Tập 22 (Quyển 539-550)

09/05/201012:00 SA(Xem: 26457)
Tập 22 (Quyển 539-550)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 22 (Quyển 539-550)

 02

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này thật sự vô sanh không?

Thiện Hiện đáp:

- Các Bồ-tát này đều thật sự vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Chỉ có Bồ-tát là thật sự vô sanh, hay pháp của Bồ-tát cũng thật sự vô sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Pháp của Bồ-tát cũng thật sự vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Chỉ có pháp của Bồ-tát thật sự vô sanh, hay trí nhất thiết trí cũng thật sự vô sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Trí nhất thiết trí cũng thật sự vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Chỉ có trí nhất thiết trí là thật sự vô sanh, hay pháp trí nhất thiết trí cũng thật sự vô sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Pháp trí nhất thiết trí cũng thật sự vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Chỉ có pháp trí nhất thiết trí là thật sự vô sanh, hay kẻ phàm phu cũng thật sự vô sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Các loại phàm phu cũng thật sự vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Chỉ có loại phàm phu là thật sự vô sanh, hay pháp của loại phàm phu cũng thật sự vô sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Các pháp của phàm phu cũng thật sự vô sanh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát đều thật sự vô sanh, pháp của các Bồ-tát cũng thật sự vô sanh; trí nhất thiết trí thật sự vô sanh, pháp trí nhất thiết trí cũng thật sự vô sanh; các loại phàm phu thật sự vô sanh, pháp của các loại phàm phu cũng thật sự vô sanh. Như vậy thì làm sao Đại Bồ-tát có thể chứng đắc trí nhất thiết trí? Không lẽ pháp vô sanh lại chứng pháp vô sanh sao?

Thiện Hiện đáp:

- Ý tôi không nói trong pháp vô sanhchứng đắc, có hiện quán. Vì sao? Vì các pháp vô sanh đều bất khả đắc.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Vậy thì cho rằng pháp sanh chứng pháp sanh, hay pháp vô sanh chứng pháp vô sanh sao?

Thiện Hiện đáp:

- Ý tôi chẳng nói pháp sanh chứng pháp sanh, cũng chẳng nói pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Ý Ngài nói pháp sanh chứng pháp vô sanh, hay nói pháp vô sanh chứng pháp sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Ý tôi chẳng nói pháp sanh chứng pháp vô sanh, cũng chẳng nói pháp vô sanh chứng pháp sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu như vậy thì tất cả đều không đắc, không hiện quán sao?

Thiện Hiện đáp:

- Tuy có đắc, có hiện quán, nhưng không do hai pháp này mà chứng. Chỉ theo lời nói giả lập của thế gian nên có đắc, có hiện quán. Chẳng phải trong thắng nghĩa có đắc, có hiện quán.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Ngài nói pháp chưa sanh rồi sanh, hay nói pháp đã sanh rồi sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Ý tôi chẳng nói pháp chưa sanh rồi sanh, cũng chẳng nói pháp đã sanh rồi sanh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả đã nói pháp vô sanh, muốn biện thuyết tướng vô sanh sao?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi đã nói pháp vô sanh, cũng chẳng muốn biện thuyết tướng vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đối với pháp vô sanh nói lời vô sanh, nói vô sanh đây cũng vô sanh sao?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đối với pháp vô sanh nói lời vô sanh, pháp và lời nói đều nghĩa vô sanh, tùy theo thế tục mà nói tướng vô sanh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Trong những đệ tử thuyết pháp, ngài là bậc nhất, trừ Phật Thế Tôn không có ai sánh kịp. Vì sao? Vì tùy theo lời gạn hỏi về các pháp môn đều có thể trả lời thông suốt, nhưng đối với pháp tánh vẫn không biến đổi.

Thiện Hiện đáp:

- Đối với tất cả pháp, đệ tử Phật đều không chấp trước. Vì vậy, có thể tùy lời gạn hỏi mà trả lời đều được tự tại vô ngại, đối với pháp tánh vẫn không biến đổi. Vì sao? Vì tất cả pháp không chỗ nương tựa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả đã nói pháp yếu thâm sâu như vậy, do oai lực Ba-la-mật-đa nào mà được biện thuyết ấy?

Thiện Hiện đáp:

- Pháp yếu thâm sâu như vậy đều do oai lực Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành biện. Vì sao? Vì tất cả pháp không chỗ nương tựa, đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa nên đạt tất cả pháp không cần nương tựa.

Đại Bồ-tát nào nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy tâm không nghi ngờ, cũng không mê muội, thì nên biết Đại Bồ-tát này đã an trụ trong ấy thường không xa lìa, nghĩa là đem vô sở đắc làm phương tiện, thường siêng cứu vớt tất cả hữu tình. Nên biết Đại Bồ-tát này đã thành tựu tác ý thù thắng. Đó gọi là tác ý tương ưng với đại bi.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào an trụ như vậy thường không xa lìa thành tựu tác ý tương ưng với đại bi. Như vậy, thì tất cả hữu tình cũng thành Đại Bồ-tát hết sao? Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng an trụ và tác ý như vậy, thường không xa lìa. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tác ý đại bi đều có tánh bình đẳng. Vì vậy, các Đại Bồ-tát cùng với tất cả hữu tình đều không khác nhau chứ?

Thiện Hiện đáp:

- Hay thay! Hay thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, ông đã hiểu đúng ý tôi đã nói, mặc dù hỏi tôi nhưng cũng giúp tôi hiểu rõ ý nghĩa. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì hữu tình vô tự tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tự tánh. Hữu tình vô sở hữu, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô sở hữu. Hữu tình xa lìa, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng xa lìa. Hữu tình vắng lặng, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vắng lặng. Hữu tình bất khả đắc, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng bất khả đắc. Hữu tình vô giác tri, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô giác tri.

Do nhân duyên này, nên các Đại Bồ-tát đối với trụ và tác ý như vậy thường không xa lìa, cùng với các hữu tình cũng không khác nhau, vì tất cả pháp và các hữu tình đều hoàn toàn không, không có khác nhau.

Đại Bồ-tát nào có thể biết như vậy thì không bị chướng ngại, thật sự tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Hay thay! Hay thay! Ông đã giảng thuyết, chỉ bày Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho các Đại Bồ-tát. Đây đều là do sức oai thần của Như Lai. Nếu người nào muốn giảng thuyết, chỉ bày Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho các Đại Bồ-tát thì cũng giảng thuyết, chỉ bày như ông đã giảng thuyết. Đại Bồ-tát nào muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa đều nên theo lời ông đã nói mà học. Đại Bồ-tát nào học Bát-nhã ba-la-mật-đa như lời ông nói thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này.

 
II. PHẨM ĐẾ THÍCH

Bấy giờ, trời Đế Thích cùng bốn vạn Thiên tửcõi trời thứ Ba mươi ba đồng đến câu hội. Bốn Thiên vương hộ đời cùng hai vạn Thiên tử, trời Tứ đại thiên vương đồng đến câu hội. Đại Phạm thiên vương, chủ cõi Sách-ha cùng một vạn Phạm chúng đồng đến câu hội.

Như vậy, cho đến trời Ngũ tịnh cư đều cùng vô lượng trăm ngàn Thiên tử đồng đến câu hội. Các Thiên chúng này tịnh nghiệp cảm được dị thục ánh sáng nơi thân, tuy có thể chiếu soi nhưng vì oai lực ánh sáng nơi thân của Như Lai nên không thấy ánh sáng của họ.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa Thiện Hiện:

- Nay có vô lượng Thiên chúng trong tam thiên đại thiên thế giới đồng đến câu hội, muốn nghe Đại đức giảng thuyết, khai thị Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dạy bảo giáo giới các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được rốt ráo. Cúi xin Đại đức thương xót chỉ dạy: Các Đại Bồ-tát làm sao trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa? Các Đại Bồ-tát làm sao học được Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Ta nhờ sức oai thần của Phật, thuận theo ý Như Lai giảng thuyết, khai thị Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho chúng Đại Bồ-tát. Như vậy, chúng Đại Bồ-tát có thể ở trong ấy nên trụ như vậy, nên học như vậy. Thiên chúng các ông đều nên lắng nghe, chú tâm suy nghĩ kỹ.

Này Kiều-thi-ca! Chúng trời các ông, người chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề nay nên phát tâm. Những người đã nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác không có thể phát tâm Bồ-đề nữa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì những người kia đã từ lâu bị ngăn cách trong vòng sanh tử, nên trong ấy nếu có người có thể phát được tâm Vô thượng Bồ-đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Vì có các thắng nhân nên cầu thắng pháp. Tôi chắc chắn chẳng bị trở ngại sự thắng thiện của họ.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Hay thay! Hay thay! Nay ông đã giảng thuyết, khai thị Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho chúng Đại Bồ-tát. Cũng có thể khuyên bảo các Đại Bồ-tát làm cho họ vui mừng siêng năng tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã biết ơn như thế lẽ nào không đền trả. Vì sao? Vì chư Phật và các đệ tử đời quá khứ đã giảng thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cho chúng Đại Bồ-tát, dạy bảo giáo giới nhiếp thọ hộ trì. Bấy giờ, Thế Tôn cũng ở trong ấy học phạm hạnh thanh tịnh, nay chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vận chuyển pháp luân vi diệu, làm lợi ích cho chúng con. Nên ngày nay con theo lời Phật dạy, giảng thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cho chúng Đại Bồ-tát, dạy bảo giáo giới, giúp đỡ hộ trì, làm cho siêng năng tu học phạm hạnh thanh tịnh, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận cùng đời vị lai. Đó là gọi là đền trả ơn đức chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Ông hỏi các Đại Bồ-tát làm sao nên trụ, nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy? Hãy lắng nghe kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói về các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa nên học tướng như vậy, nên trụ tướng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại công đức, nên đem tướng không an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Không nên trụ sắc; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức.

Không nên trụ vào quả Dự lưu; không nên trụ vào quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Không nên trụ Độc giác Bồ-đề; không nên trụ vào quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Không nên trụ đây là sắc; không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức.

Không nên trụ đây là quả Dự lưu; không nên trụ đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Không nên trụ đây là Độc giác Bồ-đề; không nên trụ đây là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Không nên trụ sắc hoặc thường hoặc vô thường; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường.

Không nên trụ sắc hoặc vui hoặc khổ; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui hoặc khổ.

Không nên trụ sắc hoặc ngã hoặc vô ngã; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã.

Không nên trụ sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh.

Không nên trụ sắc hoặc Không hoặc chẳng Không; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc Không hoặc chẳng Không.

Không nên trụ vào quả Dự lưu hoặc vô vi hiển lộ; không nên trụ vào quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán hoặc vô vi hiển lộ.

Không nên trụ vào quả Độc giác Bồ-đề hoặc vô vi hiển lộ; không nên trụ vào quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật hoặc vô vi hiển lộ.

Không nên trụ vào quả Dự lưu là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Dự lưu còn bảy lần sanh trở lại mới vào Niết-bàn.

Không nên trụ vào quả Nhất lai là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Nhất lai chưa được rốt ráo, còn một lần sanh trở lại chịu khổ biên tế.

Không nên trụ vào quả Bất hoàn là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Bất hoàn sau khi diệt độ chẳng còn sanh trở lại.

Không nên trụ vào quả A-la-hán là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả A-la-hán nhất định đời này nhập vào Vô dư Niết-bàn.

Không nên trụ quả Độc giác là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ quả Độc giác vượt hơn địa vị Thanh văn, chẳng đến địa vị Phật mà nhập Niết-bàn.

Không nên trụ quả Phật là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ quả Phật vượt qua địa vị phàm phu, vượt qua địa vị Thanh văn, vượt qua địa vị Độc giác, vượt qua địa vị Bồ-tát, an trụ vào địa vị Phật, làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, được nhập vào cảnh giới Vô dư bát Niết-bàn.

Không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đối với Tam thừa đều được nhất định, làm các Phật sự như vậy rồi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn.

Khi ấy, Xá-lợi Tử suy nghĩ: Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì không nên trụ vào quả Phật, an trụ quả Phật làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình được nhập vào cảnh giới Vô dư bát Niết-bàn. Không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng, vô biên hữu tình đối với Tam thừa đều được nhất định, làm các Phật sự như vậy rồi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn. Cũng không nên trụ vào các pháp khác, chúng Đại Bồ-tát này phải trụ ở đâu?

Cụ thọ Thiện Hiện nhờ oai thần của Phật, biết tâm niệm của Xá-lợi Tử, liền bảo:

- Ý Tôn giả thế nào? Tâm của các đức Như Lai nên an chỗ nào?

Khi đó, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Tâm của các đức Như Lai đều không chỗ trụ. Vì sao? Vì tâm không chỗ trụ nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nghĩa là không trụ cõi hữu vi, cũng không trụ cõi vô vi, cũng chẳng phải không trụ cõi hữu vi, vô vi.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng lại như vậy. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp tâm không chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên trụ như vậy, nên học như vậy.

Bấy giờ, trong chúng có các Thiên tử suy nghĩ: Như câu thần chú, các lời nói khác nhau của những Dược-xoa, tuy là ẩn mật, kín đáo nhưng chúng ta còn có thể hiểu được. Đại đức Thiện Hiện đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tuy đã dùng nhiều lời lẽ để chỉ rõ, nhưng tất cả chúng ta vẫn không thể hiểu được gì cả.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của các Thiên tử, liền bảo:

- Này các Thiên tử! Những lời tôi nói, các ông không hiểu được sao?

Các Thiên tử thưa:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đại đức đã nói ý nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với chúng tôi đều không hiểu được gì cả.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo:

- Tôi đã từng đối với ý nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này không nói, không chỉ bày, các ông không nghe thì hiểu cái gì. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì trong ý nghĩa tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đều lìa văn tự, lời nói.

Khi ấy, các Thiên tử lại nghĩ: Đại đức Thiện Hiện ở trong nghĩa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, tuy lại đem các thứ phương tiện để nói rõ, muốn làm cho dễ hiểu, nhưng nghĩa lý ấy lại càng quá sâu xa, lại quá vi tế, khó có thể so lường.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm của các Thiên tử, liền bảo:

- Thiên tử nên biết! Sắc không sâu xa, không vi tế; thọ, tưởng, hành, thức không sâu xa, không vi tế. Quả Dự lưu không sâu xa, không vi tế; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán không sâu xa, không vi tế. Độc giác Bồ-đề không sâu xa, không vi tế. Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không sâu xa, không vi tế. Vì sao?

Này các Thiên tử! Vì tất cả pháp sâu xa, vi tế, người nói, người nghe đều bất khả đắc. Bởi vậy, các ông đối với pháp đã nói nên tu hạnh nhẫn bền chắc.

Thiên tử nên biết! Những người nào muốn chứng, muốn trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, cần phải nương vào sự nhẫn này mới có thể chứng trụ được.

Khi đó các Thiên tử suy nghĩ: Đại đức Thiện Hiện muốn vì hữu tình nào, thuyết những pháp nào?

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của các Thiên tử, liền bảo:

- Thiên tử nên biết! Nay tôi muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng, cũng lại giảng thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Này các Thiên tử! Như vậy người nghe pháp đã được nói, không nghe, không hiểu, không chỗ tu chứng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Người nói, người nghe và pháp được nói ra đều như huyễn, như hóa, như mộng đã thấy không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Hữu tình như huyễn, vì người như huyễn, nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, vì người như hóa, nói pháp như hóa. Hữu tình như mộng, vì người như mộng, nói pháp như mộng. Tất cả hữu tình và tất cả pháp đều như cảnh huyễn hóa, như mộng, vì tất cả pháp, tất cả hữu tình cũng huyễn hóa, cũng như mộng, không hai, không khác.

Thiên tử nên biết! Những bậc Dự lưu và quả Dự lưu, hoặc bậc Nhất lai và quả Nhất lai, hoặc bậc Bất hoàn và quả Bất hoàn, hoặc A-la-hán và quả A-la-hán, hoặc các Độc giácĐộc giác Bồ-đề, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều như cảnh huyễn hóa, như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Lẽ nào chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng như huyễn hóa, như mộng đã thấy sao?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Cho đến Niết-bàn ta cũng nói là như huyễn hóa, như mộng đã thấy.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Không lẽ Niết-bàn cũng như huyễn hóa, như mộng đã thấy sao?

Thiện Hiện đáp:

- Giả sử lại có pháp nào hơn Niết-bàn, tôi cũng nói là như huyễn hóa, như mộng đã thấy. Vì sao? Vì cảnh huyễn hóa, như mộng cùng tất cả pháp, cho đến Niết-bàn không hai, không khác, đều bất khả đắc, bất khả thuyết.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử, Chấp Đại Tạng, Mãn Từ Tử, Đại Ẩm Quang v.v… cùng hỏi Thiện Hiện:

- Đại đức đã nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy có người nào có thể tín thọ không?

Cụ thọ Khánh Hỷ thưa cùng các đại Thanh văn Xá-lợi Tử:

- Có các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể tin hiểu sâu xa được. Lại có vô lượng đại A-la-hán đầy đủ chánh kiến, đoạn tận các lậu, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng có thể tín thọ được. Cụ thọ Thiện Hiện đã nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy không ai tín thọ được.

Vì sao? Vì trong đây không có pháp rõ ràng có thể chỉ bày và có thể thành lập. Đã thật sự không có pháp rõ ràng có thể chỉ bày và có thể thành lập nên người tín thọ cũng không thể có.

Khi ấy, trời Đế Thích suy nghĩ: Đại đức Thiện Hiện rưới trận mưa pháp, ta nên hóa ra các đóa hoa nhiệm mầu dâng rải cúng dường.

Suy nghĩ như vậy rồi, liền hóa ra các đóa hoa nhiệm mầu rải lên Thiện Hiện.

Cụ thọ Thiện Hiện suy nghĩ: Những đóa hoa này chưa từng thấy có ở chỗ chư thiên. Hoa nhiệm mầu này nhất định chẳng phải do đất nước, cỏ cây sanh ra, mà do tâm chư thiên hóa sanh.

Khi ấy, trời Đế Thích biết tâm niệm của Thiện Hiện, liền nói:

- Hoa đã rải này thật chẳng phải do đất nước, cỏ cây sanh ra, cũng chẳng phải do tâm chư thiên hóa sanh. Vì sao? Vì hoa đã rải này tánh vốn vô sanh.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Hoa này không sanh, tức chẳng phải hoa.

Khi ấy, trời Đế Thích thầm nghĩ: Trí tuệ của Đại đức Thiện Hiện thật là sâu xa, chẳng hoại giả danhnói thật nghĩa.

Nghĩ như vậy rồi, liền thưa Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Như Tôn giả đã dạy, các Đại Bồ-tát đối với các pháp đều nên theo lời dạy của Tôn giả mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các Đại Bồ-tát đối với các pháp nên theo lời dạy của ta mà học như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Khi các Đại Bồ-tát học như vậy, chẳng học về sắc; chẳng học về thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng học về quả Dự lưu; chẳng học về quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Chẳng học về Độc giác Bồ-đề. Chẳng học về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Nếu chẳng theo các quả vị này mà học, thì đây gọi là học trí nhất thiết trí của chư Phật.

Nếu học được trí nhất thiết trí của chư Phật thì chẳng học vô lượng, vô biên các pháp khác. Nếu học vô lượng, vô biên các pháp khác, thì chẳng học sắc có tăng có giảm; cũng chẳng học thọ, tưởng, hành, thức có tăng có giảm. Nếu chẳng học sắc có tăng có giảm; cũng chẳng học thọ, tưởng, hành, thức có tăng có giảm, thì chẳng học sắc có lấy có bỏ; cũng chẳng học thọ, tưởng, hành, thức có lấy có bỏ.

Nếu chẳng học sắc có lấy có bỏ; cũng chẳng học thọ, tưởng, hành, thức có lấy có bỏ, thì chẳng học tất cả pháp có lấy có bỏ.

Nếu chẳng học tất cả pháp có lấy có bỏ, thì chẳng học các pháp có thể hộ trì, có thể diệt hoại.

Nếu chẳng học các pháp có thể hộ trì, có thể diệt hoại, thì chẳng học trí nhất thiết trí có thể hộ trì, có thể diệt hoại.

Khi các Đại Bồ-tát học như vậy gọi là học trí nhất thiết trí một cách chơn chánh, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào chẳng học các pháp có thể hộ trì, có thể diệt hoại; cũng chẳng học trí nhất thiết trí có thể hộ trì, có thể diệt hoại thì khi Đại Bồ-tát này học như vậy gọi là học trí nhất thiết trí một cách chơn chánh, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đại Bồ-tát nào chẳng học các pháp có thể hộ trì, có thể diệt hoại, cũng chẳng học trí nhất thiết trí có thể hộ trì, có thể diệt hoại thì khi Đại Bồ-tát này học như vậy gọi là học trí nhất thiết trí một cách chơn chánh, có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí, vì đem vô sở đắc làm phương tiện.

Bấy giờ, trời Đế Thích hỏi Xá-lợi Tử:

- Sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát phải cầu ở đâu?

Xá-lợi Tử đáp:

- Sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát nên y theo lời lẽ của Thiện Hiện đã nói mà cầu.

Trời Đế Thích hỏi Xá-lợi Tử:

- Nhờ thần lực của ai hỗ trợ để cho Tôn giả nói lời như vậy?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên ta nói lời này.

Khi ấy, trời Đế Thích lại hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nhờ thần lực của ai hỗ trợ nên Tôn giả Thiện Hiện có thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Xá-lợi Tử đáp:

- Nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên cụ thọ Thiện Hiện có thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Ông hỏi nhờ thần lực ai hỗ trợ làm cho tôi có thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa. Này Kiều-thi-ca! Ông nên biết, nhất định là nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên Thiện Hiện tôi có thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Kiều-thi-ca! Ông đã hỏi, sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát phải cầu ở đâu. Này Kiều-thi-ca! Sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát chẳng ở sắc mà cầu, cũng chẳng nên lìa sắc để cầu. Chẳng nên cầu ở thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức để cầu.

Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không lìa sắc mà có Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không lìa thọ, tưởng, hành, thức mà có Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa Thiện Hiện:

- Có phải sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa, là vô lượng Ba-la-mật-đa, là vô biên Ba-la-mật-đa không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Này Kiều-thi-ca! Sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa, là vô lượng Ba-la-mật-đa, là vô biên Ba-la-mật-đa.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì sắc lớn nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lớn; vì thọ, tưởng, hành, thức lớn nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lớn.

Này Kiều-thi-ca! Sắc vô lượng nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô lượng; thọ, tưởng, hành, thức vô lượng nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô lượng.

Này Kiều-thi-ca! Sắc vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên; thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Sở duyên vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Này Kiều-thi-ca! Sở duyên vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên là như thế nào? Nghĩa là đoạn trước, giữa, sau của tất cả pháp đều bất khả đắc, nên gọi là vô biên. Vì pháp vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Bởi Bát-nhã ba-la-mật-đa đây vô biên nên ta nói sở duyên vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Tất cả pháp vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Này Kiều-thi-ca! Tất cả pháp vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên là sao? Nghĩa là biên giới của tất cả pháp bất khả đắc. Vì sao? Vì biên giới trước, sau, giữa của tất cả sắc đều bất khả đắc. Biên giới trước, sau, giữa của tất cả thọ, tưởng, hành, thức đều bất khả đắc. Bởi biên giới trước, sau, giữa của Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc nên ta nói tất cả pháp vô biên, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Vì sao? Vì biên giới tất cả hữu tình bất khả đắc nên ta nói tất cả hữu tình vô biên, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Bạch Đại đức! Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên là sao?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Không thể tính đếm vô số loài hữu tìnhbất khả đắc, nên nói là: Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Trời Đế Thích thưa:

- Vì nghĩa gì nên nói như vậy?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Nay tôi hỏi ông, tùy ý ông đáp. Ý ông thế nào? Nói về hữu tình, những hữu tình là khái niệm về pháp gì?

Trời Đế Thích thưa:

- Nói về hữu tình, những hữu tình chẳng khái niệm về pháp, cũng chẳng phải không khái niệm về pháp. Chỉ là giả danh, thuộc về vay mượn, thuộc về tên không có sự thật, thuộc về tên không có chủ, thuộc về tên không có quan hệ.

Thiện Hiện bảo:

- Này Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Ở trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, vì hiển bày thật có hữu tình không?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa Đại đức! Không thật.

Thiện Hiện bảo:

- Trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này đã chẳng hiển bày thật có hữu tình nên nói vô biên, vì trong ấy biên giới cũng bất khả đắc.

Này Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua hằng hà sa số đại kiếp, đem vô biên tiếng nói để nói vô lượng danh tự loài hữu tình, thì trong ấy thật có hữu tình có sanh có diệt không?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa Đại đức! Không thật. Vì sao? Vì các hữu tình bản tánh vốn tịnh, xưa nay vô sở hữu, chẳng phải vô sở hữu mà có sanh diệt.

Thiện Hiện bảo:

- Do nghĩa này nên tôi nói là tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Này Kiều-thi-ca! Do đây nên biết sở học Bát-nhã ba-la-mật-đa của các Đại Bồ-tát nói là lớn, vô lượng, vô biên.

Bấy giờ, trong hội trời Đế Thích, các Phạm thiên vương cõi Dục, chư Thiên cõi Sắc và Thần tiên Thiên nữ cõi Đại tự tại vô cùng hoan hỉ, đồng thời ba lần nói lớn rằng:

- Hay thay! Hay thay! Vì có Phật ra đời nên Tôn giả Thiện Hiện nhờ oai thần của Phật giảng thuyết, khai thị pháp tánh vi diệu nhiệm mầu cho chúng tôi. Pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa làm cho trời, người, A-tu-la v.v... đều được lợi ích lớn. Nếu Đại Bồ-tát có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy tu hành đúng như lời nói, luôn không xa lìa thì chúng tôi đối với các vị ấy sẽ cung kính cúng dường như Phật Thế Tôn.

Bấy giờ, Phật bảo chư Thiên:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu Đại Bồ-tát nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này đem vô sở đắc làm phương tiện có thể tu hành đúng như lời nói, luôn không xa lìa, thì chư thiên các ông đều nên cúng dường như Phật Thế Tôn.

Chư Thiên nên biết: Xưa kia Ta đối với Phật Nhiên Đăng, lúc ấy ở nơi ngã tư thuộc vương đô Liên Hoa, ta gặp đức Phật Nhiên Đăng, liền dâng năm cành hoa sen, trải tóc che bùn, cần cầu nghe Chánh pháp, đem vô sở đắc làm phương tiện, luôn không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xavô lượng, vô biên Phật pháp khác.

Bấy giờ, Phật Nhiên Đăng liền thọ ký cho Ta được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nói như vầy: “Này thiện nam tử! Ở đời sau, trải qua vô số kiếp, trong thế giới Hiền kiếp này ông sẽ được làm Phật hiệu là Năng Tịch Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nói rộng cho đến Phật Thế Tôn, giảng thuyết kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, độ vô lượng chúng.”

Khi ấy, chư Thiên đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật là hi hữu, làm cho chúng Đại Bồ-tát có thể mau chóng đưa đến trí nhất thiết trí, ở tận đời vi lai làm lợi ích an vui cho loài hữu tình.
III. PHẨM CÚNG DƯỜNG BẢO THÁP

01

Bấy giờ, Thế Tôn biết những thiên thần ở cõi Dục, cõi Sắc và các Bí-sô, Bí-sô-ni v.v... bốn chúng vân tập, cung kính tín thọ cùng làm minh chứng, liền quay lại trời Đế Thích bảo:

- Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý và tùy thuận giảng thuyết cho người khác một cách rộng rãi thì nên biết tất cả ác ma, người chẳng phải người đều không thể làm hại những người này được, tất cả tai nạn đều không đưa đến, thân tâm an vui, không bệnh, sống lâu.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Thiên tử nào đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, thì nên đi đến chỗ thiện nam tử, thiện nữ v.v… này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tư duy đúng lý, ý nghĩa sâu xa cho được rốt ráo, rồi tuần tự nói cho người khác.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý thì ở nơi nhà trống, ở chỗ đồng vắng, hoặc ở nơi đường hiểm và những chỗ nguy nan, các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này vẫn không hoảng hốt run sợ, rởn tóc gáy, vì được chư thiên, thiện thần thường đến ủng hộ.

Khi ấy, bốn Đại thiên vươngThiên chúng kia chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì chúng con thường theo cung kính hộ trì, không cho tất cả tai nạn xâm phạm.

Khi ấy, trời Đế Thích và các Thiên chúng chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì chúng con thường theo cung kính hộ trì, không cho tất cả tai nạn xâm hại.

Khi ấy, Phạm thiên vương và các Phạm chúng chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì chúng con thường theo cung kính hộ trì, không để cho tất cả tai nạn xâm phạm.

Khi đó, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ! Thật là kỳ lạ! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì được đầy đủ công đức hiện pháp như vậy.

Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có được đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không?

Lúc ấy, Thế Tôn bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi đều được công đức. Nay ông nên lắng nghe, chú tâm tư duy, ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng thuyết.

Trời Đế Thích thưa:

- Cúi xin Ngài dạy, chúng con rất muốn nghe.

Bấy giờ, Phật dạy trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Nếu có các ác ngoại đạo, Phạm chí, hoặc các ác maquyến thuộc của ma, hoặc là những kẻ tăng thượng mạn bạo ác khác đến chỗ Đại Bồ-tát này muốn làm những việc không lợi ích, khi họ vừa móng tâm liền gặp tai họa, chắc chắn bị tiêu diệt, không được toại nguyện.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi nên có thể làm cho kẻ ác tâm tự gặp tai họa, không được toại nguyện.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì ở nơi chốn ấy, nếu có ác maquyến thuộc của ma, hoặc là các ngoại đạo, Phạm chí và kẻ tăng thượng mạn độc ác khác ganh ghét chánh pháp, muốn làm chướng ngại, gạn hỏi, chống báng v.v… sẽ mau bị tiêu diệt. Tuy họ có muốn làm những việc ác này nhưng không bao giờ thành công được. Nếu họ chỉ nghe qua tiếng Bát-nhã thì cũng được đoạn trừ các điều ác, dần dần phát sanh công đức, sau nương vào Tam thừa được chấm dứt sự khổ, thoát khỏi đường ác, sanh trong cõi trời, người.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép giảng thuyết, truyền bá rộng rãi thì được công đức thù thắng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Như có cây thuốc thần tên là Mạc-kỳ, chất liệu của thuốc này có thể tiêu các chất độc. Thuốc thần như vậy, tùy sanh sản chỗ nào, các loại trùng độc đều chẳng dám đến gần. Ví nhưrắn độc to lớn đi kiếm mồi, gặp các loài khác muốn mổ nuốt, các loài kia sợ chết chạy đến chỗ thuốc thần. Rắn nghe hơi thuốc liền thối lui. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì thuốc thần như vậy có năng lực lớn, có thể cứu vớt thân mạng, diệt trừ các chất độc.

Này Kiều-thi-ca! Thần lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng lại như vậy. Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì các ma đối với Đại Bồ-tát muốn làm việc ác, nhờ sức oai thần của Bát-nhã ba-la-mật-đa này nên các việc ác kia nơi chỗ ấy đều biến mất, không hại được.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì đại thần lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này có thể tiêu trừ các ác, tăng trưởng thiện pháp.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì trời Tứ đại thiên vươngtrời Đế Thích, Đại Phạm thiên vương chủ cõi Kham nhẫn, trời Tịnh cư v.v... cùng các thiện thần thường đến ủng hộ, không cho tất cả tai nạn xâm phạm, sự mong cầu đúng pháp đều được đầy đủ. Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong hiện tại khắp mười phương thế giới cũng thường hộ niệm, làm cho điều ác tiêu diệt, thiện pháp tăng trưởng.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này nhờ nhân duyên đây nên lời nói oai nghiêm, người nghe đều cung kính tin nhận, nói lời vừa đủ, không nói ồn ào. Bền lòng giúp đỡ bạn lành, trả ơn sâu dày; không bị tham, ganh, hờn, giận, phú não, dua nịnh, kiêu mạn v.v... tiềm ẩn trong tâm, che lấp tâm tánh.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này nhờ oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tăng trưởng, điều phục thân tâm, làm cho họ xa lìa tham, sân, si, tùy miên trói buộc. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đầy đủ chánh niệm, từ, bi, hỷ, xả, luôn suy nghĩ:

Ta không nên theo thế lực tham lam; nếu theo thế lực kia thì nghèo cùng, hèn kém và sự bố thí không được viên mãn.

Ta không nên theo thế lực phá giới; nếu theo thể lực kia thì đọa vào các đường ác và tịnh giới không được viên mãn.

Ta không nên theo thế lực sân giận; nếu theo thế lực kia thì phải khuyết các căn, hình mạo xấu xí, không đủ sắc thân viên mãn của Bồ-tát, cũng lại không thể viên mãn an nhẫn.

Ta không nên theo thế lực lười biếng; nếu theo thế lực kia thì không thể tu đạo Bồ-tát thù thắng, cũng không thể viên mãn tinh tấn tăng thượng.

Ta không nên theo thế lực tán loạn; nếu theo thế lực kia thì không thể tu thắng định của Bồ-tát, các tịnh lự không được viên mãn.

Ta không nên theo thế lực ngu si; nếu theo thế lực kia thì thắng tuệ không được viên mãn, chẳng vượt hơn các địa vị Thanh văn, Độc giác, huống là được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, nên nay ta không nên theo thế lực tham lam v.v…

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này do suy nghĩ như vậy nên thường được chánh niệm, các ác phiền não chẳng che lấp nơi tâm.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì được công đức thù thắng lợi ích như vậy.

Quyển thứ 539
HẾT

02

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là hiếm có, đặc biệt, có thể điều phục được chúng Đại Bồ-tát, làm cho xa lìa tâm tự cao, hồi hướng sự mong cầu về trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là hiếm có, đặc biệt, có thể điều phục được chúng Đại Bồ-tát, làm cho xa lìa tâm tự cao, hồi hướng sự mong cầu về trí nhất thiết trí?

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào không nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, khi tu hành bố thí cho đến Bát-nhã và các Phật pháp khác, không dùng phương tiện thiện xảo nên dù tu các thiện pháp nhưng vẫn sanh tâm tự cao thì không thể hồi hướng trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát nào nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, khi tu hành bố thí cho đến Bát-nhã và các Phật pháp khác dùng phương tiện thiện xảo tu các thiện pháp điều phục tâm tự cao thì có thể hồi hướng sự mong cầu về trí nhất thiết trí.

Lúc ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì thân tâm các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được an vui, không bị tất cả tai nạn xâm phạm.

Nếu người ở trong đội ngũ quân trận giao chiến mà chuyên lòng tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thì đối với các hữu tình từ bi hộ niệm, không bị dao gậy làm thương hại, đối với kẻ oán địch đều khởi lòng từ, nếu sanh tâm ác thì tự nhiên bị thua bại.

Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này ở nơi quân trận, bị đao tên làm tổn thương mất mạng thì nhất định không có sự việc ấy.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên tự nhiên diệt trừ các ác nghiệp phiền não, các thứ dao gậy, cũng có thể diệt trừ các ác nghiệp phiền não, các thứ dao gậy cho người khác.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này không bị tất cả các loại thuốc độc, mê hoặc, quỉ mị, yếm rủa, chú thuật làm hại được, không bị nước nhấn chìm, hay lửa cháy, hoặc dao gậy, ác thú, oán tặc, ác thần, các tà ma yêu quái làm tổn hại.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là Đại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú. Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là vua trong các chú, rất cao thượng vi diệu, không gì có thể sánh kịp, đầy đủ đại oai lực, diệt trừ tất cả nhưng không bị tất cả diệt trừ được.

Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này siêng năng tu học thần chú như vậy không hại mình, cũng không bị người khác làm hại và những thứ khác hại.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này khi học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại vương thần chú này đối với ngã và pháp tuy vô sở đắc nhưng vẫn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây chứng được trí nhất thiết trí, quán sát về sự sai khác tâm hành của hữu tình, tự tại chuyển pháp luân vô thượng, khiến họ thực hành đúng như lời dạy, được lợi ích lớn.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại, các vị Bồ-tát đều học Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, đều vô sở đắc, vô sở chứng. Vì vậy nên gọi là trí nhất thiết trí.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi, thì đời sau sẽ được các công đức hiện pháp như vậy.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, hoặc để ở chỗ thanh tịnh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Tuy không lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, cũng không khai thị phân biệt cho người khác, nhưng ở nơi thành ấp, vương đô không bị tai nạn tật dịch, hoặc không bị người chẳng phải người v.v... làm tổn hại.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào kinh sợ oan gia, ác thú, tai nạn, yếm rủa, tật dịch, thuốc độc, chú thuật v.v… nên biên chép Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa này, tùy theo nhiều ít, đựng vào đãy thơm, để trong ống ngọc, hoặc đeo nơi thân, cúng dường, cung kính thì các việc sợ sệt đều tiêu diệt. Trời, rồng, quỉ, thần thường đến ủng hộ, chỉ trừ đời trước đã tạo các nghiệp ác nên phải trả mà thôi.

Này Kiều-thi-ca! Ví như có người hoặc loại bàng sanh vào Viện cội Bồ-đề, hoặc đến gần Viện kia thì người chẳng phải người không thể làm tổn hại.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì đời quá khứ, vị lai, hiện tại, chư Phật đều ngồi chỗ ấy mà chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Được Bồ-đề rồi, ban bố cho các hữu tình không kinh, không sợ, không oán, không hại, thân tâm được an vui. Vì vậy nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa tùy ở chỗ nào cũng lại như vậy, tất cả trời, rồng, A-tu-la v.v... thường đến ủng hộ.

Này Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế tùy ở chỗ nào thì chỗ ấy tức là chơn bảo tháp (Chế-đa), tất cả hữu tình đều nên kính lễ, đem các món thượng diệu cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vì sao? Vì đó là chỗ nương nhờ của các loài hữu tình.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, đem nhiều thứ trang nghiêm cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen; hoặc đem các tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu trân kỳ quí lạ, kỹ nhạc đèn sáng để cúng dường; sau khi Phật Niết-bàn lại có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... khác dựng Bảo tháp trang nghiêm bằng bảy báu, chứa đựng Xá-lợi Phật trong hộp báu, để trong tháp ấy, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, rồi đem các tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu trân kỳ quí lạ, kỹ nhạc đèn sáng mà cúng dường, trong hai người này, người nào được phước nhiều hơn?

Lúc ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta lại hỏi ông, tùy ý ông đáp. Ý ông thế nào? Như Lai đã được trí nhất thiết trí, đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và thân hiện tại nương theo những đạo nào tu học mà được?

Trời Đế Thích thưa:

- Như Lai đã được trí nhất thiết trí, đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và thân hiện tại đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa tu học mà được.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Ta nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa tu học nên được trí nhất thiết trí, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và được thân hiện tại.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì nếu không học Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể đắc trí nhất thiết trí, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và thân hiện tại thì không có sự việc ấy.

Này Kiều-thi-ca! Không những được thân tướng hảo nên gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giáccần phải chứng đắc trí nhất thiết trí mới gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Này Kiều-thi-ca! Như Lai đã được trí nhất thiết trí do Bát-nhã ba-la-mật-đa làm nhân nên phát sanh thân tướng hảo chỉ làm chỗ nương. Nếu không nương vào thân tướng hảo của Phật thì không do đâu mà phát sanh. Vì vậy, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa chính là nhân sanh trí nhất thiết trí. Muốn làm cho trí này hiện tiền nối nhau, nên tu tập thân tướng hảo của Phật. Nếu thân tướng hảo này chẳng do biến trí làm chỗ nương thì tất cả trời, rồng, người chẳng phải người không nên chí thành cúng dường, cung kính. Vì thân tướng hảo của Phật cùng với biến trí làm chỗ nương tựa, nên chư thiên, rồng, người chẳng phải người cúng dường, cung kính. Do nhân duyên này nên sau khi ta nhập Niết-bàn, các trời, rồng, người chẳng phải người đều cúng dường, cung kính Xá-lợi của Ta.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, thì đó là cúng dường trí nhất thiết trí và cũng là nương tựa thân tướng hảo của Phật cùng Xá-lợi sau khi ta nhập Niết-bàn.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì trí nhất thiết tríthân tướng hảo cùng với Xá-lợi đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa làm căn bản. Vì vậy, nên Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, dùng các thứ trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Lại đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng để cúng dường và sau khi Phật nhập Niết-bàn có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... khác xây dựng Bảo tháp trang nghiêm bằng bảy báu, đựng Xá-lợi Phật để trong tháp ấy, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng để cúng dường thì trong hai người, người trước được phước nhiều vô lượng gấp bội.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đacúng dường trí nhất thiết trí, thân tướng hảo và Xá-lợi của Phật.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con người ở châu Thiệm-bộ đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này không thể biên chép, không trang nghiêm bằng các báu, không cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, không thể lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý. Nhưng những người kia không biết biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này và trang nhiêm các báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý thì có được các công đức thù thắng không?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta lại hỏi ông, tùy ý ông đáp. Ý ông thế nào? Trong châu Thiệm-bộ được bao nhiêu người thành Phật chứng tịnh, thành Pháp chứng tịnh, thành Tăng chứng tịnh? Được bao nhiêu người chứng quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán? Được bao nhiêu người phát tâm chánh định đạt đến Độc giác Bồ-đề? Được bao nhiêu người phát tâm chánh định đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trong châu Thiệm-bộ có chừng ít người thành tựu đối với chứng tịnh của Phật, thành tựu đối với chứng tịnh của Pháp, thành tựu đối với chứng tịnh của Tăng. Lại càng ít người chứng quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán; ít người phát tâm chánh định đạt đến Độc giác Bồ-đề và càng ít người phát tâm chánh định đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Trong châu Thiệm-bộ rất ít người thành tựu đối với chứng tịnh của Phật, thành tựu đối với chứng tịnh của Pháp, thành tựu đối với chứng tịnh của Tăng. Lại càng ít người chứng quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán; ít người phát tâm chánh định đạt đến Độc giác Bồ-đề và càng ít người phát tâm chánh định đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Càng ít người phát tâm rồi, siêng năng tu học đạt tới hạnh Bồ-đề. Càng ít người siêng năng tu học hạnh Bồ-đề đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này thâm tâm tín thọ. Càng ít người thâm tâm tín thọ rồi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Càng ít người đã tu hành rồi, tuần tự an trụ vào địa vị Bất thối chuyển. Càng ít người hơn trụ bậc này rồi, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào đã được an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mới có thể thâm tâm cung kính tín thọ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, cũng có thể tùy thuận giảng thuyết cho người khác và đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Này Kiều-thi-ca! Ta dùng Phật nhãn thanh tịnh vô ngại xem khắp mười phương vô biên thế giới, tuy có vô lượng, vô số hữu tình phát tâm Bồ-đề, tu Bồ-tát hạnh, nhưng do xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, xa lìa phương tiện thiện xảo. Nếu có một, hoặc hai, hoặc ba hữu tình được trụ bậc Bồ-tát Bất thối chuyển, thì phần nhiều cũng bị rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, ý hạnh thấp hèn ở bậc hạ liệt.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật công đức vô biên, rất khó chứng được. Ác tuệ, giải đãi, tinh tấn hạ liệt, thắng giải hạ liệt, hữu tình cũng hạ liệt, không thể chứng được.

Vì vậy, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào phát tâm Bồ-đề, tu Bồ-tát hạnh muốn trụ bậc Bồ-tát Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bị trở ngại, thì nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa này thường nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, ưa thỉnh hỏi pháp sư, vui vẻ nói cho người khác. Lại thường biên chép, trang nghiêm bằng các báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này suy nghĩ: Thuở xưa, Như Lai trụ bậc Bồ-tát, thường siêng năng tu học nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ngày nay, chúng ta cũng nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, vì đó là Đại sư của ta. Ta theo đó tu học, sở nguyện sẽ viên mãn.

Này Kiều-thi-ca! Nếu Phật trụ ở đời hoặc sau khi nhập Niết-bàn, thì các Đại Bồ-tát nên y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này siêng năng tu học.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết rộng rãi cho các hữu tình, hoặc là biên chép, trang nghiêm bằng các báu, đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ nhân duyên đó được bao nhiêu phước?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được phước đức vô lượng, vô biên, không thể nghĩ bàn, không thể tính kể, dùng toán số thí dụ cũng tính được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với các đức Như Lai hoặc sau khi nhập Niết-bàn, vì cúng dường Phật hoặc là Xá-lợi thì nên dùng bảy báu thượng diệu xây bảo tháp, đem các loại ngọc quí pha trộn lẫn lộn, rồi dùng các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, trọn đời cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Ý ông thế nào? Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên ấy được phước nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Này Kiều-thi-ca! Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa lý sâu xa này, đem tâm thanh tịnh cung kính tin hiểu, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Dùng tuệ tăng thượng quan sát kỹ càng, vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, vì muốn Phật nhãn không hoại diệt, vì muốn Chánh pháp không ẩn mất, vì muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, vì muốn pháp nhãn thanh tịnh không hoại diệtthế gian nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, trang nghiêm bằng các báu. Lại đem các loại tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu trân kỳ quí lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được công đức rất nhiều, hơn người trước vô lượng, vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gác việc này lại, nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với đức Như Lai, hoặc sau khi nhập Niết-bàn, vì cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên dùng bảy báu thượng diệu xây bảo tháp, đem các loại ngọc quí pha trộn lẫn lộn.

Như vậy đầy cả một châu Thiệm-bộ, hoặc bốn đại châu, hoặc cõi Tiểu thiên, hoặc cõi Trung thiên, hoặc cõi tam thiên đại thiên đều đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, trọn đời cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì ý ông thế nào? Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên ấy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa lý sâu xa này, đem tâm thanh tịnh cung kính tin hiểu. Vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Dùng tuệ tăng thượng quán sát kỹ càng; vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, vì muốn Phật nhãn không hoại diệt, vì muốn Chánh pháp không ẩn mất, vì muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, vì muốn pháp nhãn thanh tịnh không hoại diệtthế gian nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, trang nghiêm bằng các báu, đem các tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu trân kỳ quí lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được công đức rất nhiều, hơn người trước vô lượng, vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gác việc này lại, giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm-bộ này, hoặc tất cả hữu tình bốn đại châu, hoặc tất cả hữu tình cõi Tiểu thiên, hoặc tất cả hữu tình cõi Trung thiên, hoặc tất cả hữu tình cõi tam thiên đại thiên đều đối với đức Như Lai, hoặc sau khi nhập Niết-bàn, vì cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên dùng bảy báu thượng diệu xây bảo tháp, đem các loại ngọc quí pha trộn lẫn lộn, rồi đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, trọn đời cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì ý ông thế nào? Các loại hữu tình trong châu Thiệm-bộ này, hoặc bốn đại châu, hoặc cõi Tiểu thiên, hoặc cõi Trung thiên, hoặc cõi đại thiên do nhân duyên ấy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa lý sâu xa này, đem tâm thanh tịnh cung kính tin hiểu. Vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Dùng tuệ tăng thượng quán sát kỹ càng; vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, vì muốn Phật nhãn không hoại diệt, vì muốn Chánh pháp không ẩn mất, vì muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, vì muốn pháp nhãn thanh tịnh không hoại diệtthế gian nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, trang nghiêm bằng các báu, đem các tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu trân kỳ quí lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được công đức rất nhiều, hơn người trước vô lượng, vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gác việc này lại, giả sử các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ này, chẳng phải trước đó, chẳng phải sau này đều được làm người; mỗi người này vì muốn cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên đối với đức Như Lai, hoặc sau khi nhập Niết-bàn, vì cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên dùng bảy báu thượng diệu xây bảo tháp, đem các loại ngọc quí pha trộn lẫn lộn trang nghiêm.

