Tập 23 (Quyển 551-562)

09/05/201012:00 SA(Xem: 26649)
Tập 23 (Quyển 551-562)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 23 (Quyển 551-562)

 02

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nên thưa hỏi kỹ các Bồ-tát khác: “Bồ-tát làm thế nào để tu tập tất cả pháp Bồ-đề phần? Phát khởi tâm nào để làm cho Bồ-tát tu tập không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô khởi, vô tận, vô tánh, thật tế mà chẳng chứng đắc, nhưng vẫn tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?”

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát khác, khi được hỏi như vậy, mà trả lời: Các Đại Bồ-tát chỉ nên tư duy về Không, hoặc vô tướng, cho đến Niết-bàn, chứ chẳng chỉ dạy cần phải ghi nhớ, không từ bỏ tất cả hữu tình, cứu độ bằng phương tiện quyền xảo thù thắng, thì nên biết Bồ-tát đó chưa từng được chư Phật thọ ký về Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát đó chưa thể chỉ dạy, phân biệt rõ ràng về địa vị Bất thối chuyểnpháp tướng bất cộng của các chúng Bồ-tát. Vì chẳng biết rõ ràng người ta thưa hỏi về các hành, trạng, tướng của địa vị Bất thối chuyển, và cũng chẳng thể trả lời được.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Vả lại có nhân duyên biết được đó là các Bồ-tát Bất thối chuyển không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Cũng có nhân duyên để biết các Bồ-tát đó là Bất thối chuyển. Nghĩa là có Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc nghe hay chẳng nghe, cũng có thể trả lời đúng những điều người ta thưa hỏi trước đây, và có thể thực hành đúng các hạnh của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển. Do nhân duyên này biết Bồ-tát đó là Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì có nhiều Bồ-tát cầu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà lại ít có vị có thể trả lời đúng được?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tuy có nhiều Bồ-tát cầu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng ít có Bồ-tát được thọ ký đắc trí tuệ vi diệuđịa vị Bất thối chuyển. Nếu có vị nào được thọ ký như đây thì vị ấy có thể trả lời đúng.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này căn lành trong sáng, trí tuệ rộng sâu, thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… không thể phá hoại được, nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát cho đến trong giấc mộng cũng chẳng ưa thích các pháp trong ba cõi, cũng chẳng khen ngợi tất cả pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác. Tuy quán các pháp như những gì thấy trong giấc mộng nhưng đối với Niết-bàn không thủ, không chứng, thì nên biết đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ngồi tòa Sư tửthuyết pháp cho vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức chúng Bí-sô đang cung kính vây quanh, hoặc thấy tự thân có việc như vậy thì nên biết đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, có hào quang chiếu sáng rực rỡ bao chung quanh xa một tầm, cùng vô lượng chúng phóng lên giữa hư không, thị hiện các đại thần thông để giảng thuyết chánh pháp và hóa ra các vị hóa sĩ, bảo đi đến vô biên cõi Phật ở phương khác để thi hành các Phật sự, hoặc thấy tự thân có việc như vậy thì nên biết đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc các Bồ-tát trong giấc mộng thấy kẻ giặc dữ phá hoại thành ấp, hoặc thấy lửa cháy bùng lên thiêu đốt xóm làng, hoặc thấy sư tử, cọp, sói, thú dữ, rắn độc, bò cạp… muốn đến hại thân, hoặc thấy oan gia muốn chém đầu mình, hoặc thấy cha mẹ, vợ con, thân tộc sắp chết, hoặc thấy chính mình có các việc khổ sắp ép ngặt. Tuy thấy nhiều việc khủng bố đáng sợ như vậy, nhưng không kinh hãi, cũng không lo buồn. Từ giấc mộng thức dậy liền tư duy ba cõi chẳng chơn thật, tất cả đều như chiêm bao. Khi ta đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sẽ thuyết pháp cho các hữu tình biết: ba cõi đều hư vọng, như chiêm bao, thì nên biết đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc các Bồ-tát cho đến trong giấc mộng thấy có các loại hữu tìnhcảnh giới địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, liền nghĩ: Ta phải siêng năng tu tập các hạnh của Đại Bồ-tát để mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ở trong quốc độ của ta không có tên của những cảnh giới như địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Từ giấc mộng thức dậy cũng nghĩ như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này ngay khi thành Phật, quốc độ của các Ngài thanh tịnh, quyết định không có nẻo ác và tên của nẻo ác. Nên biết, đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy lửa thiêu đốt các loài hữu tình trong địa ngục v.v… hoặc lại thấy thiêu đốt xóm làng, thành ấp, liền phát thệ nguyện: Nếu ta đã được thọ ký Bất thối chuyển, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nguyện lửa dữ này lập tức tắt ngay và biến thành mát mẻ. Nếu Bồ-tát này phát nguyện như vậy xong, trong giấc mộng thấy lửa ấy liền tắt, thì nên biết đây là Bồ-tát đã được thọ ký thành Bất thối chuyển. Nếu Bồ-tát này phát nguyện như vậy xong, mà trong giấc mộng thấy lửa không tắt ngay thì nên biết đây là Bồ-tát chưa được thọ ký thành Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi thức dậy, ngay khi đó thấy lửa dữ cháy bùng lên thiêu đốt các thành ấp, hoặc thiêu đốt xóm làng, liền nghĩ: Ta trong giấc mộng và ngay khi thức dậy, từng thấy tự thân có tướng các hành trạng của địa vị Bất thối chuyển nhưng chưa rõ thật hư, nếu điều ta thấy là thật có, thì nguyện lửa dữ này lập tức tắt ngay và biến thành mát mẻ.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Bồ-tát này phát thệ nguyện nói lời chân thật như vậy, bấy giờ lửa dữ lập tức tắt ngay, thì nên biết đây là Bồ-tát đã được thọ ký Bất thối chuyển. Còn nếu Bồ-tát này phát thệ nguyện nói lời chân thật như vậy mà lửa chẳng tắt ngay thì nên biết đó là Bồ-tát chưa được thọ ký thành Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi thức dậy thấy lửa đốt cháy các thành ấp, hoặc đốt cháy xóm làng, liền nghĩ: Ta trong giấc mộng, hoặc ngay khi thức giấc từng thấy mình có tướng các hành trạng của địa vị Bất thối chuyển. Nếu những điều ta thấy đó chắc chắn là thật có, thì nhất định ta sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện lửa lớn này lập tức tắt ngay và biến thành mát mẻ.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này phát thệ nguyện chân thật như vậy xong, bấy giờ lửa dữ không tắt ngay, còn đốt cháy từ nhà này lan qua nhà khác, từ làng này lan qua làng khác, lần lượt như vậy, lửa đó mới tắt, thì nên biết các Bồ-tát này chắc chắn đã được thọ ký Bất thối chuyển, nhưng bị đốt cháy là do các hữu tình đó tạo nghiệp phá hoại chánh pháp tăng trưởng. Hữu tình đó do nghiệp này, trước hết bị đọa nẻo ác, trong vô lượng kiếp chịu quả khổ nặng, nay được sanh trong loài người tiếp tục chịu dư báo tai ương kia, hoặc do nghiệp này sẽ đọa nẻo ác, trải qua vô lượng kiếp chịu quả khổ nặng, nay ở loài người chịu chút tai họa còn thừa ở đời trước. Nên biết, đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Lại có tướng các hành trạng khác biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, Ta sẽ chỉ dạy, phân biệt rõ cho ông, ông nên lắng nghe và suy nghĩ kỹ.

Thiện Hiện thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy, chúng con rất muốn thích được nghe.

Phật bảo Thiện Hiện!

- Nếu các Bồ-tát thấy có nam tử, nữ nhơn, hoặc có đồng nam đồng nữ đang bị phi nhơn làm mê hoặc, chịu các khổ não chẳng thể xa lìa, liền nghĩ: Nếu các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ta đã được ý muốn thanh tịnh, thì thọ ký cho ta không thối lui nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu ta từ lâu phát ý muốn thanh tịnh cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì xa lìa ý nghĩ thành Thanh văn, Độc giác, chẳng đem ý nghĩ Thanh văn, Độc giác cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu ta đời sau chắc chắn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì luôn làm lợi ích an vui cho tất cả loài hữu tình cùng tận đời vị lai. Nếu các cõi trong mười phương hiện tại thật có vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác thuyết giáo pháp chơn chánh lợi ích hữu tình, các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác kia thấy biết tất cả, hiểu rõchứng đắc tất cả, với tri kiến hiện có, các Ngài biết ý muốn sai biệt của tất cả hữu tình thì nguyện xin các Ngài dủ lòng từ bi chiếu soi những điều con đã nghĩ và chân thật chí thành thưa: “Nếu con chính thật có thể tu hạnh Bồ-tát, chắc chắn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp dứt trừ hẳn khổ sanh tử cho hữu tình thì nguyện nam tử, nữ nhơn này, hoặc đồng nam, đồng nữ này, không bị phi nhơn làm rối loạn, và phi nhơn vâng theo lời con nói, lập tức bỏ đi.” Các Bồ-tát này khi nói lời như vậy, nếu phi nhơn kia không đi thì nên biết đó là Bồ-tát chưa được thọ ký thành Bất thối chuyển. Nếu phi nhơn ngay khi đó bỏ đi thì nên biết đó là Bồ-tát đã được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát chưa tu hành đầy đủ tất cả Phật pháp, chưa nhập vào chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, chưa khỏi bị ác ma làm rối loạn, đối với các việc của ma chưa có thể biết rõ, chưa được thọ ký không thối lui Bồ-đề, chẳng thể tự xét biết căn lành nhiều ít, dày mỏng, đối với sự mới tu hành được chút ít đã phát sanh tăng thượng mạn, học theo các Bồ-tát phát lời thệ nguyện chơn thật chí thành, liền bị ác ma lừa gạt. Nghĩa là Bồ-tát kia thấy có nam tử, nữ nhơn, hoặc có đồng nam, đồng nữ đang bị phi nhơn làm mê hoặc, chịu các khổ não chẳng thể xa lìa được, liền khinh xuất phát lời thệ nguyện chơn thật chí thành: “Nếu ta đã được chư Phật quá khứ thọ ký đắc Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, khiến cho nam tử, nữ nhơn v.v… này không bị phi nhơn làm rối loạn. Phi nhơn kia vâng theo lời của ta, sẽ nhanh chóng bỏ đi.” Các Bồ-tát này nói như vậy xong, khi ấy ác ma vì dối gạt vị này liền xua đuổi, hối thúc, làm cho phi nhơn bỏ đi. Vì sao? Vì oai lực của ác ma mạnh hơn phi nhơn kia, nên phi nhơn vâng lời ma chỉ dạy, lập tức bỏ đi.

Khi Bồ-tát kia thấy những việc như vậy vui mừng hớn hở, nghĩ: Làm cho phi nhơn bỏ đi là nhờ oai lực của ta. Vì sao? Vì phi nhơn kia vâng theo lời thệ nguyện của ta, lập tức buông thả những nam tử, nữ nhơn này, chứ không do nguyên nhân nào khác.

Các Bồ-tát này chẳng thể biết rõ được đó là việc làm của ma nên bảo đây là do năng lực của mình, sanh vui mừng một cách sai lầm, dựa vào đây khinh chê các Bồ-tát khác, nói: “Ta đã được chư Phật quá khứ thọ ký đắc Bất thối chuyển Vô thượng Bồ-đề, lời thệ nguyện đã phát đều đầy đủ. Các ngươi chưa được chư Phật thọ ký, chẳng nên bắt chước mà phát lời thệ nguyện. Dầu cho có đặt kỳ hạn cũng hoàn toàn không có kết quả.”

Các Bồ-tát này chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác, ỷ vào một chút khả năng sai lầm, đối với các công đức sanh thêm nhiều thứ tăng thượng mạn nên xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Các Bồ-tát này do không có năng lực phương tiện thiện xảo nên sanh trưởng nhiều loại tăng thượng mạn, chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác, nên tuy siêng năng tinh tấn mà vẫn rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác.

Các Bồ-tát này phước đức mỏng nên đối với thiện nghiệp đã làm và phát lời thệ nguyện đều là hành động theo việc của ma.

Các Bồ-tát này chẳng thể gần gũi cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen các bậc thiện tri thức chơn chánh, chẳng thể thưa hỏi về hành tướng của Bồ-tát đắc Bất thối chuyển, và cũng không thể thưa hỏi và tiếp thu về sự nghiệp mà quân ác ma đã làm. Do đây bị ma trói buộc càng thêm bền chắc. Vì sao? Vì các Bồ-tát này chẳng tu hành lâu xa sáu pháp đến bờ kia, xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên bị ác ma lừa gạt. Vì vậy, Bồ-tát nên biết rõ hoàn toàn về việc khuyên tu thiện nghiệp của các ác ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát chưa tu hành lâu xa sáu pháp đến bờ kia, xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên bị ma lừa gạt. Nghĩa là có ác ma vì muốn lừa gạt nên phương tiện hóa làm các thứ hình tượng, đi đến chỗ Bồ-tát, nói thế này:

“Thiện nam tử ơi! Bạn có biết không? Chư Phật quá khứ đã từng thọ ký cho bạn thành đại Bồ-đề, bạn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quyết định sẽ đắc, chẳng còn thối lui. Tên tuổi sai khác trong bảy đời của bạn, cho đến cha mẹ, anh em, chị em, bạn bè, dòng họ, ta đều biết hết. Bạn sanh ở phương đó, nước đó, thành đó, ấp đó, trong xóm làng đó. Bạn sanh năm đó, tháng đó, ngày đó, giờ đó, sanh vào ngôi sao của Thiên Vương đó.”

Như vậy, nếu ác ma thấy Bồ-tát bẩm tánh yếu đuối, các căn ám độn, liền dối trá thọ ký:

“Bạn nơi đời trước bẩm thọ căn tánh đã từng như vậy.”

Nếu thấy Bồ-tát bẩm tánh kiên cường, các căn sáng suốt, lanh lợi, liền dối trá thọ ký:

“Bạn nơi đời trước bẩm thọ căn tánh cũng từng như vậy.”

Nếu thấy Bồ-tát ở A-lan-nhã hoặc thường khất thực, hoặc thọ ăn một bữa, hoặc khi ăn chỉ ngồi một lần, hoặc chỉ ăn một bát, hoặc ở nơi gò mã, hoặc ở chỗ đất trống, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc mặc y phấn tảo, hoặc chỉ ba y, hoặc thường ngồi không nằm, hoặc dùng phu cụ cũ, hoặc ít muốn, hoặc vui đủ, hoặc ưa viễn ly, hoặc ưa thiền định vắng lặng, hoặc đầy đủ chánh niệm, hoặc đầy đủ diệu tuệ, hoặc không trọng lợi dưỡng, hoặc chẳng quý danh tiếng, hoặc ưa cần kiệm, khiêm tốn, chân không xoa dầu, hoặc ít ngủ nghỉ, hoặc lìa trạo cử, thích nói ít, ưa nói lời nhẹ nhàng … Ác ma thấy Bồ-tát này với những hạnh như vậy rồi, liền dối trá thọ ký:

“Bạn nơi đời trước cũng đã từng như vậy. Vì sao? Vì bạn đang thành tựu như vậy. Như vậy, với công đức thù thắngthế gian đều thấy, thì biết rằng đời trước bạn chắc chắn cũng đã có những công đức thù thắng như vậy. Bạn nên tự vui mừng, chớ nên tự khinh.”

Bấy giờ, các Bồ-tát kia nghe ác ma nói về công đức quá khứ, vị lai và nói về công đức dòng họ, bạn bè, bản thân, tên tuổi v.v… hiện tại, cùng khen ngợi vô số thiện căn thù thắng của mình, vui mừng hớn hở, sanh tăng thượng mạn, chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác.

Bấy giờ ác ma biết vị đó ngu độn, tối tăm sanh tăng thượng mạn khinh miệt các Bồ-tát khác, lại bảo với vị đó:

“Bạn nhất định thành tựu công đức thù thắng. Các đức Như Lai quá khứ đã thọ ký cho bạn, bạn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quyết định sẽ chứng đắc, không còn thối lui vì đã có tướng điềm lành trong hiện tại hiện ra như vậy.

