì vậy đối với nhãn xúc không thủ, không xả; chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, vì vậy đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, vì vậy đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không thủ, không xả; chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, vì vậy đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy địa giới, vì vậy đối với địa giới không thủ, không xả; chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, vì vậy đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy vô minh, vì vậy đối với vô minh không thủ, không xả; chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, vì vậy đối với hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, vì vậy đối với bố thí Ba-la-mật-đa không thủ, không xả; chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì vậy đối với tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp không nội, vì vậy đối với pháp không nội không thủ, không xả; chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, vì vậy đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy chơn như, vì vậy đối với chơn như không thủ, không xả; chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vì vậy đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy Thánh đế khổ, vì vậy đối với Thánh đế khổ không thủ, không xả; chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo, vì vậy đối với Thánh đế tập, diệt, đạo không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bốn tịnh lự, vì vậy đối với bốn tịnh lự không thủ, không xả; chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, vì vậy đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tám giải thoát, vì vậy đối với tám giải thoát không thủ, không xả; chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, vì vậy đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bốn niệm trụ, vì vậy đối với bốn niệm trụ không thủ, không xả; chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, vì vậy đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, vì vậy đối với pháp môn giải thoát không không thủ, không xả; chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, vì vậy đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy năm loại mắt, vì vậy đối với năm loại mắt không thủ, không xả; chẳng tư duy sáu phép thần thông, vì vậy đối với sáu phép thần thông không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy mười lực Phật, vì vậy đối với mười lực Phật không thủ, không xả; chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất công, vì vậy đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp không quên mất, vì vậy đối với pháp không quên mất không thủ, không xả; chẳng tư duy tánh luôn luôn xả, vì vậy đối với tánh luôn luôn xả không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy trí nhất thiết, vì vậy đối với trí nhất thiết không thủ, không xả; chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vì vậy đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, vì vậy đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không thủ, không xả; chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, vì vậy đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả Dự lưu, vì vậy đối với quả Dự lưu không thủ, không xả; chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, vì vậy đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả vị Độc giác, vì vậy đối với quả vị Độc giác không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, vì vậy đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát không thủ, không xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, vì vậy đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không thủ, không xả.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc như thế nào? Chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xứ như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc xứ như thế nào? Chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn giới như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy sắc giới như thế nào? Chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn thức giới như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy nhãn xúc như thế nào? Chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy địa giới như thế nào? Chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy vô minh như thế nào? Chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa như thế nào? Chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp không nội như thế nào? Chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy chơn như như thế nào? Chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy Thánh đế khổ như thế nào? Chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bốn tịnh lự như thế nào? Chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tám giải thoát như thế nào? Chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy bốn niệm trụ như thế nào? Chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp môn giải thoát không như thế nào? Chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy năm loại mắt như thế nào? Chẳng tư duy sáu phép thần thông như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy mười lực Phật như thế nào? Chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy pháp không quên mất như thế nào? Chẳng tư duy tánh luôn luôn xả như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy trí nhất thiết như thế nào? Chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni như thế nào? Chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả Dự lưu như thế nào? Chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả vị Độc giác như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát như thế nào? Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật như thế nào?

 

Quyển Thứ 351
HẾT

 

02

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy sắc; đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhãn xứ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy sắc xứ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhãn giới; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy sắc giới; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn thức giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhãn thức giới; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với nhãn xúc, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhãn xúc; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với địa giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy địa giới; đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với vô minh, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy vô minh; đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không nội, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp không nội; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với chơn như, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy chơn như; đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, cảnh giới bất tư nghì, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với Thánh đế khổ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy Thánh đế khổ; đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn tịnh lự, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn tịnh lự; đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tám giải thoát, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tám giải thoát; đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với bốn niệm trụ, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn niệm trụ; đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp môn giải thoát không, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp môn giải thoát không; đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với năm loại mắt, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy năm loại mắt; đối với sáu phép thần thông, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy sáu phép thần thông. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với mười lực Phật, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy mười lực Phật; đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất công, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với pháp không quên mất, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy pháp không quên mất; đối với tánh luôn luôn xả, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tánh luôn luôn xả. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với trí nhất thiết, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy trí nhất thiết; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả Dự lưu, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy quả Dự lưu; đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị Độc giác, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy quả vị Độc giác. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng tư duy tất cả tướng, cũng chẳng tư duy tất cả sở duyên, như vậy là chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc, cũng chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xứ, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc xứ, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc giới, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn thức giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xúc, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy địa giới, cũng chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy vô minh, cũng chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không nội, cũng chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy chơn như, cũng chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy Thánh đế khổ, cũng chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn tịnh lự, cũng chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tám giải thoát, cũng chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn niệm trụ, cũng chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, cũng chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy năm loại mắt, cũng chẳng tư duy sáu phép thần thông thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy mười lực Phật, cũng chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không quên mất, cũng chẳng tư duy tánh luôn luôn xả thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy trí nhất thiết, cũng chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả Dự lưu, cũng chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị Độc giác thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì làm sao tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng? Nếu chẳng tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng thì làm sao viên mãn Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng viên mãn Ba-la-mật-đa, thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc, cũng chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xứ, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc xứ, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc giới, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn thức giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xúc, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy địa giới, cũng chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy vô minh, cũng chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không nội, cũng chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy chơn như, cũng chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy Thánh đế khổ, cũng chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn tịnh lự, cũng chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy tám giải thoát, cũng chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn niệm trụ, cũng chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, cũng chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy năm loại mắt, cũng chẳng tư duy sáu phép thần thông thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy mười lực Phật, cũng chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không quên mất, cũng chẳng tư duy tánh luôn luôn xả thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy trí nhất thiết, cũng chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả Dự lưu, cũng chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị Độc giác thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu khi nào Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì khi ấy Đại Bồ-tát có thể tăng trưởng thiện căn đã gieo trồng; vì thiện căn đã gieo trồng được tăng trưởng nên có thể viên mãn Ba-la-mật-đa; vì Ba-la-mật-đa được viên mãn nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc, cũng chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn xứ, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc xứ, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc giới, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn thức giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn xúc, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy địa giới, cũng chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy vô minh, cũng chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp không nội, cũng chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy chơn như, cũng chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy Thánh đế khổ, cũng chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bốn tịnh lự, cũng chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tám giải thoát, cũng chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bốn niệm trụ, cũng chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, cũng chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy năm loại mắt, cũng chẳng tư duy sáu phép thần thông mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy mười lực Phật, cũng chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp không quên mất, cũng chẳng tư duy tánh luôn luôn xả mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy trí nhất thiết, cũng chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả Dự lưu, cũng chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả vị Độc giác mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc, cũng chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn xứ, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc xứ, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy sắc giới, cũng chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn thức giới, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy nhãn xúc, cũng chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy địa giới, cũng chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy vô minh, cũng chẳng tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp không nội, cũng chẳng tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy chơn như, cũng chẳng tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy Thánh đế khổ, cũng chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bốn tịnh lự, cũng chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tám giải thoát, cũng chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy bốn niệm trụ, cũng chẳng tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, cũng chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy năm loại mắt, cũng chẳng tư duy sáu phép thần thông mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy mười lực Phật, cũng chẳng tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy pháp không quên mất, cũng chẳng tư duy tánh luôn luôn xả mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy trí nhất thiết, cũng chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả Dự lưu, cũng chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả vị Độc giác mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Đại Bồ-tát cần phải chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mới đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột?

Quyển Thứ 352
HẾT

03

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc, tư duy thọ, tưởng, hành, thức, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc, chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn xứ, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xứ, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc xứ, tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc xứ, chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn giới, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn giới, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc giới, tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc giới, chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn thức giới, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn thức giới, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn xúc, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xúc, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy địa giới, tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy địa giới, chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy vô minh, tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy vô minh, chẳng tư duy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp không nội, tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không nội, chẳng tư duy pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy chơn như, tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy chơn như, chẳng tư duy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy Thánh đế khổ, tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy Thánh đế khổ, chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bốn tịnh lự, tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn tịnh lự, chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tám giải thoát, tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tám giải thoát, chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có khả năng tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bốn niệm trụ, tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn niệm trụ, chẳng tư duy bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp môn giải thoát không, tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy năm loại mắt, tư duy sáu phép thần thông, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy năm loại mắt, chẳng tư duy sáu phép thần thông, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy mười lực Phật, tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy mười lực Phật, chẳng tư duy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp không quên mất, tư duy tánh luôn luôn xả, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không quên mất, chẳng tư duy tánh luôn luôn xả, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy trí nhất thiết, tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy trí nhất thiết, chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả Dự lưu, tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả Dự lưu, chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả vị Độc giác, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị Độc giác, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên an trụ ở đâu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả vị Độc giác.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả vị Độc giác?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, vì đối với tất cả pháp, không chấp trước nên chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông; chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả; chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng nên trụ quả vị Độc giác; chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có pháp nào có thể ở trong đó mà khởi chấp trước và an trụ.

Này Thiện Hiện! Như vậy là Đại Bồ-tát dùng sự không chấp trước và không an trụ mà làm phương tiện để tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nghĩ thề này: Nếu có khả năng không chấp trước, không an trụ như thế mà hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu có khả năng không chấp trước, không an trụ như thế mà tu sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Ta nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế; ta nên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do nghĩ như thế, nên thủ tướng chấp trước, xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì xa lìa tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; cũng xa lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng xa lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng xa lìa Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng xa lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng xa lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng xa lìa pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng xa lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng xa lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng xa lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không có sự chấp trước, chẳng phải là tánh có chấp trước của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn không có tự tánh để có thể đối với các pháp có sự chấp trước. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp và Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đều không chấp trước.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa khởi tưởng như thế này: Đây là Bát-nhã Ba-la-mật-đa; ta hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là hành khắp thật tướng các pháp.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng này nên từ bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu từ bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì từ bỏ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; cũng từ bỏ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng từ bỏ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng từ bỏ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng từ bỏ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng từ bỏ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng từ bỏ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng từ bỏ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng từ bỏ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng từ bỏ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng từ bỏ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng từ bỏ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng từ bỏ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng từ bỏ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa là tất cả hạt giống của bạch pháp. Nếu từ bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là từ bỏ tất cả bạch pháp.

Quyển Thứ 353
HẾT

04

- Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng nhiếp thọ khắp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng nhiếp thọ khắp pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng nhiếp thọ khắp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng nhiếp thọ khắp Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng nhiếp thọ khắp bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng nhiếp thọ khắp tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng nhiếp thọ khắp bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng nhiếp thọ khắp pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng nhiếp thọ khắp năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng nhiếp thọ khắp mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng nhiếp thọ khắp pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng nhiếp thọ khắp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng nhiếp thọ khắp tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng nhiếp thọ khắp tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng nhiếp thọ khắp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ấy nghĩ như thế thì thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì chẳng có khả năng nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà có thể nhiếp thọ khắp thiện pháp thù thắngchứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: An trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì đối với quả vị giác ngộ cao tột, nhất định được thọ ký.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu nghĩ như thế thì bị thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì đối với quả vị giác ngộ cao tột chẳng được thọ ký. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà đối với quả vị giác ngộ cao tột có thể được thọ ký.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: An trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì dẫn phát khắp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng an trụ khắp pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng an trụ khắp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng an trụ khắp Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng dẫn phát khắp bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng dẫn phát khắp tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng dẫn phát khắp bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng dẫn phát khắp pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng dẫn phát khắp năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng dẫn phát khắp mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng dẫn phát khắp pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng dẫn phát khắp tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng dẫn phát khắp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng dẫn phát khắp đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, nếu nghĩ như thế thì thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng có khả năng dẫn phát bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng có khả năng an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng có khả năng an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng có khả năng an trụ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng có khả năng dẫn phát bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng có khả năng dẫn phát tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng có khả năng dẫn phát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng chẳng có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng có khả năng dẫn phát năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng chẳng có khả năng dẫn phát mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng có khả năng dẫn phát pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng chẳng có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng có khả năng dẫn phát trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng chẳng có khả năng dẫn phát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà có khả năng dẫn phát an trụ thiện pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ thế này:

- Phật biết các pháp không có tướng nhiếp thọ, tự chứng quả vị giác ngộ cao tột, đã đắc Bồ-đề rồi, vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị thật tướng các pháp.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, nếu nghĩ như thế thì bị thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Như Lai đối với pháp, không biết, không hiểu, không tuyên thuyết, không khai thị. Vì sao? Vì thật tướng các pháp chẳng thể hiểu biết, chẳng thể an lập, thì làm sao đạt được cái có hiểu, có biết, có tuyên thuyết, có khai thị, đối với tất cả pháp. Nếu nói thật có cái hiểu, biết, tuyên thuyết, khai thị tất cả pháp, thì không có việc đó.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì làm sao xa lìa các thứ lầm lỗi như thế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nghĩ thế này: Các pháp khôngsở hữu, chẳng thể nắm bắt; nếu pháp khôngsở hữu, chẳng thể nắm bắt được thì không có khả năng biểu hiện sự hiểu biết, cũng không có khả năng tuyên thuyết, khai thị. Nếu hành như thế là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, xa lìa các lầm lỗi. Nếu Đại Bồ-tát chấp trước pháp khôngsở hữu, chẳng thể nắm bắt, thì xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp, không có sự chấp trước, không có sự nhiếp thọ. Nếu đối với các pháp có sự chấp trước, có sự nhiếp thọ thì xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đaxa lìa hay chẳng xa lìa? tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Pháp không nội đối với pháp không nội là xa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánhxa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Chơn như đối với chơn nhưxa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ là xa lìa hay chẳng xa lìa? Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lựxa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắcxa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát đối với tám giải thoátxa lìa hay chẳng xa lìa? Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứxa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ là xa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạoxa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không là xa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnxa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt đối với năm loại mắtxa lìa hay chẳng xa lìa? Sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thôngxa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Mười lực Phật đối với mười lực Phật là xa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộngxa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất đối với pháp không quên mất là xa lìa hay chẳng xa lìa? Tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni là xa lìa hay chẳng xa lìa? Tất cả pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết đối với trí nhất thiếtxa lìa hay chẳng xa lìa? Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đaxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không nội đối với pháp không nội dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không nội?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánhxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh?