Như vậy, tất cả hữu tình đầy cả châu Thiệm-bộ, hoặc bốn đại châu, chẳng phải trước đó, chẳng phải sau này đều được làm người, mỗi người này vì muốn cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên đối với đức Như Lai, hoặc sau khi nhập Niết-bàn, vì cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên dùng bảy báu thượng diệu xây bảo tháp, đem các loại ngọc quí pha trộn lẫn lộn trang nghiêm.

Như vậy, tất cả hữu tình đầy cả cõi Tiểu thiên, hoặc cõi Trung thiên, chẳng phải trước đó, chẳng phải sau này đều được làm người, mỗi người này vì muốn cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên đối với đức Như Lai, hoặc sau khi nhập Niết-bàn, vì cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên dùng bảy báu thượng diệu xây bảo tháp, đem các loại ngọc quí pha trộn lẫn lộn trang nghiêm.

Như vậy, tất cả hữu tình đầy cả cõi Trung thiên, hoặc cõi tam thiên đại thiên, chẳng phải trước đó, chẳng phải sau này đều được làm người, mỗi người này vì muốn cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên đối với đức Như Lai, hoặc sau khi nhập Niết-bàn, vì cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi thì nên dùng bảy báu thượng diệu xây bảo tháp, đem các loại ngọc quí pha trộn lẫn lộn trang nghiêm.

Như vậy, những người này đều đầy trong cõi Đại thiên đều cầm tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, hoặc thời gian một kiếp, hoặc hơn một kiếp, tất cả đều ở nơi bảo tháp cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì ý ông thế nào? Các loại hữu tình trong châu Thiệm-bộ này, hoặc bốn đại châu, hoặc cõi Tiểu thiên, hoặc cõi Trung thiên, hoặc cõi Đại thiên do nhân duyên ấy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

- Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa lý sâu xa này, đem tâm thanh tịnh cung kính tin hiểu. Vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Dùng tuệ tăng thượng quán sát kỹ càng; vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, vì muốn Phật nhãn không hoại diệt, vì muốn Chánh pháp không ẩn mất, vì muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, vì muốn pháp nhãn thanh tịnh không hoại diệtthế gian nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, trang nghiêm bằng các báu, đem các tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu trân kỳ quí lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được công đức rất nhiều, hơn người trước vô lượng, vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy.

Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên biết đó là ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen trí nhất thiết trí của chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Hãy gác việc này lại, nếu các hữu tình khắp tam thiên đại thiên thế giớicúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi nên đều đối với các đức Như Lai, hoặc sau khi nhập Niết-bàn dùng bảy báu quí giá xây bảo tháp. Giả sử tất cả hữu tình đều như hằng hà sa số khắp mười phương thế giới, chẳng phải trước, chẳng phải sau, đều được làm người, mỗi người đối với Như Lai, hoặc sau khi nhập Niết-bàn, vì cúng dường Phật, hoặc là Xá-lợi nên dùng bảy báu thượng diệu xây bảo tháp, đem các loại ngọc quí pha trộn lẫn lộn trang nghiêm. Như vậy, những người này đầy như hằng hà sa số khắp mười phương thế giới của chư Phật, đều cầm tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, hoặc thời gian một kiếp, hoặc hơn một kiếp cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì các hữu tình do nhân duyên này đạt được phước đức nhiều vô lượng nhưng vẫn còn có dư.

Bởi vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa lý sâu xa đem tâm thanh tịnh cung kính tin hiểu. Vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Dùng tuệ tăng thượng quán sát kỹ càng, vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, vì muốn Phật nhãn không hoại diệt, vì muốn Chánh pháp không ẩn mất, vì muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, vì muốn pháp nhãn thanh tịnh không hoại diệtthế gian nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, trang nghiêm bằng các báu, đem các tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu trân kỳ quí lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được công đức rất nhiều, hơn người trước vô lượng, vô biên, không thể nghĩ bàn, không thể tính kể, dùng toán số thí dụ cũng không thể tính đếm được.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, được phước đức vô lượng, vô biên, không thể nghĩ bàn, không thể tính kể, dùng toán số thí dụ cũng không thể tính đếm được.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng sanh trí nhất thiết trí của Như Lai. Tất cả trí nhất thiết trí của Như Lai có khả năng sanh ra Xá-lợi của chư Phật.

Vì vậy, nên Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa lý sâu xa này, đem tâm thanh tịnh cung kính tin hiểu. Vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Dùng tuệ tăng thượng quán sát kỹ càng, vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, vì muốn Phật nhãn không hoại diệt, vì muốn Chánh pháp không ẩn mất, vì muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, vì muốn pháp nhãn thanh tịnh không hoại diệtthế gian nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, trang nghiêm bằng các báu, đem các tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu trân kỳ quí lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì công đức các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này so với người trước đã xây dựng bảo tháp và phước cúng dường gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến hơn cả cực số lần.

Bấy giờ, ở trong chúng có bốn vạn Thiên tử đồng thưa với trời Đế Thích:

- Thưa Đại tiên! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này nên phải lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, phân biệt giảng thuyết rộng rãi cho người khác và cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Vì sao? Vì nếu ai có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, phân biệt giảng thuyết rộng rãi cho người khác và cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, thì làm cho tất cả ác pháp tổn giảm, thiện pháp tăng trưởng.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Ông nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý phân biệt giảng thuyết rộng rãi cho người khác và cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Vì sao? Vì nếu A-tu-la và những người bạo ác suy nghĩ: Chúng ta nên cùng với trời Ba mươi ba giao chiến. Lúc ấy, dòng họ chư thiên các ông nên mỗi người chí tâm tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Bấy giờ, A-tu-la và những người bạo ác sanh ác tâm liền tiêu diệt.

Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xaĐại thần chú, là Đại minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng đẳng chú, là vua của tất cả chú, rất tôn quí thù thắng, rất cao thượng vi diệu, có thể diệt trừ được tất cả nhưng không bị tất cả diệt trừ. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng diệt được tất cả pháp ác bất thiện, và có khả năng viên mãn tất cả thiện pháp thù thắng.

Lúc ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại, chư Phật đều nương vào Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát chúng hữu tình. Ta đây cũng nương vào Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp vô thượng cho chư thiênloài người.

Này Kiều-thi-ca! Nương vào Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thế gian có các chi tương ưng mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, hoặc sáu phép thần thông, hoặc vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.

Này Kiều-thi-ca! Tóm lại, tám muôn bốn ngàn thiện pháp uẩn đều nương vào Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hiện ở thế gian.

Này Kiều-thi-ca! Nhất thiết Phật trí, tự nhiên khởi trí, bất tư nghì trí đều nương vào Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hiện ở thế gian.

Này Kiều-thi-ca! Nương vào Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thế gian mới có Bồ-tát xuất hiện. Nương vào Bồ-tát thế gian giác chi tương ưng mười thiện nghệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, hoặc sáu phép thần thông, hoặc vô lượng, vô biên các Phật pháp khác đều được hiện ra.

Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không ra đời thì chỉ có Bồ-tát do trước đã nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thế lực bình đẳng, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, thương xót thế gian và các hữu tình, nên lập bày xây dựng ra giác chi tương ưng mười thiện nghệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, hoặc sáu phép thần thông, hoặc vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.

Này Kiều-thi-ca! Ví như ban đêm nhờ trăng tròn, ánh sáng soi đến các ngôi sao, tinh tú, cây thuốc v.v... tùy thế lực mỗi thứ đều được tăng trưởng.

Như vậy, khi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trước đã diệt độ, Chánh pháp ẩn mất; sau Phật chưa ra đời, thế gian có nhiều pháp hành diệu hạnh, tất cả đều nương Bồ-tát hiện ra. Bồ-tát có nhiều phương tiện thiện xảo đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể thành tựu được.

Vì vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa là cội gốc của các thiện pháp thù thắng.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi, thì sẽ thành tựu công đức thù thắng, lợi ích hiện tại, vị lai thế gian và xuất thế gian.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này thành tựu công đức thù thắng, lợi ích hiện tại, vị lai thế gian và xuất thế gian?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đời hiện tại không bị tất cả thuốc độc, yếm rủa, chú thuật làm tổn hại, không bị lửa đốt, nước trôi, các dao gậy cũng không thể hại được, cho đến không bị bốn trăm lẻ bốn bệnh làm chết yểu, chỉ trừ định nghiệp dị thục đời trước, nên đời hiện tại phải chịu.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này hoặc gặp quan sự, giặc cướp bức bách, chí tâm tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu đến chỗ ấy thì nhất định không bị những người kia khiển phạt gia hại, muốn tìm điều xấu đều không thể được.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì thế lực oai thần của pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên khiến như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào muốn đến các chỗ quốc vương, vương tử, đại thần, nếu chí tâm tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nhất định sẽ được quốc vương v.v... vui mừng hỏi han, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đã chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên thường đối với các hữu tình phát sanh các việc từ bi. Nhờ nhân duyên này, nên dù ở nơi đồng vắng hiểm nạn, cũng không bị người chẳng phải người v.v... những kẻ xấu ác làm hại được.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này sẽ được nhiều thứ công đức thù thắng, lợi ích hiện tại như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này tùy theo sanh ở chỗ nào cũng thường không xa lìa các thiện pháp thù thắng, chẳng bị đọa vào ác thú, làm lợi ích cho hữu tình, tuần tự có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này sẽ được thành tựu nhiều thứ công đức thù thắng, lợi ích đời vị lai như vậy.

Bấy giờ, có nhiều Phạm chí ngoại đạo đi đến chỗ Phật để tìm lỗi Phật. Khi ấy, trời Đế Thích thấy rồi suy nghĩ: Nay có nhiều Phạm chí ngoại đạo đi đến pháp hội này để tìm lỗi xấu của Phật, có phải là việc trở ngại Bát-nhã không? Ta nên tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã được lãnh thọ nơi Phật, làm cho bọn ngoại đạo kia thối lui.

Nghĩ rồi liền tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lúc đó, từ xa có nhiều Phạm chí ngoại đạo tỏ lòng kính lễ đức Thế Tôn, đi nhiễu quanh bên phải Phật rồi thối lui.

Khi ấy, Xá-lợi Tử thấy rồi suy nghĩ: Vì lý do gì mấy người kia vừa đến lại bỏ đi?

Phật biết tâm niệm đó, bảo Xá-lợi Tử:

- Này Xá-lợi Tử! Các ngoại đạo kia đến tìm lỗi của Ta, nhưng do trời Đế Thích tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa nên làm cho họ thối lui.

Này Xá-lợi Tử! Ta xem các ngoại đạo này không thấy có chút bạch pháp nào, chỉ ôm lòng ác, vì muốn tìm lỗi của Ta nên đi đến chỗ Ta.

Này Xá-lợi Tử! Ta xem khắp thế gian không thấy có các thiên ma, ngoại đạo v.v... và các loài hữu tình khi thuyết Bát-nhã ôm lòng ác đến tìm lỗi xấu, do oai lực Bát-nhã nên không ai làm hại được.

Lúc ấy, ác ma suy nghĩ: Hôm nay ở chỗ Phật có bốn chúng vây quanh, trời cõi Dục, cõi Sắc đều đến nhóm họp giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong đây chắc chắn sẽ có các Đại Bồ-tát đích thân đến trước Phật, được thọ ký Bồ-đề, sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, làm cho thế giới của ta bị trống trải. Ta nên đi đến chỗ kia phá hoại đôi mắt của họ.

Nghĩ như vậy rồi, hóa làm bốn đội quân oai hùng mạnh mẽ, đi đến chỗ Phật.

Khi ấy, trời Đế Thích thấy rồi suy nghĩ: Đây chắc chắn là do bọn ác ma làm ra. Chúng muốn đến quấy nhiễu Phật và làm trở ngại Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bốn bộ quân như vậy trang bị rất đẹp đẽ, kỳ lạ, quân của triều đình đều không thể sánh kịp, nhất định đây là do ác ma hóa ra để rình tìm lỗi của Phật, phá hoại các hữu tình đang tu tập ở đó. Ta nên tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã lãnh thọ nơi Phật, làm cho các ác ma kia lui về.

Trời Đế Thích suy nghĩ rồi, liền tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Lúc đó các ác ma đều từ từ bỏ về. Đây là do oai lực của Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa xua đuổi họ.

Khi ấy, có vô lượng trời Ba mươi ba cùng bay lên hư không, hóa ra hoa Thiên diệu âm rải lên đức Phật, chấp tay cung kính bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Cúi xin Ngài đem Bát-nhã ba-la-mật-đa này đến loài người châu Thiệm-bộ an trụ lâu dài, cho đến đem Bát-nhã ba-la-mật-đa truyền bá rộng rãi khắp loài người châu Thiệm-bộ. Nên biết, ở thế giới này Phật, Pháp, Tăng bảo thường không hoại diệt, làm cho thế gian được lợi ích an vui thù thắng.

Khi đó, chư Thiên mỗi vị đều hóa ra hoa Thiên diệu âm rải lên đức Phật, rồi tuần tự bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các hữu tình nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì không bị tất cả ác maquyến thuộc của họ rình tìm lỗi xấu.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các hữu tình nào chỉ nghe danh tự công đức Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì nên biết các loài hữu tình như vậy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, phát nguyện rộng lớn với chư Phật, chứa nhiều căn lành mới thành được việc này, chẳng phải tạo căn lành nhỏ mà có được, huống là có thể lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, biên chép giảng thuyết, truyền bá rộng rãi, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Nên biết, công đứctrí tuệ của các loài hữu tình như vậy không thể nghĩ bàn.

Vì sao? Vì muốn cầu trí nhất thiết trí của chư Phật nên ở trong nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa mà cầu. Cũng như hữu tình muốn tìm ngọc báu lớn phải dùng phương tiện siêng năng tìm trong biển lớn. Như vậy, những ai muốn cầu trí nhất thiết trí nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa mà cầu.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Chư Phật chứng được trí nhất thiết trí đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Vì vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa là pháp căn bản tối thắng của chư Phật.

Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì lý do nào Ngài không khen bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa và các công đức khác mà chỉ khen Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Bởi vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể cùng với năm Ba-la-mật-đa trước và các công đức khác làm tôn chỉ dẫn đầu nên Ta khen ngợi.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Ý ông thế nào? Nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì có thể gọi là tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa một cách chơn chánh không?

Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không thể có. Cần phải do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí cho đến Bát-nhã mới được gọi là tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Ý ông thế nào? Nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí cho đến Bát-nhã, thì sự tu như vậy được gọi là bố thí v.v... Ba-la-mật-đa không?

Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không được. Cần phải do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí cho đến Bát-nhã thì sự tu như vậy mới được gọi là bố thí v.v... Ba-la-mật-đa.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Ý ông thế nào? Nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu căn lành, thì căn lành như vậy có được hoàn toàn không?

Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không được. Cần phải do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu căn lành, thì căn lành như vậy mới được hoàn toàn.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Ý ông thế nào? Nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có thể hồi hướng trí nhất thiết trí một cách chơn chánh không?

Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không được. Cần phảiBát-nhã ba-la-mật-đa mới hồi hướng trí nhất thiết trí một cách chơn chánh được.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Ý ông thế nào? Oai thần, công đức Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể nghĩ bàn không?

Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không thể có. Oai thần, công đức Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thể nghĩ bàn, các căn lành khác đều không thể sánh kịp.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Do nhân duyên này, Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể cùng với năm Ba-la-mật-đa trước và các công đức khác làm tôn chỉ dẫn đầu, có thể làm cho năm Ba-la-mật-đa trước và các công đức khác được hoàn toàn viên mãn, nên Ta ngợi khen. Nếu khen Bát-nhã ba-la-mật-đa thì cũng khen năm Ba-la-mật-đa trước và các công đức khác.

Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa và các công đức khác?

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Đem không hai làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện để hồi hướng trí nhất thiết trí nên tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa và các công đức khác.

Cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đem không hai nào làm phương tiện, vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện để hồi hướng trí nhất thiết trí nên tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa và các công đức khác?

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Đem sắc cho đến thức không hai làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện để hồi hướng trí nhất thiết trí, nên tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa và các công đức khác. Vì pháp sắc v.v... tánh đều Không. Tánh Không sắc v.v... cùng bố thí đều không hai.

Khánh Hỷ nên biết! Do Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới có thể hồi hướng trí nhất thiết trí. Do hồi hướng trí nhất thiết trí nên bố thí v.v... được vô biên công đức hoàn toàn viên mãn.

Vì vậy, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng bố thí v.v... tất cả các công đức làm tôn chỉ dẫn đầu.

Khánh Hỷ nên biết! Ví như khoảng đất trống, đem hạt giống rải trong đó, nhờ các duyên hòa hợp được sanh trưởng. Nên biết, khoảng đất trống là chỗ nương dựa, có thể làm cho hạt giống được sanh trưởng.

Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa và sự hồi hướng trí nhất thiết trí làm chỗ nương dựa, có thể làm cho bố thí v.v... tất cả các công đức được sanh trưởng. Nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đabố thí v.v... tất cả công đứctôn chỉ dẫn đầu.

Vì vậy, Ta khen ngợi nhiều về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng phải các công đức khác. Nếu khen ngợi Bát-nhã tức là khen ngợi các pháp.

Quyển thứ 540
HẾT

03

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với công đức thù thắng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nói cũng chưa hết.

Vì sao? Vì con theo Thế Tôn lãnh thọ công đức thù thắng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rộng lớn vô cùng tận. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép giảng thuyết, truyền bá rộng rãi. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu, cho đến đèn sáng để cúng dường, chứa nhóm công đức cũng vô cùng tận.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Hay thay! Hay thay! Đúng như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Ta chẳng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thù thắng như trước đã nói. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì công đức thù thắng đầy đủ vô biên của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phân biệt diễn nói không thể hết được.

Này Kiều-thi-ca! Ta cũng chẳng nói đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng để cúng dường. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được công đức thù thắng cũng như trước đã nói.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đem tâm thanh tịnh cung kính tín thọ, cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Dùng tuệ tăng thượng quán sát kỹ càng, vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, vì muốn Phật nhãn không hoại diệt, vì muốn Chánh pháp không ẩn mất, vì muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, vì muốn pháp nhãn thanh tịnh không hoại diệtthế gian nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, trang nghiêm bằng các báu. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì ta nói ở đời hiện tại, vị lai sẽ được công đức thù thắng vô lượng, vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chư Thiên chúng con thường theo hộ trì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này, chẳng cho tất cả người chẳng phải người và các thứ ác duyên làm tổn hại.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xagiảng thuyết, khai thị rộng rãi cho người khác thì ngay khi đó sẽ được vô lượng trăm ngàn Thiên tử do được nghe pháp nên đều đến nhóm họp vô cùng hoan hỉ, kính thọ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy. Các Thiên tử này nhờ oai lực chư thiên làm cho sự thuyết pháp biện tài tăng trưởng, tuyên dương vô cùng tận. Người không thích nói làm cho họ ưa nói, người thân tâm mỏi mệt làm cho họ được mạnh mẽ.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xagiảng thuyết, khai thị rộng rãi cho người khác được lợi íchhiện tại như vậy.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này ở trong bốn chúng giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, tâm không khiếp sợ, chẳng sợ tất cả sự vấn nạn.

Vì sao? Vì người ấy nhờ Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì như vậy, ở trong tạng bí mật Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đầy đủ, rộng lớn, phân biệt tất cả pháp. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này an trụ pháp Không, quyết không thấy có người bị nạn, chỗ có nạn và những lời nói. Cũng không thấy có người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng lại không thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có sự sai lầm. Vì vậy nên không bị tất cả ngoại đạo vấn nạn, làm cho khuất phục.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho mọi người ở đời hiện tại sẽ được lợi ích như vậy.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì tâm của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này chẳng bị che lấp, chẳng thối lui, cũng chẳng sợ hãi.

Vì sao? Vì đối với các pháp, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này không có chấp trước nên không thấy có pháp nào làm cho họ bị che lấp, thối lui và sợ hãi.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ chí tâm lắng nghe, cho đến truyền bá rộng rãi Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên ở đời hiện tại được lợi ích như vậy.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi, lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng để cúng dường, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này thường được cha mẹ, sư trưởng, bà con, bạn bè, quốc vương, đại thần và các Sa-môn, Bà-la-môn kính mến. Cũng được mười phương chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác hộ niệm. Lại được thế gian, chư thiên, Ma, Phạm, người chẳng phải người giữ gìn bảo hộ, tất cả sự tai nạn đều bị tiêu diệt, các dị luận của ngoại đạo không thể khuất phục được.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này chí tâm lắng nghe cho đến cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên ở đời hiện tại sẽ được lợi ích như vậy.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, dùng các báu trang nghiêm đặt nơi thanh tịnh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì khi đó trong tam thiên đại thiên quốc độ này và khắp mười phương vô biên quốc độ khác, chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Quảng quả, những vị ấy đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi, thường đến chỗ này xem, lễ, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, đi quanh bên hữu, chấp tay làm lễ rồi lui ra.

Chư thiên cõi Tịnh cư cũng thường đến đây xem, lễ, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen đi quanh bên hữu chấp tay lễ bái rồi lui ra.

Lại có các loài rồng, Dược-xoa có oai đức lớn, nói rộng cho đến người chẳng phải người v.v... cũng thường đến đây xem, lễ, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, đi quanh bên hữu, chấp tay lễ bái rồi lui ra.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này suy nghĩ như vầy: Nay tất cả trời, rồng, nói rộng cho đến người chẳng phải người v.v… ở tam thiên đại thiên quốc độ này và mười phương vô biên quốc độ khác, đều đến đây xem, lễ, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do ta biên chép, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, đi quanh bên hữu, chấp tay lễ bái rồi lui ra. Như vậy tức là ta đã lập pháp thí.

Suy nghĩ rồi vô cùng hoan hỉ, làm cho phước đức tăng trưởng bội phần.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ vô biên trời, rồng, Dược-xoa, A-tu-la v.v... thường theo ủng hộ, dù đến chỗ nào vẫn không bị người chẳng phải người làm tổn hại; chỉ trừ đời trước định nhân ác nghiệp đến đời hiện tại phải chịu quả báo, hoặc chuyển quả ác nặng thành quả báo nhẹ trong kiếp hiện tại.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này, nhờ sức đại oai thần Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên hiện đời được các thứ công đức thù thắng như vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên gì biết được có trời, rồng, Dược-xoa, A-tu-la ở tam thiên đại thiên quốc độ này và mười phương vô biên thế giới khác đều đến nơi ấy để xem, lễ, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa do vị ấy đã biên chép, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chấp tay hoan hỉ, đi quanh bên hữu hộ niệm?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này, nếu thấy chỗ nào để Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy có ánh sáng nhiệm mầu, hoặc nghe chỗ ấy có mùi thơm bát ngát lạ thường, hoặc nghe có tiếng nhạc du dương thì nên biết ở đây có các trời, rồng đầy đủ oai đức thần lực lớn, đến chỗ đó xem, lễ, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, do những người kia đã biên chép, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chấp tay hoan hỉ, đi quanh bên hữu hộ niệm.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này sửa sang chỗ ấy sạch đẹp trang nghiêm, chí tâm thành kính cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết bấy giờ các trời, rồng đầy đủ oai đức thần lực lớn đến chỗ ấy xem, lễ, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do những người kia biên chép, giữ gìn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chấp tay hoan hỉ, đi quanh bên hữu hộ niệm.

Này Kiều-thi-ca! Tùy theo chỗ nào có các trời, rồng đủ oai đức thần lực rộng lớn như vậy đi đến chỗ ấy, trong đó có những ác quỷ, tà thần đều kinh sợ lui ra, không dám ở lại. Do nhân duyên này, nên các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này tâm được rộng lớn, phát sanh tịnh thắng giải, sự tu thiện nghiệp càng thêm sáng suốt bội phần, ra làm các việc gì đều không bị chướng ngại.

Vì vậy, này Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này tùy để chỗ nào thì chung quanh chỗ ấy được dọn dẹp phấn uế, quét lau chùi rửa, tưới nước hương thơm, trải bảo tòa đem để trên ấy. Đốt hương rải hoa, treo tràng phan bảo cái, treo màn lọng, chuông gió treo xen bên trong, dùng ngọc diệu trân kỳ quí lạ, vàng bạc, đồ báu, y phục, anh lạc, kỹ nhạc, đèn sáng, các màu sắc lẫn lộn trang nghiêm nơi ấy.

Nếu ai có thể cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy thìvô lượng trời, rồng đủ oai đức thần lực lớn đi đến chỗ ấy xem, lễ, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do những người kia chép giữ, và cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, chấp tay hoan hỉ, đi quanh bên hữu hộ niệm.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nếu cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì thân tâm nhất định không bị mỏi mệt, thân tâm an vui, thân tâm điều hòa, thanh thản, thân tâm nhẹ nhàng lanh lợi.

Nếu chú tâm vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ban đêm ngủ nghỉ không có ác mộng, chỉ thấy mộng lành. Nghĩa là thấy thân sắc chơn kim, tướng hảo trang nghiêm của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phóng đại quang minh, soi khắp tất cả. Trước sau đều có Thanh văn, Bồ-tát vây quanh.

Người trong chúng nghe Phật nói bố thí v.v... sáu pháp Ba-la-mật-đa và các pháp có nghĩa tương ưng với căn lành. Hoặc ở trong mộng thấy cội Bồ-đề, to lớn trang nghiêm bằng các báu. Có Đại Bồ-tát đi đến chỗ cây ấy ngồi kết già, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.

Hoặc trong mộng thấy có vô lượng trăm ngàn, trăm ức, muôn ức chúng Đại Bồ-tát đang bàn luận lựa chọn nghĩa lý các pháp.

Hoặc trong mộng thấy mười phương quốc độ đều có vô lượng trăm ngàn, trăm ức, muôn ức đức Phật. Cũng nghe có người nói là ở thế giới ấy có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rất nhiều trăm ngàn, trăm ức, muôn ức Đại Bồ-tát, Thanh văn đệ tử cung kính vây quanh, thuyết pháp như vậy.

Hoặc trong mộng thấy mười phương quốc độ đều có vô lượng trăm ngàn, trăm ức, muôn ức đức Phật sắp nhập Niết-bàn. Các đức Phật ấy sau khi nhập Niết-bàn đều có thí chủ cúng dường Xá-lợi của Phật, dùng bảy báu thượng diệu xây vô lượng trăm ngàn, trăm ức, muôn ức số đại bảo tháp. Lại mỗi đại bảo tháp đều đem vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng trải qua vô lượng kiếp cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen .

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này thấy các loại tướng mộng lành như vậy, khi ngủ hoặc thức thân tâm đều an vui. Có các thiên thần ủng hộ tinh thần, làm cho những người kia tự biết thân thể nhẹ nhàng. Do nhân duyên này chẳng sanh tâm tham về ăn, uống, thuốc thang, y phục, giường nằm, tâm được nhẹ nhàng đối với bốn sự cúng dường.

Như thầy Du-già nhập định thắng diệu, nhờ định lực kia thân tâm được thấm nhuần. Sau khi xuất định, gặp thức ăn ngon tâm nhẹ nhàng ít muốn. Đây cũng như vậy.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này ở trong tam thiên đại thiên quốc độ này và mười phương vô biên thế giới khác, được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, trời, rồng, Dược-xoa, A-tu-la v.v... đầy đủ đại thần lực, oai đức thù thắng từ bi hộ niệm, đem tinh khí linh diệu rót vào thân tâm, làm cho ý chí người kia dũng mãnh, thân thể khỏe mạnh.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào muốn hiện đời được các công đức thù thắng như thế thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thường phải lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết rộng rãi cho các hữu tình. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào mặc dù đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết rộng rãi cho các hữu tình, nhưng vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, muốn Phật nhãn không hoại diệt, muốn Chánh pháp không ẩn mất, muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, muốn pháp nhãn thanh tịnh không hoại diệtthế gian nên biên chép, giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các báu, lại đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen thì cũng được các công đức thù thắng như trước đã nói.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này có thể làm nhiều lợi ích cho vô lượng, vô biên loài hữu tình.

Vì vậy, này Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào ở trong đời hiện tại, vị lai muốn được công đức thù thắng, nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đem tâm thanh tịnh cung kính tin thọ. Vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Đem tuệ tăng thượng xem xét kỹ càng, muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, muốn Phật nhãn không hoại diệt, muốn Chánh pháp không ẩn mất, muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, muốn đem pháp nghĩa truyền dạy cho hữu tình được đầy đủ, muốn điều phục rộng rãi các loài hữu tình để Phật nhãn không bị khuyết giảm nên biên chép, giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, trang nghiêm bằng các báu, lại đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào làm được như vậy thì ở đời hiện tạivị lai sẽ được vô biên công đức thù thắng.

 
IV. PHẨM XƯNG DƯƠNG CÔNG ĐỨC

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Dù cho có Xá-lợi của Phật đầy khắp trong châu Thiệm-bộ này đem làm một phần, biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa làm một phần. Trong hai phần ấy, ông chọn phần nào?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Theo ý con, nên chọn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì con đối với Xá-lợi của Phật đều tin thọ, cúng dường, cung kính. Nhưng thân và Xá-lợi của chư Phật đều nhân nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà sanh ra, cũng nhờ công đức oai lực của sự huân tu pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà có. Vì vậy mới được tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Tất cả chúng Đại Bồ-tát đều đối với pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà được thông suốt chơn như, pháp giới, pháp tánhthật tế, thành tựu Pháp thân. Do chứng Pháp thân nên mới gọi là Phật. Vì Xá-lợi của Phật nương vào Pháp thân nên mới được thế gian cung kính, cúng dường.

Bạch Thế Tôn! Như con ở trong điện Thiện Pháp, ngồi trên tòa Thiên Đế, trời Ba mươi ba, giảng thuyết Chánh pháp cho các Thiên chúng. Khi ấy, có vô lượng chư Thiên tử đi đến chỗ con lắng nghe nói pháp, cúng dường, cung kính đi quanh bên hữu rồi lui ra. Nếu khi con không ở pháp tòa ấy, thì các Thiên tử cũng đến chỗ ấy, dù không thấy con, nhưng họ vẫn xem như có con, đều cung kính cúng dường, và nói: “Chỗ này là tòa Đế Thích ngồi để thuyết pháp cho chư thiên, chúng ta nên xem như Thiên chủ đang hiện diện”. Rồi họ cúng dường đi quanh bên hữu, lễ bái rồi lui ra.

Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng lại như vậy, nếu có người biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết rộng rãi cho các hữu tình thì nên biết chỗ ấy có vô lượng, vô số trời, rồng, Dược-xoa, A-tu-la v.v... ở cõi này và vô biên thế giớimười phương khác đều đến nhóm họp. Nếu không có người thuyết pháp nhưng vì kính trọng pháp thì họ cũng đến chỗ đó cúng dường, cung kính đi quanh bên hữu rồi lui ra.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cùng với các hạnh của Đại Bồ-tát và trí nhất thiết trí của Phật đã chứng đắc đều làm nhân duyên, làm chỗ nương dựa, có khả năng thấu đạt. Vì vậy, nên con nói: Dù cho Xá-lợi của Phật đầy khắp trong châu Thiệm-bộ này đem làm một phần, biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lại làm một phần, trong hai phần ấy, con chọn lấy phần Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Hãy gác việc Xá-lợi của Phật đầy khắp trong châu Thiệm-bộ này đem làm một phần, giả sử Xá-lợi của Phật đầy khắp bốn đại châu đem làm một phần. Hoặc Xá-lợi của Phật đầy khắp Tiểu thiên thế giới đem làm một phần. Hoặc Xá-lợi của Phật đầy khắp Trung thiên thế giới đem làm một phần. Hoặc Xá-lợi của Phật đầy khắp Đại thiên thế giới đem làm một phần. Và có người biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đem làm một phần, thì trong hai phần này, ý con sẽ chọn lấy phần Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì đối với chỗ Xá-lợi của chư Phật, con đều tin thọ, cúng dường, cung kính, nhưng pháp thân và Xá-lợi chư Phật đều do pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà sanh ra. Do công đức oai lực của pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã huân tu, nên mới được tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì những người ấy ở đời sau chẳng đọa vào đường ác, xa lìa địa vị Thanh văn và bậc Độc giác, chẳng sợ tất cả tai họa, tật dịch xâm hại. Như người mắc nợ sợ người chủ nợ, liền thân cận phụng thờ quốc vương, dựa vào thế lực của quốc vương mà khỏi lo sợ. Vua dụ cho Bát-nhã ba-la-mật-đa, còn người mắc nợ kia dụ cho các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nương nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa đường ác và các sự sợ hãi.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người nương cậy nơi vua, được vua thu nhận, mới được người đời cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Xá-lợi của Phật cũng lại như vậy, do huân tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên được chư thiên, người, A-tu-la v.v... đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vua dụ cho Bát-nhã ba-la-mật-đa. Xá-lợi của Phật dụ cho người nương cậy vào vua.

Bạch Thế Tôn! Chư Phật đã chứng được trí nhất thiết trí cũng nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu, nên con chọn lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đủ đại thần lực, làm lợi ích cho hữu tình ở cõi tam thiên, tùy ở chỗ nào đều có Phật làm các Phật sự. Đó gọi là lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Ví như ngọc đại bảo thần châu vô giá, đầy đủ vô lượng các oai đức thắng diệu, tùy ở chỗ nào có thần châu này, người và chẳng phải người đều không bị não hại.

Nếu có thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào bị quỷ ám bắt, thân tâm khổ não. Khi ấy có người cầm thần châu này cho xem, nhờ oai lực của thần châu nên quỉ liền bỏ đi.

Hoặc có người bị bệnh sốt, hoặc phong, hoặc đàm, hoặc bị bệnh nóng do phong đàm hòa hợp gây ra bệnh, nếu đem thần châu này buộc đeo nơi thân, thì các bệnh như vậy đều được dứt trừ.

Thần châu này có khả năng soi sáng nơi tối tăm, mùa nóng có thể mát mẻ, mưa lạnh thì ấm áp, tùy ở địa phương nào có thần châu này thì nơi ấy khí hậu điều hòa, không lạnh, không nóng.

Hoặc địa phương nào có thần châu này thì rắn, bò cạp các loại độc không dám đến ở. Nếu có nam tử hoặc nữ nhân bị trúng độc đau đớn, khó chịu thì nên đem thần châu này đưa cho người bệnh xem, nhờ oai lực của thần châu làm cho chất độc bị tiêu diệt.

Nếu thân thể của các hữu tình bị tật hủi, ghẻ dữ, ghẻ chùm bao, mắt mù lòa, hoặc bệnh mắt, bệnh tai, bệnh mũi, bệnh yết hầu, bệnh thân, bệnh các lóng đốt, khi đeo thần châu này vào thì các bệnh đều được lành.

Hoặc trong các ao, suối, giếng v.v... nước bị đục dơ, hoặc sắp khô cạn, đem thần châu thả vào nước liền ngập đầy, lắng trong thơm sạch, đủ tám thứ công đức.

Nếu đem tấm vải xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích, lục dệt thành các thứ màu sắc, gói thần châu này để vào trong nước, thì nước sẽ biến đổi thành màu các thứ vải.

Đại bảo thần châu vô giá như vậy, oai đức vô biên, nói không thể hết được. Nếu để thần châu trong rương hộp cũng làm cho những món đồ trong đó thành tựu đầy đủ vô lượng, vô biên oai đức. Nếu rương tráp để trống, do trước kia đã từng để thần châu, nên đồ đạc trong hộp ấy vẫn được nhiều người ưa chuộng.

Khi ấy, Khánh Hỷ hỏi trời Đế Thích:

- Thần châu như vậy chỉ ở cõi trời mới có, hay là cõi người cũng có?

Trời Đế Thích thưa:

- Cõi người, cõi trời đều có thần châu này. Nếu thần châucõi người thì hình nó nhỏ mà nặng, còn ở cõi trời thì hình nó lớn mà nhẹ.

Lại nữa, hạt châu ở cõi người hình tướng chẳng đầy đủ, châu ở cõi trời tướng nó tròn đầy. Thần châu cõi trời oai đức thù thắng vô lượng gấp bội hơn ở cõi người.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng lại như vậy, làm căn bản cho các công đức, hay diệt trừ vô lượng pháp ác bất thiện, tùy ở chỗ nào cũng diệt trừ được thân tâm khổ não của các hữu tình, người chẳng phải người đều chẳng làm hại được.

Bạch Thế Tôn! Như Lai đã chứng được trí nhất thiết trívô lượng, vô biên các công đức khác đều do Đại vương thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa đã diễn bày ra vô lượng, vô biên oai đức sâu rộng. Xá-lợi của Phật nhờ đã huân tu các công đức, nên các công đức này làm chỗ để nương tựa. Sau khi Phật Niết-bàn, đáng được lãnh thọ sự cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen của tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v...

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Hãy gác việc Xá-lợi của Phật ở cõi tam thiên lại, giả sử Xá-lợi của Phật đầy hằng hà sa số thế giới khắp mười phương đem làm một phần, hoặc có người biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa làm một phần. Trong hai phần này, ý con chọn lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Vì sao? Vì con đối với Xá-lợi của Phật đều tin ưa cúng dường, cung kính, như pháp thân chư Phật và Xá-lợi đều do pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sanh ra, đều nhờ công đức oai lực đã huân tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới được tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hay sanh ra trí nhất thiết trí của Như Lai. Trí nhất thiết tríNhư Lai đã chứng đắc có thể sanh ra thân Phật và Xá-lợi. Vì vậy, cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tức là cúng dường trí nhất thiết trí và Xá-lợi của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào muốn được thấy vô lượng, vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácmười phương thì phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa và tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Kiều-thi-ca! Đời quá khứ, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đời vị lai, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Và đời hiện tại, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương vô biên thế giới cũng đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hiện chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nay Ta Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà cũng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này là Đại Ba-la-mật-đa, là Vô thượng Ba-la-mật-đa, là Vô đẳng đẳng Ba-la-mật-đa. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này biết được sự sai khác về tâm hành của các hữu tình.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát trong suốt thời gian tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể như thật biết tất cả sự sai khác về tâm hành của các hữu tình.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát chỉ nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hay cũng nên hành năm Ba-la-mật-đa kia nữa?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát nên hành đủ sáu pháp Ba-la-mật-đa. Nhưng khi hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, quán các pháp đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm đầu.

Này Kiều-thi-ca! Ví thân, cành, hoa, lá, quả trái của cây cối trong châu Thiệm-bộ, dù có nhiều thứ hình loại chẳng đồng nhưng nó đều có khả năng che bóng mát như nhau, đầy đủ công đức lớn, được mọi người nương tựa.

Cũng vậy, sáu pháp Ba-la-mật-đa, mỗi pháp tuy đều có khác, nhưng nhờ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trìhồi hướng trí nhất thiết trí, các tướng sai khác đều bất khả đắc, đầy đủ đại công đức, được mọi người nương theo.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thành tựu công đức rộng lớn thù thắng, thành tựu tất cả công đức thù thắng, thành tựu viên mãn công đức thù thắng, thành tựu vô lượng công đức thù thắng, thành tựu vô biên công đức thù thắng, thành tựu vô số công đức thù thắng, thành tựu vô đẳng công đức thù thắng, thành tựu vô tận công đức thù thắng.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

 
V. PHẨM PHƯỚC MÔN

01

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem tâm thanh tịnh cung kính tin thọ, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng thuyết, khai thị rộng rãi cho các hữu tình. Dùng tuệ tăng thượng quán sát kỹ càng, vì muốn Chánh pháp trụ lâu ở đời, muốn Phật nhãn không hoại diệt, vì muốn Chánh pháp không ẩn mất, muốn hộ trì Bồ-tát làm cho tăng trưởng, vì muốn pháp nhãn thanh tịnh thế gian không hoại diệt, nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, và trang nghiêm bằng các báu. Lại đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Lại suy nghĩ: Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thành tựu công đức thù thắng rộng lớn rất khó được, không nên vứt bỏ, phải tự giữ gìn, cúng dường, cung kính, tư duy, đọc tụng. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, trang nghiêm bằng các báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, hay đem cho người khác thọ trì, truyền bá rộng rãi thì trong hai nhóm phước này, phước nào nhiều hơn?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta nay hỏi lại ông, tùy ý ông đáp. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào theo người thỉnh được Xá-lợi của Phật, đựng trong hộp báu, để nơi thanh tịnh; lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Hoặc có thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào theo người thỉnh được Xá-lợi của Phật, đem chia cho người khác chừng hạt cải, khiến cho người đó cung kính thọ nhận, đem để chỗ thanh tịnh đúng pháp, lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Ý ông thế nào? Trong hai nhóm phước này, phước người nào hơn?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu nghĩa Phật đã nói, trong hai nhóm phước này, phước người sau nhiều hơn.

Bấy giờ, Phật khen trời Đế Thích:

- Hay thay! Hay thay! Đúng như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu tự mình thọ trì, cúng dường, cung kính, hoặc chỉ cho người khác, truyền bá rộng rãi; trong hai nhóm phước này, phước người sau nhiều hơn. Vì sao? Vì nhờ chuyển cho người khác nên vô lượng, vô số hữu tình được lợi ích an lạc.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu có người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này nói được nghĩa lý sâu xa như thật, vì người khác phân biệt, giảng nói làm cho họ hiểu được đúng đắn, người này được nhiều phước, lại còn truyền bá thí pháp cho người khác thì công đức càng nhiều gấp trăm ngàn lần. Phải kính Pháp sư này cũng như kính thờ Phật.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết đó là pháp khí, trang nghiêm bằng các báu, cúng dường, cung kính, tự mình đi đến chỗ khác truyền bá bố thí pháp cho người khác, khuyên họ siêng năng đọc tụng thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được phước đức vô lượng, vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, làm cho chúng được an trụ trong mười thiện nghiệp đạo. Ý ông thế nào? Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... đó nhờ nhân duyên này được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích bạch:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đem tâm thanh tịnh cung kính tín thọ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên biên chép phân phát. Lại giảng nói cho người khác, đối với nghĩa lý sâu xa làm cho họ không còn nghi ngờ, khuyên bảo chỉ dạy các loài hữu tình: Các ngươi nên siêng năng tu chơn đạo Bồ-tát, đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu có thể siêng năng tu học đạo này, thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu vớt vô biên loài hữu tình, chứng được thật tế, đoạn tận các lậu, nhập Vô dư y bát Niết-bàn thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được rất nhiều hơn trước.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gác việc các loài hữu tình của châu Thiệm-bộ, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình trong bốn đại châu đều được an trụ trong mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Cho đến nói rộng…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gác việc các loài hữu tình trong bốn đại châu lại, nếu có thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa loài hữu tình cõi Tiểu thiên được an trụ trong mười thiện nghiệp đạo. Ý ông thế nào? Cho đến nói rộng…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gác việc các loài hữu tình của cõi Tiểu thiên lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình cõi Trung thiên đều được an trụ trong mười thiện nghiệp đạo, cho đến nói rộng hơn. Ý ông thế nào?

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gác việc các loài hữu tình cõi Trung thiên lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình cõi Đại thiên đều được an trụ trong mười thiện nghiệp đạo, cho đến nói rộng hơn. Ý ông thế nào?

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gác việc các loài hữu tình cõi Đại thiên lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình nhiều như hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo. Ý ông thế nào? Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... đó do nhân duyên này được phước nhiều không?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này đem tâm thanh tịnh cung kính tín thọ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, biên chép phân phát, giảng nói cho người khác, đối với nghĩa lý sâu xa không còn nghi ngờ, dạy bảo giáo giới các loài hữu tình: Các ngươi nên siêng năng tu chơn đạo Bồ-tát, đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu siêng năng tính tấn tu học đạo này, thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu vớt vô biên các loài hữu tình, chứng được thật tế, đoạn tận các lậu, nhập Vô dư y bát Niết-bàn, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được rất nhiều hơn trước.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm loại thần thông. Ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... đó do nhân duyên này được phước đức nhiều không?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đem tâm thanh tịnh cung kính tín thọ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên biên chép, lại giảng nói cho người khác, để họ hết nghi ngờ nghĩa lý sâu xa, dạy bảo giáo giới các hữu tình: Các ngươi nên siêng năng tu chơn đạo Bồ-tát, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu có thể siêng năng tu học đạo này thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu vớt vô biên các loài hữu tình, chứng được thật tế, đoạn tận các lậu, nhập Vô dư y bát Niết-bàn, thì phước đức của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thôi, hãy gác việc các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình trong bốn đại châu đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông, cho đến nói rộng... thì ý ông hiểu sao?

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thôi, hãy gác việc các loài hữu tình trong bốn đại châu lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình trong cõi Tiểu thiên đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông, cho đến nói rộng... thì ý ông hiểu sao?

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thôi, hãy gác việc các loài hữu tình cõi Tiểu thiên lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình cõi Trung thiên làm cho an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông, cho đến nói rộng... thì ý ông hiểu sao?

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thôi, hãy gác việc các loài hữu tình cõi Trung thiên lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình cõi Đại thiên đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông, cho đến nói rộng... thì ý ông hiểu sao?

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Thôi, hãy gác việc các loài hữu tình cõi Đại thiên lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình nhiều như hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều được an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông, cho đến nói rộng... thì ý ông hiểu sao? Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên ấy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đem tâm thanh tịnh cung kính tín thọ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, biên chép, phân phát, lại giảng nói cho người khác, để họ không còn nghi ngờ nghĩa lý sâu xa, dạy bảo giáo giới các hữu tình: Các ngươi nên siêng năng tu chơn đạo Bồ-tát, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu có thể siêng năng tu học được đạo này thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu vớt vô biên các loài hữu tình, chứng được thật tế, đoạn tận các lậu, nhập Vô dư y bát Niết-bàn, thì phước đức của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, được phước nhiều hơn phước người giáo hóa, dẫn dắt rộng rãi các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ, đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông.

Cũng hơn phước giáo hóa loài hữu tình trong bốn đại châu, đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông.

Cũng hơn phước giáo hóa, dẫn dắt các loài hữu tình trong cõi Tiểu thiên đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông.

Cũng hơn phước giáo hóa, dẫn dắt các loài hữu tình trong một Trung thiên thế giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông.

Cũng hơn phước giáo hóa, dẫn dắt các loài hữu tình trong cõi Đại thiên đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông.

Cũng hơn phước giáo hóa, dẫn dắt các loài hữu tình khắp mười phương hằng hà sa thế giới đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đem vô lượng pháp môn vì người khác diễn nói, giảng thuyết, chỉ bày giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý, làm cho họ dễ hiểu thì sẽ được phước nhiều hơn tự mình lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đạt được công đức vô lượng gấp bội.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào tự mình đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, đem vô lượng môn vì người khác tuyên thuyết rộng rãi, giảng giải, chỉ bày, giải thích, phân biệt nghĩa lý rõ ràng, làm cho họ dễ hiểu; người này được phước nhiều hơn phước trước vô lượng, vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biên chép, trang nghiêm, thọ trì, đọc tụng. Lại có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... khác đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biên chép, trang nghiêm, phân phát cho hữu tình; người này đạt được phước nhiều hơn phước người trước vô lượng, vô biên.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biên chép, trang nghiêm, truyền bá cho các loài hữu tình. Lại có thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biết hoàn toàn về nghĩa lý, thường dùng nhiều văn nghĩa thâm diệu giảng nói cho người khác, thì người này được phước nhiều hơn phước người trước vô lượng, vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào cũng phải dùng văn nghĩa thâm diệu để diễn nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho người khác nghe hay sao?