Bấy giờ ác ma vì làm rối loạn nên dối gạt hóa hiện những hình tướng: hình tướng người xuất gia, hoặc hình tướng người tại gia, hoặc cha mẹ, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc, bạn bè thân hữu, Phạm chí, Sư chủ, Thiên long, Dược-xoa, nhơn phi nhơn v.v… đi đến chỗ Bồ-tát nói như vầy:

“Các đức Như Lai quá khứ từ lâu đã thọ ký cho bạn thành đại Bồ-đề. Bạn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quyết định sẽ chứng đắc không còn thối lui. Vì sao? Vì các hành tướng của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, bạn đều có đủ nên tự tôn trọng, chớ sanh nghi ngờ.”

Khi Bồ-tát này nghe những lời của ác ma xong, lòng tăng thượng mạn lại càng vững chắc thêm.

Thiện Hiện nên biết! Như Ta đã nói, tướng các hành trạng của bậc Bất thối chuyển, các Bồ-tát này thật tình chưa có.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này bị ma nắm giữ, bị ma làm rối loạn, chẳng được tự tại. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đối với tướng các hành trạng của bậc Bất thối chuyển thật tình đều chưa có, chỉ nghe ác ma dối trá nói về công đứctên tuổi v.v… sanh tăng thượng mạn, chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên biết rõ về các việc làm của ác ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát bị ma khống chế, bị ma mê hoặc, chỉ nghe danh tự, sanh chấp trước sai lầm. Vì sao? Vì các Bồ-tát này chưa tu hành đầy đủ sáu pháp đến bơ kia và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, do nhân duyên này nên làm cho ma được dễ dàng. Các Bồ-tát này không thể biết rõ năm thủ uẩn v.v… và vô lượng pháp môn khác. Cũng chẳng biết rõ thật tướng các pháp danh tự hữu tình, do nguyên nhân này làm cho ma được dễ dàng phương tiện hóa làm vô số hình tượng bảo Bồ-tát:

“Hạnh nguyện tu hành của bạn đã viên mãn, sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, khi bạn thành Phật sẽ đạt công đức danh hiệu như vậy.”

Nghĩa là ác ma kia biết Bồ-tát này luôn luôn suy nghĩ, ước nguyện: Khi ta thành Phật sẽ được công đức danh hiệu như vậy. Theo sự ước nguyệnthọ ký cho Bồ-tát đó.

Khi Bồ-tát này xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, nghe ma thọ ký nên suy nghĩ: Lạ thay! Người này thọ ký cho ta sẽ thành Phật với công đức danh hiệu cùng tương ứng với ước nguyện từ lâu của ta. Do đây nên biết, chư Phật quá khứ chắc chắn đã thọ ký cho ta thành đại Bồ-đề. Ta đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quyết định sẽ đạt được, không còn thối lui. Khi ta thành Phật nhất định sẽ được công đứcdanh hiệu tôn quý như vậy.

Các Bồ-tát này như vậy, ác ma hoặc quyến thuộc của ma, hoặc các Sa-môn v.v… bị ma khống chế, thọ ký đời sau sẽ thành Phật với danh hiệu như vậy, như vậy … thì kiêu mạn càng tăng, nghĩ: Ta đời vị lai chắc chắn sẽ thành Phật, đạt được công đức danh hiệu như vậy. Các Bồ-tát khác không thể bằng ta.

Thiện Hiện nên biết! Như Ta đã nói, các tướng hành trạngđịa vị Bất thối chuyển, các Bồ-tát này đều chưa thành tựu, chỉ nghe ma nói thành Phật với danh hiệu hư dối liền sanh kiêu mạn, khinh miệt, chê bai các Bồ-tát khác. Do đó mà các Bồ-tát này xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các Bồ-tát này xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, lìa bỏ bạn lành, bị bạn ác khống chế nên phải rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác .

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này nếu có thân này, lại được chánh niệm, chí thành sám hối lỗi lầm, lìa bỏ tâm kiêu mạn, gần gũi cúng dường thiện hữu chơn tịnh thì người đó dù luân hồi trong sanh tử nhiều đời, nhưng cuối cùng lại nương theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lần lượt tu học sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này nếu có thân này mà chẳng đắc chánh niệm, chẳng thể sám hối lỗi lầm, chẳng lìa bỏ tâm kiêu mạn, chẳng ưa nương gần bạn lành chơn tịnh thì những Bồ-tát đó nhất định luân hồi trong sanh tử nhiều đời, sau dù có tinh tấn tu tập các thiện nghiệp nhưng vẫn rơi vào điạ vị Thanh văn hoặc Độc giác. Ví như Bí-sô cầu quả Thanh văn, đối với bốn tội trọng, nếu phạm một tội nào thì liền chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải là đệ tử của đức Thích-ca. Người đó ngay hiện tại nhất định chẳng thể đắc quả Dự lưu v.v… vọng chấp hư danh Bồ-tát cũng như vậy, chỉ nghe ma nói thành Phật với danh suông liền sanh tâm kiêu mạn, khinh miệt, chê bai các chúng Bồ-tát khác. Nên biết, tội này nặng hơn tội Bí-sô hủy phạm bốn tội trọng gấp vô số lần.

Để việc Bí-sô phạm bốn tội trọng qua một bên, tội của Bồ-tát này hơn tội ngũ vô gián cũng gấp vô lượng lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thật sự chẳng có các công đức thù thắng, nghe ác ma nói về việc thành Phậtdanh tự hư thối, liền kiêu mạn, khinh chê các Bồ-tát khác. Do đó nên tội này hơn tội ngũ vô gián gấp vô lượng lần. Do đây nên biết, nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên biết rõ về sự thọ ký với danh hiệu hư dối, là việc làm vi tế của ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát tu hạnh viễn ly, nghĩa là ẩn nơi núi rừng đầm trống, đồng hoang vu, ở A-lan-nhã, ngồi yên tịnh tư duy. Bấy giờ ác ma đi đến chỗ Bồ-tát đó cung kính khen ngợi công đức viễn ly, nói thế này:

“Lành thay Đại sĩ! Thường tu hạnh chơn thật viễn ly như vậy. Hạnh viễn ly này tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều khen ngợi trời Đế Thích v.v… và các chư Thiên, thần tiên cùng nhau bảo vệ cúng dường, tôn trọng nên thường ở nơi đây, chớ đi nơi khác.”

Thiện Hiện nên biết! Ta không khen ngợi các chúng Bồ-tát thường ưa thích tịch tịnh, ở A-lan-nhã, hoặc ở núi rừng đầm trống, đồng hoang vu, ngồi yên tịnh tư duy, tu hạnh viễn ly.

Khi ấy Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các chúng Bồ-tát nên tu tập những hạnh chân thật viễn ly như thế nào mà Phật Thế Tôn nay dạy: Ta chẳng khen ngợi các chúng Bồ-tát thường ưa thích tịch tịnh ở A-lan-nhã, núi rừng đồng trống, ngồi yên tịnh tư duy tu hạnh viễn ly.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát hoặc ở chỗ núi rừng đầm trống, đồng hoang vu, chỗ vắng vẻ, hoặc ở thành ấp, xóm làng, phố thị, chỗ huyên náo tạp loạn nhưng luôn xa lìa phiền não ác nghiệp và các ý nghĩ của Thanh văn, Độc giác, thực hành sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa, phương tiện quyền xảo và tu các công đức thù thắng khác thì đây gọi là Bồ-tát hành hạnh chơn thật viễn ly. Hạnh viễn ly này, tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng khen ngợi, chư Phật Thế Tôn đều cho phép, các chúng Bồ-tát thường nên tu học. Dù ngày hay đêm phải chánh tư duy, tinh tấn tu hành pháp viễn ly này. Đây gọi là Bồ-tát tu hạnh viễn ly, hạnh viễn ly này không xen lẫn ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, không xen lẫn tất cả phiền não ác nghiệp, xa lìa các sự huyên náo tạp loạn, hoàn toàn thanh tịnh, làm cho các Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể cứu độ các hữu tình cùng tận đời vị lai.

Thiện Hiện nên biết! Người ở ẩn chốn núi rừng đầm trống, đồng hoang vu, bỏ đồ nằm tốt, ngồi yên tịnh tư duy mà được ma khen ngợi thì chẳng phải hạnh chơn thật viễn ly của các Bồ-tát. Vì sao? Vì hạnh viễn ly đó còn có huyên náo tạp loạn, nghĩa là Bồ-tát hoặc xen lẫn phiền não ác nghiệp, hoặc xen lẫn ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo không thể tinh tấn lãnh thọ tu học, nên không thể viên mãn trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Có các Bồ-tát mặc dầu ưa tu hành pháp hạnh viễn ly, được ma khen ngợi, nhưng sanh kiêu mạn, tâm chẳng thanh tịnh, chê bai khinh miệt các chúng Đại Bồ-tát khác, nghĩa là có chúng Đại Bồ-tát tuy ở thành ấp, xóm làng, phố thị nhưng tâm thanh tịnh, không xen lẫn các thứ phiền não ác nghiệp và các ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, tinh tấn tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng pháp Bồ-đề phần khác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tuy ở chỗ ồn ào náo nhiệt mà tâm vẫn vắng lặng, thường ưa thích tu tập hạnh chơn thật viễn ly. Bồ-tát đó đối với chúng Đại Bồ-tát chơn tịnh như đây, tâm sanh kiêu mạn, khinh miệt, chê bai, hủy báng, lăng nhục.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này vì xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên mặc dầuđồng không mông quạnh, cách trăm do-tuần, trong đó tuyệt nhiên không có các loài cầm thú, rắn rít, bọ cạp độc hại và giặc cướp hung ác, chỉ có quỉ thần, La-sát-bà v.v… qua lại trong đó. Người kia ở chỗ vắng vẻ như vậy, dầu trải qua một năm, năm năm, mười năm cho đến trăm ngàn vạn ức hoặc hơn số này để tu hạnh viễn ly nhưng chẳng biết rõ hạnh viễn ly chơn thật. Nghĩa là các Bồ-tát tuy ở chỗ ồn ào náo động mà tâm vắng lặng, xa lìa các thứ phiền não ác nghiệp và các ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, phát tâm hướng thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này tuy ở chốn đồng không mông quạnh trải qua thời gian lâu dài nhưng bị xen lẫn ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, nên đối với hai địa vị kia sanh đắm trước, nương vào pháp hai địa vị kia tu hạnh viễn ly, lại đắm nhiễm vào hạnh này. Bồ-tát đó tuy tu hạnh viễn ly như vậy nhưng chẳng được gọi là thuận với tâm của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Hạnh viễn ly chơn thật của các chúng Bồ-tát mà được ta khen ngợi, các Bồ-tát này đều chẳng thành tựu, thì họ đối với hạnh viễn ly chơn thật cũng không thấy có hành tướng giống nhau. Vì sao? Vì Bồ-tát này đối với hạnh viễn ly chơn thật này chẳng thích, chỉ ưa siêng tu hạnh viễn ly suông của Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này khi tu hạnh không viễn ly chơn thật, ma đến giữa không trung vui mừng khen ngợi, bảo:

“Lành thay! Lành thay Đại sĩ! Ngài siêng tu hạnh viễn ly chơn thật. Hạnh viễn ly này được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khen ngợi, ngài đối với hạnh này nên siêng năng tu học sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.”

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này chấp trước vào sự tu hành pháp viễn ly của Nhị thừa như vậy cho là hơn hết, nên khinh chê, miệt thị vị trụ Bồ-tát thừa tuy ở chỗ ồn náo mà tâm vắng lặng, thành tựu thiện pháp.

Các Bí-sô thưa:

- Bồ-tát kia chẳng thể tu hạnh viễn ly, thân ở chỗ ồn náo, tâm không tịch tịnh, không tùy thuận theo thiện pháp.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối với các Đại Bồ-tát hành hạnh viễn ly chơn thật mà được Phật đã khen ngợi thì lại khinh chê miệt thị, bảo là ở chỗ ồn náo, tâm chẳng vắng lặng, không thể siêng năng tu hạnh viễn ly chơn thật. Còn đối với các Đại Bồ-tát thực hành theo hạnh ồn tạp chơn thật, các đức Như Lai không khen ngợi thì lại tôn trọng, khen ngợi, bảo: Tâm người đó vắng lặng, không ồn náo, có thể tu hành đúng đắn hạnh viễn ly chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối với bậc nên gần gũi cung kính, cúng dường như đấng Thế Tôn, nhưng chẳng gần gũi cung kính, cúng dường, trái lại càng khinh chê miệt thị; còn đối với hạng phải nên xa lìa, chẳng nên gần gũi cung kính, cúng dường, như bạn ác, thì lại gần gũi cung kính, cúng dường như phụng thờ đấng Thế Tôn.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát sanh vô số phân biệt chấp trước sai lầm. Vì sao? Vì Bồ-tát kia nghĩ: Sự tu học của ta là viễn ly chơn thật nên được phi nhơn khen ngợi, ủng hộ. Còn kẻ ở thành ấp thân tâm rối loạn, ai mà hộ niệm, khen ngợi, kính trọng. Các Bồ-tát này do nhân duyên này, tâm nhiều kiêu mạn, khinh chê miệt thị các Bồ-tát khác, phiền não ác nghiệp ngày càng tăng thêm mãi.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối các Bồ-tát khác là bọn Chiên-đồ-la làm ô uế chúng Đại Bồ-tát. Mặc dầu hình tướng giống như Đại Bồ-tát nhưng là kẻ giặc lớn trên trời, trong loài người; dối gạt trời, người, A-tố-lạc v.v… Thân tuy mặc pháp y của Sa-môn nhưng tâm thường ôm ấp ý ưa như kẻ giặc. Những bậc phát tâm tới Bồ-tát thừa thì chẳng nên gần gũi, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi kẻ ác như thế. Vì sao? Vì bọn người này ôm lòng tăng thượng mạn, bề ngoài thì giống Bồ-tát nhưng bên trong lại nhiều phiền não.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chơn thật không bỏ trí nhất thiết trí, không bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hết lòng thích cầu trí nhất thiết trí, muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho khắp tất cả các loài hữu tình thì chẳng nên gần gũi, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi người ác như thế.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát này thường nên tinh tấn tu tập sự nghiệp để cho mình nhàm chán sanh tử, chẳng đắm ba cõi, đối với hạng người Chiên-đồ-la và ác tặc kia thường nên phát tâm từ bi hỷ xả. Nên nghĩ: Ta chẳng nên phát khởi tội lỗi như kẻ ác kia, giả sử lúc phải thất niệm, tạm khởi lên như họ, liền nên tỉnh giác làm cho mau trừ diệt.

Vậy nên Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát này muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải tỉnh giác hoàn toàn về việc của các ác ma, nên siêng năng tinh tấn xa lìa, trừ diệt tội lỗi như Bồ-tát đã tạo, siêng năng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Người học như vậy, chính đó là Bồ-tát với phương tiện thiện xảo, như thật tỉnh giác về các việc của ác ma.

 
XXII. PHẨM THIỆN HỮU

01

Bấy giờ đức Thế Tôn lại bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát hết lòng muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường nên gần gũi, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi bạn lành chơn tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Những bậc nào gọi là bạn lành chơn tịnh của các Đại Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là bạn lành chơn tịnh của các chúng Đại Bồ-tát. Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển cũng là bạn lành chơn tịnh của các chúng Đại Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát khác cùng các Thanh văn và thiện sĩ khác thường vì Bồ-tát giảng thuyết, chỉ dạy pháp môn tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khuyên răn, dạy bảo các chúng Bồ-tát, làm cho gieo trồng căn lành, tu hạnh Bồ-tát mau được viên mãn, thì cũng là bạn lành chơn tịnh của chúng Đại Bồ-tát. Kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng là bạn lành chơn tịnh của chúng Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên biết đó cũng là bạn lành chơn tịnh của các chúng Đại Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Như vậy, sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là thầy của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là bậc dẫn đường của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là ánh sáng của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là sự chiếu soi của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là nhà cửa của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là sự hộ trì của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là sự quy y của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là sự hướng đến của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là hòn đảo của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là cha lành của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là mẹ hiền của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa thường làm cho chúng Đại Bồ-tát đắc được trí vi diệu, sanh giác ngộ chơn thật, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả chúng Đại Bồ-tát đều nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa mà tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa viên mãn hoàn toàn.