Bạch Thế Tôn! Nếu chơn như đối với chơn nhưxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ chơn như?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì?

Bạch Thế Tôn! Nếu Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế khổ?

Bạch Thế Tôn! Nếu Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lựxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn tịnh lự?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắcxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Bạch Thế Tôn! Nếu tám giải thoát đối với tám giải thoátxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám giải thoát?

Bạch Thế Tôn! Nếu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn niệm trụ?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạoxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát không?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệnxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?

Bạch Thế Tôn! Nếu năm loại mắt đối với năm loại mắtxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát năm loại mắt?

Bạch Thế Tôn! Nếu sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thôngxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát sáu phép thần thông?

Bạch Thế Tôn! Nếu mười lực Phật đối với mười lực Phật dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát mười lực Phật?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộngxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không quên mất đối với pháp không quên mất dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp không quên mất?

Bạch Thế Tôn! Nếu tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tánh luôn luôn xả?

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni?

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa?

Bạch Thế Tôn! Nếu trí nhất thiết đối với trí nhất thiếtxa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí nhất thiết?

Bạch Thế Tôn! Nếu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội đối với pháp không nội chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không nội.

Này Thiện Hiện! Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Chơn như đối với chơn như chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ chơn như.

Này Thiện Hiện! Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế khổ.

Này Thiện Hiện! Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn tịnh lự.

Này Thiện Hiện! Bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Tám giải thoát đối với tám giải thoát chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám giải thoát.

Này Thiện Hiện! Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn niệm trụ?

Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát không.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Năm loại mắt đối với năm loại mắt chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát năm loại mắt.

Này Thiện Hiện! Sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! mười lực Phật đối với mười lực Phật chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát mười lực Phật.

Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất đối với pháp không quên mất chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp không quên mất.

Này Thiện Hiện! Tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa, vì vậy Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa, vì vậy Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết đối với trí nhất thiết chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí nhất thiết.

Này Thiện Hiện! Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải chính tự tánh, chẳng phải lìa tự tánh, mà có thể an trụ, dẫn phát tự tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc, cho đây là sắc, sắc này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức, cho đây là thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn xứ, cho đây là nhãn xứ, nhãn xứ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc xứ, cho đây là sắc xứ, sắc xứ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cho đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn giới, cho đây là nhãn giới, nhãn giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc giới, cho đây là sắc giới, sắc giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cho đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn thức giới, cho đây là nhãn thức giới, nhãn thức giới này thuộc kia., chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, Cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn xúc, cho đây là nhãn xúc, nhãn xúc này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cho đây là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước địa giới, cho đây là địa giới, địa giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cho đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước vô minh, cho đây là vô minh, vô minh này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cho đây là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, cho đây là bố thí Ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đây là tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp không nội, cho đây là pháp không nội, pháp không nội này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cho đây là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước chơn như, cho đây là chơn như, chơn như này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cho đây là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước Thánh đế khổ, cho đây là Thánh đế khổ, Thánh đế khổ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo, cho đây là Thánh đế tập, diệt, đạo, Thánh đế tập, diệt, đạo này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bốn tịnh lự, cho đây là bốn tịnh lự, bốn tịnh lự này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cho đây là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tám giải thoát, cho đây là tám giải thoát, tám giải thoát này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cho đây là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bốn niệm trụ, cho đây là bốn niệm trụ, bốn niệm trụ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cho đây là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát không, cho đây là pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát không này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cho đây là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước năm loại mắt, cho đây là năm loại mắt, năm loại mắt này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước sáu phép thần thông, cho đây là sáu phép thần thông, sáu phép thần thông này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước mười lực Phật, cho đây là mười lực Phật, mười lực Phật này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cho đây là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp không quên mất, cho đây là pháp không quên mất, pháp không quên mất này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả, cho đây là tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước trí nhất thiết, cho đây là trí nhất thiết, trí nhất thiết này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cho đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, cho đây là tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đà-la-ni này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cho đây là tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Tam-ma-địa này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả Dự lưu, cho đây là quả Dự lưu, quả Dự lưu này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cho đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả vị Độc-giác, cho đây là quả vị Độc-giác, quả vị Độc-giác này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cho đây là tất cả hạnh Bồ-tát, tất cả hạnh Đại Bồ-tát này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cho đây là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng có thể dẫn phát tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ pháp không nội; cũng có thể an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ chơn như; cũng có thể an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ Thánh đế khổ; cũng có thể an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát bốn tịnh lự; cũng có thể dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát tám giải thoát; cũng có thể dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát bốn niệm trụ; cũng có thể dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát pháp môn giải thoát không; cũng có thể dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế hông chấp trước, nên có thể dẫn phát năm loại mắt; cũng có thể dẫn phát sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát mười lực Phật; cũng có thể dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát pháp không quên mất; cũng có thể phát tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát trí nhất thiết; cũng có thể dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với các pháp có sự chấp trước cho đây là pháp, pháp này thuộc kia, thì chẳng thể tùy ý dẫn phát, an trụ công đức thù thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thuờng hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hơặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán địa giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ hoặc ngã hơặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường hoặc vô thường hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán vô minh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán hành thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

 

Quyển Thứ 354
HẾT

05

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp không nội hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán chơn như hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp giới, phát tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán Thánh đế khổ hoặc thường hoặc vô thường; hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bốn tịnh lự hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp môn giải thoát không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán năm loại mắt hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán sáu phép thần thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán mười lực Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán pháp không quên mất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tánh luôn luôn xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán trí nhất thiết hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả Dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả vị Độc giác hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng có khả năng dẫn phát tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ pháp không nội; cũng có khả năng an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ chơn như; cũng có khả năng an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng an trụ Thánh đế khổ; cũng có khả năng an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát bốn tịnh lự; cũng có khả năng dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát tám giải thoát; cũng có khả năng dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát bốn niệm trụ; cũng có khả năng dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát không; cũng có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát năm loại mắt; cũng có khả năng dẫn phát sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát mười lực Phật; cũng có khả năng dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát pháp không quên mất; cũng có khả năng dẫn phát tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế, vì chẳng quán sát nên có khả năng dẫn phát trí nhất thiết; cũng có khả năng dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đối với các pháp, có sự quán sát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly, thì chẳng thể tùy ý dẫn phát, an trụ công đức thù thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa; cũng là tu hành tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp không nội; cũng là tu hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành chơn như; cũng là tu hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành Thánh đế khổ, cũng là tu hành Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành bốn tịnh lự; cũng là tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tám giải thoát; cũng là tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành bốn niệm trụ; cũng là tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp môn giải thoát không; cũng là tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành năm loại mắt; cũng là tu hành sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành mười lực Phật; cũng là tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành pháp không quên mất; cũng là tu hành tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng là tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức là tu hành trí nhất thiết; cũng là tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tùy theo chỗ đi mà sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác đều đi theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa; tùy theo chỗ đến mà sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác đều theo chỗ đến.

Này Thiện Hiện! Như chuyển luân thánh vương có bốn đội quân dõng mãnh tùy theo vị Luân vương ấy đi đâu thì bốn đội quân dõng mãnh ấy đều đi theo; tùy theo vị Luân vương ấy đến chỗ nào thì bốn đội quân dõng mãnh ấy đều theo đến. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, tùy chỗ có đi và tùy chỗ có đến, sở hữu tất cả Ba-la-mật-đa và các pháp phần Bồ-đề khác đều đi theo, cứu cánh là đến trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Như người đánh xe giỏi, đánh xe tứ mã, tránh được đường hiểm, đi trên đường chánh, tùy theo ý mình, có thể đến được chỗ đến. Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, khéo điều khiển tất cả Ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, tránh được đường hiểm sanh tử, Niết-bàn, đi trên đường chánh tự lợi lợi tha, đến chỗ sở cầu là trí nhất thiết trí.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đạo, thế nào là chẳng đạo của Đại Bồ-tát?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đạo của các phàm phu, chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo của các Thanh văn chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo của các Độc giác chẳng phải là đạo của các Đại Bồ-tát. Đạo tự lợi lợi tha là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo trí nhất thiết trí là đạo của các Đại Bồ-tát; đạo chẳng trụ sanh tử và Niết-bàn là đạo của các Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Đó là đạo và chẳng phải đạo của Đại Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là chỉ rõ cho các Đại Bồ-tát tướng đạo và chẳng phải đạo, làm cho các Đại Bồ-tát biết đó là đạo, đó chẳng phải là đạo, để có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là chỉ rõ cho các Đại Bồ-tát tướng đạo và chẳng phải đạo để cho các Đại Bồ-tát biết đó là đạo, đó chẳng phải là đạo, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện thế gian là vì đại sự, đó là độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đạt được lợi ích an lạc.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy đem lại vô biên sự lợi lạc cho người, nhưng đối với sự việc này không thủ trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thọ, tưởng, hành, thức nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn xứ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc xứ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của sắc giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhãn xúc nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của địa giới nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của vô minh nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bố thí Ba-la-mật-đa nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không nội nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của chơn như nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của Thánh đế khổ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của Thánh đế tập, diệt, đạo nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn tịnh lự nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tám giải thoát nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn niệm trụ nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp môn giải thoát không nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của mười địa Bồ-tát nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của năm loại mắt nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của sáu phép thần thông nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của mười lực Phật nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của pháp không quên mất nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tánh luôn luôn xả nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của trí nhất thiết nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả pháp môn Đà-la-ni nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả Dự lưu nhưng đối với việc này không chấp trước; tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả vị Độc giác nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy thường chỉ rõ tác dụng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật nhưng đối với việc này không chấp trước.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, dẫn đạo Đại Bồ-tát khiến hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, nhất định chẳng thối chuyển nửa chừng.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa tuy khiến Đại Bồ-tát xa lìa các bậc Thanh văn, Độc giác, thân cận quả vị giác ngộ cao tột, nhưng đối với các pháp không khởi không diệt, vì lấy tánh an trụ của pháp làm định lượng.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không khởi không diệt, thì tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu bố thí Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tịnh giới Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu an nhẫn Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tinh tấn Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu tịnh lự Ba-la-mật-đa? Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa phải tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu bố thí Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tịnh giới Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu an nhẫn Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tinh tấn Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu tịnh lự Ba-la-mật-đa; Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nên duyên với trí nhất thiết trí, vì các hữu tình mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đem thiện căn này cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột; khi hồi hướng xa lìa ba tâm, đó là ai hồi hướng, hồi hướng để làm gì, hồi hướng về đâu.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy đem thiện căn này hồi hướng mong cầu quả vị giác ngộ cao tột như thế thì tu sáu phép Ba-la-mật-đa mới mau được viên mãn; cũng tu từ, bi, hỷ, xả của Bồ-tát mau được viên mãn. Do đó, chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, cho đến an tọa tòa Bồ-đề nhiệm mầu, thường chẳng xa lìa sáu phép Ba-la-mật-đa như thế.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa thì chẳng lìa trí nhất thiết trí. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn được mau chứng sở cầu quả vị giác ngộ cao tột thì phải siêng năng tinh tấn tu học sáu phép Ba-la-mật-đa, phải siêng năng tinh tấn tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường siêng năng tinh tấn tu học, tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa như thế, thì tất cả thiện căn mau được viên mãn, chóng chứng quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên cùng thường tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng nên lìa nhau.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thọ, tưởng, hành, thức chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc xứ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về sắc giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn thức giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về nhãn xúc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về địa giới chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về vô minh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp không nội chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về chơn như chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về Thánh đế khổ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bốn tịnh lự chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tám giải thoát chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về bốn niệm trụ chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp môn giải thoát không chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về năm loại mắt chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về sáu phép thần thông chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về mười lực Phật chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về pháp không quên mất chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tánh luôn luôn xả chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về trí nhất thiết chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả Dự lưu chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; quán như thật về quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả vị Độc giác chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát quán như thật về quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, thì Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Quyển Thứ 355
HẾT