Phật dạy:

- Này Kiều-thi-ca! Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể dùng các thứ văn nghĩa thâm diệu, vì người khác diễn nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì được vô biên đại công đức.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nên vì giảng thuyết nghĩa lý sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa này cho các loài hữu tình nào?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào không biết nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên giảng thuyết nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì đời sauthiện nam tử, thiện nữ v.v... cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nghe người khác giảng thuyết tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm liền mê lầm, thối thất giữa đường.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa mà gọi là giảng thuyết tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Ở đời sau có các Bí-sô không thể chuyên tu thân giới, tâm tuệ, trí tuệ thấp kém cũng như trâu dê, dù họ muốn giảng thuyết chơn thật Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các loài hữu tình nhưng lại điên đảo nói tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thế nào là Bí-sô điên đảo giảng thuyết tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Nghĩa là Bí-sô kia vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề mà nói sắc hoại nên gọi là vô thường; nói thọ, tưởng, hành, thức hoại nên gọi là vô thường. Lại nói như vầy: Nếu hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Kiều-thi-ca! Như vậy gọi là điên đảo tuyên nói tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Kiều-thi-ca! Không nên vì sắc hoại mà quán sắc là vô thường; không nên vì thọ, tưởng, hành, thức hoại mà quán thọ, tưởng, hành, thức là vô thường.

Nếu quán sắc cho đến thức là vô thường như vậy, nên biết người kia đã hành tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giảng thuyết bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cho người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nói lời như vầy: “Thiện nam tử, đến đây! Ta sẽ dạy ông tu học bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu y theo lời ta dạy mà tu học sẽ mau được an trụ từ sơ địa cho đến thập địa Bồ-tát, sẽ được vô lượng các Phật pháp khác, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, vượt hơn các địa vị Thanh văn, Độc giác.”

Này Kiều-thi-ca! Những người kia đem hữu tướnghữu sở đắc mà làm phương tiện, nương thời phần tưởng dạy tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đó gọi là điên đảo giảng thuyết tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào bảo người có chủng tánh Bồ-tát: Nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý sẽ được vô biên công đức thù thắng.

Này Kiều-thi-ca! Người kia đem hữu tướnghữu sở đắc làm phương tiện nói lời như vậy, đó gọi là điên đảo nói tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này bảo người có chủng tánh Bồ-tát: Các ông đối với chư Phật Thế Tôn ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại, từ lúc mới phát tâm cho đến rốt ráo có bao nhiêu căn lành đều nên tùy hỷ nhóm hợp tất cả, vì các hữu tình hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Này Kiều-thi-ca! Người kia đem hữu tướnghữu sở đắc làm phương tiện nói lời như vậy, gọi là điên đảo nói tương tự Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì vậy, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đem vô sở đắc làm phương tiện, vì các hữu tình giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chơn thật không điên đảo, thì đạt được phước vô lượng, vô biên, hay làm lợi ích an vui cho loài hữu tình.

Quyển thứ 541
HẾT

02

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... giáo hóa tất cả hữu tình ở châu Thiệm-bộ, đều giúp họ an trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có những thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đem tâm thanh tịnh cung kính tín thọ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên biên chép phân phát cho người khác, giảng giải nghĩa lý sâu xa khiến cho họ không còn nghi ngờ, dạy bảo giáo giới các hữu tình: “Các ngươi nên siêng năng tu đạo chơn chánh của Bồ-tát, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu siêng năng tu học được đạo này sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu vớt vô số các loài hữu tình, khiến họ mau chứng thật tế, chấm dứt các lậu hoặc, nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn”, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì tất cả quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa này phát sanh. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... đó nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dạy bảo giáo giới, siêng năng tu học, tuần tự viên mãn tất cả giáo pháp của Phật, cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, giáo hóa hữu tình làm cho đạt được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, nhập vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát cho đến chứng đắc quả Bồ-đề của Phật.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tình ở châu Thiệm-bộ lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tìnhbốn đại châu, đều làm cho họ an trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tìnhbốn đại châu lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tìnhTiểu thiên thế giới, đều làm cho họ an trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tìnhTiểu thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tìnhTrung thiên thế giới, đều làm cho họ an trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tìnhTrung thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tìnhĐại thiên thế giới, đều làm cho họ an trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tìnhĐại thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương, đều làm cho họ an trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào đem tâm thanh tịnh cung kính tín thọ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên biên chép phân phát cho người khác, giảng giải nghĩa lý sâu xa khiến họ không còn nghi ngờ, dạy bảo giáo giới các hữu tình: “Các ngươi nên siêng năng tu đạo chơn chánh của Bồ-tát, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường siêng năng tu học được đạo này thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu vớt được vô số các loài hữu tình, mau chứng thật tế, chấm dứt phiền não, nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn”, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì tất cả quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà được phát sanh. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... đó nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dạy bảo giáo giới, siêng năng tu học, tuần tự viên mãn tất cả giáo pháp của Phật, cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, giáo hóa loài hữu tình làm cho họ được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, nhập vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, cho đến chứng đắc quả Bồ-đề của Phật.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tình ở châu Thiệm-bộ, đều làm cho họ an trụ Độc giác Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có những thiện nam tử, thiện nữ v.v... đem tâm thanh tịnh, cung kính tín thọ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên biên chép phân phát cho người khác, rồi giảng giải nghĩa lý sâu xa khiến họ không còn nghi ngờ, dạy bảo giáo giới các hữu tình: “Các ngươi hãy siêng tu đạo chơn chánh của Bồ-tát, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường siêng năng tu học đạo này thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp vô số các loài hữu tình, khiến họ mau chứng Niết-bàn, chấm dứt phiền não, nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn”, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì tất cả quả Bồ-đề mà Độc giác đã chứng đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà được phát sanh. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... đó nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dạy bảo giáo giới, siêng năng tu học, tuần tự viên mãn tất cả giáo pháp của Phật, cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, giáo hóa các loài hữu tình khiến họ được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và bậc Độc giác Bồ-đề, nhập vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, cho đến chứng quả Bồ-đề của Phật.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tình ở châu Thiệm-bộ lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tìnhbốn đại châu, đều làm cho họ an trụ Độc giác Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tình trong bốn đại châu lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tìnhTiểu thiên thế giới, đều làm cho họ an trụ Độc giác Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tìnhTiểu thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tìnhTrung thiên thế giới, đều làm cho họ an trụ Độc giác Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tìnhTrung thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tìnhĐại thiên thế giới đều được an trụ Độc giác Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa tất cả hữu tìnhĐại thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều được an trụ Độc giác Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... đem tâm thanh tịnh cung kính tín thọ, vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, biên chép phân phát cho người khác, rồi giảng giải nghĩa lý sâu xa làm cho họ không còn nghi ngờ, dạy bảo giáo giới các hữu tình: “Các ngươi hãy siêng năng tu đạo chơn chánh của Bồ-tát, đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường siêng năng tu học đạo này thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp vô số các loài hữu tình, khiến họ chứng Niết-bàn, chấm dứt phiền não, nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn”, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì quả Bồ-đề mà tất cả Độc giác đã chứng đều do Bát-nhã ba-la-mật-đa này mà được phát sanh. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... đó nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dạy bảo giáo giới, siêng năng tu học, tuần tự viên mãn tất cả giáo pháp của Phật, cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, giáo hóa các loài hữu tình khiến họ được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và bậc Độc giác Bồ-đề, nhập vào ngôi Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, cho đến chứng quả Bồ-đề của Phật.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có những thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Rồi chuyển cho một người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thọ trì, đọc tụng, lại nói: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu một cách đúng đắn thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tìnhbốn đại châu đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các hữu tìnhbốn đại châu lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có những thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho một người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề thọ trì, đọc tụng, lại nói: “Này Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho một người đã đạt Bất thối chuyển đối với Vô thượng Bồ-đề thọ trì, đọc tụng, lại nói: “Này Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, ông nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu chứng đắc pháp nhất thiết trí thì có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ lại, nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tìnhbốn đại châu đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tìnhbốn đại châu lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Nói rộng như trước…

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới lại, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có những thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho một người đã đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thọ trì, đọc tụng và nói với người ấy như vầy: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn, thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì có thể tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Có các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, đem phân phát khắp cho những hữu tình kia thọ trì, đọc tụng và nói với họ: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn, thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho một người đã đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thọ trì, đọc tụng và nói với họ như vầy: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn, thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm bờ mé khổ cho các hữu tình, khiến họ mau chứng Niết-bàn của ba thừa.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Hãy gát việc giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, hoặc các loài hữu tìnhbốn đại châu, hoặc các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới, hoặc các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có những thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, đem phân phát cho tất cả những hữu tình kia thọ trì, đọc tụng và nói với họ như vầy: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn, thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho một người đã đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thọ trì, đọc tụng và nói với họ như vầy: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn, thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn liền có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm bờ mé khổ cho các hữu tình, làm cho họ mau chứng Niết-bàn của ba thừa.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Có các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng và nói với họ như vầy: “Thiện nam tử đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn, thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Trong các Bồ-tát đã đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có một Bồ-tát nói như vầy: “Nay ta vui mừng vì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp các khổ sanh tử cho hữu tình, làm cho họ được an vui rốt ráo thù thắng.” Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào vì thành tựu việc đó mà biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho vị Bồ-tát kia thọ trì, đọc tụng và nói với vị ấy như vầy: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn, thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn, liền chứng đắc trí nhất thiết trí.” Phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Ngoài các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, hoặc các loài hữu tìnhbốn đại châu, hoặc các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới, hoặc các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng và nói với họ như vầy: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Trong các Bồ-tát có một vị đã đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nói như vầy: “Nay ta thật vui mừng vì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp các khổ sanh tử cho hữu tình, giúp họ được an vui rốt ráo thù thắng.” Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào vì thành tựu việc đó mà biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho các vị Bồ-tát ấy thọ trì, đọc tụng và nói với họ như vầy: “Thiện nam tử, hãy đến đây! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các ông phải chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn pháp môn này. Nếu tin hiểu đúng đắn thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí. Nếu có thể chứng đắc pháp nhất thiết trí, thì tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn. Nếu tu Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn thì có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.” Phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Có các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý. Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, trao cho một người ở trong chúng kia thọ trì, đọc tụng làm cho họ thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý; lại dùng các thứ văn nghĩa khéo léo kỳ diệu để giải thích rộng rãi, phân biệt nghĩa lý giúp họ dễ hiểu, dạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Ngoài các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, hoặc các loài hữu tìnhbốn đại châu, hoặc các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới, hoặc các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý. Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, trao cho một người ở trong chúng kia thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý; lại dùng các thứ văn nghĩa khéo léo kỳ diệu để giải thích rộng rãi, phân biệt nghĩa lý giúp họ dễ hiểu, dạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; rồi có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, trao cho một người ở trong chúng kia thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý; lại dùng các thứ văn nghĩa khéo léo kỳ diệu giải thích rộng rãi, phân biệt nghĩa lý giúp họ dễ hiểu, dạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Ngoài các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, hoặc các loài hữu tìnhbốn đại châu, hoặc các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới, hoặc các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý. Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, trao cho một người ở trong chúng kia thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý; lại dùng các thứ văn nghĩa khéo léo kỳ diệu giải thích rộng rãi, phân biệt nghĩa lý giúp họ dễ hiểu, dạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sau khi phát tâm Vô thượng Bồ-đề đồng thanh nói: “Nay ta vui mừng vì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp các khổ sanh tử hữu tình làm cho họ được an vui rốt ráo thù thắng. Lại có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... vì thành tựu việc đó mà biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý. Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, trao cho một người ở trong chúng kia thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý; lại dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo kỳ diệu giải thích rộng rãi, phân biệt nghĩa lý giúp họ dễ hiểu, dạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Ngoài các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, hoặc các loài hữu tìnhbốn đại châu, hoặc các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới, hoặc các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Sau khi phát tâm Vô thượng giác đồng thanh nói như vầy: “Nay ta vui mừng vì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp các khổ sanh tử hữu tình, làm cho được an vui rốt ráo thù thắng.” Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... vì thành tựu việc đó mà biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý. Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, trao cho một người ở trong chúng kia thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý; lại dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo kỳ diệu giải thích rộng rãi, phân biệt nghĩa lý giúp họ dễ hiểu, dạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đồng thanh nói như vầy: “Nay ta vui mừng vì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp các khổ sanh tử hữu tình, làm cho được an vui rốt ráo thù thắng.” Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào vì thành tựu việc đó mà biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng, khiến thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý. Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, trao cho một người ở trong chúng kia thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý; lại dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo kỳ diệu giải thích rộng rãi, phân biệt nghĩa lý giúp họ dễ hiểu, dạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Ngoài các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, hoặc các loài hữu tìnhbốn đại châu, hoặc các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới, hoặc các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương đều đạt Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đồng thanh nói như vầy: “Nay ta vui mừng vì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp các khổ sanh tử hữu tình, làm cho được an vui rốt ráo thù thắng.” Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào vì thành tựu việc đó chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, truyền trao cho họ thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý. Ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, trao cho một người ở trong chúng kia thọ trì, đọc tụng, khiến cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý; lại dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo kỳ diệu giải thích rộng rãi, phân biệt nghĩa lý giúp họ dễ hiểu, dạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học, thì phước của các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được nhiều hơn trước, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm bằng các thứ báu, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, phổ biến cho tất cả hữu tình châu Thiệm-bộ, thì do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào vì một hữu tìnhphân biệt giảng thuyết nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để họ dễ hiểu thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này sẽ đạt được phước hơn trước rất nhiều, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, dùng các thứ báu để trang nghiêm, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, cho tất cả hữu tìnhbốn đại châu, hoặc tất cả hữu tìnhTiểu thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tìnhTrung thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tìnhĐại thiên thế giới, hoặc lại tất cả hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương, thì do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này vì một hữu tìnhphân biệt giảng thuyết nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để họ dễ hiểu thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này sẽ được phước hơn trước rất nhiều, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này vì các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, hoặc các loài hữu tìnhbốn đại châu, hoặc các loài hữu tìnhTiểu thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhTrung thiên thế giới, hoặc các loài hữu tìnhĐại thiên thế giới, hoặc các loài hữu tình trong hằng hà sa… thế giới khắp mười phương, phân biệt giảng thuyết nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để họ dễ hiểu, thì do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... ấy được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào vì một hữu tình, đem tâm không nhiễm phân biệt, giảng thuyết nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để họ dễ hiểudạy bảo giáo giới khiến họ siêng năng tu học thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này sẽ đạt được phước hơn trước rất nhiều, vô lượng, vô biên không thể đếm hết được.

Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch Phật:

- Đại Bồ-tát như vậy càng gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Như đem nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa dạy bảo giáo giới sao cho họ thông suốt hoàn toàn chơn như các pháp. Nên đem y phục, đồ ăn, thức uống, đồ nằm thuốc men thượng diệu và các thứ báu khác cung kính, cúng dường không để thiếu thốn. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể đem pháp thí, tài thí như vậy tức là hộ trì, cúng dường Đại Bồ-tát ấy. Do nhân duyên này, các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này sẽ được quả báo lớn, được thù thắng lớn vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy nhờ pháp thítài thí này hộ trì cúng dường nên mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Thiện Hiện khen Đế Thích:

- Hay thay! Hay thay! Này Kiều-thi-ca! Thật khéo khích lệ, hộ trì, giúp đỡ các Đại Bồ-tát khiến mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Nay ông đã là vị Thánh đệ tử của Phật, làm việc đáng làm. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì muốn lợi ích an vui cho các hữu tình nên các Thánh đệ tử tất cả Như Lai dùng phương tiện khích lệ, hộ trì, giúp đỡ các Đại Bồ-tát, làm cho các vị ấy mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì tất cả Như Lai, Thanh văn, Độc giác và các thắng sự thế gian đều nhờ chúng Đại Bồ-tát mà được xuất hiện. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì nếu không có Đại Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, thì không có Đại Bồ-tát có thể học bố thí cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu không có Đại Bồ-tát có thể học bố thí cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì không có Đại Bồ-tát chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu không có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì không có tất cả Như Lai, Thanh văn, Độc giác và các thắng sự thế gian.

Cho nên phải khích lệ, hộ trì, giúp đỡ các Đại Bồ-tát, làm cho các vị ấy học sáu pháp Ba-la-mật-đa viên mãn rốt ráo, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.

Quyển thứ 542
HẾT

 
VI. PHẨM TÙY HỶ HỒI HƯỚNG

01

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Đại đức! Các Đại Bồ-tát đã có sự tùy hỷ hồi hướng tương ưng với các việc phước nghiệp. Những việc phước nghiệp do bố thí, trì giới, tu tập v.v… đối với các hữu tình khác là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện hỏi Đại Bồ-tát Từ Thị:

- Các Đại Bồ-tát đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng, duyên theo vô lượng, vô biên, vô số thế giới khắp mười phương không thể nghĩ bàn. Mỗi mỗi thế giới không thể nghĩ bàn có vô lượng, vô biên, vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cắt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, đã vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn. Từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tuần tự như vậy cho đến khi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn, cho đến khi Chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó, tất cả giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn, và căn lành đều tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa. Hoặc căn lành tương ưng với công đức viên mãn của Phật. Hoặc căn lành tương ưng với lực vô úy. Hoặc căn lành tương ưng với thần thông Ba-la-mật-đa. Hoặc căn lành tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Hoặc căn lành tương ưng với đại nguyện Ba-la-mật-đa. Hoặc căn lành tương ưng với trí nhất thiết trí. Hoặc vì lợi ích an vui tất cả hữu tình nên đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc vì vô lượng, vô số công đức của chư Phật. Hoặc chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề diệu lạc. Hoặc đã được đại tự tại Ba-la-mật-đa đối với các pháp. Hoặc đã được vô lượng diệu hạnh của thần thông cao tột, có thể chinh phục tất cả những gì không thể chinh phục. Hoặc có oai lực dõng mãnh như thật của Như Lai không còn sự chướng ngại, không đối, không gì sánh bằng, không gì ví dụ nổi, không giới hạn. Hoặc tri kiến Phật. Hoặc mười lực Ba-la-mật-đa của Phật. Hoặc đã chứng Phật pháp bốn điều không sợ cao tột viên mãn. Hoặc đã chứng Phật pháp có thể phát khởi các pháp thắng nghĩa. Hoặc chuyển bánh xe pháp, hoặc cầm đuốc pháp, hoặc đánh trống pháp, hoặc thổi loa pháp, hoặc rưới mưa pháp, hoặc lập pháp hội, hoặc đem pháp vị ban cho các hữu tình tùy ý vui hưởng, để họ được đầy đủ. Hoặc đối với giáo pháp Vô thượng là pháp của chư Phật, pháp của Độc giác, pháp của Thanh văn, đã có sự điều phục thắng giải, quyết định hướng tới tam Bồ-đề. Hoặc Phật Thế Tôn thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cho các Bồ-tát. Hoặc tất cả căn lành thù thắng kia, gọi là căn lành tương ưng bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hoặc thọ ký Bồ-đề cho Độc giác Bổ-đặc-già-la, Độc giác thừa. Hoặc tất cả căn lành thù thắng kia là căn lành tương ưng sự quán sát mười hai duyên khởi. Hoặc thọ ký Bồ-đề cho Thanh văn Bổ-đặc-già-la, Thanh văn thừa. Hoặc tất cả căn lành thù thắng kia, gọi là căn lành tương ưng ba phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh. Hoặc căn lành vô lậu của bậc học và vô học. Hoặc căn lành của các phàm phu đã gieo trồng với các pháp. Hoặc bốn chúng đệ tử của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là Bí-sô, Bí-sô-ni, cận sự nam, cận sự nữ, đã có ba việc phước nghiệp do thí tánh, giới tánh, tu tánh. Hoặc đối với giáo pháp chư Phật đã thuyết cho trời, rồng, Dược-xoa, nói rộng cho đến người chẳng phải người v.v… đã gieo trồng căn lành. Hoặc đã gieo trồng căn lành sau khi Phật nhập Niết-bàn. Hoặc các loài hữu tình thân tâm tin ưa đã phát khởi các căn lành thù thắng và các công đức khác đối với Phật, Pháp, Tăng và các Thiện sĩ. Tập hợp tất cả xem xét cân lường và hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu.

Lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệpban cho hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện đem căn lành này cùng loài hữu tình đồng hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như vậy, việc phát khởi tùy hỷ hồi hướng và các việc phước nghiệp được phát sanh khác là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng. Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát kia duyên theo việc như vậy mà khởi lên hành động tương ưng với tâm tùy hỷ hồi hướng là có sở duyên, có thể đắc, có giống như sự chấp tướng của Bồ-tát kia không?

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị trả lời cụ thọ Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát kia duyên theo sự việc như vậy mà khởi lên hành động tương ưng với tâm tùy hỷ hồi hướng này, thật sự không có sở duyên có thể đắc, như tướng mà Bồ-tát đã chấp thủ.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Bồ-tát Từ Thị:

- Nếu không có các việc sở duyên như Bồ-tát kia đã chấp lấy tướng, thì các Bồ-tát kia tùy hỷ hồi hướng đâu chẳng thành tưởng, tâm, kiến điên đảo. Vì sao? Vì như có người tham đắm việc vô sở hữu: Vô thường cho là thường, thật sự khổ cho là vui, vô ngã bảo là ngã, bất tịnh cho là tịnh, liền phát khởi tưởng, tâm, kiến điên đảo. Như việc sở duyên thật sự vô sở hữu. Bồ-đề và tâm cũng lại như vậy, tất cả pháp và tất cả cảnh giới cũng như vậy. Nếu tất cả chủng loại đều vô sở hữu, không sai khác thì những gì là việc sở duyên, những gì là tâm tùy hỷ, những gì là Bồ-đề, những gì là hồi hướng? Tại sao Đại Bồ-tát này duyên việc như vậy mà khởi tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Bồ-tát Từ Thị trả lời với Thiện Hiện:

- Đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì không nên đối trước các Bồ-tát mới học Đại thừa kia mà nói. Vì sao? Vì người kia nghe tất cả sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì tâm tin ưa, cung kính sẽ mất ngay. Như vậy, pháp tùy hỷ hồi hướng nên vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, hoặc người đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, đã phát nguyện lớn, gieo trồng nhiều căn lành lâu dài, đã được nhiều bạn lành hộ trì mà khai thị phân biệt. Vì sao? Vì những người kia nghe được sự tùy hỷ hồi hướng này chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng lui, chẳng mất.

Các Đại Bồ-tát nên đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chính lúc bấy giờ, nên nghĩ: Phải dụng tâm tùy hỷ hồi hướng, sự dụng tâm này đã tận diệt ly biến. Việc sở duyên này và các căn lành cũng đều như tâm tận diệt ly biến. Trong đây những gì là chỗ dụng tâm? Và lấy những gì làm việc sở duyên và các căn lành mà nói tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Đúng lý thì tâm này đối với tâm không có sự tùy hỷ hồi hướng, vì không có hai tâm đồng thời khởi lên. Tâm cũng không thể tùy hỷ hồi hướng tự tánh tâm. Vì thế nên tâm tùy hỷ hồi hướng và việc sở duyên đều bất khả đắc.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa Thiện Hiện:

- Các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa nghe việc này, tâm họ sẽ không kinh sợ lui mất. Làm sao chúng Đại Bồ-tát đối với việc sở duyênkhởi tâm tùy hỷ? Làm sao gìn giữ sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp, để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà không trái lý?

Bấy giờ, Thiện Hiện nương oai lực Bồ-tát Từ Thị bảo Đế Thích:

- Các Đại Bồ-tát duyên theo tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong vô lượng, vô biên, vô số thế giới khắp mười phương không thể nghĩ bàn để cắt đứt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, quét sạch mây mù, dọn dẹp chông gai, bỏ các gánh nặng, đạt được tự lợi, hết sự trói buộc các cõi, chánh trí giải thoát, tâm được tự tại, đạt đến cứu cánh đệ nhất, vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn. Từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã cầu, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình. Sau khi nhập Niết-bàn cho đến chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó đã gieo trồng các công đức căn lành, và chúng đệ tử đã gieo trồng căn lành với giáo pháp của Phật, đồng thời khởi lên các công đức khác. Tập hợp tất cả xem xét cân lường và hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Lại đem các việc phước nghiệp tương ưng tâm tùy hỷ này cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lúc bấy giờ, nhờ vào phương tiện thiện xảo nên vị ấy không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát tự mình khởi lên tâm tương ưng với sự tùy hỷ hồi hướng nhưng chẳng khởi lên vọng tưởng về tâm tùy hỷ hồi hướng ấy. Đối với công đức do niệm Phật và các đệ tử mà không khởi lên tư tưởng về công đức của chư Phật và các đệ tử; đối với căn lành mà Bồ-tát đã gieo trồng với các trời, người, A-tu-la v.v... mà chẳng khởi lên vọng tưởng về căn lành đối với các trời, người, A-tu-la v.v…, nhưng có thể tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì sự phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng của Đại Bồ-tát ấy không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Đại Bồ-tát nào đối với tâm khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng tương ưng mà dấy lên tâm tưởng về tùy hỷ hồi hướng; đối với công đức niệm Phật và các đệ tử, mà khởi lên tưởng về công đức của niệm Phật và các đệ tử; đối với căn lành mà các trời, người, A-tu-la v.v… đã gieo trồng mà khởi lên tưởng về căn lành của các trời, người, A-tu-la v.v… đã gieo trồng, có thể tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; sự khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng của Đại Bồ-tát như vậy là rơi ngay vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo. Các Đại Bồ-tát đem tâm như vậy nhớ nghĩ về tất cả căn lành công đức của chư Phật và các đệ tử, biết đúng đắn tâm này đã tận diệt ly biến, không thể tùy hỷ và biết đúng đắn pháp kia tánh nó cũng vậy, chẳng phải sự tùy hỷ. Và hiểu một cách đúng đắn tâm hồi hướngpháp tánh cũng vậy, chẳng phải hồi hướng. Chơn chánh hiểu rõ pháp được hồi hướng, tánh nó cũng vậy chẳng phải được hồi hướng. Nếu có thể dựa vào sự trình bày như vậy để tùy hỷhồi hướng là chánh, chẳng phải tà thì các Đại Bồ-tát đều phải khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy, để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như chư Phật Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát trong quá khứ mà cắt đứt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tiến dần đến lúc nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn, như vậy cho đến Chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó đã có bao căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa của chư Phật. Hoặc căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa mà chư Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ-tát. Hoặc căn lành tương ưng với sự quán sát duyên khởi mà chư Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Độc giác. Hoặc căn lành tương ưng đã phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánh mà chư Phật Thế Tôn đã thọ ký cho hàng Thanh văn. Hoặc tất cả căn lành hữu lậu, vô lậu của bậc hữu học. Hoặc căn lành vô lậu của bậc Vô học. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn. Hoặc vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình nên đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc vô lượng, vô số các Phật pháp khác. Hoặc Phật Thế Tôn tuyên thuyết Chánh pháp. Hoặc các căn lành kia an trụ thắng giải do siêng năng tu học với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các loài dị sanh đã gieo trồng với Chánh pháp. Hoặc căn lành của trời, rồng, A-tu-la v.v... đã gieo trồng lúc lắng nghe Chánh pháp, và sau khi nghe pháp; cho đến căn lành của loài bàng sanh đã gieo trồng lúc lắng nghe Chánh pháp và sau khi nghe pháp. Hoặc các căn lành của trời, người v.v... đã gieo trồng sau khi Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn. Tập hợp tất cả cân lường và hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu.

Lại đem các việc phước nghiệp tương ưng sự tùy hỷ này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong lúc này, nếu chơn chính hiểu rõ các pháp được tùy hỷ hồi hướng tận diệt ly biến, và hết thảy các pháp được tùy hỷ hồi hướng tự tánh đều là Không. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vả lại, trong lúc này hoàn toàn hiểu rõ chơn chính không có pháp nào có thể tùy hỷ hồi hướng với pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là Không. Trong cái Không ấy hoàn toàn không có pháp nào có thể tùy hỷ hồi hướng. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này sẽ không rơi vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này không chấp trước tâm tùy hỷ và căn lành công đức đã tùy hỷ; đối với tâm hồi hướng và quả Vô thượng Bồ-đề đã hồi hướng cũng không chấp trước. Do không chấp trước nên chẳng rơi vào cảnh điên đảo. Bồ-tát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh vô thượng, xa lìa tất cả hư vọng phân biệt.

Đại Bồ-tát nào đối với pháp có thể tùy hỷ hồi hướng khởi lên vọng tưởng về pháp có thể tùy hỷ hồi hướng; đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng; rồi khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy sẽ rơi ngay vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo. Sự khởi lên tùy hỷ hồi hướng này đều sai. Bồ-tát nên biết mà phương tiện lánh xa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như chư Phật Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát ở đời vị lai cắt đứt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tiến dần đến khi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn, như vậy cho đến lúc Chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó có bao căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa của chư Phật. Hoặc căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ-tát. Hoặc căn lành tương ưng với sự quán sát duyên khởiPhật Thế Tôn đã thọ ký cho Độc giác. Hoặc căn lành tương ưng đã phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánhPhật Thế Tôn đã thọ ký cho hàng Thanh văn. Hoặc căn lành tất cả hữu lậu, vô lậu của bậc hữu học. Hoặc căn lành vô lậu của bậc Vô học. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Phật Thế Tôn. Hoặc vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình nên đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc vô lượng, vô số Phật pháp khác. Hoặc Phật Thế Tôn tuyên thuyết Chánh pháp. Hoặc các căn lành kia an trụ thắng giải do siêng năng tu học với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các loài dị sanh đã gieo trồng với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các trời, rồng, A-tu-la v.v... đã gieo trồng lúc lắng nghe Chánh pháp, và sau khi nghe pháp; cho đến căn lành của loài bàng sanh đã gieo trồng lúc lắng nghe Chánh pháp và sau khi nghe pháp. Hoặc căn lành của các trời, người v.v... đã gieo trồng sau khi Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn. Tập hợp tất cả cân lường và hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu.

Lại đem các việc phước nghiệp tương ưng sự tùy hỷ này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong lúc này, nếu chơn chính hiểu rõ các pháp được tùy hỷ hồi hướng tận diệt ly biến, và các pháp được tùy hỷ hồi hướng tự tánh đều là Không. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vả lại, trong lúc này hoàn toàn hiểu rõ chơn chính không có pháp nào có thể tùy hỷ hồi hướng với pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là Không. Trong cái Không ấy hoàn toàn không có pháp có thể tùy hỷ hồi hướng. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này sẽ không rơi vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này không chấp trước tâm tùy hỷ và căn lành công đức đã tùy hỷ; đối với tâm hồi hướng và sự hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không chấp trước. Do không chấp trước nên chẳng rơi vào cảnh điên đảo. Đại Bồ-tát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh vô thượng, xa lìa tất cả hư vọng phân biệt.

Đại Bồ-tát nào đối với pháp có thể tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp có thể tùy hỷ hồi hướng; đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng; rồi khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy sẽ rơi ngay vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Sự khởi lên tùy hỷ hồi hướng này đều sai. Bồ-tát nên biết mà phương tiện lánh xa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như chư Phật Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát ở đời hiện tại cắt đứt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tiến dần đến khi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn, như vậy cho đến Chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó có bao căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa của chư Phật. Hoặc căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ-tát. Hoặc căn lành tương ưng với sự quán sát duyên khởiPhật Thế Tôn đã thọ ký cho Độc giác. Hoặc căn lành tương ưng đã phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánhPhật Thế Tôn đã thọ ký cho hàng Thanh văn. Hoặc căn lành tất cả hữu lậu, vô lậu của bậc hữu học. Hoặc căn lành vô lậu của bậc Vô học. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Phật Thế Tôn. Hoặc vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình nên đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc vô lượng, vô số Phật pháp khác. Hoặc Phật Thế Tôn tuyên thuyết Chánh pháp. Hoặc các căn lành kia an trụ thắng giải do siêng năng tu học với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các loài dị sanh đã gieo trồng với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các trời, rồng, A-tu-la v.v... đã gieo trồng lúc lắng nghe Chánh pháp, và sau khi nghe pháp; cho đến căn lành của loài bàng sanh đã gieo trồng lúc lắng nghe Chánh pháp và sau khi nghe pháp. Hoặc căn lành của các trời, người v.v... đã gieo trồng sau khi Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn. Tập hợp tất cả cân lường và hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu.

Lại đem các việc phước nghiệp tương ưng sự tùy hỷ này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong lúc này, nếu chơn chính hiểu rõ các pháp được tùy hỷ hồi hướng tận diệt ly biến; các pháp được tùy hỷ hồi hướng tự tánh đều là Không. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vả lại, trong lúc này nếu hoàn toàn hiểu rõ chơn chính không có pháp nào có thể tùy hỷ hồi hướng với pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là Không. Trong cái Không ấy hoàn toàn không có pháp có thể tùy hỷ hồi hướng. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này sẽ không rơi vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này không chấp trước tâm tùy hỷ và căn lành công đức đã tùy hỷ; đối với tâm hồi hướng và sự hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không chấp trước. Do không chấp trước nên chẳng rơi vào cảnh điên đảo. Đại Bồ-tát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh vô thượng, xa lìa tất cả hư vọng phân biệt.

Đại Bồ-tát nào đối với pháp có thể tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp có thể tùy hỷ hồi hướng; đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng, rồi khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Sự tùy hỷ hồi hướng này đều sai. Bồ-tát nên biết mà phương tiện lánh xa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như chư Phật Thế Tôn, nếu Đại Bồ-tát trong quá, khứ, vị lai, hiện tại, cắt đứt đường qua lại các cõi, chấm dứt sự hý luận, từ lúc mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tiến dần đến khi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn, như vậy cho đến Chánh pháp diệt, trong khoảng thời gian đó bao căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa của chư Phật. Hoặc căn lành tương ưng với Ba-la-mật-đa mà Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Bồ-tát. Hoặc căn lành tương ưng với sự quán sát duyên khởiPhật Thế Tôn đã thọ ký cho Độc giác. Hoặc căn lành tương ưng đã phát khởi thí tánh, giới tánh, tu tánhPhật Thế Tôn đã thọ ký cho hàng Thanh văn. Hoặc căn lành tất cả hữu lậu, vô lậu của bậc hữu học. Hoặc căn lành vô lậu của bậc Vô học. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Phật Thế Tôn. Hoặc vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình nên đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc vô lượng, vô số Phật pháp khác. Hoặc Phật Thế Tôn tuyên thuyết Chánh pháp. Hoặc các căn lành kia an trụ thắng giải do siêng năng tu học với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các loài dị sanh đã gieo trồng với Chánh pháp. Hoặc căn lành của các trời, rồng, A-tu-la v.v... đã gieo trồng lúc lắng nghe Chánh pháp, và sau khi nghe pháp; cho đến căn lành của loài bàng sanh lúc lắng nghe Chánh pháp và sau khi nghe pháp. Hoặc căn lành của các trời, người v.v... đã gieo trồng sau khi Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn. Tập hợp tất cả cân lường và hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu.

Lại đem các việc phước nghiệp tương ưng sự tùy hỷ này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong lúc này, nếu chơn chính hiểu rõ các pháp được tùy hỷ hồi hướng tận diệt ly biến; các pháp được tùy hỷ hồi hướng tự tánh đều là Không. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vả lại, trong lúc này nếu hoàn toàn hiểu rõ chơn chính không có pháp có nào thể tùy hỷ hồi hướng với pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều là Không. Trong cái Không ấy hoàn toàn không có pháp tùy hỷ hồi hướng. Tuy biết như vậy nhưng vẫn thường tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này sẽ không rơi vào cảnh tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này không chấp trước tâm tùy hỷ và căn lành công đức đã tùy hỷ; đối với tâm hồi hướng và sự hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không chấp trước. Do không chấp trước nên chẳng rơi vào cảnh điên đảo. Đại Bồ-tát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh vô thượng, xa lìa tất cả hư vọng phân biệt.

Đại Bồ-tát nào đối với pháp có thể tùy hỷ hồi hướng mà khởi lên vọng tưởng về pháp có thể tùy hỷ hồi hướng; đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng khởi lên vọng tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng, rồi khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo. Sự tùy hỷ hồi hướng này đều sai. Bồ-tát nên biết mà phương tiện lánh xa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với sự tu hành, làm các việc phước nghiệp, như thật biết rõ, xa lìa, vắng lặng; đối với tâm thường tùy hỷ hồi hướng cũng như thật hiểu rõ, xa lìa, vắng lặng. Biết như vậy rồi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhưng trong các pháp hoàn toàn không có chấp thủ mà khởi lên tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát này đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng ấy nên không rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Đại Bồ-tát nào đối với sự tu hành, làm các việc phước nghiệp nhưng không như thật biết sự xa lìa, vắng lặng; đối với tâm thường tùy hỷ hồi hướng cũng không thể biết được sự xa lìa, vắng lặng; đối với tất cả pháp chấp trước các tướng mà khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, là Đại Bồ-tát này đã khởi tâm tùy hỷ hồi hướng liền rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào đối với căn lành công đức của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đã diệt độ, nếu muốn phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ấy, nên nghĩ như vầy: Như đức Phật Thế Tôn và các đệ tử đều đã diệt độ, tự tánh chẳng phải có, căn lành công đức cũng lại như vậy. Ta đã phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và sự hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tánh tướng cũng vậy đều bất khả đắc. Biết như vậy rồi, đối với các căn lành làm phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì không thể sanh tưởng, tâm, kiến điên đảo, gọi là sự tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề chơn chánh.

Đại Bồ-tát nào lấy sự chấp tướng làm phương tiện hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với căn lành công đức của Phật và các đệ tử đã diệt độ, chấp giữ tướng tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề, đây chẳng phải là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Do đó liền rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Đại Bồ-tát nào không chấp giữ tướng làm phương tiện tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với căn lành công đức của Phật và đệ tử đã diệt độ, lìa tướng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Do đây chẳng rơi vào tưởng, tâm, kiến điên đảo.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Từ Thị hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Đại đức! Vì sao đối với căn lành công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử, Đại Bồ-tát tùy hỷ tương ưng việc phước nghiệp hoàn toàn không chấp tướng mà có thể tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện đáp:

- Nên biết Đại Bồ-tát đã học Bát-nhã ba-la-mật-đa và có những phương tiện thiện xảo như vậy, tuy không chấp tướng nhưng hoàn thành được việc làm, chẳng phải lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có được sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh. Vì thế chúng Đại Bồ-tát muốn thành tựu phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát Từ Thị nói:

- Đại đức Thiện Hiện chớ nói lời ấy. Vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chư Phật Thế Tôn cùng chúng đệ tử và căn lành công đức được thành tựu đều không sở hữubất khả đắc. Sự tùy hỷ với các việc phước nghiệp đã tạo thành và phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ-đề cũng không sở hữubất khả đắc. Trong đây, khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phải quán như vầy: Bản tánh căn lành công đức của chư Phật và chúng đệ tử đời quá khứ đều đã diệt. Sự tùy hỷ với các việc phước nghiệp tạo thành và phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ-đề tánh đều vắng lặng. Đối với căn lành công đức của chư Phật Thế Tôn và chúng đệ tử, nếu ta chấp lấy tướng phân biệt, đối với sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp và chấp lấy tướng phân biệt sự phát tâm hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, lấy sự chấp giữ tướng phân biệt này, phương tiện khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chư Phật Thế Tôn đều không chấp nhận.

Vì sao? Vì chấp lấy tướng phân biệt tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Bồ-đề đối với chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đã diệt độ thì gọi là có sở hữu to lớn, bởi quá khứ đã diệt nên không có sở hữu. Vị lai, hiện tại đức Phật và các đệ tử chưa đến, không trụ cũng bất khả đắc. Nếu bất khả đắc thì chẳng phải chấp thủ tướng cảnh. Nếu chấp thủ tướng ấy rồi phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng thì liền rơi vào cảnh điên đảo. Nếu có sự thất niệmchấp thủ tướng, thì nên biết chẳng phải là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn. Phải không chấp thủ tướng, không có sự phân biệt mới gọi là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn.

Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát nên học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nhờ năng lực của phương tiện thiện xảo này mới có thể chơn chánh phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng.

Nếu Đại Bồ-tát muốn học phương tiện thiện xảo như vậy phải thường lắng nghe thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sao cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, siêng thưa hỏi Thầy nghĩa lý thâm sâu. Vì sao? Vì nếu chẳng nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì quyết chẳng thể đắc phương tiện thiện xảo. Nếu khôngphương tiện thiện xảo này mà có thể phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh, thì không có sự việc ấy.

Vì sao? Vì đối với các công đức v.v… của chư Phật và chúng đệ tử quá khứ mà chấp lấy tướng phân biệt rồi tùy hỷ hồi hướng thì chư Phật Thế Tôn đều chẳng tùy hỷ. Vì vậy, chúng Đại Bồ-tát muốn chơn chánh phát khởi tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đối với công đức căn lành của chư Phật và các đệ tử thì không nên ở đó mà thấy có sở đắc và chấp lấy tướng phân biệttùy hỷ hồi hướng.

Nếu ở trong đó mà khởi lên có sở đắc và chấp lấy tướng phân biệt rồi tùy hỷ hồi hướng thì đức Phật nói việc đó chẳng có ý nghĩa và không lợi ích gì cả. Vì sao? Vì tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy là vọng tưởng phân biệt gọi là xen lẫn chất độc.

Như thức ăn nước uống với đầy đủ màu sắc mỹ vị thơm ngon hảo hạng nhưng lẫn chất độc. Người ngu trí cạn lại ham ăn uống nên nuốt vào. Ban đầu tuy có thích thú vui mừng vừa ý. Nhưng sau khi thức ăn tiêu hóa phải chuốc lấy các khổ, hoặc đến chết, hoặc gần mất mạng. Cũng như vậy, có một người hoàn toàn không giỏi thọ trì, chẳng giỏi quán sát về câu văn nghĩa lý của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng giỏi đọc tụng, chẳng giỏi thông suốt nghĩa lý sâu xa, nhưng lại bảo người có chủng tánh Đại thừa: Thiện nam tử, hãy đến đây! Ông đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vị lai, hiện tạivô lượng, vô biên công đức. Hoặc đệ tử Phật ở chỗ chư Phật gieo trồng các căn lành. Hoặc đức Phật Thế Tôn đã thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cho các Bồ-tát và các Bồ-tát ấy đã gieo trồng căn lành. Hoặc đức Phật Thế Tôn đã thọ ký cho Thanh văn, Độc giác, loài hữu tình kia đã gieo trồng căn lành. Hoặc các trời, người, A-tu-la v.v... ở chỗ chư Phật đã gieo trồng căn lành cho đến khi Chánh pháp chưa diệt tận. Hoặc các thiện nam tử, thiện nữ v.v… đã gieo trồng căn lành và đã có sự thành tựu công đức do phát sanh căn lành tùy hỷ hồi hướng. Như vậy, tập hợp tất cả cân lường và hiện tiền tùy hỷ ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Sự tùy hỷ hồi hướng như đã nói này lấy có sở đắc và chấp lấy tướng phân biệt làm phương tiện. Thí như đồ ăn, thức uống của thế gian có lẫn chất độc nên trước ngon sau hại. Đây chẳng phải sự tùy hỷ hồi hướng hoàn hảo. Vì sao? Vì lấy có sở đắc và chấp thủ tướng phân biệtphát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng là đều lẫn chất độc. Những người thuộc chủng tánh Bồ-tát không nên tùy theo những điều đã nói trên mà tu học.

Vì vậy, Đại đức phải nói thế nào cho các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa nên tùy hỷ hồi hướng đối với căn lành công đức của chư Phật và các đệ tử trong mười phương ba đời, để đáng gọi là sự tùy hỷ hồi hướng đúng đắn, tốt đẹp không độc hại?

Cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Từ Thị:

- Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, muốn không hủy báng Phậtphát tâm tùy hỷ hồi hướng thì nên nghĩ thế này: Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với Phật nhãn thông suốt không có sự chướng ngại, biết tất cả căn lành công đức có tánh như vậy, có tướng như vậy, có pháp như vậy mà nên tùy hỷ. Nay ta cũng nên tùy hỷ như vậy. Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với Phật nhãn thông suốt biết rõ, không có chướng ngại, đem các việc phước nghiệp hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề như vậy. Nay ta cũng nên hồi hướng như vậy.

Các thiện nam tử, thiện nữ v.v… trụ Bồ-tát thừa nên khởi sự tùy hỷ hồi hướng như vậy đối với căn lành công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử. Nếu khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì chẳng hủy báng Phật, được chư Phật Thế Tôn đồng tùy hỷ. Tâm tùy hỷ hồi hướng của Đại Bồ-tát như vậy chẳng lẫn các chất độc, xa lìa các lầm lỗi nên được gọi là sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh, tốt đẹp, xứng chơn pháp giới, ý vui thắng giải cùng với sự viên mãn hoàn toàn.

Lại nữa, Đại sĩ! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v… trụ Bồ-tát thừa hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với căn lành công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử nên khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vầy: Như giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn và các pháp khác của Phật chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời; sự tùy hỷ hồi hướng cũng lại như vậy. Vì sao? Vì các pháp kia tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời, sự tùy hỷ hồi hướng cũng lại như vậy. Nghĩa là chư Như Lai tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Công đức của chư Phật tự tánh là Không nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Thanh văn, Độc giác và trời, người v.v... tự tánh cũng là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Các căn lành kia tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Đối với sự tùy hỷ kia tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Pháp được hồi hướng tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Người hồi hướng tự tánh là Không, nên chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời.

Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát nào như thật biết rõ tánh tướng các pháp thì chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời. Nếu chẳng rơi vào ba cõi, chẳng thuộc ba đời, tức không thể lấy có tướng làm phương tiện, lấy có sở đắc làm phương tiện để phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh không sanh. Nếu pháp không sanh thì không có sở hữu. Không thể lấy pháp khôngsở hữu kia để tùy hỷ hồi hướng, vì không có sở hữu. Sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Đại Bồ-tát như vậy chẳng xen lẫn chất độc, không bị mất và hư hoại gọi là đại hồi hướng, không đọa, không thuộc, xứng chơn pháp giới, rốt ráo viên mãn. Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… trụ Bồ-tát thừa lấy có tướng làm phương tiện, hoặc lấy có sở đắc làm phương tiện để phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng đối với căn lành công đức của chư Như Lai và các đệ tử, phải biết đây là sự tùy hỷ hồi hướng phi pháp. Tâm tùy hỷ hồi hướng phi pháp, chẳng được chư Phật Thế Tôn khen ngợi.

Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát nào nghĩ như vầy: Như căn lành công đức mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới như thật thông suốtpháp như vậy, có thể dựa vào pháp này để phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược; nay ta cũng nên dựa vào pháp như vậy để phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đây là sự tùy hỷ hồi hướng chơn chánh. Do đây chắc chắn sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu làm lợi ích cho tất cả hữu tình.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Hay thay! Hay thay! Nay ông mới có thể vì các Đại Bồ-tát làm Phật sự lớn. Vì sao? Vì ông đã vì các Đại Bồ-tát tuyên nói sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết rõ những căn lành v.v… có tánh như vậy, có tướng như vậy, có pháp như vậy và phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Tâm tùy hỷ hồi hướng như vậy xứng chơn pháp giới, rốt ráo viên mãn. Nay chính ông mới có thể tuyên thuyết đúng như thật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… phương tiện giáo hóa hữu tình trong hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới đều làm cho họ an trụ mười thiện nghiệp đạo thì sẽ được công đức. Đối với công đức ấy, các Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Đối với công đức ấy là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc làm họ trụ mười thiện nghiệp đạo, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… phương tiện giáo hóa hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình, đều làm cho họ an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm phép thần thông thì sẽ được công đức. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Đối với công đức ấy là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc làm cho họ trụ bốn tịnh lự v.v… nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… phương tiện giáo hóa hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình, đều làm cho họ an trụ quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Độc giác Bồ-đề thì sẽ được công đức. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Đối với công đức ấy là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc khiến họ trụ quả Dự lưu v.v…, giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình đã có công đức do thành tựu quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề. Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược. Đối với công đức ấy gọi là tối tôn, là thù thắng, là tôn quí, là cao đẹp, là nhiệm mầu, là vi diệu, là vô thượng, là trên hết, không gì hơn, không gì sánh bằng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc đã có công đức do thành tựu quả Dự lưu v.v... Giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nếu hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương ở chỗ các Bồ-tát kia, mỗi mỗi đều đem y phục, thức ăn, nước uống, đồ nằm, thuốc men và vô số thứ nhạc cụ thượng hạng, trải qua hằng hà sa số đại kiếp, dùng có sở đắc làm phương tiện, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, thì ý ông thế nào? Do nhân duyên này, các hữu tình được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Những phước này nếu có hình sắc thì hằng hà sa thế giới khắp mười phương không thể chứa hết được.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Đối với căn lành công đức chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… trụ Bồ-tát thừa phát khởi sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, thì sẽ được công đức hơn trước, rất nhiều vô lượng, vô số, tính đếm thí dụ không thể được. Vì sao? Vì các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo hộ trì nên xứng pháp giới, tối thắng, không gì so sánh được. Các hữu tình đó đã được nhiều phước vì dùng có sở đắc làm phương tiện, nên đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng này trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến muôn ức phần cũng không bằng một.

Bấy giờ, bốn Đại thiên vương đều cùng với quyến thuộc hai vạn Thiên tử đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung kính đồng thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện thiện xảo hộ trì, nên oai lực rộng lớn, xứng chơn pháp giới, mau chứng đắc trí nhất thiết trí, hơn hẳn sự bố thí có sở đắc mà trước đã nói, vô lượng, gấp bội lần không thể nào sánh được.

Khi ấy, trời Đế Thích cho đến vua trời Tha hóa tự tại cùng quyến thuộc mười vạn Thiên tử đều mang các thứ quí đẹp của cõi trời: Tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v… y phục, chuỗi anh lạc, tràng phan, bảo cái, nhiều ngọc quí lạ, và tấu nhạc trời để dâng lên Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, đảnh lễ sát chân Phậtchấp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện thiện xảo hộ trì, oai lực rộng lớn, xứng chơn pháp giới, mau chứng đắc trí nhất thiết trí, hơn hẳn sự bố thí có sở đắc mà trước đã nói, vô lượng, gấp bội lần không thể nào sánh được.

Khi ấy, trời Đại phạm, nói rộng cho đến trời Sắc cứu cánh đều cùng vô lượng trăm ngàn chúng trời đến trước Phật, đảnh lễ chân Ngài, chấp tay cung kính, đồng thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có! Bạch Thiện Thệ! Thật kỳ lạ! Đại Bồ-tát này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng phương tiện thiện xảo hộ trì, nên oai lực rộng lớn, xứng chơn pháp giới, mau chứng đắc trí nhất thiết trí, hơn hẳn sự bố thí có sở đắc mà trước đã nói, vô lượng, gấp bội lần không thể nào sánh được.

Quyển thứ 543
HẾT

02

Đức Phật bảo trời Tịnh cư và các chúng trời:

- Ngoài việc hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác. Giả sử tất cả hữu tìnhvô biên thế giới khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, nếu có tất cả hữu tình trong vô biên thế giới khắp mười phương, ở chỗ các Bồ-tát kia mỗi mỗi đều đem y phục, thức ăn, nước uống, giường nằm, thuốc thang, và vô lượng thứ nhạc cụ thượng hạng, trải qua hằng hà sa số đại kiếp, dùng có sở đắc làm phương tiện, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen; lại có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... trụ Bồ-tát thừa khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược đối với căn lành công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử, thì được công đức hơn trước rất nhiều, vô lượng, vô số, tính đếm thí dụ không thể sánh kịp.

Vì sao? Vì các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa phát khởi tâm tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, dùng vô sở đắc làm phương tiện, được phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên xứng chơn pháp giới, tối thắng không gì bằng. Các hữu tình kia được nhiều phước, dùng có sở đắc làm phương tiện, khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng đối với pháp này thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến muôn ức phần cũng không bằng một.

Chư Thiên nên biết: Ngoài việc này, giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị laivô lượng, vô biên các Phật pháp khác, hoặc căn lành của các đệ tử, hoặc căn lành của các hữu tình khác đã tập hợp, đang tập hợp, sẽ tập hợp. Tập hợp tất cả cân lường, dùng hữu tướng và có sở đắc làm phương tiện, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nếu các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa phát sanh quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị laivô lượng, vô biên Phật pháp khác, hoặc căn lành của các đệ tử, hoặc căn lành của các hữu tình khác đã tập hợp, đang tập hợp, sẽ tập hợp. Tập hợp tất cả cân lường, hiện tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp.

Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này ban cho các hữu tình bình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này so với sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng trước gấp bội trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần, cũng lại hơn trước rất nhiều. Vì sao? Vì sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này lấy vô tướng, vô sở đắc làm phương tiện, còn sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng trước lấy có tướng và có sở đắc làm phương tiện.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Như lời Thế Tôn dạy: Nếu các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phổ khắp đối với công đức căn lành của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Tập hợp tất cả như vậy cân lường và hiện tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng với phước nghiệp sự; lại đem sự tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này hơn hẳn sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng trước vô số lần.

Bạch Thế Tôn! Ngang đâu mà nói sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng sau hơn sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng trước cho đến gấp bội vô số lần?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa này, đối với pháp ba đời chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng trọng chẳng khinh, chẳng có sở đắc, chẳng phải không sở đắc, không có chỗ phân biệt, không có sự phân biệt sai khác, không có chỗ để xem xét, không có sự vin theo để xem xét. Thấy pháp này đều do tích tụ phân biệt, biết được tất cả pháp không sanh, không diệt, không đi không đến, không vào không ra, không họp không tan. Trong đây không có pháp đã, đang, sẽ sanh, cũng không có pháp đã, đang, sẽ diệt. Ta phải như pháp chơn như pháp giới, dùng vô sở đắc làm phương tiện, khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Ngang đây, sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng này hơn sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng có sở đắc tưởng, có sở đắc kiến ở trước đến gấp bội vô số lần.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với chư Phật Thế Tôn và các đệ tử trong quá khứ, hiện tại, vị lai, các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa muốn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tương ưng căn lành, phát sanh sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, nên nghĩ: Như chơn giải thoát bố thí cũng vậy. Như chơn giải thoát tịnh giới cũng vậy. Như chơn giải thoát an nhẫn cũng vậy. Như chơn giải thoát tinh tấn cũng vậy. Như chơn giải thoát tịnh lự cũng vậy. Như chơn giải thoát Bát-nhã cũng vậy. Như chơn giải thoát giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn cũng vậy. Như chơn giải thoát sự tùy hỷ cũng vậy. Như chơn giải thoát tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp cũng vậy. Như chơn giải thoát chư Phật Thế Tôn và bậc Độc giác cũng vậy. Như chơn giải thoát Thanh văn đã nhập Niết-bàn cũng vậy.

Như chơn giải thoát các pháp quá khứ đã diệt cũng vậy. Như chơn giải thoát các pháp vị lai chưa sanh cũng vậy. Như chơn giải thoát các pháp hiện tại đang truyền bá cũng vậy. Như chơn giải thoát các đệ tử của Phật trong quá khứ cũng vậy. Như chơn giải thoát các đệ tử của Phật đời vị lai cũng vậy. Như chơn giải thoát hiện tại các đệ tử của Phật trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương cũng vậy. Như chơn giải thoát tất cả căn lành công đức cũng vậy. Như tánh các pháp không trói buộc, không cởi mở, không ô nhiễm, không thanh tịnh, không phát khởi, không chấm dứt, không sanh, không diệt, không chấp thủ, không xả bỏ.

Ta đối với căn lành công đức này hiện tiền tùy hỷ, đem căn lành này ban cho các hữu tình chung hưởng một cách bình đẳng, dùng sự không dời chuyển và không hư hoại, không tướng trạng, không chứng đắc làm phương tiện để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Sự tùy hỷ hồi hướng như vậy chẳng phải có thể tùy hỷ hồi hướng, vì không có sự tùy hỷ, sự hồi hướng. Nếu khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng như vậy thì không lưu chuyển, không chấm dứt, không sanh, không diệt.

Thiện Hiện nên biết! Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa này đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng không trái ngược, hơn sự tùy hỷ hồi hướng có tướng, có chứng đắc ở trước, cho đến gấp bội vô số lần. Đại Bồ-tát nào thành tựu sự tùy hỷ hồi hướng như vậy sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phương tiện thiện xảo tu hạnh Bồ-tát.

Lại có hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Mỗi vị Bồ-tát này đều mang y phục, giường nằm, thuốc thang, đồ ăn nước uống mỹ vị và vô lượng thứ nhạc cụ hảo hạng, trải qua hằng hà sa… đại kiếp, dùng có sở đắc làm phương tiện cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen các vị Bồ-tát kia.

Đại Bồ-tát nào được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tônquá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập hợp cân lường và hiện tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này tùy hỷ hồi hướng tương ưng các việc phước nghiệp hơn trước đã nói. Vì các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện bố thí tương ưng các việc phước nghiệp nên gấp bội trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia bố thí tương ưng các việc phước nghiệp, dùng có sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, bố thí tương ưng các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và các Bồ-tát này đều trụ hằng hà sa số đại kiếp, tu thân diệu hạnh, tu ngữ diệu hạnh, tu ý diệu hạnh, dùng có sở đắc làm phương tiện thọ trì tịnh giới. Vì Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập hợp lại cân lường và hiện tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này tùy hỷ hồi hướng các việc phước nghiệp hơn trước đã nói. Vì các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, tu tịnh giới tương ưng các việc phước nghiệp nên gấp bội trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu tịnh giới tương ưng các việc phước nghiệp, dùng có sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, tu tịnh giới tương ưng các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và các Bồ-tát này đều trụ hằng hà sa số đại kiếp thường bị hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương mắng chửi, hủy nhục, dùng dao gậy gây hại, Bồ-tát này dùng có sở đắc làm phương tiện thọ trì hạnh an nhẫn. Vì Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập hợp lại cân lường và hiện tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này tùy hỷ hồi hướng với các việc phước nghiệp hơn trước đã nói. Vì các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, tu an nhẫn tương ưng các việc phước nghiệp nên gấp bội trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu an nhẫn tương ưng các việc phước nghiệp, dùng có sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, tu an nhẫn tương ưng các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các Bồ-tát này đều trụ hằng hà sa số đại kiếp chẳng ngồi chẳng nằm, thường không ngủ nghỉ, dùng có sở đắc làm phương tiện tu hành tinh tấn. Đại Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập hợp lại cân lường và hiện tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Bồ-tát này tùy hỷ hồi hướng các việc phước nghiệp hơn trước đã nói. Vì các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, tu tinh tấn tương ưng các việc phước nghiệp nên gấp bội trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu tinh tấn tương ưng các việc phước nghiệp, dùng có sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, tu tinh tấn tương ưng các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và các Bồ-tát này đều trụ hằng hà sa số đại kiếp lìa tâm loạn động, trụ vào nhất duyên, dùng có sở đắc làm phương tiện tu hành tịnh lự. Vì Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập hợp lại cân lường và hiện tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này tùy hỷ hồi hướng các việc phước nghiệp hơn trước đã nói. Vì các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, tu tịnh lự tương ưng các việc phước nghiệp nên gấp bội trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu tịnh lự tương ưng các việc phước nghiệp, dùng có sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ngoài việc hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện, tu tịnh lự tương ưng các việc phước nghiệp. Giả sử hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới hữu tình khắp mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, và các Bồ-tát này đều trụ hằng hà sa số đại kiếp, tư duy quán sát tánh tướng các pháp, dùng có sở đắc làm phương tiện tu hành Bát-nhã và các căn lành khác. Vì Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, phổ khắp đối với giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại, vị lai. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Độc giác. Hoặc giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của các Thanh văn. Hoặc ba việc phước nghiệp thí tánh, giới tánh, tu tánh của các hữu tình. Tất cả như vậy tập hợp lại cân lường và hiện tiền phát khởi tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vô thượng không gì sánh bằng, tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp. Lại đem sự tùy hỷ tương ưng các việc phước nghiệp này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này tùy hỷ hồi hướng các việc phước nghiệp hơn trước đã nói. Vì các chúng Bồ-tát dùng có sở đắc làm phương tiện Bát-nhã và các thiện căn tương ưng các việc phước nghiệp nên gấp bội trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát kia tu Bát-nhã và các thiện căn tương ưng các việc phước nghiệp, dùng có sở đắc làm phương tiện. Còn sự tùy hỷ hồi hướng của Bồ-tát này dùng vô sở đắc làm phương tiện.

 
VII. PHẨM ĐỊA NGỤC

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là tánh trí nhất thiết, có thể thành tựu hoàn toàn trí nhất thiết trí ư?

Khi ấy, Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể chiếu sáng tất cả nên phải kính lễ, không bị các pháp thế gian làm ô nhiễm, có thể trừ hết tối tăm, phát ra ánh sáng rực rỡ, thường đem lại sự lợi lạc an vui cao tột, làm cho những người mù được mắt sáng, làm ngọn đuốc sáng cho kẻ bộ hành trong đêm tối, đưa kẻ lạc đường quay về nẻo chánh, hiện rõ tánh các pháp tức là Niết-bàn, chỉ rõ tất cả pháp không sanh, không diệt, là mẹ các Đại Bồ-tát, là chỗ nương tựa che chở cho những kẻ không chỗ nương tựa che chở, trừ tất cả khổ não của sanh tử, khai thị các pháp, lấy vô tánh làm tánh, có thể làm cho chư Phật chuyển xe Pháp vô thượng đủ ba lần với mười hai hành tướng.

Bạch Thế Tôn! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các Đại Bồ-tát nên trụ thế nào?

Bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các Đại Bồ-tát nên như Phật mà trụ, suy nghĩ kính thờ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như suy nghĩ kính thờ Phật.

Khi ấy, trời Đế Thích thầm nghĩ: Do nhân duyên gì hôm nay Xá-lợi Tử hỏi Phật việc này? Nghĩ rồi liền hỏi Xá-lợi Tử:

- Vì duyên cớ gì mà Tôn giả hỏi việc ấy?

Xá-lợi Tử bảo trời Đế Thích:

- Trước đây, đức Phật Thế Tôn đã nói: Các chúng Đại Bồ-tát được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên đã khởi lên sự tùy hỷ hồi hướng tương ưng các việc phước nghiệp, mau chứng đắc trí nhất thiết trí, hơn hẳn các Bồ-tát tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã và các căn lành có sở đắc. Do nhân duyên ấy nên hỏi việc này.

Này Kiều-thi-ca! Như hàng trăm, hàng ngàn kẻ mù lòa bẩm sinh, nếu không có người mắt sáng dùng phương tiện dẫn dắt thì dù gần đi nữa cũng không đi đúng đường, huống gì ở xa có thể đi đến được thành lớn giàu có an vui. Cũng vậy, năm Ba-la-mật-đa trước như kẻ mù bẩm sinh, không thể đạt tới chánh đạo của Bồ-tát, huống là có thể chứng nhập thành Niết-bàn, nếu khôngBát-nhã ba-la-mật-đa tức là người sáng mắt dẫn đường.

Này Kiều-thi-ca! Năm Ba-la-mật-đa: Bố thí v.v... phải dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, gọi là người có mắt. Lại nhờ sự hộ trì của Bát-nhã ba-la-mật-đa gọi là đến bờ kia.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa như phát khởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử! Như năm thủ uẩn không thể phát khởi. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng nên biết như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Như năm thủ uẩn chẳng phát khởi nên gọi là phát khởi. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng lại như vậy, chẳng phát khởi nên gọi là phát khởi.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy vì thành tựu pháp gì?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì hoàn toàn không có sự thành tựu đối với tất cả pháp. Vì không có sự thành tựu đối với tất cả pháp nên mới gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thể thành trí nhất thiết trí sao?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không thể thành trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì có sở đắc nên không thể thành được. Vì có danh tưởng nên không thể thành được. Vì có tạo tác nên không thể thành được.

Trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thành trí nhất thiết trí?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đối với sự phát khởi trí nhất thiết trí, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có sự thành tựu nên gọi là thành.

Trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Bạch Thiện Thệ! Thật hiếm có! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không vì sự sanh diệt tất cả pháp nên hiện rathế gian, không vì sự thành hoại tất cả pháp mà hiện ở thế gian, nhưng cùng với thế gian làm lợi ích lớn lao.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khởi lên tư tưởng như vầy: Đối với tất cả pháp, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc thành, hoặc hoại, Đại Bồ-tát này liền xa rời Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Có nguyên nhân mà các Đại Bồ-tát xa rời Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy. Nghĩa là khởi lên tư tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có sở hữu, chẳng phải chơn thật, không bền chắc, chẳng tự tại. Đại Bồ-tát này liền xa rời Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải hư, chẳng phải thật, chẳng phải bền chắc, chẳng phải không bền chắc, chẳng phải tự tại, chẳng phải không tự tại, đối với tất cả pháp không có sự phân biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phật nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy để hiện rõ pháp nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy hoàn toàn không có pháp để hiện rõ. Vì sao? Vì trong giáo pháp của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chẳng hiển bày sắc, cũng chẳng hiển bày thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng hiển bày quả Dự lưu, cũng chẳng hiển bày Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề. Cũng chẳng hiển bày tất cả hạnh của Đại Bồ-tát và quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là Ba-la-mật-đa rộng lớn?

Phật hỏi Thiện Hiện:

- Do ý nào mà ông nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là Ba-la-mật-đa rộng lớn như vậy?

Thiện Hiện đáp:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ.

Đối với sắc chẳng làm cho tập hợp, chẳng làm cho tan rã; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho tập hợp, chẳng làm cho tan rã.

Đối với sắc chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.

Như vậy cho đến đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sự chứng đắc trí nhất thiết trí của Phật cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ.

Đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho tập hợp, chẳng làm cho tan rã; đối với sự chứng đắc trí nhất thiết trí của Phật cũng chẳng làm cho tập hợp, chẳng làm cho tan rã.

Đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức, đối với Phật đã được trí nhất thiết trí cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.

Vì sao? Vì năm uẩn cho đến trí nhất thiết trí chẳng phải lớn, chẳng phải nhỏ, chẳng phải tập hợp, chẳng phải tan rã, chẳng phải có sức, chẳng phải không có sức.

tự tánh tất cả pháp đều là Không. Nếu Đại Bồ-tát khởi lên tư tưởng như vậy chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì các tư tưởng như vậy chẳng phải quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có tư tưởng như vầy: Ta phải cứu thoát một số hữu tình vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn. Nếu có tư tưởng này thì gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải có sở đắc là có thể thành tựu được. Vì sao? Vì hữu tình không sanh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sanh.

hữu tình không tự tánh, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tự tánh.

hữu tình xa lìa, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng xa lìa.

hữu tình không thể nghĩ bàn, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể nghĩ bàn.

hữu tình không có pháp hoại, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không có pháp hoại.

hữu tình không giác tri, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không giác tri.

hữu tình đúng như nghĩa, không có sự chứng ngộ, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng đúng như nghĩa, không có sự chứng ngộ.

năng lực của hữu tình chẳng thành tựu, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.

Bạch Thế Tôn! Con duyên theo ý này mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa rộng lớn. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thành tựu đại sự.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát nào có thể tin hiểu sâu xa, không có sự ngăn ngại, không nghi ngờ, cũng chẳng nhầm lẫn, Đại Bồ-tát này qua đời từ chỗ nào mà sanh đến nơi này, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã bao lâu, đối với nghĩa sâu xa của pháp có thể tùy theo đó mà hiểu rõ?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này từ mười phương thế giới đã phụng sự chư Phật; ở trong pháp hội qua đời, sanh đến nơi này. Đại Bồ-tát này đã hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua vô lượng, vô số đại kiếp, đối với nghĩa sâu xa của pháp có thể theo đó hiểu rõ. Vì sao? Nếu Đại Bồ-tát từ thế giới phương khác đã phụng sự đức Phật; ở trong pháp hội đó qua đời sanh đến nơi đây thì Đại Bồ-tát này đã gần gũi nhiều chư Phật Thế Tôn, đã từng hỏi pháp nghĩa sâu xa trong đây; đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoặc thấy, hoặc nghe, liền nghĩ: Hôm nay ta được thấy Phật, được nghe những điều Phật nói. Do nhân duyên này, nếu nghe thuyết giảng về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng tai lắng nghe cung kính lãnh thọ, chấm dứt sự nghi ngờ đối với pháp nghĩa sâu xa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này đã từng cúng dường vô số chư Phật, đã nhiều kiếp hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên đời này mới có thể thành tựu việc này.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể lắng nghe, có thể quan sát được, có thể phát khởi, có thể nhớ nghĩ, có thể thị hiện, có thể hiện rõ nơi chốn thời gian khác nhau, có thể thuyết giảng và biểu hiện các tướng trạng và chỉ rõ ý nghĩa sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không?

Phật dạy:

- Không thể. Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải uẩn xứ giới tự tánh sai khác có thể chỉ rõ được. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo xa lìa. Chẳng phải pháp xa lìa có thể chỉ rõ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Lìa uẩn xứ giới cũng không thể giác ngộ được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì ngay nơi uẩn xứ giới có thể hiểu được các pháp rốt ráo xa lìa, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cùng với uẩn xứ giới không hai, không khác.

Thiện Hiện nên biết! Tức là tất cả pháp rốt ráo Không, tánh xa lìa, vĩnh viễn vắng lặng nên gọi là bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Lúc nào không còn tưởng, cũng không có lời nói để thiết lập về các tưởng, thì khi đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tích chứa công hạnh lâu như vậy mới có thể siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ở đây nên phân biệt, vì căn cơ của các Bồ-tát khác nhau. Thiện Hiện nên biết! Có Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đã gặp thiện hữu chơn chánh, dùng phương tiện giúp đỡ nên có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ngay. Vì Đại Bồ-tát này có phương tiện thiện xảo nên chẳng hủy báng Chánh pháp, không thấy các pháp có tăng có giảm, thường không xa lìa chánh hạnh của Bồ-tát, thường không xa lìa chư Phật Bồ-tát, thường gieo trồng căn lành để thân tâm thanh tịnh, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, tuy đã từng được gặp trăm ngàn đức Phật, ở chỗ các đức Phật tu hành phạm hạnh, nhưng vì dùng có sở đắc làm phương tiện, nên không thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này không sanh lòng tin hiểu, nên liền bỏ đi. Vì sao? Vì các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa này ở chỗ đức Phật quá khứ, đã từng nghe thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không sanh cung kính.

Vì không cung kính nên không thường lắng nghe.

Vì không thường lắng nghe nên không thể gần gũi được.

Vì không thể gần gũi nên không thể thỉnh hỏi.

Vì không thỉnh hỏi nên không thể tin hiểu.

Vì không thể tin hiểu nên bỏ chúng mà đi.

Do nhân duyên này làm cho nghiệp thiếu Chánh pháp càng tăng trưởng. Do sức mạnh của thói quen từ đời trước, nay nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này lại bỏ đi nữa. Không sanh cung kính, nên không thể lãnh thọ.

Vì không tin nhận nên hoặc thân hoặc tâm đều chẳng hòa hợp.

Vì chẳng hòa hợp, nên không thể hiểu rõ nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Người ấy đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thể tin nhận được, chẳng lắng nghe được, chẳng hiểu rõ được, chẳng quán sát được nên làm cho nghiệp thiếu Chánh pháp càng tăng trưởng. Do nghiệp này nên nghiệp tội về ác tuệ tăng trưởng. Bởi nghiệp này nên khi nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa liền nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ.

Thiện Hiện nên biết! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa này nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết tức là nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ trí nhất thiết trí của chư Phật ba đời. Do nhân duyên này làm cho ác nghiệp tăng trưởng rất nặng. Do nghiệp này nên đọa vào địa ngục lớn, trải qua thời gian lâu dài chịu nhiều khổ cực. Nghĩa là vì ác nghiệp và thói hư từ đời trước nặng nề nên căn lành của sự giác ngộ yếu ớt, phước đức cạn mỏng nên tổn mình hại người. Đối với Phật, Pháp, Tăng tuy có được phần tin, ưa, nhưng vì ngu si nên không thể phân biệt chỗ cạn sâu của Chánh pháp. Đối với Đại thừa tự nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ, cũng khiến cho các hữu tình mới học Chánh pháp nhàm chán, hủy báng, vứt bỏ đối với Đại thừa, còn bảo: Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải thật lời Phật, không nên tu học. Họ đã làm cho người khác hủy báng Bát-nhã, tự thân họ đối với Bát-nhã càng hủy báng hơn. Họ đã hủy báng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì đối với trí nhất thiết cũng hủy báng sâu nặng. Do năng lực hủy báng trí nhất thiết một cách sâu nặng nên đối với Phật, Pháp, Tăng cũng hủy báng sâu nặng. Do tạo ra nghiệp ác quá nặng này nên nhân duyên các ác nghiệp tăng trưởng, đọa vào địa ngục lớn, lãnh chịu khổ cực dữ dội hàng trăm ngàn năm chẳng được giải thoát. Do tội nặng ấy nên trong thế giới này họ bị đọa từ địa ngục lớn đến địa ngục lớn khác, cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi đã lãnh chịu các khổ cực dữ dội.

Nếu khi thế giới này một khi kiếp thủy, hỏa, phong vừa khởi lên, do ác nghiệp nặng nề của họ vẫn chưa hết, nên sau khi qua đời thọ sanh ở thế giới khác, vẫn đọa vào địa ngục lớn giống như trước để chịu khổ cực nặng nề suốt trăm ngàn năm. Vì người kia tội nặng nên ở thế giới phương khác vẫn ở hết địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa xuất hiện vẫn lãnh chịu các khổ cực dữ dội.

Nếu ở thế giới phương khác ba kiếp thủy, hỏa, phong tùy lúc khởi lên, vì ác nghiệp nặng nề của họ chưa hết được, nên sau khi qua đời thọ sanh ở thế giới phương khác, cũng đọa vào địa ngục lớn như trước chịu khổ cực nặng nề suốt trăm ngàn năm. Vì tội nặng nên dù ở thế giới khác họ vẫn đọa hết địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến lúc ba kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa xuất hiện đã lãnh chịu các khổ cực dữ dội. Cứ như vậy chuyển đi mãi lần lượt khắp các địa ngục lớn trong mười phương, chịu các thứ khổ cực nặng nề.

Nếu các thế giới khắp mười phương, khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong khởi lên, vì nghiệp ác nặng nề của họ vẫn chưa hết, nên sau khi qua đời lại sanh vào địa ngục lớn của thế giới Kham Nhẫn này. Từ địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác, cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa phát khởi đã lãnh chịu khổ cực nặng nề.

Nếu trong thế giới này ba kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong tùy lúc khởi lên. Vì nghiệp ác của họ sâu nặng chưa dứt nên sau khi qua đời sanh lại các thế giới phương khác nữa, trải qua khắp các địa ngục lớn chịu khổ cực nặng nề, cứ luân hồi như vậy vô số kiếp cho đến khi năng lực của nghiệp tội hủy báng Chánh pháp yếu dần đi, vừa được ra khỏi địa ngục lại đọa làm loài bàng sanh. Xoay chuyển như trước hết cõi này đến phương khác, nhiều kiếp luân hồi chịu các thứ khổ. Khi năng lực của nghiệp tội hủy báng Chánh pháp yếu dần, họ mới thoát khỏi loài bàng sanh, nhưng lại đọa vào loài quỉ, hết cõi này đến phương khác, xoay chuyển luân hồi trải qua vô số kiếp chịu đủ mọi thống khổ.

Cuối cùng khi thế lực của nghiệp hủy báng Chánh pháp sắp hết, họ mới ra khỏi quỉ giới, được sanh vào cõi người. Tuy được làm người nhưng ở nơi hạ tiện: Mù điếc, câm ngọng, nhiều bệnh tật, nghèo cùng, xấu xí, ngu si, bị mọi người khinh chê. Dù sanh đến chỗ nào cũng khổ nhiều vui ít, không được nghe đến danh hiệu Phật, Pháp, Tăng. Vì sao? Vì các ác nghiệp phỉ báng Tam bảo nên họ phải chuốc lấy đầy đủ các loại quả khổ như vậy.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tội hủy báng Chánh pháp và nghiệp vô gián, hai hành động ác này giống nhau không?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Chớ bảo rằng tội này giống với nghiệp vô gián. Vì sao? Năm nghiệp vô gián tuy đưa đến quả khổ nặng nề nhưng không thể sánh với tội hủy báng Chánh pháp. Nghĩa là tội kia khi nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hủy báng chống nghịch, nói Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng phải thật lời Phật nói, không nên tu học, chẳng phải pháp, chẳng phải luật, chẳng phải lời Đại sư dạy. Do nhân duyên này nên tội kia rất nặng.

Này Xá-lợi Tử! Người hủy báng Chánh pháp này tự hủy báng Chánh pháp, cũng dạy người hủy báng. Tự hoại thân mình, cũng khiến người khác bị hoại. Tự uống thuốc độc, cũng khiến người khác uống theo. Tự mất quả vui được sanh Thiên và quả giải thoát, cũng làm cho người khác mất luôn. Tự đưa mình vào địa ngục lửa, cũng làm cho người khác bị như vậy. Bản thân chẳng tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, còn dạy người khác khiến họ chẳng tin hiểu. U mê điên đảo tự chìm trong biển khổ, cũng lôi người khác chìm theo.

Này Xá-lợi Tử! Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, Ta còn chẳng muốn để cho kẻ phỉ báng Chánh pháp nghe đến danh tự huống hồ giảng nói cho họ.

Này Xá-lợi Tử! Kẻ phỉ báng Chánh pháp kia, Ta còn không cho các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa nghe đến tên, huống là mắt thấy, sao lại cho ở chung được.

Này Xá-lợi Tử! Đối với kẻ phỉ báng Chánh pháp kia Ta còn chẳng cho mặc áo Cà-sa huống hồ nhận sự cúng dường. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Có những kẻ hủy báng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết những kẻ ấy là kẻ phá hoại Chánh pháp, đọa vào loài đen tối như ốc sên dơ bẩn, dơ mình bẩn người như đống phân thối. Những kẻ nào tin dùng lời của kẻ phá hoại pháp cũng chuốc lấy khổ lớn như trước đã nói.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Như Lai chẳng nói về hình dạng thân thể lớn nhỏ mà kẻ hủy báng Chánh pháp phải lãnh chịu khi đọa vào ác thú?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Thôi, không nên nói về hình dạng thân thể lớn nhỏ mà kẻ hủy báng Chánh pháp phải lãnh chịu vào đời sau. Vì sao? Vì nếu Ta nói đầy đủ cảnh giới ấy thì kẻ kia nghe được rất kinh sợ, phải thổ huyết cho đến mất mạng, hoặc đau khổ gần chết, tâm quá buồn lo như trúng tên độc, thân khô héo dần như mạ đứt gốc. Vì sợ kẻ kia nghe nói về kẻ huỷ báng Chánh pháp phải thọ thân quá xấu xí khổ sở như vậy luôn tự kinh hoàng, tan thân mất mạng. Ta thương xót kẻ kia nên không thể vì ông mà nói.

Khi đó Xá-lợi Tử thỉnh lần thứ hai, lần thứ ba xin Như Lai nói về hình thể kia để làm sự răn dạy sáng suốt cho đời sau biết được tội hủy báng Chánh pháp, thân chịu khổ cực nặng nề mà không gây ra tội này nữa.

Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Trước Ta đã nói về tội của kẻ hủy hoại Chánh pháp lãnh chịu cảnh giới khổ sở đủ làm sự răn dạy sáng suốt cho đồng loạiđời sau. Các thiện nam tử v.v... nghe Ta nói về quả báo tội hủy báng Chánh pháp như trước, thà bỏ thân mạng quyết chẳng hủy báng Chánh pháp, đừng để tự thân phải chịu khổ cực ở đời sau.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có các thiện nam tử v.v… thông minh nghe đức Phật nói: Người hủy báng Chánh pháp đời sau phải chịu khổ lớn lâu dài, nên khéo giữ gìn nghiệp thân, khẩu, ý. Vì sao? Đừng để tự thân phải vì các nghiệp ác ấy mà phải làm người trong cảnh giới ác chịu khổ lâu dài.

Bạch Thế Tôn! Sự tạo tác làm cho nghiệp hủy hoại Chánh pháp tăng trưởng há chẳng phải do các nghiệp ác huân tập từ đời trước ư?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Trong Chánh pháp Tỳ-nại-da của Ta sẽ có những xuất gia ngu si, tuy họ gọi Ta là bậc Đại sư nhưng lại hủy báng chống nghịch Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu hủy báng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì đó là hủy báng Vô thượng Bồ-đề. Nếu hủy báng Vô thượng Bồ-đề, thì đó là hủy báng trí nhất thiết trí. Nếu có hủy báng trí nhất thiết trí, thì đó là hủy báng Phật, Pháp, Tăng bảo. Nếu có hủy báng Phật, Pháp, Tăng bảo, thì nhận lấy vô biên tội nghiệp. Nếu đã nhận lấy vô biên nghiệp tội liền chuốc lấy vô biên khổ báo.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người ngu si kia do bao nhiêu nguyên nhân mà hủy báng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do bốn nguyên nhân. Những gì là bốn?

Một là bị các tà ma lừa gạt.

Hai là chẳng tin hiểu pháp thâm sâu.

Ba là chẳng siêng năng tinh tấn, say đắm năm uẩn nên bị các ác tri thức khống chế.

Bốn là ôm nhiều sân giận, ưa làm việc ác, thích đề cao mình, khinh chê người khác.

Người ngu si do đầy đủ bốn nguyên nhân này nên hủy báng Bát-nhã ba-la-mật-đa, do đây nên đời sau phải chịu cực khổ nặng nề.

Quyển thứ 544
HẾT

VIII. PHẨM THANH TỊNH

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những người ngu si chẳng siêng năng tinh tấn, đủ các ác hạnh, căn lành cạn mỏng, ám độn vô cầu, ít nghe kém tuệ, bị ác tri thức khống chế, chẳng phụng sự bạn lành, chẳng ưa thỉnh hỏi, chẳng siêng năng tu học những điều thắng thiện nên nghe Phật thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thật khó tin hiểu.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa này thâm sâu như thế nào mà khó tin khó hiểu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc lấy vô tánh làm tự tánh. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức lấy vô tánh làm tự tánh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khoảng trước của sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng trước của sắc lấy vô tánh làm tự tánh. Khoảng sau của sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng sau của sắc lấy vô tánh làm tự tánh. Khoảng giữa của sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng giữa của sắc lấy vô tánh làm tự tánh.

Khoảng trước của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng trước của thọ, tưởng, hành, thức lấy vô tánh làm tự tánh. Khoảng sau của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì khoảng sau của thọ, tưởng, hành, thức lấy vô tánh làm tự tánh. Khoảng giữa của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? khoảng giữa của thọ, tưởng, hành, thức lấy vô tánh làm tự tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất khó tin hiểu. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cực khó tin hiểu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh tức quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc đây thanh tịnh và quả thanh tịnh này không hai, không có hai phần, không phân biệt, không chấm dứt. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức quả thanh tịnh. Quả thanh tịnh tức thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức và quả thanh tịnh không hai, không có hai phần, không phân biệt, không chấm dứt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh tức là nhất thiết trí thanh tịnh; nhất thiết trí thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc thanh tịnh và nhất thiết trí thanh tịnh không hai, không khác, không có hai phần, không chấm dứt.

Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là nhất thiết trí thanh tịnh; nhất thiết trí thanh tịnh tức là thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnhnhất thiết trí thanh tịnh này không hai, không khác, không có hai phần, không chấm dứt.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là thâm sâu?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể chiếu rõ được?

Phật dạy:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Vì hết sức thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa là ánh sáng lớn?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì thanh tịnh vô cùng.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa vĩnh viễn chẳng tương tục?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa vốn không tạp nhiễm?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì thanh tịnh vô cùng.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không chứng đắc, không hiện quán?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa không có chỗ sanh khởi?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:



- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này rốt ráo không sanh?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này không sanh ở Dục giới, không sanh ở Sắc giới, không sanh ở Vô sắc giới?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này không biết, không xác định?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này không hiểu, không xác định những pháp nào?

Phật dạy:

- Không hiểu, không xác định sắc. Vì sao? Vì rất thanh tịnh. Không biết không hiểu thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa đối với Niết-bàn không hao tổn, không lợi ích?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không lấy, không bỏ tất cả pháp?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Bấy giờ, Thiện Hiện cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Vì ngã thanh tịnh nên quả thanh tịnh?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên nhất thiết trí thanh tịnh?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì ngã thanh tịnh nên không chứng đắc, không hiện quán?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì ngã vô biên nên sắc vô biên?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì ngã vô biên nên thọ, tưởng, hành, thức vô biên?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát có thể hiểu thế này: Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng phải bờ này, chẳng phải bờ kia, chẳng phải ở khoảng giữa?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rốt ráo tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát khởi lên tư tưởng là xả bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này chấp trước danh, chấp chấp tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hiếm có. Ngài đã khéo vì chúng Đại Bồ-tát khai thị, phân biệt rốt ráo chấp tướng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Thế nào là Đại Bồ-tát khởi lên sự chấp tướng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu Đại Bồ-tát đối với sắc cho là Không rồi khởi lên tư tưởng chấp trước cái Không ấy. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cho là Không rồi khởi lên chấp trước tưởng Không ấy. Đối với pháp quá khứ cho là pháp quá khứ, rồi khởi lên chấp trước tưởng pháp quá khứ. Đối với pháp vị lai cho là pháp vị lai, rồi khởi lên chấp trước tưởng pháp vị lai. Đối với pháp hiện tại cho là pháp hiện tại, rồi khởi lên chấp trước tưởng pháp hiện tại. Nghĩa là các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa khi mới phát tâm đã khởi lên tưởng như vậy gọi là chấp tướng.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Dựa vào đâu mà gọi như vậy là chấp tướng?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu bảo đây là tâm đại Bồ-đề, hoặc chấp đây là tâm Bồ-đề bắt đầu hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì gọi là chấp tướng.

Này Kiều-thi-ca! Tâm vốn tánh Không, không thể hồi hướng. Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, nếu khởi chấp: Ta hướng tới Đại thừa. Tất cả như vậy gọi là chấp tướng.

Vì vậy, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các chúng Đại Bồ-tát muốn thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi các hữu tình hướng tới Đại thừa nên tùy theo thật tướngthị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi các hữu tình kia. Nếu có thể thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi hữu tình kia đối với chính họ không bị tổn hại, cũng chẳng làm tổn hại kẻ khác. Đây là điều đã được chư Như Lai hứa khả.

Này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử v.v… an trụ Đại thừa, nếu có thể thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi các hữu tình hướng tới Bồ-tát thừa như vậy thì liền xa lìa được tất cả chấp trước.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Hay thay! Hay thay! Nay ông có thể vì các Bồ-tát nói một cách khéo léo về tướng chấp trước, làm cho các Bồ-tát giác ngộ, xa lìa. Lại có những chấp trước vi tế khác nữa, Ta sẽ vì ông mà nói. Ông nên lắng nghe cho kỹ, suy nghĩ cho sâu.

Thiện Hiện bạch:

- Xin Thế Tôn cứ nói, chúng con rất muốn nghe.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v… an trụ Đại thừa muốn đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phải đem lòng tin thanh tịnh, giữ lấy tướng để nhớ nghĩ, tùy theo sự lấy tướng gọi là chấp trước. Vì sao? Vì sự chấp lấy tướng đều gọi là chấp trước.

Nếu đối với các pháp vô lậu, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều rất tùy hỷ. Lại đem căn lành của sự tùy hỷ này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng gọi là chấp trước. Vì sao? Vì thật tánh các pháp chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, xa lìa ba đời. Chẳng phải lìa pháp ba đời có thể hồi hướng được. Lìa ba đời thì không thể giữ lấy tướng, không thể duyên theo, cũng không thấy nghe hiểu biết sự việc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật tánh các pháp rất thâm sâu?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì bản tánh xa lìa.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thâm sâu?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì bản tánh thanh tịnh.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa bản tánh thanh tịnh?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì bản tánh xa lìa.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa đều nên kính lễ?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì tất cả bản tánh của pháp xa lìa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu bản tánh của tất cả pháp là xa lìa thì tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Như Lai chứng biết thật tánh các pháp không tạo không tác.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vậy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có sự chứng đắc đối với tất cả pháp nên gọi là hiện Đẳng giác?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì tất cả pháp đồng một tánh chẳng phải hai.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp một tánh tức là vô tánh. Các pháp vô tánh tức là một tánh. Như vậy, các pháp một tánh hay vô tánh đều vốn thật tánh. Tánh vốn thật này tức là một tướng, được gọi là vô tướng.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Đối với tất cả pháp, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có sự chứng đắc nên gọi là hiện Đẳng giác. Vì sao? Vì bản tánh các pháp chỉ có một không hai.

Thiện Hiện nên biết! Bản tánh các pháp tức là phi bản tánh. Phi bản tánh đây tức là bản tánh. Biết được như vậy thì có thể xa lìa tất cả sự chấp trước.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa khó có thể hiểu biết?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì không có người hiểu biết.

Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghĩ bàn?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Chẳng phải tất cả tâm đều có thể biết rõ được.

Thiện Hiện lại thưa:

- Như vậy Bát-nhã ba-la-mật-đa không có sự tạo tác?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì những sự tạo tác ấy bất khả đắc.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hoặc chẳng hành sắc là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; hoặc chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát chẳng hành sắc Không, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; hoặc chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức Không, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nếu chẳng hành sắc không viên mãn tướng, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức không viên mãn tướng, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì sắc không viên mãn tức là chẳng phải sắc. Thọ, tưởng, hành, thức không viên mãn tức là chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không hành như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hi hữu! Bạch Thiện Thệ! Thật kỳ lạ! Ở trong những sự chấp trước mà nói tướng không chấp trước.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hoặc chẳng hành sắc không có sự chấp tướng là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hoặc chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức không có sự chấp tướng là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nếu thường hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì đối với sắc chẳng sanh chấp trước; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh chấp trước. Đối với quả Dự lưu chẳng sanh chấp trước; đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán chẳng sanh chấp trước. Đối với Độc giác Bồ-đề chẳng sanh chấp trước. Đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chẳng sanh chấp trước. Đối với nhất thiết trí cũng chẳng sanh chấp trước. Vì sao? Vì không chấp trước, không trói buộc, vượt qua tất cả gọi là nhất thiết trí.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát vượt qua tất cả chấp trước để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hi hữu! Bạch Thiện Thệ! Thật kỳ lạ! Như vậy, sự chứng pháp tánh của Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là sâu xa. Nếu nói hay chẳng nói đều không tăng giảm.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thí như hư không, giả sử hết thọ lượng của chư Phật hoặc khen hoặc chê thì hư không kia cũng không tăng, không giảm. Pháp tánh sâu xa cũng lại như vậy, hoặc nói hoặc chẳng nói đều không tăng, không giảm.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như người do biến hóa đối với sự khen chê đều không vui, không buồn, không tăng, không giảm. Pháp tánh sâu xa cũng lại như vậy, hoặc nói hoặc chẳng nói đều như vậy vốn không thay đổi.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là việc rất khó. Nghĩa là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tu hoặc chẳng tu, không tăng, không giảm, không tiến, không thối. Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như tu hư không đều không có sở hữu; nghĩa là trong ấy không có pháp có thể nắm bắt mà siêng năng tu học cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thường không có sự thối chuyển.

Bạch Thế Tôn! Hàng hữu tình chúng con đều phải kính lễ các Đại Bồ-tát, vì là bậc mặc áo giáp đại công đức như vậy. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát độ hữu tình nên mặc áo giáp công đức. Ví như muốn chiến tranh với hư không phải mặc áo giáp kiên cố.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát vì độ hữu tình nên mặc áo giáp công đức, như vị tướng hùng dũng muốn đem hư không để chỗ cao hơn.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát rất là hùng dũng, mặc áo giáp công đức, vì các hữu tình như hư không, pháp giới, pháp tánh, nên muốn đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát đạt được đại tinh tấn Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp như hư không nên mặc áo giáp công đức.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát rất là hiếm có, vì các loài hữu tình như hư không, giải thoát khổ sanh tử như hư không, được Niết-bàn an lạc như hư không, nên mặc áo giáp công đức.

Bấy giờ, trong hội có một vị Bí-sô chấp tay hướng về Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con phải kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nghĩa là Bát-nhã ba-la-mật-đa này không pháp nào có thể sanh, không pháp nào có thể diệt.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa phải học như thế nào?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa phải như hư không tinh tấn tu học.

Trời Đế Thích liền bạch Phật:

- Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi, thì con sẽ hộ trì không để vị ấy tổn hại buồn phiền.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Ông thấy có pháp nào để hộ trì không?

Trời Đế Thích nói:

- Thưa Đại đức! Không thấy. Con không thấy có pháp để hộ trì.

Thiện Hiện bảo:

- Nếu Đại Bồ-tát trụ như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói tức là hộ trì. Còn ai lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, là bị người chẳng phải người làm hại ngay.

Này Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng khác gì có người phát khởi sự siêng năng tinh tấn hộ trì hư không. Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, luống uổng nhọc nhằn hoàn toàn không ích gì.

Này Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Ai có thể giữ được tiếng vang không?

Trời Đế Thích nói:

- Thưa Đại đức! Không.

Thiện Hiện bảo:

- Này Kiều-thi-ca! Nếu muốn hộ trì các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng lại như vậy, luống uổng nhọc nhằn hoàn toàn không có ích gì.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dù biết các pháp đều như tiếng vang nhưng không xem thấy, cũng chẳng chỉ rõ. Vì tất cả pháp hoàn toàn không có sở hữubất khả đắc. Nếu Đại Bồ-tát trụ được như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, do sức oai thần của Thế Tôn nên khiến cho trời Bốn Đại thiên vươngtrời Đế Thích, Đại Phạm vương và tất cả chúng trời trong tam thiên đại thiên thế giới này đi đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân Ngài rồi đứng qua một bên. Nhờ thần lực của Phật nên khắp mười phương thế giới đều thấy được ngàn đức Phật thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghĩa phẩm danh tự đều đồng nơi đây. Vị đứng đầu chúng Bí-sô thỉnh thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa đều tên Thiện Hiện. Vị đứng đầu các chúng trời vấn nạn Bát-nhã ba-la-mật-đa đều tên Đế Thích.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Từ Thị Bồ-tát sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tức khi ấy lấy danh hiệu này, cùng ở chỗ này thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong Hiền kiếp chư Phật đời vị lai sẽ lấy danh hiệu này cũng ở chỗ này tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa.

 
IX. PHẨM KHEN NGỢI

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này chỉ có danh tự. Danh tự như vậy cũng bất khả đắc, chỉ dựa vào lời nói vay mượn thiết lập mà có. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu, thật bất khả đắc được danh tự Bát-nhã ba-la-mật-đa. Hai pháp này triển chuyển tương tợ, đồng không có sở hữu, đều bất khả đắc. Do vì đâu Phật nói, khi Từ Thị Bồ-tát chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì lấy danh hiệu này? Cũng ở chỗ này tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Từ Thị Bồ-tát sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, khi ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ, tưởng, hành, thức Không. Không chứng sắc trói buộc; không chứng thọ, tưởng, hành, thức trói buộc. Không chứng sắc cởi mở; không chứng thọ, tưởng, hành, thức mở, tức lấy các tướng hành như vậy. Từ Thị Bồ-tát sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề liền lấy tên này, cũng ở tại đây thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa rất thanh tịnh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất thanh tịnh.

Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất thanh tịnh.

hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất thanh tịnh.

sắc không ô nhiễm nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất thanh tịnh.

Vì thọ, tưởng, hành, thức không ô nhiễm nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất thanh tịnh.

hư không không ô nhiễm nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất thanh tịnh.

Vì tất cả pháp có nhiễm và không nhiễm đều bất khả đắc, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này còn được lợi ích hoàn hảo rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này không chết bất ngờ, cũng không bệnh đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày thứ mười bốn, ngày thứ mười lăm của tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... dù bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì sẽ được vô biên công đức lợi ích, thù thắng.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đọc tụng, thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên có vô lượng thiên thần thường đến cung kính vây quanh hộ trì. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là ngọc báu vô thượng của các trời, người, A-tu-la v.v.... Do nhân duyên đây, nên các thiện nam tử, thiện nữ v.v... này sẽ được vô biên công đứclợi ích.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi lắng nghe thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, tu học, thuyết giảng v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều tà ma làm cản trở. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là ngọc báu lớn đối với các oán thù và trộm cướp. Thí như ở thế gian có ngọc quí báu, dù để chỗ nào cũng nhiều oán thù trộm cướp.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacủa báu vô thượng, thường làm cho thế gian lợi ích an vui.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với tất cả pháp, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không hướng tới, không quay lại, không kéo theo, không đuổi đi, không lấy, không bỏ, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm, không gần, không xa. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không có sở hữu và đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có sự chứng đắc đối với tất cả pháp nên không thể ô nhiễm, không bị ô nhiễm. Vì sao? Vì không có pháp không thể nhiễm ô không có pháp.

Thiện Hiện nên biết! Vì sắc không nhiễm ô nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không nhiễm ô. Thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô, nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không nhiễm ô. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nhiễm ô nên các pháp, sắc v.v... cũng không nhiễm ô. Nếu đối với như vậy mà không có sự phân biệt tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có sự phân biệt nên đối với tất cả pháp không lấy, không bỏ, không nói, không dạy, không kéo theo, không đuổi đi.

Khi ấy, có vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở giữa hư không vui mừng hớn hở, đồng thanh xướng:

- Hôm nay, ở châu Thiệm-bộ này, chúng con được thấy Phật chuyển pháp luân vi diệu lần thứ hai.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Xe pháp này chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải bị lưu chuyển và chẳng phải bị hoàn diệt nên xuất hiệnthế gian. Chỉ vì pháp vô tính tự tính Không nên xuất hiệnthế gian. Nếu Đại Bồ-tát biết được như vậy, không bị phân biệt là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là Ba-la-mật-đa rộng lớn, vì hiểu rõ tự tánh của các pháp là Không. Tuy hiểu rõ tự tánh của các pháp đều là Không, nhưng các Đại Bồ-tát dựa vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không ràng buộc, không đắm trước vào các pháp để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.

Tuy chứng Bồ-đề nhưng không thấy sự chứng đắc, vì chứng hay chẳng chứng pháp đều bất khả đắc. Dù chuyển xe pháp mà không thấy gì để chuyển, vì pháp lưu chuyển hay hoàn diệt đều bất khả đắc. Mặc dù cứu độ hữu tình mà không thấy có gì được độ, vì pháp thấy hay không thấy đều bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Trong giáo pháp thâm sâu của đại Bát-nhã ba-la-mật-đa này việc chuyển xe pháp hoàn toàn bất khả đắc. Vì sao? Vì trong ấy không có pháp để hiện rõ, không có pháp để chỉ bày, không có pháp để chứng đắc, không có pháp lưu chuyển, không có pháp hoàn diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo không sanh, cũng không diệt. Vì không sanh diệt nên không lưu chuyển, không hoàn diệt.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện có thể có pháp lưu chuyển và pháp hoàn diệt, vì tánh của pháp lưu chuyển và hoàn diệt bất khả đắc. Nếu thường tuyên thuyết, khai thị như vậy thì gọi là sự thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn thanh tịnh. Trong đây hoàn toàn không có người nói, người nhận, pháp được nói và pháp lãnh thọ. Đã không có người nói, người nhận và người có thể chứng được các pháp cũng bất khả đắc. Vì không có người chứng, cũng không có người chứng đắc Niết-bàn, cũng không có người thuyết pháp làm phước điền. Vì phước điền không có nên tánh phước điền cũng không có. Sự biểu thị danh ngôn đều bất khả đắc, nên gọi là Ba-la-mật-đa rộng lớn.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chính là Ba-la-mật-đa vô biên, vì như hư không không bờ bến.

Đây là Ba-la-mật-đa không gì sánh bằng vì tất cả pháp đều bất khả đắc.

Đây là Ba-la-mật-đa viễn lyrốt ráo Không.

Đây là Ba-la-mật-đa khó chinh phục, vì tánh tướng của các pháp bất khả đắc.

Đây là Ba-la-mật-đa không để dấu vết vì không qua không lại, không hình thể.

Đây là Ba-la-mật-đa vô tánh vì không qua không lại.

Đây là Ba-la-mật-đa vô hành, vì tất cả pháp không thể chuyển động.

Đây là Ba-la-mật-đa vô đoạt, vì tất cả pháp không thể giữ lấy.

Đây là Ba-la-mật-đa vô tận cùng với pháp vô tận tương ưng.

Đây là Ba-la-mật-đa vô sanh, vì tất cả pháp không thể sanh.

Đây là Ba-la-mật-đa vô tác, vì các tác giả đều bất khả đắc.

Đây là Ba-la-mật-đa vô tri, vì không có sự biết đối với tất cả pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa vô kiến, vì không có sự thấy đối với tất cả pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa vô chuyển, vì những kẻ sống chết đều bất khả đắc.

Đây là Ba-la-mật-đa vô hoại, vì khoảng trước, sau và giữa đều bất khả đắc.

Đây là Ba-la-mật-đa như huyễn, vì các pháp không sanh, không biểu thị được.

Đây là Ba-la-mật-đa như mộng, vì tánh các ý thức bình đẳng.

Đây là Ba-la-mật-đa không tạp nhiễm, vì tham, sân, si không tự tánh.

Đây là Ba-la-mật-đa vô sở đắc, vì chỗ nương tựa bất khả đắc.

Đây là Ba-la-mật-đa không hý luận, vì tất cả pháp vượt khỏi sự nghĩ bàn.

Đây là Ba-la-mật-đa vô tư lự, vì tất cả pháp không dao động.

Đây là Ba-la-mật-đa không chuyển động, vì trụ vào pháp giới.

Đây là Ba-la-mật-đa lìa nhiễm, vì tất cả pháp chẳng hư vọng.

Đây là Ba-la-mật-đa vô đẳng khởi, vì tất cả pháp không có sự phân biệt.

Đây là Ba-la-mật-đa tịch tĩnh, vì tất cả pháp tướng đều bất khả đắc.

Đây là Ba-la-mật-đa không lầm lỗi, vì tu các công đức để đến bờ kia.

Đây là Ba-la-mật-đa không hữu tình, vì chứng thực tế.

Đây là Ba-la-mật-đa vô đoạn, vì tất cả pháp vô đẳng khởi.

Đây là Ba-la-mật-đa như thật, vì không phân biệt.

Đây là Ba-la-mật-đa nhị biên, vì không chấp trước tất cả pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa không tạp hoại, vì tất cả pháp chẳng hòa hợp.

Đây là Ba-la-mật-đa không chấp thủ, vì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.

Đây là Ba-la-mật-đa không tầm tứ, vì đạt đến tánh bình đẳng của pháp tầm tứ.

Đây là Ba-la-mật-đa vô lượng, vì vô lượng pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa vô khởi, vì lìa ngã pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa không phân biệt, vì tánh các sự phân biệt bình đẳng.

Đây là Ba-la-mật-đa bất khả đắc, vì đạt đến tánh chơn thật của tất cả pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa vô trước, vì không chấp trước tất cả pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa không nương tựa, vì không chỗ nương tựa.

Đây là Ba-la-mật-đa chẳng sanh, vì tất cả pháp đều không sanh.

Đây là Ba-la-mật-đa vô thường, vì tất cả pháp thường không có tánh.

Đây là Ba-la-mật-đa khổ, vì làm bức bách tánh bình đẳng.

Đây là Ba-la-mật-đa vô ngã, vì đối với tất cả pháp không có sự chấp trước.

Đây là Ba-la-mật-đa không, vì tất cả pháp bất khả đắc.

Đây là Ba-la-mật-đa vô tướng, vì lìa các tướng của tất cả pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa vô nguyện, vì không sự thành tựu.

Đây là Ba-la-mật-đa sức lực, vì không chịu khuất phục tất cả pháp.

Đây là Ba-la-mật-đa vô lượng Phật pháp, vì quá số lượng.

Đây là Ba-la-mật-đa vô bố úy, vì nơi tâm rốt ráo không có sự sợ hãi.

Đây vì Ba-la-mật-đa chơn như, vì tánh của tất cả pháp này không có biến đổi

Đây là Ba-la-mật-đa tự nhiên, vì tất cả pháp khôngtự tánh.

Đây là Ba-la-mật-đa trí nhất thiết trí, vì biết tất cả pháp không tự tánh.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

 
X. PHẨM TỔNG TRÌ

01

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... chỉ nghe công đứcdanh hiệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, phải biết những người ấy đã từng cúng dường vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, phát thệ nguyện rộng, gieo trồng nhiều căn lành trong quá khứ, huống gì được thọ trì, đọc tụng, biên chép, tư duy đúng lý, vì người khác giảng giải, hoặc có thể tùy sức như sự chỉ dạy mà tu hành. Nên biết người này trong quá khứ đã ở chỗ vô lượng Phật, gần gũi cúng dường, gieo trồng nhiều căn lành, đã từng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghe rồi thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, diễn nói cho người khác, như sự chỉ dạy mà tu hành. Hoặc có thể hỏi, có thể đáp kinh này, nhờ phước lực đời trước nay mới thành tựu như vậy.

Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... đã từng cúng dường vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, công đức thuần tịnh thì khi nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm vị ấy không kinh sợ, chẳng hoảng hốt, chẳng e ngại, chẳng lo buồn, chẳng hối tiếc, chẳng thối lui, chẳng mất đi.

Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của trời Đế Thích liền bảo:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nghĩ.

Khi ấy, Xá-lợi Tử biết được tâm niệm của trời Đế Thích liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu tin hiểu sâu xa, thọ trì, đọc tụng, tư duy đúng lý, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi, như sự chỉ dạy mà tu hành, nên biết người này như các Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối. Vì sao? Vì nghĩa lý của Bát-nhã ba-la-mật-đa này sâu xa, khó tin khó hiểu. Nếu đời trước tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng lâu dài, không ở trước Phật thỉnh hỏi và lãnh thọ, chẳng ở chỗ Phật gieo nhiều căn lành thì làm sao vừa được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể tin hiểu ngay được?

Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v... nghe thuyết nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm chẳng tin hiểu, lại phỉ báng chê bai, phải biết người này đời trước đã phỉ báng chê bai Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì người ngu này căn lành ít ỏi, không có chí nguyện đúng đắn, gần gũi bạn ác nên khi nghe nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa, do sức huân tập từ đời trước, nên chẳng tin chẳng ưa, tâm chẳng thanh tịnh, chẳng nhẫn nại, chẳng muốn. Vì sao? Vì đời quá khứ, người ngu này chưa từng gần gũi chư Phật Bồ-tát và các Hiền Thánh, chưa từng thỉnh hỏi nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này.

Bấy giờ, trời Đế Thích nói với Xá-lợi Tử:

- Nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất khó tin hiểu, những người có lòng tin chưa lâu dài muốn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe thuyết nghĩa lý sâu xa trong ấy không thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng chưa phải là hiếm có.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nay con xin kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu con kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là kính lễ trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu thường kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là kính lễ trí nhất thiết trí? Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì chư Phật đã chứng trí nhất thiết trí đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sanh ra. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lại do trí nhất thiết trí của chư Phật mà có được.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, nên trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thế nào thì gọi là trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa? Hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thế nào gọi là học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Hay thay! Hay thay! Chính ông mới có thể thỉnh hỏi nghĩa lý sâu xa này. Ông nhờ oai lực của Phật mới có thể hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về nghĩa lý sâu xa này.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng trụ vào sắc, cũng không trụ đây là sắc, đây là học sắc. Chẳng trụ thọ, tưởng, hành, thức, cũng không trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức, đây là học thọ, tưởng, hành, thức.

Lại nữa, này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng học đối với sắc, cũng chẳng học đây là sắc, là không trụ sắc. Nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng học, cũng chẳng học đây là thọ, tưởng, hành, thức, là không trụ vào thọ, tưởng, hành, thức.

Này Kiều-thi-ca! Đây gọi là Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng gọi là trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng gọi là học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất là thâm sâu. Bát-nhã ba-la-mật-đa này khó có thể so lường. Bát-nhã ba-la-mật-đa này khó có thể chấp thủ. Bát-nhã ba-la-mật-đa này không có hạn lượng?

Bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Này Xá-lợi Tử! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các Đại Bồ-tát chẳng trụ vào tánh thâm sâu của sắc, cũng không trụ đây là tánh thâm sâu của sắc, đây gọi là học tánh thâm sâu của sắc.

Chẳng trụ vào tánh thâm sâu của thọ, tưởng, hành, thức, cũng không trụ đây là tánh thâm sâu của thọ, tưởng, hành, thức, đây gọi là học tánh thâm sâu của thọ, tưởng, hành, thức.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, các Đại Bồ-tát chẳng học tánh thâm sâu của sắc, cũng chẳng học đây là tánh thâm sâu của sắc, đây gọi là không trụ tánh thâm sâu của sắc.

Đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng học tánh thâm sâu của thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng học đây là tánh thâm sâu của thọ, tưởng, hành, thức, đây gọi là không trụ tánh thâm sâu của thọ, tưởng, hành, thức.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất thâm sâu, khó có thể so lường, khó có thể chấp thủ, không có hạn lượng thì khó tin hiểu, chỉ nên thuyết cho các Bồ-tát ở địa vị Bất thối kia thôi. Vì sao? Vì những vị ấy nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này tâm chẳng hoảng hốt, sợ hãi, nghi ngờ, tâm rất tin hiểu, không sanh hủy báng.

Trời Đế Thích hỏi cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nếu vì các Bồ-tát chưa được thọ ký kia mà thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sẽ mắc tội gì?

Xá-lợi Tử bảo trời Đế Thích:

- Khi nghe những người kia sẽ hoảng hốt, sợ hãi, nghi ngờ, chẳng thể tin hiểu, hoặc sanh hủy báng. Do đây gây tạo làm tăng trưởng nghiệp cảm đọa ác thú, chìm trong ba đường ác, chịu khổ lâu dài nặng nề, khó chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy không nên vì họ thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Trời Đế Thích thưa:

- Có trường hợp nào Bồ-tát chưa được thọ ký mà nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm chẳng sợ hãi, hoảng hốt, nghi ngờ, rất tin hiểu, chẳng hủy báng không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Có. Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát này đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề lâu rồi, đã tu hạnh của Đại Bồ-tát lâu rồi, chẳng bao lâu sẽ được thọ ký đại Bồ-đề.

Này Kiều-thi-ca! Đại Bồ-tát nào nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm chẳng sợ hãi, hoảng hốt, nghi ngờ, không hủy báng, lại rất tin hiểu, phải biết Đại Bồ-tát này đã được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu là người chưa được thọ ký thì bất quá sẽ ở chỗ một đức Phật hoặc hai đức Phật, nhất định sẽ được thọ ký đại Bồ-đề.

Bấy giờ, Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào học Đại thừa lâu dài, phát đại nguyện lâu dài, tu hạnh lớn lâu dài, cúng dường nhiều đức Phật, phụng sự nhiều thiện hữu, căn lành thành thục; nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm chẳng sợ hãi, hoảng hốt, nghi ngờ, tâm tin hiểu sâu xa, thích lắng nghe thọ trì, đọc tụng, cung kính cúng dường, tư duy đúng lý, thuyết giảng cho người khác, hoặc lại biên chép, như lời dạy mà tu hành, thường không biếng nhác.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên đó, nên dù sanh ở chỗ nào, Đại Bồ-tát này luôn được gặp Phật, thường nghe Chánh pháp, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Gặp được Phật nào, đều được Phật thọ ký, không bỏ qua.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nay con muốn nói một vài thí dụ nhỏ, cúi xin Ngài hứa cho.

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Tùy ý ông cứ nói.

Khi ấy, Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như các thiện nam tử v.v… trụ Đại thừa này mộng thấy chính mình ngồi tòa Bồ-đề nhiệm mầu, phải biết người này gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như vậy, nếu có các thiện nam tử v.v… được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm rất kính tin, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, biên chép giảng nói, truyền bá rộng rãi. Phải biết người này học Đại thừa lâu dài, căn lành thành thục, hoặc đã được thọ ký đại Bồ-đề, hoặc gần được thọ ký đại Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người đi dạo qua đồng nội gặp khúc đường nguy hiểm dài hàng trăm do-tuần, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm trăm, thấy phía trước là thành ấp vương đô, nghĩa là gồm ruộng vườn, cây cối, người thả trâu v.v... Thấy như vậy liền nghĩ: Thành ấp vương đô cách đây chẳng xa. Nghĩ như vậy rồi, thân tâm thư thái, chẳng sợ ác thú, giặc cướp đói khát. Những thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa cũng lại như vậy. Nếu nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa hết lòng kính tin, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Phải biết người này chẳng bao lâu sẽ được thọ ký đại Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không rơi vào hàng Thanh vănĐộc giác. Vì sao? Vì đã được thấy, nghe, cúng dường, cung kính Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là tướng trước của Vô thượng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người muốn xem biển cả, lần lượt đi tới một thời gian lâu mà không thấy núi rừng nữa, liền nghĩ: Nay thấy được như vậy chắc biển cả chẳng còn xa. Vì sao? Vì gần bờ biển mặt đất thấp dần nên không có các núi rừng. Bấy giờ, tuy người kia chưa thấy biển cả nhưng thấy được cảnh tượng ấy gần kề nên vui mừng.

Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa cũng lại như vậy, khi được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hết lòng kính tin, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Phải biết chẳng bao lâu người này sẽ được thọ ký đại Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì đã được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là tướng trước của quả Vô thượng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như vào mùa xuân, cây hoa quả v.v… lá vàng rơi rụng, cành nhánh lại xanh tươi. Mọi người thấy vậy nghĩ: Chẳng bao lâu, lá xanh sẽ nhú ra đơm bông kết trái. Vì sao? Vì các cây này đã hiện ra tướng của lá hoa quả mới. Những thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa cũng lại như vậy, khi được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng kính tin, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Phải biết chẳng bao lâu người này sẽ được thọ ký đại Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như người nữ mang thai lâu ngày, thân thể di chuyển nặng nề, đi đứng không yên, ăn uống ngủ nghỉ đều giảm sút, chẳng thích nói nhiều, biếng nhác công việc thường ngày, vì chịu khổ đau nên mọi việc đều trễ nải. Mẹ kế thấy dáng vẻ vậy biết ngay người nữ này chẳng bao lâu sẽ sinh. Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa cũng lại như vậy, nếu được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, hết lòng kính tin, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Phải biết chẳng bao lâu người này sẽ được thọ ký đại Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng hữu tình.

Bấy giờ, Phật khen Xá-lợi Tử:

- Hay thay! Hay thay! Ông đã khéo nói được thí dụ của Bồ-tát, phải biết đều nhờ thần lực của Như Lai.

Quyển thứ 545
HẾT

 

02

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hi hữu thay, đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo phân tích giảng nói những sự việc của Bồ-tát.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát muốn đem lại nhiều lợi ích an vui cho các chúng sanh. Vì thương xót chúng sanh trong thế gian và thương tưởng trời, người muốn làm cho họ đạt được nhiều lợi ích an vui nên cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì các hữu tìnhthuyết pháp vô thượng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Các Đại Bồ-tát thành tựu nhiều công đức lớn vô biên, vì muốn làm nhiều lợi ích cho các hữu tìnhthực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đại Bồ-tát làm thế nào để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa chóng được viên mãn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thấy sắc tăng mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; không thấy thọ, tưởng, hành, thức tăng mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không thấy sắc giảm mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; không thấy thọ, tưởng, hành, thức giảm mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không thấy đúng pháp mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, không thấy phi pháp mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy mới chóng đạt viên mãn.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lời dạy của đức Như Lai không thể nghĩ bàn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Sắc không thể nghĩ bàn, nên lời dạy của Như Lai không thể nghĩ bàn. Thọ, tưởng, hành, thức không thể nghĩ bàn, nên lời dạy của Như Lai không thể nghĩ bàn.

Đại Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mặc dù như thật biết sắc không thể nghĩ bàn nhưng không sanh tưởng không thể nghĩ bàn để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tuy như thật biết thọ, tưởng, hành, thức không thể nghĩ bàn nhưng không sanh vọng tưởng không thể nghĩ bàn để tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy mới chóng đạt viên mãn.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa lý của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì ai có khả năng tin hiểu?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào từ lâu đã tu hạnh lớn đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới có thể sanh lòng tin hiểu.

Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Đến mức độ nào mới biết Đại Bồ-tát ấy đã tu hạnh lớn lâu dài và được danh hiệu là tu hạnh lớn lâu dài?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Đại Bồ-tát nào khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà chẳng phân biệt mười lực của Như Lai, chẳng phân biệt bốn điều không sợ, chẳng phân biệt mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng phân biệt trí nhất thiết, chẳng phân biệt trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng đều không thể nghĩ bàn. Tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát thực hành như vậy, hoàn toàn không có chỗ hành, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đến mức độ này, nên biết Đại Bồ-tát này đã tu hạnh lớn lâu dài và được danh hiệu là tu hạnh lớn lâu dài.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất là thâm sâu. Bát-nhã ba-la-mật-đa này là những trân bảo vĩ đại. Bát-nhã ba-la-mật-đa này là khối thanh tịnh, như hư không bao la vô cùng thanh tịnh vậy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy!

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hi hữu thay! Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất thâm sâu nên có sự trở ngại, nay nên giảng rộng để sự trở ngại không sanh.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhờ thần lực của Phật nên không xảy ra những sự trở ngại. Thế nên, các thiện nam tử v.v… Đại thừa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng dạy cho người khác thì hãy nên gấp biên chép cho đến giảng nói. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều những sự trở ngại, chớ để cho sự biên chép cho đến giảng nói chẳng được rốt ráo.

Thiện Hiện nên biết! Các thiện nam tử v.v… Đại thừa này nếu muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rốt ráo trong thời gian một tháng cho đến một năm, hãy nên siêng năng tinh tấn, chánh niệm biên chép cho đến giảng nói, trải qua thời gian như vậy làm cho được rốt ráo. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là ngọc thần Đại bảo nên bị nhiều sự trở ngại.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hi hữu thay! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là viên ngọc thần Đại bảo có nhiều sự trở ngại, nhưng nếu có người biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói cho người khác thì ác ma sẽ làm trở ngại người đó, khiến cho không biên chép cho đến giảng dạy được.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ác ma đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, tuy luôn rình tìm muốn làm cho trở ngại để không biên chép cho đến giảng nói. Nhưng sức của ác ma không thể làm chướng ngại việc làm của Bồ-tát đó được.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhờ thần lực của ai làm cho ác ma kia không thể gây trở ngại những việc biên chép của các Bồ-tát?

Phật dạy:

- Xá-lợi Tử! Nhờ thần lực của Phật làm cho bọn ác ma kia không thể gây trở ngại những việc biên chép của các Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử! Đó cũng là thần lực của chư Phật trong tất cả thế giới mười phương làm cho ác ma không thể gây trở ngại những việc biên chép của các Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng hộ niệm các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho ác ma kia không thể gây trở ngại. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì chư Phật Thế Tôn đều cùng hộ niệm các chúng Bồ-tát đã làm nghiệp lành, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho ác ma không thể gây sự trở ngại.

Này Xá-lợi Tử! Nếu các Bồ-tát nào đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, đáng được mười phương thế giới tất cả đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp hộ niệm. Nếu được nhờ chư Phật hộ niệm thì ác ma cũng không thể gây trở ngại.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có các thiện nam tử v.v… có lòng tin sâu xa thanh tịnh, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, phải suy nghĩ: Ta nay biên chép cho đến giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đều là thần lực của chư Phật Thế Tôn nơi tất cả mười phương thế giới hộ niệm.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, đều là nhờ thần lực của chư Phật Thế Tôn khắp mười phương từ bi hộ niệm, làm cho người đó tạo tác nghiệp lành thù thắng, nên ác maquyến thuộc của chúng không thể gây trở ngại.

Khi ấy, Phật dạy Xá-lợi Tử!

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, chư Phật Thế Tôn nơi thế giới mười phương đều cùng nhận biết, vui mừng hộ niệm. Chư Phật Thế Tôn thế giới mười phương thường dùng Phật nhãn cùng quán, thấy rồi từ bi hộ niệm làm cho sự tu tập của các Bồ-tát được thành tựu.

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, thường được chư Phật Thế Tôn khắp mười phương tất cả thế giới dùng Phật nhãn quán thấy, biết rõ và hộ niệm, làm cho các ác ma không thể quấy rối, sự tạo tác nghiệp lành đều chóng thành tựu.

Này Xá-lợi Tử! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa nếu có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, nên biết các thiện nam đó đã gần Vô thượng Bồ-đề, các ác ma oán giận không thể làm trở ngại được.

Này Xá-lợi Tử! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa nếu có thể biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trang nghiêm nhiều loại, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, người ấy thường được Phật nhãn Như Lai quán chiếu, nhận biếthộ niệm. Nhờ nhân duyên này chắc chắn sẽ đạt được đại tài, đại lợi, đại quả, đại báo cho đến sẽ được bậc Bất thối chuyển, thường không xa lìa chư Phật và Bồ-tát, thường nghe Chánh pháp và chẳng rơi vào cõi ác, được sanh vào chốn trời, người hưởng vui tuyệt diệu. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa làm cho các hữu tình như thật thông suốt các pháp nghĩa thù thắng, đời này và đời sau phát khởi những việc lợi ích an vui.

Xá-lợi Tử! Kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, sau khi Ta nhập Niết-bàn đến phương Đông nam dần dần sẽ được hưng thịnh. Vì phương đó có nhiều thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa có thể đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có lòng tin sâu xa và thích biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Kinh điển như vậy, sau khi Ta nhập Niết-bàn, từ phương Đông nam chuyển đến phương Nam, dần dần được hưng thịnh. Vì phương ấy có nhiều thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa có thể đối với kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng tin, muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Kinh điển như vậy, sau khi Ta nhập Niết-bàn, từ phương Nam đến phương Tây nam dần dần được hưng thịnh. Vì phương ấy có nhiều thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa có thể đối với kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng tin, muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Kinh điển như vậy, sau khi Ta nhập Niết-bàn, từ phương Tây nam đến phương Tây bắc, dần dần được hưng thịnh. Vì phương ấy có nhiều thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa có thể đối với kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng tin, muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Kinh điển như vậy, sau khi Ta nhập Niết-bàn, từ phương Tây bắc chuyển đến phương Bắc, dần dần được hưng thịnh. Vì phương ấy có nhiều thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa có thể đối với kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng tin, muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Kinh điển như vậy, sau khi Ta nhập Niết-bàn, lại từ phương Bắc đến phương Đông bắc dần dần được hưng thịnh. Vì phương ấy có nhiều thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa có thể đối với kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng tin, muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Này Xá-lợi Tử! Sau khi Ta nhập Niết-bàn, sau đó năm trăm năm, kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa ở phương Đông bắc làm Phật sự lớn. Vì sao? Xá-lợi Tử! Kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, được tất cả Như Lai tôn trọng, được tất cả Như Lai cùng hộ niệm, làm cho kinh điển ở phương đó tồn tại lâu dài không hoại diệt.

Này Xá-lợi Tử! Chẳng phải chánh pháp vô thượng, pháp Tỳ-nại-da mà Phật chứng đắc có tướng bị tiêu diệtquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chứng đắc như pháp và Tỳ-nại-da là Bát-nhã ba-la-mật-đa tương ưng với kinh điển.

Này Xá-lợi Tử! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa ở phương Đông bắc kia, có thể đối với kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng tin và thích biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Chư Phật chúng ta thường dùng Phật nhãn quán sát hộ niệm để cho họ không bị tổn não, hiện tạivị lai thân tâm an lạc.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này khoảng năm trăm năm sau khi Phật nhập Niết-bàn ở phương Đông bắc có truyền bá rộng rãi không?

Phật dạy:

- Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Này Xá-lợi Tử! Sau năm trăm năm Ta nhập Niết-bàn, các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa ở phương Đông bắc nếu được nghe kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng tin và thích biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Nên biết người đó từ lâu đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, từ lâu đã tu hạnh Đại Bồ-tát, cúng dường nhiều đức Phật, phụng sự nhiều bạn lành, từ lâu đã tu tập nhiều thân giới tâm tuệ, căn lành đã trồng hoàn toàn thành thục. Nhờ phước lực này nên được nghe kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hết lòng tin ưa và có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, khai thị phân biệt cho các hữu tình.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật nhập Niết-bàn năm trăm năm, lúc Chánh pháp sắp diệt, ở phương Đông bắc sẽ có bao nhiêu thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa được nghe kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này hết lòng tin và có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói cho người khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen?

Phật dạy:

- Xá-lợi Tử! Sau khi Ta nhập Niết-bàn năm trăm năm, lúc Chánh pháp sắp diệt, ở phương Đông bắc tuy có vô lượng các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa, nhưng ít có người được nghe kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hết lòng tin và có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói cho người khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Này Xá-lợi Tử! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa nghe nói kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, tâm không mê muội, không kinh không sợ mà sanh niềm tin sâu xa, thích biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Phải biết người này đã từng gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các Bồ-tát, thỉnh hỏi nghĩa lý sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Đó là các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa, chẳng bao lâu nhất định sẽ viên mãn đạo Đại Bồ-tát, cho nên được tất cả Như Lai hộ niệmvô lượng bạn lành giúp đỡ, được ở trong căn lành thù thắng. Vì muốn đem lại nhiều lợi ích cho chúng sanh cho nên chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Ta thường vì các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa đó nói pháp tương ưng trí nhất thiết. Như Laiquá khứ cũng thường vì những người đó nói pháp tương ưng trí nhất thiết. Nhờ nhân duyên này, vào đời sau người đó thường được tu tập chánh hạnh tương ưng với trí nhất thiết trí, chóng đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cũng thường vì người khác tương ưng, làm cho họ đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thân tâm luôn luôn được an định, các ác ma vương và bè lũ của chúng chẳng thể phá hoại, tâm mong cầu tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, huống gì những kẻ ưa làm việc ác, hủy báng Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm trở ngại tâm kia để khỏi tinh tấn cầu đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì người đó đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề bằng tâm dõng mãnh tinh tấn, rất kiên trì.

Xá-lợi Tử! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này tâm được cởi mở, thanh tịnh vui mừng, cũng có thể an lập vô lượng hữu tình nơi thiện pháp thù thắng, giúp họ tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa đã phát nguyện rộng lớn với Ta: “Con sẽ an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình, làm cho họ phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh Đại Bồ-tát, chỉ bày, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi, vui mừng, để họ đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cho đến được thọ ký Bất thối chuyển. Con đối với họ, nguyện sanh tâm hoan hỉ.”

Vì sao? Xá-lợi Tử! Ta quán thấy người đó đã phát tâm nguyện rộng lớn tương ưng với lời nói. Tương lai, người đó nhất định có thể an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình, làm cho họ phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi, tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cho đến được thọ ký Bất thối chuyển.

Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa này vào thời quá khứ cũng đã ở trước vô lượng Phật phát nguyện rộng lớn: “Con sẽ an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình, làm cho họ phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi, để đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cho đến được thọ ký Bất thối chuyển.”

Thời quá khứ, đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng sanh tâm tùy hỷ đối với nguyện rộng lớn đó. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì chư Phật quá khứ cũng quán thấy các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa đã phát tâm nguyện rộng lớn tương ưng với lời nói. Tương lai, người đó nhất định có thể an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình, làm cho họ phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi, tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cho đến được thọ ký Bất thối chuyển.

Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa này tin hiểu rộng lớn, nguyện sanh vào cõi nước chư Phật ở phương khác, đều có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang giảng nói pháp Vô thượng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Sau khi người đó được nghe pháp vô thượng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này rồi, có thể an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình trong cõi Phật kia, làm cho họ phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh Đại Bồ-tát, thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi, vui mừng, làm cho họ đắc Bất thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hi hữu thay! Tất cả các pháp quá khứ, hiện tại, và vị lai không có pháp nào mà đức Phật không chứng biết, không có pháp nào mà không hiểu rõ. Đối với những hữu tìnhtâm hành khác nhau, đức Phật đều hoàn toàn chứng biết và hiểu rõ. Đối với ba đời chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn và các cõi Phật Thế Tôn đều chứng biết và hiểu rõ.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi thì Đại Bồ-tát này vào thời tương lai đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dõng mãnh tinh tấn thường cầu không ngưng nghỉ, như vậy người đó đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa luôn luôn được chứng đắc phải không?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Phật đối với tất cả pháp đều hoàn toàn chứng biết và hiểu rõ. Đại Bồ-tát này thường đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa dõng mãnh tinh tấn, vui thích mong cầu không ngưng nghỉ nên chứng đắc bất lỳ lúc nào, không kể thời gian. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì khi Đại Bồ-tát thường đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa với tâm vui thích mong cầu không ngưng nghỉ thì được chư Phật và Bồ-tát thường hộ niệm.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dõng mãnh tinh tấn, vui thích mong cầu không ngưng nghỉ mà chứng đắc bất kỳ lúc nào, hay đối với những kinh điển khác cũng thường được như vậy?

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào thường đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa dõng mãnh, tinh tấn, tin tưởng, mong cầu chẳng đoái nghĩ đến thân mạng, có lúc không được các kinh điển khác, điều này không bao giờ có. Vì sao? Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên thị hiện, khuyến khích, hướng dẫn, khen ngợi, vui vẻ với các hữu tình, làm cho họ đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đakinh điển khác thọ trì, đọc tụng, tư duy tu học. Do căn lành này mà sanh ở nơi nào thường được kinh tương ưng pháp Không Bát-nhã ba-la-mật-đa và được thọ trì, đọc tụng kinh điển khác nữa.

 
XI. PHẨM MA SỰ

01

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ngài nói các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, khi tu công đức hay gặp nhiều việc trở ngại. Những gì gọi là các việc trở ngại?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Việc trở ngại đó là các việc ma.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là việc ma của Bồ-tát?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi muốn giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa, có lúc nói pháp chính yếu, có biện tài mà lâu mới phát sanh, hoặc nói pháp chính yếu có biện tài vội vàng phát khởi, hoặc nói pháp chính yếu có biện tài phát sanh quá lượng, hoặc điều muốn nói chưa xong liền ngưng, hoặc nói pháp chính yếu ngôn từ lộn xộn, hoặc nói pháp chính yếu ngôn từ gián đoạn, hoặc khi nói pháp khởi lên những điều không tốt, làm cho những điều muốn nói không được tùy tâm. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi biên chép kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ợ ngáp uể oải, cùng nhau cười giỡn, khinh lấn lẫn nhau, thân tâm dao động, rối loạn mất chánh niệm, văn cú lộn xộn, mê mờ về nghĩa lý, chẳng được thấm nhuần pháp vị, sanh tâm nhàm chán, bỏ tắt ngang, tranh cãi chống báng lẫn nhau. Vì những sự kiện này nên biên chép không xong. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Nếu lúc Đại Bồ-tát thọ trì, đọc tụng, tư duy tu tập, nói và nghe kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc ợ ngáp uể oải, cùng nhau cười giỡn, khinh lấn lẫn nhau, thân tâm dao động, rối loạn mất chánh niệm, văn cú lộn xộn, mê mờ về nghĩa lý, chẳng được thấm nhuần pháp vị, sanh tâm chán bỏ, bỏ tắt ngang, tranh cãi chống báng lẫn nhau. Do những sự kiện này nên việc làm không thành tựu. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xasuy nghĩ thế này: Ta ở trong đây không được thọ ký nên nghe làm gì? Hoặc suy nghĩ: Trong đây chẳng nói tên ta thì nghe làm gì. Hoặc suy nghĩ: Trong đây chẳng nói đến thành ấp, xóm làng, nơi sanh của ta thì nghe làm gì. Vì những lý do này nên tâm chẳng thanh tịnh, tâm không đoái hoài, từ chỗ ngồi chán nản bỏ đi. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm chẳng thanh tịnh, chán bỏ đi, tùy theo tâm chẳng thanh tịnh của vị kia khởi lên chán bỏ kinh này mà bước đi bao nhiêu bước thì giảm bấy nhiêu kiếp số công đức như vậy, và chuốc lấy bấy nhiêu tội ngăn sự giác ngộ. Người đó đã chịu tội rồi, trải qua thời gian cũng như vậy, phát tâm siêng năng tinh tấn tu các hạnh khổ khó làm của Bồ-tát mới có thể trở lại như cũ. Vì thế gọi là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào buông bỏ kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dẫn đến trí nhất thiết trí mà học các kinh điển khác, tùy thuận Nhị thừa, không thể dẫn đến trí nhất thiết trí, rời bỏ cội rễ mà vin vào cành lá. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Vì sao? Vì kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh các công đức thù thắng thế gianxuất thế gian của Đại Bồ-tát. Do đó có thể dẫn đến trí nhất thiết trí, có công dụngthế lực lớn, ví như gốc cây. Các kinh điển khác không có công dụng như vậy, ví như công năng của cành lá, không thể vượt hơn được.

Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa tu học kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy tức là tu học các công đức thù thắng thế gianxuất thế gian của tất cả chúng Đại Bồ-tát, chóng tiến đến trí nhất thiết trí.

Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa buông bỏ kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa để cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, tức là buông bỏ tất cả các công đức thù thắng thế gianxuất thế gian của chúng Đại Bồ-tát, không bao giờ đạt đến trí nhất thiết trí. Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa này phước tuệ ít ỏi, bỏ gốc tìm ngọn. Thế nên gọi là việc ma của Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Như chó đói ngu si, bỏ chủ cho ăn, trở lại theo tôi tớ cầu xin miếng ăn. Vào thời tương lai, có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, bỏ kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, căn bản của trí nhất thiết trí, để cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa cũng lại như vậy. Vì sao? Vì các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa này trí tuệ hiểu biết ám độm, nên bỏ kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể dẫn trí nhất thiết trí mà cầu học kinh điển dẫn đến công đức Thanh văn, Độc giác. Chắc chắn không thể đạt được trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì kinh điển tương ưng Thanh văn, Độc giác chỉ là điều phục tự thân được vắng lặng để ra khỏi khổ sanh tử, đạt đến Niết-bàn an lạc, tinh tấn tu học kinh điển như vậy, dẫn đến căn lành, cứu cánh chỉ được trụ địa Nhị thừa, tự lợi viên mãn. Kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cứu giúp khắp tất cả hữu tình ra khỏi sự khổ sanh tử, được Niết-bàn an lạc, tinh tấn tu học kinh điển này dẫn đến căn lành cứu cánh đạt đến trí nhất thiết trí, đem lại lợi ích an vui cho tất cả hữu tình.

Này Thiện Hiện! Ví như có người muốn xem voi chúa thân hình lớn hay nhỏ, thuộc loại mạnh mẽ hay yếu đuối, được thấy voi mà người ấy không xem, lại đi tìm dấu chân của nó. Ý ông thế nào? Người đó có thông minh không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vào thời tương lai có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, bỏ kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cội rễ của trí nhất thiết trí để cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa và trong đó mong cầu được trí nhất thiết trí cũng lại như vậy.

Này Thiện Hiện! Ví như có người vì tìm trân bảo nên đến biển lớn. Đã đến bờ biển, người ấy không vào biển lớn mà trở lại xem nước nơi dấu chân trâu, rồi suy nghĩ: Nước trong biển lớn lượng sâu rộng của nó có bằng đây không? Trong đó có lẽ cũng có các trân bảo. Ý ông thế nào? Người đó có khôn không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người đó không khôn.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vào thời tương lai có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, bỏ kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cội rễ của trí nhất thiết trí để cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, và trong đó mong cầu được trí nhất thiết trí cũng lại như vậy. Vì sao? Vì người đó tinh tấn tu học kinh điển Nhị thừa, cuối cùng chỉ có thể đắc quả Dự lưu, tuần tự cho đến Độc giác Bồ-đề, tất nhiên không thể được trí nhất thiết trí.

Thế nên các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa muốn mau chứng đắc trí nhất thiết trí, nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa, không nên cầu học kinh điển Nhị thừa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chắc chắn là cội rễ của trí nhất thiết trí, còn kinh điển Nhị thừa như là cành lá.

Này Thiện Hiện! Như có thợ hoặc học trò của ông ta, muốn làm cung điện lớn, cao rộng tốt đẹp như cung điện trời Đế Thích. Sau khi thấy cung điện đó, người kia lại làm cung điện kiểu như cung điện Nhật Nguyệt. Ý ông thế nào? Người thợ hoặc học trò của ông ta có thể làm cung điện rộng lớn, tốt đẹp như cung điện trời Đế Thích không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không được.

Phật dạy:

- Người ấy có thông minh không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người ấy chẳng thông minh.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vào thời tương lai có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lại bỏ để cầu học kinh điển Nhị thừa và muốn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc hữu tình cũng lại như vậy. Nên biết đó là loại người ngu si.

Này Thiện Hiện! Như có người muốn thấy Chuyển luân thánh vương, thấy rồi chẳng nhận biết, bỏ đến nơi khác, thấy vua nước nhỏ, quán sát hình tướng của ông ta và suy nghĩ: Hình tướng của Chuyển luân thánh vương oai đức đâu có hơn người này. Ý ông thế nào? Người đó có thông minh không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người đó không thông minh.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vào thời tương lai có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa muốn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình, bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa và nói kinh điển kia cùng đây đâu có gì khác nhau, vì sao phải dùng kinh đó!? Vì nhân duyên này chắc chắn không thể đạt trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều phương tiện thị hiện, khuyến khích, dẫn dắt, khen ngợi, vui mừng. Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được Bất thối chuyển mà bỏ để cầu học kinh điển Nhị thừa, nên biết người kia cũng lại như vậy. Vì sao? Vì người tinh tấn tu học kinh điển Nhị thừa chắc chắn không thể chứng được quả vị Phật.

Này Thiện Hiện! Như có người đói được thức ăn trăm vị mà bỏ để cầu ăn cơm để lâu hai tháng. Ý ông thế nào? Người đó có thông minh không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người đó không thông minh.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Cũng vậy, vào thời tương lai, có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, cầu hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, với ý muốn tìm trí nhất thiết trí trong kinh Nhị thừa ấy, hoài công nhọc nhằn, cuối cùng họ chẳng được gì.

Này Thiện Hiện! Như có người nghèo được ngọc vô giá, mà bỏ để đổi lấy đá Ca-già-mạc-ni (thuỷ tinh). Ý ông thế nào? Người đó có thông minh không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người đó không thông minh.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Cũng vậy, vào thời tương lai có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, cầu hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để cầu học kinh điển tương ưng Nhị thừa, với ý muốn tìm trí nhất thiết trí trong kinh Nhị thừa ấy, hoài công nhọc nhằn cuối cùng họ chẳng được gì.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, nếu đang lúc biên chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy tu tập kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mà có những sự biện luận phức tạp nổi lên và muốn nói về những pháp môn khác nhau, làm cho những việc biên chép v.v... chẳng được hoàn tất. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có thể biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được không?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Không được. Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa khi biên chép kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà nghĩ: Ta dùng văn tự biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, như vậy văn tự tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc nương vào văn tự chấp trước Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà nghĩ đến đất nước, thành ấp, kinh đô, nơi chốn, thầy bạn, cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, bà con, bè bạn, vua quan, trộm cướp, thú dữ, người ác, quỉ ác, đám đông, dạo chơi, âm nhạc, báo oán, báo ơn, thực phẩm, y phục, giường nằm, hoặc nghĩ đến các vật dụng khác cho thân, hoặc nghĩ đến sự sáng tác văn tụng, sách vở, thời tiết lạnh, nóng, ấm, mát, những việc voi ngựa nước lửa, hoặc nghĩ đến những sự nghiệp khác đã xa lìa. Nên biết đều là việc ma Bồ-tát.

Ma dùng những việc ấy làm khuấy động Bồ-tát, làm cho những việc biên chép đều chẳng được thành tựu, Bồ-tát biết rõ hãy nên xa lìa.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, được sự cung kính cúng dường, được nhiều lợi ích, tiếng khen. Vì lý do này mà người đó bỏ bê sự nghiệp đã làm, nên biết đó cũng là việc ma của Bồ-tát. Bồ-tát biết rõ hãy nên xả bỏ.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ác ma hóa ra những hình tượng Bí-sô cầm các loại sách thế tục, hoặc kinh điển tương ưng Nhị thừa, giả hiện bạn thân trao cho Bồ-tát và bảo Bồ-tát: “Kinh điển này ý nghĩa sâu xa, uyên áo, nên siêng năng tu học; bỏ kinh đã học kia đi.” Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa này phương tiện thiện xảo không nên chấp nhận sách luận thế tục của ác ma trao cho, hoặc kinh điển tương ưng Nhị thừa. Vì sao? Vì sách luận của thế tụckinh điển Nhị thừa không thể dẫn phát được trí nhất thiết trí, không thể hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không phải thuận duyên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà nó vô cùng chướng ngại.