Thiện Hiện nên biết! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácquá khứ đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã Bát Niết-bàn. Phật Thế Tôn kia đều nương vào sáu pháp Ba-la-mật-đa mà sanh trí nhất thiết. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvị lai sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sẽ Bát Niết-bàn. Phật Thế Tôn kia cũng nương vào sáu pháp Ba-la-mật-đa mà sanh trí nhất thiết. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại trong mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới hiện đang chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hiện đang vì các hữu tình giảng thuyết chánh pháp. Phật Thế Tôn kia cũng nương sáu pháp Ba-la-mật-đa mà sanh trí nhất thiết. Nay Ta, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hiện đang tuyên thuyết chánh pháp cho các hữu tình cũng nương sáu pháp Ba-la-mật-đa mà sanh trí nhất thiết. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa này có thể bao gồm khắp tất cả ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, hoặc bốn phạm trụ, hoặc bốn nhiếp sự, hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp khác, hoặc trí chư Phật, hoặc trí tự nhiên, trí bất tư nghì, trí không đối địch, trí nhất thiết trí, tất cả đều bao gồm ở trong sáu pháp Ba-la-mật-đa này. Thế nên, Ta nói sáu pháp Ba-la-mật-đa này là bạn lành chơn tịnh của các chúng Đại Bồ-tát, là thầy chỉ dạy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là chiếu soi, là nhà cửa, là hộ trì, là nơi quy y, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cha lành, là mẹ hiền cho các chúng Đại Bồ-tát, luôn làm cho chúng Đại Bồ-tát đắc trí tuệ vi diệu, sanh giác ngộ như thật, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm bạn bè chẳng mong đền trả của các hữu tình.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên học sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn học sáu pháp Ba-la-mật-đa nên đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, quán sát nghĩa lý, cầu xin xác quyết sự nghi ngờ. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này thường cùng sáu pháp Ba-la-mật-đa là tôn trưởng, là đạo sư, là chỉ dạy, là hoán chuyển, là mẹ sanh đẻ nuôi dạy. Vì sao? Vì nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không có năm Ba-la-mật-đa trước. Tuy có bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, nhưng không được gọi là đến bờ kia.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn được hạnh chẳng theo người khác chỉ dạy, muốn trụ bậc chẳng theo người khác chỉ dạy, muốn dứt nghi cho tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện cho tất cả hữu tình, muốn nghiêm tịnh cõi Phật, muốn thành thục hữu tình thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này rộng nói về pháp cần nên học của chúng Đại Bồ-tát, tất cả chúng Đại Bồ-tát đối với kinh ấy đều nên siêng năng tu học. Nếu siêng năng tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, luôn làm lợi ích an vui cho chúng sanh cùng tận đời vị lai.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy gì làm tướng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy không dính mắc làm tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu như có nhân duyên về tướng không dính mắc Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì các pháp có thể nói khác cũng có tướng không dính mắc sao?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Có nhân duyên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xatướng không dính mắc. Tất cả các pháp khác mà có thể nói thì cũng có tướng không dính mắc này. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, là Không viễn ly.

Thế nên, này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do tướng không dính mắc, là Không viễn ly. Tất cả các pháp khác do tướng không dính mắc cũng Không viễn ly.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều Không viễn ly thì làm sao hữu tình có thể tạo ra có nhiễm có tịnh?

Kính bạch Thế Tôn! Chẳng phải pháp Không viễn ly, có thể nói có nhiễm có tịnh.

Kính bạch Thế Tôn! Chẳng phải Không viễn ly, có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chẳng phải xa lìa Không viễn ly mà có pháp khác có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Làm thế nào cho con hiểu về nghĩa thú thậm thâm của Phật đã dạy?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Hữu tình từ lâu có tâm ngã, ngã sởchấp ngã, ngã sở không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện thệ! Đúng vậy! Hữu tình từ lâu có tâm ngã, ngã sởchấp trước ngã, ngã sở.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Sự chấp trước về ngã và ngã sở của hữu tình Không viễn ly, phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện thệ! Đúng vậy! Hữu tình chấp ngãngã sở đều Không viễn ly.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Có phải chăng hữu tình do chấp ngã, ngã sở nên luân hồi sanh tử phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện thệ! Đúng vậy! Các loài hữu tình do vì chấp ngã, ngã sở nên luân hồi sanh tử.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hữu tình luân hồi sanh tử như vậy, nên tạo ra có tạp nhiễmthanh tịnh. Do các hữu tình chấp trước sai lầm về ngã và ngã sở nói có tạp nhiễm, nhưng ở trong đó không có sự tạp nhiễm. Do các hữu tình không bị chấp trước về ngã và ngã sở một cách sai lầm nên nói có thanh tịnh, nhưng trong đó không có sự thanh tịnh.

Thế nên, này Thiện Hiện! Tuy tất cả pháp đều Không viễn ly, nhưng các hữu tình cũng có thể tạo ra có nhiễm có tịnh.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát luôn thực hành như thế thì gọi là thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Thật kỳ lạ thay, kính bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, kính bạch Thiện Thệ! Tuy tất cả pháp đều Không viễn ly, mà các hữu tình có nhiễm có tịnh.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu các Đại Bồ-tát luôn thực hành như thế thì chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu các Đại Bồ-tát luôn thực hành như vậy thì thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… đều chẳng thể hàng phục được.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát luôn thực hành như vậy thì liền hơn sự tu hành của Thanh văn, Độc-giác, đạt đến chỗ không ai hơn. Vì sao? Vì tánh chư Phật và tánh Như Lai, tánh tự nhiên giác, tánh trí nhất thiết đều chẳng thể hơn được.

Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát do phát sanh ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa này nên ngày đêm an trụ phương tiện thiện xảo, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm-bộ này chẳng trước chẳng sau đều được thân người, được thân người rồi đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đã phát tâm rồi, tu các hạnh Đại Bồ-tát, đều chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… trọn đời đem các nhạc cụ thượng diệu trên thế gian cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi các đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này, lại đem thiện căn đã tu tập như thế bình đẳng ban cho các hữu tình cùng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nhờ nhân duyên này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Những thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nào ở giữa đại chúng giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trình bày, kiến lập, phân biệt, chỉ dạy, làm cho họ dễ hiểu và trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nhờ nhân duyên này đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử tất cả hữu tình ở trong châu Thiệm-bộ này chẳng trước chẳng sau đều được thân người. Được thân người rồi, đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đã phát tâm rồi, trọn đời đem tất cả nhạc cụ ở thế gian cung kính bố thí cho tất cả hữu tình, lại đem thiện căn bố thí như vậy bình đẳng ban cho các hữu tìnhhồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các chúng Đại Bồ-tát này do nhân duyên này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện thệ!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Đại Bồ-tát cho đến chỉ một ngày an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thì công đức đạt được nhiều hơn trước vô lượng vô số. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát này ngày đêm an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế. Đúng như vậy! Đúng như vậy! Có thể làm ruộng phước cho tất cả hữu tình. Vì sao? Vì lòng từ của các Đại Bồ-tát này phát sanh thì các loại hữu tình không ai kịp được, chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có ai ngang bằng. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có ai để thí dụ được. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thành tựu pháp không thể nghĩ bàn.

Thế nên, này Thiện Hiện! Vì lẽ gì mà Đại Bồ-tát này có thể phát khởi được công đức thù thắng chừng ấy?

Thiện Hiện nên biết! Vì Đại Bồ-tát này thành tựu Bát-nhã ba-la-mật-đa thù thắng như thế. Nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa này thấy các hữu tình chịu các khổ não như là: bị hình phạt chém giết nên sanh lòng đại bi. Lại dùng thiên nhãn xem các thế gian thấy có vô biên các loài hữu tình chiêu cảm nghiệp vô gián, đọa địa ngục vô gián, chịu các khổ dữ dội, hoặc bị lưới tà kiến che khuất chẳng thấy được chánh đạo. Hoặc lại thấy có các loài hữu tình đọa địa ngục vô gián, xa lìa các chỗ an vui. Thấy các hữu tình v.v… như vậy rồi sanh lòng rất chán nản, sợ sệt; đối với tất cả hữu tìnhthế gian phát sinh ý nghĩ tương ưng với đại từ bi: Ta phải làm chỗ nương tựa cứu giúp lớn cho tất cả hữu tình. Ta phải giải thoát tất cả khổ nãohữu tình đang chịu. Mặc dù nghĩ như vậy nhưng chẳng trụ ý tưởng này, cũng chẳng trụ tưởng khác.

Thiện Hiện nên biết! Đấy gọi là ánh sáng trí tuệ lớn của chúng Đại Bồ-tát có thể chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này do trụ ở chỗ này thường làm được ruộng phước cho tất cả thế gian. Tuy chưa chứng được trí nhất thiết trí nhưng đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được chẳng thối lui, có thể nhận lãnh y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc men và những vật dụng khác của thí chủ.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này khéo trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa nên có thể đền trả hoàn tất ơn thí chủ, cũng đạt đến trí nhất thiết trí.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn thọ hưởng vật dụng tín thí của các hữu tìnhquốc vương, đại thần một cách không uổng phí, muốn chỉ dẫn cho hữu tình con đường chơn tịnh, muốn làm ánh sáng lớn chiếu soi cho hữu tình, muốn giải thoát cho hữu tình khỏi lao ngục sanh tử, muốn cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh thì nên thường an trụ ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thường trụ ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa, Đại Bồ-tát này đối với ý nghĩ này thường luôn ghi nhớ chẳng để cho các ý nghĩ khác tạm thời phát sanh, thì có nói ra điều gì cũng tương ưng với lý thú Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này ngày đêm siêng năng tinh tấn, thường trụ nơi ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa không lúc nào tạm bỏ. Ví như có người trước kia chưa từng có ngọc báu ma-ni, sau đó có được, vui mừng, sung sướng; gặp duyên bị mất lại sanh tâm rất buồn khổ, thường than thở, tiếc nuối không nguôi, suy nghĩ phải làm phương kế nào để được ngọc ấy lại. Do đó nên ý nghĩ người kia luôn hướng đến ngọc quý. Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thường an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu chẳng an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì bị quên mất ý nghĩ tương ưng với trí nhất thiết trí.

Vậy nên này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên thường an trụ không được tạm lìa.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp và các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, không có sở hữu thì Đại Bồ-tát làm thế nào chẳng lìa ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa và trí nhất thiết trí?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát biết tất cả pháp và các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, không có sở hữu thì Đại Bồ-tát này chẳng lìa ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa và trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cùng trí nhất thiết trí và các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, không có sở hữu, trong đó hoàn toàn không có tăng giảm. Ai thông đạt đúng như vậy gọi là không xa lìa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tự tánh thường Không, không tăng, không giảm, thì chúng Đại Bồ-tát làm sao tu chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa để đắc được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát tu chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp chẳng tăng chẳng giảm, đối với Đại Bồ-tát cũng chẳng tăng chẳng giảm. Như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tự tánh Không, nên không tăng, không giảm. Chư Phật Bồ-tát cũng lại như vậy. Nếu Đại Bồ-tát thường biết được như vậy thì gọi đó là tu chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do nhân duyên này thường mau chứng được sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không tăng giảm, như vậy mà không kinh, không sợ, không mê muội, không thối lui và cũng không do dự, thì Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đã đạt đến cứu cánh, an trụ địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể độ các hữu tình cùng đời vị lai.

Quyển thứ 551
HẾT

 

02

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi sắc mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa sắc có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa thọ, tưởng, hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của sắc mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của sắc, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của thọ, tuởng, hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi sắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa sắc, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi thọ, tưởng, hành, thức có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa thọ, tưởng, hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của sắc mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của sắc, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của thọ, tưởng, hành, thức, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Ngay nơi tất cả pháp mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của tất cả pháp có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi tất cả pháp mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của tất cả pháp có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, các Đại Bồ-tát dùng những pháp nào để thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đathực hành Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đathực hành Không, phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có Bát-nhã ba-la-mật-đa và thấy có Không là chỗ sở hành của Đại Bồ-tát phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Pháp mà ông không thấy, pháp này có thể đắc được không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Pháp chẳng thể đắc đó có sanh diệt phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thật tướng của pháp mà ông chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ-tát. Đại Bồ-tát thành tựu Vô sanh pháp nhẫn như vậy thì được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng cùng vô lượng, vô biên công đức thù thắng, gọi là người luôn tinh tấn, như thật tu hành. Nếu thường tinh tấn tu hành như vậy mà chẳng đắc trí quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trí nhất thiết tướng, trí đại trí diệu, trí nhất thiết trí, trí đại thương chủ, thì quả thật không có lẽ đó.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ vào pháp tánh vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ vào pháp tánh hữu sanh của tất cả pháp mà được Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ vào pháp tánh hữu sanh vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ vào pháp tánh phi hữu sanh, phi vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì làm sao các Đại Bồ-tát có thể được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp để thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con không thấy pháp nào có thể được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật, cũng không thấy pháp đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật có thể chứng, thời gian chứng, nơi chứng và do đây chứng, hoặc pháp sở chứng đều không thấy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở đắc; ngay trong tất cả pháp không sở đắc thì người chứng, pháp chứng, thời gian chứng, nơi chứng và do đây chứng đều bất khả đắc.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy, đúng như vậy! Như lời ông nói.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi không đắc tất cả pháp thì không nghĩ thế này: Ta sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta nhờ pháp này, ở thời gian như vậy, nơi chốn như vậy chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

 
XXIII. PHẨM THIÊN CHỦ

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy rất là sâu xa, khó thấy, khó biết?

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy, đúng như vậy! Như lời ông nói, Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất là sâu xa, Bát-nhã ba-la-mật-đa này khó thấy, khó biết. Này Kiều-thi-ca! Vì hư không mênh mông nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy, rất là mênh mông. Vì hư không khó thấy, khó biết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy, khó thấy, khó biết. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này tự tánh xa lìa, hoàn toàn không sở hữu, giống như hư không.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình chẳng phải với chút ít thiện căn mà có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, phân biệt giảng thuyết rộng rãi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó biết này cho hữu tình.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Các loài hữu tình chẳng phải với chút ít thiện căn mà có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp và phân biệt giảng thuyết rộng rãi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó biết này cho các hữu tình, hoặc biên chép làm cho lưu bố rộng rãi, các hữu tình này được công đức vô lượng.

Kiều-thi-ca! Giả sử tất cả hữu tình ở trong châu Thiệm-bộ này đều thành tựu mười thiện nghiệp đạo, ý ông thế nào? Các hữu tình này được công đức có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật bảo:

- Kiều-thi-ca! Có các Thiện nam tử, thiện nữ v.v…. chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, phân biệt, giảng nói rộng rãi kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này cho tất cả hữu tình, hoặc là biên chép làm cho được lưu bố cùng khắp, các thiện nam tử, thiện nữ v.v…. này đạt được công đức hơn công đức trước gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp cùng cực số lần.

Bấy giờ, trong đại hội có một Bí-sô bảo trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, chuyên tinh tu học, tư duy đúng pháp, phân biệt giảng dạy rộng rãi kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này cho tất cả hữu tình, hoặc lại biên chép làm cho được lưu bố cùng khắp thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đạt được công đức hơn ngài?