06

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì nhãn giới chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì sắc giới chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì nhãn thức giới chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa giới chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì vô minh chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp không nội chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì chơn như chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì bốn tịnh lự chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tám giải thoát chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì bốn niệm trụ chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông. Vì sao? Vì năm loại mắt chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; sáu phép thần thông cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực Phật chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; tánh luôn luôn xả cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí nhất thiết chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì quả Dự lưu chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ quả vị Độc giác. Vì sao? Vì quả vị Độc giác chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ tất cả hạnh đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ thế này: Ta chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải năng trụ, chẳng phải sở trụ, thì này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, thường cùng tương ưng với sáu phép Ba-la-mật-đa, chẳng lìa bỏ nhau.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường dùng phương tiện vô trụ như thế, để tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Thí như có người muốn ăn quả Am-một-la (quả xoài), hoặc quả Bán-na-ta (giống quả bí đao), thì trước hết lấy hạt của nó, trồng xuống chỗ đất tốt, tùy thời tưới tẩm, chăm sóc giữ gìn; dần dần hạt sẽ nẩy mầm, sanh cành lá; thời tiết thích hợp sẽ có hoa quả, khi quả đã chín thì hái ăn. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát cũng như thế, muốn đắc quả vị giác ngộ cao tột, trước học sáu phép Ba-la-mật-đa; lại đối với hữu tình hoặc dùng bố thí, hoặc dùng ái ngữ, hoặc dùng lợi hành, hoặc dùng đồng sựnhiếp thọ họ; đã nhiếp thọ rồi, dạy bảo khiến họ an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; đã an trụ rồi giải thoát tất cả sanh lão bệnh tử, chứng đắc an lạc rốt ráo thường trụ. Bồ-tát như thế sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với các pháp, chẳng nhờ duyên khác mà tự liễu ngộ, muốn có thể thành thục tất cả hữu tình, muốn có thể nghiêm tịnh cõi Phật, muốn mau an tọa tòa Bồ-đề mầu nhiệm, muốn có khả năng hàng phục tất cả ma quân, muốn chóng chứng đắc trí nhất thiết trí, muốn chuyển pháp luân cứu thoát sanh lão bệnh tử cho loài hữu tình, thì nên học sáu phép Ba-la-mật-đa, dùng bốn sự nhiếp hóa phương tiện nhiếp thọ các loại hữu tình. Bồ-tát như thế, khi tinh cần tu học thì nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đathường tinh cần tu học.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phật dạy Đại Bồ-tát nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thường tinh cần tu học chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Ta dạy Đại Bồ-tát nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thường tinh cần tu học.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với các pháp muốn được đại tự tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, có khả năng khiến cho Bồ-tát đối với tất cả pháp được tự tại.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xaphương tiện sanh trưởng, là cửa ngõ hướng đến của các pháp lành. Thí như biển cả là phương tiện cho các bảo vật sanh trưỏng và cửa hướng đến của tất cả dòng sông. Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xaphương tiện sanh trưởng, là cửa ngõ hướng đến của các thiện pháp. Vì vậy, này Thiện Hiện! Chúng sanh cầu Thanh-văn thừa, chúng sanh cầu Độc giác thừa, chúng sanh cầu Bồ-tát thừa đều nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này thường tinh cần tu học.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này khi tinh cần tu học thì nên tinh cần tu học bố thí Ba-la-mật-đa, nên tinh cần tu học tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh tự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nên tinh cần an trụ pháp không nội, nên tinh cần an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nên tinh cần an trụ chơn như, nên tinh cần an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; nên tinh cần an trụ Thánh đế khổ, nên tinh cần an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; nên tinh cần tu học bốn tịnh lự, nên tinh cần tu học bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nên tinh cần tu học tám giải thoát, nên tinh cần tu học tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nên tinh cần tu học bốn niệm trụ, nên tinh cần tu học bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; nên tinh cần tu học pháp môn giải thoát không, nên tinh cần tu học pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nên tinh cần tu học năm loại mắt, nên tinh cần tu học sáu phép thần thông; nên tinh cần tu học mười lực Phật, nên tinh cần tu học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nên tinh cần tu học pháp không quên mất, nên tinh cần tu học tánh luôn luôn xả; nên tinh cần tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, nên tinh cần tu học tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nên tinh cần tu học trí nhất thiết, nên tinh cần tu học trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện! Như người bắn tên giỏi, có áo mũ bền chắc, cầm cung tên tốt, chẳng sợ oán địch. Đại Bồ-tát cũng giống như thế, nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; nhiếp thọ pháp không nội, nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nhiếp thọ chơn như, nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; nhiếp thọ Thánh đế khổ, nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; nhiếp thọ bốn tịnh lự, nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tám giải thoát, nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nhiếp thọ bốn niệm trụ, nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nhiếp thọ năm loại mắt, nhiếp thọ sáu phép thần thông; nhiếp thọ mười lực Phật, nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nhiếp thọ pháp không quên mất, nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; nhiếp thọ trí nhất thiết, nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Khi nhiếp thọ các công đức như thế đều lấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phương tiện. Do nhân duyên này, tất cả ma quân, ngoại đạo, các luận thuyết khác đều chẳng thể hàng phục được. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột thì nên tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, mà thường hành bố thí Ba-la-mật-đa, thường hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành pháp không nội, thường hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành chơn như, thường hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành Thánh đế khổ, thường hành Thánh đế tập, diệt, đạo, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành bốn tịnh lự, thường hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành tám giải thoát, thường hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành bốn niệm trụ, thường hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành pháp môn giải thoát không, thường hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành năm loại mắt, thường hành sáu phép thần thông, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành mười lực Phật, thường hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành pháp không quên mất, thường hành tánh luôn luôn xả, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, thường hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, thường hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà thường hành trí nhất thiết, thường hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành bố thí Ba-la-mật-đa thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành pháp không nội thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành chơn như thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành Thánh đế khổ thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành Thánh đế tập, diệt, đạo thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành bốn tịnh lự thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì được chư Phật quá khứ, vị lai tại hộ niệm.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành tám giải thoát thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành bốn niệm trụ thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành pháp môn giải thoát không thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành năm loại mắt thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành sáu phép thần thông thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành mười lực Phật thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành pháp không quên mất thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành tánh luôn luôn xả thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành tất cả pháp môn Đà-la-ni thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy, tại sao khi hành trí nhất thiết thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm? Tại sao khi hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành bố thí Ba-la-mật-đa, quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, quán tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành pháp không nội, quán pháp không nội chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, quán pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành chơn như, quán chơn như chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, quán pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành Thánh đế khổ, quán Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành Thánh đế tập, diệt, đạo, quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành bốn tịnh lự, quán bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành tám giải thoát, quán tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành bốn niệm trụ, quán bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; quán bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành pháp môn giải thoát không, quán pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành năm loại mắt, quán năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành sáu phép thần thông, quán sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành mười lực Phật, quán mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; quán bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành pháp không quên mất, quán pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành tánh luôn luôn xả, quán tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa, quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khi hành trí nhất thiết, quán trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm; khi hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được, nên được chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như sắc, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như nhãn xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như sắc xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như nhãn giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như sắc giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như nhãn thức giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như nhãn xúc, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như địa giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như vô minh, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tạinhư pháp không nội, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như chơn như, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như Thánh đế khổ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như bốn tịnh lự, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như tám giải thoát, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như bốn niệm trụ, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tạinhư pháp môn giải thoát không, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như năm loại mắt, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như sáu phép thần thông, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như mười lực Phật, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tạinhư pháp không quên mất, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như tánh luôn luôn xả, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như trí nhất thiết, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như quả Dự lưu, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; như quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như quả vị Độc giác, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như tất cả hạnh đại Bồ-tát, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại vì như quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng thể nắm bắt được nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì sắc, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì thọ, tưởng, hành, thức, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì nhãn xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì sắc xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì nhãn giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì sắc giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì nhãn thức giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì nhãn xúc, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì địa giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì vô minh, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì bố thí Ba-la-mật-đa, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì pháp không nội, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì chơn như, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì Thánh đế khổ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì Thánh đế tập, diệt, đạo, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì bốn tịnh lự, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì tám giải thoát, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

 

Quyển Thứ 356
HẾT

07

 

- Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì bốn niệm trụ, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì pháp môn giải thoát không, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì năm loại mắt, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì sáu phép thần thông, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì mười lực Phật, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì pháp không quên mất, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì tánh luôn luôn xả, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì trí nhất thiết, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì quả Dự lưu, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy; chẳng vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì quả vị Độc giác, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Này Thiện Hiện! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, nên hộ niệm Đại Bồ-tát ấy.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tuy học nhiều điều mà không có điều gì để học.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các Đại Bồ-tát tuy học nhiều điều mà không có điều gì để học. Vì sao? Này Thiện Hiện! Thật không có pháp nào có thể khiến Đại Bồ-tát đối với pháp ấy mà tu học.



Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai vì các Đại Bồ-tát hoặc nói lược, hoặc nói rộng, pháp tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì đối với giáo pháp tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa này hoặc tóm lược, hoặc quảng diễn, đều nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, làm cho thông lợi; đã thông lợi rồi, như lý tư duy, đã tư duy rồi, quán sát kỹ lưỡng; khi quán sát tâm, tâm sở pháp, đối với tướng sở duyên đều chẳng lay động.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với giáo pháp tương ưng sáu phép Ba-la-mật-đa mà chư Như Lai đã nói, hoặc tóm lược, hoặc quảng diễn thì khi tinh cần tu học, nên đối với các pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của sắc; như thật rõ biết tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của nhãn xứ; như thật rõ biết tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của sắc xứ; như thật rõ biết tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của nhãn giới; như thật rõ biết tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của sắc giới; như thật rõ biết tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của nhãn thức giới; như thật rõ biết tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của nhãn xúc; như thật rõ biết tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; như thật rõ biết tướng chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của địa giới; như thật rõ biết tướng chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của vô minh; như thật rõ biết tướng chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa; như thật rõ biết tướng chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của pháp không nội; như thật rõ biết tướng chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của chơn như; như thật rõ biết tướng chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của Thánh đế khổ; như thật rõ biết tướng chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của bốn tịnh lự; như thật rõ biết tướng chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của tám giải thoát; như thật rõ biết tướng chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của bốn niệm trụ; như thật rõ biết tướng chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của pháp môn giải thoát không; như thật rõ biết tướng chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của năm loại mắt; như thật rõ biết tướng chơn như của sáu phép thần thông, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của mười lực Phật; như thật rõ biết tướng chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của pháp không quên mất; như thật rõ biết tướng chơn như của tánh luôn luôn xả, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của trí nhất thiết; như thật rõ biết tướng chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni; như thật rõ biết tướng chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của quả Dự lưu; như thật rõ biết tướng chơn như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của quả vị Độc giác, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì Đại Bồ-tát ấy đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của sắc, thế nào là tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của sắc; chơn như của thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của thọ, tưởng, hành, thức, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của nhãn xứ, thế nào là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhãn xứ; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của sắc xứ, thế nào là tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của sắc xứ; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của nhãn giới, thế nào là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhãn giới; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của sắc giới, thế nào là tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của sắc giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của sắc giới; chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của nhãn thức giới, thế nào là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn thức giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhãn thức giới; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của nhãn xúc, thế nào là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của nhãn xúc không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhãn xúc; chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, thế nào là tướng chơn như các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết cần phải tu học để đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của địa giới, thế nào là tướng chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của địa giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của địa giới; chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết cần phải tu học để đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của vô minh, thế nào là tướng chơn như của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, tủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, sầu, than, khổ, ưu, não để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của vô minh không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của vô minh; chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết cần phải tu học để đối với tất cả pháp như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa, thế nào là tướng chơn như của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bố thí Ba-la-mật-đa; chơn như của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của pháp không nội, thế nào là tướng chơn như của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp không nội không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp không nội; chơn như của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của chơn như, thế nào là tướng chơn như của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, cảnh giới bất tư nghì để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của chơn như không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của chơn như; chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của Thánh đế khổ, thế nào là tướng chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của Thánh đế khổ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của Thánh đế khổ; chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của Thánh đế tập, diệt, đạo, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của bốn tịnh lự, thế nào là tướng chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của bốn tịnh lự không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn tịnh lự; chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của tám giải thoát, thế nào là tướng chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của tám giải thoát không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tám giải thoát; chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của bốn niệm trụ; thế nào là tướng chơn như của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của bốn niệm trụ không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn niệm trụ; chơn như của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của pháp môn giải thoát không, thế nào là tướng chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp môn giải thoát không không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp môn giải thoát không; chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của năm loại mắt, thế nào là tướng chơn như của sáu phép thần thông để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của năm loại mắt không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của năm loại mắt; chơn như của sáu phép thần thông không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của sáu phép thần thông, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của mười lực Phật, thế nào là tướng chơn như của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của mười lực Phật không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của mười lực Phật; chơn như của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của pháp không quên mất, thế nào là tướng chơn như của tánh luôn luôn xả để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết, tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của pháp không quên mất không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của pháp không quên mất; chơn như của tánh luôn luôn xả không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tánh luôn luôn xả, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của trí nhất thiết, thế nào là tướng chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của trí nhất thiết không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của trí nhất thiết; chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni, thế nào là tướng chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tất cả pháp môn Đà-la-ni; chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của quả Dự lưu, thế nào là tướng chơn như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của quả Dự lưu không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của quả Dự lưu; chơn như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của quả vị Độc giác để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của quả vị Độc giác không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của quả vị Độc giác, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không sanh, không diệt, cũng không trụ, không khác mà có thể an lập, đó gọi là tướng chơn như của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của sắc; như thật rõ biết tướng thật tế của thọ, tưởng, hành, thức, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của nhãn xứ; như thật rõ biết tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của sắc xứ; như thật rõ biết tướng thật tế của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của nhãn giới; như thật rõ biết tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của sắc giới; như thật rõ biết tướng thật tế của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của nhãn thức giới; như thật rõ biết tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của nhãn xúc; như thật rõ biết tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; như thật rõ biết tướng thật tế của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của địa giới; như thật rõ biết tướng thật tế của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của vô minh; như thật rõ biết tướng thật tế của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của bố thí Ba-la-mật-đa; như thật rõ biết tướng thật tế của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của pháp không nội; như thật rõ biết tướng thật tế của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của chơn như; như thật rõ biết tướng thật tế của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của Thánh đế khổ; như thật rõ biết tướng thật tế của Thánh đế tập, diệt, đạo, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của bốn tịnh lự; như thật rõ biết tướng thật tế của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của tám giải thoát; như thật rõ biết tướng thật tế của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của bốn niệm trụ; như thật rõ biết tướng thật tế của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của pháp môn giải thoát không; như thật rõ biết tướng thật tế của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của năm loại mắt; như thật rõ biết tướng thật tế của sáu phép thần thông, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của mười lực Phật; như thật rõ biết tướng thật tế của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của pháp không quên mất; như thật rõ biết tướng thật tế của tánh luôn luôn xả, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của trí nhất thiết; như thật rõ biết tướng thật tế của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của tất cả pháp môn Đà-la-ni; như thật rõ biết tướng thật tế của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của quả Dự lưu; như thật rõ biết tướng thật tế của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của quả vị Độc giác, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như thật rõ biết tướng thật tế của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của sắc, thế nào là tướng thật tế của thọ, tưởng, hành, thức để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của sắc, đó là tướng thật tế của sắc; không có giới hạn của thọ, tưởng, hành, thức, đó là tướng thật tế của thọ, tưởng, hành, thức, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của nhãn xứ, thế nào là tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của nhãn xứ, đó là tướng thật tế của nhãn xứ; không có giới hạn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, đó là tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của sắc xứ, thế nào là tướng thật tế của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của sắc xứ đó là tướng thật tế của sắc xứ; không có giới hạn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đó là tướng thật tế của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của nhãn giới, thế nào là tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của nhãn giới, đó là tướng thật tế của nhãn giới; không có giới hạn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, đó là tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của sắc giới, thế nào là tướng thật tế của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của sắc giới, đó là tướng thật tế của sắc giới; không có giới hạn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, đó là tướng thật tế của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của nhãn thức giới, thế nào là tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của nhãn thức giới, đó là tướng thật tế của nhãn thức giới; không có giới hạn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, đó là tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của nhãn xúc, thế nào là tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của nhãn xúc, đó là tướng thật tế của nhãn xúc; không có giới hạn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, đó là tướng thật tế của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, thế nào là tướng thật tế của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đó là tướng thật tế của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; không có giới hạn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, đó là tướng thật tế của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của địa giới, thế nào là tướng thật tế của thủy, hỏa, phong, không, thức giới để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của Địa giới, đó là tướng thật tế của địa giới; không có giới hạn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, đó là tướng thật tế thủy, hỏa, phong, không, thức giới, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của vô minh; thế nào là tướng thật tế của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của Vô minh, đó là tướng thật tế của vô minh; không có giới hạn của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, đó là tướng thật tế của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, các Đại Bồ-tát như thật rõ biết mà tu học, để đối với tất cả pháp, như thật rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Quyển Thứ 357
HẾT

