Tập 17 (Quyển 401-412)

09/05/201012:00 SA(Xem: 26759)
Tập 17 (Quyển 401-412)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 17 (Quyển 401-412)

 HỔI THỨ 2
I. PHẨM DUYÊN KHỞI
 
Tôi nghe như vầy:

Một thời, ở núi Thứu Phong thuộc thành Vương Xá, đức Thế Tôn cùng với đại chúng Bí-sô năm ngàn người đều là bậc A-la-hán đã diệt trừ hết các lậu hoặc, không còn phiền não, được chơn tự tại, tâm thiện giải thoát, tuệ thiện giải thoát, như ngựa hay, rồng lớn được thuần thục, việc cần làm đã làm, việc cần giải quyết đã giải quyết xong, đã bỏ các gánh nặng, được tự lợi, hết các kiết sử, chánh tri giải thoát, chí tâm tự tại, cứu cánh đệ nhất, chỉ trừ A-nan-đà còn ở địa vị hữu học, đắc quả Dự lưu. Trong đó, cụ thọ Thiện Hiện là bậc thượng thủ. Lại có năm trăm Bí-sô-ni đều đắc quả A-la-hán, trong đó Tôn giả Trì Dự là bậc thượng thủ. Lại có vô lượng chúng Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca đã được kiến đế. Lại có vô lượng vô số chúng đại Bồ-tát, đều được Đà-la-ni và Tam-ma-địa, thường an trụ tánh không, hoạt động trong cảnh giới vô tướng, nguyện vô phân biệt, luôn luôn hiển hiện ở trước. Đối với các pháp tánh, đầy đủ nhẫn bình đẳng, được vô ngại biện tài, thần thông bất thối, lời nói việc làm thanh cao, siêng năng không biếng nhác, truyền bá Chánh pháp, không có mong cầu, ứng hợp chân lý, căn cơ, lìa các dối gạt, đối với pháp nhẫn thâm sâu, đạt đến chỗ rốt ráo, trừ các sợ hãi, làm cho quân ma hàng phục, diệt trừ tất cả các hoặc và nghiệp chướng, đầy đủ trí tuệ biện tài, phương tiện quyền xảo, đã vô số kiếp trang nghiêm bằng đại thệ nguyện, trước khi nói, biểu lộ nét mặt tươi vui, nụ cười hàm tiếu, khen ngợi bằng lời nói hay đẹp, thông suốt vô cùng, oai đức tôn nghiêm, ở giữa chúng không sợ, phong thái nhàn nhã, đi đứng hợp với nghi tắc, giảng Chánh pháp thông suốt như nước chảy, trải qua nhiều kiếp không dứt, quán sát các pháp đều như huyễn, như sóng nắng, như cảnh trong mộng, như trăng dưới nước, như tiếng vang, như hoa đốm trên không, như bóng hình trong gương, như thành Càn-thát-bà, các thứ biến hóa đều biết là không thật, chỉ hiện ra giống như có. Tâm không thấp hènthản nhiên, không sợ nên có thể lãnh hội được tất cả pháp môn, hiểu rõ thông suốt tâm, hạnh, chỗ hướng đến của chúng sanh mà cứu vớt họ, thành tựu nhẫn tối thượng, khéo biết thật tánh, tiếp nhận đại nguyện của vô số chư Phật ở vô biên cõi Phật trong khắp mười phương, thường thiền định chánh niệm tỉnh giác. Vì muốn độ chúng hữu tình, nên đã từng phụng sự, khuyến thỉnh chư Phật trụ lâu ở đời, chuyển bánh xe Chánh pháp, diệt trừ các phiền não, kiến chấp trói buộc, an trụ vô lượng trăm nghìn pháp môn đẳng trì, dẫn phát vô biên thiện pháp thù thắng. Các Đại Bồ-tát này đầy đủ vô lượng công đức như vậy. Các vị đó là: Bồ-tát Hiền Hộ, Bồ-tát Bảo Tánh, Bồ-tát Đạo Sư, Bồ-tát Nhân Thụ, Bồ-tát Tinh Thọ, Bồ-tát Thường Thọ, Bồ-tát Đức Tạng, Bồ-tát Thượng Tuệ, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Thắng Tuệ, Bồ-tát Tăng Trưởng Tuệ, Bồ-tát Bất Hư Kiến, Bồ-tát Thiện Phát Thú, Bồ-tát Thiện Dũng Mãnh, Bồ-tát Thường Tinh Tiến, Bồ-tát Thường Gia Hạnh, Bồ-tát Bất Xả Ách, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Vô Tỷ Tuệ, Bồ-tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Đắc Đại Thế, Bồ-tát Diệu Cát Tường, Bồ-tát Kim Cương Tuệ, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Từ Thị. Như vậy vô lượng trăm ngàn muôn ức Đại Bồ-tát đều là con của bậc Pháp vương, có thể nối ngôi tôn quí, mà làm bậc thượng thủ.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn tự trải tọa cụ, ngồi kiết già trên tòa sư tử, thân ngay thẳng an trụ chánh niệm, nhập chánh định tối thượng. Các chánh định đều được sanh ra từ chánh định này.

Bấy giờ, với chánh tri, chánh niệm đức Thế Tôn an tường xuất ra khỏi đẳng trì vương ấy, với thiên nhãn thanh tịnh quán sát hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Toàn thân hoan hỷ, từ nơi tướng thiên bức luân dưới hai bàn chân phóng ra sáu mươi trăm ngàn vô số ánh sáng. Từ mười ngón chân, hai mu bàn chân, hai gót chân, bốn mắt cá, hai ống chân, hai bắp chân, hai đầu gối, hai đùi vế, hai bắp vế, eo, hông, bụng, lưng, rốn, tim, ngực, chữ vạn ngay ngực, hai bên vú, hai nách, hai vai, hai bắp tay, hai khuỷu tay, hai cánh tay, hai cổ tay, hai bàn tay, mười ngón tay, ót, cổ họng, má, cằm, hai gò má, đỉnh đầu, trán, hai chân mày, hai mắt, hai tay, hai mũi, miệng, bốn răng cửa, bốn mươi răng, tướng lông giữa đôi chân mày đều phóng ra sáu mươi trăm ngàn vô số ánh sáng, mỗi tia sáng này đều chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, từ đó nối tiếp chiếu đến hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Chúng sanh nào gặp ánh sáng này chắc chắn sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Bấy giờ, đức Thế Tôn vui vẻ, từ các lỗ chân lông trên thân đều phóng ra sáu mươi trăm ngàn vô số ánh sáng, mỗi tia sáng này đều chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, từ đó nối tiếp chiếu đến hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Chúng sanh nào gặp ánh sáng này chắc chắn sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Bấy giờ, Thế Tôn hiện thân ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Từ đó nối tiếp chiếu đến hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Chúng sanh nào gặp ánh sáng này chắc chắn sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Bấy giờ, Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ trong miệng của Ngài phóng ra tướng lưỡi rộng dài bao trùm khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Lại từ tướng lưỡi phát ra vô lượng trăm ngàn ánh sáng nhiều màu sắc. Từ trong ánh sáng nhiều màu sắc này hiện ra hoa sen báu. Ngàn cánh của hoa sen ấy đều có màu hoàng kim, được trang nghiêm bằng các châu báu. Ánh sáng hoa sen ấy chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, từ đó nối tiếp chiếu khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Trong các đài hoa đều có vị hóa Phật ngồi kiết già thuyết giảng diệu pháp. Mỗi mỗi pháp âm đều thuyết pháp tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa. Hữu tình nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Bấy giờ, vẫn ngồi trên tòa, Thế Tôn an trụ vào chánh định Sư Tử, hiện oai lực thần thông làm cho ba ngàn đại thiên thế giới, biến động sáu cách: rung động, rung động mạnh, rung động mạnh đều khắp, vọt lên, vọt lên mạnh, vọt lên mạnh đều khắp, vang động, vang động mạnh, vang động mạnh đều khắp, khua đập, khua đập mạnh, khua đập mạnh đều khắp, gầm rống, gầm rống lớn, gầm rống lớn đều khắp, nổ, nổ lớn, nổ lớn đều khắp. Lại làm cho phía Đông vọt lên, phía Tây chìm xuống, phía Tây vọt lên, phía Đông chìm xuống, phía Nam vọt lên, phía Bắc chìm xuống, phía Bắc vọt lên, phía Nam chìm xuống, ở giữa vọt lên, bốn bên chìm xuống, bốn bên vọt lên, chính giữa chìm xuống, mặt đất mềm mại, thanh tịnh chiếu sáng, làm cho chúng sanh được lợi ích an vui.

Khi ấy, tất cả chúng sanh trong các đường ác địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục vô gián, hầm lửa trong ba ngàn đại thiên thế giới đều được thoát khỏi khổ nạn. Sau khi bỏ thân này, được sanh vào loài ngườicõi trời lục dục, nhớ đến đời trước nên vui mừng, hớn hở, đồng đến gặp Phật, tâm thành kính đảnh lễ dưới chân Phật. Từ đây lần lần đến khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Như vậy, nhờ thần lực của Phật, thế giới biến động sáu cách, tất cả chúng sanh ở trong đường ác, đều thoát khỏi khổ nạn, sau khi từ bỏ thân ấy được sanh trong loài ngườicõi trời lục dục, nhớ đến đời trước của mình nên vui mừng hớn hở từ nơi đó đến gặp Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài. Khi ấy, chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giớihằng hà sa số thế giới khác trong mười phương, người mù thấy được, người điếc nghe được, người câm nói được, người cuồng nhớ nghĩ được, kẻ loạn tâm ổn định được, người nghèo được giàu, người không có áo được áo, người đói được ăn, người khát được uống, người bệnh được trị lành, người xấu được đẹp, người tàn tật được đầy đủ, người thiếu các căn được đầy đủ, người mê muội được tỉnh ngộ, người lo buồn được yên vui.

Lúc đó, các chúng sanh, với tâm bình đẳng đối với nhau như cha, như mẹ, như anh em, như chị em, như bạn bè, như người thân, xa lìa tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tu tập chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, xa lìa mười nghiệp đạo ác, tu tập mười nghiệp đạo thiện, xa lìa tầm tư ác, tu tầm tư thiện, xa lìa phi phạm hạnh, tu chánh phạm hạnh, ưa trong sạch, bỏ ô uế, ưa an tịnh, bỏ huyên náo, thân tâm an nhiên, phát sanh hỷ lạc, như người tu hành nhập định thứ ba ngay trong hiện tại phát sanh thắng tuệ, đều nghĩ các việc: Bố thí, điều phục, an nhẫn, tinh tấn, tịch tịnh, quán xét, xa lìa buông lung, tu hành phạm hạnh, từ, bi, hỷ, xả đối với chúng hữu tình, không quấy hại nhau, còn gì tốt đẹp bằng.

Lúc bấy giờ, trên tòa sư tử, đức Thế Tôn phóng ánh sáng thù thắng, oai đức trang nghiêm, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới và hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương, làm cho ánh sáng núi Tô-mê-lô (Tu-di sơn) , núi Luân vi (Thiết vi) v.v... các cung điện của trời, thần, rồng cho đến trời Tịnh cư đều bị ẩn mất, như ánh sáng trăng tròn mùa thu che ánh sáng của các ngôi sao, như ánh sáng mặt trời mùa hạ làm mất ánh sáng các sắc, như núi chúa Diệu cao (Tu-di sơn) bằng bốn loại báu che mất ánh sáng của các núi khác. Phật dùng thần lực hiện sắc thân làm cho tất cả chúng sanh ở ba ngàn đại thiên thế giới đều trông thấy. Lúc ấy, vô lượng vô số chư thiên trời Tịnh cư cho đến thiên chúngcõi trời Dục giới, trời Tứ đại thiên, người chẳng phải người trong ba ngàn đại thiên thế giới thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử, uy nghiêm, hào quang rực rỡ như núi vàng lớn thì vui mừng hớn hở, khen ngợi là việc chưa từng có, đại chúng đều đem các loại tràng hoa, hương bột thơm, đẹp, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng, kỹ nhạc, châu báuvô lượng các loại hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa sen vàng, hoa sen hồng, hương hoa sen cõi trời, hoa cây kim tiền cõi trời, hương hoa lá và vô lượng các loại hoa mọc dưới nước, trên bờ dâng cúng, rải trên đức Phật. Do thần lực của Phật các tràng hoa đó đều xoay tròn trên không, kết thành đài hoa khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trên trời rủ xuống các loại hoa, phan lọng, chuông báu, ngọc trang sức, rực rỡ thật đáng ưa thích. Khi ấy, cõi Phật này trang nghiêm vi diệu, giống như thế giới Tây Phương Cực Lạc. Hào quang của Phật chiếu sáng khắp ba ngàn đại thiên làm cho các vật trên hư không đều có màu hoàng kim, hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương đều như vậy.

Khi ấy, nhờ thần lực của Phật, trong các quốc độ khắp ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả trời người đều thấy Phật ngồi ngay trước mặt và cho rằng được Như Lai thuyết pháp riêng cho mình.

Lúc bấy giờ, vẫn ngồi trên tòa, Thế Tôn vui vẻ, mỉm cười, từ trong miệng Ngài phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp các quốc độ trong ba ngàn đại thiên thế giớihằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Khi ấy, nương theo ánh sáng của Phật, tất cả chúng sanh trong các quốc độ khắp ba ngàn đại thiên thế giới đều thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với chúng Thanh văn, Bồ-tát vây quanh và tất cả chúng hữu tình, vô tình với nhiều chủng loại sai khác trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương.

Khi ấy, nương theo ánh sáng của Phật, tất cả chúng hữu tình ở hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương cũng thấy quốc độ này có Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với chúng Thanh văn, Bồ-tát vây quanh và tất cả chúng hữu tình, vô tình với nhiều chủng loại khác nhau.

Bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Đông tên là Đa Bảo, đức Phật hiệu là Bảo Tánh, đang thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho chúng Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Phổ Quang thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật trong lòng phân vân, nên đến chỗ Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà có điềm này?

Đức Phật Bảo Tánh dạy Bồ-tát Phổ Quang:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Tây, đến thế giới tận cùng tên là Kham Nhẫn, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho chúng Bồ-tát. Do thần lực của Phật kia nên có điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Phổ Quang vui mừng hớn hở thưa: Bạch Thế Tôn! Con muốn đến thế giới Kham Nhẫn, lễ bái cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Khi ấy, Phật Bảo Tánh dạy Bồ-tát Phổ Quang:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Phật Bảo Tánh đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Phổ Quang và dặn:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và thưa lại lời Ta như vầy: Đức Bảo Tánh Như Lai có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông hãy đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm các Phật sự. Đến thế giới ấy ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn xem thường đại chúngcõi Phật kia mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp, vì nguyện lực nên sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật Bảo Tánh dạy, Bồ-tát Phổ Quang nhận hoa, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật, rồi lui.

Đại chúng đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp và bắt đầu đi, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Đông, đến cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, các vị đảnh lễ Thế Tôn, đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên. Bồ-tát Phổ Quang ở trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, đến thế giới sau cùng tên là Đa Bảo, đức Phật hiệu là Bảo Tánh, đức Phật ấy hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen này, rải lại thế giới chư Phật ở phương Đông. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong các đài hoa đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng hữu tình nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Phổ Quang và các quyến thuộc đều vui mừng hớn hở, khen ngợi là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui ra ngồi một bên. Các cõi phương Đông khác cũng như vậy.

Bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Nam tên là Ly Nhất Thiết Ưu, đức Phật hiệu là Vô Ưu Đức, đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Lúc đó có Bồ-tát tên là Ly Ưu, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

 

Khi ấy, Phật Vô Ưu Đức bảo Bồ-tát Ly Ưu:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Bắc, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật nên có điềm này.

Nghe nói rồi, Bồ-tát Ly Ưu vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn đến thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Lúc đó, Phật Vô Ưu Đức bảo Bồ-tát Ly Ưu:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Phật Vô Ưu Đức đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Ly Ưu và dặn:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Vô Ưu Đức có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông hãy đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn xem thường đại chúngcõi Phật ấy mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp, vì nguyện lực nên sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật Vô Ưu Đức dạy, Bồ-tát Ly Ưu nhận hoa, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật, rồi lui.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Nam, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, các vị đảnh lễ Thế Tôn, đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên. Bồ-tát Ly Ưu ở trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Nam, đến thế giới sau cùng tên là Ly Nhất Thiết Ưu, đức Phật hiệu là Vô Ưu Đức. Đức Phật ấy hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Nam. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong các đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng hữu tình nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Ly Ưu và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui ra ngồi một bên. Các cõi phương Nam khác cũng như vậy.

Bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Tây tên là Cận Tịch Tĩnh, đức Phật hiệu là Bảo Diệm đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Hạnh Tuệ, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật, trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

Khi ấy, Phật Bảo Diệm bảo Bồ-tát Hạnh Tuệ:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, Phật hiệuThích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật nên có điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Hạnh Tuệ vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con xin qua thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Lúc đó, Phật Bảo Diệm bảo Bồ-tát Hạnh Tuệ:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Phật Bảo Diệm đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Hạnh Tuệ và dặn:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Bảo Diệm có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông hãy đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn xem thường đại chúngcõi Phật ấy mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp, vì nguyện lực nên sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật Bảo Diệm, Bồ-tát Hạnh Tuệ nhận hoa, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật, rồi lui.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Tây, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, các vị đảnh lễ Thế Tôn, đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên. Bồ-tát Hạnh Tuệ ở trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Tây, đến thế giới sau cùng tên là Cận Tịch Tĩnh, Phật hiệu là Bảo Diệm. Đức Phật ấy hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Tây. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong các đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng hữu tình nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Hạnh Tuệ và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui ra ngồi một bên. Các cõi phương Tây khác cũng như vậy.

Bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Bắc tên là Tối Thắng, đức Phật hiệu là Thắng Đế đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Thắng Thọ, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật, trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

Khi ấy, Phật Thắng Đế bảo Bồ-tát Thắng Thọ:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Nam, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, Phật hiệuThích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật đó nên có điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Thắng Thọ vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con xin qua thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Lúc đó, Phật Thắng Đế bảo Bồ-tát Thắng Thọ:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Phật Thắng Đế đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Thắng Thọ và dạy:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Thắng Đế có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông hãy đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn xem thường đại chúngcõi Phật ấy mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp, vì nguyện lực nên sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật dạy, Bồ-tát Thắng Thọ nhận hoa, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật, rồi lui ra.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Bắc, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, các vị đảnh lễ Thế Tôn, đi nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên. Bồ-tát Thắng Thọ ở trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Bắc, đến thế giới sau cùng tên là Tối Thắng, Phật hiệu là Thắng Đế. Đức Phật ấy hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Bắc. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong các đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng sanh nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Thắng Thọ và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui ra ngồi một bên. Các cõi phương Bắc khác cũng như vậy.

Bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Đông Bắc tên là Định Trang Nghiêm, đức Phật hiệu là Định Tượng Thắng Đức đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Ly Trần Dõng Mãnh, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật, trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

Khi ấy, Phật Định Tượng Thắng Đức bảo Bồ-tát Ly Trần Dõng Mãnh:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Tây Nam, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, Phật hiệuThích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật đó nên có điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Ly Trần Dõng Mãnh vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn qua thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Lúc đó, Phật Định Tượng Thắng Đức bảo Bồ-tát Ly Trần Dõng Mãnh:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Thế Tôn đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim, có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Ly Trần Dõng Mãnh và dạy:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Định Tượng Thắng Đức có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông đem hoa sen này dâng đức Phật ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn, xem thường đại chúngcõi Phật kia mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp, vì nguyện lực nên sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật dạy, Bồ-tát Ly Trần Dõng Mãnh nhận hoa, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật, rồi lui ra.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Đông Bắc, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, đại chúng đảnh lễ Phật, nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên.

Bồ-tát Ly Trần Dõng Mãnh ở trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Đông Bắc, đến thế giới sau cùng tên là Định Trang Nghiêm, Phật hiệu là Định Tượng Thắng Đức. Đức Phật ấy hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Đông Bắc. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong mỗi đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng sanh nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Ly Trần Dõng Mãnh và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui ra ngồi một bên. Các cõi phương Đông Bắc khác cũng như vậy.

Lúc bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Đông Nam tên là Diệu Giác Trang Nghiêm Thậm Khả Ái Lạc, đức Phật hiệu là Liên Hoa Thắng Đức đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Liên Hoa Thủ, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật, trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

Khi ấy, Phật Liên Hoa Thắng Đức bảo Bồ-tát Liên Hoa Thủ:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Tây Bắc, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, có Phật hiệuThích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật ấy nên có điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Liên Hoa Thủ vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn qua thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Lúc đó, Phật Liên Hoa Thắng Đức bảo Bồ-tát Liên Hoa Thủ:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Thế Tôn đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim, có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Liên Hoa Thủ và dạy:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Liên Hoa Thắng Đức có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn, xem thường đại chúngcõi Phật kia mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh bằng. Do nguyện lực mà sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật dạy, Bồ-tát Liên Hoa Thủ nhận hoa, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật và lui ra.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Đông Nam, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, đại chúng đảnh lễ Phật, nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên.

Bồ-tát Liên Hoa Thủ ở trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Đông Nam, đến thế giới sau cùng tên là Diệu Giác Trang Nghiêm Thậm Khả Ái Lạc, Phật hiệuLiên Hoa Thắng Đức. Đức Phật ấy hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Đông Nam. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong mỗi đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng sanh nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Liên Hoa Thủ và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui ra ngồi một bên. Các cõi phương Đông Nam khác cũng như vậy.

Lúc bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Tây Nam tên là Ly Trần Tụ, đức Phật hiệu là Nhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Nhật Quang Minh, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật, trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

Khi ấy, Phật Nhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức bảo Bồ-tát Nhật Quang Minh:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Đông Bắc, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, có Phật hiệuThích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật kia nên có điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Nhật Quang Minh vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn qua thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Lúc ấy, Phật Nhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức bảo Bồ-tát Nhật Quang Minh:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Thế Tôn đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim, có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Nhật Quang Minh và dạy:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Nhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn, xem thường đại chúngcõi Phật kia mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp. Vì nguyện lực mà sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật dạy, Bồ-tát Nhật Quang Minh nhận hoa, cùng vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật và lui ra.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Tây Nam, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, đại chúng đảnh lễ Phật, nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên.

Bồ-tát Nhật Quang Minh ở trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Tây Nam, đến thế giới sau cùng tên là Ly Trần Tụ, Phật hiệuNhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức. Đức Phật ấy hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Tây Nam. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong mỗi đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng sanh nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ-Đề. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Nhật Quang Minh và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui ra ngồi một bên. Các cõi phương Tây Nam khác cũng như vậy.

Lúc bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Tây Bắc tên là Chơn Tự Tại, đức Phật hiệu là Nhất Bảo Cái Thắng đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Bảo Thắng, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật, trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

Khi ấy, Phật Nhất Bảo Cái Thắng bảo Bồ-tát Bảo Thắng:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Đông Nam, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, có Phật hiệuThích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật nên có điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Bảo Thắng vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn qua thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Khi ấy, Phật Nhất Bảo Cái Thắng bảo Bồ-tát Bảo Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Thế Tôn đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim, có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Bảo Thắng và dạy:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Nhất Bảo Cái Thắng có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn, xem thường đại chúngcõi Phật kia mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp. Vì nguyện lực mà sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật dạy, Bồ-tát Bảo Thắng nhận hoa, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật và lui ra.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Tây Bắc, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, đại chúng đảnh lễ Phật, nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên.

Bồ-tát Bảo Thắng ở trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Tây Bắc, đến thế giới sau cùng tên là Chơn Tự Tại, Phật hiệuNhất Bảo Cái Thắng có lời hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Tây Bắc. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong mỗi đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng sanh nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ-Đề. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Bảo Thắng và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui ra ngồi một bên. Các cõi phương Tây Bắc khác cũng như vậy.

Lúc bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Dưới tên là Liên Hoa, đức Phật hiệu là Liên Hoa Đức đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Liên Hoa Thắng, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật, trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

Khi ấy, Phật Liên Hoa Đức bảo Bồ-tát Liên Hoa Thắng:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Trên, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, có Phật hiệuThích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật nên có điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Liên Hoa Thắng vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn qua thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Khi ấy, Phật Liên Hoa Đức bảo Bồ-tát Liên Hoa Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Thế Tôn đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim, có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Liên Hoa Thắng và dạy:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Liên Hoa Đức có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn, xem thường đại chúngcõi Phật kia mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp. Vì nguyện lực nên sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật dạy, Bồ-tát Liên Hoa Thắng nhận hoa sen, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật và lui ra.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Dưới, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, đại chúng đảnh lễ Phật, nhiễu trăm ngàn vòng rồi lui qua một bên.

Bồ-tát Liên Hoa Thắng đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Dưới, đến thế giới sau cùng tên là Liên Hoa, Phật hiệuLiên Hoa Đức. Đức Phật ấy có lời hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Dưới. Nhờ thần lực của Phật, hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong mỗi đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng sanh nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ-Đề. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Liên Hoa Thắng và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui qua ngồi một bên. Các cõi phương Dưới khác cũng như vậy.

Lúc bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Trên tên là Hoan Hỷ, đức Phật hiệu là Hỷ Đức đang thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Trong hội đó có Bồ-tát tên là Hỷ Thọ, thấy ánh sáng lớn, đại địa biến độngthân tướng của Phật, trong lòng phân vân nên đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào có điềm này?

Khi ấy, Phật Hỷ Đức bảo Bồ-tát Hỷ Thọ:

- Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Dưới, đến thế giới sau cùng tên là Kham Nhẫn, có Phật hiệuThích Ca Mâu Ni sắp thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Do thần lực của Phật nên hiện ra điềm này.

Nghe rồi, Bồ-tát Hỷ Thọ vui mừng, hớn hở thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn qua thế giới Kham Nhẫn, đảnh lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và các Bồ-tát. Xin Ngài hứa khả cho.

Khi ấy, Phật Hỷ Đức bảo Bồ-tát Hỷ Thọ:

- Lành thay! Lành thay! Tùy theo ý ông.

Nói xong, Thế Tôn đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim, có ngàn cánh, được trang trí bằng các châu báu trao cho Bồ-tát Hỷ Thọ và dạy:

- Ông hãy đem hoa này đến chỗ Phật Thích Ca và đem lời Ta thưa: Phật Hỷ Đức có lời hỏi thăm Ngài có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ông hãy đem hoa sen này dâng Thế Tôn ấy để làm Phật sự. Đến thế giới đó, ông nên an trụ vào chánh tri, chớ có tâm khinh mạn, xem thường đại chúngcõi Phật ấy mà tự mình bị tổn đức. Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy có oai đứcchí nguyện đại bi khó ai sánh kịp. Do nguyện lực mà sanh vào cõi ấy.

Vâng lời Phật dạy, Bồ-tát Hỷ Thọ nhận hoa, cùng với vô lượng trăm ngàn muôn ức Bồ-tát và vô số trăm ngàn đồng nam, đồng nữ đảnh lễ Phật, đi nhiễu quanh bên phải Phật và lui ra.

Khi đi, đại chúng đều đem theo vô số phẩm vật cúng dường tốt đẹp, trải qua các thế giới chư Phật ở phương Trên, ở cõi Phật nào, các vị cũng đều cúng dường, cung kính tôn trọng khen ngợi, không bỏ qua một cõi nào. Khi đến cõi Phật này, đại chúng đảnh lễ Phật, nhiễu trăm ngàn vòng rồi đứng qua một bên.

Bồ-tát Hỷ Thọ đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ đây đi về hằng hà sa số thế giới ở phương Trên, đến thế giới sau cùng tên là Hoan Hỷ, Phật hiệu là Hỷ Đức. Đức Phật ấy có lời hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít khổ não, đi đứng thơ thới, khí lực điều hòa, an vui không? Việc đời có thể nhẫn được không? Chúng sanh có dễ độ không? Ngài bảo chúng con đem ngàn cành hoa sen màu hoàng kim này dâng Thế Tôn để làm Phật sự.

Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni nhận hoa sen ấy, rải lại thế giới chư Phật ở phương Trên. Nhờ thần lực của Phật, các hoa sen ấy bay đến khắp các cõi Phật. Trong mỗi đài hoa ấy đều có vị hóa Phật ngồi kiết già, thuyết đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát. Chúng sanh nào nghe được, chắc chắn sẽ chứng đắc Vô Thượng Bồ-Đề. Thấy sự việc như vậy, Bồ-tát Hỷ Thọ và các quyến thuộc đều vui mừng, hớn hở, khen ngợi, cho là việc chưa từng có, đều tùy theo căn lành cúng dường nhiều hay ít. Các vị cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Phật và Bồ-tát rồi lui qua ngồi một bên. Các cõi phương Trên khác cũng như vậy.

Lúc bấy giờ, khắp ba ngàn đại thiên thế giới Kham Nhẫn đầy châu báu, các loại hương hoa thơm đẹp rải khắp mặt đất, tràng phan, bảo cái, giăng hàng khắp nơi, cây hoa, cây trái, cây hương thơm, cây vòng hoa, cây y phục, cây châu báu, các cây xen lẫn nhau trang trí khắp nơi, thật đáng vui thích, như ở thế giới Liên Hoa Như Lai, Tịnh Độ Phổ Hoa Như Lai, chỗ cư trú của đồng tử Mạn-thù-thất-lợi, Bồ-tát Thiện Trụ Tuệ và vô lượng các Đại Bồ-tát có oai đức lớn khác.

 

Quyển Thứ 401
HẾT

II. PHẨM HOAN HỶ

 