Trời Đế Thích thưa:

- Các Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này chỉ cần một lần phát tâm đầu tiên còn hơn tôi, huống là chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, chuyên tinh tu học, tư duy đúng pháp, phân biệt giảng dạy kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho tất cả hữu tình, hoặc lại biên chép làm cho được lưu bố cùng khắp.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn tất cả công đức của thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… đạt được.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được chẳng những hơn công đức của khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… đạt được mà còn hơn tất cả các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác đạt được.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được chẳng những hơn công đức của khắp tất cả các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, mà còn hơn tất cả các Đại Bồ-tát làm nhà đại thí chủ tu hạnh bố thíxa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học: giới thanh tịnh, giới không khuyết, giới không hủy, giới không tạp, giới không uế và làm viên mãn giới uẩn.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn sự tu học của tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học viên mãn an nhẫn, viên mãn tịch tĩnh, không sân, không hận… cho đến đối với cây cháy cũng không có tâm làm hại, an nhẫn hoàn toàn.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn sự tu học của tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học tinh tiến dõng mãnh, không từ bỏ sự hộ trì tốt đẹp nào, không lười biếng, không hèn kém, tinh tấn viên mãn nghiệp thân, ngữ, ý.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn sự tu học của tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học tịnh lự đáng kính, tịnh lự đáng ưa thích, tịnh lự dõng mãnh, tịnh lự an trụ, tịnh lự tự tại, tịnh lự viên mãn.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn sự tu học của tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học các thiện căn khác.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này đúng như lời dạy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì có phương tiện thiện xảo nên hơn tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v…, cũng hơn tất cả Thanh văn, Độc giác, cũng hơn tất cả các chúng Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đúng theo lời dạy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này tùy thuận hoàn toàn. Đại Bồ-tát này có thể kế tục chủng tánh trí nhất thiết trí, làm cho không đoạn tuyệt, thường gần gũi bạn lành chơn tịnh là chư Phật và Bồ-tát. Đại Bồ-tát này tu hành tịnh hạnh thù thắng như vậy, thường không xa lìa tòa Bồ-đề vi diệu, hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo. Đại Bồ-tát này khi tu học như vậy, phương tiện thiện xảo thường hay cứu vớt các loài hữu tình chìm đắm trong bùn phiền não. Đại Bồ-tát này khi học như vậy, phương tiện thiện xảo thường học pháp cần nên học của chúng Đại Bồ-tát, chẳng học pháp nên học của các Thanh văn, Độc giác thừa v.v…

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khi học như vậy các chúng Thiên thần đều rất hoan hỷ, bốn vua hộ thế đều thống lĩnh Thiên chúng đi đến chỗ Đại Bồ-tát đó cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, đồng nói thế này:

“Lành thay, Đại sĩ! Nên siêng năng tinh tấn học pháp cần nên học của các chúng Đại Bồ-tát, chớ học pháp nên học của các Thanh văn, Độc giác thừa. Nếu học được như vậy thì mau an trụ nơi tòa diệu Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trước kia nhận bốn bình bát của bốn Thiên vương dâng cúng, nay Ngài cũng sẽ nhận như xưa. Bốn đức Thiên vương hộ thế dâng lên bốn bát, chúng tôi cũng sẽ dâng như vậy.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này khi học như vậy, Thiên đế chúng tôi còn thống lãnh Thiên chúng đi đến chỗ Đại Bồ-tát này cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen, huống là các Thiên thần khác mà không đi đến nơi đó hay sao?

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này khi học như vậy, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát cùng các trời, rồng, A-tố-lạc v.v… thường theo hộ niệm. Do nhân duyên này mà tất cả hiểm nạn, nguy khốn, thân tâm buồn khổ… ở thế gian đều chẳng làm tổn hại Đại Bồ-tát này. Các thứ bệnh tật do bốn đại trái nhauthế gian vĩnh viễn không có trong thân, chỉ trừ nghiệp nặng nhưng chuyển đổi nên hiện tại chịu nhẹ.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này đúng như lời dạy tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, được những công đức ngay đời hiện tại như vậy và công đức đời sau thì vô lượng, vô biên.

Khi ấy, A-nan-đà thầm nghĩ: Thiên chủ Đế Thích tự mình có biện tài khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacông đức thù thắng của các Bồ-tát như thế hay là nhờ năng lực oai thần của Như Lai?

Khi ấy, trời Đế Thích nhờ oai thần của Phật, biết ý nghĩ trong tâm A-nan-đà nên thưa rằng:

- Bạch Đại Đức! Sự khen ngợi của tôi về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacông đức thù thắng của các Bồ-tát đều là nhờ thần lực của Như Lai.

Khi ấy, Phật bảo A-nan-đà :

- Đúng như vậy, đúng như vậy! Nay trời Đế Thích khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacông đức thù thắng của Bồ-tát như vậy, nên biết, đó đều là nhờ thần lực của Như Lai chứ chẳng phải biện tài của Đế Thích. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacông đức thù thắng của các chúng Đại Bồ-tát nhất định chẳng phải tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… có thể khen ngợi được.

 
XXIV. PHẨM VÔ TẠP VÔ DỊ

Bấy giờ, Phật bảo A-nan-đà:

- Khi nào Đại Bồ-tát tư duy Bát-nhã ba-la-mật-đa, tập học Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy tất cả ác ma trong tam thiên đại thiên thế giới đều sanh do dự, đồng nghĩ: Đại Bồ-tát này đang ở giai đoạn chứng Niết-bàn hoặc là thối lui vào địa vị Thanh văn hay Độc giác, hay hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể làm lợi ích cho hữu tình cùng tận đời vị lai.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu khi Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy ác ma rất buồn khổ, thân tâm run sợ như trúng tên độc.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy ác ma đi đến chỗ Bồ-tát đó hóa ra vô số việc đáng sợ hãi, như: hóa làm dao kiếm, ác thú, rắn độc, lửa dữ đồng một lúc cháy bùng lên khắp bốn phía, muốn làm cho thân tâm Bồ-tát khủng khiếp, kinh sợ, bỏ mất cả tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; đối với sự tu hành tâm bị khuất phục, cho nên phát khởi một niệm loạn ý là chướng ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, là chỗ mong cầu trong thâm tâm của ác ma kia.

Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đều bị ác ma làm rối loạn hết cả, hay là có người bị rối loạn, người không bị rối loạn?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Chẳng phải các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đều bị ác ma làm rối loạn hết, mà có người bị rối loạn, người không bị rối loạn.

Cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa bị các ma ác làm rối loạn, và những Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Các Đại Bồ-tát đời trước nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm không tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn. Đại Bồ-tát nào đời trước nghe giảng dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có lòng tin hiểu, chẳng hủy báng chê bai thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào nghe giảng dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, nghi ngờ, do dự, là có hay là không có, là thật hay chẳng thật, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma quấy rối. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe giảng dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm vị đó hoàn toàn không nghi ngờ, do dự, tin chắc chắn là có thật, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ma ác làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào xa lìa bạn lành, bị các bạn ác khống chế, chẳng nghe nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa; do không nghe nên không hiểu rõ; vì không hiểu rõ nên không thể tu tập; vì không tu tập nên không thể thưa hỏi: làm thế nào để tu đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm thế nào để học đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Đại Bồ-tát nào gần gũi bạn lành, không bị bạn ác khống chế, được nghe nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa; do được nghe nên hiểu rõ; do hiểu rõ, lập tức tu tập; do tu tập nên hay thưa hỏi: làm thế nào để tu đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm thế nào để học đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, nắm giữ, khen ngợi pháp chẳng chơn diệu thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Đại Bồ-tát nào gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa, không nắm giữ, không khen ngợi pháp chẳng chơn diệu, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, hủy báng, chê bai pháp chơn diệu thì bấy giờ ác ma liền nghĩ: Nay Bồ-tát này là bạn của ta. Do Bồ-tát này hủy báng pháp chơn diệu nên có vô lượng các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa đối với pháp chơn diệu cũng hủy báng. Do nhân duyên này, nguyện của ta viên mãn. Mặc dầuvô lượng các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa làm bạn với ta nhưng chẳng thể làm cho nguyện của ta đầy đủ. Nay Bồ-tát này làm bạn với ta, làm cho sở nguyện của ta được đầy đủ hoàn toàn, nên Bồ-tát này đúng là bạn của ta, ta nên kết nạp để tăng thêm thế lực. Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Đại Bồ-tát nào gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa, khen ngợi, tin nhận pháp chơn diệu; cũng làm cho vô lượng các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa khen ngợi, tin nhận pháp chơn diệu, do đây ác ma buồn rầu, sợ hãi thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào khi nghe giảng dạy kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nói như vầy: “Bát-nhã ba-la-mật-đa này lý thú sâu xa, khó thấy, khó hiểu như vậy thì giảng dạy, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, siêng năng tu học, biên chép, truyền bá cùng khắp mà làm gì. Kinh điển này chính ta còn không thể đạt được cội nguồn, huống là những người phước mỏng, trí cạn kia.” Khi ấy, có vô lượng các Bồ-tát mới học Đại thừa nghe lời nói của Bồ-tát ấy, trong tâm kinh sợ, liền thối lui tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nói thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa này lý thú sâu xa, khó thấy, khó biết, nếu không giảng dạy, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, biên chép, truyền bá khắp nơi mà có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì chắc chắn không thể có lẽ ấy. Khi ấy, có vô lượng các Bồ-tát mới học Đại thừa, nghe Bồ-tát đó nói như vậy vui mừng hớn hở, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thường ưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, làm cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng pháp, tinh tấn tu hành, giảng thuyết, biên chép, truyền bá cùng khắp cho mọi người cầu thẳng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào ỷ vào công đức thiện căn của mình, khinh chúng Đại Bồ-tát khác nên nói thế này: “Ta luôn an trụ hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông đều không có. Ta luôn tu tập hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông chẳng có thể.” Khi ấy, ác ma vui mừng hớn hở nói: “Bồ-tát này chính là bạn bè của ta, luân hồi sanh tử chưa có lúc nào ra.”

Vì lẽ gì? Vì các Bồ-tát này ỷ vào công đức căn lành của mình có, khinh chúng Đại Bồ-tát khác, liền xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng thể siêng năng làm trống không cảnh giới của Ta thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn. Nếu Đại Bồ-tát nào không ỷ mình có công đức căn lành, khinh chê chúng Đại Bồ-tát khác, tuy thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng chẳng chấp trước các tướng pháp lành thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào tự ỷ tên tuổi, dòng họcông đức, sự tu tập Đầu-đà, khinh miệt các chúng Bồ-tát tu các pháp thắng thiện khác, thường khen mình và hủy báng, chê bai các vị khác. Họ thật không có các hành trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển mà cho mình có, nên sanh các phiền não và nói: “Các ông không có danh hiệu Bồ-tát, chỉ riêng ta có”. Do tăng thượng mạn khinh chê Bồ-tát khác, bấy giờ ác ma rất vui mừng, nghĩ như vầy: Nay Bồ-tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.

Bấy giờ ác ma giúp thần lực cho người kia, làm cho càng tăng thêm uy thế biện tài. Do đây được nhiều người tin nhận lời nói của người đó. Nhân đó khuyên phát đồng ác kiến như người kia. Ác kiến đồng rồi, học theo pháp tà của người kia. Học theo pháp tà rồi, phiền não hừng hực, vì tâm điên đảo nên phát sanh các nghiệp thân, ngữ, ý đều luôn nhận lấy quả khổ suy tổn không thể ưa thích. Do nhân duyên này tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, làm cho cung điện, cỏi nước ma đông đảo. Do đây, ác ma vui mừng hớn hở, muốn làm những điều gì đều tùy ý tự tại. Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Đại Bồ-tát nào không ỷ vào danh hiệu hư vọng cùng việc công đức tu tập Đầu-đà của mình mà khinh miệt các chúng Bồ-tát tu các pháp thắng thiện khác, đối với các công đức xa lìa tăng thượng mạn, thường không khen mình, cũng không chê người, luôn hiểu biết đúng những việc của ác ma, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Khi nào Đại Bồ-tát này cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa gây gỗ, hủy miệt, phỉ báng nhau thì bấy giờ ác ma thấy sự việc như vậy nên nghĩ: Nay Bồ-tát này tuy xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng không xa lắm. Tuy gần cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ nhưng không gần lắm. Nghĩ như vậy xong, tuy vui mừng nhưng không hớn hở.

Khi nào Đại Bồ-tát cùng các chúng Đại Bồ-tát khác khinh miệt, chê bai nhau thì khi ấy thấy sự việc như vậy, ác ma liền nghĩ: Hai Bồ-tát này rất xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, rất gần cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nghĩ như vậy rồi rất vui mừng hớn hở và tăng thêm sức lực của chúng, làm cho hai bên bạn bè đấu tranh luôn không dứt, làm cho vô lượng, vô biên hữu tình khác đều hết lòng nhàm chán Đại thừa, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Đại Bồ-tát nào cùng người cầu Thanh văn, Độc giác thừa chẳng đấu tranh, khinh miệt, chê bai nhau, phương tiện giáo hóa, làm cho hướng đến Đại thừa, hoặc khiến họ tu vượt lên trên thừa của mình và cùng các thiện nam tử v.v… cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không khinh chê, hủy báng, đấu tranh nhau, cùng dạy bảo nhau tu pháp thắng thiện, mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, độ các hữu tình, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào chưa được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các Đại Bồ-tát đã được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh tâm tổn hại, khinh miệt, đấu tranh, chê bai, mắng nhiếc. Đại Bồ-tát này tùy theo phát khởi bao nhiêu tâm niệm không lợi ích, thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa lìa bạn lành, chịu lại bấy nhiêu đời sanh tử trói buộc. Nếu không bỏ tâm đại Bồ-đề thì trở lại bấy nhiêu kiếp mặc áo giáp Hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, sau đó mới được bù đắp lại công đức đã bị lui sụt.

Bấy giờ, Khánh Hỷ lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đã phát khởi tâm ác, sanh tử tội khổ thì phải luân hồi trải qua bấy nhiêu đời, hay ở nửa chừng cũng được ra khỏi. Đại Bồ-tát này bị lui thắng hạnh thì phải siêng năng trải bấy nhiêu kiếp mặc giáp Hoằng thệ, tu các thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, sau đó mới được bù đắp lại công đức đã bị lui sụt, hay là ở nửa chừng có thể phục hồi lại như từ trước.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Ta vì Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn thuyết cách xuất tội và phục hồi thiện lại. Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát nào chưa được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các Đại Bồ-tát đã được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sanh tâm tổn hại, đấu tranh khinh miệt, hủy nhục, chê bai, về sau không hổ thẹn, giữ ác không bỏ, không chịu như pháp tỏ bày sám hối. Ta nói loại người ấy ở nơi nửa chừng không có nghĩa thoát tội và phục hồi thiện pháp, phải theo số kiếp như cũ luân hồi trong sanh tử, xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc. Nếu không xả bỏ tâm đại Bồ-đề thì phải bấy nhiêu kiếp mặc giáp Hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không có lúc nào gián đoạn, sau đó mới phục hồi công đức đã bị lui sụt.

Đại Bồ-tát nào chưa được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì đối với các Đại Bồ-tát đã được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, mắng nhiếc, hủy báng nhau, sau đó sanh hổ thẹn, tâm bỏ điều ác, liền theo đúng pháp phát lồ sám lỗi, nghĩ thế này: Ta nay đã được thân người vốn khó được, sao lại để cho khởi lên tội lỗi làm cho mất lợi lành lớn! Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình, sao lại làm hại chúng? Ta nên cung kính tất cả hữu tình như tôi tớ thờ chủ, sao lại kiêu mạn, khinh miệt, hủy nhục đối với hữu tình? Ta nên nhận chịu tất cả sự đánh đập, trách mắng của hữu tình, sao lại đối với hữu tình đem sự tàn bạo của lời nói và hành động đáp lại họ? Ta nên hòa giải tất cả, làm cho hữu tình kính mến nhau, sao lại đưa ra lời lẽ hung ác để chống chọi chúng? Ta nên chịu đựng để tất cả hữu tình dẫm đạp mãi mãi như đường sá hay như chiếc cầu, sao trở lại lăng nhục chúng? Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vì cứu vớt khổ lớn sanh tử cho hữu tình, làm cho được Niết-bàn an vui hoàn toàn, sao lại muốn đem khổ đến cho chúng? Từ nay cho đến tận đời vị lai, ta nên như si, như câm, như mù, như điếc, đối với các hữu tình không phân biệt, giả sử có bị chém đứt đầu, chân, cánh tay hoặc móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa xẻ tất cả chi thể thân phần, đối với hữu tình kia ta quyết không phát khởi ác. Nếu ta có ác tâm thì liền bị thối lui tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chướng ngại sự cầu trí nhất thiết trí, không thể làm lợi ích an vui cho hữu tình.