08

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của bố thí Ba-la-mật-đa, thế nào là tướng thật tế của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của bố thí Ba-la-mật-đa, đó là tướng thật tế của bố thí Ba-la-mật-đa; không có giới hạn của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đó là tướng thật tế của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của pháp không nội, thế nào là tướng thật tế của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của pháp không nội, đó gọi là tướng thật tế pháp không nội; không có giới hạn của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, đó gọi là tướng thật tế của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của chơn như, thế nào là tướng thật tế của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của chơn như, đó là tướng thật tế của chơn như; không có giới hạn của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, đó là tướng thật tế của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của Thánh đế khổ, thế nào là tướng thật tế của Thánh đế tập, diệt, đạo để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của Thánh đế khổ, đó là tướng thật tế của thánh đế khổ; không có giới hạn của Thánh đế tập, diệt, đạo, đó là tướng thật tế của thánh đế tập, diệt, đạo, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của bốn tịnh lự, thế nào là tướng thật tế của bốn vô lượng, bốn định vô sắc để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của bốn tịnh lự, đó là tướng thật tế của bốn tịnh lự; không có giới hạn của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đó gọi là tướng thật tế của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của tám giải thoát, thế nào là tướng thật tế của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của tám giải thoát, đó là tướng thật tế của tám giải thoát; không có giới hạn của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, đó gọi là tướng thật tế của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của bốn niệm trụ, thế nào là tướng thật tế của bốn chánh đoạn, bốn thần tức, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của bốn niệm trụ, đó là tướng thật tế của bốn niệm trụ; không có giới hạn của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, đó là tướng thật tế của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của pháp môn giải thoát không, thế nào là tướng thật tế của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của pháp môn giải thoát không, đó là tướng thật tế của pháp môn giải thoát không; không có giới hạn của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, đó là tướng thật tế của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của năm loại mắt, thế nào là tướng thật tế của sáu phép thần thông để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của năm loại mắt, đó là tướng thật tế của năm loại mắt; không có giới hạn của sáu phép thần thông, đó là tướng thật tế của sáu phép thần thông, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của mười lực Phật, thế nào là tướng thật tế của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của mười lực Phật, đó là tướng thật tế của mười lực Phật; không có giới hạn của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đó là tướng thật tế của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của pháp không quên mất, thế nào là tướng thật tế của tánh luôn luôn xả để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của pháp không quên mất, đó là tướng thật tế của pháp không quên mất; không có giới hạn của tánh luôn luôn xả, đó gọi là tướng thật tế của tánh luôn luôn xả, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của trí nhất thiết, thế nào là tướng thật tế của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của trí nhất thiết, đó là tướng thật tế của trí nhất thiết; không có giới hạn của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đó là tướng thật tế của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của tất cả pháp môn Đà-la-ni, thế nào là tướng thật tế của tất cả pháp môn Tam-ma-địa để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của tất cả pháp môn Đà-la-ni, đó là tướng thật tế của tất cả pháp môn Đà-la-ni; không có giới hạn của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đó là tướng thật tế của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của quả Dự lưu, thế nào là tướng thật tế của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của quả Dự lưu, đó là tướng thật tế của quả Dự lưu; không có giới hạn của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, đó là tướng thật tế của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của quả vị Độc giác để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của quả vị Độc giác, đó là tướng thật tế của quả vị Độc giác, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của tất cả hạnh Đại Bồ-tát để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, đó là tướng thật tế của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng thật tế của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Không có giới hạn của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, đó là tướng thật tế của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của sắc; rõ biết như thật tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của nhãn xứ; rõ biết như thật tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của sắc xứ; rõ biết như thật tướng pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của nhãn giới; rõ biết như thật tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của sắc giới; rõ biết như thật tướng pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của nhãn thức giới; rõ biết như thật tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của nhãn xúc; rõ biết như thật tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; rõ biết như thật tướng pháp giới của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của địa giới; rõ biết như thật tướng pháp giới của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của vô minh; rõ biết như thật tướng pháp giới của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của bố thí Ba-la-mật-đa; rõ biết như thật tướng pháp giới của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của pháp không nội; rõ biết như thật tướng pháp giới của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của chơn như; rõ biết như thật tướng pháp giới của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của Thánh đế khổ; rõ biết như thật tướng pháp giới của Thánh đế tập, diệt, đạo, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của bốn tịnh lự; rõ biết như thật tướng pháp giới của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của tám giải thoát; rõ biết như thật tướng pháp giới của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của bốn niệm trụ; rõ biết như thật tướng pháp giới của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của pháp môn giải thoát không; rõ biết như thật tướng pháp giới của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của năm loại mắt; rõ biết như thật tướng pháp giới của sáu phép thần thông, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của mười lực Phật; rõ biết như thật tướng pháp giới của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của pháp không quên mất; rõ biết như thật tướng pháp giới của tánh luôn luôn xả, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của trí nhất thiết; rõ biết như thật tướng pháp giới của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của tất cả pháp môn Đà-la-ni; rõ biết như thật tướng pháp giới của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của quả Dự lưu; rõ biết như thật tướng pháp giới của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của quả vị Độc giác, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tướng pháp giới của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của sắc, thế nào là tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của sắc, đó là pháp giới của sắc; pháp giới của sắc này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của sắc; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của thọ, tưởng, hành, thức, đó là pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức; pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của thọ, tưởng, hành, thức, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của nhãn xứ, thế nào là tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của nhãn xứ, đó là pháp giới của nhãn xứ; pháp giới của nhãn xứ này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của nhãn xứ; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; đó là pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của sắc xứ, thế nào là tướng pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của sắc xứ, đó là pháp giới của sắc xứ; pháp giới của sắc xứ này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của sắc xứ; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đó là pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của nhãn giới, thế nào là tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của nhãn giới, đó là pháp giới của nhãn giới; pháp giới của nhãn giới này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của nhãn giới; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, đó là pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của sắc giới, thế nào là tướng pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của sắc giới, đó là pháp giới của sắc giới; pháp giới của sắc giới này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của sắc giới; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới đó là pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của nhãn thức giới, thế nào là tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của nhãn thức giới, đó là pháp giới của nhãn thức giới; pháp giới của nhãn thức giới này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của nhãn thức giới; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, đó là pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của nhãn xúc, thế nào là tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của nhãn xúc, đó là pháp giới của nhãn xúc; pháp giới của nhãn xúc này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của nhãn xúc; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, đó là pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, thế nào là tướng pháp giới của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đó là pháp giới của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; pháp giới của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, đó là pháp giới của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; pháp giới của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của địa giới, thế nào là tướng pháp giới của thủy, hỏa, phong, không, thức giới để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của địa giới, đó là pháp giới của địa giới; pháp giới của địa giới này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của địa giới; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, đó là pháp giới của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; pháp giới của thủy, hỏa, phong, không, thức giới này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của vô minh, thế nào là tướng pháp giới của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của vô minh, đó là pháp giới của vô minh; pháp giới của vô minh này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của vô minh; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, đó là pháp giới của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; pháp giới của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của bố thí Ba-la-mật-đa, thế nào là tướng pháp giới của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của bố thí Ba-la-mật-đa, đó là pháp giới của bố thí Ba-la-mật-đa; pháp giới của bố thí Ba-la-mật-đa này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của bố thí Ba-la-mật-đa; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đó là pháp giới của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; pháp giới của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của pháp không nội, thế nào là tướng pháp giới của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của pháp không nội, đó là pháp giới của pháp không nội; pháp giới của pháp không nội này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của pháp không nội; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, đó là pháp giới của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; pháp giới của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của chơn như, thế nào là tướng pháp giới của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của chơn như, đó là pháp giới của chơn như; pháp giới của chơn như này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của chơn như; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, đó là pháp giới của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; pháp giới của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của Thánh đế khổ, thế nào là tướng pháp giới của Thánh đế tập, diệt, đạo để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của Thánh đế khổ, đó là pháp giới của Thánh đế khổ; pháp giới của Thánh đế khổ này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của Thánh đế khổ; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của Thánh đế tập, diệt, đạo, đó là pháp giới của Thánh đế tập, diệt, đạo; pháp giới của Thánh đế tập, diệt, đạo này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của Thánh đế tập, diệt, đạo, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của bốn tịnh lự, thế nào là tướng pháp giới của bốn vô lượng, bốn định vô sắc để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của bốn tịnh lự, đó là pháp giới của bốn tịnh lự; pháp giới của bốn tịnh lự này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của bốn tịnh lự; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đó là pháp giới của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; pháp giới của bốn vô lượng, bốn định vô sắc này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của tám giải thoát, thế nào là tướng pháp giới của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của tám giải thoát, đó là pháp giới của tám giải thoát; pháp giới của tám giải thoát này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của tám giải thoát; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, đó là pháp giới của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; pháp giới của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của bốn niệm trụ, thế nào là tướng pháp giới của bốn chánh đoạn, bốn thần tức, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của bốn niệm trụ, đó là pháp giới của bốn niệm trụ; pháp giới của bốn niệm trụ này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của bốn niệm trụ; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, đó là pháp giới của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; pháp giới của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của pháp môn giải thoát không, thế nào là tướng pháp giới của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của pháp môn giải thoát không, đó là pháp giới của pháp môn giải thoát không; pháp giới của pháp môn giải thoát không này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của pháp môn giải thoát không; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, đó là pháp giới của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; pháp giới của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyên, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của năm loại mắt, thế nào là tướng pháp giới của sáu phép thần thông để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của năm loại mắt, đó là pháp giới của năm loại mắt; pháp giới của năm loại mắt này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của năm loại mắt; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của sáu phép thần thông, đó là pháp giới của sáu phép thần thông; pháp giới của sáu phép thần thông này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của sáu phép thần thông các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của mười lực Phật, thế nào là tướng pháp giới của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của mười lực Phật, đó là pháp giới của mười lực Phật; pháp giới của mười lực Phật này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của mười lực Phật; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đó là pháp giới của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; pháp giới của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của pháp không quên mất, thế nào là tướng pháp giới của tánh luôn luôn xả để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của pháp không quên mất, đó là pháp giới của pháp không quên mất; pháp giới của pháp không quên mất này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của pháp không quên mất; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của tánh luôn luôn xả, đó là pháp giới của tánh luôn luôn xả; pháp giới của tánh luôn luôn xả này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của tánh luôn luôn xả, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của trí nhất thiết, thế nào là tướng pháp giới của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của trí nhất thiết, đó là pháp giới của trí nhất thiết; pháp giới của trí nhất thiết này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của trí nhất thiết; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đó là pháp giới của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; pháp giới của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của tất cả pháp môn Đà-la-ni, thế nào là tướng pháp giới của tất cả pháp môn Tam-ma-địa để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của tất cả pháp môn Đà-la-ni, đó là pháp giới của tất cả pháp môn Đà-la-ni; pháp giới của tất cả pháp môn Đà-la-ni này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của tất cả pháp môn Đà-la-ni; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đó là pháp giới của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; pháp giới của tất cả pháp môn Tam-ma-địa này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của quả Dự lưu, thế nào là tướng pháp giới của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của quả Dự lưu, đó là pháp giới của quả Dự lưu; pháp giới của quả Dự lưu này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của quả Dự lưu; cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, đó là pháp giới của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; pháp giới của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán này cũng không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của quả vị Độc giác để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của quả vị Độc giác, đó là pháp giới của quả vị Độc giác; pháp giới của quả vị Độc giác này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của quả vị Độc giác, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của tất cả hạnh Đại Bồ-tát để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, đó là pháp giới của tất cả hạnh Đại Bồ-tát; pháp giới của tất cả hạnh Đại Bồ-tát này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là tướng pháp giới của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để các Đại Bồ-tát rõ biết như thậttu học, để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn?

Này Thiện Hiện! Cảnh giới hư không thuộc lĩnh vực của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, đó là pháp giới của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; pháp giới của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật này không đoạn, không diệt, không phân biệt mà có thể an lập, đó là tướng pháp giới của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, các Đại Bồ-tát rõ biết như thật, cần phải tu học để đối với tất cả pháp, rõ biết như thật tướng tóm lược, quảng diễn.