Thiện Hiện nên biết! Trong kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, giảng rộng phương tiện thiện xảo đạo Đại Bồ-tát. Nếu ai đối với kinh này tinh tấn tu học, rất mau chứng đắc trí nhất thiết trí. Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa không có phương tiện thiện xảo, sẽ gần gũi bạn ác, bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thọ học sách luận thế tục của ác makinh điển tương ưng Nhị thừa. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người nghe pháp, thích pháp, thích hỏi pháp, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Người thuyết pháp lại rơi vào giải đãi, chẳng muốn thuyết pháp cho ai, cũng chẳng ban bố cho ai Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp tâm không tham đắm dục lạc, cũng không có giải đãi, ưa giảng và ưa ban bố Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện khuyến khích, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập. Người nghe pháp lại giải đãi, ham vui, chẳng muốn lãnh thọ cho đến tu tập. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người nghe pháp đầy đủ sức trí tuệ, nhớ nghĩ, thích nghe, thích hỏi, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Người thuyết pháp lại muốn đi đến phương khác, không thể dạy bảo, truyền trao. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp ưa thuyết, ưa ban bố Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện khuyến khích, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập. Người nghe pháp muốn qua phương khác, không muốn nghe thọ. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp thường đủ thứ ác dục lớn, yêu chuộng danh lợi, y phục, ăn uống, giường nằm, thuốc thang và bao nhiêu vật dụng, của cải khác, thích sự cung kính, cúng dường, tâm không nhàm chán. Người nghe pháp thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, dõng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm định tuệ, chán sợ sự lợi dưỡng, cung kính và tiếng khen, hoặc có đủ tật đố xan tham, không thể xả thí. Cả hai không hòa hợp, không tiếp nhận thọ trì, biên chép, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, dõng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm định tuệ, chán sự lợi dưỡng, cung kính và tiếng khen, hoặc có đủ tham lam, ganh ghét, không thể xả thí. Người nghe pháp có đủ ác dục lớn, yêu chuộng danh lợi, y phục, ăn uống, giường nằm, thuốc thang và vật dụng, của cải, đối với sự cúng dường, cung kính tâm không nhàm đủ. Cả hai không hòa hợp, không thể tiếp nhận thọ trì, biên chép, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp có tín, có giới, thọ trì mười hai công đức hạnh đầu-đà, thích thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho người khác, dùng phương tiện khuyến khích, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập. Người nghe pháp không tín, không giới, cũng không có mười hai công đức hạnh đầu-đà. Cả hai không hòa hợp, không thể dạy bảo, trao truyền, tiếp nhận, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người nghe pháp có tín, có giới, thọ trì mười hai công đức hạnh đầu-đà, ưa nghe, hỏi, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Người thuyết pháp không tín, không giới, cũng không có mười hai công đức hạnh đầu-đà. Cả hai không hòa hợp, nên không đạt được kết quả nói hay nghe, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp không có tâm tham lam, bỏn xẻn mà có thể bố thí tất cả. Người nghe pháp có tâm tham lam, bỏn xẻn và không thể xả thí, hoặc trái ngược trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người nghe pháp muốn cầu cúng dường người thuyết pháp y phục, ăn uống, giường nằm, thuốc thang và vật dụng khác, nhưng người thuyết pháp chẳng muốn thọ dụng, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp thành tựu khai trí, không muốn truyền bá. Người nghe pháp thành tựu diễn trí, chẳng muốn nói tóm tắt, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp chuyên ưa muốn biết rộng trình tự pháp nghĩa mười hai phần giáo. Người nghe pháp chẳng muốn biết rộng trình tự pháp nghĩa mười hai phần giáo, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp thành tựu sáu pháp Ba-la-mật-đa, dùng phương tiện thiện xảo đạt được Đà-la-ni. Người nghe pháp không được công đức như vậy, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn làm cho người nghe pháp cung kính biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Người nghe pháp chẳng tùy thuận ý của người thuyết pháp, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp đã xa lìa trần cấu xan tham, đã xa lìa năm triền cái. Người nghe pháp chưa lìa xan tham, chưa xa lìa năm triền cái, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người nghe pháp có tâm tin yêu, muốn hiểu rõ nghĩa lý sâu xa, nhưng người thuyết pháp đối với kinh này chưa được thuần thục sâu xa nên không thể xác quyết rõ ràng, làm cho người nghe pháp không muốn nghe. Do nhân duyên này nên không được biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp tâm thích nói pháp, nhưng người nghe pháp lại không muốn nghe, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp tuy muốn nói pháp nhưng các căn trên thân bệnh nặng ràng buộc nên không thể thuyết pháp được. Người nghe pháp tuy muốn nghe pháp nhưng các căn trên thân bệnh nặng ràng buộc nên không thể nghe pháp được. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, giảng nói kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có người đến nói về những cảnh giới ác và những việc khổ, nhân đó lại bảo: “Ngươi đối với thân này nên siêng năng tinh tấn sẽ mau chấm dứt hết khổ, vào Bát Niết-bàn. Cần gì phải dừng lại biển cả sanh tử, nhẫn chịu trăm ngàn sự đau khổ khó nhẫn, để cầu hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.” Do những lời nói ấy mà sự biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chẳng được trọn vẹn. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Có các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa, khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có người đến khen ngợi những sự thù thắngcõi người, và khen ngợi sự trường thọ, an vui của cõi trời, rồi người đó nói: Tuy ở cõi Dục thọ những dục lạc, ở trong cõi Sắc hưởng vui tịnh lự, ở cõi Vô sắc hưởng vui đẳng chí (định), nhưng đó đều là những pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, biến hoại, pháp tàn tạ, pháp xa lìa, pháp chấm dứt, pháp hoại diệt. Vì sao ngươi đối với thân này chẳng tinh tấn để chứng quả Dự lưu, tuần tự cho đến Độc giác Bồ-đề, vào Bát Niết-bàn cứu cánh an vui. Sao lại ở lâu nơi luân hồi sanh tử, vô cớ vì người khác chịu những khổ nhọc để cầu hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do những lời nói ấy mà sự biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này không được trọn vẹn. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp sống một mình, không bị ràng buộc, chuyên tu việc mình chứ chẳng lo việc người khác. Người nghe pháp thích lãnh đồ chúng, thích lo việc người khác nhưng chẳng lo việc mình, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp chẳng ưa ồn ào xen tạp. Người nghe pháp thích chỗ ồn ào xen tạp, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn người nghe hoàn toàn tùy thuận và hỗ trợ những điều mình nói. Người nghe pháp chẳng tùy thuận ý muốn của người nói, hoặc trái với trường hợp trên. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết phápdanh lợi nên muốn thuyết pháp cho người khác, và muốn những người nghe đó biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Người nghe pháp biết những điều như vậy, nhưng không muốn tùy thuận chấp nhận. Hoặc người nghe vì danh lợi cho nên muốn thỉnh người thuyết pháp và muốn phương tiện biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Người thuyết pháp biết những điều như vậy nhưng không chấp nhận lời thỉnh kia. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn đến phương khác, nơi có thể nguy hiểm đến thân mạng. Người nghe pháp sợ mất thân mạng, nên chẳng muốn đi theo. Hoặc người nghe muốn qua phương khác, nơi có thể nguy hiểm đến thân mạng. Người thuyết pháp sợ mất thân mạng, chẳng muốn cùng đi. Cả hai không hòa hợp nên không đạt được sự dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn qua phương khác, cõi nước có nhiều giặc cướp, tật dịch, đói khát. Người nghe pháp lo sợ nơi ấy gian khổ nên chẳng chịu đi theo. Hoặc người nghe muốn qua phương khác, cõi nước có nhiều giặc cướp, tật dịch, đói khát, nhưng người thuyết pháp lo sợ nơi ấy gian khổ nên chẳng chịu cùng đi. Cả hai không hòa hợp nên không thể đạt được sự dạy bảo, trao truyền nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Quyển thứ 546
HẾT

 

02

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn qua phương khác, nơi an ổn, giàu có, an vui, không có tai nạn. Người nghe pháp muốn đi theo người thuyết pháp. Người thuyết pháp phương tiện nói thử: “Tuy ngươi vì lợi muốn đi theo ta, nhưng ngươi đến đó đâu hẳn đã vừa lòng! Nên suy nghĩ cẩn thận, đừng để sau này hối hận.” Người nghe pháp sau khi nghe nói như vậy, suy nghĩ: Thầy này chẳng muốn để ta cùng đi. Nếu như ta cố tình đi theo thì chắc gì đã được nghe pháp. Vì sự việc này mà người nghe pháp chẳng đi theo. Cả hai không hòa hợp nên không thể dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn qua phương khác phải đi qua con đường hoang vu, hiểm trở, có nhiều nạn giặc cướp và những sự khủng bố của kẻ hung dữ, ác thú, thợ săn, rắn độc v.v... Người nghe pháp muốn cùng đi theo. Người thuyết pháp phương tiện nói thử: “Vì sao bỗng dưng ngươi muốn theo ta đến những nơi có nhiều nguy hiểm như vậy? Hãy nên suy nghĩ cẩn thận, đừng để sau này lo âu, hối hận.” Người nghe pháp nghe rồi suy nghĩ: Thầy này chẳng muốn cho ta đi theo, nếu như ta cố tình đi theo chắc gì đã được nghe pháp. Vì nguyên nhân này mà người nghe pháp chẳng đi theo. Cả hai không hòa hợp nên không thể dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Người thuyết pháp có nhiều thí chủ luôn luôn cùng theo kề cận. Người nghe pháp đến thỉnh thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc thỉnh biên chép, thọ trì, đọc tụng, như lời dạy tu hành. Nhưng người thuyết pháp có nhiều việc trở ngại, không rảnh để dạy bảo. Vì vậy, người nghe pháp sanh tâm ghét hờn, mặc dù sau đó có được dạy bảo nhưng chẳng thèm nghe. Cả hai không hòa hợp nên không thể dạy bảo, trao truyền, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Có các ác ma hóa ra đủ thứ hình dạng đến chỗ Bồ-tát tìm cách phá hoại, làm cho người đó đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy hay giảng nói cho người khác được.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thường có những sự trở ngại, nên biết đều là việc ma của Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao mà ác ma hóa thành các hình tướng đến chỗ Bồ-tát tìm cách phá hoại, làm cho người đó đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy hay giảng nói cho người khác được?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng sanh ra trí nhất thiết trí của chư Phật. Tất cả trí nhất thiết trí của chư Phật sanh ra lời dạy của Phật. Lời dạy của Phật sanh ra vô lượng, vô số Bát-nhã hữu tình. Bát-nhã hữu tình chứng vô biên các phiền não đoạn. Người đã đoạn tận phiền não thì tất cả ác ma chẳng thể làm hại được. Vì tất cả ác ma chẳng làm hại được nên sanh nhiều buồn khổ, như bị mũi tên đâm vào tim chúng. Chúng nghĩ: Chớ để cho Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này làm trống khuyết cảnh giới của ta. Thế nên ác ma hóa thành các hình tướng đến chỗ Bồ-tát tìm cách phá hoại, làm cho người đó đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy hay giảng nói cho người khác được.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ác ma hóa thành các hình tướng đến chỗ Bồ-tát tìm cách phá hoại như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Có các ác ma hóa ra hình tướng Sa-môn đến chỗ Bồ-tát tìm cách phá hoại, làm cho người đó chán bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Sa-môn giả đó nói như vầy: “Kinh điển vô tướng mà ngươi tu tập, tụng đọc chẳng phải là chơn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Kinh điển hữu tướng ta tu tập, tụng đọc là chơn Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Khi chúng nói lời như vậy, có các Bồ-tát chưa được thọ ký, mới học Đại thừa trí tuệ thấp kém, hạn hẹp liền sanh tâm nghi hoặc đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì nghi hoặc nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sanh tâm chán bỏ. Vì có tâm chán bỏ nên chẳng biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho người khác. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Có các ác ma hóa ra hình tướng Bí-sô đến chỗ Bồ-tát, nói với Bồ-tát: “Những Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chỉ chứng thật tế đắc quả Dự lưu, cho đến đắc quả Độc giác Bồ-đề chứ không bao giờ có thể chứng đắc quả Phật vô thượng. Vì sao phải đối với Bát-nhã này hoài công nhọc nhằn?” Bồ-tát nghe như vậy liền bỏ, chẳng biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho người khác. Nên biết đó là việc ma của Bồ-tát.

Thế nên, này Thiện Hiện! Khi biên chép v.v… Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có rầt nhiều những việc ma, Bồ-tát nên biết rõ như vậy, nên tinh tấn chánh niệm, chánh tri, tìm cách xa lìa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có rất nhiều việc ma. Ví như ngọc Thần châu đại bảo vô giá, tuy có sức thù thắng nhưng cũng có nhiều giặc oán. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa này tuy có phước đức thù thắng nhưng cũng có nhiều trở ngại. Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, vì ít phước đức nên khi biên chép v.v... có ác ma đến làm trở ngại, mặc dù có tâm ưa thích thực hiện nhưng không thành tựu được. Vì sao? Vì có người ngu si bị ma làm mê hoặc, khi các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bị kẻ đó làm trở ngại.

Bạch Thế Tôn! Kẻ ngu si đó tuệ giác ít ỏi nên không thể nghĩ bàn pháp Phật rộng lớn bao la. Chính họ không thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy lắng nghe giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa được, mà còn muốn làm trở ngại sự biên chép của người khác nữa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Có kẻ ngu si bị ma sai khiến, chưa trồng căn lành, phước tuệ ít mỏng, chưa phát nguyện rộng lớn đối với Phật, chưa được bạn lành bảo hộ, chính mình đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể biên chép cho đến giảng nói được, còn làm cho các thiện nam tử mới học Đại thừa bị trở ngại khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Vào thời tương lai có các thiện nam tử, thiện nữ v.v… phước tuệ nông cạn, căn lành ít ỏi, đối với công đức rộng lớn của chư Như Lai tâm chẳng ưa thích. Chính mình đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy lắng nghe, hỏi, giảng nói, lại còn muốn làm trở ngại sự biên chép v.v... của người khác. Nên biết những loại người đó bị mắc vô biên tội.

Này Thiện Hiện! Có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bị nhiều việc ma làm trở ngại, làm cho sự biên chép chẳng được thành tựu. Do đó, công đức không được viên mãn, vì phước tuệ ít ỏi và căn lành chưa thành thục.

Có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, lúc biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà không có việc ma, nên biết đều nhờ vào thần lực từ bi hộ niệm của chư Phật. Vì sao? Vì ác ma và bè lũ của chúng tuy luôn tìm đủ mọi cách muốn hoại diệt Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhưng chư Phật Thế Tôn cũng luôn luôn phương tiện từ bi hộ niệm, làm cho các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có các chướng ngại và được mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

 
XII. PHẨM THẾ GIAN

Này Thiện Hiện! Ví như người phụ nữ có nhiều con, hoặc năm, hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, hoặc trăm, hoặc ngàn v.v… Người mẹ bị bệnh, các người con mỗi người đều đi tìm thuốc chữa, họ đều suy nghĩ: Làm sao bệnh của mẹ ta được thuyên giảm, mạng sống bình an, được sống lâu, an lạc, không bị đau khổ. Tất cả những hạnh phúc an vui đều đến với mẹ ta. Vì sao? Vì mẹ đã sanh dưỡng chúng ta, đã chịu những nỗi gian nan, khổ sở nhất của đời này.

Suy nghĩ như vậy, họ đua nhau tìm đủ mọi cách để tìm sự an ổn, bảo vệ cho mẹ, không để cho những việc khó chịu như: Muỗi, nhặng, rắn, bò cạp, gió mưa, người chẳng phải người v.v... xúc chạm đến. Họ ân cần gia tâm sửa sang những gì làm cho mẹ hết bệnh, sáu căn thanh tịnh, những lo khổ không còn. Họ lại đem những đồ vui tốt đẹp nhất cung kính cúng dâng và nói thế này: Tình tương của mẹ bao la, sanh dưỡng chúng ta, dạy dỗ chỉ bày tất cả sự nghiệp ở đời, chúng ta làm sao mà chẳng đáp đền ơn mẹ.

Cũng vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường đem các thứ phương tiện thiện xảo hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy giảng nói không biếng mỏi, Như Lai cũng đem vô số phương tiện ân cần gia tâm hộ niệm để cho không bị tổn não.

Trong các thế giới mười phương hiện tại, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều thương xót, lợi ích an vui cho các hữu tình, cũng đem các phương tiện thiện xảo hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm cho các ác ma không thể hủy diệt, được an lạc, lợi ích dài lâu nơi tất cả thế gian. Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng vậy, đều đem các phương tiện thiện xảo hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có thể chân chính hiển bày trí nhất thiết trí, có thể thể hiện thật tướng của các pháp thế gian. Trí nhất thiết trí cũng từ đó sanh ra.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả chư Phật Thế Tôn thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này tinh tấn tu học để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta thuở xưa cũng nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tinh tấn tu học để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có thể chân chánh hiển bày trí nhất thiết trí, có thể hiện thật tướng của các pháp thế gian.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác? Có thể hiển bày thật tướng của các pháp thế gian?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh trí nhất thiết trí của Như Lai và các công đức khác, cho nên nói là Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có thể hiển bày thật tướng của các pháp thế gian, nghĩa là có thể hiển bày thật tướng của ngũ uẩn thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng của ngũ uẩn thế gian?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể hiển bày thật tướng ngũ uẩn như sắc v.v... của thế gian không biến hoại, cho nên nói là Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian. Vì sao? Vì ngũ uẩn như sắc v.v... không có tự tánh cho nên gọi là không, vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô tác, vô sanh, vô diệt, tức chơn pháp giới. Chẳng phải Không v.v... pháp có thể biến hoại, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể như thật chứng biết khắp tất cả sự thiết lập khác nhau của vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết tâm hành sai khác của vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình chẳng có tự tánh, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình tâm không chỗ trụ, cũng như hư không, không nương tựa vào đâu, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết tâm đơn giản của vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, và tận, lìa tâm tánh không đơn giản, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết tâm tán loạn của vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Do pháp tánh, tâm tánh không tán loạn, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có những tâm nhiễm ô, không thể hiển bày tâm tánh vô nhiễm được, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình tâm chẳng nhiễm ô, vì bản tánh thanh tịnh, không có tánh nhiễm ô xen vào, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có tâm thấp kém. Vì không thể tiềm ẩn tâm tánh không thấp kém được, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có tâm nâng cao. Vì không thể đo lường tâm tánh không nâng cao, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm hữu lậu, vì không có tự tánh, không phân biệt được, không có tánh hữu lậu, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm vô lậu, vì không có tự tánh, không cảnh giác nên không phải tánh vô lậu, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có các tâm tham. Vì tánh như thật chẳng có tâm tham, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm ly tham. Vì tánh như thật không phải tâm ly tham, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có các tâm sân. Vì tánh như thật chẳng có tâm sân, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm ly sân. Vì tánh như thật chẳng phải tâm ly sân, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có các tâm si. Vì tánh như thật chẳng có tâm si, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm ly si. Vì tánh như thật chẳng phải tâm ly si, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có tâm nhỏ mọn, không đến không đi cũng không hệ lụy, lệ thuộc. Vì tâm tánh không nhỏ mọn nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình bao nhiêu tâm rộng lớn, tự tánh bình đẳng, gọi là tánh bình đẳng. Vì không có tâm tánh rộng lớn nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình bao nhiêu tâm hẹp hòi, không sanh phương tiện, không bị ràng buộc, hệ lụy. Vì tâm tánh không hẹp hòi nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có bao nhiêu tâm quảng đại, không tăng, không giảm, cũng không xa lìa. Đã xa lìa nên tâm tánh không quảng đại, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có những tâm hạn lượng. Vì tự tánh không, nên chẳng có tánh hạn lượng, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm vô lượng, không sanh, không diệt, không trụ, không khác, như hư không mênh mông, không có chỗ dừng hay nương tựa. Vì chẳng phải tâm vô lượng nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm có thấy, tự tánh bình đẳng, năm loại mắt không hoạt động. Vì tâm không có thấy nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có các tâm không thấy, không tướng có thể thấy, vì xa lìa các cảnh nên tâm thấy tất cả, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm có đối đãi, vì hư vọng phân biệt, chẳng tự tại nơi cảnh sở duyên. Vì không có tâm đối đãi nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm không đối đãi, vì như thật không cùng tận, cũng không sanh khởi. Vì tâm có đối đãi nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có các tâm tăng thượng. Tánh như thật không có sự lo âu, suy nghĩ. Vì không có tâm tăng thượng nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình có các tâm không tăng thượng, xa lìa những bàn luận vu vơ, một phần nhỏ tâm tánh cũng bất khả đắc. Vì tâm đều có tăng thượng nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình các tâm bất định, vì tánh như thật không thể sánh bằng. Vì tâm bất định nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tìnhtâm định, vì tánh bình đẳng như thật, bình đẳng cũng như hư không. Vì tâm tánh không định nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình không có tâm giải thoát, vì tự tánh viễn ly, lấy vô tánh làm tự tánh, chẳng có tâm giải thoát, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tìnhtâm giải thoát, vì tánh như thật chẳng có tâm tánh suy tìm ba đời đều bất khả đắc, không có tâm giải thoát, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình không thể thấy tâm, vì không có tự tánh nên không thể thấy. Vì không chơn thật nên vượt qua căn cảnh, vì không biết rõ nên không thành tựu viên mãn. Tuệ nhãn, thiên nhãn còn không thể thấy tâm, huống gì là nhục nhãn! Dùng tất cả mắt đều không thể thấy, nên gọi là không thể thấy. Không thể thấy này cũng bất khả đắc. Vì không thể nói, không thể thấy tâm, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Thế nên, này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình hoặc sanh ra hoặc mất đi.

Thiện Hiện! Thế nào gọi là tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình hoặc sanh ra hoặc mất đi? Nghĩa là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết tâm và tâm sở pháp của vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đều nương vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sanh ra. Cũng vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình hoặc sanh ra hoặc mất đi.

Thiện Hiện! Thế nào là tâm và tâm sở pháp của các loài hữu tình hoặc sanh ra hoặc mất đi đều nương vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sanh ra? Nghĩa là tâm và tâm sở pháp của các hữu tình, hoặc có kẻ nương vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai sau khi tịch hoặc có, hoặc chẳng có; cũng có cũng chẳng có; chẳng có, chẳng không có; cho rằng đây là đúng sự thật, ngoài ra đều là ngu si, hư vọng.

Hoặc có kẻ nương vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian là thường, hoặc vô thường; cũng thường, cũng vô thường; chẳng thường, chẳng vô thường; cho rằng đây là đúng sự thật, ngoài ra đều là ngu si, hư vọng.

Hoặc có kẻ nương vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian hoặc hữu biên, hoặc vô biên; cũng hữu biên, cũng vô biên; chẳng hữu biên, chẳng vô biên; cho rằng đây là đúng sự thật, ngoài ra đều là ngu si, hư vọng.

Hoặc có kẻ nương vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức chấp mạng tức là thân, hoặc thân khác; cho rằng đây là đúng sự thật, ngoài ra đều là ngu si, hư vọng.

Thế nên, này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết tâm và tâm sở pháp của vô lượng, vô số, vô biên hữu tình hoặc sanh ra hoặc mất đi đều nương vào tưởng sai khác của sắc, thọ, tưởng, hành, thức sanh.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình hoặc sanh ra hoặc mất đi.

Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật chứng biết vô lượng, vô số, vô biên hữu tình hoặc sanh ra hoặc mất đi thế nào? Nghĩa là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều như là chơn như, không hai không khác.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như Như Lai tức chơn như ngũ uẩn; chơn như ngũ uẩn tức chơn như thế gian. Vì sao? Vì như Thế Tôn dạy, nương tựa ngũ uẩn lập tên thế gian.

Thế nên, này Thiện Hiện! Chơn như ngũ uẩn tức chơn như thế gian; chơn như thế gian tức chơn như quả Dự lưu; chơn như quả Dự lưu tức chơn như quả Nhất lai v.v… lần lượt cho đến chơn như tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức chơn như của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật; chơn như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật tức chơn như của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; chơn như của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tức chơn như của tất cả hữu tình.

Thiện Hiện nên biết! Hoặc chơn như của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc chơn như của tất cả hữu tình, hoặc chơn như của tất cả pháp, chơn như như vậy đều chẳng rời nhau, chẳng phải một, chẳng phải khác. Vì chẳng phải một, chẳng phải khác nên không cùng tận, không hai, cũng không hai phần, không thể phân biệt.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng chơn như tất cả pháp rốt ráo cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây nên nói: Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh chư Phật, là mẹ của chư Phật, có thể hiển bày thật tướng thế gian của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa như thật biết chơn như của các pháp tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng thay đổi. Do như thật biết tướng chơn như nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sự chứng chơn như của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng thay đổi, cực kỳ sâu xa, khó thấy khó biết. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều dùng chơn như để phân tích trình bày quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Chơn như này rất là sâu xa, rất là vi diệu, ai mà có thể tin hiểu được. Chỉ có các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển và các đại A-la-hán hạnh nguyện viên mãn cùng các thiện nam tử v.v... đầy đủ chánh kiến, nghe Phật dạy chơn như sâu xa này mới có thể tin hiểu được. Như Lai vì người đó nương vào tướng chơn như đã chứng của Ngài để phân tích chỉ bày.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì chơn như vô tận cho nên rất sâu xa. Chỉ có Như Lai hiện Đẳng chánh giác, tướng chơn như vô tận sâu xa, vì các chúng Đại Bồ-tát khai thị giảng nói cho họ sanh lòng tin hiểu.

Khi ấy, trời Đế Thích thống lãnh mười ngàn Thiên tử cõi Dục, Đại Phạm Thiên Vương thống lãnh hai vạn Thiên tử cõi Sắc cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi đứng qua một bên, đồng thanh bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các pháp sâu xaThế Tôn đã dạy, lấy gì làm tướng?

Phật dạy các Thiên tử:

- Pháp Ta đã dạy lấy không, vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô sanh, vô diệt, tịch diệt, Niết-bàn, pháp giới làm tướng. Vì sao? Vì pháp Phật dạy không có chỗ nương tựa, ví như hư không, không thể biểu thị được.

Thiên tử nên biết! Như Lai đã dạy pháp tướng sâu xa, chẳng rơi vào sắc số, cũng chẳng rơi vào thọ, tưởng, hành, thức số; chẳng nương nơi sắc, cũng chẳng nương thọ, tưởng, hành, thức.

Thiên tử nên biết! Như Lai đã dạy pháp tướng sâu xa mà trời, người, A-tu-la v.v... ở thế gian không thể an lập, cũng không thể hoại diệt. Vì sao? Vì trời, người, A-tu-la v.v... ở thế gian đều là hình tướng. Những gì là có tướng đối với tướng vô tướng thì không thể an lập, cũng không thể hoại diệt.

Thiên tử nên biết! Như Lai đã thuyết pháp tướng sâu xa, không thể dùng tay xây dựng hay phá hoại, cũng không thể dùng các pháp khác để an lập hay phá hoại.

Thiên tử nên biết! Giả sử có người hỏi: “Ai lập hư không và ai có thể phá hoại hư không?” Người hỏi như vậy là hỏi có đúng không?

Các Thiên tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Người đó hỏi như vậy là không đúng. Vì sao? Vì hư khôngvô thể, vô tướng, vô vi nên không thể an lập hay phá hoại được.

Phật dạy các Thiên tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thiên tử nên biết: Pháp tướng sâu xa Ta đã thuyết giảng cũng lại như vậy, không thể an lập, không thể phá hoại. Có Phật hay không có Phật thì vạn pháp của pháp giới cũng như vậy. Đối với pháp tướng này, đức Phật như thật biết rõ, cho nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Các Thiên tử bạch Phật:

- Đức Như Lai đã biết các tướng như vậy rất là sâu xa, khó thấy, khó biết. Như Lai hiện tướng biết như vậy nên đối với tất cả pháp chuyển trí vô ngại. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trụ tướng như vậy để phân tích, chỉ bày Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và vì các hữu tình tập hợp các pháp tướng, dùng phương tiện khai thị làm cho họ đắc trí vô ngại nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là chỗ của các đức Như Lai thường thực hành. Vì là chỗ thường thực hành của đức Như Lai cho nên chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phân biệt khai thị cho các hữu tình.

Phật dạy các Thiên tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thiên tử nên biết! Như Lai như thật biết tất cả pháp tướngvô tướng. Vì nhân duyên này mà Ta nói chư Phật đắc trí vô ngại, không ai sánh kịp được.

Khi ấy, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là mẹ của chư Phật, có thể chỉ bày thật tướng các pháp của thế gian. Thế nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương pháp mà an trụ, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, bảo vệ, hộ trì nương tựa vào pháp. Pháp đó tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, bảo vệ, hộ trì. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh chư Phật, có thể cùng chư Phật làm chỗ y chỉ, có thể chỉ bày thật tướng các pháp của thế gian.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là người biết ơn và người đền ơn. Nếu có người hỏi: Ai là người biết ơn và đền ơn? Nên trả lời thẳng: Đức Phật là người biết ơnđền ơn. Vì sao? Vì sự biết ơnđền ơn không ai hơn Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là sự biết ơnđền ơn của đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cỡi xe như vậy, đi trên con đường như vậy để đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đạt giác ngộ rồi, luôn luôn cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, bảo vệ, hộ trì xe ấy, chưa từng tạm bỏ. Xe ấy, đường ấy nên biết tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa, gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ơnđền ơn.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa biết tất cả pháp thật khôngtác dụng, vì kẻ tạo tác đều vô sở hữu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biết tất cả pháp không có sự thành tựu, vì các hình chất bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này nên hiểu tất cả pháp đều không có tác dụng, không có sự thành tựu. Trong tất cả mọi lúc đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, bảo vệ, hộ trì chưa từng gián đoạn, cho nên gọi là chơn thật biết ơnđền ơn.

Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp chuyển trí vô tác, vô thành, vô sanh, và có thể biết nguyên nhân không chuyển này. Vì thế nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng có thể hiển bày tướng như thật của thế gian.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Đức Như Lai thường dạy: Tất cả pháp, tánh không sanh, không khởi, không biết, không thấy. Như vậy làm sao có thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng có thể hiển bày tướng như thật của thế gian?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay! Ông có thể hỏi đức Như Lai nghĩa lý sâu xa như vậy. Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, tất cả pháp tánh, không sanh, không khởi, không biết, không thấy, nương vào thế tục để nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng có thể hiển bày tướng như thật của thế gian.

Thế nào Thiện Hiện! Tất cả pháp tánh, không sanh, không khởi, không biết, không thấy. Vì tất cả pháp Không nên không sở hữu, không chỗ nương tựa và không có sự lệ thuộc. Do nhân duyên này nên không sanh, không khởi, không biết, không thấy.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mặc dù có thể sanh ra Phật và hiển bày tướng thế gian nhưng không có sự sanh, cũng không có sự hiển bày.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì không thấy sắc cho nên gọi là hiển bày tướng sắc; không thấy thọ, tưởng, hành, thức cho nên gọi là hiển bày tướng thọ, tưởng, hành, thức. Do nghĩa này nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy sắc cho nên gọi là hiển bày tướng sắc; không thấy thọ, tưởng, hành, thức cho nên gọi là hiển bày tướng thọ, tưởng, hành, thức?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do chẳng duyên sắc mà sanh nơi thức, bởi vì không thấy sắc nên gọi là biểu hiện tướng sắc. Chẳng duyên thọ, tưởng, hành, thức mà sanh nơi thức, bởi vì không thấy thọ, tưởng, hành, thức nên gọi là biểu hiện tướng thọ, tưởng, hành, thức. Do nghĩa này nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể hiển bày thật tướng các pháp thế gian.

Này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể hiển bày Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thế gian Không, thế gian xa lìa, thế gian thanh tịnh, thế gian vắng lặng, cho nên nói có thể hiển bày thật tướng thế gian. Vì sao? Vì Không, xa lìa, thanh tịnh, vắng lặng là các tướng như thật của thế gian.

 
XIII. PHẨM BẤT TƯ NGHÌ

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể nghĩ bàn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể đo lường nên xuất hiện ở đời, vì việc không số lượng nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Thiện Hiện! Thế nào là vì việc lớn nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời? Nghĩa là tất cả chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều vì cứu giúp tất cả hữu tình, vì việc lớn này nên không phút giây nào tạm rời bỏ. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc này nên xuất hiện ở đời.

Thiện Hiện! Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc không thể nghĩ bàn vậy, vì việc không thể đo lường, vì việc không số lượng, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời? Nghĩa là tánh Phật, tánh Như Lai, tánh giác tự nhiên, tánh trí nhất thiết của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì các việc này nên xuất hiện ở đời.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh giác tự nhiên, tánh trí nhất thiết đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh được?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không những Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh giác tự nhiên, tánh trí nhất thiết không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh, mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì ở trong tất cả pháp tánh chơn thật, tâm và tâm sở đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không thể phô bày, không có số lượng, không so sánh. Vì sao? Vì các pháp như vậy không có tự tánh, bất khả đắc, vì tự tánh Không.

Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều bất khả đắc, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì các pháp này không có hạn lượng, không có sở hữu, vì tự tánh Không.

Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không có hạn lượng, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nguyên nhân nào mà các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không hạn lượng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Hư không có bị tâm và tâm sở pháp làm hạn lượng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng lại như vậy, vì tự tánh Không nên tâm và tâm sở pháp không thể hạn lượng. Vì nhân duyên này nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp không có hạn lượng, đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Vì tất cả pháp đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp trí nhất thiết cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh được.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này đều không thể nghĩ bàn vì đã chấm dứt sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì đã chấm dứt sự đo lường, không có số lượng vì đã chấm dứt số lượng, không thể so sánh vì đã chấm dứt sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này đều không thể nghĩ bàn vì vượt quá sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì vượt quá sự đo lường, không có số lượng vì vượt quá số lượng, không thể so sánhvượt quá sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó chỉ có khái niệm, hoàn toàn không chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó đều như hư không, hoàn toàn vô sở hữu.

Do nhân duyên này mà tất cả pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp trí nhất thiết của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh. Thanh văn, Độc giác, thế gian, trời, người, A-tu-la v.v... thảy đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh các pháp này.

Khi đức Phật thuyết pháp không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh, trong chúng có năm trăm Bí-sô, hai ngàn Bí-sô-ni những lậu hoặc không còn, tâm được giải thoát. Và có sáu mươi cận sự nam, ba mươi cận sự nữ, đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Và có hai vạn Đại Bồ-tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đức Thế Tôn thọ ký cho họ trong Hiền kiếp sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển. Tức trước đã nói: Những cận sự nam, cận sự nữ đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, đức Phật cũng thọ ký cho họ chẳng bao lâu sẽ chứng đắc, vĩnh viễn đoạn tận các lậu, tâm và tuệ giải thoát.

Quyển thứ 547
HẾT

XIV. PHẨM THÍ DỤ

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải đúng thật là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn mà xuất hiện ở đời không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng thật là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn mà xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì đúng thật là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể thành tựu trí nhất thiết trí, đúng thật thành tựu các bậc Độc giác, đúng thật thành tựu các bậc Thanh văn.

Thiện Hiện nên biết! Như Quán đảnh đại vương Sát-đế-lợi, oai đức tự tại, chinh phục tất cả, đem các việc nước giao cho quan lớn nên rảnh rỗi, nhàn hạ, an ổn, vui vẻ. Chư Phật cũng thế, là đại Pháp vương oai đức tự tại, chinh phục tất cả, đem các pháp Phật, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Thanh văn đều giao phó Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa để được thành tựu khắp tất cả.

Thế nên, này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa xuất hiện ở đời vì việc lớn là đúng sự thật.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không vì tiếp nhận sự chấp trước sắc mà xuất hiện ở đời; không vì tiếp nhận sự chấp trước thọ, tưởng, hành, thức mà xuất hiện ở đời. Không vì tiếp nhận sự chấp trước quả Dự lưuxuất hiện ở đời; không vì tiếp nhận sự chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà xuất hiện ở đời. Không vì tiếp nhận sự chấp trước Độc giác Bồ-đề mà xuất hiện ở đời. Không vì tiếp nhận sự chấp trước trí nhất thiết tríxuất hiện ở đời.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Vì sao Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này cũng không vì tiếp nhận chấp trước trí nhất thiết tríxuất hiện ở đời?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông thấy có quả A-la-hán có thể tiếp nhận chấp trước không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Con không thấy có quả A-la-hán có thể ở trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tiếp nhận sự chấp trước.

Phật dạy:

Này Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay! Ta cũng không thấy có pháp Như Lai có thể ở trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tiếp nhận sự chấp trước.

Thế nên, này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không vì tiếp nhận sự chấp trước trí nhất thiết tríxuất hiện ở đời.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng không vì tiếp nhận chấp trước trí nhất thiết tríxuất hiện ở đời thì các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa nghe nói như vậy liền sanh tâm hoảng sợ, không thể tin nhận. Nếu từng ở nơi vô lượng quá khứ Phật có đầy đủ nhân duyên, phát nguyện rộng lớn, luôn luôn tích tập căn lành tốt đẹp nhất, các chúng Bồ-tát nghe nói như vậy mới có thể tin thọ được.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Do nhân duyên này không nên vội thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho các Bồ-tát mới học Đại thừa.

Khi ấy, các Thiên tử cõi Dục và cõi Sắc đều bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này thật là sâu xa, khó thấy, khó biết, vô cùng, khó tin hiểu. Những hữu tình nào đã từng ở nơi vô lượng quá khứ Phật, phát nguyện rộng lớn, trồng nhiều căn lành và phục vụ nhiều bạn lành thì mới tin hiểu được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu như các loài hữu tình nơi tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đều thành tựu tùy tín hành, trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp, những loài hữu tình đó tu tự địa hạnh, chẳng bằng có người đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này vui thích, nghiền ngẫm, suy tư, so sánh, quán sát trong một ngày, thì công đức đạt được nhiều hơn công đức kia vô lượng.

Phật dạy các Thiên tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Như các ông đã nói.

Thiên tử nên biết! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì mau chóng đắc Niết-bàn, vượt hơn tùy tín hành đã nói trước đây, trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp tu tự địa hạnh, huống là vui thích nghiền ngẫm v.v...

Các Thiên tử nghe lời Phật dạy, hoan hỉ phấn chấn, đảnh lễ đức Thế Tôn, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi từ tạ trở về cung.

Họ ra khỏi hội chúng chẳng bao xa bỗng nhiên biến mất. Tùy thuộc cõi nào họ trở về cung cõi ấy, khuyến khích chư thiên tu hạnh thù thắng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh tin hiểu, không bị chìm đắm, không bị mê muội, không nghi hoặc, không chấp thủ, hoan hỉ lắng nghe, cung kính cúng dường, vị ấy từ đâu sanh đến chỗ này?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu các Đại Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh tin hiểu, không bị chìm đắm, không bị mê muội, không nghi hoặc, không chấp thủ, hoan hỉ lắng nghe, cung kính cúng dường, ưa gặp, ưa nghe, thọ trì, đọc tụng, thường không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và có những ý tưởng tốt đẹp tương ưng với người đó, yêu mến đi theo người thuyết pháp, như bò con theo mẹ, chưa tạm xa lìa. Cho đến dù chưa được tất cả nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thông suốt rốt ráo, có thể giảng nói cho người, thì vẫn không bao giờ xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và thầy thuyết pháp, dầu chỉ trong giây phút. Đại Bồ-tát này từ trong cõi người sanh đến đây, nhờ vào nhân tốt đẹp đời trước nên thành tựu sự kiện hôm nay.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải các Đại Bồ-tát thành tựu công đức như vậy là nhờ vào thừa sự cúng dường chư Phật ở phương khác rồi từ đó sanh ra đến đây chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát thừa sự cúng dường chư Phật ở phương khác rồi từ đó sanh ra đến đây, thành tựu công đức tốt đẹp như vậy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này trước đây đã ở nơi vô lượng đức Phật phương khác nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sanh lòng tin hiểu, cung kính cúng dường, biên chép, thọ trì, thỉnh hỏi nghĩa lý sâu xa trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa, tư duy, tu tập, giảng dạy cho người khác. Từ nơi đó họ sanh đến đây, nhờ căn lành đã có nên thành tựu được việc này.

Này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát là chư thiên từ trời Đổ-sử-đa, sanh trong loài người, họ cũng được thành tựu công đức như vậy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đời trước đã ở trời Đổ-sử-đa, nơi Đại Bồ-tát Từ Thị, nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sanh lòng tin hiểu, cung kính cúng dường, thỉnh hỏi nghĩa lý sâu xa trong kinh ấy, tư duy, tu tập, rộng vì người nói. Vị ấy từ cõi đó sanh đến đây, nhờ căn lành đời trước nên thành tựu được việc này.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa tuy đời trước đã được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng không thỉnh hỏi nghĩa lý sâu xa, đời này sanh trong loài người nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này tâm không mê mờ, nghi ngờ, thối lui. Hoặc có lúc sanh ra những sự hiểu biết khác khó có thể khai ngộ. Vì sao? Vì không hiểu nghĩa nên tâm mê mờ, nghi ngờ, thối lui.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa tuy đời trước đã được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng từng thỉnh hỏi nghĩa lý sâu xa, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày nhưng không theo lời dạy tinh tấn tu hành. Ngày nay sanh trong loài người, được nghe dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dầu chỉ trải qua thời gian ngắn, tâm người ấy vẫn vững chắc, không ai có thể phá hoại. Nếu rời chỗ nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và vị thầy thuyết pháp để thỉnh hỏi nghĩa sâu mầu, thì người ấy liền thối thất, sanh tâm do dự. Vì sao? Vì tuy đời trước thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng thỉnh hỏi nghĩa lý sâu xa, nhưng không tu hành tinh tấn theo lời dạy, nên đời này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có khi muốn nghe, có khi chẳng muốn nghe, có khi tâm bền vững, có khi tâm lui sụt, tâm ấy dao động, tấn thối không thường, như bông gòn chuyển động theo gió. Nên biết các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa mới học Đại thừa, mặc dù có tín tâm nhưng không thanh tịnh kiên cố. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thể tin ưa lâu dài. Theo nghiệp vị ấy sẽ rơi vào một trong hai địa, là Thanh văn hoặc Độc giác địa.

Thiện Hiện nên biết! Như chiếc thuyền bị thủng giữa biển cả mênh mông, những người trong thuyền nếu không nắm được cây, đồ vật, phao nổi, tấm ván, thây chết v.v… làm chỗ nương tựa, biết chắc họ sẽ bị chết chìm, không qua đến bờ kia được. Nếu những người trong thuyền đó nắm được cây, đồ vật, phao nổi, tấm ván, thây chết v.v… làm chỗ nương tựa, nên biết những hạng nguời này không bao giờ bị chết chìm, được an ổn nơi biển cả và đến bờ bên kia, không bị tổn hại, hưởng các sự an vui.

Các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa cũng như vậy. Có người tuy đối với Đại thừathành tựu chút ít sự kính tin, yêu thích nhưng không tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa làm chỗ nương tựa. Nên biết hạng người đó lui mất giữa đường, không thể chứng đắc trí nhất thiết trí, nghĩa là rơi vào Thanh văn hay Độc giác. Người nào đối với Đại thừa mà có tin, có nhẫn, có thích, có muốn, có tinh tấn, có thắng giải, có không buông lung, có ý vui thù thắng, có xả, có kính, có vui, có mừng, có tâm thanh tịnh, có đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bỏ điều qui định hoàn hảo và có thể tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa làm chỗ nương tựa. Nên biết những người này không bao giờ giữa đường lui sụt vào Thanh văn hay Độc giác, nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mang lại lợi ích an vui cho tất cả mọi loài trong tương lai.

Này Thiện Hiện! Như có người nam hay người nữ mang chiếc bình đất sống đến sông, suối, giếng, ao, khe để lấy nước. Nên biết chiếc bình này chẳng bao lâu sẽ bị tan rã. Vì sao? Vì chiếc bình này chưa nung chín, chẳng kham nỗi sự đựng nước, nên cuối cùng trở thành đất.

Cũng vậy, này Thiện Hiện! Có thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, tuy đối với Đại thừa có tin, có nhẫn, có thích, có muốn, có tinh tấn, có thắng giải, có không buông lung, có ý vui thù thắng, có xả, có kính, có vui, có mừng, có tâm thanh tịnh, có đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bỏ điều qui định hoàn hảo, nhưng không tiếp nhận phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết những kẻ đó sẽ lui mất giữa đường, không thể chứng đắc trí nhất thiết trí, nghĩa là rơi vào Thanh văn hay Độc giác địa.

Này Thiện Hiện! Như có người nam hay người nữ mang chiếc bình đã nung chín đến sông, suối, giếng, ao, khe để lấy nước. Nên biết chiếc bình này không bị tan rã. Vì sao? Vì chiếc bình này được nung chín tốt, kham nỗi sự đựng nước rất bền chắc.

Cũng vậy, này Thiện Hiện! Có thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, nói rộng cho đến có đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bỏ và có thể tiếp nhận phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết những người này không bao giờ giữa đường lui sụt vào Thanh văn hay Độc giác địa, nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mang lại lợi ích an vui cho tất cả mọi loài trong tương lai.

Này Thiện Hiện! Như có người buôn không có trí khôn khéo, thuyền ở trên bờ chưa được sửa chữa chắc chắn, vừa kéo xuống nước cấp tốc ra đi. Nên biết thuyền này giữa đường bị hư chìm, người, thuyền, của cải vật chất trôi đi khắp nơi. Người buôn này không có trí khôn khéo nên tán thân mất mạng và mất những của cải quí báu.

Cũng vậy, này Thiện Hiện! Có thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, tuy đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, nói rộng cho đến có đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bỏ qui định hoàn hảo, nhưng không tiếp nhận phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết những kẻ đó sẽ lui mất giữa đường, không thể chứng đắc trí nhất thiết trí, nghĩa là rơi vào Thanh văn hay Độc giác địa.

Này Thiện Hiện! Như có người buôn trí tuệ khéo léo, trước khi ra khơi sửa thuyền thật chắc chắn, rồi mới kéo xuống nước, biết không có lỗ thủng, sau đó đem đồ đạc, của cải chất lên thuyền ra đi. Nên biết thuyền này chắc chắn không bị hư chìm, người và đồ đạc được đến nơi an ổn.

Cũng vậy, này Thiện Hiện! Thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, nói rộng cho đến có đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bỏ qui định hoàn hảo và có thể tiếp nhận phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết những người này giữa đường không bao giờ lui sụt vào Thanh văn hay Độc giác địa, nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai. Vì sao? Vì nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, nói rộng cho đến có đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bỏ qui định hoàn hảo và có thể tiếp nhận phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa suốt trong thời gian ấy không rơi vào Thanh văn hay Độc giác địa, nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường làm lợi ích cho tất cả hữu tình.

Này Thiện Hiện! Ví như có người một trăm hai mươi tuổi, già nua, suy yếu, lại thêm nhiều bệnh như: Bệnh phong, bệnh nhiệt, bệnh đàm, hoặc ba bệnh xen lẫn. Ý ông thế nào? Người già bệnh này có thể từ giường, ghế, tự đứng dậy được không?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Người này nếu đỡ cho đứng dậy cũng không có sức đi một dặm, hai dặm, ba dặm. Vì sao! Vì đã quá già và bệnh.

Cũng vậy, này Thiện Hiện! Có thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, giả sử đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, nói rộng cho đến có đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bỏ qui định hoàn hảo. Nếu không tiếp nhận phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên biết hạng người này không chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, bị lui sụt vào Thanh văn hay Độc giác địa. Vì sao? Vì xa lìa pháp phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa nên phải như vậy.

Này Thiện Hiện! Ví như có người một trăm hai mươi tuổi, già nua, suy yếu, lại thêm nhiều bệnh như: Bệnh phong, bệnh nhiệt, bệnh đàm, hoặc ba bệnh xen lẫn. Người già bệnh này muốn từ giường, ghế đứng dậy đến chỗ khác nhưng không thể đứng được. Có hai người mạnh, mỗi người nâng một bên nách, đỡ dần cho đứng lên và bảo người đó: “Đừng lo bị khó khăn, muốn đi đâu tùy ý, hai người chúng tôi không bao giờ bỏ ông, chắc chắn đưa đến an ổn không có tổn hại.”

Cũng vậy, này Thiện Hiện! Có các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, nói rộng cho đến có đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không bỏ qui định hoàn hảo và có thể tiếp nhận phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nên biết những người này không bao giờ giữa đường bị lui sụt, rơi vào Thanh văn hay Độc giác địa, nhất định chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.
XV. PHẨM TRỜI KHEN

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát mới học Đại thừa, phải trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát mới học Đại thừa, muốn trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trước hết phải thân cận, phụng sự, cúng dường bạn lành chơn tịnh. Người nào có thể giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, truyền trao cho các Bồ-tát, nên biết đó là bạn lành chơn tịnh. Nghĩa là giảng nói được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, răn dạy, truyền trao cho các Bồ-tát mới học Đại thừa và nói: “Thiện nam tử, đến đây! Ngươi nên siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ngươi siêng năng tu tập hãy lấy vô sở đắc làm phương tiện, cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi ngươi hồi hướng, chớ đem sắc mà chấp quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; chớ đem thọ, tưởng, hành, thức mà chấp quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Thiện nam tử! Vì nếu không có sự chấp thủ tức là chứng đắc trí nhất thiết trí. Thiện nam tử! Ngươi đối với địa vị Thanh vănĐộc giác, chớ sanh đắm trước.”