Khánh Hỷ nên biết! Đối với Đại Bồ-tát này, ta nói nửa chừng có thể thoát tội và phục hồi lại thiện pháp, chẳng còn trải qua nhiều kiếp số luân hồi sanh tử, không bị ác ma làm rối loạn và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Các Đại Bồ-tát cùng với những vị cầu Thanh văn, Độc giác thừa như vậy chẳng nên giao thiệp. Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên ở chung. Giả sử cùng ở chung thì chẳng nên cùng với họ bàn luận, xác quyết nghĩa lý. Vì sao? Vì nếu cùng với họ luận bàn để xác định nghĩa lý thì sẽ có thể phát sinh tâm giận dữ v.v… hoặc phát sinh lời lẽ thô ác. Nhưng các Bồ-tát đối với các loài hữu tình thì không nên giận dữ v.v… Cũng không nên nói lời thô ác. Giả sử bị chém đứt đầu, chân tay, thân phần… cũng không nên nói lời giận dữ. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát nên nghĩ: Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vì cứu giúp hữu tình dứt hẳn khổ sanh tử, làm cho được lợi ích, an vui hoàn toàn, đâu cho phép gây việc ác cho họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào đối với loài hữu tìnhgiận dữ, nói ra lời thô ác thì liền bị trở ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và hư hoại vô biên pháp hạnh của Bồ-tát. Thế nên, chúng Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các hữu tình không nên giận dữ, cũng không nên nói lời thô ác.

Bấy giờ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát làm cách nào để cùng ở chung?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Các Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát ở chung nên xem nhau như đại sư. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát hỗ trợ nhau nên nghĩ thế này: Đại Bồ-tát kia là bạn lành chơn thật của chúng ta, cùng chúng ta làm bạn, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng tới một chỗ, đồng làm một việc. Chúng ta cùng với họ cùng học một thời gian, cùng một nơi chốn và cùng được học một giáo pháp. Nếu học như vậy thì không khác nhau. Lại nghĩ: Các Bồ-tát kia vì chúng ta thuyết đạo đại Bồ-đề, tức là bạn lành của ta, cũng là đạo sư của ta. Nếu Đại Bồ-tát kia trụ ý nghĩ xen tạp, xa lìa ý nghĩ tương ưng với trí nhất thiết trí thì ta sẽ không học chung với các vị ấy. Nếu Đại Bồ-tát kia lìa ý nghĩ xen tạp, không lìa ý nghĩ tương ưng trí nhất thiết trí thì ta nên thường cùng học tập với họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát luôn học như vậy thì tư lương Bồ-đề mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ở giai đoạn nửa chừng không bị chướng ngại.

 
XXV. PHẨM TẤN TỐC

01

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì Tận nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Bất sanh nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Diệt nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Bất khởi nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Phi hữu nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì viễn ly nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì lìa nhiễm nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì hư không nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì pháp giới nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Niết-bàn nên học, là học trí nhất thiết trí phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chẳng phải học trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên nào Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng phải là học trí nhất thiết trí?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Phật chứng chơn như rất viên mãn, nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như vậy, chơn như có thể nói là Tận, cho đến có thể nói là Niết-bàn chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không! Kính bạch Thế Tôn. Vì sao? Vì chơn như lìa tướng, chẳng thể nói là Tận, cho đến chẳng thể nói là Niết-bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thế nên Đại Bồ-tát khi học như vậy là chẳng phải học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì Tận nên học là học trí nhất thiết trí. Cho đến chẳng vì Niết-bàn nên học, là học trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Phật chứng chơn như rất viên mãn nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khi ấy, chứng được chơn như chẳng tận cho đến Niết-bàn của trí nhất thiết trí, nên Đại Bồ-tát khi học như vậy là học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, là học Phật địa, là học mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngvô lượng, vô biên Phật pháp khác, tức là đã học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy là đạt đến cứu cánh bờ kia của tất cả sự học.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì không bị tất cả Thiên mangoại đạo hàng phục được.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì mau đắc được pháp tánh Bất thối của Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì mau trụ địa vị Bất thối chuyển của Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì mau an tọa tòa diệu Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là tự mình đi theo con đường của Như Lai Tổ phụ.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học pháp làm chỗ hộ trì cho các hữu tình, là học tánh đại từ, đại bi vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học ba lần vận chuyển xe pháp với mười hai hành tướng Vô thượng.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học làm cho trăm ngàn vạn ức cảnh giới hữu tình được ở nơi Niết-bàn cứu cánh an lạc.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học không đoạn tuyệt chủng tánh Như Lai.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học mở cửa cam lồ chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học đặt yên vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trụ pháp Tam thừa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học thị hiện cảnh giới vô vi chơn thật, hoàn toàn vắng lặng cho tất cả hữu tình.

Như vậy là học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Việc học như vậy, hữu tình hèn kém chẳng thể học được. Vì sao? Vì sự học như vậy muốn cứu vớt hết thảy khổ lớn sanh tử cho tất cả hữu tình, muốn đặt yên tất cả hữu tình trong việc tốt đẹp rộng lớn, muốn cùng hữu tình đồng hưởng thọ lợi ích an vui hoàn toàn, muốn cùng hữu tình đồng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn cùng hữu tình đồng học diệu hạnh tự lợi, lợi tha như hư không rộng lớn không gián đoạn, không tận cùng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì quyết định không đọa trong tất cả cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, A-tố-lạc v.v...; quyết định không sanh chốn biên địa hạ tiện, tà kiến; quyết định không sanh trong nhà Chiên-đồ-la, nhà gánh thây chết và các dõng dõi bần cùng, hạ tiện, bất luật nghi; quyết định chẳng sanh trong nhà công xảo kỹ nhạc, buôn bán tạp uế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì sanh ra ở chỗ nào, hoàn toàn không bị mù, điếc, câm, ngọng, chân tay cong queo, căn chi tàn khuyết, gù lưng, lác hủi, ung thư, điên cuồng, trĩ, lậu, ghẻ dữ, thân không quá cao, quá lùn, cũng không đen đủi và không có các bệnh ghẻ nhơ nhớp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì đời đời thường được quyến thuộc viên mãn, các căn viên mãn, thân thể viên mãn, âm thanh trong trẻo, dáng mạo đoan nghiêm, lời nói oai nghiêm, được nhiều người kính mến.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì sanh ở chỗ nào đều lìa việc sát sanh, lìa việc trộm cắp, lìa tà hạnh, lìa nói dối gạt, lìa nói thô ác, lìa nói chia rẽ, lìa nói lời bẩn thỉu, cũng lìa tham dục, sân giận, tà kiến, quyết chẳng chấp nhận tà pháp hư dối, không dùng pháp tà để sanh sống. Cũng không chấp nhận hữu tình phá giới, ác kiến, hủy báng pháp để làm bạn thân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì hoàn toàn chẳng sanh trong cõi trời Trường thọ, đắm vui, ít trí tuệ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu thế lực phương tiện thiện xảo. Do thế lực phương tiện thiện xảo này, mặc dù thường nhập được tịnh lự vô lượngđịnh vô sắc nhưng chẳng theo thế lực đó thọ sanh, vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bảo hộ. Thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, ở trong các định tuy thường được xuất nhập tự tại nhưng chẳng theo thế lực của các định đó thọ sanh ở cõi trời Trường thọ, bỏ tu hạnh đại Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh thì tại sao các Đại Bồ-tát khi học như vậy lại chứng đắc được các lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, các pháp xưa nay tự tánh thanh tịnh. Đại Bồ-tát này đối với tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, tinh tấn tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thông suốt như thật, tâm không chìm đắm, cũng không vướng mắc, xa lìa tất cả phiền não nhiễm đắm, nên nói: Khi Bồ-tát học như vậy, đối với tất cả pháp được thanh tịnh. Do nhân duyên này được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Mặc dầu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh mà các phàm phu chẳng có tri kiến thấy biết. Đại Bồ-tát này vì muốn làm cho vị kia thấy biết, hiểu rõ nên khuyên tinh tấn tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghĩ: Ta đối với bản tánh thanh tịnh của các pháp thấy biết hiểu rõ, rồi như thật khai ngộ tất cả hữu tình, làm cho chúng đối với bản tánh thanh tịnh của các pháp cũng thấy biết, hiểu rõ. Đại Bồ-tát này khi học như vậy được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì đối với tâm hạnh sai khác của các hữu tình đều thông suốt, dùng phương tiện thiện xảo đến tận bờ kia, làm cho các hữu tình biết được bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp, chứng đắc Niết-bàn thanh tịnh hoàn toàn.

Quyển thứ 552
HẾT

 

02

Thiện Hiện nên biết! Ví như mặt đất, ít chỗ sanh ra vàng bạc, châu báu; nhiều chỗ sanh ra đất mặn, nuôi các vật. Các loài hữu tình cũng như vậy, ít người học Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhiều người học pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Ví như loài người, phần ít có thể làm vua Chuyển luân, phần nhiều làm các vua nhỏ. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít có thể tu đạo trí nhất thiết trí, phần nhiều tu đạo Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Ví như trong trời Địa cư cõi Dục, phần ít có thể tạo nghiệp trời Đế Thích, phần nhiều tạo nghiệp của các trời khác. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phần nhiều cầu quả Thanh văn, Độc giác thừa.

Thiện Hiện nên biết! Ví như trong tịnh lự thứ nhất, cõi Sắc phần ít có thể tu nghiệp đại Phạm Vương, phần nhiều tu nghiệp các chúng Phạm Thiên. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít đạt được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phần nhiều vẫn còn thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các loài hữu tình phần ít có thể phát tâm đại Bồ-đề, trong số đó càng ít người có thể tu hạnh Đại Bồ-tát, trong đó càng ít người có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong đó càng ít người đạt được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong đó rất ít người có thể đạt được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đi vào số hữu tình rất ít ấy thì nên siêng năng tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho đạt được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì không phát sanh tâm tương ưng với nhu nhược, không phát sanh tâm tương ưng với nghi ngờ, không phát sanh tâm tương ưng với tham lam, không phát sanh tâm tương ưng với phạm giới, không phát sanh tâm tương ưng với giận dữ, không phát sanh tâm tương ưng với lười nhác, không phát sanh tâm tương ưng với tán loạn, không phát sanh tâm tương ưng với hiểu biết sai lầm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì có thể bao gồm tất cả Ba-la-mật-đa, có thể tập họp tất cả Ba-la-mật-đa, có thể dẫn đường tất cả Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dung chứa tất cả Ba-la-mật-đa vậy.

Thiện Hiện nên biết! Như tà ngụy thân kiến bao gồm khắp tất cả sáu mươi hai kiến, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vậy, dung chứa tất cả Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì phát sanh tất cả Ba-la-mật-đa và làm cho dần dần tăng trưởng.

Thiện Hiện nên biết! Ví như mạng căn gìn giữ các căn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, luôn gìn giữ tất cả pháp lành thù thắng. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể gìn giữ khắp tất cả pháp lành.

Thiện Hiện nên biết! Như mạng căn diệt, thì các căn diệt theo, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy. Nếu Đại Bồ-tát nào thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì chính là thối lui tất cả pháp lành. Nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể diệt trừ khắp tất cả pháp bất thiện.

Thế nên, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đạt đến rốt ráo bờ kia của tất cả Ba-la-mật-đa thì nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào thường siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì thành tối thượng, tối thắng đối với các hữu tình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thường siêng năng tu học pháp Vô Thượng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý thầy thế nào? Các loài hữu tình ở trong thế giới tam thiên đại thiên này có nhiều không?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ còn nhiều vô số, huống là các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên, số đó rất nhiều.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Thiện Hiện nên biết! Giả sử các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên, đồng một lúc đều được làm thân người. Được thân người rồi, đồng một lúc đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh của các Đại Bồ-tát. Tu hành viên mãn rồi, đồng một lúc đều đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lại có Đại Bồ-tát trọn đời thường đem y phục, thức ăn uống, phòng xá, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ vật dụng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này. Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát này do nhân duyên này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện thệ!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nào thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì trải qua khoảng thời gian khảy móng tay, đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng vô số. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa đầy đủ lợi ích lớn, có thể làm cho chúng Đại Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm thượng thủ của tất cả hữu tình, muốn lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, muốn làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có nơi quay về nương tựa, làm nơi hướng đến cho kẻ không có nơi hướng đến, làm mắt cho người không có mắt, làm ánh sáng cho người không có ánh sáng; kẻ lạc mất đường chánh, chỉ cho họ con đường chánh; người chưa Niết-bàn, làm cho đắc Niết-bàn… thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đi nơi cảnh giới của chư Phật đã đi, muốn ngự nơi địa vị tôn quí của chư Phật Đại tiên đã ngự, muốn an trụ chỗ Phật đã an trụ, muốn rống tiếng đại Sư tử của chư Phật, muốn trỗi trống pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn gióng chuông pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn thăng tòa pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn thổi ốc pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn giảng nghĩa pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn xé rách lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn lãnh thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật, muốn chứng công đức viên tịnh của chư Phật, muốn dùng một âm thanh giảng thuyết chánh pháp cho tất cả hữu tình cõi tam thiên, làm cho tất cả đều được lợi ích lớn… thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì không có tất cả công đức lợi ích thù thắngthế gian hay xuất thế gian nào mà không đạt được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là chỗ nương tựa cho tất cả hạt giống căn lành công đức.

Thiện Hiện nên biết! Ta chưa từng thấy có Đại Bồ-tát nào siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà không đạt được công đức lợi ích thù thắng của thế gianxuất thế gian.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy chẳng lẽ cũng đắc công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác sao?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác, các chúng Đại Bồ-tát này cũng đều chứng đắc nhưng không trụ, không đắm trước nơi đó. Bằng chánh kiến thắng trí, quán sát xong, vượt qua địa vị Thanh vănĐộc giác, vào thẳng Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, nên các Đại Bồ-tát này được tất cả công đức căn lành.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên tu học tất cả hạt giống công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác. Mặc dầu không cầu chứng đắc nơi đó nhưng muốn thông suốt đúng đắn tất cả để giảng thuyết, chỉ dạy cho các hữu tình kia.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là gần gũi trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường làm lợi ích an vui cho tất cả cùng tận đời vị lai.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu học như vậy thì chính là ruộng phước chơn tịnh cho tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v…, vượt lên trên các ruộng phước của Thanh văn, Độc giác, Sa-môn, Phạm chíthế gian, mau chứng được trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu học như vậy thì sanh ra ở chỗ nào cũng không xả bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì nên biết Bồ-tát đó đã được không thối lui trí nhất thiết trí, hiểu biết đúng đắn tất cả pháp, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v… và gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nghĩ thế này: Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là thời gian tu, đây là nơi chốn tu, ta là người tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này. Ta nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà vứt bỏ được pháp nên vứt bỏ, nên được phát sanh trí nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát này chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng thể hiểu rõ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là thời gian tu, đây là nơi chốn tu, đây là người tu, đây là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa, đây là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa chiếu soi, đây là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng đắc. Ai hiểu biết như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghĩ thế này: Đây chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là thời gian tu, đây chẳng phải là nơi chốn tu, đây chẳng phải là người tu, chẳng phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đaxa lìa tất cả pháp nên xa lìa, chẳng phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ chơn như không sai khác vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hoàn toàn không phân biệt, không hiểu rõ tất cả pháp thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

 
XXVI. PHẨM HUYỄN DỤ

Bấy giờ trời Đế Thích nghĩ: Nếu Đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì còn hơn tất cả loài hữu tình, huống là đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các hữu tình nào nghe thuyết về danh tự của trí nhất thiết trí càng tin hiểu thì còn được lợi lành trong loài người và được đời sống tối thắngthế gian, huống là phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc thường lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình nào thường phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lắng nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì các hữu tình khác nên nguyện ưa thích công đức đạt được. Thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… hoàn toàn không thể sánh kịp.

Khi ấy, Thế Tôn biết tâm niệm của trời Đế Thích nên bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như điều ông nghĩ.

Bấy giờ trời Đế Thích vui mừng hớn hở, hóa làm hương hoa mầu nhiệm trên cõi trời, dâng lên đức Như Lai và các Bồ-tát. Dâng hoa xong, phát nguyện:

“Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v... nào cầu đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì xin đem công đức căn lành đã phát của tôi làm cho tâm nguyện đạt công đức thù thắng của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu các pháp tương ưng với trí nhất thiết trí của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu tự nhiên nhơn và pháp mau được viên mãn, làm cho sự cầu Thánh pháp vô lậu của người kia mau được viên mãn, làm cho tất cả sự muốn nghe pháp của người kia đều được như ý. Nếu người nào cầu Thanh văn, Độc giác thừa thì cũng làm cho sở nguyện của họ mau được đầy đủ.”