Quyển Thứ 358
HẾT

09

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát lại phải làm thế nào để biết tướng tóm lược, quảng diễn của tất cả pháp.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát rõ biết như thật tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, thì Đại Bồ-tát ấy, như thế sẽ biết tướng tóm lược, quảng diễn của tất cả pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan là những pháp nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Sắc chẳng hợp, chẳng tan; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng hợp, chẳng tan. Nhãn xứ chẳng hợp, chẳng tan; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng hợp, chẳng tan. Sắc xứ chẳng hợp, chẳng tan; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng hợp, chẳng tan. Nhãn giới chẳng hợp, chẳng tan; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng hợp, chẳng tan. Sắc giới chẳng hợp, chẳng tan; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng hợp, chẳng tan. Nhãn thức giới chẳng hợp, chẳng tan; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng hợp, chẳng tan. Nhãn xúc chẳng hợp, chẳng tan; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng hợp, chẳng tan. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng hợp, chẳng tan; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng hợp, chẳng tan. Địa giới chẳng hợp, chẳng tan; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng hợp, chẳng tan. Vô minh chẳng hợp, chẳng tan; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng hợp, chẳng tan. Bố thí Ba-la-mật-đa chẳng hợp, chẳng tan; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng hợp, chẳng tan. Pháp không nội chẳng hợp, chẳng tan; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng hợp, chẳng tan. Chơn như chẳng hợp, chẳng tan; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng hợp, chẳng tan. Thánh đế khổ chẳng hợp, chẳng tan; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng hợp, chẳng tan. Bốn tịnh lự chẳng hợp, chẳng tan; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng hợp, chẳng tan. Tám giải thoát chẳng hợp, chẳng tan; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng hợp, chẳng tan. Bốn niệm trụ chẳng hợp, chẳng tan; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng hợp, chẳng tan. Pháp môn giải thoát không chẳng hợp, chẳng tan; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng hợp, chẳng tan. Năm loại mắt chẳng hợp, chẳng tan; sáu phép thần thông cũng chẳng hợp, chẳng tan. Mười lực Phật chẳng hợp, chẳng tan; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng hợp, chẳng tan. Pháp không quên mất chẳng hợp, chẳng tan; tánh luôn luôn xả cũng chẳng hợp, chẳng tan. Trí nhất thiết chẳng hợp, chẳng tan; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng hợp, chẳng tan. Tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng hợp, chẳng tan; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng hợp, chẳng tan. Quả Dự lưu chẳng hợp, chẳng tan; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng hợp, chẳng tan. Quả vị Độc giác chẳng hợp, chẳng tan. Tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng hợp, chẳng tan. Quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng hợp, chẳng tan. Cảnh giới hữu vi chẳng hợp, chẳng tan; cảnh giới vô vi cũng chẳng hợp, chẳng tan. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các pháp như thế đều không có tự tánh; nếu khôngtự tánh thì không có sở hữu; nếu khôngsở hữu thì chẳng thể nói có hợp có tan. Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp, rõ biết như thế, thì có khả năng rõ biết tướng tóm lược, quảng diễn.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy gọi là thâu tóm sáu phép Ba-la-mật-đa, các Đại Bồ-tát nếu đối với pháp ấy mà tu học thì có khả năng làm được nhiều việc.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâu tóm như thế, Đại Bồ-tát mới tu nghiệp nên tu học, cho đến Đại Bồ-tát trụ thập địa cũng nên tu học.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâu tóm này, thì đối với tất cả pháp, biết tướng tóm lược, quảng diễn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Pháp môn như thế, hàng Đại Bồ-tát lợi cănthể nhập, hàng Đại Bồ-tát trung căn cũng có thể nhập.

Này Thiện Hiện! Pháp môn như thế, hàng Đại Bồ-tát định cănthể nhập, hàng Đại Bồ-tát bất định căn cũng có thể nhập.

Này Thiện Hiện! Pháp môn như thế không chướng, không ngại; nếu Đại Bồ-tát suy cứu tu học thì không thể không nhập.

Này Thiện Hiện! Pháp môn như thế chẳng phải là đối tượng có thể nhập của người lười biếng, người kém tinh tấn, người mất chánh niệm, người tâm tán loạn, người quen ác tuệ.

Này Thiện Hiện! Pháp môn như thế, người không lười biếng, người tinh tấn nhiều, người trụ chánh niệm, người khéo nhiếp tâm, người tu diệu tuệ mới có thể nhập.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn trụ bậc bất thối chuyển, muốn trụ bậc thứ mười, muốn trụ bậc trí nhất thiết trí thì phải tinh cần phương tiện nhập pháp môn này.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như điều Bát-nhã Ba-la-mật-đa này đã nói mà học, thì Đại Bồ-tát ấy, có thể tùy ý chứng đắc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng tùy ý chứng đắc pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng tùy ý chứng đắc chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng tùy ý chứng đắc Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; cũng tùy ý chứng đắc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng tùy ý chứng đắc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng tùy ý chứng đắc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng tùy ý chứng đắc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; cũng tùy ý chứng đắc năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng tùy ý chứng đắc mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng tùy ý chứng đắc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng tùy ý chứng đắc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng tùy ý chứng đắc tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát y cứ những điều mà Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này đã dạy mà tu học, và Đại Bồ-tát ấy, cứ luôn luôn như thế, thì tiến gần sở cầu là trí nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như những điều Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã dạy mà tu học, thì đối với Đại Bồ-tát ấy, có ma sự gì khởi lên liền tiêu diệt. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn mau diệt trừ tất cả nghiệp chướng, muốn nhiếp thọ ngay phương tiện thiện xảo, thì nên tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy, tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy, tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy, thì khi ấy Đại Bồ-tát liền được tất cả Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại đang trụ trì diễn thuyết chánh pháp trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương cùng hộ niệm. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế mà xuất sanh. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì nên nghĩ thế này: Pháp mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc, ta cũng sẽ chứng đắc. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát phải tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế. Nếu tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, thì Đại Bồ-tát ấy mau chứng quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thường chẳng nên xa lìa tác ý tương ưng trí nhất thiết trí và việc tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, như thật tu hành trải qua khoảng khảy móng tay, thì nhóm phước đức mà Đại Bồ-tát ấy đạt được, số lượng rất nhiều. Giả sử có người giáo hóa các loài hữu tình cả Tam thiên đại thiên thế giới, đều khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã; hoặc khiến an trụ giải thoátgiải thoát tri kiến; hoặc khiến an trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; hoặc khiến an trụ quả vị Độc giác, thì người ấy tuy thu hoạch vô lượng phước đức nhưng còn chẳng bằng vị Đại Bồ-tát kia đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa này như thật tu hành trải qua khoảng kháy móng tay. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, có khả năng phát sanh tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã; có khả năng phát sanh tất cả giải thoátgiải thoát tri kiến; có khả năng phát sanh quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; có khả năng phát sanh quả vị Độc giác; có khả năng phát sanh quả vị giác ngộ cao tột. Tất cả Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại ở trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế đang được xuất hiện. Tất cả Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác ở đời quá khứ đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế đã được xuất hiện. Tất cả Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác ở đời vị lai đều do Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế sẽ được xuất hiện.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng trí nhất thiết trítu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong khoảng giây lát, hoặc nửa ngày, hoặc một ngày, hoặc trải qua một tháng, hoặc trải qua một năm, hoặc trải qua trăm năm, hoặc trải qua một kiếp, hoặc trải qua trăm kiếp cho đến hoặc trải qua vô số kiếp, thì phước đức đạt được của Đại Bồ-tát ấy rất nhiều số lượng, vượt qua phước đức đã đạt được của người giáo hóa các loài hữu tình trong Hằng hà sa số thế giới khắp mười phương đều khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã; hoặc khiến an trụ giải thoátgiải thoát tri kiến; hoặc khiến an trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; hoặc khiến an trụ quả vị Độc giác. Vì sao? Này Thiện Hiện! Do vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa này xuất sanh tất cả Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại; vì các hữu tình như thật an lập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã; vì các hữu tình như thật an lập giải thoát và giải thaót tri kiến; vì các hữu tình như thật an lập quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; vì các hữu tình như thật an lập quả vị Độc giác; vì các hữu tình như thật an lập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cho nên số phước đức này vượt qua phước đức kia.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát như điều Bát-nhã Ba-la-mật-đa này đã dạy mà an trụ, thì nên biết Đại Bồ-tát ấy, chẳng bị thối chuyển, thường được chư Phật hộ niệm, thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, đã từng gần gũi cúng dường vô lượng trăm ngàn ức triệu đức Phật, ở chỗ các đức Phật đã gieo trồng vô lượng thiện căn thù thắng, thì nên biết Đại Bồ-tát ấy đã được vô lượng chân thiện tri thức nhiếp thọ, từ lâu đã tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; từ lâu đã an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; từ lâu đã an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; từ lâu đã an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; từ lâu đã tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; từ lâu đã tu tập tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; từ lâu đã tu tập bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; từ lâu đã tu tập pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; từ lâu đã tu tập năm loại mắt, sáu phép thần thông; từ lâu đã tu tập mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; từ lâu đã tu tập pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; từ lâu đã tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; từ lâu đã tu tập trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Nên biết, Đại Bồ-tát ấy trụ ở bậc đồng tử, tất cả sở nguyện đều được đầy đủ; thường gặp chư Phật, không hề rời bỏ, đối với các thiện căn thường chẳng xa lìa; luôn luôn thành thục tất cả hữu tình, cũng thường nghiêm tịnh cõi Phật; từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, lắng nghe thọ trì, tu hành pháp vô thượng thừa. Nên biết Đại Bồ-tát ấy đã đắc biện tài vô đoạn, vô tận, đã đắc pháp Đà-la-ni thù thắng, thành tựu sắc thân vi diệu tối thượng, đã được chư Phật thọviên mãn; tùy theo sự ưa thích, vì độ các hữu tình mà thọ sanh các loại thân hình, đều được tự tại. Nên biết, Đại Bồ-tát ấy biết rành môn sở duyên, biết rành môn hành tướng, biết rành môn tự, biết rành môn phi tự, biết rành ngôn, biết rành bất ngôn, biết rành một ngôn ngữ, biết rành hai ngôn ngữ, biết rành nhiều ngôn ngữ, biết rành ngôn ngữ nam, biết rành ngôn ngữ nữ, biết rành ngôn ngữ phi nam nữ, biết rành ngôn ngữ quá khứ, biết rành ngôn ngữ vị lai, biết rành ngôn ngữ hiện tại, biết rành văn chương, biết rành ý nghĩa. Nên biết Đại Bồ-tát ấy biết rành sắc, biết rành thọ, biết rành tưởng, biết rành hành, biết rành thức, biết rành uẩn, biết rành giới, biết rành xứ, biết rành duyên khởi, biết rành các chi duyên khởi, biết rành tánh thế gian, biết rành tánh Niết-bàn; biết rành tướng pháp giới, biết rành tướng hành, biết rành chẳng phải tướng hành, biết rành tướng hữu vi, biết rành tướng vô vi, biết rành tướng hữu vi, vô vi, biết rành tướng tướng, biết rành tướng phi tướng, biết rành hữu, biết rành phi hữu, biết rành tự tánh, biết rành tha tánh, biết rành hợp, biết rành tan, biết rành hợp tan, biết rành tương ưng, biết rành bất tương ưng, biết rành tương ưng bất tương ưng; biết rành chơn như, biết rành tánh chẳng hư vọng, biết rành tánh chẳng đổi khác, biết rành pháp tánh, biết rành pháp giới, biết rành pháp định, biết rành pháp trụ, biết rành tánh duyên, biết rành tánh phi duyên, biết rành các Thánh đế; biết rành tịnh lự, biết rành vô lượng, biết rành định vô sắc, biết rành sáu phép Ba-la-mật-đa, biết rành bốn niệm trụ, biết rành bốn chánh đoạn, biết rành bốn thần túc, biết rành năm căn, biết rành năm lực, biết rành bảy chi đẳng giác, biết rành tám chi thánh đạo; biết rành tám giải thoát, biết rành tám thắng xứ, biết rành chín định thứ đệ, biết rành mười biến xứ; biết rành pháp môn Đà-la-ni, biết rành pháp môn Tam-ma-địa; biết rành pháp môn giải thoát không, biết rành pháp môn giải thoát vô tướng, biết rành pháp môn giải thoát vô nguyện; biết rành pháp môn tất cả không; biết rành năm loại mắt, biết rành sáu phép thần thông; biết rành mười lực Phật, biết rành bốn điều không sợ, biết rành bốn sự hiểu biết thông suốt, biết rành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, biết rành mười tám pháp Phật bất cộng; biết rành pháp không quên mất, biết rành tánh luôn luôn xả; biết rành trí nhất thiết, biết rành trí đạo tướng, biết rành trí nhất thiết tướng; biết rành cảnh giới hữu vi, biết rành cảnh giới vô vi, biết rành cảnh giới, biết rành phi cảnh giới. Nên biết Đại Bồ-tát ấy biết rành tác ý sắc, biết rành tác ý thọ, tưởng, hành, thức; biết rành tác ý nhãn xứ, biết rành tác ý nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; biết rành tác ý sắc xứ, biết rành tác ý thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; biết rành tác ý nhãn giới, biết rành tác ý nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; biết rành tác ý sắc giới, biết rành tác ý thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; biết rành tác ý nhãn thức giới, biết rành tác ý nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; biết rành tác ý nhãn xúc, biết rành tác ý nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; biết rành tác ý các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, biết rành tác ý các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; biết rành tác ý địa giới, biết rành tác ý thủy, hỏa, phong, không, thức giới; biết rành tác ý vô minh, biết rành tác ý hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; biết rành tác ý bố thí Ba-la-mật-đa, biết rành tác ý tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; biết rành tác ý pháp không nội, biết rành tác ý pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; biết rành tác ý chơn như, biết rành tác ý pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; biết rành tác ý Thánh đế khổ, biết rành tác ý Thánh đế tập, diệt, đạo; biết rành tác ý bốn niệm trụ, biết rành tác ý bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; biết rành tác ý bốn tịnh lự, biết rành tác ý bốn vô lượng, bốn định vô sắc; biết rành tác ý tám giải thoát, biết rành tác ý tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; biết rành tác ý tất cả pháp môn Đà-la-ni, biết rành tác ý tất cả pháp môn Tam-ma-địa; biết rành tác ý pháp môn giải thoát không, biết rành tác ý pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; biết rành tác ý năm loại mắt, biết rành tác ý sáu phép thần thông; biết rành tác ý mười lực Phật, biết rành tác ý bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; biết rành tác ý pháp không quên mất, biết rành tác ý tánh luôn luôn xả; biết rành tác ý trí nhất thiết, biết rành tác ý trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Nên biết Đại Bồ-tát ấy biết rành sắc và tướng không của sắc, biết rành thọ, tưởng, hành, thức và tướng không của thọ, tưởng, hành, thức; biết rành nhãn xứ và tướng không của nhãn xứ, biết rành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứtướng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; biết rành sắc xứtướng không của sắc xứ, biết rành thanh, hương, vị, xúc, pháp xứtướng không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; biết rành nhãn giớitướng không của nhãn giới, biết rành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giớitướng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; biết rành sắc giớitướng không của sắc giới, biết rành thanh, hương, vị, xúc, pháp giớitướng không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; biết rành nhãn thức giớitướng không của nhãn thức giới; biết rành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới và tướng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; biết rành nhãn xúc và tướng không của nhãn xúc, biết rành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc và tướng không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; biết rành các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tướng không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, biết rành các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra và tướng không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; biết rành địa giớitướng không của địa giới, biết rành thủy, hỏa, phong, không, thức giớitướng không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; biết rành vô minhtướng không của vô minh, biết rành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tướng không của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; biết rành bố thí Ba-la-mật-đa và tướng không của bố thí Ba-la-mật-đa, biết rành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đatướng không của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; biết rành pháp không nội và tướng không của pháp không nội; biết rành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánhtướng không của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; biết rành chơn nhưtướng không của chơn như, biết rành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tướng không của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; biết rành Thánh đế khổ và tướng không của Thánh đế khổ, biết rành Thánh đế tập, diệt, đạo và tướng không của Thánh đế tập, diệt, đạo; biết rành bốn niệm trụ và tướng không của bốn niệm trụ, biết rành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạotướng không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; biết rành bốn tịnh lựtướng không của bốn tịnh lự, biết rành bốn vô lượng, bốn định vô sắctướng không của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; biết rành tám giải thoáttướng không của tám giải thoát, biết rành tám tháng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứtướng không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; biết rành tất cả pháp môn Đà-la-ni và tướng không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, biết rành tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tướng không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; biết rành pháp môn giải thoát không và tướng không của pháp môn giải thoát không, biết rành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyệntướng không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; biết rành năm loại mắttướng không của năm loại mắt, biết rành sáu phép thần thôngtướng không của sáu phép thần thông; biết rành mười lực Phật và tướng không của mười lực Phật, biết rành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngtướng không của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; biết rành pháp không quên mất và tướng không của pháp không quên mất, biết rành tánh luôn luôn xả và tướng không của tánh luôn luôn xả; biết rành trí nhất thiếttướng không của trí nhất thiết, biết rành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tướng không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; biết rành quả Dự lưutướng không của quả Dự lưu, biết rành quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và tướng không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; biết rành quả vị Độc giáctướng không của quả vị Độc giác; biết rành tất cả hạnh Đại Bồ-tát và tướng không của tất cả hạnh đại Bồ-tát; biết rành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tướng không của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Nên biết Đại Bồ-tát ấy biết rành đạo dừng nghỉ, biết rành đạo chẳng dừng nghỉ, biết rành sanh, biết rành diệt, biết rành trụ, dị, biết rành tham, sân, si, biết rành không tham, không sân, không si, biết rành kiến, biết rành phi kiến, biết rành tà kiến, biết rành phi tà kiến, biết rành tất cả kiến, triền, tùy miên, kiết phược; biết rành sự dứt trừ tất cả kiến, triền, tùy miên, kiết phược. Biết rành danh, biết rành sắc, biết rành danh sắc, biết rành nhân duyên, biết rành đẳng vô gián duyên, biết rành sở duyên duyên, biết rành tăng thượng duyên; biết rành hành, biết rành giải, biết rành tướng, biết rành trạng, biết rành khổ, biết rành tập, biết rành diệt, biết rành đạo. Biết rành địa ngục, biết rành đường địa ngục; biết rành bàng sanh, biết rành đường bàng sanh; biết rành quỷ giới, biết rành đường quỷ giới, biết rành người, biết rành đường người, biết rành trời, biết rành đường trời, biết rành Dự lưu, biết rành quả Dự lưu, biết rành đường Dự lưu; biết rành Nhất lai, biết rành quả Nhất lai, biết rành đường Nhất lai; biết rành Bất hoàn, biết rành quả Bất hoàn, biết rành đường Bất hoàn; biết rành A-la-hán, biết rành quả A-la-hán, biết rành đường A-la-hán, biết rành Độc giác, biết rành quả vị Độc giác, biết rành đường Độc giác, biết rành đại Bồ-tát, biết rành hạnh đại Bồ-tát, biết rành Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác, biết rành quả vị giác ngộ cao tột; biết rành trí nhất thiết, biết rành đường trí nhất thiết; biết rành trí đạo tướng, biết rành đường trí đạo tướng; biết rành trí nhất thiết tướng, biết rành đường trí nhất thiết tướng. Biết rành căn, biết rành căn viên mãn, biết rành căn thắng liệt; biết rành tuệ, biết rành tuệ nhanh, biết rành tuệ mạnh, biết rành tuệ bén, biết rành tuệ mau, biết rành tuệ đạt, biết rành tuệ rộng, biết rành tuệ sâu, biết rành tuệ lớn, biết rành tuệ vô đẳng, biết rành tuệ chơn thật, biết rành tuệ trân bảo. Biết rành đời quá khứ, biết rành đời vị lai, biết rành đời hiện tại; biết rành phương tiện, biết rành ý lạc, biết rành ý lạc tăng thượng, biết rành sự chiếu cố hữu tình, biết rành tướng văn nghĩa, biết rành các thánh pháp, biết rành phương tiện an lập ba thừa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì đạt được những công đức thắng lợi như thế.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát vì sao nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Vì sao nên dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Vì sao nên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán sắc tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư dối, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán thọ, tưởng, hành, thức tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán nhãn xứ tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán sắc xứ tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán nhãn giới tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán sắc giới tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán nhãn thức giới tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán nhãn xúc tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán địa giới tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì quán vô minh tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tịch tịnh, có thể phá hoại, chẳng tự tại, thể hư vọng, chẳng chắc thật, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Ông hỏi Đại Bồ-tát vì sao nên dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát giống như dẫn cái không của hư không, nên dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Ông hỏi Đại Bồ-tát vì sao nên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Đại Bồ-tát giống như tu cái không của hư không, nên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát phải trải qua thời gian bao lâu để hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, để dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, để tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề nhiệm mầu nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát trụ tâm nào không gián đoạn để hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, để dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, để tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ-đề nhiệm mầu, chẳng để phát khởi các tác ý khác, chỉ thường an trụ tác ý tương ưng trí nhất thiết trí, để hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, để dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, để tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát ấy, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, nên dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, nên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, cho đến có thể khiến tâm, và tâm sở pháp đối với cảnh chẳng chuyển.