Bấy giờ, biết các chúng có duyên ở thế giới đều đến hội họp như là: Chư Thiên, ma, phạm, các Sa-môn, Bà-la-môn, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, rồng, thần, người chẳng phải người, chúng Đại Bồ-tát trụ thân cuối cùng nối ngôi tôn quí, Thế Tôn liền bảo cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu Đại Bồ-tát muốn hiểu rõ tất cả tướng của nhất thiết pháp thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lúc ấy, Xá-lợi Tử vui mừng hớn hở, rời khỏi tòa, đảnh lễ Phật, trịch áo vai phải, gối phái chấm đất, chấp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát muốn hiểu rõ tất cả tướng của nhất thiết pháp phải học Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Chư Đại Bồ-tát nên dùng vô trụ làm phương tiện để an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì sở trụ, năng trụ bất khả đắc, nên dùng vô xả làm phương tiện để viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa; vì người thí, người nhận và vật bố thí bất khả đắc, nên dùng vô hộ làm phương tiện để viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa; vì tướng phạm, vô phạm bất khả đắc, nên dùng vô thủ làm phương tiện để viên mãn nhẫn nhục Ba-la-mật-đa; vì tướng động, bất động bất khả đắc, nên dùng vô cần làm phương tiện để viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa; vì thân tâm siêng năng, lười biếng bất khả đắc, nên dùng vô tư làm phương tiện để viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa; vì hữu vi, vô vi bất khả đắc, nên dùng vô trước làm phương tiện để viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì tướng và tánh của các pháp bất khả đắc.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập không Tam-ma-địa, vô tướng Tam-ma-địa, vô nguyện Tam-ma-địa, ba đẳng trì này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tịnh lự, vô lượngvô sắc định bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, giải thoát, thắng xứ đẳng chí biến xứ bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu tập chín tưởng: Tưởng trướng, tưởng sình, tưởng đỏ bầm, tưởng xanh bầm, tưởng mổ ăn, tưởng vung vãi, tưởng hài cốt, tưởng thiêu đốt, tưởng hoại diệt, các tưởng như thế bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập mười tùy niệm: Tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm giới, tùy niệm xả, tùy niệm thiên, tùy niệm hơi thở ra vào, tùy niệm nhàm chán, tùy niệm chết, tùy niệm thân, các tùy niệm này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập mười tưởng: Tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng tất cả thế gian không thể vui, tưởng nhàm chán ăn, tưởng đoạn, tưởng ly, tưởng diệt, các tưởng như vậy bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập mười một trí: khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, như thuyết trí, các trí như vậy bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập Tam-ma-địa có tầm có từ, Tam-ma-địa không tầm có từ, Tam-ma-địa không tầm không từ, ba Tam-ma-địa này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn, ba căn vô lậu này bất khả đắc; dùng vô sở đắc làm phương tiện để tu tập quán bất tịnh: Quán biến mãn xứ, trí nhất thiết trí, Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na, bốn nhiếp sự, bốn thắng trụ, ba minh, năm loại mắt, sáu phép thần thông, sáu Ba-la-mật-đa, bảy thánh tài, tám điều giác ngộ của bậc đại sĩ, chín loại trí hữu tình ở, môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, mười địa, mười hạnh, mười nhẫn, hai mươi tăng thượng ý lạc, mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết tướng vi diệu, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xảvô lượng vô biên Phật Pháp khác, các pháp như vậy đều bất khả đắc.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn mau viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn mau viên mãn tâm hạnh tướng trí của tất cả hữu tình, trí nhất thiết tướng vi diệu nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn trừ tất cả tập khí, phiền não nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn thể nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn trụ ngội vị Bồ-tát bất thối chuyển nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được sáu loại thần thông thù thắng nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn biết sự sai khác giữa tâm, hành và chỗ đến sai khác của tất cả hữu tình nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn vượt hơn tác dụng trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được tất cả các môn Đà-la-ni, các môn Tam-ma-địa nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn đem một niệm tâm tùy hỷ vượt hơn sự bố thí của tất cả Thanh văn, Độc giác nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn đem một niệm tâm tùy hỷ vượt hơn tịnh giới của tất cả Thanh văn, Độc giác nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn đem một niệm tâm tùy hỷ vượt hơn định, tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến của tất cả Thanh văn, Độc giác nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn đem một niệm tâm tùy hỷ vượt hơn tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí và thiện pháp khác của tất cả Thanh văn, Độc giác nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn đem một niệm tu tập thiện pháp vượt hơn thiện pháp của tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn thực hành chút ít bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, vì các hữu tình phương tiện thiện xảo để hồi hướng quả Vô Thượng Chánh Giác, được vô lượng vô biên công đức nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát muốn thực hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lìa các chướng ngại mau được viên mãn thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được đời đời thường gặp chư Phật, thường nghe Chánh pháp, được Phật giác ngộ, nhớ nghĩ lời Phật dạy nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được thân Phật đủ ba mươi hai tướng Đại sĩ của bậc đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp đầy đủ, trang nghiêm nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được đời đời thường nhớ nghĩ tâm Bồ-đề đời trước, không quên mất, xa lìa bạn ác, gần gủi bạn lành, thường tu hạnh Đại Bồ-tát nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được đời đời đầy đủ oai lực lớn làm các ma hàng phục, dẹp trừ các ngoại đạo nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được đời đời xa lìa tất cả phiền não, nghiệp chướng, thông đạt các pháp, tâm không chướng ngại nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được đời đời tâm hoàn hảo, nguyện hoàn hảo, hành hoàn hảo, liên tục, thường không biếng nhác, bỏ bê nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn sanh vào nhà Phật, vào địa vị đồng chơn, thường không xa lìa chư Phật, Bồ-tát nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được đời đời đầy đủ các tướng tốt trang nghiêm như Phật, tất cả hữu tình trông thấy đều hoan hỷ, phát sanh tâm Vô Thượng Chánh Giác, mau được thành tựu công đức Phật nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn đem các năng lực của thiện căn thù thắng, các phẩm vật cúng dường tốt đẹp tùy ý cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, làm cho các thiện căn mau được viên mãn thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn làm cho thỏa mãn đầy đủ tất cả vật mong cầu của chúng sanh như: Thức ăn uống, y phục, giường ghế, đồ nằm, thuốc thang, hoa, hương, đèn, xe, vườn, rừng, nhà cửa, lúa gạo, châu báu, kỹ nhạccác loại nhạc cụ tốt đẹp nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Bồ-tát muốn làm cho tất cả hữu tình khắp hư không giới, pháp giới, thế giới đều an trụ vào bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được công đức phát sanh một niệm thiện tâm cho đến quả Vô Thượng Bồ-Đề không cùng tận thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn được chư Phật các thế giới trong mười phương, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Chánh Giác, các Bồ-tát cùng khen ngợi thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn một khi phát tâm có thể khắp đến vô số thế giới trong mười phương, cúng dường chư Phật, làm lợi lạc cho chúng sanh thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn một khi phát ra tiếng liền có thể vang khắp vô số thế giới trong mười phương, khen ngợi chư Phật, dạy bảo chúng hữu tình, nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn trong một niệm làm cho tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương tu học mười nghiệp đạo thiện, thọ tam qui y, hộ trì cấm giới, tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, được năm thần thông nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn trong một niệm có thể làm cho tất cả hữu tình trong vô số thế giới chư Phật khắp mười phương an trụ pháp Đại thừa, tu hạnh Bồ-tát, chẳng khinh bỏ các thừa khác nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa; muốn tiếp nối dòng giống Phật không để cho đoạn tuyệt, hộ trì ngôi nhà Bồ-tát làm cho không bị thối chuyển, làm thanh tịnh cõi Phật và mau được thành tựu nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát muốn an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn an trụ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn hiểu biết tánh của tất cả pháp như tánh sở hữu, không điên đảo, không phân biệt thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn hiểu biết tất cả pháp nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, tánh vô sở hữu, bất khả đắc thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn hiểu biết tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như hình bóng, như bóng sáng, như sóng nắng, như hoa đốm trên không, như thành Càn-thát-bà, như các việc biến hóa, chỉ do tâm hiện ra, tánh, tướng nó đều không thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết đại địa, hư không, núi non, biển cả, sông ngòi, ao bàu, khe hang, vũng hồ, địa, thủy, hỏa, phong, các lượng cực vi trong ba ngàn đại thiên thế giới khắp mười phương thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn chẻ một sợi lông ra làm trăm phần, lấy một phần sợi lông, đem hết nước trong biển cả, sông ngòi, ao bàu, khe hang, vũng hồ khắp ba ngàn đại thiên thế giới bỏ vào trong vô biên thế giới ở phương khác mà không làm tổn hại hữu tình trong ấy thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát gặp kiếp hỏa thiêu cháy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm cho trời đất đều cháy rụi, muốn dùng một hơi thở thổi tắt liền thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát gặp kiếp phong nổi lên, ba ngàn đại thiên thế giới nương phong luân bị thổi mạnh bay vọt lên, sắp thổi ba ngàn đại thiên thế giới, núi Tô-mê-lô, núi Luân vi v.v... các vật đều tan nát như bụi, muốn dùng một ngón tay để ngăn lại sức gió kia làm cho chúng mất đi thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, muốn một khi ngồi kiết già đầy khắp cả hư không thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đem một sợi lông quẩn lấy ba ngàn đại thiên thế giới, núi Diệu cao, núi Luân vi các vật ném qua vô lượng vô biên thế giới ở phương khác, mà không làm tổn hại chúng hữu tình trong đó, thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đem một món thức ăn, một chút hoa, hương, tràng, lọng ... cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử trong vô số thế giới khắp mười phương không ai chẳng đầy đủ thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm cho chúng hữu tình trong vô số thế giới khắp mười phương an trụ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, hoặc trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề cho đến nhập Vô dư y Niết-bàn thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể biết như thật bố thí như vậy được phước báo lớn, nghĩa là biết như thật bố thí như vậy được sanh dòng tộc Sát-đế-lợi, hoặc sanh dòng tộc Bà-la-môn, hoặc Trưởng giả, hoặc Cư sĩ. Bố thí như thế được sanh vào cõi Tứ đại thiên vương, hoặc sanh vào cõi trời Ba mươi ba, hoặc sanh vào cõi trời Dạ-ma, hoặc sanh vào cõi trời Đổ-sử-đa, hoặc sanh vào cõi trời Lạc biến hóa, hoặc sanh vào cõi trời Tha hóa tự tại. Do bố thí như vậy được sơ thiền, hoặc đệ nhị thiền, hoặc đệ tam thiền, hoặc đệ tứ thiền. do bố thí như vậy được định Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do bố thí như thế phát sanh bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, đắc quả Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác, hoặc chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Có thể biết như thật tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã như vậy được phước báo lớn. Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể biết như thật về bố thí, dùng phương tiện thiện xảo, bố thí Ba-la-mật-đa viên mãn; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa; bố thí như thế dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Như vậy, thực hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã với phương tiện thiện xảo thì có thể làm viên mãn sáu Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể biết như thật bố thí, dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn bố thí cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo làm viên mãn tịnh giới cho đến tịnh lự ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Xá-lợi Tử! Vì đem vô sở đắc làm phương tiện nghĩa là Đại Bồ-tát khi thực hành bố thí hiểu rõ tướng của tất cả người thí, người nhận và vật bố thí đều bất khả đắc, có thể làm viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa; vì tướng phạm, vô phạm bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa; vì tướng động, bất động bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa; vì thân tâm siêng năng, biếng nhác bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa; có loạn, không loạn bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa; vì tánh tướng các pháp bất khả đắc, nên có thể làm viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đó là Đại Bồ-tát khi thực hành bố thí, dùng phương tiện thiện xảo có thể làm viên mãn sáu Ba-la-mật-đa. Như vậy, Đại Bồ-tát khi thực hành tịnh giới, dùng phương tiện thiện xảo, có thể làm viên mãn sáu Ba-la-mật-đa, cho đến khi thực hành Bát-nhã, dùng phương tiện thiện xảo, có thể làm viên mãn sáu Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát muốn được công đức của chư Phật trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đến bờ kia của tất cả các pháp hữu vi, vô vi thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đạt được các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, vô sanh, thực tế trong quá khứ, vị lai, hiện tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn thấu suốt tận cùng ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại sanh hay bất sanh thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm bậc đạo sư cho tất cả Thanh văn, Độc giác thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn hầu cận tất cả Như Lai thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm dòng họ quyến thuộc của tất cả Như Lai thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn được quyến thuộc đông thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn được thường cùng Bồ-tát làm quyến thuộc thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm cho đồ cúng dường của thí chủ được tiêu thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn điều phục tâm xan tham, không sanh tâm phạm giới, trừ bỏ tâm sân giận, tâm biếng nhác, dừng lặng tâm tán loạn, xa lìa tâm ác tuệ thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm cho tất cả hữu tình an trụ vào việc tánh thí phước nghiệp, tánh giới phước nghiệp, tu tánh phước nghiệp, cúng dường hầu cận phước nghiệp, hữu y phước nghiệp thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn được ngũ nhãn: Nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn dùng thiên nhãn thấy hết vô số thế giới chư Phật trong mười phương thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn dùng thiên nhĩ nghe hết những lời Phật dạy trong vô số thế giới khắp mười phương thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết như thật về pháp tâm, tâm sở của tất cả chư Phật trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn được nghe chư Phật trong mười phương thế giới thuyết pháp cho đến chứng quả Vô Thượng Bồ-Đề không đoạn tuyệt thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn thấy tất cả cõi nước chư Phật trong mười phương ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với mười hai bộ kinh mà chư Phật trong mười phương ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đã thuyết: Khế kinh, Ứng tụng, Thọ ký, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Hy pháp, Thí dụ, Luận nghị mà các Thanh văn chưa từng nghe, đều có thể thọ trì thông suốt, cứu cánh thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với pháp môn mà chư Phật trong mười phương, ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đã thuyết, tự mình đã thọ trì thông suốt rốt ráo, lại có thể giảng thuyết như thật cho người khác thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với pháp môn chư Phật trong mười phương, ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại đã thuyết, tự mình thực hành như thật, lại có thể khuyên bảo người khác thực hành như thật thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn chiếu ánh sáng đến vô số thế giới tối tăm, hoặc thế giới trung gian khắp mười phương nơi mà ánh sáng mặt trời, mặt trăng không chiếu đến thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với chúng hữu tình trong vô lượng thế giới bị tà kiến không nghe đến danh hiệu Phật, Pháp, Tăng trong mười phương mà có thể khai thị, giáo hóa làm cho họ phát sanh chánh kiến, nghe danh Tam Bảo thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát dùng oai lực của mình muốn làm cho chúng hữu tình trong vô số thế giới trong mười phương, người mù có thể thấy được, người điếc có thể nghe được, người câm có thể nói được, người cuồng nhớ nghĩ được, người loạn ổn định được, người nghèo được giàu, người thiếu áo được áo, người đói được thức ăn, người khát được nước uống, người bệnh được trị lành, người xấu được đẹp, người tàn tật được đầy đủ, người thiếu các căn được đầy đủ, người mê được tỉnh ngộ, kẻ mệt mỏi được thư thái. Tất cả hữu tình với tâm bình đẳng, đối với nhau như cha, mẹ, anh em, chị em, bạn bè, thân thuộc thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát dùng oai lực của mình muốn làm cho chúng hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, ở trong đường ác, được sanh vào cõi thiện thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát dùng oai lực của mình muốn làm cho chúng hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương quen theo nghiệp ác đều tu theo nghiệp thiện thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát dùng oai lực của mình muốn làm cho chúng hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, người phạm giới được an trụ vào giới uẩn, người chưa được định đều an trụ vào định uẩn, người có tuệ ác đều an trụ vào tuệ uẩn, người không được giải thoát đều trụ giải thoát uẩn, người không được giải thoát tri kiến đều trụ giải thoát tri kiến uẩn, người chưa đắc kiến đế thì đuợc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc quả vị Độc giác, hoặc chứng đắc Vô Thượng Bồ-Đề thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn học oai nghi thù thắng của chư Phật, làm cho các hữu tình trông thấy không chán, dứt tất cả điều ác, sanh tất cả điều thiện thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, suy nghĩ: Chừng nào ta mới được như voi chúa dung nghi đỉnh đạc, nghiêm nghị, thuyết pháp cho đại chúng! Muốn thành tựu việc này thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, suy nghĩ: Chừng nào ta mới được thân, ngữ, ý nghiệp hành động theo trí tuệ, luôn được thanh tịnh! Muốn đạt được điều này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới được chân đi cách đất chừng bốn ngón tay một cách tự tại! Muốn được việc này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới được vô lượng trăm ngàn triệu ức thiên chúng trời Tứ-đại-vương, cho đến trời Sắc cứu cánh cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi, cùng nhau đi đến cội Bồ-đề! Muốn thành tựu việc này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới được vô lượng trăm ngàn triệu ức thiên chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh ở dưới cội Bồ-đề, đem thiên y làm tòa! Muốn thành tựu việc này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới được ngồi kiết già dưới cội Bồ-đề, dùng tay với các tướng vi diệu trang nghiêm, vỗ vào đại địa, làm cho địa thần và các quyến thuộc đồng thời vọt lên! Muốn được việc này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới được ngồi dưới cội Bồ-đề làm cho các ma qui phục, chứng đắc quả Vô Thượng Bồ-Đề! Muốn được việc này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới được thành Chánh Giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm ở chỗ nào thì chỗ ấy đều thành kim cương! Muốn được điều này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới bỏ nước xuất gia, cũng đến ngày đó thành Vô Thượng Chánh Giác, rồi cũng đến ngày đó chuyển bánh xe chánh pháp, làm cho vô lượng, vô số hữu tình xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, lại làm cho vô lượng, vô số hữu tình hết hẳn các lậu, tâm và tuệ giải thoát, cũng làm cho vô lượng, vô số hữu tình không thối chuyển đối với quả Vô Thượng Bồ-Đề! Muốn được việc như vậy nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, suy nghĩ: Chừng nào ta mới được Vô Thượng Bồ-Đề, vô lượng, vô số Thanh văn, Bồ-tát làm chúng đệ tử, mỗi khi thuyết pháp làm cho vô lượng, vô số hữu tình ngay tại chỗ ngồi chứng quả A-la-hán; lại làm cho vô lượng, vô số chúng sanh cũng ngay tại chỗ ngồi, đối với quả Vô Thượng Bồ-Đề không thối chuyển! Muốn thành tựu việc này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới được sống lâu vô lượng, được vô biên ánh sáng, tướng tốt trang nghiêm, người xem không chán, lúc bước đi hoa sen ngàn cánh thường đỡ nơi chân làm cho trên mặt đất hiện thiên bức luân, mỗi bước đi, đại địa chấn động mà không làm tổn hại hữu tình nào trên đất, khi muốn ngó lui, toàn thân đều xoay lại, bước chân đi dậm tận bờ kim cương, như bánh xe lăn đến đâu, đất cũng đều rung theo! Muốn được như vậy nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Chừng nào ta mới được các chi tiết trên toàn thân đều phóng ánh sáng, chiếu khắp vô biên thế giới trong mười phương, ánh sáng chiếu đến đâu đều làm lợi ích lớn cho chúng hữu tình! Muốn được như vậy nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Khi tôi được Vô Thượng Chánh Đẳng, nguyện quốc độ tôi không có tất cả các tên tham dục, sân giận, si mê, chúng hữu tình trong đó thành tựu diệu tuệ. Do sức tuệ này liền suy nghĩ bố thí, điều phục, an nhẫn, tinh tấn, tịch tịnh, quán kỹ, lìa các buông lung, tu hành phạm hạnh, từ, bi, hỷ, xả, không làm não hại hữu tình như cõi Phật khác, đâu chẳng lành thay! Muốn viên mãn nguyện này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa suy nghĩ: Khi ta được Vô Thượng Chánh Giác, việc hóa độ đã chu toàn, sau khi Niết-bàn, Chánh pháp không có thời kỳ diệt tận, thường làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Muốn viên mãn nguyện này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, suy nghĩ: Khi ta được Vô Thượng Chánh Giác, nguyện cho chúng hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương nghe danh ta đều được Vô Thượng Chánh Giác. Muốn viên mãn nguyện này nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Nếu các Đại Bồ-tát muốn thành tựu vô lượng vô biên công đức thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì nhất định sẽ thành tựu công đức như vậy. Lúc bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới, trời Tứ đại vương đều rất vui mừng, đồng suy nghĩ: Nay chúng ta nên đem bốn bát dâng cúng Bồ-tát này, như ngày xưa Thiên vương dâng bát cúng Phật.

Khi ấy, ba ngàn đại thiên thế giới, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại đều rất vui mừng đồng suy nghĩ: Chúng ta nên mau đến cúng dường hầu cận Bồ-tát như vậy, làm cho A-tố-lạc hung ác giảm xuống, để cho chư thiên và các quyến thuộc tăng thêm.

Lúc ấy, trong ba ngàn đại thiên thế giới, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Đại quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh đều vui mừng hớn hở, đồng suy nghĩ: Chúng ta nên thỉnh Bồ-tát như thế mau chứng Vô Thượng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp luân, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm cho sáu Ba-la-mật-đa tăng trưởng thì các thiện nam, thiện nữ ở thế giới kia đều rất vui mừng, đồng suy nghĩ: Chúng ta nên thỉnh Bồ-tát như vậy làm cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, bạn bè quen biết. Khi ấy, ở thế giới kia, trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều hoan hỷ được diễm phúc, đồng suy nghĩ: Chúng ta nên bày các phương tiện làm cho Bồ-tát này lìa phi phạm hạnh, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, thường tu phạm hạnh. Vì sao? Vì nếu bị nhiễm sắc dục, sanh nơi Phạm thiên còn bị chướng ngại, huống là đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Vì thế, Bồ-tát nào đoạn dục, xuất gia tu phạm hạnh, có thể chứng đắc Vô Thượng Bồ-Đề chứ không phải kẻ chẳng đoạn.

Lúc ấy, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chư Đại Bồ-tát cần phảicha mẹ, vợ con, bạn thân không?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Có Bồ-tát có đủ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, mà vẫn tu hạnh đại Bồ-tát. Hoặc có Đại Bồ-tát không có vợ con, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, thường tu phạm hạnh, vẫn còn đồng chơn. Hoặc có Đại Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo, thị hiện hưởng thọ năm dục, nhàm bỏ xuất gia, mới đắc Vô Thượng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Ví như nhà huyễn thuật, hoặc học trò của người ấy giỏi nghề huyễn thuật, giả làm năm dục rồi cùng nhau vui chơi thỏa thích. Ý ông thế nào? Huyễn làm ra đó có thật không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát cũng vậy, vì muốn giáo hóa chúng hữu tình nên Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo, hóa hiện thọ hưởng năm dục, nhưng Đại Bồ-tát này, ở trong năm dục rất là nhàm chán, không bị năm dục làm nhiễm ô, mà dùng vô lượng pháp môn quở trách các dục: Dục là lửa dữ thiêu đốt thân tâm; dục là dơ xấu làm ô nhiễm mình và người; dục là đồ tể thường làm hại cả ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại; dục là oán địch, thường rình tìm làm suy tổn; dục như đuốc cỏ; dục như quả đắng; dục như kiếm nhọn; dục như đống lửa; dục như đồ độc; dục như huyễn hoặc; dục như giếng tối. Bồ-tát dùng vô lượng thứ tội lỗi như vậy để quở trách các dục. Đã hiểu biếttội lỗi các dục rồi, nào có chân thậtthọ hưởng các dục. Chỉ vì làm lợi ích, giáo hóa chúng sanh mà Bồ-tát dùng phương tiện thiện xảo thị hiện thọ hưởng các dục.
III. PHẨM QUÁN CHIẾU

01

 

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chư Đại Bồ-tát nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa Đại Bồ-tát nên quán như vầy: Thật có Bồ-tát, không thấy có Bồ-tát, không thấy tên Bồ-tát; không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy tên Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không thấy hành, không thấy chẳng hành. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tự tánh Bồ-tát là không, danh Bồ-tát cũng không. Vì sao? Vì tự tánh của sắc là không, chẳng phải do không, không của sắc chẳng phải sắc; sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, chẳng phải do không; không của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức chẳng lìa không, không chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Đây chỉ có danh gọi là Bồ-đề, đây chỉ có danh gọi là Tát-đỏa, đây chỉ có danh gọi là Bồ-tát. Đây chỉ có danh gọi là không. Đây chỉ có danh gọi là sắc thọ, tưởng, hành, thức. Tự tánh như vậy không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, không thấy sanh, không thấy diệt, không thấy nhiễm, không thấy tịnh. Vì sao? Chỉ giả lập danh tự, đối với các pháp sanh phân biệt giả lập danh tự tùy theo đó mà sanh lời nói, lời nói như như. Như vậy, như vậy sanh ra chấp trước. Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp do không thấy nên không sanh chấp trước.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên quán như vầy: Bồ-tát chỉ có danh, Phật chỉ có danh, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ có danh; sắc chỉ có danh, thọ, tưởng, hành, thức chỉ có danh, tất cả pháp khác cũng chỉ có danh.

Này Xá-lợi Tử! Như ngã chỉ có danh, gọi nó là ngã thật bất khả đắc. Như vậy hữu tình, mạng sống, sanh giả, sự nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, đồng tử, người làm, người sai làm, khởi xướng, người sai khởi xướng, người nhận, người bảo nhận, người biết, người thấy cũng chỉ có danh, nghĩa là hữu tình cho đến người thấy, thật bất khả đắc. Do chẳng thể nắm bắt không nên chỉ tùy theo thế tụcgiả lập danh tự. Các pháp cũng vậy, không nên chấp trước. Vì vậy, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy có ngã cho đến người thấy, cũng không thấy tánh của tất cả pháp.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy, trừ trí tuệ của chư Phật, còn trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác v.v... đều không thể sánh bằng. Vì chẳng thể nắm bắt không. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đối với danh, sở danh đều vô sở đắc, vì không quán thấy nên không chấp trước.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát có thể thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy mới gọi là khéo thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Giả sử những ngươi có trí tuệ như ông và Đại Mục-kiền-liên nhiều như lúa, mè, tre, lau, mía, rừng đầy khắp cõi châu Thiệm-bộ, so với trí tuệ mà Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, trăm câu-chi phần không bằng một, ngàn câu-chi phần không bằng một, trăm ngàn câu-chi phần không bằng một, số phần, toán phần, kế phần, dụ phần cho đến cực số phần không bằng một. Vì sao? Vì trí tuệ của Đại Bồ-tát này có thể làm cho tất cả hữu tình hướng vào Niết-bàn. Còn trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác không được như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Trí tuệ mà Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ trong một ngày thì trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác cũng không bì kịp.

Này Xá-lợi Tử! Thôi, tạm gác châu Thiệm-bộ lại. Giả sử những người có trí tuệ như ông và Đại Mục-kiền-liên như lúa, mè, tre, lau, mía, rừng v.v... đầy khắp bốn đại châu so với trí tuệ của Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, cho đến cực số phần cũng chẳng kịp một. Vì sao? Vì trí tuệ của Đại Bồ-tát này hay làm cho tất cả hữu tình hướng đến Niết-bàn, còn trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác không được như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Trí tuệ mà Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ trong một ngày thì trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác cũng không bì kịp.

Này Xá-lợi Tử! Thôi, tạm gác bốn đại châu lại. Giả sử những người có trí tuệ như ông và Đại Mục-kiền-liên nhiều như lúa, mè, tre, lau, mía, rừng đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới so với trí tuệ của Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, cho đến cực số phần không bằng một. Vì sao? Vì trí tuệ của Đại Bồ-tát này có thể làm cho tất cả hữu tình hướng đến Niết-bàn, trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác không được như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Trí tuệ mà Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ trong một ngày thì trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác cũng không bì kịp.