Phát nguyện như vậy xong, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… nào đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì con hoàn toàn không sanh một niệm ý khác làm cho người kia thối lui tâm đại Bồ-đề. Con hoàn toàn không sanh một niệm ý khác làm cho các chúng Đại Bồ-tát nhàm chán, xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lui rớt nơi địa vị Thanh văn, Độc giác v.v… Con hoàn toàn không sanh một niệm tâm khác làm cho các chúng Đại Bồ-tát lui mất ý nghĩ tương ưng với Đại Bi. Nếu Đại Bồ-tát nào đã hết lòng ưa muốn quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì con nguyện tâm của người ấy càng thêm tinh tấn để mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện các Đại Bồ-tát kia thấy các thứ khổ trong sanh tử, rồi vì muốn lợi ích an vui cho thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cho nên phát khởi vô số nguyện lớn bền chắc: Con đã qua được biển lớn sanh tử, cũng phải siêng năng độ người chưa qua. Con đã tự mở trói sanh tử rồi, cũng phải siêng năng mở cho người chưa được mở. Con đã được an ổn đối với các thứ sợ hãi về sanh tử, cũng phải siêng năng đem an ổn cho người chưa được an ổn. Con đã chứng đắc Niết-bàn hoàn toàn rồi, cũng phải siêng năng làm cho người chưa chứng đồng chứng đắc.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu loài hữu tình nào hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát sơ phát tâm thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát đã từ lâu phát tâm tu các thắng hạnh thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát chỉ còn ràng buộc một đời thì được bao nhiêu phước?

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của núi chúa Diệu Cao, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của cõi bốn đại châu, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết số cân lượng của thế giới Tiểu thiên, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của thế giới Trung thiên, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết số cân lượng của thế giới trong Tam thiên đại thiên này, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì chẳng thể biết được.

Kiều-thi-ca! Giả sử thế giới tam thiên đại thiên chung lại làm thành một cái biển, có người lấy một sợi lông chẻ làm một trăm phần, rồi cầm đầu của một sợi chấm vào trong nước biển đó cho đến khi cạn hết, có thể biết được số giọt nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Nếu các hữu tình không tùy hỷ đối với vô lượng, vô biên công đức thù thắng của các Đại Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc do tâm tùy hỷ đối với phước đức đã phát sanh của Bồ-tát kia, hoặc không nghe, không biết, không nhớ nghĩ, không tùy hỷ, thì nên biết những người như vậy đều bị ma khống chế, bị ma nắm giữ, là bè đảng của ma, chết ở cõi Thiên ma và sanh đến nơi này. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát cầu thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh của các đại Bồ-tát, hoặc có người phát tâm hết lòng tùy hỷ đối với công đức của người kia, hoặc có người đối với công đức tùy hỷ của người kia, lòng càng nhớ nghĩ tùy hỷ thì đều có thể phá hoại hết tất cả quyến thuộc và cung điện của quân ma, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình cùng tận đời vị lai.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu hữu tình nào hết lòng kính mến Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, sanh ra ở chỗ nào cũng thường muốn được thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng thì đối với công đức căn lành của các chúng Đại Bồ-tát nên hết lòng tùy hỷ. Tùy hỷ xong rồi hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng không nên sanh ý tưởng có hai, không hai. Nếu người nào thường làm được như vậy thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phá dẹp các quân ma, lợi ích hữu tình.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Kiều-thi-ca! Nếu các hữu tình nào đối với công đức căn lành của các chúng đại Bồ-tát, hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì các hữu tình này mau được viên mãn các hạnh Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nếu các hữu tình nào đối với công đức căn lành của các chúng Đại Bồ-tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các hữu tình này có đầy đủ oai lực, thường luôn phụng thờ tất cả các đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácthiện tri thức, hằng nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và biết rõ nghĩa thú.

Các hữu tình này thành tựu công đức căn lành, tùy hỷ hồi hướng như vậy thì sanh ra ở chỗ nào cũng thường được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Chẳng thấy sắc xấu, chẳng nghe tiếng xấu, chẳng ngửi mùi dở, chẳng nếm vị dở, chẳng xúc chạm xấu, chẳng nghĩ pháp ác, chẳng đọa nẻo ác, sanh trong trời người thường nhận lãnh vô số việc vui tốt đẹp, nhưng không đắm nhiễm, thường không xa lìa chư Phật Thế Tôn; từ nước Phật này đến nước Phật khác được gần gũi chư Phật, trồng các căn lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các hữu tình này đối với vô lượng công đức căn lành của các chúng Bồ-tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhờ nhân duyên này, căn lành tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề xong, thường như thật lợi ích cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình cùng tận đời vị lai, làm cho trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn.

Vì thế nên, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử trụ Bồ-tát thừa v.v… đối với công đức căn lành của các Bồ-tát đều nên tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ngay khi tùy hỷhồi hướng không nên chấp trước. Ngay nơi tâm, lìa tâm, tùy hỷ hồi hướng, không nên chấp trước. Ngay nơi tâm tu hành, lìa tâm tu hành. Nếu người nào không chấp trước như vậy và tùy hỷ hồi hướng, tu hạnh của các Đại Bồ-tát thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, độ các hàng trời, người, A-tố-lạc v.v... thoát khỏi sanh tử, đắc Bát Niết-bàn. Nhờ nhân duyên này, các loài hữu tình đối với công đức căn lành của các Bồ-tát đều nên phát tâm tùy hỷ hồi hướng, có thể khiến cho vô lượng, vô biên hữu tình trồng các căn lành, đạt được lợi ích an vui lớn.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Tâm hoàn toàn như huyễn thì Đại Bồ-tát làm sao có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có tâm như huyễn phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có huyễn phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con không thấy huyễn, cũng không thấy có tâm như huyễn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Nếu ông không thấy huyễn, không thấy tâm như huyễn, hoặc có chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, thì ông thấy có tâm như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đềphải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn chẳng thấy có chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, lại có tâm như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Hoặc chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn thì ông thấy có pháp như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không thấy có chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, lại có pháp như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không thấy ngay nơi pháp lìa tâm có thể nói những pháp là có, là không, bởi tất cả pháp hoàn toàn lìa vậy. Nếu tất cả pháp hoàn toàn lìa thì không thể trình bày là có hay là không. Nếu pháp nào không thể trình bày là có, là không, thì không thể nói có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì chẳng phải pháp không sở hữu có thể đắc Bồ-đề được vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở hữu, tánh của nó bất khả đắc, không nhiễm, không tịnh, hoàn toàn lìa pháp, không sở hữu, nên không thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng hoàn toàn lìa. Nếu pháp hoàn toàn lìa thì pháp đó không nên tu tập, cũng không nên lìa bỏ, lại cũng không nên nêu lên.

Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã hoàn toàn lìa thì vì sao có thể nói các Đại Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Kính bạch Thế Tôn! quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng hoàn toàn lìa, thì vì sao pháp hoàn toàn lìa lại có thể đắc pháp hoàn toàn lìa? Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa đúng ra là không thể nói chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã hoàn toàn lìa; quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng hoàn toàn lìa.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn lìa, nên được lìa hoàn toàn quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải hoàn toàn lìa thì đúng ra chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn lìa nên mới được gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát chẳng phải không nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xachứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Tuy chẳng phải lìa pháp hay là được lìa pháp mà đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chẳng phải không y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xađắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên, các Đại Bồ-tát đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì phải nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sự thực hành nghĩa thú của các Đại Bồ-tát rất là sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy. Sự thực hành nghĩa thú của các Đại Bồ-tát rất là sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát thường làm việc khó làm. Tuy thực hành nghĩa thú sâu xa như vậy nhưng đối với pháp của địa vị Thanh văn, Độc giácthể không chứng đắc.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy, việc làm của các Đại Bồ-tát không khó, đúng ra không nên nói những vị đó thường làm được việc khó làm. Vì sao? Vì sự chứng nghĩa thú của các Đại Bồ-tát hoàn toàn bất khả đắc, sự chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc. Pháp chứng, người chứng, nơi chốn chứng, thời gian chứng cũng bất khả đắc.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe lời như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không lo buồn, ăn năn, không kinh, không sợ thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kính bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát này thực hành như thế, chẳng thấy các tướng, chẳng thấy ta hành, chẳng thấy chẳng hành, chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa là sự tu hành của ta, chẳng thấy quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là sự chứng đắc của ta, cũng chẳng thấy nơi chốn chứng, thời gian chứng v.v…

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng không thấy thì tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng chẳng thấy thì tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng không phân biệt. Tuy thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng không nghĩ: Ta hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v...

Kính bạch Thế Tôn! Ví như hư không không nghĩ: Ta cách việc kia hoặc xa hoặc gần. Vì sao? Vì hư không không di động, cũng không phân biệt. Vì không phân biệt nên các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như người được biến hóa chẳng nghĩ: chất biến hóa, thầy biến hóa cách ta gần; những người bàng quan v.v… cách ta xa. Vì sao? Vì người được biến hóa ra không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả pháp vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như bóng hình không nghĩ: Ta với bóng hình kia đang cách ta gần; các pháp gương, nước v.v... cách xa ta. Vì sao? Vì bóng hình hiện ra không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ thế này: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp không ưa, không ghét. Vì sao? Vì Như Lai đã đoạn trừ tất cả sự ưa ghét, phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên đối với tất cả pháp không ưa, không ghét. Vì sao? Vì giống như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa, đoạn trừ hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt nên đối với các pháp không ưa, không ghét. Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa ngăn chặn hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt nên đối với các pháp không ưa, không ghét.

Kính bạch Thế Tôn! Như những người do các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa hiện ra, không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì những người được hóa hiện ra đó không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác muốn tạo ra hóa nhânsai bảo những người được hóa hiện ra đó làm những việc kia. Nhưng những người được biến hóa không nghĩ: Ta thường làm ra sự nghiệp như vậy. Vì sao? Vì những người được biến hóa đó không phân biệt đối với sự nghiệp đã tạo vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, vì có sự việc cần phải làm nên siêng năng tu học. Tu học xong, tuy thành tựu sự nghiệp đã tạo nhưng không có sự phân biệt đối với việc đã làm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả pháp vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như có người thợ khéo, hoặc học trò của ông ta, vì có việc cần làm nên tạo ra người hoặc nam, hoặc nữ, hoặc voi, ngựa v.v... bằng máy. Các máy móc này tuy có hành động nhưng đối với việc làm đó hoàn toàn không phân biệt. Vì sao? Vì pháp của máy móc là như vậy, không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, có việc cần làm nên phải làm. Làm xong, tuy thành tựu các sự nghiệp khác nhau nhưng đối với sự việc ấy hoàn toàn không phân biệt. Vì sao? Vì pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là như vậy, không phân biệt đối với các pháp vậy.

 
XXVII. PHẨM KIÊN CỐ

01

Lúc ấy, ngài Xá-lợi Tử hỏi ngài Thiện Hiện:

- Khi các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xahành pháp bền chắc hay hành pháp không bền chắc?

Thiện Hiện thưa:

- Khi các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xahành pháp không bền chắc, không hành pháp bền chắc. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và tất cả pháp hoàn toàn không có tánh bền chắc. Vì sao? Vì khi các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì ngay nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và tất cả pháp còn chẳng thấy có pháp không bền chắc có thể đắc, huống là thấy có pháp bền chắc có thể đắc.

Bấy giờ có vô lượng Thiên tử cõi Dục, Thiên tử cõi Sắc đồng nghĩ: Nếu các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… có thể phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì tuy thực hành nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng thường không chứng đắc Niết-bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác. Do nhân duyên này nên loài hữu tình này rất là hiếm có, thường làm được những việc khó làm, phải nên kính lễ. Vì sao? Vì các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này tuy hành tánh pháp nhưng ngay nơi đó không chứng đắc.

Khi ấy, Thiện Hiện biết tâm niệm các Thiên tử nên bảo với họ:

- Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này không chứng Niết-bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cũng chưa phải là rất hiếm có, cũng chưa phải là khó. Nếu Đại Bồ-tát nào biết tất cả pháp và các hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, mà vẫn phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mặc áo giáp tinh tấn, thề độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, giúp vào cảnh giới Vô dư bát Niết-bàn, thì các Đại Bồ-tát này mới thật là hiếm có, thường làm được việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào tuy biết hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc mà vẫn phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mặc giáp tinh tấn vì muốn điều phục các loài hữu tình thì giống như có người muốn điều phục hư không. Vì sao? Này Thiên tử! Vì hư không ly, nên biết tất cả hữu tình cũng ly. Hư không Không, nên biết tất cả hữu tình cũng Không. Hư không không chắc thật, nên biết tất cả hữu tình cũng không chắc thật. Hư không không sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng không sở hữu. Do nhân duyên này, Đại Bồ-tát đó mới thật là hiếm có, thường làm được những việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát này mặc giáp thệ nguyện vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, thì giống như có kẻ mặc áo giáp chiến đấu cùng hư không

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát này mặc giáp thệ nguyện vì muốn lợi ích tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình và áo giáp đại nguyện hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng ly. Vì hữu tình Không, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng Không. Hữu tình không bền chắc, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng không bền chắc. Hữu tình không sở hữu, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Việc Đại Bồ-tát này điều phục lợi ích hữu tình cũng bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng ly. Hữu tình Không, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng Không. Hữu tình không bền chắc, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng không bền chắc. Hữu tình không sở hữu, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng không sở hữu. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng ly. Hữu tình Không, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng Không. Hữu tình không chắc thật, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng không chắc thật. Hữu tình không sở hữu, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe như vậy không chìm đắm, cũng không lo buồn, hối hận, chẳng kinh, chẳng sợ, thì nên biết Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Vì sao? Này Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên phải biết sắc uẩn cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết sắc xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết sắc giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn thức giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn xúc cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết địa giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhân duyên cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết vô minh cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Dự lưu quả cho đến Độc giác Bồ-đề cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết trí nhất thiết trí cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp cũng ly.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng khiếp, chẳng chìm, chẳng đắm… thì nên biết Đại Bồ-tát đó là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Vì nhân duyên gì các Đại Bồ-tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, thì tâm vị đó không kinh, không sợ, không khiếp, không chìm, không đắm?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Do tất cả pháp đều xa lìa nên các Đại Bồ-tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó không kinh, không sợ, không khiếp, không chìm, không đắm. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp hoặc sự sợ, đối tượng để sợ, hoặc nơi chốn sợ, thời gian sợ, người sợ v.v... những sợ này hoàn toàn không sở đắc, vì tất cả pháp không thể đắc vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào nghe thuyết việc như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không kinh sợ, không lo buồn, không ăn năn, thì nên biết Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thấy tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng thể trình bày là đối tượng đắm chìm, sự chìm, nơi chốn đắm chìm, thời gian đắm chìm, người đắm chìm v.v... Do các sự đắm chìm v.v... này mà các Đại Bồ-tát nghe như vậy tâm không chìm đắm, cũng không sợ hãi, không lo buồn, không hối hận.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì chư Thiên, Đế Thích, Đại Phạm Thiên vương, Chủ thế giới v.v... cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nào thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì chẳng những thường được chư Thiên, Đế Thích, Đại Phạm thiên vương, Chủ thế giới v.v... cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, mà Đại Bồ-tát này cũng được trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Tịnh cư và trời, rồng, A-tố-lạc v.v... khác cũng đều kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Đại Bồ-tát này thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương thường hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy tức là làm cho tất cả công đức căn lành mau được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì thường được chư Phật và chư Bồ-tát cùng các trời, rồng, A-tố-lạc v.v... nhớ nghĩ, bảo vệ. Nên biết Đại Bồ-tát đó là người đi đúng chỗ chư Phật đã đi, cũng tu hành đúng hạnh Phật đã tu hành, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này đã được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả quân ma và các ngoại đạo, bạn bè xấu ác v.v... chẳng thể làm chướng ngại được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này tâm của họ vững chắc hơn Kim cang. Giả sử các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên đều biến thành ma, mỗi một ma này lại hóa ra chừng ấy ác ma. Các ác ma đó đều có vô lượng, vô số thần lực, các ác ma đó dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại được Đại Bồ-tát này thực hành được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Để việc các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên đều biến thành ma qua một bên. Giả sử tất cả hữu tìnhthế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều biến thành ma. Các chúng ma này lại hóa thành chừng ấy ác ma, các ác ma này đều có vô lượng, vô số thần lực. Các ác ma này dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại Đại Bồ-tát này thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được hai pháp thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến không thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Hai pháp đó là:

Một, chẳng bỏ tất cả hữu tình.