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sẽ đắc trí nhất thiết trí chăng?

- Này Thiện Hiện! Không!

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát chẳng hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sẽ đắc trí nhất thiết trí chăng?

- Này Thiện Hiện! Không!

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát vừa hành vừa chẳng hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vừa dẫn vừa chẳng dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vừa tu vừa chẳng tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sẽ đắc trí nhất thiết trí chăng?

- Này Thiện Hiện! Không!

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát chẳng phải hành, chẳng phải chẳng hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải dẫn, chẳng phải chẳng dẫn Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng phải tu, chẳng phải chẳng tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sẽ đắc trí nhất thiết trí chăng?

- Này Thiện Hiện! Không!

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì Đại Bồ-tát sẽ đắc trí nhất thiết trí như thế nào?

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát sẽ đắc trí nhất thiết trí phải như chơn như.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như?

- Này Thiện Hiện! Như thật tế.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là thật tế?

- Này Thiện Hiện! Như pháp giới.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp giới?

- Này Thiện Hiện! Như cảnh giới của ngã, cảnh giới hữu tình, cảnh giới của dòng sanh mạng, cảnh giới khả năng sanh khởi, cảnh giới của sự dưỡng dục, cảnh giới của sự trưởng thành, cảnh giới của chủ thể luân hồi.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là cảnh giới của ngã, cảnh giới hữu tình, cảnh giới dòng sanh mạng, cảnh giới của khả năng sanh khởi, cảnh giới của sự dưỡng dục, cảnh giới của sự trưởng thành, cảnh giới của chủ thể luân hồi?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Theo ý ông thì sao? Hoặc ngã, hoặc hữu tình, hoặc dòng sanh mạng, hoặc khả năng sanh khởi, hoặc sự dưỡng dục, hoặc sự trưởng thành, hoặc chủ thể luân hồi, có thể nắm bắt được chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hoặc ngã, hoặc hữu tình, hoặc dòng sanh mạng, hoặc khả năng sanh khởi, hoặc sự dưỡng dục, hoặc sự trưởng thành, hoặc chủ thể luân hồi đã chẳng thể nắm bắt được thì làm sao ta có thể phô diễn cảnh giới của ngã, cảnh giới hữu tình, cảnh giới của dòng sanh mạng, cảnh giới của khả năng sanh khởi, cảnh giới của sự dưỡng dục, cảnh giới của sự trưởng thành, cảnh giới của chủ thể luân hồi. Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chẳng phô diễn Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng phô diễn trí nhất thiết trí và tất cả pháp, thì Đại Bồ-tát ấy nhất định sẽ chứng đắc trí nhất thiết trí.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể phô diễn, hay là cả tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể phô diễn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng những Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể phô diễn, mà tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể phô diễn.

Này Thiện Hiện! Hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ-tát, hoặc pháp chư Phật, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, tất cả pháp như thế đều chẳng thể phô diễn.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều chẳng thể phô diễn, thì tại sao có thể đặt ra nào là địa ngục, là bàng sanh, là quỷ giới, là người, là trời, là Dự lưu, là Nhất lai, là Bất hoàn, là A-la-hán, là Độc giác, là Bồ-tát, là Phật, là tất cả pháp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Hữu tình phô diễn và pháp phô diễn, thật có thể nắm bắt chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu hữu tình phô diễn và pháp phô diễn thật chẳng có thể nắm bắt, thì ta làm sao phô diễn nào là điạ ngục, là bàng sanh, là quỷ giới, là người, là trời, là Dự lưu, là Nhất lai, là Bất hoàn, là A-la-hán, là Độc giác, là Bồ-tát, là chư Phật, là tất cả pháp! Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên học tất cả pháp đều chẳng thể phô diễn.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học sắc; chẳng nên học thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học nhãn xứ; chẳng nên học nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học sắc xứ; chẳng nên học thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học nhãn giới; chẳng nên học nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học sắc giới; chẳng nên học thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học nhãn thức giới; chẳng nên học nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học nhãn xúc; chẳng nên học nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên học các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học địa giới; chẳng nên học thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học vô minh; chẳng nên học hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng nên học tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học pháp không nội; chẳng nên học pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học chơn như; chẳng nên học pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học Thánh đế khổ; chẳng nên học Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học bốn niệm trụ; chẳng nên học bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học bốn tịnh lự; chẳng nên học bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học tám giải thoát; chẳng nên học tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học pháp môn giải thoát không; chẳng nên học pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học năm loại mắt; chẳng nên học sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học mười lực Phật; chẳng nên học bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học pháp không quên mất; chẳng nên học tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học trí nhất thiết; chẳng nên học trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học quả Dự lưu; chẳng nên học quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học quả vị Độc giác.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lẽ nào chẳng nên học quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Quyển Thứ 359
HẾT

10

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với thọ, tưởng, hành, thức học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với sáu phép thần thông học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tánh luôn luôn xả học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát học bất tăng, bất giảm.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật học bất tăng, bất giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với thọ, tưởng, hành, thức học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni học bất tăng, bất giảm; cũng nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa học bất tăng, bất giảm.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với sáu phép thần thông học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với tánh luôn luôn xả học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu học bất tăng, bất giảm như thế nào; nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật học bất tăng, bất giảm như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với sáu phép thần thông, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với tánh luôn luôn xả, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng sanh, chẳng diệt mà học; cũng nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng sanh, chẳng diệt mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với sáu phép thần thông, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với tánh luôn luôn xả, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng sanh, chẳng diệt mà học? Thế nào là nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng sanh, chẳng diệt mà học?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với sáu phép thần thông, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tánh luôn luôn xả, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với sáu phép thần thông, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với tánh luôn luôn xả, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học? Thế nào là nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học?