Này Xá-lợi Tử! Thôi, tạm gác ba ngàn đại thiên thế giới lại. Giả sử những người có trí tuệ như ông và Đại Mục-kiền-liên nhiều như lúa, mè, tre, lau, mía, rừng đầy khắp cả thế giới chư Phật trong mười phương so với trí tuệ của Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, cho đến cực số phần không bằng một. Vì sao? Vì trí tuệ của Đại Bồ-tát này có thể làm cho tất cả hữu tình hướng đến Niết-bàn. Trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác không được như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Trí tuệ mà Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ trong một ngày thì trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác cũng không bì kịp.

 

Quyển Thứ 402
HẾT

02

 

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trí tuệ của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Thanh văn, hoặc Trí tuệ của Độc giác, hoặc Trí tuệ của Đại Bồ-tát, hoặc Trí tuệ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không sai khác, không chống trái nhau, không sanh, không diệt, tự tánh đều là không. Nếu pháp không sai khác, không chống trái nhau, không sanh diệt, tự tánh là không, pháp này không sai khác đã bất khả đắc, thì tại sao Thế Tôn lại nói Trí tuệ của Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ trong một ngày, Trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác không bì kịp?

Phật bảo:

Này Xá-lợi Tử! Ý ông thế nào? Trí tuệ của Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong một ngày hơn Bát-nhã tất cả Thanh văn, Độc giác. Việc này có không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong một ngày suy nghĩ: Ta sẽ tu hành trí nhất thiết tướng vi diệu, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Hiểu biết tất cả tướng của nhất thiết pháp, rồi dùng phương tiện hướng dẫn tất cả chúng sanh vào Vô dư y Niết-bàn, trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác, có việc này không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý ông thế nào? Tất cả Thanh văn, Độc giác, có thể suy nghĩ: Ta sẽ chứng A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam Bồ-đề, dùng phương tiện hướng dẫn tất cả hữu tình vào Vô dư y Niết-bàn không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Ý ông thế nào? Tất cả Thanh văn, Độc giác có thể suy nghĩ: Ta sẽ tu hành sáu Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, sẽ chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, dùng phương tiện hướng dẫn vô lượng, vô số hữu tình vào Vô dư y Niết-bàn không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát đều suy nghĩ: Ta nên tu hành sáu Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, sẽ chứng Vô Thượng Bồ-đề, dùng phương tiện hướng dẫn vô lượng, vô số hữu tình vào Vô dư y Niết-bàn.

Này Xá-lợi Tử! Ví như đom đóm không nghĩ như vầy: Ánh sáng của ta có thể chiếu khắp châu Thiệm-bộ, làm cho rực sáng. Cũng vậy, tất cả Thanh văn, Độc giác không nghĩ: Ta sẽ tu hành sáu Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ-đề, dùng phương tiện hướng dẫn vô lượng, vô số hữu tình vào Vô dư y Niết-bàn.

Này Xá-lợi Tử! Thí như ánh sáng mặt trời sáng rực khắp cõi châu Thiệm-bộ, không có chỗ nào mà không chiếu đến. Như vậy, Đại Bồ-tát đều suy nghĩ: Ta sẽ tu hành sáu Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chứng quả Vô Thượng Bồ-đề, dùng phương tiện hướng dẫn vô lượng, vô số hữu tình vào Vô dư y Niết-bàn.

Này Xá-lợi Tử! Do đó nên biết tất cả trí tuệ của Thanh văn, Độc giác, so với trí tuệ của Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ trong một ngày thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, cho đến cực số phần cũng không bằng một.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm thế nào có thể vượt qua địa vị tất cả Thanh văn, Độc giác, có thể được địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, có thể làm thanh tịnh Phật đạo?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm, tu hành sáu Ba-la-mật-đa, an trụ pháp không, vô tướng, vô nguyện, nên có thể vượt qua địa vị tất cả Thanh văn. Độc giác, có thể được địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, có thể làm thanh tịnh Phật đạo.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát an trụ những địa vị nào mà có thể làm phước điền chơn chánh cho tất cả Thanh văn, Độc giác.

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi mới phát tâm tu hành sáu Ba-la-mật-đa, an trụ pháp không, vô tướng, vô nguyện cho đến lúc ngồi tòa Bồ-đề, thường làm phước điền chơn chánh cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì nương vào Đại Bồ-tát, tất cả thiện pháp xuất hiệnthế gian như: Mười nghiệp đạo thiện, năm giới cận sự, tám giới cận trụ, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bốn trí Thánh đế, bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, sáu Ba-la-mật-đa, mười tám không, mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vô lượng, vô số các thiện pháp như vậy xuất hiệnthế gian. Do các thiện pháp của Bồ-tát này nên thế giandòng họ Sát-đế-lợi, dòng họ Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ, Thiên chúng, trời Tứ đại vương chúng, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô tưởng hữu tình, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh, trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lại do các thiện pháp của Bồ-tát liền có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Đại Bồ-tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiệnthế gian.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát có cần phải trả ơn thí chủ không?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát không cần phải trả ơn thí chủ. Vì sao? Vì đã trả đủ rồi. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Đại Bồ-tát là vị đại thí chủ, bố thí các thiện pháp cho chúng hữu tình. Nghĩa là bố thí chúng hữu tình mười nghiệp đạo thiện, năm giới cận sự, tám giới cận trụ, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bốn trí Thánh đế, bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, sáu Ba-la-mật-đa, mười tám không v.v... mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì Bồ-tát bố thí cho các hữu tình vô lượng, vô số thiện pháp như vậy nên gọi là đại thí chủ. Do đó đã trả ơn cho thí chủ, phước điền chơn thật thanh tịnh, sanh vô lượng phước.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tương ưng với pháp nào mà nói là tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với không của sắc nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của thọ, tưởng, hành, thức nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với không của nhãn xứ nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của sắc xứ nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của thanh hương, vị, xúc, pháp xứ nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với không của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của thân giới, xúc giới, thân thức giới nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của ý giới, pháp giới, ý thức giới nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với không của Thánh đế khổ nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của Thánh đế tập, diệt, đạo nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với không của vô minh nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với không của nhất thiết pháp nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa; vì tương ưng với không của pháp hữu vi, vô vi nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với bản tánh không nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với bảy không như vậy nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, khi tương ưng với bảy không như thế, chẳng thấy sắc tương ưng, hoặc chẳng tương ưng, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức tương ưng, hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy sắc hoặc pháp sanh hoặc pháp diệt, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc pháp sanh hoặc pháp diệt; chẳng thấy sắc hoặc nhiễm hoặc tịnh, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc nhiễm hoặc tịnh; chẳng thấy sắc hợp với thọ, chẳng thấy thọ hợp với tưởng, chẳng thấy tưởng hợp với hành, chẳng thấy hành hợp với thức. Vì sao? Vì không có chút pháp nào hợp với pháp, vì bản tánh không.

Này Xá-lợi Tử! Không của các sắc chẳng phải sắc, không của các thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì không của các sắc chẳng phải tướng biến ngại. Không của các thọ chẳng phải tướng lãnh nạp. Không của các tưởng chẳng phải tướng nắm bắt. Không của các hành chẳng phải tướng tạo tác. Không của các thức chẳng phải tướng liễu biệt. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác không, không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử! Tướng không của các pháp ấy không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Trong không ấy không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. Không có nhãn xứ, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Không có sắc xứ, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không có nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Không có nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới. Không có tỷ giới hương giới, tỷ thức giới. Không có thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới. Không có thân giới, xúc giới, thân thức giới. Không có ý giới, pháp giới, ý thức giới. Không có vô minh, cũng không vô minh diệt, cho đến không có lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cũng không có lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não diệt. Không có Thánh đế khổ, không có Thánh đế tập, diệt, đạo. Không có đắc, không có hiện quán. Không có Dự lưu, không có quả Dự lưu. Không có Nhất lai, không có quả Nhất lai. Không có Bất hoàn, không có quả Bất hoàn. Không có A-la-hán, không có quả A-la-hán. Không có Độc giác, không có quả Độc giác. Không có Bồ-tát, không có hạnh Bồ-tát. Không có Chánh đẳng giác, không có quả Chánh Đẳng Giác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì tương ưng với các pháp như vậy, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa tương ưng hay chẳng tương ưng; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng thấy sắc tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng thấy nhãn xứ tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng thấy sắc xứ tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng thấy nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy thân giới, xúc giới, thân thức giới tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng thấy bốn niệm trụ tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng thấy mười lực Phật tương ưng hoặc chẳng tương ưng; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tương ưng hoặc chẳng tương ưng.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa tương ưng với pháp như thế nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán không tương ưng với không. Chẳng quán vô tướng tương ưng với vô tướng. Chẳng quán vô nguyện tương ưng với vô nguyện. Vì sao? Vì không, vô tướng, vô nguyện đều không có tương ưng nào mà chẳng tương ưng.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tương ưng với pháp như vậy nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đã hiểu rõ tự tướng của nhất thiết pháp là không, không quán sắc hoặc hợp hoặc tan, không quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc hợp hoặc tan. Không quán sắc với quá khứ hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì không thấy quá khứ. Không quán thọ, tưởng, hành, thức với quá khứ hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì không thấy quá khứ. Không quán sắc với vị lai hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì không thấy vị lai. Không quán thọ, tưởng, hành, thức với vị lai hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì không thấy vị lai. Không quán sắc với hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì không thấy hiện tại. Không quán thọ, tưởng, hành, thức với hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì không thấy hiện tại. Không quán quá khứ với vị lai hoặc hợp hoặc tan. Không quán quá khứ với hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Không quán vị lai với quá khứ hoặc hợp hoặc tan. Không quán vị lai với hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Không quán hiện tại với quá khứ hoặc hợp hoặc tan. Không quán hiện tại với vị lai hoặc hợp hoặc tan. Không quán quá khứ với vị lai, hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Không quán vị lai với quá khứ, hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Không quán hiện tại với vị lai, quá khứ hoặc hợp hoặc tan. Không quán quá khứ, vị lai, hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì ba đời đều không.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không quán trí nhất thiết với quá khứ hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì quá khứ còn không thấy, huống là quán trí nhất thiết với quá khứ hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với vị lai hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì vị lai còn không thấy, huống là quán trí nhất thiết với vị lai hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì hiện tại còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với hiện tại hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với sắc hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì sắc còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với sắc hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với thọ, tưởng, hành, thức hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với thọ, tưởng, hành, thức hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với nhãn xứ hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì nhãn xứ còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với nhãn xứ hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với sắc xứ hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì sắc xứ còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với sắc xứ hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với thân giới, xúc giới, thân thức giới hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì thân giới, xúc giới, thân thức giới còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với thân giới, xúc giới, thân thức giới hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với ý giới, pháp giới, ý thức giới hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì ý giới, pháp giới, ý thức giới còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với ý giới, pháp giới, ý thức giới hoặc hợp hoặc tan.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với các pháp như thế nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không quán trí nhất thiết với bố thí Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với bố thí Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với tịnh giới Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì tịnh giới Ba-la-mật-đa còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với tịnh giới Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với an nhẫn Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì an nhẫn Ba-la-mật-đa còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với an nhẫn Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với tinh tấn Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì tinh tấn Ba-la-mật-đa còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với tinh tấn Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với tịnh lự Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì tịnh lự Ba-la-mật-đa còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với tịnh lự Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với bốn niệm trụ hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì bốn niệm trụ còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với bốn niệm trụ hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với mười lực Phật hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì mười lực Phật còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với mười lực Phật hoặc hợp hoặc tan. Không quán trí nhất thiết với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng còn không thấy huống là quán trí nhất thiết với bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng hoặc hợp hoặc tan.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không quán trí nhất thiết với Phật hoặc hợp hoặc tan; cũng không quán Phật với trí nhất thiết hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì trí nhất thiết tức là Phật, Phật tức là trí nhất thiết. Không quán trí nhất thiết với Bồ-đề hoặc hợp hoặc tan; cũng không quán Bồ-đề với trí nhất thiết hoặc hợp hoặc tan. Vì sao? Vì trí nhất thiết tức là Bồ-đề, Bồ-đề tức là trí nhất thiết.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như vậy, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không chấp trước sắc có tánh, không chấp trước sắc không tánh; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức có tánh, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức không tánh. Không chấp trước sắc thường, không chấp trước sắc vô thường; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức thường, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Không chấp trước sắc lạc, không chấp trước sắc khổ; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức lạc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức khổ. Không chấp trước sắc ngã, không chấp trước sắc vô ngã; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức ngã, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức vô ngã. Không chấp trước sắc tịch tịnh, không chấp trước sắc không tịch tịnh; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức tịch tịnh, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức không tịch tịnh. Không chấp trước sắc không, không chấp trước sắc bất không; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức không, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức bất không. Không chấp trước sắc vô tướng, không chấp trước sắc hữu tướng; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức vô tướng, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức hữu tướng. Không chấp trước sắc vô nguyện, không chấp trước sắc hữu nguyện; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức vô nguyện, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức hữu nguyện.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như vậy, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nghĩ là: Ta tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ là: Ta không tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ là: Ta tu hành cũng không tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ là: Ta không phải tu hành, chẳng phải không tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không vì bố thí Ba-la-mật-đa mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đatu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không vì thể nhập Chánh tánh ly sanhtu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì đắc địa vị Bất thối chuyểntu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì thành thục chúng hữu tình mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì nghiêm tịnh cõi Phậttu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không vì bốn niệm trụ mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạotu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không vì mười lực của Phật mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không vì pháp không nội mà tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánhtu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không vì chơn nhưtu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì pháp giớitu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì pháp tánhtu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì thật tếtu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì tánh bình đẳngtu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy tánh các pháp sai khác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không vì trí chứng biết thần túc thôngtu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không vì trí chứng biết thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ tùy niệm, thiên nhãn, lậu tận thôngtu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa còn không thấy huống là thấy sáu phép thần thông của Bồ-tát và các Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nghĩ: Ta dùng trí chứng biết thần túc thông đến hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Như Lai các thế giới. Không nghĩ: Ta dùng trí chứng biết thiên nhĩ nghe pháp âm của chư Phật, Bồ-tát đã thuyết ở hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Không nghĩ: Ta dùng trí chứng biết tha tâm biết khắp tâm, tâm sở của tất cả hữu tìnhhằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Không nghĩ: Ta dùng trí chứng biết túc trụ tùy niệm nhớ hết các việc đời trước của tất cả hữu tìnhhằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Không nghĩ: Ta dùng trí chứng biết thiên nhãn thấy sự chết đây, sanh kia của tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Không nghĩ: Ta dùng trí chứng biết lậu tận quán các lậu dứt hay không dứt của tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như vậy, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, khi tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, thì có thể hướng dẫn vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn, tất cả ác ma không thể hại được, các điều mong muốn ở thế gian đều được tùy ý. Tất cả chư Phật và các chúng Đại Bồ-tát trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương đều hộ niệm Bồ-tát như thế, làm cho không thối đọa vào địa vị của tất cả Thanh văn, Độc giác ... trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánhhằng hà sa số thế giới khắp mười phương đều ủng hộ Bồ-tát như thế. Các việc làm đều làm cho không bị chướng ngại, thân tâm khổ não, bệnh tật đều được tiêu trừ. Nếu có tội nghiệp ở đời vị lai phải chịu quả báo khổ thì chuyển cho đời hiện tại chịu nhẹ thôi. Vì sao? Vì Bồ-tát này có lòng từ bi ban khắp tất cả hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Nên biết Đại Bồ-tát như thế dùng chút gia hạnh liền có thể làm cho tất cả các môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa đều hiện ở trước, sanh ra ở đâu cũng thường được phụng sự chư Phật Thế Tôn cho đến chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, ở trong thời gian đó thường không xa Phật.

Này Xá-lợi Tử! Nên biết, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, khi tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, được vô lượng, vô số bất khả tư nghì công đức thù thắng như thế.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nghĩ: Có pháp tương ưng hoặc không tương ưng với pháp, bình đẳng hoặc không bình đẳng với pháp. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này không thấy có pháp tương ưng hoặc không tương ưng với pháp, bình đẳng hoặc không bình đẳng với pháp.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nghĩ: Đối với pháp giới, ta mau hiện chứng đẳng giác hoặc không mau hiện chứng đẳng giác. Vì sao? Vì không có chút pháp nào có thể đối với pháp giới hiện chứng đẳng giác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy chút pháp nào lìa pháp giới.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nghĩ: Pháp giới có thể làm nhân duyên cho các pháp.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nghĩ: Pháp này có thể chứng hoặc không thể chứng pháp giới. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này chút pháp còn không thấy huống là có pháp có thể chứng pháp giới hay không chứng.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thấy pháp giới tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với pháp giới.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đatương ưng với pháp như thế, nên nói tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với sắc; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng thấy nhãn xứ tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với nhãn xứ; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng thấy sắc xứ tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với sắc xứ; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng thấy nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Chẳng thấy nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới. Chẳng thấy tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới. Chẳng thấy thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới. Chẳng thấy thân giới, xúc giới, thân thức giới tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với thân giới, xúc giới, thân thức giới. Chẳng thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với ý giới, pháp giới, ý thức giới. Chẳng thấy Thánh đế khổ tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với Thánh đế khổ; chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với Thánh đế tập, diệt, đạo. Chẳng thấy vô minh tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với vô minh; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Chẳng thấy bốn niệm trụ tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với bốn niệm trụ; chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Chẳng thấy mười lực Phật tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với mười lực Phật; chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng tương ưng với không, cũng chẳng thấy không tương ưng với bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu có thể tương ưng như vậy thì là đệ nhất tương ưng với không. Các Đại Bồ-tát do tương ưng với không như vậy nên không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác mà làm nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, mau chứng Vô Thượng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, trong các loại tương ưng, tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối đệ nhất, tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, tối cao, tối cực, vô thượng, vô thượng thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa này tức là tương ưng với không, tương ưng với vô tướng, tương ưng với vô nguyện.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lúc tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế, nên biết là được thọ ký làm Phật, hoặc gần được thọ ký.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô số, vô biên chúng hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ: Ta tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Không nghĩ: Ta được thọ ký chắc chắn sẽ thành Phật, hoặc gần được thọ ký. Không nghĩ: Ta có thể nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Cũng Không nghĩ: Ta sẽ chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này không thấy có pháp xa lìa pháp giới, không thấy có pháp tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy có pháp được Phật thọ ký, không thấy có pháp sẽ chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, không thấy có pháp nghiêm tịnh cõi Phật, không thấy có pháp thành thục hữu tình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không sanh khởi tưởng về ngã, tưởng về hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, đồng tử, người làm, người sai làm, người khởi xướng, người sai khởi xướng, người nhận, người sai nhận, người biết, người thấy. Vì sao? Vì ngã, hữu tình v.v... rốt ráo, không sanh cũng không diệt. Chúng đã rốt ráo không sanh, không diệt thì làm sao có thể tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này vì không thấy hữu tình sanh nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vì không thấy hữu tình diệt nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đạt đến hữu tình không nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đạt đến hữu tình phi ngã nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đạt đến hữu tình bất khả đắc nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đạt đến hữu tình viễn ly nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Đạt đến bản tánh hữu tình chẳng phải tánh hữu tình nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, trong các loại tương ưng, tương ưng với không là đệ nhất. Tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tương ưng như thế có thể đạt đến mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy hoàn toàn không sanh tâm xan tham, không sanh tâm phạm giới, không sanh tâm giận dữ, không sanh tâm giải đãi, không sanh tâm tán loạn, không sanh tâm ác tuệ.