Hai, quán sát các pháp đều Không.

Lại nữa Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu hai pháp, thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến không thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Hai pháp đó là:

Một, làm đúng tất cả như những gì đã nói.

Hai, thường được chư Phật hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì các thiên thần v.v... thường đến lễ kính, gần gũi, cúng dường, thưa hỏi khuyến khích. Thưa thế này: “Lành thay Đại sĩ! Ngài thường thực hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể làm nơi nương tựa cho tất cả hữu tình không có nơi nương tựa, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có chỗ quay về nương tựa, làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ hướng đến cho kẻ không nơi hướng đến, làm nhà cửa cho kẻ không nhà cửa, làm hòn đảo cho kẻ không hòn đảo, làm ánh sáng cho kẻ mù tối, làm tai mắt cho kẻ điếc đui. Vì sao? Thiện nam tử! Vì nếu thường an trụ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại được.

Quyển thứ 553
HẾT

 

02

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương với các chúng Bí-sô vây quanh trước sau đang tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa và ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của Đại Bồ-tát này. Đó là công đức chơn tịnh của sự an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Như Ta ngày nay ngự giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho mọi người, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán các Đại Bồ-tát, như Đại Bồ-tát Bảo Tràng v.v... và các Đại Bồ-tát với danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức đang trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tịnh tu phạm hạnh, ở cõi Phật Bất Động. Đó là công đức chơn tịnh của sự an trú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng, vô số, vô biên thế giới hiện tại trong mười phương tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, ở đó cũng có các Đại Bồ-tát tịnh tu phạm hạnh, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của Đại Bồ-tát kia. Đó gọi là công đức chơn tịnh không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của tất cả chúng Đại Bồ-tát sao?

Phật dạy:

- Chẳng phải vậy, chẳng phải khi các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của tất cả chúng Đại Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Có Đại Bồ-tát đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thực hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát này được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị đó.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có chúng Đại Bồ-tát nào chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúngtự nhiên ở giữa chúng hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của đại chúng không?

Phật dạy:

- Cũng có. Nghĩa là có chúng Đại Bồ-tát tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát này cũng được đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người được nói đến đó là Đại Bồ-tát nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có các chúng Đại Bồ-tát khi theo Phật Bất Động làm Bồ-tát để học theo sự tu và sự thực hành, tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát này tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa chúng. Lại có chúng Đại Bồ-tát theo Đại Bồ-tát Bảo Tràng v.v... để học theo sự tu, sự thực hành, tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa; các Đại Bồ-tát này tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ngay nơi tánh vô sanh của tất cả pháp tuy rất tin hiểu nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Tuy rất tin hiểu tánh của tất cả pháp hoàn toàn vắng lặng nhưng chưa được nhập vào địa vị Bất thối chuyển. Nhưng Đại Bồ-tát này đã trụ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên cũng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng, thì Đại Bồ-tát này vượt qua địa vị của các Thanh văn, Độc giác, gần được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, chắc chắn sẽ an trụ địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết về nghĩa thú của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hết lòng tin hiểu, không nghi ngờ, không hoang mang, chỉ nghĩ: Nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa như Phật đã dạy, tất nhiên quyết định không điên đảo. Đại Bồ-tát này nên nghĩ: Ta đối với nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa hết lòng tin hiểu chắc chắn rồi, ngay nơi đây hoặc ở chỗ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Bất Động và chỗ các Đại Bồ-tát nghe tất cả Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với nghĩa thú sâu xa hết lòng tin hiểu. Tin hiểu rồi siêng năng tu phạm hạnh, sẽ được địa vị Bất thối chuyển. Trụ địa vị này rồi mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào chỉ nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy còn được vô biên công đức lợi ích thù thắng, huống là hết lòng tin hiểu và tu hành đúng như lời dạy, buộc niệm tư duy về nghĩa thú sâu xa thì Đại Bồ-tát này an trụ chơn như, gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sẽ tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp nào lìa chơn như thì không đắc được. Vậy thì nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai là người có thể gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Người nào sẽ vì người nào và thuyết pháp yếu nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ông hỏi: Pháp nào lìa chơn như không đắc được, thì nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai là người gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Người nào sẽ vì người nào và thuyết pháp nào?

Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Pháp lìa chơn như hoàn toàn không thể đắc, như thế thì làm sao có thể nói pháp trụ chơn như.

Thiện Hiện! Chơn như còn không thể đắc, huống là có pháp trụ chơn như và làm sao lại có người có thể gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Và làm sao lại có người có thể vì người khác thuyết pháp.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như không thể tự trụ chơn như, vì trong đây hoàn toàn không có người trụ, sự trụ, nên chơn như không thể gần trí nhất thiết; vì trong đây hoàn toàn không có người gần và sự gần, nên chơn như không thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì trong đây hoàn toàn không có tánh sai biệt giữa người chứng đắc và sự chứng đắc. Chơn như không thể vì người thuyết pháp, vì trong đây hoàn toàn không có người thuyết, sự thuyết vậy. Vì thuận theo thế tục nên nói có Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ chơn như, gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa thú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, rất khó tin hiểu như vậy. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tuy biết các pháp đều bất khả đắc nhưng vẫn cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tìnhviệc làm rất khó. Vì sao? Vì nhất định không có pháp có thể trụ chơn như, cũng không có pháp có thể gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cũng không có người có thể tuyên thuyết pháp yếu nhưng các Bồ-tát nghe việc như vậy mà tâm không chìm đắm, không nghi, không ngờ, không kinh, không sợ, cũng không hoang mang… thì những việc như vậy thật là hiếm có.

Khi ấy, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Như lời ông nói, các chúng Bồ-tát nghe pháp sâu xa, tâm không chìm đắm, không nghi ngờ, không kinh, không sợ, cũng không hoang mang để cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tìnhviệc làm rất khó, thật hiếm có.

Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán các pháp đều Không, hoàn toàn không sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai nghi, ai ngờ, ai kinh, ai sợ, ai hoang mang? Thế nên việc này chưa phải là hiếm có, nhưng vì hữu tình ngu si điên đảo, chẳng thể thông đạt được các pháp đều Không, nên cầu Bồ-đề, muốn tuyên thuyết phương tiện thiện xảo thì chẳng phải quá khó.

Trời Đế Thích thưa:

- Tôn giả Thiện Hiện! Những điều tôn giả nói ra đều y vào Không, thế nên những lời nói ra thường không ngăn ngại. Như có người lấy mũi tên, ngữa mặt bắn lên hư không, hoặc xa hoặc gần đều không ngăn ngại. Những lời tôn giả nói ra cũng như vậy, hoặc sâu, hoặc cạn, tất cả đều y vào Không. Trong sự việc ấy, ai có thể dám gây trở ngại?

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì con cùng tôn giả Thiện Hiện đã luận bàn là thuận thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai. Ngay nơi pháp tùy phápnói đúng, phải không?

Thế Tôn bảo trời Đế Thích:

- Những sự luận bàn của ông và Thiện Hiện đều thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai. Ngay nơi pháp tùy pháplời nói không điên đảo. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì cụ thọ Thiện Hiệnbiện tài y vào Không mà trình bày được. Vì sao? Vì cụ thọ Thiện Hiện quán sát thấy tất cả pháp đều hoàn toàn Không:

Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa còn chẳng đắc, huống là có người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Trí nhất thiết còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc trí nhất thiết.

Chơn như còn chẳng đắc, huống là có người đắc chơn như, thành Như Lai.

Tánh vô sanh còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc tánh vô sanh.

Bồ-đề còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc Bồ-đề của Phật.

Mười lực còn chẳng đắc, huống là có người thành tựu mười lực.

Bốn điều không sợ còn chẳng đắc, huống là có người thành tựu bốn điều không sợ.

Các pháp còn chẳng đắc, huống là có người thuyết pháp.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì cụ thọ Thiện Hiện đối với tất cả pháp trụ, trụ viễn ly; đối với tất cả pháp trụ, trụ vô sở đắc; quán tất cả pháp hoàn toàn Không. Sự hành, người hành v.v… đều bất khả đắc vậy.

Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với tất cả pháp trụ, trụ viễn ly, trụ vô sở đắc, so với hành trụ vi diệu của các chúng Đại Bồ-tát đã trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, cho đến vô số cực phần cũng không bằng một.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì sự an trú vào hạnh vi diệu Bát-nhã ba-la-mật-đa của các chúng Đại Bồ-tát này đã trụ, trừ sự an trụ của Như Lai; đối với các trụ của các Bồ-tát, Độc giácThanh Văn khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì vậy nên, Kiều-thi-ca! Những Đại Bồ-tát nào muốn đối với tất cả hữu tình là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng trong chúng thì phải trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa, không được tạm rời bỏ.

 
XXVIII. PHẨM TÁN HOA

Bấy giờ trong đại hộivô lượng, vô số trời Ba mươi ba vui mừng hớn hở, đồng đem hương hoa vi diệu trên trời dâng lên Như Lai và các Bồ-tát. Khi ấy, trong chúng có sáu ngàn Bí-sô đều từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, lệch che y vai trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay, cúi đầu, hướng về Thế Tôn. Nhờ thần lực của Phật nên trong lòng bàn tay của mỗi người tự nhiên đầy dẫy hương hoa vi diệu. Chúng Bí-sô này vui mừng hớn hở, được điều chưa từng có. Mỗi người đem hoa này dâng lên Phật và các Bồ-tát. Dâng hoa xong, đồng phát nguyện:

- Nhờ năng lực căn lành thù thắng này, chúng con nguyện thường được an trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau thẳng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, Thế Tôn mỉm cười. Thường pháp của chư Phật, từ miệng phóng ra vô số hào quang xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích lục, màu vàng bạc, pha lê… chiếu khắp vô lượng, vô biên quốc độ của chư Phật, trên đến trời Phạm Thế, dưới thấu Phong luânlần hồi trở lại xoay quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi nhập vào nơi đỉnh đầu.

Khi ấy, A-nan-đà đứng dậy, chấp tay đảnh lễ Phật, bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào Thế Tôn hiện tướng mỉm cười như vậy? Chư Phật hiện mỉm cười chẳng phải là không có nhân duyên. Cúi xin Như Lai thương xót chỉ dạy.

Phật bảo A-nan-đà:

- Các Bí-sô này trong kiếp Tinh Dụ ở đời đương lai đều được thành Phật đồng danh hiệuTán Hoa, đầy đủ mười hiệu, số Thanh văn Tăng tất cả bằng nhau, số tuổi thọ cũng đồng hai mươi ngàn kiếp. Ngôn giáo của mỗi một đức Phật kia diễn ra, lý thú sâu rộng, lưu bố khắp trời người. Chánh pháp trụ thế hai vạn kiếp. Cõi nước của chư Phật kia rộng rãi, trang nghiêm thanh tịnh, người vật phồn thịnh, giàu vui. Các đức Như Lai kia ở cõi nước của mình đem các đệ tử du hành quanh khắp thôn, thành, làng xóm, quốc ấp, vương đô để chuyển vận bánh xe diệu pháp, độ chúng trời người, làm cho được lợi ích an vui thù thắng. Trụ xứ nơi các đức Thế Tôn kia qua lại, ngày đêm thường mưa hoa đẹp năm sắc. Do nhân duyên này nên Ta mỉm cười.

Thế nên, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn được an trụ tối thắng trụ thì phải trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát nào muốn được an trụ Như Lai trụ thì phải trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho được rốt ráo thì Đại Bồ-tát này đời trước, hoặc là từ loài người chết, sanh trở lại nơi đây; hoặc từ trên trời Đổ-sử-đa chết sanh lại nhơn gian. Vì sao? Vì Bồ-tát đó ở đời trước, hoặc ngay trong loài người, hoặc ở trên trời, do từng được nghe tất cả Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên đời này thường siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khánh Hỷ nên biết! Như Lai hiện thấy: nếu Đại Bồ-tát siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không đoái hoài đến thân mạng, của cải thì nhất định được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Loài hữu tình nào ưa thích lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe xong thọ trì, đọc tụng, biên chép, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, tuyên thuyết, mở bày, khuyên răn, chỉ dạy cho thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v... thì nên biết vị đó là Đại Bồ-tát, quá khứ từng gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Nghe xong, thọ trì, đọc tụng, biên chép, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, cũng từng vì người tuyên thuyết, mở bày, khuyên răn, chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên đời này có thể làm xong việc như vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Loài hữu tình này từng ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ trồng các căn lành nên đời này thường làm được những việc như vậy. Loài hữu tình này nên nghĩ thế này: Ta đời trước chẳng phải từ nơi Thanh văn v.v... nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, mà nhất định đã từ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy. Ta đời trước chẳng phải chỉ gần gũi, cúng dường, trồng các căn lành nơi Thanh văn v.v... mà nhật định đã gần gũi, cúng dường, trồng các căn lành nơi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Do nhân duyên này nên nay được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, ưa thích thọ trì, đọc tụng, biên chép, siêng năng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, tuyên thuyết cho tất cả hữu tình không hề mỏi mệt.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu hữu tình chẳng kinh, chẳng sợ, ưa thích lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe rồi thọ trì, đọc tụng, biên chép, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp. Hoặc pháp, hoặc nghĩa, hoặc văn, hoặc ý đều thông suốt hoàn toàntùy thuận tu học thì các hữu tình này chính là đang gần Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác của chúng ta.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu loài hữu tình nào nghe thuyết nghĩa thú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà hết lòng tin hiểu, không hủy báng, không ngăn cản, phá hoại, thì các hữu tình đó đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, đã trồng nhiều căn lành nơi chư Phật, cũng được vô lượng bạn lành hộ trì.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các hữu tình nào thường trồng các căn lành nơi ruộng phước tối thắng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thì không những nhất định sẽ đắc: hoặc quả Thanh văn, hoặc quả Độc giác, hoặc quả Như Lai, mà còn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì cần phải thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không ngăn ngại, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ-tát, làm cho thật viên mãn.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát có thể thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không chướng ngại, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ-tát thật viên mãn, mà Đại Bồ-tát này không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ trụ địa vị Thanh văn, Độc giác thì chắc chắn không có lẽ đó. Thế nên, nếu các Đại Bồ-tát nào muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không còn chướng ngại, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ-tát thật là viên mãn.

Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phó chúc cho ông. Ông nên thọ trì, đọc tụng thông suốt, đừng để quên mất.

Khánh Hỷ nên biết! Trừ kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ra, thọ trì các pháp khác mà Ta đã giảng thuyết, giả sử có quên mất thì tội đó còn nhẹ, nhưng nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thọ trì không đúng, cho đến chỉ quên mất một câu thì tội đó rất nặng.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đến có thể thọ trì đúng một câu chẳng quên mất thì được phước vô lượng. Còn nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thọ trì đúng, cho đến quên mất chỉ một câu thì mắc tội rất nặng, và lượng phước đồng như trước.

Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ân cần phó chúc cho ông. Ông phải tự mình thọ trì, đọc tụng cho thông suốt, tư duy đúng pháp, giảng thuyết, phân biệt, chỉ dạy cho tất cả mọi người, giúp cho người thọ trì hiểu rõ hoàn toàn văn nghĩa, ý thú.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tư duy đúng pháp và giảng thuyết rộng rãi cho tất cả mọi người, phân biệt, chỉ dạy, làm cho mọi người hiểu rõ thì Đại Bồ-tát này chính là người thọ trì, bảo vệ và làm cho phát triển sự chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu loài hữu tình nào phát tâm ân cần thanh tịnh, đang ở chỗ Ta, muốn đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Ta không mỏi mệt, thì nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn Bát-nhã ba-la-mật-đa, tư duy đúng pháp, giảng thuyết, phân biệt, chỉ dạy rộng rãi cho mọi người, làm cho họ hiểu rõ hoặc biên chép và dùng các thứ báu, trang sức xinh đẹp, thường đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, không nên lười bỏ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì chính là hiện tiền cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Ta và chư Phật trong mười phương ba đời.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phát tâm ân cần thanh tịnh, cung kính, ưa thích thì chính là phát tâm ân cần thanh tịnh, cung kính, ưa thích chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, hiện tại, vị lai.