Quyển Thứ 360
HẾT

 

11

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc xứ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với sắc giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn thức giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với nhãn xúc, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với địa giới, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với vô minh, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không nội, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với chơn như, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với Thánh đế khổ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn niệm trụ, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với bốn tịnh lự, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tám giải thoát, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp môn giải thoát không, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với năm loại mắt, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với sáu phép thần thông, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với mười lực Phật, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với pháp không quên mất, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với tánh luôn luôn xả, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với trí nhất thiết, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả Dự lưu, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học; nên đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cũng chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị Độc giác, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chẳng khởi lên các hành hoặc hữu, hoặc vô mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán sắc và tướng của sắc là không mà học; nên quán thọ, tưởng, hành, thức và tướng của thọ, tưởng, hành, thức là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán nhãn xứ và tướng của nhãn xứ là không mà học; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán sắc xứ và tướng của sắc xứ là không mà học; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán nhãn giới và tướng của nhãn giới là không mà học; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới và tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán sắc giới và tướng của sắc giới là không mà học; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới và tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán nhãn thức giới và tướng của nhãn thức giới là không mà học; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới và tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán nhãn xúc và tướng của nhãn xúc là không mà học; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc và tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không mà học; nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra và tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán địa giới và tướng của địa giới là không mà học; nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán vô minh và tướng của vô minh là không mà học; nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tướng của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán bố thí Ba-la-mật-đa và tướng của bố thí Ba-la-mật-đa là không mà học; nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tướng của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán pháp không nội và tướng của pháp không nội là không mà học; nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tướng của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán chơn như và tướng của chơn như là không mà học; nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tướng của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán Thánh đế khổ và tướng của Thánh đế khổ là không mà học; nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo và tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán bốn niệm trụ và tướng của bốn niệm trụ là không mà học; nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tướng của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán bốn tịnh lự và tướng của bốn tịnh lự là không mà học; nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán tám giải thoát và tướng của tám giải thoát là không mà học; nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không mà học; nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni và tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán pháp môn giải thoát không và tướng của pháp môn giải thoát không là không mà học; nên quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán năm loại mắt và tướng của năm loại mắt là không mà học; nên quán sáu phép thần thông và tướng của sáu phép thần thông là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán mười lực Phật và tướng của mười lực Phật là không mà học; nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán pháp không quên mất và tướng của pháp không quên mất là không mà học; nên quán tánh luôn luôn xả và tướng của tánh luôn luôn xả là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán trí nhất thiết và tướng của trí nhất thiết là không mà học; nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán quả Dự lưu và tướng của quả Dự lưu là không mà học; nên quán quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và tướng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán quả vị Độc giác và tướng của quả vị Độc giác là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát và tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không mà học. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên quán tự tướng các pháp đều là không mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu sắc và tướng của sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức và tướng của thọ, tưởng, hành, thức là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn xứ và tướng của nhãn xứ là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu sắc xứ và tướng của sắc xứ là không; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn giới và tướng của nhãn giới là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới và tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu sắc giới và tướng của sắc giới là không; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới và tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn thức giới và tướng của nhãn thức giới là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới và tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu nhãn xúc và tướng của nhãn xúc là không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc và tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra và tướng của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu địa giới và tướng của địa giới là không; thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu vô minh và tướng của vô minh là không; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tướng của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu bố thí Ba-la-mật-đa và tướng của bố thí Ba-la-mật-đa là không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tướng của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không nội và tướng của pháp không nội là không; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tướng của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu chơn như và tướng của chơn như là không; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tướng của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu Thánh đế khổ và tướng của Thánh đế khổ là không; Thánh đế tập, diệt, đạo và tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn niệm trụ và tướng của bốn niệm trụ là không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tướng của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn tịnh lự và tướng của bốn tịnh lự là không; bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu tám giải thoát và tướng của tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; tất cả pháp môn Đà-la-ni và tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát không và tướng của pháp môn giải thoát không là không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu năm loại mắt và tướng của năm loại mắt là không; sáu phép thần thông và tướng của sáu phép thần thông là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu mười lực Phật và tướng của mười lực Phật là không; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tướng của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không quên mất và tướng của pháp không quên mất là không; tánh luôn luôn xả và tướng của tánh luôn luôn xả là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu trí nhất thiết và tướng của trí nhất thiết là không; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu quả Dự lưu và tướng của quả Dự lưu là không; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và tướng của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu quả vị Độc giác và tướng của quả vị Độc giác là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả hạnh Đại Bồ-tát và tướng của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không thì tại sao Đại Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do Bát-nhã Ba-la-mật-đa này chẳng thể nắm bắt được, nên Đại Bồ-tát cũng chẳng thể nắm bắt được, hành cũng chẳng thể nắm bắt được; hoặc người năng hành, hoặc do đó mà hành, hoặc chỗ sở hành đều chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát hoàn toàn không có sở hành, là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì ở trong đó, tất cả hý luận chẳng thể nắm bắt được.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát hoàn toàn không có sở hành là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì khi mới tu nghiệp Đại Bồ-tát tại sao phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát từ khi mới phát tâm, nên đối với tất cả pháp, thường học vô sở đắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu bố thí, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bố thí; khi tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, dùng vô sỏ đắc làm phương tiện để tu tịnh giới cho đến Bát-nhã.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi trụ pháp không nội, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ pháp không nội; khi trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi an trụ chơn như, dùng vô sở đắc làm phương tiện để an trụ chơn như; khi trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu bốn niệm trụ, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn niệm trụ; khi tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi trụ Thánh đế khổ, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ Thánh đế khổ; khi trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, dùng vô sở đắc làm phương tiện để trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu bốn tịnh lự, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn tịnh lự; khi tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu pháp môn giải thoát không, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp môn giải thoát không; khi tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu tám giải thoát, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tám giải thoát; khi tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu pháp môn Tam-ma-địa, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp môn Tam-ma-địa; khi tu pháp môn Đà-la-ni, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp môn Đà-la-ni.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu năm loại mắt, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu năm loại mắt; khi tu sáu phép thần thông, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu mười lực Phật, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu mười lực Phật; khi tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu pháp không quên mất, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu pháp không quên mất; khi tu tánh luôn luôn xả, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi tu trí nhất thiết, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu trí nhất thiết; khi tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là hữu sở đắc? Thế nào là vô sở đắc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Những gì có hai thì gọi là hữu sở đắc; những gì không có hai thì gọi là vô sở đắc?

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là có hai? Thế nào gọi là không có hai?

- Này Thiện Hiện! Các nhãn, các sắc là hai, các nhĩ, các thanh là hai, các tỷ, các hương là hai, các thiệt, các vị là hai, các thân, các xúc là hai, các ý, các pháp la hai; hữu sắc vô sắc là hai; hữu kiến, vô kiến là hai; hữu đối, vô đối là hai; hữu lậu, vô lậu là hai; hữu vi, vô vi là hai; thế gian, xuất thế gian là hai; sanh tử, Niết-bàn là hai; pháp phàm phuphàm phu là hai; pháp Dự lưuDự lưu là hai; pháp Nhất laiNhất lai là hai; pháp Bất hoànBất hoàn là hai; pháp A-la-hán và A-la-hán là hai; quả vị Độc giácĐộc giác là hai; hạnh Đại Bồ-tát và Đại Bồ-tát là hai; quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và chư Phật là hai. Như vậy, có tất cả pháp hý luận đều gọi là có hai.

Này Thiện Hiện! Chẳng phải nhãn, chẳng phải sắc là không hai, chẳng phải nhĩ, chẳng phải thanh là không hai, chẳng phải tỷ, chẳng phải hương là không hai, chẳng phải thiệt, chẳng phải vị là không hai, chẳng phải thân, chẳng phải xúc là không hai, chẳng phải ý, chẳng phải pháp là không hai; chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc là không hai; chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến là không hai; chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối là không hai; chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu là không hai; chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi là không hai; chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian là không hai; chẳng phải sanh tử, chẳng phải Niết-bàn là không hai; chẳng phải pháp phàm phu, chẳng phải phàm phu là không hai; chẳng phải pháp Dự lưu chẳng phải Dự lưu là không hai; chẳng phải pháp Nhất lai chẳng phải Nhất lai là không hai; chẳng phải pháp Bất hoàn chẳng phải Bất hoàn là không hai; chẳng phải pháp A-la-hán chẳng phải A-la-hán là không hai; chẳng phải quả vị Độc giác chẳng phải Độc giác là không hai; chẳng phải hạnh Đại Bồ-tát chẳng phải Đại Bồ-tát là không hai; chẳng phải quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng phải chư Phật là không hai. Như vậy, tất cả pháp xa lìa hý luận đều gọi là vô nhị.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải do hữu sở đắc nên vô sở đắc, hay là do vô sở đắc nên vô sở đắc?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải do hữu sở đắc nên vô sở đắc, cũng chẳng phải do vô sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng tánh hữu sở đắcvô sở đắc bình đẳng nên gọi là vô sở đắc. Như vậy, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đối với tánh bình đẳng của hữu sở đắcvô sở đắc phải siêng năng tu học.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi học như thế thì gọi là học nghĩa vô sở đắc của Bát-nhã Ba-la-mật-đa, xa lìa các lầm lỗi.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng chấp trước hữu sở đắc, chẳng chấp trước vô sở đắc, là Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì tại sao từ bậc này đến bậc khác dần dần viên mãn, hoặc không từ bậc này đến bậc khác dần dần viên mãn? Làm sao để đắc sở cầuquả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải trụ trong hữu sở đắctu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, để có thể từ bậc này đến bậc khác dần dần viên mãn, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cũng chẳng phải trụ trong vô sở đắctu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, để có thể từ bậc này đến bậc khác dần dần viên mãn, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở đắc, quả vị giác ngộ cao tột vô sở đắc, vì người hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chỗ hành, khi hành vô sở đắc. Pháp vô sở đắc này cũng vô sở đắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát phải nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, quả vị giác ngộ cao tột chẳng thể nắm bắt được, người hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chỗ hành, khi hành, cũng chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, thường ưa chọn lựa: Đây là sắc,đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là nhãn xứ, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; đây là sắc xứ, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; đây là nhãn giới, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; đây là sắc giới, đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; đây là nhãn thức giới, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; đây là nhãn xúc, đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đây là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; đây là địa giới, đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới; đây là vô minh, đây là hành, thức, danh sắc, lực xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; đây là bố thí Ba-la-mật-đa, đây là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; đây là pháp không nội, đây là pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; đây là chơn như, đây là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; đây là bốn niệm trụ, đây là bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; đây là Thánh đế khổ, đây là Thánh đế tập, diệt, đạo; đây là bốn tịnh lự, đây là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; đây là pháp môn giải thoát không, đây là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; đây là tám giải thoát, đây là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; đây là pháp môn Tam-ma-địa, đây là pháp môn Đà-la-ni; đây là năm loại mắt, đây là sáu phép thần thông; đây là mười lực Phật, đây là bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; đây là pháp không quên mất, đây là tánh luôn luôn xả; đây là trí nhất thiết, đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; đây là quả Dự lưu, đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; đây là quả vị Độc giác; đây là tất cả hạnh Đại Bồ-tát; đây là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Quyển Thứ 361
HẾT

 