 

Quyển Thứ 403
HẾT

 

03

 

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa qua đời ở nơi nào mà sanh đến nơi đây? Sau khi qua đời ở nơi này sẽ sanh đến chỗ nào?

Phật bảo:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa có vị từ cõi Phật khác qua đời sanh đến nơi này, có vị từ trời Đổ-sử-đa qua đời sanh đến nơi này, có vị từ loài người qua đời sanh lại nơi này.

Này Xá-lợi Tử! Nếu từ cõi Phật khác qua đời sanh đến nơi này, thì Đại Bồ-tát đó mau tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Do tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên khi sanh đến, vị ấy chứng đắc pháp môn sâu xa vi diệu ngay trong hiện tại. Từ đó về sau, thường mau được tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sanh ra ở chỗ nào cũng thường gặp chư Phật cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, làm cho Bát-nhã Ba-la-mật-đa lần lần được tăng trưởng. Nếu từ trời Đổ-sử-đa sanh đến nơi này thì Đại Bồ-tát ấy liền đắc Nhất sanh sở hệ, đối với sáu Ba-la-mật-đa thường không quên mất, tất cả các môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa đều được tự tại. Nếu từ loài người qua đời sanh lại nơi này thì Đại Bồ-tát ấy, trừ hạng Bất thối chuyển, nếu căn tánh ám độn thì không thể mau tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tất cả các môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa đều chưa được tự tại.

Này Xá-lợi Tử! Theo lời ông hỏi: Đại Bồ-tát tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa từ nơi này qua đời sẽ sanh vào nơi nào? Đại Bồ-tát ấy từ nơi này qua đời sẽ sanh vào cõi Phật khác, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, sanh ở nơi nào cũng thường được gặp chư Phật, Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, cho đến chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát không có phương tiện thiện xảo, nên nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, cũng hành sáu Ba-la-mật-đa, Đại Bồ-tát ấy vì đắc tịnh lự nên sanh vào cõi trời Trường thọ, tuổi thọ hết sẽ sanh vào loài người, gặp chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Tuy hành sáu Ba-la-mật-đa nhưng căn tánh ám độn, không thể thông suốt được.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát nhập sơ thiền cho đến tứ thiền, cũng hành sáu Ba-la-mật-đa, Đại Bồ-tát này không có phương tiện thiện xảo, nên xả các tịnh lự sanh vào cõi Dục. Nên biết Đại Bồ-tát này, căn tánh cũng ám độn, không thể thông suốt được.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; nhập từ vô lượng, nhập bi, hỷ, xả vô lượng; nhập định Không vô biên xứ, định Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ; tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Đại Bồ-tát này có phương tiện thiện xảo, nên không theo sức mạnh của tịnh lự, vô lượng, vô sắc mà sanh; chỉ sanh vào thế giới nào có Phật, gặp được chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, thường tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nên biết Đại Bồ-tát ấy trong Hiền kiếp này quyết định được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát nhập sơ thiền cho đến tứ thiền; nhập từ vô lượng cho đến xả vô lượng; nhập định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Đại Bồ-tát này có phương tiện thiện xảo nên không theo sức mạnh của tịnh lự, vô lượng, vô sắc mà sanh, sanh lại cõi Dục, hoặc dòng họ Sát-đế-lợi, hoặc dòng họ Bà-la-môn, hoặc dòng họ Trưởng giả, hoặc dòng họ Cư sĩ, vì muốn thành thục các hữu tình chứ không tham nhiễm mà bị tái sanh.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát nhập sơ thiền cho đến tứ thiền; nhập từ vô lượng cho đến xả vô lượng; nhập định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Đại Bồ-tát này có phương tiện thiện xảo, nên không theo sức mạnh của tịnh lự, vô lượng, vô sắc mà sanh; hoặc sanh vào cõi trời Tứ đại vương, hoặc sanh vào cõi trời Ba mươi ba, hoặc sanh vào cõi trời Dạ-ma, hoặc sanh vào cõi trời Đổ-sử-đa, hoặc sanh vào cõi trời Lạc biến hóa, hoặc sanh vào cõi trời Tha hóa tự tại. Vì muốn thành thục các hữu tình, nghiêm tịnh các cõi Phật, nên thường gặp chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, không bỏ qua.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo nên nhập sơ thiền, ở nơi này qua đời sanh vào Phạm thế làm Đại phạm vương, oai đức thù thắng hơn gấp trăm ngàn các Phạm chúng khác. Từ cõi trời này, vị ấy đi đến các cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, trong đó nếu có Đại Bồ-tát nào chưa chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì vị ấy khuyên cho chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chưa chuyển pháp luân thì thỉnh chuyển pháp luân, vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có phương tiện thiện xảo, nên nhập sơ thiền cho đến tứ thiền; nhập từ vô lượng cho đến xả vô lượng; nhập định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện đều được tự tại hiện tiền, không theo sức mạnh của tịnh lự, vô lượng, vô sắc mà sanh. Đại Bồ-tát Nhất sanh sở hệ, hiện tiền phụng sự, thân cận, cúng dường các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong hiện tại, ở cõi Phật này siêng tu phạm hạnh, từ cõi này mất sanh vào cõi trời Đổ-sử-đa, trọn đời căn không thiếu sót, đủ niệm chánh tri, được vô lượng, vô số trăm ngàn Câu-chi (ức), Na-dữu-đa (ngàn ức) thiên chúng vây quanh theo hầu Đại Bồ-tát ấy an trụ thần thông, sanh vào loài người, chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, chuyển bánh xe diệu pháp, độ vô lượng chúng hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát đầy đủ sáu thần thông, không sanh cõi Dục, không sanh cõi Sắc, không sanh cõi Vô sắc, đi đến các cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi chư Phật, Thế Tôn, tu hạnh Bồ-tát, cho đến khi chứng đắc Vô Thượng Bồ-Đề.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát đủ sáu thần thông, biến hóa tự tại, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, trải qua các cõi Phật không có tên Thanh văn, Độc giác, chỉ có hành giả tu nhất thừa chơn tịnh. Đại Bồ-tát này ở các cõi Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi chư Phật Thế Tôn, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa dần dần tăng trưởng, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát đầy đủ sáu thần thông biến hóa tự tại, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác. Tuổi thọ hữu tình trong những cõi Phật đã đi qua không thể đếm được. Đại Bồ-tát này ở các cõi Phật cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi chư Phật Thế Tôn, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa dần dần tăng trưởng, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát đầy đủ sáu thần thông đến các thế giới, có các thế giới không có tên Tam bảo. Đại Bồ-tát này đến đó khen ngợi Phật, Pháp, Tăng bảo, làm cho các hữu tình phát sanh lòng tin thanh tịnh thâm sâu, do đó thường được lợi ích an vui. Đại Bồ-tát này sau khi qua đời ở đây, sanh vào thế giới có Phật, tu hạnh Bồ-tát cho đến lúc chứng quả Vô Thượng Bồ-Đề.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, từ khi mới phát tâm tinh tấn dũng mãnh chứng đắc sơ thiền cho đến tứ thiền; được từ vô lượng cho đến xả vô lượng; được định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; tu mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng. Đại Bồ-tát này không sanh cõi Dục, không sanh cõi Sắc, không sanh cõi Vô sắc, thường sanh vào nơi có thể làm lợi ích cho hữu tình, lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, trước đây đã tu tập sáu Ba-la-mật-đa, mới vừa phát tâm liền nhập Bồ-tát Chánh tánh ly sanh, cho đến chứng đắc địa vị Bất thối chuyển.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, trước đây đã tu tập sáu Ba-la-mật-đa, mới vừa phát tâm liền có thể nối tiếp chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, chuyển bánh xe Chánh pháp, hóa độ vô lượng chúng hữu tình, nhập vào cõi Vô dư y đại Niết-bàn, thuyết Chánh pháp sau khi Niết-bàn, hoặc trụ một kiếp, hoặc hơn một kiếp, làm lợi lạc cho vô biên các loại hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát trước đây đã tu tập sáu Ba-la-mật-đa, mới vừa phát tâm liền có thể tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Cùng với vô lượng, vô số trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa Đại Bồ-tát đi đến các cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa được bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, an trụ trong đó rồi nhập sơ thiền; từ sơ thiền xuất, nhập diệt tận định; từ diệt tận định xuất nhập nhị thiền; từ nhị thiền xuất nhập diệt tận định; từ diệt tận định xuất nhập tam thiền; từ tam thiền xuất nhập diệt tận định; từ diệt tận định xuất nhập tứ thiền; từ tứ thiền xuất nhập diệt tận định; từ diệt tận định xuất nhập Không vô biên xứ; từ Không vô biên xứ xuất nhập diệt tận định; từ diệt tận định xuất nhập Thức vô biên xứ; từ Thức vô biên xứ xuất nhập diệt tận định; từ diệt tận định xuất nhập Vô sở hữu xứ; từ Vô sở hữu xứ xuất nhập diệt tận định; từ diệt tận định xuất nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ; từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất nhập diệt tận định; từ diệt tận định xuất nhập sơ thiền.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo đối với các định thù thắng thuận nghịch qua lại, thứ lớp vượt qua an trụ tự tại.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, tuy đã được bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, đã tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, mà không chấp quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Độc giác, hoặc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại Bồ-tát này tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa vì có phương tiện thiện xảo, nên làm cho các hữu tình phát sanh bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, làm cho chứng đắc quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, hoặc làm cho các hữu tình tu mười lực Phật cho đến trí nhất thiết tướng, làm cho chứng đắc Vô Thượng Bồ-Đề.

Này Xá-lợi Tử! Các trí của quả Thanh văn, Độc giác này tức là nhẫn của Đại Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử! Nên biết Đại Bồ-tát này trụ địa vị Bất thối chuyển, tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mới có thể làm được việc này.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát an trụ sáu Ba-la-mật-đa, sanh vào cung trời Đổ-sử-đa. Nên biết Đại Bồ-tát ấy trong Hiền kiếp này quyết định sẽ làm Phật.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tuy đã được bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; đã được bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; đã tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, tâm hướng đến Bồ-đề thường không mỏi mệt, bỏ bê, nhưng đối với Thánh đế hiện chưa thông đạt.

Này Xá-lợi Tử! Nên biết đó là Đại Bồ-tát Nhất sanh sở hệ.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành sáu Ba-la-mật-đa, ở trong các thế giới, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, nghiêm tịnh cõi Phật, hướng dẫn chúng sanh vào Vô thượng giác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này, cần phải trải qua vô lượng, vô số đại kiếp, mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát an trụ sáu Ba-la-mật-đa, thường siêng năng tinh tấn làm lợi ích hữu tình, miệng thường không nói lời vô nghĩa, thân, ý không làm và nghĩ việc vô nghĩa.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành sáu Ba-la-mật-đa, thường siêng năng tinh tấn làm lợi ích cho chúng hữu tình, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, đoạn trừ ba đường ác cho các hữu tình.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, tuy an trụ đủ sáu Ba-la-mật-đa, nhưng thường lấy bố thí Ba-la-mật-đa làm đầu. Dõng mãnh tu tập các hạnh Bồ-tát, ban pháp cho chúng hữu tình tất cả mọi điều vui thích, thường không bê trễ, cần thức ăn cho thức ăn, cần nước uống cho nước uống, cần xe cho xe, cần y phục cho y phục v.v... tùy theo nhu cầu của họ, cung cấp đầy đủ các thứ cần dùng khác như: Hoa, hương, anh lạc, phòng, nhà, đồ nằm, giường, ghế, đèn sáng, lúc thóc, châu báu v.v...

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, tuy an trụ đủ sáu Ba-la-mật-đa, nhưng thường lấy tịnh giới Ba-la-mật-đa làm đầu, dõng mãnh tu tập các hạnh Bồ-tát, thân, ngữ, ý đủ các luật nghi thù thắng, khuyên bảo các hữu tình cũng tu tập luật nghi như thế, làm cho mau được viên mãn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, tuy an trụ đủ sáu Ba-la-mật-đa, nhưng thường lấy an nhẫn Ba-la-mật-đa làm đầu, dõng mãnh tu tập các hạnh Bồ-tát, xa lìa tất cả các tâm sân giận, khuyên bảo các hữu tình cũng tu tập an nhẫn như thế, làm cho mau được viên mãn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, tuy an trụ đủ sáu Ba-la-mật-đa, nhưng thường lấy tinh tấn làm đầu, dõng mãnh tu tập các hạnh Bồ-tát, tu hành đầy đủ tất cả thiện pháp, khuyên bảo các hữu tình cũng tu tập tinh tấn như thế, làm cho mau được viên mãn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, tuy an trụ đủ sáu Ba-la-mật-đa, nhưng thường lấy tịnh lự Ba-la-mật-đa làm đầu, dõng mãnh tu tập các hạnh Bồ-tát, tu tập đầy đủ tất cả các định thù thắng, khuyên bảo các hữu tình cũng tu tập các định thù thắng như thế, làm cho mau được viên mãn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, tuy an trụ đầy đủ sáu Ba-la-mật-đa, nhưng thường lấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm đầu, dõng mãnh tu tập các hạnh Bồ-tát, tu tập đầy đủ tất cả pháp quán, khuyên bảo các hữu tình tu tập thắng tuệ như thế, làm cho mau được viên mãn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hóa thân như Phật, vào trong các cõi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, hoặc cõi người, hoặc cõi trời, tùy theo mỗi loài dùng ngôn ngữ của loài ấy mà thuyết Chánh pháp cho chúng.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát an trụ sáu Ba-la-mật-đa, hóa thân như Phật, đến khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương, giảng thuyết Chánh pháp cho các hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; ở các cõi Phật lắng nghe Chánh pháp, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Xem khắp các cõi Phật tướng thanh tịnh vi diệu, tối thắng trong mười phương, liền tự mình phát sanh cõi Phật rất trang nghiêm, thanh tịnh. An trụ trong đó được các Đại Bồ-tát Nhất sanh sở hệ, giáo hóa làm cho mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành sáu Ba-la-mật-đa, thành tựu ba mươi hai tướng của bậc Đại sĩ, các căn nhạy bén thanh tịnh, đoan nghiêm, chúng sanh thấy đều kính mến, do đó hướng dẫn theo các căn theo ý muốn, làm cho dần dần chứng đắc Niết-bàn ba thừa.

Như vậy, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học thân, ngữ, ý nghiệp thanh tịnh.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành sáu Ba-la-mật-đa, tuy được các căn nhạy bén nhưng không trọng mình khinh người.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm thường trụ thí, giới Ba-la-mật-đa, cho đến khi chưa được địa vị Bất thối, trong tất cả thời thường không đọa vào đường ác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát, từ lúc mới phát tâm cho đến khi chưa được địa vị Bất thối, thường không xả bỏ mười nghiệp đạo thiện.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát an trụ thí, giới Ba-la-mật-đa, làm Chuyển luân vương, thành tựu bảy báu, dùng pháp giáo hóa, không dùng phi pháp, hướng dẫn chúng sanh tu mười nghiệp thiện, cũng đem của báu cứu giúp người nghèo.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát an trụ thí, giới Ba-la-mật-đa, vô lượng trăm nghìn đời làm Chuyển luân thánh vương, thường gặp vô lượng trăm nghìn chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, xả thí nội ngoại đều không lấy làm khó.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát an trụ sáu pháp Ba-la-mật-đa, thường làm pháp chiếu sáng cho các hữu tình si mê, tà kiến, cũng đem pháp này tự chiếu sáng mình, cho đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Pháp chiếu sáng này không bao giờ lìa bỏ. Do đó, Đại Bồ-tát này đối với các pháp Phật thường được hiện bày.

Vì vậy, này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với ba nghiệp tội của thân, ngữ, ý không cho phát sanh dù chỉ chốc lát.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Đại Bồ-tát có nghiệp tội về thân, ngữ, ý?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu Đại Bồ-tát suy nghĩ: Đây là thân ta, do đó phát sanh thân nghiệp. Đây là lời nói của ta, do đó phát sanh ngữ nghiệp. Đây là ý của ta, do đó phát sanh ý nghiệp.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát có nghiệp tội về thân, ngữ, ý.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì không được thấy có thân và thân nghiệp, không được thấy có ngữ và ngữ nghiệp, không được thấy có ý và ý nghiệp.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mà còn chấp trước thân, ngữ, ý và thân, ngữ, ý nghiệp, liền sanh tâm xan tham, tâm phạm giới, tâm giận dữ, tâm biếng nhác, tâm tán loạn, tâm ác tuệ. Nếu phát sanh các tâm này thì không gọi là Đại Bồ-tát. Vì thế, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mà sanh ý nghĩ này thì không đúng.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa có thể làm thanh tịnh ba nghiệp nặng hoặc nhẹ về thân, ngữ, ý.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao Đại Bồ-tát có thể làm thanh tịnh ba nghiệp nặng hoặc nhẹ về thân, ngữ, ý?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không chấp thân và tội nặng nhẹ của thân; không chấp lời nói và tội nặng nhẹ của lời nói; không chấp ý và tội nặng nhẹ của ý.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể làm thanh tịnh ba nghiệp nặng hoặc nhẹ về thân, ngữ, ý.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm thường giữ trọn vẹn mười nghiệp thiện, không sanh tâm Thanh vănĐộc giác, đối với chúng sanh thường phát tâm đại bi.

Này Xá-lợi Tử! Ta nói Đại Bồ-tát này cũng có thể làm thanh tịnh ba nghiệp nặng hoặc nhẹ về thân, ngữ, ý.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, làm thanh tịnh đạo Bồ-đề.

Khi ấy, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không chấp tất cả các nghiệp nặng nhẹ về thân, ngữ, ý; không chấp bố thí Ba-la-mật-đa, không chấp tịnh giới Ba-la-mật-đa, không chấp an nhẫn Ba-la-mật-đa, không chấp tinh tấn Ba-la-mật-đa, không chấp tịnh lự Ba-la-mật-đa, không chấp Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không chấp Thanh văn thừa, không chấp Độc giác thừa, không chấp Bồ-tát Chánh đẳng giác thừa.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là đạo Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì đạo Bồ-đề đối với tất cả pháp đều không chấp trước.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa hướng đến đạo Bồ-đề không ai có thể ngăn được.