Như vậy, Thiện Hiện! Bạn lành chơn tịnh răn dạy, truyền trao cho các Đại Bồ-tát mới học Đại thừa, làm cho họ vào dần Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm những việc khó khăn nên nương vào các tướng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Họ không muốn tự tại mà chọn lấy sự diệt độ, quán sự khổ trầm trọng nơi cõi hữu tình để mong chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì muốn dùng phương tiện cứu giúp chúng sanh tận cùng trong tương lai nên không sợ luân chuyển nơi đường sanh tử.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Các Đại Bồ-tát có thể làm những việc khó làm, nghĩa là làm lợi lạc các thế gian nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; vì thương xót các hữu tình trong thế gian nên hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và phát nguyện: “Ta vì cứu giúp các thế gian, vì các thế gian mà làm nhà cửa, vì các thế gian làm chỗ quay về nương tựa, chỉ cho thế gian con đường cứu cánh, vì các thế gian làm hòn đảo, vì các thế gian làm ánh sáng, vì các thế gian làm người dẫn đường, vì các thế gian làm chỗ đi đến, phát tâm siêng năng tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.”

Thế nào là Đại Bồ-tát phát nguyện: Ta vì cứu giúp các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát thấy các thế gian trôi lăn trong đường sanh tử, chịu vô lượng khổ, không thể ra khỏi. Để chấm dứt sự khổ này nên Bồ-tát phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát phát nguyện: Ta vì cứu giúp các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nào là Đại Bồ-tát vì các thế gian làm nhà cửa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát muốn vì thế gian nói tất cả pháp đều không hòa hợp nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát vì các thế gian làm nhà cửa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tất cả pháp đều không hòa hợp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các sắc không hòa hợp, tức sắc không thuộc vào nhau; nếu sắc không thuộc vào nhau, tức sắc không sanh diệt; nếu sắc không sanh diệt, tức sắc không hòa hợp. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Các Đại Bồ-tát muốn vì thế gian nói tất cả pháp đều có tướng không hòa hợp, nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nào là Đại Bồ-tát làm chỗ quay về nương tựa cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì muốn cứu giúp chúng sanh chóng được giải thoát các khổ bức bách thế gian như: sanh, già, bệnh, chết, buồn, than, lo, âu v.v… nên vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn, phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát vì làm chỗ quay về nương tựa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nào là Đại Bồ-tát vì chỉ cho thế gian con đường cứu cánh nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì muốn dạy cho thế gian pháp như thế này, nghĩa là: Bờ kia của sắc tức chẳng phải sắc; sắc của bờ kia cũng như vậy. Bờ kia của thọ, tưởng, hành, thức tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; như vậy thọ, tưởng, hành, thức của bờ kia cũng như vậy. Như bờ kia của sắc, thọ, tưởng, hành, thức của tất cả các pháp cũng như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu bờ kia như tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì tất cả pháp cũng như vậy, thì phải chăng Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đã chứng Đẳng giác? Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự phân biệt.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Ở trong bờ kia không có sự phân biệt nên các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đã chứng Đẳng giác.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát làm việc rất khó làm, mặc dù có thể quán tất cả pháp như vậy nhưng không chứng đắc, cũng không chìm đắm. Bồ-tát suy nghĩ: Đối với pháp này ta hiện chứng Đẳng giác rồi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các thế gian giảng nói chỉ bày. Đó là Đại Bồ-tát vì chỉ cho thế gian con đường cứu cánh nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nào là Đại Bồ-tát làm hòn đảo cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện! Vì như trong biển, sông, hồ, lớn nhỏ có vùng đất cao ở được và nước bao quanh làm ngăn cách nên gọi là hòn đảo.

Thế nên, Thiện Hiện! Sắc cho đến thức đoạn hẳn bờ trước sau, do đoạn tận như vậy nên tất cả pháp đoạn. Tất cả pháp này đã đoạn được bờ trước sau là Niết-bàn vắng lặng vi diệu, cũng là tánh như thật không điên đảo.

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn vì hữu tình nói pháp như thế, làm cho chóng tiến vào Niết-bàn, Đại Bồ-tát đó vì làm hòn đảo cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nào là Đại Bồ-tát làm ánh sáng cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì phá vỡ vỏ trứng vô minh, đêm dài che phủ hữu tình trong bóng tối dày đặc, vì chữa bệnh mù mắt cho hữu tình không thấy, làm cho sáng mắt, vì giúp cho tất cả hữu tình ngu tối mà làm đèn sáng trí tuệ nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát làm ánh sáng cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nào là Đại Bồ-tát làm người dẫn đường cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh các sắc vốn không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh các pháp phàm phu không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh tất cả các pháp không sanh, không diệt nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát làm người dẫn đường cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nào là Đại Bồ-tát làm chỗ đi đến cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát muốn vì các thế gian giảng nói chỉ bày sắc lấy hư không làm chỗ đi đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy hư không làm chỗ đi đến; tất cả pháp đều lấy hư không làm chỗ đi đến. Bồ-tát muốn vì thế gian giảng nói chỉ bày sắc không có chỗ đi đến, bằng với hư không. Thọ, tưởng, hành, thức không có chỗ đi đến, bằng với hư không. Tất cả pháp đều không có chỗ đi đến, bằng với hư không…

Như hư không bao la không đến, không đi, không làm, không trụ, không chỗ an lập, không sanh, không diệt, các pháp cũng vậy, đều như hư không. Vì không phân biệt nên không có chỗ phân biệt. Vì sao? Vì các sắc Không, cho nên không đến, không đi. Thọ, tưởng, hành, thức Không, cho nên đều không đến, không đi.

Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy không, vô tướng, vô nguyện làm chỗ đi đến, pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy không tạo, không tác làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy không sanh, không khởi làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy vô tánh làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy như mộng làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy vô ngã làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy vô biên làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy Niết-bàn vắng lặng, không thủ, không xả, không đến, không đi, tuyệt đối tịch diệt làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Các Đại Bồ-tát muốn vì thế gian nói pháp như thế nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đây là Đại Bồ-tát vì các thế gian làm chỗ đi đến nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ai có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sanh lòng tin hiểu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tu lâu nơi hạnh Đại Bồ-tát, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở nơi chư Phật phát nguyện rộng lớn, đã trồng căn lành đều được thuần thục, được vô lượng bạn lành bảo vệ, thương tưởng. Chính những Đại Bồ-tát này có thể sanh lòng tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này có thể sanh lòng tin hiểu thì Đại Bồ-tát đó lấy gì làm tự tánh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đó lấy điều phục viễn ly làm tự tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đó sẽ đến đâu?

Phật đáp:

- Đại Bồ-tát đó sẽ đạt đến trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát đạt đến trí nhất thiết trí thì có thể biết chỗ đạt đến và có thể giảng nói, cũng giúp cho hữu tình làm chỗ quay về.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu Đại Bồ-tát đạt đến trí nhất thiết trí thì có thể biết chỗ đạt đến và có thể giảng nói, cũng giúp cho hữu tình làm chỗ quay về.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này có thể làm việc khó làm, nghĩa là đội mũ, mặc áo giáp kiên cố và nghĩ: Ta sẽ độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, làm cho nhập Niết-bàn, nhưng các hữu tình đều không thể chứng đắc.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đã đội mũ, mặc áo giáp kiên cố không thuộc sắc, không vì sắc; không thuộc thọ, tưởng, hành, thức, không vì thọ, tưởng, hành, thức. Không thuộc Thanh văn, Độc giác địa, không vì Thanh văn, Độc giác địa. Không thuộc Bồ-tát địa, không vì Bồ-tát địa. Không thuộc Phật địa, không vì Phật địa. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không chỗ thuộc, đều không chỗ vì. Các Đại Bồ-tát thực hành sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều mặc áo giáp, đội mũ kiên cố như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát mặc áo giáp, đội mũ kiên cốthực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là đối với ba chỗ không bị vướng mắc, ba chỗ ấy là những gì? Một là Thanh văn địa; hai là Độc giác địa; ba là Như Lai địa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ông quán nghĩa nào mà nói như vậy?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có sự trụ, đắc, không kẻ tu tập, không có pháp để tu, không có thời gian tu, không nơi chốn tu, cũng không do đây mà được tu tập. Vì sao? Vì chẳng phải trong Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa lý sâu xa mà có ít phần pháp chân thật có thể được gọi là có khả năng tu tập…

Bạch Thế Tôn! Nếu tu hư không là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu tất cả pháp là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu không đắm trước là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu không sở hữu là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu không nhiếp thọ là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu trừ bỏ pháp là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Nên nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tối thắng này hành, trụ, quán sát Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Đại Bồ-tát nào tuy thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này nhưng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy không có sự chấp trước. Nên biết, đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Có các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển không chấp lời người, và lấy lời dạy của người khác làm chân yếu, không chỉ tin người khác để có hành động, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa này tâm người ấy không kinh khiếp, không sợ hãi, không khủng hoảng, không chìm đắm, không nghi hối, cũng không mê muội. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vui mừng muốn nghe, hết lòng tin thọ, biên chép, giữ gìn, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi. Nên biết, Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này đời trước đã nghe rất nhiều nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trong tâm không kinh khiếp, không sợ hãi, không khủng hoảng, giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, trong tâm không kinh khiếp, không sợ hãi, không khủng hoảng, nói rộng cho đến giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi, thì Đại Bồ-tát ấy làm sao tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đó tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập trí nhất thiết trí. Nên làm như vậy để thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đó làm thế nào để tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập trí nhất thiết trí, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập hư khôngthực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì đó là Đại Bồ-tát tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập trí nhất thiết trí, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí vô lượng, vô biên. Nếu vô lượng, vô biên tức chẳng phải sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Không đắc, không hiện quán, không chứng, không đạo quả, không trí, không thức, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không bắt đầu, không chấm dứt, không tu, không tạo tác, không từ đâu đến, cũng chẳng về đâu, không phương, không cõi, cũng không chỗ trụ, mới có thể là vô lượng, vô biên.

Thiện Hiện nên biết! Vì hư không vô lượng, vô biên nên trí nhất thiết trí cũng vô lượng, vô biên. Trí nhất thiết trí vô lượng, vô biên nên không thể chứng đắc. Chẳng phải sắc có thể chứng; cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức có thể chứng. Chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa có thể chứng; cũng chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chứng. Vì sao? Vì sắc tức trí nhất thiết trí; thọ, tưởng, hành, thức tức trí nhất thiết trí. Bố thí Ba-la-mật-đa tức trí nhất thiết trí; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tức trí nhất thiết trí.

Khi ấy, trời Đế Thích dẫn đầu các chúng Thiên tử cõi Dục và Đại Phạm Thiên Vương dẫn đầu các chúng Thiên tử cõi Sắc, cùng đi đến chỗ Phật đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi đứng sang một bên, chấp tay cung kính đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này vô cùng sâu xa, khó thấy, khó lường.

Phật dạy các Thiên tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các ông đã nói. Thiên tử nên biết! Ta quán sát nghĩa này khi mới chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta ngồi lặng yên suy nghĩ, không muốn nói pháp, trong tâm nghĩ như thế này: Ta đã chứng pháp sâu xa vi diệu, chẳng phải các thế gian có thể chấp nhậntin tưởng được ngay.

Thiên tử nên biết! Pháp Ta đã chứng tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Pháp này rất sâu xa mầu nhiệm, không năng chứng và không sở chứng, không chỗ chứng, không thời gian chứng.

Thiên tử nên biết! Vì hư không sâu xa nên pháp này sâu xa. Vì ngã sâu xa nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không đến, không đi nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp vô lượng, vô biên nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không sanh, không diệt nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không nhiễm, không tịnh nên pháp này sâu xa.

Khi ấy, các Thiên tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ diệu thay! Bạch Thiện Thệ! Thật hi hữu thay! Pháp Phật đã dạy rất sâu xa vi diệu, tất cả thế gian khó tin hiểu. Vì sao? Vì pháp Phật đã dạy không bị thu phục, không bị rời bỏ. Hữu tình phần nhiều là thu phục hay bị rời bỏ, thế nên thế gian đối với lời Phật dạy không có khả năng tin hiểu được.

Phật dạy các Thiên tử:

- Thiên tử nên biết! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các ông nói.
XVI. PHẨM CHƠN NHƯ

01

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp Phật đã dạy rất sâu xa mầu nhiệm, đối với tất cả pháp đều có thể tùy thuận, không bị chướng ngại. Pháp Phật đã dạy không có tướng chướng ngại, ngang bằng hư không, hoàn toàn không dấu vết. Pháp Phật đã dạy không có tướng đối đãi, không có tướng thứ hai. Pháp Phật đã dạy không có tướng ngang nhau vì không có đối địch. Pháp Phật đã dạy hoàn toàn không lưu dấu vì không sanh, không diệt. Pháp Phật đã dạy hoàn toàn không sanh diệt vì tất cả sanh diệt bất khả đắc. Pháp Phật đã dạy hoàn toàn không có đường tắt vì tất cả đường tắt bất khả đắc. Pháp Phật đã dạy hoàn toàn không hý luậnphân biệt ngôn thuyết bất khả đắc.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Khi ấy, Thiên tử cõi Dục và cõi Sắc liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện đúng thật là Phật tử, được sanh ra từ đức Như Lai. Vì sao? Vì đại đức Thiện Hiện nói ra các pháp, tất cả đều tương ưng với Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử cõi Dục và cõi Sắc:

- Các Ngài bảo tôi đúng thật là Phật tử, được sanh ra từ đức Như Lai. Thế nào là Thiện Hiện được sanh ra từ đức Như Lai? Nghĩa là theo chơn như của Như Lai sanh ra mà tất cả pháp sanh bất khả đắc. Vì sao? Vì chơn như của Như Lai không đến, không đi, bản tánh không sanh. Chơn như của Thiện Hiện cũng không đến, không đi, bản tánh không sanh, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của Như Lai tức chơn như của tất cả pháp; chơn như của tất cả pháp tức chơn như của Như Lai. Chơn như như thế không có tánh chơn như, cũng không có tánh không chơn như. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của Như Lai thường trụ làm tướng, chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của Như Lai không đổi khác, không phân biệt, chuyển khắp các pháp. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của Như Lai không bị chướng ngại, chơn như của tất cả pháp cũng không bị chướng ngại. Hoặc chơn như của Như Lai, hoặc chơn như của tất cả pháp đồng một chơn như, không hai, không khác, không tạo, không tác. Chơn như như vậy luôn là tướng chơn như, không lúc nào là không phải tướng chơn như, nên không hai, không khác. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của Như Lai đối với tất cả pháp không nhớ nghĩ, không phân biệt. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của Như Lai không riêng khác, không thể đắc. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của Như Lai không rời chơn như của tất cả pháp; chơn như của tất cả pháp không rời chơn như của Như Lai. Chơn như như vậy luôn là tướng chơn như, không có lúc nào không có tướng chơn như. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Mặc dù nói tùy sanh nhưng không có sự tùy sanh, vì chơn như của Thiện Hiện không khác Phật.

Chơn như của Như Lai không có quá khứ, không có tương lai, không có hiện tại. Chơn như của tất cả pháp cũng không có quá khứ, không có tương lai, không có hiện tại. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của Thiện Hiện theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như quá khứ; chơn như của quá khứ theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như vị lai; chơn như của vị lai theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như hiện tại; chơn như của hiện tại theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như ba đời; chơn như của ba đời theo chơn như của Như Lai. Chơn như ba đời, chơn như của Như Lai không hai, không khác. Chơn như của tất cả pháp và chơn như của Thiện Hiện cũng không hai, không khác, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.

Chơn như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức là chơn như của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Các Đại Bồ-tát do chơn như nên chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đối với chơn như các pháp này, ta sanh lòng tin hiểu sâu xa nên nói Thiện Hiện được sanh ra từ đức Như Lai.

Đang nói về tướng chơn như này thì nơi tam thiên đại thiên thế giới biến động sáu cách, y như lúc Phật chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không khác, nên nói Thiện Hiện được sanh ra từ đức Như Lai.

Nhưng Thiên tử nên biết! Thiện Hiện ta không do sắc mà theo Như Lai sanh; không do thọ, tưởng, hành, thức mà theo Như Lai sanh. Không do quả Dự lưutheo Như Lai sanh; không do quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà theo Như Lai sanh. Không do Độc giác Bồ-đề mà theo Như Lai sanh. Không do quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật mà theo Như Lai sanh. Chỉ do chơn như nên theo Như Lai sanh.

Thiên tử nên biết! Nhưng Thiện Hiện ta không theo sắc sanh; không theo thọ, tưởng, hành, thức sanh. Không theo quả Dự lưu sanh; không theo quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán sanh. Không theo Độc giác Bồ-đề sanh. Không theo quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật sanh. Chỉ theo chơn như sanh, nên Thiện Hiện ta theo Như Lai sanh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chơn như này thật sâu xa mầu nhiệm.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Chơn như này thật sâu xa mầu nhiệm.

Đang lúc nói tướng chơn như này có ba trăm Bí-sô đoạn tận các lậu, tâm được giải thoát, đắc quả A-la-hán và có năm trăm Bí-sô xa lìa trần cấu, ở trong các pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh; năm ngàn Thiên tử được thành thục nghiệp đời trước, cùng lúc chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn; sáu mươi Bồ-tát không còn các lậu, tâm được giải thoát.

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Hiện trong đại chúng này có sáu mươi Bồ-tát đã gần gũi cúng dường năm trăm đức Phật thời quá khứ. Mặc dù họ có tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự nhưng không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, sanh tư tưởng khác đi, tu hạnh khác đi nên không vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Do đó trong hiện tại tuy được nghe pháp lớn nhưng nhờ sức nhân đời trước không còn các lậu, tâm được giải thoát.

Thế nên, này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tuy có đạo Bồ-tát là không, vô tướng, vô nguyện, nhưng không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, liền chứng thật tế, rơi vào Thanh văn hay Độc giác địa.

Xá-lợi Tử! Ví như có con chim, thân nó to lớn cả trăm do-tuần, hoặc hai trăm cho đến năm trăm do-tuần, mà lông cánh chim chưa mọc đủ hoặc đã hư rụng. Chim này từ trời Ba mươi ba rơi xuống châu Thiệm-bộ, giữa đường chợt nghĩ: Bây giờ ta trở lại cõi trời Ba mươi ba. Ý ông hiểu sao? Chim này có thể bay về lại cõi trời Ba mươi ba được không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Giữa đường, chim này muốn đến châu Thiệm-bộ mà thân chim không bị tổn hại, không bị khổ. Ý ông hiểu sao? Chim ấy có được toại nguyện không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Chim ấy khi đến châu Thiệm-bộ thân nó chắc chắn bị tổn hại và khổ đau, hoặc đưa đến chết hay sắp chết. Vì sao? Vì chim này thân to lớn mà bị rơi từ trên cao với lông cánh chưa mọc hay bị hư rụng.

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Có các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa cũng như vậy, mặc dù có phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đã trải qua hằng hà sa số kiếp tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xachứng thật tế, liền rơi xuống Thanh văn hoặc Độc giác địa.

Xá-lợi Tử! Các thiện nam tử trụ Bồ-tát thừa này tuy nhớ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn ba đời nhưng tâm chấp tướng, không thấy, không biết công đức chân thật ngũ uẩn này của chư Phật, chỉ nghe tiếng Không, chấp trước lấy tướng, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là rơi ngay xuống Thanh văn hoặc Độc giác địa. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các Bồ-tát ấy không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dù có đem vô số thiện căn đã tu tập hồi hướng đạo quả Bồ-đề vẫn không đủ sức vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu về nghĩa Phật dạy, các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa nếu xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì dầu cho có đầy đủ vô lượng phước đức tư lương mà đối với Bồ-đề sẽ có đắc hoặc không đắc. Thế nên các Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhất định không nên xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Quyển thứ 548
HẾT

02

Bấy giờ, các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc cung kính chấp tay đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là thâm sâu, khó tin, khó hiểu vô cùng. Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng thật là thâm sâu, khó tin, khó hiểu vô cùng. Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề khó tin, khó hiểu, cũng khó chứng đắc.

Phật dạy các Thiên tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các ông nói. Những hữu tình thành tựu ác tuệ, tinh tấn thấp kém, thắng giải thấp kém, không có phương tiện thiện xảo, bị lệ thuộc bởi bạn ác. Họ đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thật khó tin, khó hiểu, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng khó tin, khó hiểu. Do đó quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng khó chứng đắc.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Thế Tôn dạy, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đã khó tin, khó hiểu, cũng khó chứng đắc. Vì sao quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề rất khó tin, khó hiểu, cũng khó chứng đắc? Trong đây hoàn toàn không thể có sự chứng đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo là Không, nên trong Không không có pháp có thể chứng pháp khác. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều Không. Vì đoạn hẳn pháp này nên nói pháp như vậy. Pháp này cũng không, do nơi nghĩa này cho nên đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, nếu có người chứng đắc hoặc pháp được chứng, nếu có người biết, hoặc pháp được biết, tất cả đều Không. Vì lý do đó mà con suy nghĩ: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể dễ hiểu, có thể dễ chứng đắc, chứ không phải khó tin, khó hiểu, khó chứng đắc, vì tất cả pháp đều là Không. Tin biết như vậy sẽ chứng đắc ngay.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, vì người tin hiểu và người chứng đắc bất khả đắc, nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc. Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật chẳng thật có, nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc. Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không có chứa nhóm, nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc.

Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Vì tất cả pháp rốt ráo Không, cho nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật rất khó tin, khó hiểu, rất khó chứng đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh, đều như hư không. Ví như hư không không suy nghĩ: Ta đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải tin hiểu và phải chứng đắc. Các pháp cũng vậy, đều như hư không hoàn toàn không có tự tánh. Thế nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề rất khó tin, khó hiểu, rất khó chứng đắc.

Này Thiện Hiện! Nếu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể dễ tin hiểu, có thể dễ chứng đắc thì sẽ không có hằng hà sa các chúng Bồ-tát phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sau lại thối lui. Cho nên biết quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề rất khó tin, khó hiểu, rất khó chứng đắc.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Xá-lợi Tử:

- Ý Tôn giả thế nào? Sắc đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Thọ, tưởng, hành, thức đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa sắc có pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như của sắc đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như của thọ, tưởng, hành, thức đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như của sắc có pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Ý Tôn giả hiểu sao? Sắc có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Thọ, tưởng, hành, thức có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa sắc có pháp nào có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như của sắc có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như của thọ, tưởng, hành, thức có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như của sắc có pháp nào có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như có pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Ý Tôn giả hiểu sao? Chơn như có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Lìa chơn như có pháp nào có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Ý Tôn giả hiểu sao? Lại có pháp nào chẳng phải sắc v.v..., chẳng lìa sắc v.v…, chẳng phải chơn như, chẳng lìa chơn như, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

- Thưa Tôn giả Xá-lợi Tử! Ý Tôn giả hiểu sao? Lại có pháp nào chẳng phải sắc v.v..., chẳng lìa sắc v.v…, chẳng phải chơn như, chẳng lìa chơn như, có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu tất cả pháp là chắc thật, là tồn tại thì hoàn toàn không có sở hữu, đều bất khả đắc; vậy nói những pháp nào có thể đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà có thối chuyển?

Tôn giả Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Như Tôn giả đã nói, trong Vô sanh pháp nhẫn hoàn toàn không có pháp, cũng không có Bồ-tát, nên có thể nói đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có thối chuyển. Nếu vậy thì tại sao Phật dạy có ba hạng người trụ Bồ-tát thừa chỉ nên nói một? Và như Tôn giả nói thì không có sự sai khác của ba thừa mà chỉ có một thừa Chánh đẳng giác?

Khi ấy, Mãn Từ Tử liền bạch cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nên hỏi Thiện Hiệnchấp nhận có một Bồ-tát thừa phải không? Sau đó hỏi tiếp như vầy: Đâu cần phải thành lập ba thừa khác nhau mà chỉ cần có một thừa Chánh đẳng giác.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Thầy chấp nhận có một Bồ-tát thừa không?

Thiện Hiện đáp:

- Ý Tôn giả hiểu sao? Trong chơn như phải chăngba thừa sai khác nhau?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thiện Hiện! Không. Chơn như còn không có tướng ba thừa có thể đắc, huống là trong ấy có ba thừa khác.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Trong chơn như có một thừa để đắc không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không. Chơn như còn không có một tướng được, huống là trong ấy có một thừa.

- Ý Tôn giả hiểu sao? Phải chăng trong chơn như thấy có một pháp, một Bồ-tát không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện! Không.

Cụ thọ Thiện Hiện nói với Xá-lợi Tử:

- Nếu tất cả pháp là chắc thật, là tồn tại thì hoàn toàn không có sở hữu, đều bất khả đắc, Bồ-tát cũng vậy.

Tôn giả có nghĩ: Đây là Thanh văn, đây là Độc giác, đây là Bồ-tát? Như vậy là ba, hay như vậy là một?

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đều không sở đắc, đối với chơn như của pháp cũng không sở đắc, đối với các Bồ-tát cũng không sở đắc, đối với chư Như Lai cũng không sở đắc, nên biết đó là Bồ-tát chơn thật.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào nghe nói chơn như không có tướng sai khác mà không kinh, không sợ, không chìm đắm, không mất đi thì Đại Bồ-tát đó nhanh chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong khoảng thời gian ấy nhất định không thối chuyển.

Khi ấy, đức Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Hay thay! Hay thay! Hôm nay chính ông là người có thể vì các Bồ-tát giảng nói pháp chính yếu hay nhất. Những điều ông nói đều là sức oai thần của Như Lai.

Thiện Hiện nên biết: Nếu Đại Bồ-tát đối với pháp chơn như bất khả đắc tướng, sanh lòng tin hiểu sâu xa, biết tướng không sai khác của tất cả pháp; nghe nói các pháp chơn như bất khả đắc tướng như vậy, không kinh, không sợ, không chìm đắm, không mất, Đại Bồ-tát đó nhanh chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào thành tựu pháp này sẽ nhanh chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

Phật dạy:

- Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đại Bồ-tát nào thành tựu được pháp này sẽ chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không rơi vào các địa vị Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu Đại Bồ-tát nào muốn nhanh chóng chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên trụ thế nào và nên học thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn nhanh chóng chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên trụ bình đẳng đối với các hữu tình, khởi tâm bình đẳng đối với hữu tình: tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, tâm lợi ích, tâm an vui, tâm nhu hòa, tâm cung kính, tâm không tổn, tâm không hại, tâm ngay thẳng, tâm như cha, tâm như mẹ, tâm như anh em, tâm như chị em, tâm làm nương tựa… Và đem tâm này tương ưng cùng lời nói.

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào muốn nhanh chóng chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với hữu tình nên trụ như vậy và nên học như vậy.

 
XVII. PHẨM TƯỚNG BẤT THOÁI

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Chúng con nên dùng tướng trạng nào để biết Đại Bồ-tát Bất thối chuyển?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có thể như thật biết hoặc địa vị phàm phu, hoặc địa vị Thanh văn, hoặc địa vị Độc giác, hoặc địa vị Bồ-tát, hoặc địa vị Như Lai. Các địa vị như vậy tuy nói có khác nhưng trong tánh chơn như của các pháp không đổi khác, không phân biệt, đều không có hai, không hai phần. Đại Bồ-tát đó tuy thật ngộ nhập chơn như của các pháp, cũng thật an trụ chơn như của các pháp nhưng không có sự phân biệt, vì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Đại Bồ-tát này đã thật ngộ nhập chơn như của các pháp, mặc dù nghe chơn như cùng tất cả pháp không hai, không khác nhưng không nghi ngờ, vướng mắc.

Đại Bồ-tát đó đã thật an trụ vào chơn như của các pháp; ra khỏi chơn như rồi, tuy nghe các pháp có nhiều tướng loại khác nhau nhưng ở trong ấy không có sự chấp trước, cũng không nghi ngờ, vướng mắc và không nghĩ như vầy: Việc này như thật, việc này không như thật. Mặc dù không nghĩ như vậy nhưng đối với các pháp có thể biết như thật.

Đại Bồ-tát này không bao giờ phát ra lời nói vu vơ. Tất cả những gì họ nói đều đưa đến lợi ích, nếu khônglợi ích thì họ không bao giờ nói. Đại Bồ-tát này không bao giờ xét thấy sự hay dở, tốt xấu của người khác, thuyết cho họ một cách bình đẳng, thương xót. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu các tướng như vậy thì nhất định đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển không bao giờ muốn thấy hình tướng ngôn từ của những ngoại đạo, Sa-môn, Bà-la-môn v.v... Các Sa-môn, Bà-la-môn v.v... đó đối với pháp sở tri mà thật biết, thật thấy, hoặc có thể trình bày pháp môn chánh kiến, điều này không thể xảy ra. Đại Bồ-tát này không bao giờ lễ kính các thiên thần khác, như các ngoại đạo của thế gian đã thờ phụng, cũng không bao giờ đem các vòng hoa, các thứ hương bột, y phục, ngọc báu, tràng phan, bảo cái, âm nhạc, đèn sáng v.v… để cúng dường thiên thần và các ngoại đạo. Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển không rơi vào các nẻo ác, không làm thân người nữ, cũng không sanh nơi dòng họ thấp hèn; ngoại trừ vì muốn độ thoát những loại hữu tình đó nên hiện sanh cùng loài để dùng phương tiện hóa độ.

Đại Bồ-tát này thường ưa thọ mười thiện nghiệp đạo. Tự thân xa lìa sự sát hại chúng sanh cho đến tà kiến, khuyên người khác xa lìa sự sát hại chúng sanh cho đến tà kiến. Tự thọ và hành mười thiện nghiệp đạo, khuyên người khác thọ và hành mười thiện nghiệp đạo, chỉ bày, thể hiện, khuyến khích, khen ngợi, vui mừng, giáo hóa hữu tình làm cho họ được vững bền.

Đại Bồ-tát ấy cho đến trong mộng cũng chẳng thấy làm mười ác nghiệp đạo, cũng chẳng hiện khởi tâm ác bất thiện; cho đến trong mộng cũng thường thọ học mười thiện nghiệp đạo. Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Các thứ kinh điển mà tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thọ trì, tư duy, đọc tụng được thông suốt đều vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. Các vị ấy thường suy nghĩ: Ta đem pháp này vì các hữu tình giảng nói, chỉ bày, sẽ làm cho tất cả phát nguyện được viên mãn. Và đem căn lành pháp thí này ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đối với pháp môn thâm sâu đức Phật đã dạy, không bao giờ sanh tâm nghi ngờ, do dự, cũng không mê muộihoan hỉ tín thọ. Những điều nói ra đều vì lợi ích, biết lượng mà nói những ngôn từ hòa nhã, thức ngủ đều được nhẹ nhàng, không phát sanh phiền não, ra vào đến đi tâm luôn tỉnh thức, luôn luôn an trụ nơi chánh niệm, chánh tri. Đi đứng nằm ngồi với hành động có oai nghi, dở chân bước chân cũng như vậy. Chân bước đến đâu đều nhìn dưới đất, an nhiên chánh niệm nhìn thẳng mà đi. Cử động nói năng thường không thô bạo. Những sự thọ dụng như y phục, giường nằm đều luôn thơm sạch, thích sạch sẽ, thường không bệnh tật, không có những hôi hám dơ bẩn, rận rệp, các thứ trùng. Trong thân không có tám vạn hộ trùng. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát này căn lành tăng thượng, vượt khỏi thế gian. Căn lành như như dần dần tăng trưởng, như vậy, thân tâm thanh tịnh. Do nhân duyên này, thân tâm của các Bồ-tát này kiên cố giống như kim cương, không bị nghịch duyên làm thương tổn.

Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là các Đại Bồ-tát nên biết tâm thường thanh tịnh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy căn lành như như dần dần tăng trưởng. Trong tâm như vậy, như vậy, tất cả những quanh co, dối trá đều không bao giờ hiện hành. Do nhân duyên này, bao nhiêu phiền não và pháp bất thiện đều vĩnh viễn dập tắt, cũng vượt khỏi Thanh văn, Độc giác địa, nhanh chóng tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cho nên phải biết tâm thường thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển chẳng trọng lợi dưỡng, chẳng màng tiếng khen, tâm xa lìa ganh ghét, tham lam, thân không lầm lỗi. Đối với các thức ăn, nước uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang, tài sản, của cải v.v… không tham đắm. Nghe pháp thâm sâu tâm chẳng mê lầm, trí tuệ sâu bền, cung kính tín thọ. Tùy sự nghe nhận, đều hội nhập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Những sự nghiệp tạo tác ở thế gian cũng nương vào phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa hội nhập pháp tánh, không thấy một sự kiện nào ra khỏi pháp tánh. Giả sử có pháp nào không tương ưng với pháp tánh thì cũng dùng phương tiện hội nhập nghĩa lý thâm sâu của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do đó không thấy pháp nào ngoài pháp tánh. Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Giả sửác ma hóa hiện trước mặt tất cả các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tám địa ngục lớn; ở trong mỗi một địa ngục lớn đó hóa ra vô lượng trăm ngàn Bồ-tát đều bị lửa dữ xen nhau đốt cháy, chịu nhiều đau khổ chua xót, độc hại khổ sở vô cùng. Ác ma hóa ra như vậy, bảo các Bồ-tát Bất thối chuyển:

“Các Bồ-tát này đều được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, nên bị đọa trong địa ngục lớn như vậy, thường chịu những đau khổ dữ dội như vậy. Bồ-tát các ông đã nhận thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển cũng sẽ đọa trong địa ngục lớn này, và chịu những đau khổ dữ dội. Phật thọ ký cho các ông chịu khổ cùng cực trong địa ngục lớn, chứ chẳng phải thọ ký các ông quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển. Thế nên, các ông hãy mau vứt bỏ tâm đại Bồ-đề, may ra được thoát khỏi nổi khổ địa ngục đây. Tương lai sanh lên cõi trời hoặc sanh trong loài người, hưởng thụ những vui sướng tuyệt vời.”

Khi ấy, các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển nghe thấy những điều như vậy, tâm họ vẫn không lay động, không nghi ngờ, sợ hãi, mà chỉ suy nghĩ: Đại Bồ-tát được thọ ký Bất thối chuyển, nếu đọa vào cảnh giới ác, chịu các khổ não không thể thoát ra, nhất định việc này không thể có. Những điều nghe thấy hôm nay chắc là ác ma làm ra. Những điều ác ma nói hoàn toàn không thật có. Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Giả sửác ma hóa làm hình tướng Sa-môn đi đến chỗ các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, nói như vầy: “Trước kia ông đã nghe, thọ trì, đọc tụng kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đều là tà thuyết, hãy mau vứt bỏ, chớ nghĩ đó là chơn thật. Nếu các ông có thể vứt bỏ nhanh chóng, ta sẽ dạy cho các ông pháp Phật chơn tịnh, để cho ông mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Những gì ông đã nghe trước đây không đúng là của Phật, đó là văn tụng dối trá do người soạn tập. Những lời ta nói mới đúng là lời Phật.”

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy mà tâm dao động, nghi ngờ, sợ hãi, nên biết đó là Bồ-tát chưa được thọ ký Bất thối chuyển.

Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy mà tâm chẳng dao động, nghi ngờ, sợ hãi, chỉ an trụ theo pháp tánh vô tác, vô tướng, vô sanh. Đại Bồ-tát này có làm việc gì cũng không tin lời người khác, chẳng theo lời dạy của người khác mà bị lay chuyển. Như A-la-hán có làm việc gì chẳng tin lời người khác, hiện chứng pháp tánh, không mê hoặc, không nghi ngờ, tất cả ác ma không thể khuynh đảo được. Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này không bị tất cả Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo, các ác ma v.v... có thể phá hoại, làm cho lui sụt tâm Bồ-đề. Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Giả sửác ma giả hiện bạn thân đi đến chỗ các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, nói như vầy: “Những gì các ông thực hành là pháp sanh tử, chẳng phải hạnh Bồ-tát. Nay các ông nên tu đạo hết khổ, mau hết các khổ, đắc Bát Niết-bàn.”

Lúc đó, ác ma liền nói đạo pháp tương tợ đạo sanh tử cho các Bồ-tát và bảo: “Đây là chơn đạo, ông tu đạo này sớm chấm dứt tất cả sanh, lão, bệnh, tử, được vào Niết-bàn. Thân khổ hiện tại còn nên chán bỏ, huống lại cầu thọ thân khổ nơi đời sau. Hãy tự suy nghĩ cẩn thận để bỏ những gì đã tin từ trước.”

Khi Đại Bồ-tát nghe người đó nói, tâm không dao động, không nghi ngờ, sợ hãi, mà chỉ suy nghĩ: Người nói lời như vậy chính là ác ma.

Khi ấy, ác ma kia bảo Bồ-tát: “Ông muốn nghe hạnh vô ích của Bồ-tát à? Nghĩa là các Bồ-tát trải qua hằng hà sa số đại kiếp, đem vô lượng thứ đồ cúng tốt đẹp nhất để cúng dường chư Phật. Lại ở hằng hà sa số chỗ Phật tu vô lượng thứ hạnh khổ khó làm, thân cận vâng thờ hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn. Thỉnh hỏi đạo nên tu nơi vô lượng, vô biên của Bồ-tát và hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn. Theo lời thỉnh hỏi mà thứ lớp được chỉ dạy. Các chúng Đại Bồ-tát đó như lời Phật dạy, tinh tấn tu học trải qua vô lượng kiếp còn không thể chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; huống gì hôm nay các ông có thể chứng đắc.”

Khi ấy, Bồ-tát tuy nghe nói như vậy nhưng tâm không dao động, không sợ hãi, nghi ngờ. Ác ma kia vội đến nơi hóa làm vô lượng hình tướng Bí-sô, bảo Bồ-tát: “Các Bí-sô này đều ở thời quá khứ, trải qua vô số kiếp tu vô lượng các hạnh khổ khó làm mà vẫn không thể đắc Vô thượng Bồ-đề, nay đều lui trụ nơi quả A-la-hán. Làm sao các ông có thể chứng đắc Bồ-đề?” Các Bồ-tát ấy nghe thấy vậy suy nghĩ: Nhất địnhác ma, vì muốn khuấy rối ta nên làm những việc như vậy. Chắc chắn không có Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đến quả vị viên mãn mà không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lui trụ nơi các địa vị Thanh văn, Độc giác.

Bồ-tát lại suy nghĩ: Nếu các Bồ-tát như lời Phật dạy, tu hạnh Bồ-tát mà không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, việc này chắc chắn không thể xảy ra. Nên biết những điều đã thấy, đã nghe hôm nay nhất định là do ác ma đã làm, đã nói.

Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, nếu có ác ma giả hình tướng Bí-sô đi đến nơi Bồ-tát muốn làm cho chán bỏ Vô thượng Bồ-đề, nói như vầy: “Trí nhất thiết trí ngang bằng hư không, lấy vô tánh làm tánh, tự tướng vốn Không. Các pháp cũng vậy, ngang bằng hư không, lấy vô tánh làm tánh. Trong tự tướng Không ấy, không có một pháp nào có thể gọi là năng chứng, không có một pháp nào có thể gọi là sở chứng, nơi chứng, lúc chứng, và do đây chứng cũng bất khả đắc. Tất cả pháp đã ngang bằng hư không, lấy vô tánh làm tánh, tự tướng vốn Không. Vì sao các ông phải chịu khổ nhọc một cách uổng phí cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Trước kia, ngươi đã nghe các chúng Bồ-tát nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đều là ma nói chứ chẳng phải lời chơn thật của Phật. Các ông nên bỏ tâm mong cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chớ nên vì các hữu tình ngày đêm tự chịu gian khổ. Mặc dù làm vô số những việc khổ hạnh khó làm, mong cầu giác ngộ nhưng không bao giờ đạt được.

Đại Bồ-tát này khi nghe nói lời can ngăn, quở trách như vậy, quán sát kỹ những việc của ác ma muốn làm lụn bại tâm Bồ-đề lớn của ta. Nay ta không nên tin nhận lời chúng nói mà đánh mất tâm Bồ-đề lớn đã phát nguyện. Ta phải kiên trì hơn, quyết không bao giờ lay chuyển. Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, muốn vào sơ tịnh lự cho đến tịnh lự thứ tư, thì có thể vào tùy ý. Đại Bồ-tát này tuy vào tịnh lự thứ tư nhưng không thọ quả đó. Vì muốn lợi ích an vui các hữu tình nên tùy sự giáo hóa mà thọ thân, tức tùy theo sở nguyện đều có thể giáo hóa. Sau khi làm những việc cần làm rồi thì xả bỏ ngay. Thế nên, tuy có thể vào các tịnh lự nhưng không theo thế lực đó để thọ sanh. Vì hóa độ các hữu tình nên sanh trở lại cõi Dục, tuy sanh nơi cõi Dục nhưng không bị nhiễm dục. Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, chẳng quí danh tiếng, không đắm trước tiếng khen. Đối với các hữu tình tâm không sân giận, luôn giúp họ được lợi ích an vui. Đến đi ra vào tâm không tán loạn, oai nghi tiến dừng thường trụ chánh niệm. Vì các hữu tình nên mặc dù Bồ-tát ở tại nhà nhưng trong ấy tâm không tham đắm. Tuy hiện thọ dục nhưng tâm chán sợ, như qua đường nguy hiểm tâm thường sợ hãi. Tuy có ăn uống mà lòng lo sợ chẳng yên, chỉ nghĩ lúc nào cho ra khỏi hiểm nạn này. Tuy hiện thọ dụng các thứ của cải nhưng ở nơi đó không sanh tham ái, không tự muôi sống bằng việc phi pháp, bất chánh. Thà tự hy sinh chứ không hại người khác.

Vì sao? Vì các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là bậc tôn thượng trong loài người, thiện sĩ trong loài người, quí tộc trong loài người, trâu chúa trong loài người, hoa sen trong loài người, voi chúa trong loài người, sư tử trong loài người, hùng mạnh trong loài người, điều ngự trong loài người, anh kiệt trong loài người. Vốn vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình nên hiện ở nơi nhà để dùng phương tiện làm lợi ích, đâu vì đời sống của chính mình mà xâm phạm phương hại đến người khác. Vì sao? Các Bồ-tát này đã nắm giữ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, có Thần vương Dược-xoa cầm kim cương thường theo hộ vệ nghiêm mật hai bên, không để cho những người chẳng phải người v.v... dùng oai lực tà mị làm tổn hại thân tâm họ. Nhờ nhân duyên này, nên các Bồ-tát cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thân tâm thư thái, thường không rối loạn, đủ tướng trượng phu, các căn viên mãn, tâm hành điều thiện, thường tu tịnh mạng. Không hành huyễn thuật, xem tướng tốt xấu, chú cấm thần quỉ, pha chế thuốc thang, dụ gạt người thấp hèn, kết thân với người giàu sang, khinh ngạo Thánh hiền, thân cận nam nữ. Không vì danh lợi mà khen mình chê người. Không vì tâm nhiễm ô mà liếc ngó giỡn cười. Giữ giới thanh tịnh, chí tánh thuần hậu ngay thẳng.

Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, đối với văn chương, kỹ nghệ của các thế gian, tuy được tài ba lỗi lạc nhưng không tham đắm, vì đều là hàm chứa lời tạp uế, tà mạn, đạt tất cả pháp bất khả đắc. Đối với những sách luận bàn về thế tục ngoại đạo, tuy cũng biết giỏi nhưng không say đắm, vì đạt được bản tánh Không của tất cả pháp. Các sách luận của ngoại đạo thế tục bàn nói nhiều sự lýthêm bớt, còn đạo của Bồ-tát không tùy thuận như vậy.

Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển còn có các tướng trạng khác nữa, Ta sẽ phân tích giảng nói cho ông rõ. Nghĩa là Bồ-tát đó thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đạt các pháp đều Không, nên chẳng ưa quán sát luận bàn các việc như: Việc vua, việc giặc, việc quân trận, việc chiến đấu, thành ấp, xóm làng, các loại xe ngựa, voi, y phục, ăn uống, giường nằm, hương hoa, nam nữ, xấu đẹp, vườn rừng, ao hồ, núi biển v.v...

Bồ-tát chẳng ưa quán sát luận bàn việc của Dược-xoa, La-sát-bà v.v... các việc của quỉ thần. Chẳng ưa quán sát luận bàn việc đường sá, chợ quán, lầu gác, buôn bán v.v... Chẳng ưa quán sát luận bàn việc múa hát, âm nhạc, điệu bộ, giỡn cười v.v... Chẳng ưa quán sát luận bàn việc cồn đảo, cầu cống, thuyền bè, vàng ngọc v.v... Chẳng ưa quán sát luận bàn việc trăng sao, mưa gió, lạnh nóng, tốt xấu v.v... Chẳng ưa quán sát luận bàn việc những loại pháp nghĩa trái nhau, văn tụng v.v... Chẳng ưa quán sát luận bàn việc tương ưng phàm phu, Thanh văn, Độc giác. Chỉ ưa quán sát luận bàn việc tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát này thường không xa lìa tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường không xa lìa tâm trí nhất thiết trí. Chẳng ưa chống trái hòa vui với sự tranh tụng. Thường mong Chánh pháp, không thích phi pháp. Thường mến mộ bạn lành, chẳng ưa bạn ác. Thích phát ra lời Chánh pháp, xa lìa lời phi pháp. Muốn thấy đức Như Lai, vui mừng chúng xuất gia. Trong cõi nước mười phươngđức Phật Thế Tôn giảng nói pháp chánh yếu, Bồ-tát nguyện sanh thế giới đó để gần gũi cúng dường, lắng nghe Chánh pháp.

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát này đa phần từ trời cõi Dục, cõi Sắc chết đi sanh vào loài người. Ở châu Thiệm-bộ, giỏi các môn kỹ nghệ, chú thuật, kinh thư, địa lý, thiên văn và các pháp nghĩa. Hoặc sanh vào biên địa nơi thành lớn, nước lớn, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát này không bao giờ nghi rằng ta bị thối chuyển hay không thối chuyển. Đối với pháp tự địa cũng không sanh nghi là có hay không. Đối với các việc ma biết một cách chính xác, rõ ràng. Như hàng Dự lưu đối với pháp tự địa không bao giờ sanh nghi. Giả sửác ma làm những việc rối loạn, mê hoặc vẫn không thể làm khuynh động được. Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này đối với pháp tự địa chắc chắn không sanh nghi, biết rõ việc ma, chẳng theo ma lực.

Như có người tạo tác nghiệp không gián đoạn, tâm tạo nghiệp liên tục này mãi mãi đi theo như bóng không rời hình, cho đến lúc qua đời không thể rời xa, nếu sanh tâm khác cũng không thể ngăn dẹp. Các Bồ-tát này cũng như vậy, tâm không thối chuyển, mãi mãi đi theo an trụ nơi bật Bất thối chuyển của Bồ-tát; trời, người, A-tu-la v.v... của thế gian không thể làm lay động, phá hoại pháp đã tự đắc. Đối với các nghiệp ma khéo biết rõ ràng, với pháp đã chứng thường không nghi hoặc. Tuy sanh đời khác cũng chẳng phát khởi tâm tương ưng Thanh văn, Độc giác và chẳng tự nghi ta ở đời sau có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chăng?! An trụ tự địa chẳng theo duyên khác. Đối với pháp tự địa không thể hủy hoại. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thành tựu trí không dao động, không thối chuyển, tất cả ác duyên không thể khuynh động, tâm ấy kiên cố hơn cả kim cương.

Giả sửác ma giả hình tượng Phật đến chỗ Bồ-tát nói như vầy: “Nay ông nên cầu quả A-la-hán, chấm dứt các lậu, vào Bát Niết-bàn. Ông chưa kham nhận thọ ký đại Bồ-đề, cũng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Nay ông chưa có các tướng trạng Bất thối chuyển nên Như Lai không thể thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cho ông.”