12

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tuy đối với các pháp thường ưa quyết trạch nhưng chẳng nắm bắt sắc, cũng chẳng nắm bắt thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nắm bắt nhãn xứ, cũng chẳng nắm bắt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nắm bắt sắc xứ, cũng chẳng nắm bắt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nắm bắt nhãn giới, cũng chẳng nắm bắt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng nắm bắt sắc giới, cũng chẳng nắm bắt thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng nắm bắt nhãn thức giới, cũng chẳng nắm bắt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng nắm bắt nhãn xúc, cũng chẳng nắm bắt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng nắm bắt các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nắm bắt các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nắm bắt địa giới, cũng chẳng nắm bắt thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nắm bắt vô minh, cũng chẳng nắm bắt hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ ưu, não; chẳng nắm bắt bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nắm bắt tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nắm bắt pháp không nội, cũng chẳng nắm bắt pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng nắm bắt chơn như, cũng chẳng nắm bắt pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng nắm bắt bốn niệm trụ, cũng chẳng nắm bắt bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng nắm bắt Thánh đế khổ, cũng chẳng nắm bắt Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nắm bắt bốn tịnh lự, cũng chẳng nắm bắt bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng nắm bắt pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nắm bắt pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nắm bắt tám giải thoát, cũng chẳng nắm bắt tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nắm bắt pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng nắm bắt pháp môn Đà-la-ni; chẳng nắm bắt năm loại mắt, cũng chẳng nắm bắt sáu phép thần thông; chẳng nắm bắt mười lực Phật, cũng chẳng nắm bắt bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nắm bắt pháp không quên mất, cũng chẳng nắm bắt tánh luôn luôn xả; chẳng nắm bắt trí nhất thiết, cũng chẳng nắm bắt trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng nắm bắt quả Dự lưu, cũng chẳng nắm bắt quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng nắm bắt quả vị Độc giác; chẳng nắm bắt tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng nắm bắt quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu chẳng nắm bắt sắc, cũng chẳng nắm bắt thọ, tưởng, hành, thức; nếu chẳng nắm bắt nhãn xứ, cũng chẳng nắm bắt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nếu chẳng nắm bắt sắc xứ, cũng chẳng nắm bắt thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; nếu chẳng nắm bắt nhãn giới, cũng chẳng nắm bắt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; nếu chẳng nắm bắt sắc giới, cũng chẳng nắm bắt thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; nếu chẳng nắm bắt nhãn thức giới, cũng chẳng nắm bắt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nếu chẳng nắm bắt nhãn xúc, cũng chẳng nắm bắt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; nếu chẳng nắm bắt các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nắm bắt các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; nếu chẳng nắm bắt địa giới, cũng chẳng nắm bắt thủy, hỏa, phong, không, thức giới; nếu chẳng nắm bắt vô minh, cũng chẳng nắm bắt hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ ưu, não; nếu chẳng nắm bắt bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nắm bắt tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nếu chẳng nắm bắt pháp không nội, cũng chẳng nắm bắt pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; nếu chẳng nắm bắt chơn như, cũng chẳng nắm bắt pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; nếu chẳng nắm bắt Thánh đế khổ, cũng chẳng nắm bắt Thánh đế tập, diệt, đạo; nếu chẳng nắm bắt bốn niệm trụ, cũng chẳng nắm bắt bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; nếu chẳng nắm bắt bốn tịnh lự, cũng chẳng nắm bắt bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nếu chẳng nắm bắt tám giải thoát, cũng chẳng nắm bắt tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nếu chẳng nắm bắt pháp môn Tam-ma-địa, cũng chẳng nắm bắt pháp môn Đà-la-ni; nếu chẳng nắm bắt pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nắm bắt pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nếu chẳng nắm bắt năm loại mắt, cũng chẳng nắm bắt sáu phép thần thông; nếu chẳng nắm bắt mười lực Phật, cũng chẳng nắm bắt bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; nếu chẳng nắm bắt pháp không quên mất, cũng chẳng nắm bắt tánh luôn luôn xả; nếu chẳng nắm bắt trí nhất thiết, cũng chẳng nắm bắt trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; nếu chẳng nắm bắt quả Dự lưu, cũng chẳng nắm bắt quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; nếu chẳng nắm bắt quả vị Độc giác; nếu chẳng nắm bắt tất cả hạnh Đại Bồ-tát; nếu chẳng nắm bắt quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì làm sao có thể viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhãn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Nếu chẳng có thể viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì làm sao có thể nhập bậc chánh tánh ly sanh của Đại Bồ-tát? Nếu chẳng nhập bậc chánh tánh ly sanh của Đại Bồ-tát thì làm sao có thể nghiêm tịnh cõi Phật? Nếu chẳng có thể nghiêm tịnh cõi Phật thì làm sao có thể thành thục hữu tình? Nếu chẳng thành thục hữu tình thì làm sao có thể đắc trí nhất thiết trí? Nếu chẳng đắc trí nhất thiết trí thì làm sao có thể chuyển bánh xe chánh pháp, làm các Phật sự? Nếu chẳng có thể chuyển bánh xe chánh pháp, làm các Phật sự thì làm sao có thể giải thoát các khổ sanh tử của vô lượng trăm ngàn ức triệu các loài hữu tình và làm cho chứng đắc Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì sắc mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì thọ, tưởng, hành, thức mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì nhãn xứ mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì sắc xứ mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì nhãn giới mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì sắc giới mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì nhãn thức giới mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì nhãn xúc mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì địa giới mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì vô minh mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì bố thí Ba-la-mật-đa mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì pháp không nội mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì chơn như mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì Thánh đế khổ mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì Thánh đế tập, diệt, đạo mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì bốn niệm trụ mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì bốn tịnh lự mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì tám giải thoát mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì pháp môn Tam-ma-địa mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì pháp môn Đà-la-ni mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì pháp môn giải thoát không mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì năm loại mắt mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì sáu phép thần thông mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì mười lực Phật mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì pháp không quên mất mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì tánh luôn luôn xả mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì trí nhất thiết mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì quả Dự lưu mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cũng chẳng vì quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì quả vị Độc giác mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát chẳng vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát vì mục đích gì mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát không vì mục đích gì hết mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp khôngmục đích, không có sự tạo tác; Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không vì mục đích, không có sự tạo tác; quả vị giác ngộ cao tột cũng không vì mục đích, không có sự tạo tác; Đại Bồ-tát cũng không vì mục đích, không có sự tạo tác. Như vậy, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nên lấy việc không vì mục đích, không có sự tạo tác mà làm phương tiện tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không vì mục đích, không có sự tạo tác, thì chẳng nên an lập ba thừa sai khác đó là Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chẳng phải an lập pháp không mục đích, không tạo tác, có thể nắm bắt được mà cần phải an lập pháp có mục đích, có tạo tác, có thể nắm bắt được. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì có các hạng ngu si, phàm phu không học hỏi chấp trước sắc, cũng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chấp trước nhãn xứ, cũng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chấp trước sắc xứ, cũng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chấp trước nhãn giới, cũng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chấp trước sắc giới, cũng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chấp trước nhãn thức giới, cũng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chấp trước nhãn xúc, cũng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chấp trước địa giới, cũng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chấp trước vô minh, cũng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ ưu, não; chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chấp trước pháp không nội, cũng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chấp trước chơn như, cũng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chấp trước bốn niệm trụ, cũng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chấp trước Thánh đế khổ, cũng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; chấp trước bốn tịnh lự, cũng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chấp trước pháp môn giải thoát không, cũng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chấp trước tám giải thoát, cũng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chấp trước pháp môn Tam-ma-địa, cũng chấp trước pháp môn Đà-la-ni; chấp trước năm loại mắt, cũng chấp trước sáu phép thần thông; chấp trước mười lực Phật, cũng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chấp trước pháp không quên mất, cũng chấp trước tánh luôn luôn xả; chấp trước trí nhất thiết, cũng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chấp trước quả Dự lưu, cũng chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chấp trước quả vị Độc giác; chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Các hạng ngu si, phàm phu không học hỏi ấy do vì chấp trước nên nghĩ sắc thì đắc sắc, nghĩ thọ, tưởng, hành, thức thì đắc thọ, tưởng, hành, thức; nghĩ nhãn xứ thì đắc nhãn xứ, nghĩ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thì đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nghĩ sắc xứ thì đắc sắc xứ, nghĩ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì đắc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; nghĩ nhãn giới thì đắc nhãn giới, nghĩ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thì đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; nghĩ sắc giới thì đắc sắc giới, nghĩ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thì đắc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; nghĩ nhãn thức giới thì đắc nhãn thức giới, nghĩ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thì đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nghĩ nhãn xúc thì đắc nhãn xúc, nghĩ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thì đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; nghĩ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra thì đắc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, nghĩ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thì đắc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; nghĩ địa giới thì đắc địa giới, nghĩ thủy, hỏa, phong, không, thức giới thì đắc thủy, hỏa, phong, không, thức giới; nghĩ vô minh thì đắc vô minh, nghĩ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não thì đắc hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; nghĩ bố thí Ba-la-mật-đa thì đắc bố thí Ba-la-mật-đa, nghĩ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì đắc tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nghĩ pháp không nội thì đắc pháp không nội, nghĩ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì đắc pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; nghĩ chơn như thì đắc chơn như, nghĩ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì đắc pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; nghĩ Thánh đế khổ thì đắc Thánh đế khổ, nghĩ Thánh đế tập, diệt, đạo thì đắc Thánh đế tập, diệt, đạo; nghĩ bốn niệm trụ thì đắc bốn niệm trụ, nghĩ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì đắc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; nghĩ bốn tịnh lự thì đắc bốn tịnh lự, nghĩ bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì đắc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nghĩ tám giải thoát thì đắc tám giải thoát, nghĩ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì đắc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; nghĩ tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì đắc tất cả pháp môn Tam-ma-địa, nghĩ tất cả pháp môn Đà-la-ni thì đắc tất cả pháp môn Đà-la-ni; nghĩ pháp môn giải thoát không thì đắc pháp môn giải thoát không, nghĩ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì đắc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; nghĩ năm loại mắt thì đắc năm loại mắt, nghĩ sáu phép thần thông thì đắc sáu phép thần thông; nghĩ mười lực Phật thì đắc mười lực Phật, nghĩ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất công thì đắc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; nghĩ pháp không quên mất thì đắc pháp không quên mất, nghĩ tánh luôn luôn xả thì đắc tánh luôn luôn xả; nghĩ trí nhất thiết thì đắc trí nhất thiết, nghĩ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì đắc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; nghĩ quả Dự lưu thì đắc quả Dự lưu, nghĩ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; nghĩ quả vị Độc giác thì đắc quả vị Độc giác; nghĩ tất cả hạnh Đại Bồ-tát thì đắc tất cả hạnh Đại Bồ-tát; nghĩ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì đắc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Các hạng ngu si, phàm phu không học hỏi ấy nghĩ thế này: Sắc, chắc chắn có thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Nhãn xứ, chắc chắn có thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Sắc xứ, chắc chắn có thể nắm bắt được; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Nhãn giới, chắc chắn có thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Sắc giới, chắc chắn có thể nắm bắt được; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Nhãn thức giới, chắc chắn có thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Nhãn xúc, chắc chắn có thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chắc chắn có thể nắm bắt được; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Địa giới, chắc chắn có thể nắm bắt được; thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Vô minh, chắc chắn có thể nắm bắt được; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Bố thí Ba-la-mật-đa, chắc chắn có thể nắm bắt được; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Pháp không nội, chắc chắn có thể nắm bắt được; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Chơn như, chắc chắn có thể nắm bắt được; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Thánh đế khổ, chắc chắn có thể nắm bắt được; thánh đế tập, diệt, đạo, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Bốn niệm trụ, chắc chắn có thể nắm bắt được; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Bốn tịnh lự, chắc chắn có thể nắm bắt được; bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Tám giải thoát, chắc chắn có thể nắm bắt được; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chắc chắn có thể nắm bắt được; tất cả pháp môn Đà-la-ni, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Pháp môn giải thoát không, chắc chắn có thể nắm bắt được; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Năm loại mắt, chắc chắn có thể nắm bắt được; Sáu phép thần thông, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Mười lực Phật, chắc chắn có thể nắm bắt được; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Pháp không quên mất, chắc chắn có thể nắm bắt được; tánh luôn luôn xả, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Trí nhất thiết, chắc chắn có thể nắm bắt được; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Quả Dự lưu, chắc chắn có thể nắm bắt được; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Quả vị Độc giác, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Tất cả hạnh Đại Bồ-tát, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, chắc chắn cũng có thể nắm bắt được. Ta quyết định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thoát các khổ sanh tử của các hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Này Thiện Hiện! Các hạng ngu si, phàm phu không học hỏi ấy vì điên đảo nên nghĩ như thế, tức là hủy báng Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Phật dùng năm loại mắt cầu sắc còn chẳng thể được; cầu thọ, tưởng, hành, thức cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu nhãn xứ còn chẳng thể được; cầu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu sắc xứ còn chẳng thể được; cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu nhãn giới còn chẳng thể được; cầu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu sắc giới còn chẳng thể được; cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu nhãn thức giới còn chẳng thể được; cầu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu nhãn xúc còn chẳng thể được; cầu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra còn chẳng thể được; cầu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu địa giới còn chẳng thể được; cầu thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu vô minh còn chẳng thể được; cầu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu bố thí Ba-la-mật-đa còn chẳng thể được; cầu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu pháp không nội còn chẳng thể được; cầu pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu chơn như còn chẳng thể được; cầu pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu Thánh đế khổ còn chẳng thể được; cầu Thánh đế tập, diệt, đạo cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu bốn niệm trụ còn chẳng thể được; cầu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu bốn tịnh lự còn chẳng thể được; cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu tám giải thoát còn chẳng thể được; cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu tất cả pháp môn Tam-ma-địa còn chẳng thể được; cầu tất cả pháp môn Đà-la-ni cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu pháp môn giải thoát không còn chẳng thể được; cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu năm loại mắt còn chẳng thể được; cầu sáu phép thần thông cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu mười lực Phật còn chẳng thể được; cầu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu pháp không quên mất còn chẳng thể được; cầu tánh luôn luôn xả cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu trí nhất thiết còn chẳng thể được; cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu quả Dự lưu còn chẳng thể được; cầu quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu quả vị Độc giác cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Này Thiện Hiện! Phật dùng năm loại mắt cầu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng còn chẳng thể được, huống là nếu có người quyết định sẽ đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì đó là điều không có.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đếu dùng năm loại mắt cầu sắc chẳng thể được, cầu thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể được; cầu nhãn xứ chẳng thể được, cầu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng thể được; cầu sắc xứ chẳng thể được, cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng thể được; cầu nhãn giới chẳng thể được, cầu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chẳng thể được; cầu sắc giới chẳng thể được, cầu thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chẳng thể được; cầu nhãn thức giới chẳng thể được, cầu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chẳng thể được; cầu nhãn xúc chẳng thể được, cầu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chẳng thể được; cầu các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể được, cầu các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng thể được; cầu địa giới chẳng thể được, cầu thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng thể được; cầu vô minh chẳng thể được, cầu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ ưu, não cũng chẳng thể được; cầu bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể được, cầu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng thể được; cầu pháp không nội chẳng thể được, cầu pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng chẳng thể được; cầu chơn như chẳng thể được, cầu pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể được; cầu bốn niệm trụ chẳng thể được, cầu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng thể được; cầu Thánh đế khổ chẳng thể được, cầu Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng thể được; cầu bốn tịnh lự chẳng thể được, cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng thể được; cầu pháp môn giải thoát không chẳng thể được, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng thể được; cầu tám giải thoát chẳng thể được, cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng thể được; cầu pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể được, cầu pháp môn Đà-la-ni cũng chẳng thể được; cầu năm loại mắt chẳng thể được, cầu sáu phép thần thông cũng chẳng thể được; cầu mười lực Phật chẳng thể được, cầu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng thể được; cầu pháp không quên mất chẳng thể được, cầu tánh luôn luôn xả cũng chẳng thể được; cầu trí nhất thiết chẳng thể được, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng thể được; cầu quả Dự lưu chẳng thể được, cầu quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng chẳng thể được; cầu quả vị Độc giác chẳng thể được; cầu tất cả hạnh Đại Bồ-tát chẳng thể được; cầu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể được; các loài hữu tình cũng chẳng thể nắm cầu được, như thế nhất định không có sự chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột và thoát các khổ sanh tử của hữu tình, khiến đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc, thì tại sao Thế Tôn chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, an lập ba nhóm hữu tình sai biệt, đó là nhóm chánh tánh định, nhóm tà tánh định và nhóm bất định?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta dùng năm loại mắt như thật quán sát: Nhất định vô ngã có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, an lập ba nhóm hữu tình sai biệt, đó là nhóm chánh tánh định, nhóm tà tánh định và nhóm bất định. Nhưng các hữu tình ngu si, điên đảo đối với pháp phi thật khởi tưởng là thật pháp, đối với hữu tình phi thật khởi tưởng thật hữu tình. Ta vì dẹp trừ chấp trước hư vọng đó, nên nương vào thế tục mà nói, chứ chẳng y cứ vào thắng nghĩa.

Quyển Thứ 362
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.