Khi ấy, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do đâu mà Đại Bồ-tát tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa hướng đến đạo Bồ-đề, không ai có thể ngăn được?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, không chấp trước sắc uẩn, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức uẩn; không chấp trước nhãn xứ, không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không chấp trước sắc xứ, không chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không chấp trước nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; không chấp trước nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới; không chấp trước tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; không chấp trước thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; không chấp trước thân giới, xúc giới, thân thức giới; không chấp trước ý giới, pháp giới, ý thức giới; không chấp trước Thánh đế khổ, không chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo; không chấp trước vô minh, không chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; không chấp trước bốn niệm trụ, không chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; không chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, không chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; không chấp trước mười lực của Phật, không chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; không chấp trước trí nhất thiết, không chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; không chấp trước quả Dự lưu, không chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; không chấp trước quả vị Độc giác; không chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát; không chấp trước chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này, Đại Bồ-tát tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa càng tăng trưởng lòng hướng đến đạo Bồ-đề, không ai có thể ngăn cản được.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, mau có thể viên mãn trí nhất thiết trí, thành thắng trí nên thường không bị đọa trong các đường hiểm ác, không thọ thân trời, người hạ tiện, vĩnh viễn không nghèo khổ; thọ thân hình dung mạo xinh đẹp, đầy đủ các căn, được trời, người, A-tố-lạc kính mến.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là thành thắng trí của Đại Bồ-tát ?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát do thành tựu trí này, thấy hết tất cả Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương, nghe hết Chánh pháp do chư Phật kia thuyết, thấy hết tất cả đại chúng Thanh văn, Bồ-tát trong hội đó, cũng thấy tướng trang nghiêm của quốc độ ấy. Chư Đại Bồ-tát do thành tựu trí này không sanh tưởng thế giới, không sanh tưởng Phật, không sanh tưởng Pháp, không sanh tưởng Thanh văn Tăng, không sanh tưởng Bồ-tát Tăng, không sanh tưởng Độc giác, không sanh tưởng ngã, không sanh tưởng phi ngã, không sanh tưởng cõi Phật trang nghiêm. Các Đại Bồ-tát do thành tựu trí này, tuy thực hành bố thí Ba-la-mật-đa nhưng không chấp bố thí Ba-la-mật-đa, tuy thực hành tịnh giới Ba-la-mật-đa nhưng không chấp tịnh giới Ba-la-mật-đa, tuy thực hành an nhẫn Ba-la-mật-đa nhưng không chấp an nhẫn Ba-la-mật-đa, tuy thực hành tinh tấn Ba-la-mật-đa nhưng không chấp tinh tấn Ba-la-mật-đa, tuy thực hành tịnh lự Ba-la-mật-đa nhưng không chấp tịnh lự Ba-la-mật-đa, tuy thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhưng không chấp Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Tuy thực hành bốn niệm trụ nhưng không chấp bốn niệm trụ, cho đến tuy thực hành tám chi thánh đạo nhưng không chấp tám chi thánh đạo. Tuy thực hành mười lực của Phật nhưng không chấp mười lực của Phật, cho đến tuy thực hành trí nhất thiết tướng nhưng không chấp trí nhất thiết tướng.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là thành thắng trí của Đại Bồ-tát. Do thành tựu trí này, các Đại Bồ-tát mau được viên mãn tất cả pháp Phật. Tuy biết tất cả pháp nhưng không được tất cả pháp, vì tự tánh là không.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể làm thanh tịnh năm loại mắt: Nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn.

Khi ấy, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là nhục nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được một trăm Du-thiện-na. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được hai trăm Du-thiện-na. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được ba trăm Du-thiện-na. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được bốn trăm, năm trăm, sáu trăm cho đến ngàn Du-thiện-na. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được một cõi châu Thiệm bộ. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được hai đại châu. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được ba đại châu. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được bốn đại châu. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được Tiểu thiên thế giới. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được Trung thiên thế giới. Có Đại Bồ-tát với nhục nhãn thấy được ba ngàn đại thiên thế giới.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là nhục nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là thiên nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đại Bồ-tát với thiên nhãn thấy được như thiên nhãn của tất cả trời Tứ đại vương thấy được; thấy được như thiên nhãn của tất cả trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại; thấy được như thiên nhãn của tất cả trời Phạm chúng; cho đến thấy được như thiên nhãn của tất cả trời Sắc cứu cánh.

Này Xá-lợi Tử! Có Đại Bồ-tát với thiên nhãn thấy được sự việc mà thiên nhãn của tất cả trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh không thể thấy được.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát với thiên nhãn có thể thấy được hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương chết đây sanh kia.

Này Xá-lợi Tử! Đó là thiên nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tuệ nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Đại Bồ-tát với tuệ nhãn không thấy có pháp hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc có tội, hoặc không có tội, hoặc ô nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc có sắc hoặc không sắc, hoặc có đối, hoặc không đối, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc bị ràng buộcDục giới, hoặc bị ràng buộcSắc giới, hoặc bị ràng buộcVô sắc giới, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký, hoặc kiến sở đoạn, hoặc tu sở đoạn, hoặc phi sở đoạn, hoặc học, hoặc vô học, hoặc chẳng phải học, chẳng phải vô học, cho đến nhất thiết pháp hoặc tự tánh, hoặc sai biệt.

Này Xá-lợi Tử! Tuệ nhãn của Đại Bồ-tát này không thấy có pháp nào có thể thấy, có thể nghe, có thể hiểu, có thể biết.

Này Xá-lợi Tử! Đó là tuệ nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Pháp nhãn của Đại Bồ-tát có thể biết như thật các loại Bổ-đặc-già-la sai khác, đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành, đây là vô tướng hành, đây là trụ không, đây là trụ vô tướng, đây là trụ vô nguyện. Đây do pháp môn giải thoát không, phát sanh năm căn; do năm căn phát sanh định vô gián; do định vô gián phát sanh giải thoát tri kiến; do có giải thoát tri kiến mới vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết sử (Thân kiến, giới cấm thủ, nghi). Do vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết sử này nên được quả Dự lưu. Do tu đạo giảm bớt dục tham, sân giận nên được quả Nhất lai. Lại do tu đạo thượng phẩm, đoạn hẳn dục tham, sân giận nên đắc quả Bất hoàn. Lại do tu đạo tăng thượng phẩm, đoạn hẳn năm thượng phần kiết sử (sắc tham, vô sắc tham, vô minh, mạn, trạo cử). Do đoạn hẳn năm thượng phần kiết sử này nên đắc quả A-la-hán. Đây do pháp môn giải thoát vô tướng nên phát sanh năm căn. Do năm căn phát sanh định vô gián, cho đến đoạn hẳn năm thượng phần kiết sử, đắc quả A-la-hán. Đây do pháp môn giải thoát vô nguyện phát sanh năm căn. Do năm căn phát sanh định vô gián cho đến đoạn hẳn năm thượng phần kiết sử, đắc quả A-la-hán. Do hai, do ba cũng vậy.

Này Xá-lợi Tử! Đó là pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Pháp nhãn của Đại Bồ-tát có thể biết như thật những pháp tập khởi đều là pháp diệt. Do biết như vậy nên được năm loại mắt.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Pháp nhãn của Đại Bồ-tát có thể biết như thật Đại Bồ-tát này ban đầu phát tâm tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thành tựu tín căn, tinh tấn căn, phương tiện thiện xảo nên được ý thọ thân, tăng trưởng thiện pháp, Đại Bồ-tát này thường sanh trong những dòng họ lớn như sanh vào dòng họ Sát-đế-lợi, hoặc sanh vào dòng họ Bà-la-môn, hoặc sanh vào dòng họ Trưởng giả, hoặc sanh vào dòng họ Cư sĩ, hoặc sanh lên trời Tứ đại vương, cho đến sanh lên trời Tha hóa tự tại, trụ ở nơi đó giáo hóa hữu tình, tùy theo sự ưa thích của chúng hữu tình mà cung cấp đầy đủ các loại tốt đẹp, làm nghiêm tịnh cõi Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cho đến đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trọn không thối chuyển.

Này Xá-lợi Tử! Đó là pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Pháp nhãn của Đại Bồ-tát có thể biết như thật Đại Bồ-tát này đã được thọ ký quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Đại Bồ-tát này chưa được thọ ký quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; Đại Bồ-tát này đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được Bất thối, Đại Bồ-tát này đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chưa được Bất thối; Đại Bồ-tát này đã đạt đến địa vị Bất thối chuyển, Đại Bồ-tát này chưa đạt đến địa vị Bất thối chuyển; Đại Bồ-tát này đã viên mãn thần thông, Đại Bồ-tát này chưa viên mãn thần thông; Đại Bồ-tát này đã viên mãn thần thông nên có thể đến hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn; Đại Bồ-tát này chưa viên mãn thần thông nên không thể đến hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn; Đại Bồ-tát này đã được thần thông, Đại Bồ-tát này chưa được thần thông; Đại Bồ-tát này đã được Vô sanh pháp nhẫn, Đại Bồ-tát này chưa được Vô sanh pháp nhẫn; Đại Bồ-tát này đã được căn thù thắng, Đại Bồ-tát này chưa được căn thù thắng; Đại Bồ-tát này đã làm nghiêm tịnh cõi Phật, Đại Bồ-tát này chưa làm nghiêm tịnh cõi Phật; Đại Bồ-tát này đã giáo hóa chúng sanh, Đại Bồ-tát này chưa giáo hóa chúng sanh; Đại Bồ-tát này đã được đại nguyện, Đại Bồ-tát này chưa được đại nguyện; Đại Bồ-tát này đã được chư Phật ngợi khen, Đại Bồ-tát này chưa được chư Phật ngợi khen; Đại Bồ-tát này đã thân cận chư Phật, Đại Bồ-tát này chưa thân cận chư Phật; Đại Bồ-tát này tuổi thọ vô lượng, Đại Bồ-tát này tuổi thọ có hạn lượng; Đại Bồ-tát này khi đắc Bồ-đề có Bí-sô Tăng vô lượng, Đại Bồ-tát này khi đắc Bồ-đề có Bí-sô Tăng có lượng; Đại Bồ-tát này khi đắc Bồ-đề có Bồ-tát Tăng, Đại Bồ-tát này khi đắc Bồ-đề không có Bồ-tát Tăng; Đại Bồ-tát này chuyên tu hạnh lợi tha, Đại Bồ-tát này tu cả hạnh tự lợi; Đại Bồ-tát này có thực hành hạnh khổ khó làm, Đại Bồ-tát này không thực hành hạnh khổ khó làm; Đại Bồ-tát này là Nhất sanh sở hệ, Đại Bồ-tát này là Đa sanh sở hệ; Đại Bồ-tát đã trụ thân cuối cùng, Đại Bồ-tát này chưa trụ thân cuối cùng; Đại Bồ-tát này đã ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, Đại Bồ-tát này chưa ngồi tòa Bồ-đề vi diệu; Đại Bồ-tát này có ma đến thử, Đại Bồ-tát này không có ma đến thử.

Này Xá-lợi Tử! Đó là pháp nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Lúc bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Phật nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Đại Bồ-tát với tâm Bồ-đề không gián đoạn, nhập định Kim cương dụ, được trí nhất thiết tướng, thành tựu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Phật nhãn giải thoát, không chướng không ngại. Do Phật nhãn này Đại Bồ-tát vượt lên trên tất cả cảnh giới trí tuệ của Thanh văn, Độc giác, không có gì không thấy, không có gì không nghe, không có gì không hiểu, không có gì không biết. Thấy hết thảy tướng của tất cả pháp.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là Phật nhãn thanh tịnh của Đại Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát khi chứng Vô Thượng Bồ-đề mới được Phật nhãn thanh tịnh như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát muốn được ngũ nhãn thanh tịnh như vậy nên siêng tu tập sáu Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì sáu Ba-la-mật-đa này thâu nhiếp tất cả thiện pháp, nghĩa là tất cả thiện pháp của Thanh văn, thiện pháp của Độc giác, thiện pháp của Bồ-tát, thiện pháp của Như lai.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có ai hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đem sự thật mà nói, pháp nào có thể bao trùm tất cả thiện pháp?

Phật đáp ngay: Đó là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa này là mẹ của tất cả thiện pháp, hay sanh các công đức của năm Ba-la-mật-đa và năm loại mắt.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát muốn ngũ nhãn thanh tịnh nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn được quả Vô Thượng Bồ-Đề nên học ngũ nhãn thanh tịnh như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát hay học ngũ nhãn thanh tịnh như vậy thì quyết định đắc quả Vô Thượng Bồ-Đề.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể phát sanh sáu thần thông Ba-la-mật-đa: Trí chứng biết thần túc thông, trí chứng biết thiên nhĩ thông, trí chứng biết tha tâm thông, trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ, trí chứng biết thiên nhãn thông, trí chứng biết lậu tận thông Ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát sanh trí chứng biết thần túc thông?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Có Đại Bồ-tát với trí chứng thần túc thông có thể phát sanh các loại thần thông biến hóa: Làm chấn động các vật đại địa trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương; biến một thành nhiều, biến nhiều thành một; hoặc ẩn hoặc hiện, mau chóng không ngại; núi non, tường vách đi qua như khoảng không; qua lại trên hư không như chim bay; ra vào trong đất như ra vào nước; đi trên nước như đi trên đất; thân bốc ra khói lửa như đám cháy trên cao nguyên; thân thể chảy ra các dòng nước như núi tuyết tan. Oai đức, thần lực của mặt trời, mặt trăng khó sánh nổi, đưa tay sờ mặt trăng và che ánh sáng của nó, cho đến chuyển thân đến trời Tịnh cư một cách tự tại với vô biên, vô số thần thông biến hóa như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy có năng lực trí dụng thần túc thông như vậy nhưng đối với điều đó không tự cao, không chấp vào tánh trí chứng thần túc thông, không chấp vào sự trí chứng thần túc thông, không chấp vào việc có thể được trí chứng thần túc thông như vậy, đối với việc chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ như vầy: Ta sẽ làm cho trí thần túc thông phát sanh để tự vui chơi, chỉ trừ để chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng thần túc thông.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa phát sanh trí chứng thiên nhĩ thông?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Có Đại Bồ-tát với trí chứng thiên nhĩ thông tối thắng, thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe như thật các loại âm thanh của hữu tình, vô tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương; nghĩa là nghe hết tất cả tiếng địa ngục, tiếng bàng sanh, tiếng quỷ giới, tiếng người, tiếng trời, tiếng Thanh văn, tiếng Độc giác, tiếng Bồ-tát, tiếng chư Phật, tiếng quở chê sanh tử, tiếng ngợi khen Niết-bàn, tiếng trái bỏ hữu vi, tiếng hướng đến Bồ-đề, tiếng nhàm ghét hữu lậu, tiếng vui thích vô lậu, tiếng khen ngợi Tam bảo, tiếng nhiếp phục tà đạo, tiếng luận nghị quyết trạch, tiếng đọc tụng kinh điển, tiếng khuyên bỏ pháp ác, tiếng khuyên tu pháp thiện, tiếng cứu giúp nạn khổ, tiếng mừng rỡ vui vẻ v.v... các tiếng như vậy hoặc lớn hoặc nhỏ Bồ-tát đều nghe hết, không chướng không ngại.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy có năng lực thiên nhĩ như vậy, nhưng không tự cao về điều đó, không chấp vào tánh trí chứng thiên nhĩ thông, không chấp vào sự trí chứng thiên nhĩ thông, không chấp vào việc có thể chứng thiên nhĩ thông như vậy. Đối với sự chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ như vầy: Ta sẽ làm cho trí thiên nhĩ thông phát sanh để tự vui chơi, chỉ trừ để đắc trí nhất thiết trí.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát sanh trí chứng thiên nhĩ thông.

Khi ấy, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phát sanh trí chứng tha tâm thông?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Có Đại Bồ-tát với trí chứng tha tâm thông có thể biết như thật pháp tâm, tâm sở của các loại hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương: Biết hết các loại hữu tình nếu có tâm tham, biết như thật có tâm tham; nếu lìa tâm tham, biết như thật lìa tâm tham; nếu có tâm sân, biết như thật có tâm sân; nếu lìa tâm sân, biết như thật lìa tâm sân; nếu có tâm si, biết như thật có tâm si; nếu lìa tâm si, biết như thật lìa tâm si; nếu có tâm ái, biết như thật có tâm ái; nếu lìa tâm ái, biết như thật lìa tâm ái; nếu có tâm chấp thủ, biết như thật có tâm chấp thủ; nếu lìa tâm chấp thủ, biết như thật lìa tâm chấp thủ; nếu tâm tập trung, biết như thật tâm tập trung; nếu tâm tán loạn, biết như thật tâm tán loạn; nếu tâm nhỏ hẹp, biết như thật tâm nhỏ hẹp; nếu tâm rộng lớn, biết như thật tâm rộng lớn; nếu tâm cao cử, biết như thật tâm cao cử; nếu tâm thấp hèn, biết như thật tâm thấp hèn; nếu tâm vắng lặng, biết như thật tâm vắng lặng; nếu tâm không vắng lặng, biết như thật tâm không vắng lặng; nếu tâm trạo cử, biết như thật tâm trạo cử; nếu tâm không trạo cử, biết như thật tâm không trạo cử; nếu tâm định, biết như thật tâm định; nếu tâm không định, biết như thật tâm không định; nếu tâm giải thoát, biết như thật tâm giải thoát; nếu tâm không giải thoát, biết như thật tâm không giải thoát; nếu tâm hữu lậu, biết như thật tâm hữu lậu; nếu tâm vô lậu, biết như thật tâm vô lậu; nếu tâm có lỗ hổng, biết như thật tâm có lỗ hổng; nếu tâm không có lỗ hổng, biết như thật tâm không có lỗ hổng; nếu tâm hữu thượng, biết như thật tâm hữu thượng; nếu tâm vô thượng, biết như thật tâm vô thượng.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này có năng lực trí tha tâm như vậy, nhưng không tự cao về điều đó, không chấp vào tánh trí chứng tha tâm thông, không chấp vào sự trí chứng tha tâm thông; không chấp vào việc có thể được trí chứng tha tâm thông như vậy. Đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này nghĩ như vầy: Ta sẽ làm cho trí tha tâm thông phát sanh để tự vui chơi, chỉ trừ để chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa phát sanh trí chứng tha tâm thông.

 

Quyển Thứ 404
HẾT

 

04

 

Bấy giờ, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa phát sanh trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Có Đại Bồ-tát với trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ, có thể nhớ như thật các việc đời trước của tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, nghĩa là nhớ nghĩ các việc đời trước, hoặc của mình, hoặc của người trong một tâm, mười tâm, trăm tâm, ngàn tâm, nhiều trăm ngàn tâm. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc đời trước trong một ngày, mười ngày, trăm ngày, ngàn ngày, nhiều trăm ngàn ngày. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc đời trước trong một tháng, mười tháng, trăm tháng, ngàn tháng, nhiều trăm ngàn tháng. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc đời trước trong một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc đời trước trong một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, nhiều trăm ngàn kiếp, cho đến vô lượng, vô số trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa kiếp. Hoặc lại nhớ nghĩ các việc trước kia trong quá khứ, thời như vậy, xứ như vậy, tên như vậy, họ như vậy, loại như vậy, ăn như vậy, trụ lâu như vậy, tuổi thọ có hạn như vậy, tuổi thọ lâu dài như vậy, thọ vui như vậy, thọ khổ như vậy. Từ chỗ đó qua đời sanh đến nơi này, từ nơi này qua đời sanh đến chỗ kia, tướng mạo như vậy, lời nói như vậy. Các việc hoặc tóm lược, hoặc nói rộng, hoặc của mình hoặc của người đều có thể nhớ nghĩ.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy có năng lực trí biết các việc đời trước như vậy, nhưng đối với điều đó không tự cao, không chấp trước tánh trí chứng biết các việc đời trước tùy theo ý nghĩ, không chấp trước sự trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ, không chấp trước sự việc có thể được trí chứng biết các việc đời trước tùy theo ý nghĩ, đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ: Nay ta sẽ làm phát sanh trí biết các việc đời trước tùy theo ý nghĩ để tự vui chơi, chỉ trừ để chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng biết việc đời trước tùy theo ý nghĩ.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng thiên nhãn thông?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Có Đại Bồ-tát với trí chứng thiên nhãn thông tối thắng, thanh tịnh siêu nhân, có thể thấy như thật các loại hình sắc của hữu tình, vô tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, nghĩa là thấy khắp các loại hình sắc của các hữu tình khi sanh khi tử, sắc đẹp, sắc xấu, cõi lành, cõi ác, hoặc thù thắng, hoặc hạ liệt. Do đó lại biết các loại hữu tình tùy theo tác dụng nghiệp lực mà thọ sanh sai khác. Hữu tình như vậy thành tựu thân ác hạnh, thành tựu ngữ ác hạnh, thành tựu ý ác hạnh.