Khi Đại Bồ-tát này nghe những lời như vậy, tâm không biến động, chẳng lui, chẳng mất, không kinh khiếp, không sợ hãi, chỉ suy nghĩ: Đây nhất địnhác ma hoặc quyến thuộc của chúng hóa làm ra hình tướng Phật để đến chỗ ta nói những lời như vậy. Nếu đúng là Phật nói thì không khác như thế.

Thiện Hiện nên biết: Nếu khi Đại Bồ-tát nghe kẻ đó nói mà có thể quán sát nhớ nghĩ như vầy: Chắc chắn đây là ác ma hóa làm hình tướng Phật, muốn ta xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, muốn ta buông bỏ sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì thế không nên nghe theo lời kẻ đó nói. Lúc đó ma kinh sợ biến mất ngay.

Đại Bồ-tát này nhất định đã an trụ bậc Bất thối chuyển. Từ lâu đã được chư Phật quá khứ thọ ký đại Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu đầy đủ các tướng trạng của bậc Bất thối chuyển, có thể biết rõ việc làm của ác ma, làm cho chúng ẩn mất, không thể hiện lại được.

Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Có các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, bảo vệ Chánh pháp, chẳng tiếc thân mạng, huống gì của cải, bạn bè, bà con. Vì bảo vệ Chánh pháp nên dõng mãnh tinh tấn, thường nghĩ thế này: Chánh pháp này tức là Pháp thân thanh tịnh của chư Phật, tất cả Như Lai cung kính cúng dường. Nay ta ủng hộ pháp Phật quá khứ, hiện tại, vị lai tức là ủng hộ pháp Thân thanh tịnh của chư Phật ba đời. Vậy nay ta chẳng nên tiếc thân mạng, của cải, bạn bè để ủng hộ Chánh pháp.

Lại suy nghĩ: Chánh pháp này thông thuộc chư Phật Thế Tôn ba đời, ta cũng rơi vào số Phật vị lai, đức Phật đã thọ ký đạo quả giác ngộ cho ta. Do nhân duyên này, Chánh pháp chư Phật tức là pháp của ta, ta nên bảo vệ chẳng tiếc thân mạng, của cải, bạn bè. Vào thời tương lai ta được làm Phật cũng vì hữu tình giảng nói pháp này. Đại Bồ-tát này thấy việc lợi ích như vậy, nên ủng hộ Chánh pháp Như Lai đã dạy, chẳng tiếc thân mạng, cho đến Bồ-đề thường không lười mỏi.

Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Có các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển nghe chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết Chánh pháp không nghi, không ngờ. Nghe rồi thọ trì chẳng quên mất, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì đã đạt văn trì Đà-la-ni.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này chỉ nghe đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết Chánh pháp mà không nghi, không ngờ, cho đến Bồ-đề thường chẳng quên mất, hay nghe Bồ-tát và các Thanh văn, trời, rồng, Dược-xoa, người chẳng phải người v.v... thuyết Chánh pháp cũng có thể đối với họ không nghi, không ngờ, cho đến Bồ-đề thường chẳng quên mất?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này nghe khắp tất cả âm thanh, ngôn ngữ của hữu tình, có thể thông đạt văn tự nghĩa lý, không nghi, không ngờ, thường chẳng quên mất. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này ở trong các pháp đắc Vô sanh nhẫn, đã khéo thông suốt thật tánh các pháp, nên nghe pháp đều tùy thuận và không nghi, không ngờ. Lại được văn trì Đà-la-ni nên thường có khả năng nhớ nghĩ không bao giờ quên mất.

Đại Bồ-tát nào thành tựu các tướng trạng như vậy, chắc chắn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng còn thối chuyển.

Thiện Hiện nên biết: Đây là các tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

 
XVIII. PHAÅM TÖÔÙNG KHOÂNG

01

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thành tựu công đức rộng lớn thật hi hữu.

Bạch Thế Tôn! Các tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển giảng nói nhiều hằng hà sa số kiếp, do đức Phật đã nói về các tướng trạng, chỉ rõ sự thành tựu vô lượng công đức thù thắng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Cúi xin đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giảng lại nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để các Bồ-tát được an trụ trong ấy và tu các công đức mau chóng được viên mãn.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay! Nay ông mới có thể vì các chúng Đại Bồ-tát thỉnh hỏi đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để các Bồ-tát được an trụ trong ấy và tu các công đức mau chóng được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết: Nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, không có, vắng lặng, lìa nhiễm, Niết-bàn.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có pháp này được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay tất cả pháp đều được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả các pháp cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện! Vì sao nói tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Thiện Hiện nên biết: Như chơn như sâu xa nên sắc sâu xa; như chơn như sâu xa nên thọ, tưởng, hành, thức cũng sâu xa. Thế nên tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Như chơn như của sắc sâu xa nên sắc cũng sâu xa; như chơn như thọ, tưởng, hành, thức sâu xa nên thọ, tưởng, hành, thức cũng sâu xa. Thế nên tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Này Thiện Hiện! Nếu xứ không có sắc, gọi là sắc sâu xa. Nếu xứ không có thọ, tưởng, hành, thức, gọi là thọ, tưởng, hành, thức sâu xa. Thế nên tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phương tiện sâu xa vi diệu đem các ví dụ khác về các sắc để hiển thị Niết-bàn; đem các ví dụ khác về các thọ, tưởng, hành, thức để hiển thị Niết-bàn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Thiện Hiện nên biết: Các Đại Bồ-tát nên đối với nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này suy tư chắc chắn, kỹ càng và nghĩ: Nay ta nên như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà trụ. Nay ta nên như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà học.

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát nào có thể đối với nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này suy tư chắc chắn, kỹ càng, như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà trụ, như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà học. Đại Bồ-tát này do nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học cho đến chỉ một ngày, phước đức đạt được cũng vô lượng, vô biên.

Như người tham dục lại nhiều tìm tòi, hẹn hò cùng cô gái đẹp khác. Cô gái ấy bị trở ngại không đến chỗ hẹn được, thì người này dục tâm bùng cháy tuôn chảy. Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Dục tâm của người ấy hướng về chỗ nào?

- Bạch Thế Tôn! Dục tâm của người ấy hướng về người nữ. Người ấy nghĩ: Làm thế nào để cô gái đến đây gặp ta, vui chơi khoái lạc.

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Người ấy ngày đêm sanh niệm dục mấy lần?

- Bạch Thế Tôn! Người ấy ngày đêm luôn nghĩ đến dục rất nhiều.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học, cho đến một ngày, vượt khỏi kiếp số trôi lăn trong vòng sanh tử, cùng người tham dục trải qua một ngày đêm phát khởi nghĩ dục số lượng ngang nhau.

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ-tát này tùy sự nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học, tùy theo đó có thể giải thoát được bao nhiêu tội lỗi làm chướng ngại đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì vậy, Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học, chóng chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học trải qua một ngày đêm, công đức đạt được vượt hơn các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp, công đức bố thí vô lượng, vô biên.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học trải qua một ngày đêm, công đức đạt được vuợt hơn các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua hằng hà sa số đại kiếp đem các vật cúng dường các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai, công đức bố thí vô lượng, vô biên.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, công đức đạt được vượt hơn các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, công đức đạt được vô lượng, vô biên.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm, đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình, công đức đạt được vượt hơn các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình, công đức đạt được vô lượng, vô biên.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm tu ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề và các căn lành khác, công đức đạt được hơn các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề và các căn lành khác, công đức đạt được vô lượng, vô biên.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm tu hành các thứ tài thípháp thí, ở chỗ vắng vẻ, chánh niệm tư duy, trước đã tu các loại phước đức nghiệp, cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, công đức đạt được vượt hơn các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành các thứ tài thípháp thí, ở chỗ vắng vẻ, chánh niệm tư duy, trước đã tu hành các loại phước đức nghiệp, cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, công đức đạt được vô lượng, vô biên.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm duyên khắp công đức căn lành của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử ba đời, hòa hợp tương xứng, hiện tiền tùy hỷ, cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, công đức đạt được vượt hơn các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp duyên khắp công đức căn lành của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử ba đời, hòa hợp tương xứng, hiện tiền tùy hỷ, cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, công đức đạt được vô lượng, vô biên.

Quyển thứ 549
HẾT

 

02

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Thế Tôn dạy: Các hành đều do phân biệt tạo ra, sanh từ vọng tưởng nên hoàn toàn chẳng thật có. Do nhân duyên nào mà các Bồ-tát đó đạt được công đức vô lượng, vô biên như vậy?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nhưng các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng nói các hành đều do phân biệt tạo ra, Không vô sở hữu, hư vọng không thật. Vì sao?

Vì các Đại Bồ-tát này đã khéo học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, đã quán sát các hành đều do phân biệt tạo ra, Không vô sở hữu, hư vọng không thật. Đại Bồ-tát này tự quán sát các hành đều do phân biệt tạo ra, Không vô sở hữu, hư vọng không thật. Như vậy như vậy nên không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; như như không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như vậy như vậy đã đạt được công đức vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên có gì sai khác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nói vô lượng nghĩa là đối với xứ này, lượng nó dứt hẳn. Nói vô biên nghĩa là ở trong số này không thể cùng tận.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phải chăngnhân duyên, sắc cũng thể nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng thể nói vô lượng, vô biên?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì có nhân duyên nên sắc cũng nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng nói vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhân duyên nào mà sắc cũng nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng nói vô lượng, vô biên?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Sắc là tánh Không, nên cũng nói là vô lượng, vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức là tánh Không, nên cũng nói là vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Không, hay tất cả pháp cũng đều Không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Trước đây Ta đã chẳng từng nói tất cả pháp đều không đó sao?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Tuy Phật thường nói các pháp đều Không, nhưng các hữu tình không có kiến thức hiểu biết, nên nay con hỏi lại như vậy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không phải chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Không, mà ta nói các pháp đều Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên là khái niệm gì?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô biên là khái niệm của không, vô tướng, vô nguyện.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên chỉ là không, vô tướng, vô nguyện. Ngoài ra còn có nghĩa nào khác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ta đâu chẳng nói tất cả pháp môn đều Không đó sao?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Đức Như Lai thường dạy tất cả pháp môn đều Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không tức là vô tận, không tức là vô lượng, không tức là vô biên, không tức là các nghĩa khác.

Thế nên, này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn tuy có nhiều cách nói khác nhau nhưng nghĩa không khác.

Thiện Hiện nên biết: Các pháp Không, lý đều không thể nói, Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, nói vô biên, nói là không, nói vô tướng, nói vô nguyện, nói vô tác, nói vô sanh, nói vô diệt, nói phi hữu, nói vắng lặng, nói lìa nhiễm, nói Niết-bàn v.v…

Thật nghĩa vô lượng pháp môn của các pháp như thế không khác, đều do Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các hữu tình phương tiện giảng nói.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hi hữu thay! Ngài đã dùng phương tiện thiện xảo, thật tánh các pháp vốn không thể giảng nói nhưng vì hữu tình nên phương tiện chỉ rõ. Như con hiểu nghĩa Phật đã nói, thật tánh các pháp đều không thể nói.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Thật tánh các pháp đều không thể nói. Vì sao? Vì tánh tất cả pháp rốt ráo đều Không, không có người có thể giảng nói rốt ráo Không đó được.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa không thể nói có thêm bớt chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nghĩa không thể nói không có thêm bớt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa không thể nói không thêm bớt thì bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng sẽ không thêm bớt. Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa này cũng không thêm bớt, thì phải sáu pháp Ba-la-mật-đa đều không sở hữu. Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa đều không sở hữu, thì tại sao Đại Bồ-tát tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể thân cận quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Bố thí v.v... sáu pháp Ba-la-mật-đa đều không thêm bớt, cũng không sở hữu. Nhưng khi các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phương tiện thiện xảo không nghĩ như vầy: Như vậy, bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có thêm, có bớt. Chỉ nên nghĩ: Chỉ có danh tướng gọi là bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi Đại Bồ-tát đó tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, đem bố thí này cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa câu hữu tác ý, và nương nơi thiện căn cùng phát khởi tâm này, cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Phát khởi hồi hướng như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật sâu xa vi diệu. Do thế lực tăng thượng của hồi hướng bằng phương tiện thiện xảo này nên chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chơn như của các pháp gọi là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Vì chơn như của các pháp khôngthêm bớt nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng không thêm bớt. Nếu Đại Bồ-tát thường an trụ tác ý tương ưng với chơn như như vậy, thì liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nghĩa không thể nói, tuy không thêm bớt nhưng không thối chuyển tác ý chơn như. Ba-la-mật-đa tuy không thêm bớt nhưng không thối lui sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát nào an trụ tác ý chơn như như vậy mà tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

 
XIX. PHẨM CÔNG ĐỨC SÂU XA

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Đại Bồ-tát phát khởi tâm trước có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hay tâm sau phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Nếu tâm trước phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì khi tâm trước phát khởi, tâm sau chưa phát khởi sẽ không có nghĩa hòa hợp. Nếu tâm sau phát khởi có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì khi tâm sau phát khởi, tâm trước đã diệt nên không có nghĩa hòa hợp. Như vậy, tâm và tâm sở pháp trước sau tiến thối, suy vi không có nghĩa hòa hợp. Như vậy làm sao có thể tích tụ căn lành được? Nếu các căn lành không thể tích tụ thì làm sao Bồ-tát viên mãn căn lành, có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như khi đốt đèn thì ngọn lửa trước cháy tim hay ngọn lửa sau cháy tim?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu, chẳng phải ngọn lửa trước cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa trước. Chẳng phải ngọn lửa sau cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa sau.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tim bị cháy không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế gian hiện thấy cái tim thật cháy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cũng như vậy. Chẳng phải tâm trước phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng chẳng phải lìa tâm trước. Chẳng phải tâm sau phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm sau. Nhưng các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành được tăng trưởng viên mãn, có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lý thú duyên khởi sâu xa này nghĩa là các Đại Bồ-tát chẳng phải tâm trước phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm trước. Chẳng phải tâm sau phát khởi có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng không lìa tâm sau. Chẳng phải vì các tâm như vậy phát khởi mới có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng phải vì lìa các tâm phát khởi như vậy mới có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng các Đại Bồ-tát có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu tâm diệt rồi sanh lại được không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không được. Tâm đã diệt rồi không thể sanh lại.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu tâm đã sanh có pháp diệt không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Nếu tâm đã sanh nhất địnhpháp diệt.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm có pháp diệt sẽ không diệt chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Tâm có pháp diệt nhất định sẽ diệt.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm khôngpháp diệt có thể sanh được không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Tâm khôngpháp diệt, không có nghĩa có thể sanh được.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm không có pháp sanh là diệt được không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Tâm không có pháp sanh không có nghĩa diệt được.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm không có pháp sanh diệtsanh diệt được không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Tâm không có pháp sanh diệt, không có nghĩa sanh diệt được.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu pháp đã diệt có thể diệt nữa không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Nếu pháp đã diệt không diệt được nữa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu pháp đã sanh có thể sanh nữa không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Nếu pháp đã sanh không sanh được nữa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Thật tánh các pháp có sanh diệt không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Thật tánh các pháp không sanh, không diệt.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm trụ là như tâm chơn như phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Như tâm chơn như, tâm trụ cũng vậy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nếu tâm trụ như chơn như, thì tâm đó là tánh thật tế thường trụ của như chơn như phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Tâm đó chẳng phải tánh thật tế thường trụ của như chơn như.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Chơn như của các pháp là sâu xa vô cùng phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Chơn như các pháp vô cùng sâu xa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Chơn như tức là tâm phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không phải.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lìa chơn như có tâm không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tâm tức là chơn như phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Lìa tâm có chơn như không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Chơn như có thể thấy chơn như không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Ông thấy có thật chơn như không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào thường thực hành như vậy có phải là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy là hành xứ nào?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy đều không có hành xứ. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy thì hoàn toàn không thấy có năng hành, sở hành, thời gian hành, nơi chốn hành, vì các pháp hiện hành đều không chuyển vậy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành chỗ nào?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hành thắng nghĩa đế, vì trong ấy tất cả đều không có phân biệt.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với thắng nghĩa đếchấp tướng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với thắng nghĩa đế tuy không chấp tướng nhưng có hành tướng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không có.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát này đối với thắng nghĩa đế là tướng hoại phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Đại Bồ-tát này đối với thắng nghĩa đế là tướng từ bỏ phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với thắng nghĩa đế nếu chẳng phải tướng hoại, cũng chẳng phải tướng từ bỏ, thì làm sao có thể chấm dứt tưởng chấp tướng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta đang có tướng hoại, ta đang có tướng bỏ, chấm dứt tưởng chấp tướng, cũng chẳng tu học đạo chấm dứt tưởng chấp tướng. Đại Bồ-tát nào khi siêng năng tu học Bồ-tát hạnh, tu đạo chấm dứt tưởng, khi ấy tất cả pháp Phật chưa viên mãn, nên bị rơi vào địa vị Thanh văn hay Độc giác.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, mặc dù đối với các tướng và tưởng chấp thủ biết rõ lỗi lầm mà không hoại đoạn, thì được mau chứng vô tướng. Vì sao? Vì chưa được viên mãn tất cả pháp Phật.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào ở trong mộng tu ba pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thêm lợi ích?

Thiện Hiện đáp:

- Đại Bồ-tát nào lúc thức, tu ba pháp môn giải thoát này, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thêm lợi ích. Người đó tu trong mộng cũng có thêm lợi ích. Vì sao? Vì đức Phật dạy mộng và tỉnh không khác nhau.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nào đã đạt Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì lúc thức tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã gọi là an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mà Đại Bồ-tát này trong mộng tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng gọi là an trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Ba pháp môn giải thoát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể làm tăng thêm lợi ích cũng như vậy. Ý nghĩa khi mộng hoặc khi tỉnh không khuyết giảm.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… ở trong mộng tạo nghiệp thì có tăng ích hoặc tổn giảm không?

Thiện Hiện đáp:

- Đức Phật dạy tất cả pháp đều như thấy trong mộng. Nếu trong mộng tạo nghiệp không tăng giảm, thì khi thức tạo nghiệp cũng không tăng giảm. Nhưng các nghiệp đã tạo trong mộng không hơn tăng giảm, phải đến lúc thức nhớ tưởng phân biệt thì nghiệp đã tạo trong mộng mới làm cho nghiệp người đó thành tăng giảm hơn. Như người trong mộng giết mạng người khác, rồi sau đến lúc tỉnh giấc mơ, mới phân biệt nhớ nghĩ, tự vui mừng nên nghiệp ấy càng tăng. Nếu vô cùng ăn năn xấu hổ thì nghiệp ấy liền giảm.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói với Thiện Hiện:

- Có người khi còn thức, giết chết người khác, rồi sau đến lúc ở trong mộng, hoặc tự vui mừng, hoặc rất ăn năn, làm cho khi thức nghiệp ấy có tăng giảm không?

Thiện Hiện đáp:

- Cũng có tăng giảm, nhưng sự tăng giảm đó chẳng bằng khi thức, vì trong tâm đã biết rõ ràng hơn những nghiệp đã tạo.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Không có đối tượng thì dầu suy nghĩ (tư) hay nghiệp (hành động) đều không sanh được, phải có đối tượng thì tư nghiệp mới phát sanh. Vậy còn ở trong mộng tư nghiệp dựa vào đâu mà sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Hoặc mộng hoặc tỉnh, mà không có đối tượng thì tư nghiệp không sanh, cần có đối tượng thì tư nghiệp mới phát sanh. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì quan trọng là cần ở trong pháp thấy, nghe, hiểu biết phải có tuệ giác chuyển. Do đây phát sanh nhiễm hay phát sanh tịnh. Nếu không thấy, nghe, hiểu biết, thì các pháp khôngtuệ giác chuyển, cũng không nhiễm tịnh. Do đây nên biết, hoặc mộng hoặc tỉnh mà có đối tượng thì tư nghiệp mới sanh. Còn không có đối tượng thì tư nghiệp không phát sanh.

Tôn giả Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đức Phật dạy đối tượng đều lìa tự tánh. Như vậy làm sao nói được có đối tượng thì tư nghiệp mới sanh? Không đối tượng thì tư nghiệp không phát sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Mặc dầu các tư nghiệp và đối tượng đều lìa tự tánh, nhưng do tự tâm chấp tướng phân biệt, trình bày theo thế tục nói có đối tượng. Do đối tượng này phát sanh các tư nghiệp. Như nói vô minhduyên sanh hành, hành là duyên sanh thức v.v… đều do tự tâm chấp tướng phân biệt, nói có đối tượng nhưng chẳng thật có tánh.

Tôn giả Xá-lợi Tử nói với Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát nào ở trong mộng thực hành bố thí, bố thí rồi hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, Đại Bồ-tát đó là thật đem bố thí hồi hướng Vô thượng Bồ-đề của Phật chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bồ-tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký đại Bồ-đề, chỉ còn một đời chắc chắn sẽ làm Phật, Ngài rất giỏi trả lời tất cả những câu hỏi, hiện đang ở trong hội này. Chúng ta nên thỉnh hỏi Ngài, bậc Bổ Xứ Từ Tôn chắc chắn sẽ trả lời.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử như lời Thiện Hiện nói, cung kính thỉnh hỏi Bồ-tát Từ Thị. Bồ-tát Từ Thị bảo lại Thiện Hiện:

- Tôn giả đã nói Bồ-tát Từ Thị có thể trả lời nghĩa này. Vậy những gì gọi là Bồ-tát Từ Thị vì danh có thể đáp? Vì sắc có thể đáp; vì thọ, tưởng, hành, thức có thể đáp? Vì hiển lộ có thể đáp; vì hình ảnh có thể đáp? Vì Không của sắc có thể đáp; vì Không của thọ, tưởng, hành, thức có thể đáp được chăng? Vả lại, danh Từ Thị không thể đáp. Sắc cũng không thể đáp; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể đáp. Hiển lộ cũng không thể đáp; hình ảnh cũng không thể đáp. Không của sắc cũng không thể đáp; Không của thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể đáp. Vì sao?

Vì tôi hoàn toàn không thấy có pháp năng đáp, sở đáp, chỗ đáp, lúc đáp và do đây đáp cũng đều không thấy. Tôi hoàn toàn không thấy có pháp có thể nhớ, pháp được ghi nhớ, nơi ghi nhớ, lúc ghi nhớ và do đây ghi nhớ cũng đều không thấy. Vì sao? Vì tất cả pháp bản tánh đều Không, không sở hữu, không hai, không khác, gạn tìm rốt ráo bất khả đắc.

Xá-lợi Tử hỏi Bồ-tát Từ Thị:

- Pháp mà Tôn giả đã nói là như sở chứng phải không?

Đại Bồ-tát Từ Thị đáp:

- Pháp tôi đã nói chẳng phải như sở chứng. Vì sao? Vì pháp đã chứng của tôi không thể nói được.

Này Xá-lợi Tử! Tôi hoàn toàn không thấy có pháp đã chứng tự tánh có thể đắc, như điều tâm nghĩ, như lời đã nói.

Này Xá-lợi Tử! Tự tánh của các pháp chẳng phải thân có thể chạm được, chẳng phải dùng ngôn ngữ có thể biểu thị, không phải ý để nghĩ. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tất cả pháp khôngtự tánh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử suy nghĩ: Bồ-tát Từ Thịtuệ giác thật uyên thâm, ngày đêm tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới có thể nói như vậy.

Phật dạy:

- Xá-lợi Tử! Như tâm ông đã nghĩ, Bồ-tát Từ Thịtuệ giác thật uyên thâm, ngày đêm tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mới nói như vậy. Xá-lợi Tử! Những điều ông nghĩ là đúng.

Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Ông do pháp ấy mà thành A-la-hán, và thấy được pháp ấy có thể nói được không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, pháp tánh đã chứng cũng như vậy, không thể giảng nói.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đó không nghĩ: Ta nhờ pháp này mà đã được thọ ký, đang được thọ ký và sẽ được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Bồ-tát không nghĩ: Ta do pháp này sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy, không sanh nghi ngờ rằng ta đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là đắc hay không đắc. Chỉ nghĩ thế này: Ta nỗ lực tinh tấn, nhất định sẽ đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì đã đối với sự giác ngộ được sức thù thắng. Đại Bồ-tát nào có thể thực hành như vậy, đó là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe pháp sâu xa không kinh khiếp, không sợ hãi, không hoảng hốt, không lo sợ, không chìm, không đắm. Đối với sự chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không sợ sệt, vì khẳng định tự biết ta sẽ chứng đắc.

Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát nếu ở nơi đồng trống vắng, có thú dữ ở cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên xả bỏ tất cả những sở hữu trong ngoài, thường nghĩ thế này: Nếu có quỉ ác và thú dữ v.v... muốn ăn nuốt thân ta, ta sẽ thí cho để chúng được no đủ. Nhờ căn lành này làm cho ta bố thí Ba-la-mật-đa nhanh chóng được viên mãn, sớm gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh như vậy, khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật ta không có những loài bàng sanh, quỉ đói.

Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát đó nếu ở nơi đồng trống hoang vu, có giặc ác cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên xả bỏ tất cả những sở hữu trong ngoài, ưa tu những điều thiện, đối với thân mạng tài sản, không có sự tiếc nuối. Thường nghĩ thế này: Nếu các hữu tình đua nhau đến cướp đoạt tài sản của ta, ta phải cung kính vui mừng thí cho họ. Hoặc nhân cơ hội đó, họ hại thân ta, ta cũng không bao giờ sanh tâm sân hận, cũng chẳng phát sanh thân, khẩu, ý ác. Do nhân duyên này làm cho ta bố thí, tịnh giới, an nhẫn Ba-la-mật-đa nhanh chóng được viên mãn, mau gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh như vậy, khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật ta không có những giặc cướp oán hại. Do đó, cõi Phật ta vô cùng thanh tịnh, cũng không còn các độc ác khác.

Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này nếu ở nơi đồng trống hoang vắng, sa mạc khô cằn cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì pháp của Bồ-tát là như vậy, không có những sợ hãi. Thường nghĩ thế này: Ta phải cầu học pháp dứt trừ khát ái cho các hữu tình, không nên đối với điều này sanh sợ hãi. Giả sử ta vì việc này mà đói khát đến chết, đối với các hữu tình nhất định không xả bỏ sự phát khởi tâm đại bi bố thí nước pháp nhiệm mầu. Lạ thay! Bạc phước thay! Các hữu tình ở nơi thế giới không có nước, ta phải siêng năng tu chánh hạnh này để khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật ta không có những đồng trống, sa mạc hoang vu, cháy bỏng vì thiếu nước như vậy. Ta phải phương tiện khuyên nhủ các hữu tình tu phước nghiệp thù thắng. Bất cứ ở đâu ta đều làm cho họ đầy đủ tám nước công đức. Ta kiên trì, tinh tấn dõng mãnh, phương tiện giáo hóa tất cả hữu tình, do nhân duyên này khiến ta tinh tấn Ba-la-mật-đa, nhanh chóng được viên mãn, mau gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này ở nước đói kém cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này mặc áo giáp công đức dõng mãnh tinh tấn, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, phát nguyện thế này: “Khi ta chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trong cõi Phật ta không có những đói kém như vậy. Các loài hữu tình đầy đủ vui sướng, tùy ý cần dùng những gì, nghĩ đến có ngay, như chư thiên trên trời nghĩ điều gì đều có thứ ấy. Ta phải phát khởi tâm kiên trì, tinh tấn dõng mãnh, làm cho các hữu tình phát nguyện đầy đủ: Tất cả thời gian, nơi chốn, tất cả hữu tình đối với tất cả của cải, vật dụng giúp cho sự sống không bị thiếu thốn.”

Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này gặp lúc tật dịch cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thường quán sát kỹ: Không có pháp gọi là bệnh, cũng không có pháp có thể gọi là người bệnh, tất cả đều Không, không nên sợ hãi. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh, để khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các loài hữu tình trong cõi Phật ta, không có những tai nạn tật dịch, tinh tấn tu hành chánh hạnh thù thắng.

Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này nghĩ: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề trải qua thời gian lâu mới được, không nên sợ hãi. Vì sao? Vì kiếp số đời trước tuy có vô lượng nhưng trong khoảng một niệm nhớ nghĩ, phân biệt, tích tụ sự thành tựu; kiếp số đời sau nên biết cũng như vậy. Thế nên, Bồ-tát ở trong ấy không nên sanh tưởng lâu mau mà cho rằng: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề trải qua thời gian lâu dài mới chứng đắc, liền sanh sợ hãi. Vì sao? Vì kiếp số đời trước, đời sau, dài ngắn đều là tâm tương ưng với một sát-na.

Thế nên, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tuy nghe trải qua lâu dài mới chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng ở trong ấy quán sát chắc chắn kỹ càng, không sanh sợ hãi.

Này Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát nào đối với những sự thấy nghe, hiểu biết, pháp đáng sợ hãi mà không sanh sợ hãi, nên biết Bồ-tát đó mau chóng chứng sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên theo giáo pháp chơn tịnh Không của Như Lai, mặc áo giáp công đức, tinh tấn tu học, đối với tất cả pháp không nên sợ hãi.

 
XX. PHẨM CĂN-GIÀ THIÊN

Bấy giờ, trong hội chúng có một Thiên nữ tên Căn-già thiên, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, kéo phủ vai trái, chân phải quì sát đất, chấp tay hướng Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con ở những chỗ đó cũng không sợ hãi, đối với các pháp cũng không nghi ngờ. Vào đời tương lai, con cũng vì các hữu tình nói pháp không sợ hãi, không nghi ngờ!

Khi ấy, đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra ánh sáng màu vàng chiếu khắp mười phương vô biên thế giới, rồi chiếu trở lại cõi Phạm Thế, hiện đại thần thông, trở về nhiễu quanh bên phải Phật ba vòng. Hiện thần biến xong, nhập vào trong đảnh Phật.

Khi ấy, Căn-già thiên thấy sự việc này, rất hoan hỉ phấn chấn, lấy hoa bằng vàng xinh đẹp chí thành cung kính rải lên đức Như Lai. Vì thần lực của Phật, làm cho hoa vàng này phóng lên và bay phất phới trong không trung.

Tôn giả A-nan-đà thấy nghe như vậy, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, y phủ vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nguyên nhân nào mà Ngài hiện tướng mỉm cười? Vì Phật hiện mỉm cười chẳng phải không có lý do?

Thế Tôn bảo Khánh Hỷ:

- Thiên nữ này vào đời vị lai sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, kiếp tên Tinh Tú, Phật hiệu Kim Hoa.

Khánh Hỷ nên biết: Đây là lần thọ thân cuối cùng của Thiên nữ. Sau khi xả bỏ thân này liền thọ thân nam, tận đời tương lai không làm thân nữ trở lại. Từ đây qua đời sanh về thế giới Bất Động Như Lai ở phương Đông. Nơi cõi Phật đó, Thiên nữ siêng năng tu phạm hạnh, có tên là Kim Hoa. Từ thế giới Bất Động qua đời rồi sanh phương khác, nơi thế giới có Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thường không xa lìa chư Phật Thế Tôn. Như vua Chuyển luân, từ cung điện này đến cung điện khác, hưởng lạc vui chơi cho đến qua đời, chân chưa hề đụng đất. Bồ-tát Kim Hoa cũng như vậy, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh ra nơi nào thường không rời Phật.

Tôn giả A-nan-đà thầm nghĩ: Lúc đó, Bồ-tát Kim Hoa được làm Phật, chắc cũng thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Chúng Đại Bồ-tát trong hội đó số bao nhiêu? Có như chúng Bồ-tát trong hội Phật hôm nay không?

Phật biết tâm niệm của Tôn giả A-nan-đà nên bảo:

- Khánh Hỷ! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nghĩ. Bồ-tát Kim Hoa lúc được làm Phật cũng vì hội chúng thuyết giảng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này. Chúng Đại Bồ-tát trong hội đó số lượng cũng như chúng Bồ-tát trong hội Phật ngày nay.

Khánh Hỷ nên biết: Bồ-tát Kim Hoa lúc được làm Phật, số đệ tử Thanh văn đạt Niết-bàn rất nhiều không thể tính kể, nghĩa là không thể đếm hết, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ức v.v… chỉ nói tổng sốvô lượng, vô biên.

Khánh Hỷ nên biết: Bồ-tát Kim Hoa lúc được làm Phật, nơi cõi Phật đó không có thú dữ, quỉ ác, cũng không có nạn oán tặc, thiếu nước, đói kém, tật dịch v.v...

Khánh Hỷ nên biết: Lúc Bồ-tát Kim Hoa chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hữu tình nơi cõi Phật đó không có những sợ hãi và không có các thứ tai ương, tội lỗi.

Khánh Hỷ lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên nữ này trước đây bắt đầu phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng với đức Phật nào?

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Thiên nữ này trước đây ở nơi đức Phật Nhiên Đăng thời quá khứ bắt đầu phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành, phát nguyện hồi hướng. Lúc ấy, Thiên nữ cũng đem hoa vàng tung lên đức Phật, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết: Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng quá khứ, đem năm cành hoa dâng rải lên đức Phật đó và phát nguyện hồi hướng. Khi ấy, Ta liền chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đức Như Lai Nhiên Đăng Ứng Chánh Đẳng Giác biết Ta căn tánh thành thục, nên thọ ký: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu Năng Tịch, cõi nước tên Kham Nhẫn, kiếp tên Hiền. Bấy giờ, Thiên nữ nghe Phật thọ ký cho Ta được giác ngộ lớn, nàng vui mừng phấn chấn, liền đem hoa vàng dâng rải lên đức Phật, phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành phát nguyện hồi hướng: Đời sau, khi Bồ-tát này được làm Phật, cũng như đức Phật hiện tại, khiến cho con được thọ ký đại Bồ-đề. Thế nên hôm nay Ta thọ ký cho Thiên nữ này.

Khánh Hỷ nghe đức Phật dạy, hoan hỉ phấn chấn, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên nữ này từ lâu đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trồng các căn lành và phát nguyện hồi hướng, nay được thành thục. Cho nên đức Như Lai thọ ký cho Thiên nữ.

Phật dạy:

- Này Khánh Hỷ! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thiên nữ ấy nhờ căn lành được thành thục, nên Ta thọ ký đại Bồ-đề.

 
XXI. PHẨM BIẾT VIỆC MA

01

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tập Không như thế nào? Hiện vào Không Tam-ma-địa như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán sắc Không; nên quán thọ, tưởng, hành, thức Không. Khi quán như vậy, chẳng để tâm rối loạn. Nếu tâm rối loạn thì không thấy pháp. Nếu không thấy pháp thì chẳng tác chứng.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn dạy, các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên quán pháp Không nhưng không tác chứng. Làm sao Đại Bồ-tát khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trụ Không đẳng trì mà không tác chứng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khi quán pháp Không, trước hết nên nghĩ: Ta nên quán pháp các tướng đều Không, không nên tác chứng. Ta vì học nên quán các pháp Không, không vì chứng quán các pháp Không. Nay là lúc học, không phải lúc chứng.

Khi Đại Bồ-tát chưa nhập định, buộc tâm nơi cảnh tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng phải nhập định vị mới buộc tâm nơi cảnh, và tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vào thời gian như vậy, Đại Bồ-tát này chẳng lui sụt tất cả pháp phần Bồ-đề, không chứng lậu tận. Vì sao? Đại Bồ-tát này thành tựu trí tuệ rộng lớn như vậy, khéo trụ pháp Không và tất cả loại pháp phần Bồ-đề, thường nghĩ thế này: Nay là lúc nên học, không nên tác chứng.

Thiện Hiện nên biết: Nếu lúc Đại Bồ-tát trụ Không Tam-ma-địa mà không chứng Không, khi ấy Đại Bồ-tát cũng trụ vô tướng Tam-ma-địa mà không chứng vô tướng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu căn lành kiên định thù thắng, thường nghĩ thế này: Hôm nay nên học, không nên tác chứng. Nay nên tiếp nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp quán Không, vô tướng, phải viên mãn tất cả pháp phần Bồ-đề. Hôm nay không nên chứng nơi thật tế. Do nhân duyên này, Đại Bồ-tát không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, nhanh chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện! Ví như có người hùng mạnh, oai vệ, đứng chỗ kiên cố, khó có thể lay động, hình sắc nghiêm trang, ai cũng thích nhìn, có đầy đủ công đức giới luật tối thắng, thông tuệ khéo lời, đối đáp rất giỏi, đủ tài hùng biện, đủ cách thực hành, biết nơi chốn, biết thời gian. Đối với binh bị, kỹ thuật v.v… học đến rốt ráo, thế phòng thủ kiên cố, có thể thắng nhiều kẻ địch. Tất cả kỹ năng đều giỏi, thành tựu, các chỗ công xảo học đến cùng tận. Trí nhớ đầy đủ, biểu lộ một cách mạnh mẽ. Đối với các kinh điển được sự không sợ hãi, có đủ từ tâmnghĩa khí, có thế lực lớn. Thân thể không khiếm khuyết, các căn đầy đủ. Bà con tiền của rất sung túc, mọi người đều kính phục và ngưỡng mộ. Làm việc gì cũng đều thành tựu. Vì sự nghiệp giỏi nên bỏ công ít mà có lời nhiều. Do nhân duyên này nên giàu có, nhiều của cải quí giá, khéo có thể cấp cho nhiều loài hữu tình, người đáng cúng dường đều có thể cúng dường cho họ, người đáng cung kính có thể cung kính họ, người đáng tôn trọng có thể tôn trọng họ, người đáng khen ngợi có thể khen ngợi họ v.v…

Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nhờ vậy mà người này vui mừng, phấn chấn tăng bội phần, thân tâm hoan hỉ, tự mừng thầm không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Người dõng mãnh kia thành tựu sự nghiệp đại hưng thịnh như vậy, có nhân duyên nên đem cha mẹ, vợ con, quyến thuộc đi đến phương khác. Giữa đường phải đi qua đồng trống hoang vu hiểm nạn, nơi đó có nhiều ác thú, oán tặc, oan gia ẩn núp và nhiều việc đáng sợ. Bà con lớn nhỏ ai nấy đều kinh hoàng. Nhưng người đó tự tin cậy tài năng kỹ thuật của mình, và sức oai hùng dõng mãnh, nên thân ý thanh thản. Người đó an ủi cha mẹ, vợ con, quyến thuộc chớ có lo sợ, chắc chắn không xảy ra khổ nạn, mau qua đồng trống đến chỗ an ổn.

Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Trong đồng trống này kẻ oán hại nổi lên, người đó đã đủ sức mạnh, kỹ năng, thương kính cha mẹ thân thích, trang bị đầy đủ các khí cụ mà có bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc một mình thoát hiểm nạn được không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không. Vì sao? Vì người đó có nhiều kỹ thuật, có thể ở nơi đồng trống hóa làm binh trượng dõng mãnh tinh nhuệ, gặp các oán địch làm cho họ vừa trông thấy tự nhiên lui mất. Việc người đó bỏ những người thân, một mình vượt qua đồng trống hiểm nạn, việc này không thể xảy ra. Nhưng người tráng sĩ khi ở giữa đồng trống, không có ý sợ ác thú, oán tặc phương hại. Vì sao? Vì người đó tự cậy mình có oai lực hùng mạnh, và đủ các kỹ thuật nên không sợ hãi.

Bạch Thế Tôn! Người đó dùng thuật khéo léo, đem các bà con, thân thuộc vượt qua đồng trống hoang vu mà không bị tổn hại, chắc chắn đến chỗ xóm làng, thành thị hoặc kinh đô lớn an vui.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, vì thương xót các loài hữu tình trong biển khổ sanh tử, nên chánh niệm an trụ từ bi hỷ xả, hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa căn lành thù thắng, dùng phương tiện thiện xảo như Phật đã dạy, đem các công đức hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tuy tu không, vô tướng, vô nguyện đầy đủ nhưng đối với thật tế không có tâm tác chứng, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát này đầy đủ thế lực lớn, tinh tấn vững bền, hộ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa căn lành thù thắng, dùng phương tiện thiện xảo, thề chẳng buông bỏ tất cả hữu tình. Do đó nhất định có thể yên ổn không khó, nhanh chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Nếu khi Bồ-tát tâm từ thương tưởng tất cả hữu tình, vì các hữu tình muốn thí an vui. Khi ấy, Bồ-tát vượt loại phiền não, vượt loại ma và bậc Nhị thừa. Tuy trụ Tam-ma-địa nhưng không đến lậu tận. Tuy khéo tập Không nhưng không tác chứng.

Thiện Hiện nên biết: Nếu Bồ-tát khéo an trụ pháp môn giải thoát Không, thì khi ấy Bồ-tát cũng có thể an trụ nơi vô tướng định. Nhưng đối với phương tiện thiện xảo không chứng vô tướng. Do nhân duyên này vượt khỏi bậc Nhị thừa, quyết hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết: Như chim có đôi cánh mạnh mẽ, bay bổng trong hư không, bình thản bay liệng rất lâu mà không bị rơi xuống. Tuy nương hư không chơi đùa mà không ở hư không, cũng không bị hư không làm chướng ngại. Nên biết Bồ-tát cũng như vậy, tuy tu tập pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà không trụ không, vô tướng, vô nguyện. Cho đến pháp Phật chưa viên mãn cùng tận thì không bao giờ nương vào đó để vĩnh viễn chấm dứt các lậu.

Thiện Hiện nên biết: Như có kẻ cường tráng, giỏi thạo kỹ thuật bắn, muốn chứng tỏ tài mình, ngước bắn hư không. Vì muốn làm cho mũi tên trong hư không không rơi xuống đất, lại đem tên sau bắn nối đuôi tên trước. Bắn như vậy lần lượt trải qua thời gian khá lâu, mỗi mũi tên nối đuôi nhau không để cho rơi xuống đất. Nếu muốn làm cho mũi tên rơi thì dừng mũi tên sau, khi ấy các mũi tên mới rơi xuống nhanh.

Nên biết Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hộ trì phương tiện thiện xảo thù thắng, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì thực hành căn lành chưa được thành thục, nên không bao giờ giữa đường chứng thật tế. Nếu khi đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì thực hành căn lành tất cả đều thành thục, khi ấy Bồ-tát mới chứng thật tế, liền đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hộ trì phương tiện thiện xảo thù thắng, đều nên đối với pháp tánh sâu xa này quán sát thật đúng đắn, rõ ràng, nếu các pháp Phật chưa thật viên mãn thì không nên tác chứng.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thật vô cùng hi hữu, có thể làm những việc khó làm. Nghĩa là tuy hành Không nhưng không trụ Không, tuy hiện nhập Không định nhưng không chứng thật tế.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thề chẳng rời bỏ các loài hữu tình. Nghĩa là họ đã phát nguyện thù thắng vi diệu như vầy: Nếu các hữu tình chưa được giải thoát, ta không bao giờ xả bỏ sự gia hạnh căn lành.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này do phát khởi tâm rộng lớn như vậy, vì muốn giải thoát tất cả hữu tình, tuy phát tiếp tục ba pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện và Tam-ma-địa nhưng vì hộ trì phương tiện thiện xảo nên không chứng thật tế. Vì sao?

Vì các Bồ-tát này đã hộ trì phương tiện thiện xảo nên thường nghĩ thế này: Ta không bao giờ bỏ tất cả hữu tình mà hướng về viên tịch. Do phát khởi ý nghĩ phương tiện thiện xảo đó, nên trong khoảng thời gian này không chứng thật tế.

Này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát đối với chỗ sâu xa, hoặc đã quán sát, hoặc sẽ quán sát, nghĩa là chỗ sở hành của ba pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đẳng trì, các Bồ-tát này thường nghĩ: Hữu tình ngày đêm khởi tưởng hữu tình, hành có sở đắc, dẫn đến các nẻo tà ác kiến, luân hồi trong sanh tử, chịu khổ vô cùng. Ta vì đoạn tận nẻo tà ác kiến cho các hữu tình kia nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tìnhthuyết pháp Không sâu xa để chấm dứt sự chấp chặt kia, và ra khỏi khổ sanh tử. Thế nên tuy học pháp môn giải thoát Không mà trong thời gian đó không chứng thật tế.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này do khởi ý nghĩ phương tiện thiện xảo, tuy ở khoảng giữa không chứng thật tế nhưng không thối lui bốn định vô lượng. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên bạch pháp tăng bội phần, và các căn dần thông lợi, lực chi giác đạo dần dần tăng ích.

Này Thiện Hiện! Các Bồ-tát này thường nghĩ: Hữu tình ngày đêm thực hành trong các tướng, phát sanh các thứ cố chấp, do đó luân chuyển thọ khổ vô cùng. Ta vì chấm dứt các tướng chấp nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình thuyết pháp vô tướng, làm cho chấm dứt tướng chấp, ra khỏi khổ sanh tử. Do đó thường vào vô tướng đẳng trì.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này nhờ trước đã thành tựu phương tiện thiện xảo và phát sanh ý nghĩ: Mặc dù thường biểu hiện nhập vào đẳng trì vô tướng, nhưng ở trong thời gian đó không chứng thật tế. Tuy ở trong thời gian không chứng thật tế nhưng không thối lui từ bi hỷ xả và các định khác. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên bạch pháp tăng bội phần, các căn dần thông lợi, lực chi giác đạo dần dần tăng ích.

Này Thiện Hiện! Các Bồ-tát này thường nghĩ: Tâm hữu tình ngày đêm phát khởi, tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh, do đó dẫn đến sanh điên đảo chấp trước, luân hồi sanh tử, chịu khổ vô cùng. Ta vì chấm dứt bốn điên đảo đó, nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình nói pháp không điên đảo. Nghĩa là nói sanh tử, vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, chỉ có Niết-bàn vắng lặng nhiệm mầu, đầy đủ tất cả công đức chơn thật. Do vậy mà Bồ-tát thường nhập vô nguyện đẳng trì.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này do trước đã thành tựu phương tiện thiện xảo và phát sanh những ý nghĩ, tuy thường hiện nhập vô nguyện đẳng trì mà các pháp Phật chưa hoàn toàn viên mãn thì không bao giờ nơi trung gian chứng thật tế. Tuy nơi trung gian không chứng thật tế, nhưng không thối lui từ bi hỷ xả và các định khác. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đã được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì, nên bạch pháp tăng bội phần, các căn dần thông lợi, lực chi giác đạo dần dần tăng ích.

Này Thiện Hiện! Các Bồ-tát này thường nghĩ thế này: Hữu tình ngày đêm trước đã thực hành có sở đắc, nay cũng hành có sở đắc. Trước đã hành hữu tướng, nay cũng hành hữu tướng. Trước đã hành điên đảo, nay cũng hành điên đảo. Trước đã hành tưởng hòa hợp, nay cũng hành tưởng hòa hợp. Trước đã hành tưởng hư vọng, nay cũng hành tưởng hư vọng. Trước đã hành tà kiến, nay cũng hành tà kiến. Do đó trôi lăn chịu khổ vô cùng. Ta vì chấm dứt những tội lỗi đó nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình thuyết pháp sâu xa, làm cho những tội lỗi đó đều vĩnh viễn chấm dứt, không trôi lăn trở lại chịu khổ trong đường sanh tử, nhanh chóng chứng thường lạc, chơn tịnh Niết-bàn.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này do lòng thương tưởng sâu xa tất cả hữu tình, nên nhiếp thọ thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường ưa quán sát nơi pháp tánh sâu xa. Đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô khởi, vô tận, vô tánh, thật tế.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này thành tựu tri kiến thù thắng như vậy, nếu còn rơi vào pháp vô tướng, vô tác, hoặc ở nơi ba cõi, những điều này không thể xảy ra.

Thiện Hiện nên biết: Các Bồ-tát này thành tựu công đức thù thắng, buông bỏ các hữu tình để hướng đến viên tịch, không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích cho hữu tình, chắc chắn việc này không thể xảy ra.

Quyển thứ 550
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.