Do tà kiến hủy báng Hiền Thánh, khi thân hoại qua đời, sẽ đọa vào đường ác, hoặc vào địa ngục, hoặc sanh vào bàng sanh, hoặc sanh trong loài quỷ, hoặc sanh nơi biên địa hạ tiện, trong loài hữu tình ác nghịch, chịu các khổ não. Các hữu tình như vậy thành tựu thân diệu hạnh, thành tựu ngữ diệu hạnh, thành tựu ý diệu hạnh.

Do chánh kiến ngợi khen Hiền Thánh, khi thân hoại, qua đời sẽ sanh lên cõi thiện, hoặc sanh lên cõi trời, hoặc sanh trong loài người, hưởng các điều vui. Các nghiệp loại thọ quả sai khác của hữu tình như thế, Bồ-tát đều biết như thật.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy có năng lực thiên nhãn như vậy, nhưng đối với điều đó không tự cao, không chấp trước tánh trí chứng thiên nhãn thông, không chấp trước sự trí chứng thiên nhãn thông, không chấp trước việc có thể được trí chứng thiên nhãn thông như vậy, đối với chấp hay không chấp trước đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ: Nay ta sẽ làm phát sanh trí thiên nhãn thông để tự vui chơi, chỉ trừ để chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Xá-lợi Tử! Đó là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng thiên nhãn thông.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng lậu tận thông?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Có Đại Bồ-tát với trí chứng lậu tận thông, có thể biết như thật tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương, hoặc mình hoặc người các lậu hết hay chưa hết. Thần thông này nương vào định Kim cương dụ, đoạn trừ các chướng tập khí mới được viên mãn. Khi được địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển cũng gọi là dứt hết tất cả lậu hoặc, vì rốt ráo không phát sanh nữa. Bồ-tát tuy được lậu tận thông này, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, chỉ hướng đến Vô Thượng Bồ-đề, không còn mong cầu lợi ích nào khác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này tuy có năng lực trí lậu tận như vậy nhưng đối với điều đó không tự cao, không chấp trước tánh trí chứng lậu tận thông, không chấp trước sự trí chứng lậu tận thông, không chấp trước việc có thể được trí chứng lậu tận thông như vậy, đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì tự tánh là không, tự tánh là xả ly, tự tánh xưa nay bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này không nghĩ: Nay ta sẽ làm phát sanh trí lậu tận thông để tự vui chơi, chỉ trừ để chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Xá-lợi Tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm phát sanh trí chứng lậu tận thông.

Này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể làm viên mãn sáu phép thần thông Ba-la-mật-đa. Do sáu phép thần thông Ba-la-mật-đa viên mãn thanh tịnh nên chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng, do rốt ráo không nên không sanh tâm giữ giới hay phạm giới.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm siêng năng hay biếng nhác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lại trụ vào Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, an nhẫn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, từ bi hay giận dữ.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, siêng năng hay lười biếng.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, an nhẫn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, siêng năng hay biếng nhác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tinh tấn, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm siêng năng hay biếng nhác, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, chẳng khở tâm trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không sanh tâm xả thí hay bỏn sẻn, trì giới hay phạm giới, từ bi hay giận dữ, siêng năng hay biếng nhác, tịch tịnh hay tán loạn, trí tuệ hay ngu si.

Như vậy, này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, an trụ sáu loại Ba-la-mật-đa, làm nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng. Do rốt ráo không, nên không xả thí hay bỏn sẻn, không trì giới hay phạm giới, không từ bi hay giận dữ, không siêng năng hay biếng nhác, không tịch tịnh hay tán loạn, không trí tuệ hay ngu si; không chấp trước xả thí, không chấp trước bỏn sẻn; không chấp trước trì giới, không chấp trước phạm giới; không chấp trước từ bi, không chấp trước giận dữ; không chấp trước siêng năng, không chấp trước biếng nhác; không chấp trước tịch tịnh, không chấp trước tán loạn; không chấp trước trí tuệ, không chấp trước ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó, không chấp trước người xả thí hay bỏn sẻn, không chấp trước người trì giới hay phạm giới, không chấp trước người từ bi hay giận dữ, không chấp trước người siêng năng hay biếng nhác, không chấp trước người tịch tịnh hay tán loạn, không chấp trước người trí tuệ hay ngu si.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì nhất thiết pháp rốt ráo là không.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó, không chấp trước chửi mắng, không chấp trước khen ngợi, không chấp trước tổn hại, không chấp trước lợi ích, không chấp trước khinh mạn, không chấp trước cung kính. Vì sao? Vì trong rốt ráo không, không có pháp chửi mắng hay khen ngợi, không có pháp tổn hại hay lợi ích, không có pháp khinh mạn hay cung kính.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó không chấp trước người hủy báng hay khen ngợi, không chấp trước người làm tổn hại hay lợi ích, không chấp trước người khinh mạn hay cung kính. Vì sao? Vì trong rốt ráo không, không có người chửi mắng khen ngợi, không có người làm tổn hại hay lợi ích, không có người khinh mạn hay cung kính.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ngay lúc đó đối với chấp hay không chấp đều không chấp trước. Vì sao? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa rất sâu xa, vĩnh viễn đoạn tuyệt tất cả chấp trước, không chấp trước.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, được công đức tối thượng, tối diệu mà tất cả Thanh vănĐộc giác đều không có được.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này đã viên mãn công đức như vậy rồi, lại có thể dùng bốn nhiếp sự để giáo hóa tất cả hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, mới được nghiêm tịnh đạo trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng, mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, sanh tâm bình đẳng với tất cả hữu tình. Sanh tâm bình đẳng rồi, đối với tất cả hữu tình phát tâm làm lợi ích an lạc. Phát tâm làm lợi ích an lạc rồi, đối với tất cả pháp tánh đều được bình đẳng. Bình đẳng đối với pháp tánh rồi, đưa tất cả hữu tình vào trong tất cả pháp tánh bình đẳng.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này ở trong pháp hiện tại được mười phương chư Phật hộ niệm, cũng được tất cả đại Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác kính mến.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này sanh ở chỗ nào, mắt hoàn toàn không thấy sắc gì mà không vừa ý, tai hoàn toàn không nghe âm thanh nào mà không vừa ý, mũi hoàn toàn không ngửi mùi gì mà không vừa ý, lưỡi hoàn toàn không nếm vị gì mà không vừa ý, thân hoàn toàn không có xúc chạm nào mà không vừa ý, ý hoàn toàn không giữ lấy pháp nào mà không vừa ý.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này đối với quả Vô Thượng Bồ-đề vĩnh viễn không thối chuyển. Chính khi Phật nói, chư Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa này được lợi ích thù thắng, trong chúng có ba trăm Bí-sô rời khỏi chỗ ngồi, đem y của mình dâng lên cúng Phật, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ, Thế Tôn mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ánh sáng đủ màu sắc. Tôn giả A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải chấm đất, chấp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Ngài mỉm cười? Bậc đại Thánh mỉm cười ắt phải có nhân duyên. Xin Ngài dủ lòng thương mà nói cho.

Phật bảo A-nan:

- Ba trăm Bí-sô rời khỏi chỗ ngồi kia, từ đây về sau - sáu mươi mốt kiếp - trong kiếp Tinh Dụ sẽ thành Phật, đều đồng một hiệu là Đại Tràng Tướng Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm. Các Bí-sô đó sau khi xả thân này, sẽ sanh vào cõi Phật Bất Động ở phương Đông, ở cõi Phật đó tu hạnh Bồ-tát.

Lại có sáu vạn Thiên tử nghe lời Phật thuyết đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thế Tôn thọ ký cho các vị ấy sẽ ở trong pháp hội của Di-lặc Như Lai, tịnh tín xuất gia, chuyên tu phạm hạnh. Đức Di-lặc Như Lai thọ ký cho họ sẽ được Vô Thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, tất cả chúng hội ở đây nhờ thần lực của Phật thấy được ngàn cõi Phật và các Thế Tôn trong mười phương chúng hội và các cõi Phật đó thanh tịnh trang nghiêm, vi diệu, thù thắng. Ngay lúc đó tướng nghiêm tịnh của thế giới cõi Kham Nhẫn này không cõi nào có thể sánh kịp.

Khi ấy, một vạn hữu tình chúng hội này đều phát nguyện: Con đem công đức tu tập các nghiệp thanh tịnh, nguyện vãng sanh vào các cõi Phật kia.

Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm nguyện ấy, nên mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra nhiều tia sáng có màu sắc.

Tôn giả A-nan lại rời khỏi chỗ ngồi, cung kính thưa hỏi Phật nhân duyên Ngài mỉm cười.

Phật bảo A-nan:

- Nay ông có thấy vạn hữu tình này không?

A-nan thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thấy!

Phật dạy:

- Này A-nan! Vạn hữu tình này sau khi ở cõi này qua đời, tùy theo nguyện lực của mình đều được vãng sanh vào vạn cõi Phật, cho đến khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sanh ra ở đâu cũng thường không xa Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi, tu tập sáu pháp Ba-la-mật-đa đã được viên mãn, đồng thời thành Phật chung một hiệu là Trang Nghiêm Vương Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm.
IV. PHẨM VÔ ĐẲNG ĐẲNG

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi Tử, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Thiện Hiện, Tôn giả đại Ẩm Quang, Tôn giả Mãn Từ Tử là những vị mà mọi người đều biết, các đại Bí-sô, Bí-sô ni, Đại Bồ-tát, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca đều rời khỏi chỗ ngồi, cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Quảng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đệ nhất Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Tôn Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Thắng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Thượng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Diệu Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cao Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cực Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô thượng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô thượng thượng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô đẳng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô đẳng đẳng Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Như hư không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô đối đãi Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Tự tướng không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Cộng tướng không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Nhất thiết pháp không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bất khả đắc không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô sanh không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô diệt không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô tánh không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Hữu tánh không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Vô tánh hữu tánh không Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Xa-ma-tha Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Đàm-ma-tha Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Khai phát tất cả công đức Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Thành tựu tất cả công đức Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Không thể khuất phục Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Hay phá trừ tất cả Ba-la-mật-đa là Đại Bồ-tát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể thực hành thí vô đẳng đẳng, có thể viên mãn thí vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ bố thí Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể thọ trì giới vô đẳng đẳng, có thể viên mãn giới vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tịnh giới Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể tu nhẫn vô đẳng đẳng, có thể viên mãn nhẫn vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ an nhẫn Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể phát sanh siêng năng vô đẳng đẳng, có thể viên mãn siêng năng vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tinh tấn Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể phát sanh định vô đẳng đẳng, có thể viên mãn định vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ tịnh lự Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tối tôn, tối thắng, đầy đủ oai lực lớn, có thể tu tập tuệ vô đẳng đẳng, có thể viên mãn tuệ vô đẳng đẳng, có thể đầy đủ Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô đẳng đẳng, có thể được tự thể vô đẳng đẳng, nghĩa là thân có vô biên tướng tốt đẹp trang nghiêm, có thể chứng pháp vô đẳng đẳng, nghĩa là Vô Thượng Bồ-đề.

Đối với các loại công đức thù thắng khác, tùy theo pháp tương ưng của chúng cũng lại như vậy.

Bạch Thế Tôn! Thế Tôn cũng do tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nên có năng lực tu tập, an trụ, viên mãn, đầy đủ công đức thù thắng, được sắc vô đẳng đẳng; thọ, tưởng, hành, thức vô đẳng đẳng, chứng Bồ-đề vô đẳng đẳng, chuyển pháp luân vô đẳng đẳng. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cũng vậy.

Vì vậy, Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đến bờ rốt ráo nhất thiết pháp thì nên tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... đều nên cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Phật bảo các đại đệ tử và các Đại Bồ-tát:

Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời các ông nói. Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... đều nên cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Vì sao? Vì nhờ Đại Bồ-tát này, nên thế gian có trời, người xuất hiện. Nghĩa là dòng họ Sát-đế-lợi, dòng họ Bà-la-môn, dòng họ Trưởng giả, dòng họ Cư sĩ, Chuyển luân Thánh vương, trời Tứ đại vương cho đến trời Tha hóa tự tại. Trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh. Trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất hiệnthế gian. Do Đại Bồ-tát này, nên thế gian có quả Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, Độc-giác, Bồ-tát, chư Phật xuất hiện. Do Đại Bồ-tát này, nên thế giancác loại để sinh sống, vui chơi xuất hiện như: Thức ăn uống, y phục, đồ nằm, phòng, nhà, đèn đuốc, ngọc ma-ni chơn châu, lưu ly, vỏ ốc, ngọc bích, san hô, vàng bạc châu báu xuất hiệnthế gian.

Tóm lại, tất cả thế gian, người vui, trời vui và xuất thế vui, không có gì mà không do Đại Bồ-tát như thế mà có. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này tự mình bố thí rồi dạy người bố thí. Tự mình giữ giới rồi dạy người giữ giới. Tự mình nhẫn nhục rồi dạy người nhẫn nhục. Tự mình tinh tấn rồi dạy người tinh tấn. Tự mình tu định rồi dạy người tu định. Tự mình tu tuệ rồi dạy người tu tuệ. Vì vậy, do các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, tất cả hữu tình đều được lợi ích an lạc.

 
V. PHẨM TƯỚNG THIỆT CĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng lớn che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Từ tướng lưỡi này lại phóng ra vô số ánh sáng đủ màu sắc chiếu khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương.

Bấy giờ, trong hằng hà sa số cõi Phật ở phương Đông khắp nơi đều có vô lượng, vô số đại Bồ-tát, chư vị thấy ánh sáng lớn này, trong lòng do dự, cùng nhau đến gặp Phật ở thế giới của mình, cúi đầu cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đó là do oai lực của ai? Và vì sao mà có ánh sáng lớn này chiếu các cõi Phật?

Khi ấy, các đức Phật kia đều đáp:

- Ở phương Tây này có thế giới Phật tên là Kham Nhẫn, Phật hiệuThích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm, đang giản nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa cho chúng Đại Bồ-tát nên hiện tướng lưỡi che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Từ tướng lưỡi ấy lại phóng ra vô số ánh sáng đủ màu sắc, chiếu khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương. Ánh sáng thấy đây tức là tướng lưỡi đức Phật kia hiện ra.

Lúc đó, trong các thế giới kia, vô lượng, vô số Đại Bồ-tát nghe việc này rồi, vui mừng hớn hở, khen ngợi là việc chưa từng có, đều thưa Phật:

- Chúng con muốn đến thế giới Kham Nhẫn đảnh lễ, cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ-tát, để nghe Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nguyện xin Thế Tôn thương xót hứa khả cho.

Khi ấy, các đức Phật kia đều đáp:

- Nay chính là đúng lúc, hãy đi theo ý của các ông.

Bấy giờ, được Phật hứa khả chúng Đại Bồ-tát đều lễ chân Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng, đem vô lượng tràng phan, bảo cái, y phục, anh lạc, hương vòng hoa, châu báu, vàng bạc các loại hoa, hòa tấu các loại âm nhạc thượng diệu, trong chốc lát đến chỗ Phật này (Phật Thích Ca) cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi Phật, Bồ-tát rồi nhiễu trăm ngàn vòng, đảnh lễ chân Phật rồi ngồi qua một bên.

Trong hằng hà sa số cõi Phật khắp các phương Nam, Tây, Bắc bốn góc, trên dưới, khắp nơi đều có vô lượng, vô số Đại Bồ-tát cũng như vậy.

Bấy giờ, các chúng cõi trời như trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Đại quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh đều đem vô lượng các loại hương hoa, hương bột, hương đốt, hương cây, hương lá, các hương xen lẫn, tràng hoa thích ý, tràng hoa sinh loại, tràng hoa long tiền và vô lượng tràng hoa đủ loại, đem vô lượng hoa cõi trời thơm đẹp nhất, hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa sen vàng, hoa vi diệu âm, hoa đại vi diệu âmvô lượng hương hoa cõi trời thơm đẹp khác đi đến chỗ Phật cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi Phật, Bồ-tát rồi nhiễu trăm ngàn vòng, đảnh lễ chân Phật rồi lui qua một bên.

Bấy giờ, chúng Đại Bồ-tát ở mười phương đã đến, các loại tràng phan, bảo cái, y phục, anh lạc, châu báu, hương hoa, và các loại âm nhạc của vô lượng trời Dục giới, Sắc giới dâng cúng, nhờ thần lực của Phật đều bay lên hư không, hợp thành đài che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, bốn gốc trên đỉnh đài đều có phướng báu, lọng đài. Phướng báu được trang trí bằng anh lạc, màu sắc sặc sỡ, ngọc quý, tràng hoa rũ xuống thật đáng ưa thích.

Bấy giờ, trong hội có trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện đời vị lai sẽ làm Phật, tướng hảo, oai đức như Thế Tôn ngày nay, cõi nước trang nghiêm, đại chúng Thanh văn, Bồ-tát, người, trời chuyển pháp luân đều như Phật ngày nay.

Bấy giờ, Thế Tôn biết được tâm nguyện của họ, đối với các pháp đã ngộ vô sanh nhẫn, hiểu rõ tất cả bất sanh, bất diệt, vô tác, vô vi, nên Ngài mỉm cười, từ miệng phóng ra ánh sáng đủ màu sắc.

Lúc đó, A-nan-đà liền rời khỏi chỗ ngồi, chấp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà Ngài mỉm cười? Chư Phật mỉm cười không phải là không có nhân duyên.

Phật bảo: A-nan:

- Trăm ngàn Câu-chi, Na-dữu-đa chúng rời khỏi chỗ ngồi này, đối với các pháp đã ngộ vô sanh nhẫn, hiểu rõ tất cả bất sanh, bất diệt, vô tác, vô vi. Các vị ấy ở đời vị lai trải qua sáu mươi tám Câu-chi đại kiếp, siêng năng tu hạnh Bồ-tát, trong kiếp Diệu Pháp Hoa sẽ được thành Phật, đều đồng một hiệu là Giác Phần Hoa Như Lai, Ứng Chánh đẳng giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhơn Sư, Phật, Bạc-già-phạm.

 

Quyển Thứ 405
HẾT

VI. PHẨM THIỆN HIỆN
01

 

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

- Ông hãy đem biện tài tùy theo chúng Đại Bồ-tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát, làm cho họ thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, các Đại Bồ-tát, Đại Thanh văn, chư thiên, nhơn v.v... đều nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện đem biện tài của mình tùy theo chúng Đại Bồ-tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát, làm cho họ thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đó có phải là nhờ oai lực của Phật không?

Tôn giả Thiện Hiện biết tâm niệm của các chúng Đại Bồ-tát, Đại Thanh văn, chư thiên, nhơn liền bảo Tôn giả Xá-lợi Tử:

- Các đệ tử Phật phàm nói ra điều gì tất cả đều nhờ oai lực của Phật. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Như Lai giảng nói pháp yếu cho chúng sanh, các pháp tánh thường không trái nhau. Các đệ tử Phật nương vào pháp ấy, siêng hay tu học, chứng thật tánh các pháp. Do đó, những pháp mà Ngài nói cùng với pháp tánh không trái nhau. Nên lời Phật nói như ngọn đèn truyền sáng mãi.

Này Xá-lợi Tử! nhờ oai lực của Phật gia hộ, ta sẽ tùy theo chúng Đại Bồ-tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát, làm cho họ thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng phải là biện tài của mình có thể làm được việc này. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu không phải là cảnh giới của các Thanh văn, Độc giác.

Bấy giờ, Tôn giả Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như Phật nói, các Đại Bồ-tát trong đây, pháp nào gọi là Đại Bồ-tát? Bạch Thế Tôn! Con đều không thấy có một pháp nào có thể gọi là Đại Bồ-tát, cũng không thấy có một pháp có thể gọi là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hai tên như thế con đều không thấy thì làm sao con có thể tùy chúng Đại Bồ-tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật-đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát, làm cho họ thành tựu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát chỉ có tên, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chỉ có tên, hai tên như thế cũng chỉ có tên.

Này Thiện Hiện! Hai tên này không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Nên biết, như ngã ở thế gian chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là ngã. Như vậy, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, đồng tử, người làm, người nhận, người biết, người thấy cũng chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, nghĩa là hữu tình cho đến người thấy, tất cả Như vậy, chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế đều là không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như bên trong các sắc chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập mà gọi là sắc. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như nhãn xứ chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhãn xứ. Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như sắc xứ chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là sắc xứ. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Như vậy, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như trong thân có đầu, cổ, vai, bắp tay, cánh tay, bụng, lưng, ngực, hông, eo, xương sống, đùi, đầu gối, bắp chân, ống chân, da, thịt, xương, tủy chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt chỉ giả lập mà gọi là các vật đầu, cổ trong thân. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như các vật bên ngoài như: Cỏ cây, gốc, cành, lá, hoa, quả v.v... chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là các vật bên ngoài cỏ, cây, gốc v.v.... Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả danh; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như chư Phật quá khứ, vị lai chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là chư Phật quá khứ, vị lai. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như cảnh trong mộng, tiếng vang, bóng sáng, việc huyễn, sóng nắng, trăng dưới nước, biến hóa chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là cảnh trong mộng cho đến biến hóa. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, tên giả, pháp giảphương tiện giả nên phải tu học. Vì sao? Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên quán danh sắc hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh sắc hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc không, hoặc bất không; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh sắc hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh sắc hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh sắc hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh sắc hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên quán danh nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc không, hoặc bất không; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không nên quán danh sắc xứ hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc không, hoặc bất không; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa các Đại Bồ-tát không nên quán danh nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng tên của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng với danh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng với danh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng với danh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh thân giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng với danh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh thân giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh thân giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh thân giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh thân giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh thân giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh thân giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh ý giới hoặc thường, hoặc vô thường; không nên quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng với danh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh ý giới hoặc vui, hoặc khổ; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh ý giới hoặc ngã, hoặc vô ngã; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc không, hoặc bất không; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh ý giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh ý giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh ý giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh ý giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc sanh, hoặc diệt; không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc danh Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đều không thấy ở trong giới hữu vi, cũng không thấy ở trong giới vô vi. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp không phân biệt, không khác với phân biệt.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa an trụ trong phân biệt nhất thiết pháp, không thấy Đại Bồ-tát, không thấy danh Đại Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hay tu bố thí Ba-la-mật-đa; cũng hay tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hay trụ pháp không nội; cũng hay trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không chẳng đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không không thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Hay trụ chơn như; cũng hay trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Hay tu bốn niệm trụ; cũng hay tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Hay trụ Thánh đế khổ, cũng hay trụ Thánh đế tập, diệt, đạo. Hay tu bốn tịnh lự, cũng hay tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hay tu tám giải thoát, cũng hay tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Hay tu pháp môn giải thoát không, cũng hay tu vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện. Hay tu tất cả môn Đà-la-ni, cũng hay tu tất cả môn Tam-ma-địa. Hay tu năm loại mắt, cũng hay tu sáu phép thần thông. Hay tu mười lực của Phật, cũng hay tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Đại Bồ-tát này vào lúc đó không thấy Đại Bồ-tát, không thấy danh Đại Bồ-tát, không thấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp khéo thông đạt thật tướng, và trong ấy khéo thông đạt pháp không tạp nhiễm, pháp thanh tịnh.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiểu biết tất cả pháp danh giả lập, pháp giả lập.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này đã hiểu biết như thật danh pháp giả rồi nên không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; không chấp trước nhãn xứ, không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không chấp trước sắc xứ, không chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không chấp trước nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến không chấp trước ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Không chấp trước giới hữu vi, không chấp trước giới vô vi.

Không chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa; không chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Không chấp trước các tướng tốt, không chấp trước thân Bồ-tát, không chấp trước nhục nhãn cho đến Phật nhãn.

Không chấp trước trí Ba-la-mật-đathần thông Ba-la-mật-đa.

Không chấp trước pháp không nội cho đến pháp không, không tánh tự tánh.

Không chấp trước sự thành thục hữu tình, không chấp trước việc nghiêm tịnh cõi Phật, không chấp trước phương tiện quyền xảo.

Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, năng trước, sở trước, trước xứ, trước thời đều bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp không chấp trước; khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa tăng trưởng bố thí Ba-la-mật-đa; tăng trưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Hướng vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, hướng vào địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, viên mãn thần thông thù thắng của Bồ-tát.

Như vậy, Thần thông thù thắng của Bồ-tát đã được viên mãn, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, vì muốn giáo hóa các hữu tình, vì muốn làm nghiêm tịnh cõi Phật, được gặp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, gặp rồi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, làm cho các thiện căn đều được sanh trưởng. Thiện căn đã được sanh trưởng, được nghe và thọ trì Chánh pháp chư Phật theo sở thích của mình. Đã thọ trì rồi cho đến Vô Thượng Bồ-đề không quên mất, đối với tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa đều được tự tại.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiểu biết như thật danh giả, pháp giả nên không chấp trước.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát? Sắc là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa sắc có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thọ, tưởng, hành, thức có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Nhãn xứ là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa nhãn xứ có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Sắc xứ là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa sắc xứ có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Nhãn giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa nhãn giới có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Nhĩ giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa nhĩ giới có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Tỷ giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa tỷ giới có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thiệt giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thiệt giới có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thân giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thân giới có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Ý giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa ý giới có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Địa giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa địa giới có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Vô minh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa vô minh có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa hành cho đến lão tử có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

- Ông xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Các pháp sắc v.v... không phải là Đại Bồ-tát, lìa các pháp sắc v.v... không phải là Đại Bồ-tát?

Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Hoặc Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc vì tánh chẳng có, huống là có Đại Bồ-tát. Đây đã chẳng có, sao có thể nói các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát, lìa các pháp sắc v.v... có Đại Bồ-tát được!

Phật bảo Thiện Hiện!

- Hay thay! Hay thay. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Hoặc Bồ-đề, hoặc Tát-đỏa, hoặc các pháp sắc v.v... bất khả đắc nên các Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc. Vì các Đại Bồ-tát bất khả đắc nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

- Sắc chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thọ, tưởng, hành, thức chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa sắc chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thọ, tưởng, hành, thức chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Nhãn xứ chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa nhãn xứ chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Sắc xứ chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa sắc xứ chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Nhãn giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng với các thọ chơn như do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa nhãn giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng với các thọ chơn như do nhãn xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Nhĩ giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng với các thọ chơn như do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa nhĩ giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng với các thọ chơn như do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Tỷ giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng với các thọ chơn như do tỷ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa tỷ giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng với các thọ chơn như do tỷ xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thiệt giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng với các thọ chơn như do thiệt xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thiệt giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng với các thọ chơn như do thiệt xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thân giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng với các thọ chơn như do thân xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thân giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng với các thọ chơn như do thân xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Ý giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng với các thọ chơn như do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa ý giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng với các thọ chơn như do ý xúc làm duyên sanh ra có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Địa giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thủy, hỏa, phong, không, thức giới chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa địa giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Vô minh chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử chơn như là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa vô minh chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa hành cho đến lão tử chơn như có Đại Bồ-tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

- Ông quán nghĩa nào mà nói như vầy: Các pháp sắc v.v... chơn như không phải là Đại Bồ-tát, lìa các pháp sắc v.v... chơn như không có Đại Bồ-tát được?

Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có các pháp sắc v.v... chơn như. Chơn như này đã chẳng có, như vậy sao có thể nói các pháp sắc v.v... chơn như là Đại Bồ-tát, lìa các pháp sắc v.v... chơn như có Đại Bồ-tát được?

Phật bảo Thiện Hiện!

- Hay thay! Hay thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Vì các pháp sắc v.v... bất khả đắc, nên các pháp sắc v.v... chơn như cũng bất khả đắc. Vì các pháp sắc và chơn như bất khả đắc nên các Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc. Vì các Đại Bồ-tát bất khả đắc nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy.

 

Quyển Thứ 406
HẾT

02

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm sắc là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về nhãn xứ là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ vô thường là Đại Bồ-tát phải không?



- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là thanh tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ bất tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứbất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứhữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứvô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ tịch tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ bất tịch tịnh là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất tịch tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ bất viễn ly là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất viễn ly là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ tạp nhiễm là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tạp nhiễm là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ thanh tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thanh tịnh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn xứ là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về sắc xứ là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô thường là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứvô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứbất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứbất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứbất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứbất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứhữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứhữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứvô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứvô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứvô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứtịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứtịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứtạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứtạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứthanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứthanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc xứ là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về nhãn giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giớivô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giớivô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giớibất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giớibất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giớihữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giớivô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm nhãn giớivô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giớitịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giớiviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giớitạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giớithanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhãn giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về nhĩ giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớivô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớivô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớibất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớibất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớihữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớivô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớivô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớitịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớiviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớitạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giớithanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về nhĩ giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về tỷ giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về tỷ giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về thiệt giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thiệt giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về thân giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớivô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớivô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớibất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớibất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớihữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớivô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớivô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớitịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớiviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớitạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giớithanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thân giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về ý giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớivô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớivô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớibất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là bất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớibất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là bất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớihữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớivô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớivô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớitịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớiviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớitạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giớithanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là thanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về ý giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

 

Quyển Thứ 407
HẾT

03
Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về địa giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớivô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớivô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớibất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớibất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớibất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớibất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớihữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớihữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớivô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớivô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớivô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớitịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớitịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớiviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớiviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớitạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớitạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giớithanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giớithanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về địa giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về thủy, hỏa, phong, không, thức giới là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ý ông, thế nào là Đại Bồ-tát?

Khái niệm về vô minh là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhvô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửvô thường, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là vui, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là khổ, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhvô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửvô ngã, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhbất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửbất tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhbất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửbất không, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhhữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửhữu tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhvô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửvô tướng, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là hữu nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhvô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửvô nguyện, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhtịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửtịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?
- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất tịch tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửviễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là bất viễn ly, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhtạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửtạp nhiễm, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minhthanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tửthanh tịnh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là sanh, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về vô minh là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm về hành cho đến lão tử là diệt, là Đại Bồ-tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Ông xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Khái niệm về các pháp sắc v.v... không phải là Đại Bồ-tát? Lại xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Khái niệm về các pháp sắc v.v... hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc không, hoặc bất không, hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện, hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc sanh, hoặc diệt cũng không phải là Đại Bồ-tát?

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có khái niệm về các pháp sắc v.v... các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn! Thường của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô thường của các pháp sắc v.v... Thường, vô thường của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về thường, vô thường các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về thường, vô thường của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Lạc của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có khổ của các pháp sắc v.v... lạc, khổ của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về lạc, khổ của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về lạc, khổ của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Ngã của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô ngã của các pháp sắc v.v... ngã, vô ngã của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về ngã, vô ngã của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về ngã, vô ngã của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Tịnh của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có bất tịnh của các pháp sắc v.v... Tịnh, bất tịnh của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về tịnh, bất tịnh của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tịnh, bất tịnh của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Bất không của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có không của các pháp sắc v.v... Không, bất không của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về không, bất không của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về không, bất không của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Hữu tướng của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô tướng của các pháp sắc v.v... Hữu tướng, vô tướng của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về hữu tướng, vô tướng của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về hữu tướng, vô tướng của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Hữu nguyện của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô nguyện của các pháp sắc v.v... Hữu nguyện, vô nguyện của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về hữu nguyện, vô nguyện của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về hữu nguyện, vô nguyện của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Tịch tịnh của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có bất tịch tịnh của các pháp sắc v.v... Tịch tịnh, bất tịch tịnh của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về tịch tịnh, bất tịch tịnh của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tịch tịnh, bất tịch tịnh của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Viễn ly của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có bất viễn ly của các pháp sắc v.v... Viễn ly, bất viễn ly của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về viễn ly, bất viễn ly của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về viễn ly, bất viễn ly của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Tạp nhiễm của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có thanh tịnh của các pháp sắc v.v... Tạp nhiễm, thanh tịnh của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về tạp nhiễm, thanh tịnh của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về tạp nhiễm, thanh tịnh của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát được.

Bạch Thế Tôn! Sanh của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có diệt của các pháp sắc v.v... Sanh, diệt của các pháp sắc v.v... rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về sanh, diệt của các pháp sắc v.v... Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về sanh, diệt của các pháp sắc v.v... là Đại Bồ-tát được.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Các pháp sắc v.v... và thường, vô thường v.v... bất khả đắc nên khái niệm về các pháp sắc v.v... và khái niệm về thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc. Vì pháp và khái niệm về bất khả đắc, nên các Đại Bồ-tát cũng bất khả đắc. Vì các Đại Bồ-tát bất khả đắc, nên tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Trước ông đã nói: Con hoàn toàn không thấy có một pháp nào có thể gọi là Đại Bồ-tát. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Các pháp không thấy các pháp. Các pháp không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy các pháp. Pháp giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thọ, tưởng, hành, thức giới; thọ, tưởng, hành, thức giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy nhãn xứ; nhãn xứ không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy sắc xứ; sắc xứ không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy nhãn giới; nhãn giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy nhãn thức giới; nhãn thức giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy địa giới; địa giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Pháp giới không thấy vô minh; vô minh không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; hành cho đến lão tử không thấy pháp giới.

Này Thiện Hiện! Giới hữu vi không thấy giới vô vi; giới vô vi không thấy giới hữu vi.

Này Thiện Hiện! Chẳng phải lìa hữu vi mà lập vô vi, chẳng phải lìa vô vi mà lập hữu vi.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp đều không thấy. Vì không thấy nên tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi, đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, không thấy sắc, không thấy thọ, tưởng, hành, thức; không thấy nhãn xứ, không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; không thấy sắc xứ, không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; không thấy nhãn giới, không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; không thấy sắc giới, không thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; không thấy nhãn thức giới, không thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; không thấy địa giới, không thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không thấy vô minh, không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; không thấy tham dục, không thấy sân giận, ngu si; không thấy ngã, không thấy hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, ý sanh, đồng tử, người làm, người nhận, người biết, người thấy; không thấy Dục giới, không thấy Sắc, Vô sắc giới; không thấy Thanh văn và pháp Thanh văn, không thấy Độc giác và pháp Độc giác; không thấy Bồ-tát và pháp Bồ-tát; không thấy chư Phật và pháp chư Phật; không thấy Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đều không thấy. Vì không thấy, nên tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi. Đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Lại do nhân duyên nào, các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn?

Phật bảo:

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp tâm, tâm sở đều không được, không thấy. Do đó, đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, do nhân nào mà đối với tất cả pháp, tâm không kinh khiếp, không e ngại, không sợ hãi?

Phật bảo:

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả ý và ý giới đều không được, không thấy. Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp, tâm không kinh khiếp, không e ngại,, không sợ hãi.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đều vô sở đắc, nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với tất cả nơi và tất cả thời, không thấy đắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy đắc danh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy đắc Đại Bồ-tát, không thấy đắc danh Đại Bồ-tát, cũng không thấy đắc tâm Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Nên dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát như vậy, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều làm cho được thành tựu.

 
VII. PHẨM LY SANH

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát muốn viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn viên mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết sắc nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết thọ, tưởng, hành, thức nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết nhãn xứ nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết sắc xứ nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết nhãn giới nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết sắc giới nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết thanh, hương, vị, xúc, pháp giới nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết nhãn thức giới nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết nhãn xúc nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết địa giới nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết thủy, hỏa, phong, không, thức giới nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn biết hết vô minh nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn biết hết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn tham dục, sân giận, ngu si nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn thân kiến, giới cấm thủ, nghi, dục tham, sân giận nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn sắc tham, vô sắc tham, vô minh, mạn, trạo cử nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn tất cả các tùy miên trói buộc, nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn bốn cách ăn nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đoạn hẳn vòng xoáy của bốn dòng nước mạnh làm thân điên đảo thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn thọ hành trì mười nghiệp đạo thiện thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hành bốn tịnh lự thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hành bốn niệm trụ thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn được mười lực của Phật thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa, muốn được bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn tự tại nhập giác chi Tam-ma-địa nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn tự tại du hý với sáu loại thần thông nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với bốn tịnh lự, bốn vô sắc, diệt tận định, thứ lớp vượt qua thuận nghịch tự tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa đều được tự tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với tất cả Sư tử du hý Tam-ma-địa, cho đến Sư tử phấn tấn Tam-ma-địa nhập, xuất tự tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn đối với nhập, xuất: Kiện hành Tam-ma-địa, Bảo ấn Tam-ma-địa, Diệu nguyệt Tam-ma-địa, Nguyệt tràng tướng Tam-ma-địa, Nhất thiết pháp ấn Tam-ma-địa, Quán ấn Tam-ma-địa, Pháp giới quyết định Tam-ma-địa, Quyết định tràng tướng Tam-ma-địa, Kim cương dụ Tam-ma-địa, Nhập nhất thiết pháp môn Tam-ma-địa, Tam-ma-địa vương Tam-ma-địa, Vương ấn Tam-ma-địa, Lực thanh tịnh Tam-ma-địa, Bửu khiếp Tam-ma-địa, Nhập nhất thiết pháp ngôn từ quyết định Tam-ma-địa, Nhập nhất thiết pháp tăng ngữ Tam-ma-địa, Quán sát thập phương Tam-ma-địa, Nhất thiết pháp Đà-la-ni môn ấn Tam-ma-địa, Nhất thiết pháp vô vong thất Tam-ma-địa, Nhất thiết pháp đẳng thú hành tướng ấn Tam-ma-địa, Trụ hư không xứ Tam-ma-địa, Tam luân thanh tịnh Tam-ma-địa, Bất thối thần thông Tam-ma-địa, Khí dũng Tam-ma-địa, Thắng định tràng tướng Tam-ma-địa và vô lượng Tam-ma-địa thù thắng khác đều được tự tại thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm viên mãn sở nguyện của tất cả hữu tình thì nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát muốn làm viên mãn thiện căn thù thắng như vậy, do thiện căn này được viên mãn, nên không đọa vào các đường ác, không sanh vào nhà bần tiện, không rơi vào địa vị Thanh vănĐộc giác, đối với ngôi vị Bồ-tát hoàn toàn không thối lui thì nên học Bát-nhã Ba-la-m