Khánh Hỷ! Nếu ông ưa mến Ta, không xa rời Ta thì cũng phải ưa mến, không xa rời kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cho đến một câu cũng đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Ta nói nhân duyên phó chúc kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, dù trải qua vô lượng trăm ngàn đại kiếp cũng không thể nói hết. Tóm tắt mà nói, như Ta đã là Đại sư của các ông thì nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng là Đại sư của các ông. Các ông, trời, người, A-tố-lạc v.v... kính trọng Ta thì cũng phải kính trọng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thế nên, Khánh Hỷ! Ta dùng vô lượng phương tiện thiện xảo phó chúc kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho ông, ông nên thọ trì, không thể quên mất. Ta nay đem Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ở trước vô lượng đại chúng chư thiên, nhơn, A-tố-lạc v.v... phó chúc cho ông, ông nên thọ trì, đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Ta nay thành thật bảo ông: Những người với lòng tin thanh tịnh, muốn không bỏ Phật, muốn không bỏ Pháp, muốn không bỏ Tăng, lại muốn không bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật ba đời đã chứng, thì nhất định không nên xả bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như vậy gọi là pháp của chư Phật chúng ta khuyên răn, chỉ dạy các đệ tử.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào ưa thích lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thọ trì đọc tụng, thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng pháp, dùng vô lượng pháp môn giảng thuyết rộng rãi cho mọi người, phân biệt chỉ dạy, trình bày, xây dựng, làm cho người kia hiểu rõ, tinh tấn tu hành thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể mau viên mãn trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà được phát sanh vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà sanh ra quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là mẹ của các Đại Bồ-tát, sanh ra các Đại Bồ-tát vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào siêng học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba-la-mật-đa này giao phó cho ông, ông nên chính mình thọ trì, đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy chính là kho tàng pháp vô tận của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Tất cả pháp của Phật đều từ đây mà sinh ra.

Khánh Hỷ nên biết! Pháp yếu mà chư Phật Thế Tôn ba đời thuyết ra đều là từ kho tàng pháp vô tận của sáu pháp Ba-la-mật-đa lưu xuất ra.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương kho tàng pháp vô tận của sáu pháp Ba-la-mật-đa tinh tấn tu họcchứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết! Đệ tử Thanh văn của chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương kho tàng pháp vô tận của sáu pháp Ba-la-mật-đa tinh tấn tu học xong, chính mình sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử ông vì hạng người Thanh văn thừa thuyết pháp Thanh văn, do pháp này nên hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả đều đắc quả A-la-hán, cũng chưa vì Ta làm đệ tử Phật, làm việc nên làm. Nếu ông vì hạng người Bồ-tát thừa tuyên thuyết một câu pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì liền gọi là vì Ta làm đệ tử Phật, làm việc đáng làm. Ta rất tùy hỷ với việc làm như vậy, hơn người giáo hóa tất cả hữu tình ba ngàn đại thiên thế giới, làm cho đắc quả A-la-hán.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu tình ba ngàn đại thiên thế giới đều nhờ năng lực giáo hóa của người khác, đồng một lúc đều được thân người, đồng một lúc chứng quả A-la-hán. Các A-la-hán này đều đạt các việc phước nghiệp về thí tánh, giới tánh, tu tánh. Ý ông thế nào? Các việc phước nghiệp kia có nhiều không?

Khánh Hỷ bạch:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện thệ. Các việc phước nghiệp kia vô lượng, vô biên.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Nếu Thanh văn nào có thể thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho Bồ-tát trải qua một ngày đêm thì phước đạt được nhiều hơn người kia.

Khánh Hỷ nên biết! Để việc một ngày đêm qua một bên, chỉ chừng một ngày. Lại để một ngày qua một bên, chỉ chừng nửa ngày. Lại để nửa ngày qua một bên, chỉ chừng một giờ. Lại để một giờ qua một bên, chỉ chừng khoảng một bữa ăn. Lại để khoảng một bữa ăn qua một bên, chỉ chừng giây lát. Lại để khoảng giây lát qua một bên, chỉ chừng chốc lát. Lại để chốc lát qua một bên, chỉ chừng khoảng khảy móng tay, hạng người Thanh văn này thường tuyên thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho Bồ-tát thì phước đạt được càng nhiều hơn trước. Vì sao? Vì phước đạt được của hạng người Thanh văn này vượt qua tất cả các căn lành của Thanh vănĐộc giác vậy.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào tuyên thuyết các pháp cho Thanh văn, giả sử tất cả hữu tìnhthế giới tam thiên đại thiên nhờ pháp này nên đều chứng quả A-la-hán, đều đầy đủ các thứ phước thù thắng thì ý ông thế nào? Đại Bồ-tát này do nhân duyên như vậy, đạt được phước có nhiều không?

Khánh Hỷ thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện thệ!. Phước đức của Đại Bồ-tát này đạt được nhiều vô lượng, vô biên.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Nếu Đại Bồ-tát nào tuyên thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các thiện nam tử Thanh văn thừa v.v…, hoặc thiện nam tử Độc giác thừa v.v…, hoặc thiện nam tử Vô thượng thừa v.v..., trải qua một ngày đêm thì phước đạt được càng nhiều hơn trước.

Khánh Hỷ nên biết! Để việc một ngày đêm qua một bên, chỉ chừng một ngày. Lại để một ngày qua một bên, chỉ chừng nửa ngày. Lại để nửa ngày qua một bên, chỉ chừng một giờ. Lại để một giờ qua một bên, chỉ chừng khoảng một bữa ăn. Lại để khoảng một bữa ăn qua một bên, chỉ chừng giây lát. Lại để khoảng giây lát qua một bên, chỉ chừng chốc lát. Lại để chốc lát qua một bên, chỉ chừng khoảng khảy móng tay, Đại Bồ-tát này thường tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các thiên nam tử Tam thừa v.v… thì phước đức đạt được càng nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vượt qua tất cả pháp thí tương ưng Thanh văn, Độc giác và các căn lành của Nhị thừa kia vậy. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát này tự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng dùng pháp tương ưng Đại thừa chỉ dạy, khuyến khích, dắt dẫn, khen ngợi, khích lệ vui mừng các hữu tình khác, làm cho được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát này tự tu bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng dạy người khác tu bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tự trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, cũng dạy người khác trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Tự trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng dạy người khác trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Tự trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng dạy người khác trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tự tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, cũng dạy người khác tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tự tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng dạy người khác tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tự tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng dạy người khác tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tự tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng dạy người khác tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tự tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, cũng dạy người khác tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tự tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, cũng dạy người khác tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tự tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng dạy người khác tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tự tu mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng dạy người khác tu mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tự tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, cũng dạy người khác tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tự tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, cũng dạy người khác tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tự tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng dạy người khác tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tự tu hạnh Đại Bồ-tát, cũng dạy người khác tu hạnh Đại Bồ-tát. Tự tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng dạy người khác tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tự tu trí nhất thiết trí, cũng dạy người khác tu trí nhất thiết trí. Nhờ nhân duyên này, căn lành tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát này thành tựu căn lành thù thắng như thế, nhớ nghĩ đến căn lành thù thắng như thế mà thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chắc chắn không có lẽ đó.

Bấy giờ, bốn chúng vây quanh đức Thế Tôn, Ngài khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa, giao phó, dạy bảo A-nan-đà để thọ trì xong, lại ở trong đại hội trước đại chúng tất cả trời, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v... bằng năng lực thần thông, làm cho đại chúng đều thấy Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác với đại chúng Thanh văn, Bồ-tát vây quanh tuyên thuyết diệu pháp cho hội Hải dụ và thấy tướng nghiêm tịnh của cõi kia.

Thanh văn Tăng cõi đó đều là A-la-hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn thật tự tại, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, như ngựa khôn được điêu luyện, cũng như rồng lớn, việc đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ các gánh nặng, đạt được lợi ích, dứt các trói buột, tự biết đã được giải thoát, tâm chí tự tại rốt ráo hàng đầu.

Bồ-tát Tăng ở cõi đó, tất cả đều là mọi người đều biết, đã đắc Đà-la-ni và vô ngại biện tài, thành tựu vô lượng công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, không thể đo lường.

Phật thu hồi thần lực làm cho hội chúng trời, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược v.v... này không còn thấy Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Bồ-tát kia và đại chúng khác cùng tướng trang nghiêm, thanh tịnh của cõi Phật kia. Chúng hội và cõi trang nghiêm thanh tịnh của Phật kia hoàn toàn chẳng phải đối tượng của nhãn căn ở cõi này thấy tới được. Vì sao? Vì Phật thu hồi thần lực nên không thể thấy được cảnh ở xa kia vậy.

Khi ấy, Phật hỏi A-nan-đà:

- Ông có còn thấy cõi nước và chúng hội của Như Lai Bất Động nữa không?

A-nan-đà thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không còn thấy những việc đó, vì chẳng phải khả năng của mắt này đạt tới được.

Phật bảo cụ thọ A-nan-đà:

- Như chúng hội và cõi nước của Như Lai kia chẳng phải là cảnh giới của mắt ở cõi này có thể thấy được. Nên biết, các pháp cũng như vậy, chẳng phải cảnh giớinhãn căn v.v... có thể đạt tới được.

Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không tác dụng. Người thủ, sự thủ đều như hư không, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều như người do biến hóa, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v... chẳng chắc thật vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy, luôn chứng như vậy thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không chấp trước tướng các pháp này.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn được mau chứng viên mãn tất cả Ba-la-mật-đa cho đến rốt ráo tất cả pháp đến bờ kia thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì người học như vậy đối với các pháp học là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, làm lợi ích an lạc cho tất cả thế gian, là nơi nương tựa, giúp đỡ cho người không nơi nương tựa, giúp đỡ. Chư Phật Thế Tôn cho phép, khen ngợi người tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật Bồ-tát học pháp học này xong, trụ trong pháp học đó, thường dùng ngón tay phải hoặc ngón chân phải lấy thế giới tam thiên đại thiên ném qua phương khác, hoặc trả lại chỗ cũ mà hữu tình trong đó chẳng hay biết, chẳng tổn hại, chẳng sợ hãi. Vì sao? Vì công đức oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật và các Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại học Bát-nhã ba-la-mật-đa này đối với quá khứ, vị lai, hiện tạipháp vô vi đều được tri kiến vô ngại.

Thế nên, Khánh Hỷ! Ta bảo: Thường học Bát-nhã ba-la-mật-đa là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng trong các pháp học.

Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn nắm lấy lượng và biên giới của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì cũng giống như kẻ ngu si muốn nắm lấy lượng và biên giới của hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vô lượng, không biên giới vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Ta hoàn toàn không nói công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như danh thân v.v... có biên giới, có hạn lượng. Vì sao? Vì danh cú, văn thân là pháp có hạn lượng, còn công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xapháp không có hạn lượng, chẳng phải danh thân v.v... có thể lường được công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa lường được kia.

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên nào nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là không lường?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa tánh vô tận nên nói là không lường, tánh viễn ly nên nói là không lường, tánh vắng lặng nên nói là không lường, như Niết-bàn nên nói là không lường, như hư không nên nói là không lường, nhiều công đức nên nói là không lường, không biên cương nên nói là không lường, không thể lường nên nói là không lường.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều học Bát-nhã ba-la-mật-đa, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề viên mãn hoàn toàn, tuyên thuyết chỉ dạy cho các hữu tình nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này luôn không dứt hết. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rộng lớn như hư không không thể cùng tận vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn cùng tận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tức là muốn cùng tận biên giới hư không. Thế nên, Khánh Hỷ! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nói là không cùng tận. Do không cùng tận nên nói là không lường.

Khi ấy, Thiện Hiện nghĩ: Chỗ này sâu xa, ta nên thưa hỏi Phật. Nghĩ xong, bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này vì lẽ gì Như Lai dạy là không cùng tận?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như hư không rộng lớn, không thể cùng tận nên nói là không cùng tận.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát làm thế nào để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát nên quán sắc vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thọ, tưởng, hành, thức vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên quán sắc như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thọ, tưởng, hành, thức, như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp, xứ như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên làm như thế để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát quán sát mười hai duyên khởi xa lìa hai bên như thế. Các Đại Bồ-tát quán sát mười hai duyên khởi không chính giữa, không chung quanh. Đây là Diệu quán bất cộng của chúng Đại Bồ-tát. Nghĩa là cần phải an tọa tòa Bồ-đề vi diệu mới có thể quán sát đúng đắn lý thú sâu xa của mười hai duyên khởi như thế, như hư không rộng lớn không thể cùng tận nên mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào đem hành tướng như hư không vô tận thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát đúng đắn mười hai duyên khởi, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Đại Bồ-tát nào thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì đều là do không y vào ý nghĩ phương tiện thiện xảo như thế. Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà không hiểu biết đúng thì nên dùng hành tướng vô tận nào để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa? Nên dùng hành tướng vô tận nào để quán sát đúng mười hai duyên khởi?

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nếu thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì đều là do xa lìa phát khởi phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nếu không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì tất cả đều do y vào và phát khởi phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát này nhờ y vào phương tiện thiện xảo như vậy để thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng hành tướng như hư không vô tận để quán sát đúng mười hai duyên khởi. Do nhân duyên này nên mau có thể viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau có thể chứng được trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát khi quán sát pháp duyên khởi như vậy không thấy có một pháp nào là không do nhân mà sanh ra, không thấy có một pháp nào tánh tướng thường trụ, không thấy có một pháp nào có người tạo tác và lãnh thọ.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng hành tướng như hư không vô tận, quán sát đúng mười hai duyên khởi để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu các hạnh của Đại Bồ-tát để mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng hành tướng như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán sát đúng mười hai duyên khởi thì bấy giờ Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc uẩn, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, uẩn.

Chẳng thấy nhãn xứ; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng thấy sắc xứ; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng thấy nhãn giới; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng thấy sắc giới; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng thấy nhãn thức giới; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng thấy nhãn xúc; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Chẳng thấy địa giới; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Chẳng thấy nhân duyên; chẳng thấy đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Chẳng thấy vô minh; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não.

Chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Chẳng thấy pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.

Chẳng thấy chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Chẳng thấy Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Chẳng thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Chẳng thấy bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Chẳng thấy pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Chẳng thấy tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Chẳng thấy Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Chẳng thấy Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.

Chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Chẳng thấy năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Chẳng thấy mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Chẳng thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.

Chẳng thấy pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Chẳng thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Chẳng thấy quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề.

Chẳng thấy tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Chẳng thấy quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Chẳng thấy trí nhất thiết trí.

Chẳng thấy thế giới của đức Phật này, chẳng thấy thế giới của đức Phật kia.

Chẳng thấy có pháp có thể thấy được thế giới của Phật này, Phật kia.

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào thường thực hành như vậy thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì bấy giờ ác ma rất buồn khổ như trúng tên độc. Ví như có người chết mất cha mẹ, thân tâm buồn khổ, ác ma cũng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Chỉ có một ác ma thấy các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất buồn khổ như trúng tên độc, hay là có nhiều ác ma? Hay tất cả ác ma khắp thế giới tam thiên đại thiên cũng đều như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả ác ma khắp thế giới tam thiên đại thiên thấy các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đều rất buồn khổ như trúng tên độc. Mỗi người chẳng thể an ổn nơi chỗ ngồi của mình. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát nào trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... xét tìm lỗi của người đó hoàn toàn chẳng thể được, cũng chẳng thể làm rối loạn, chướng ngại được.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì phải siêng năng an trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thường siêng năng an trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì thường tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể chính mình tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể tu đầy đủ viên mãn tất cả Ba-la-mật-đa, có thể biết rõ ràng việc khó khăn xảy ra để xa lìa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn chính mình thủ hộ phương tiện thiện xảo thì nên thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy chư Phật Thế Tônvô lượng vô số thế giới hiện đang thuyết pháp, tất cả đều hộ niệm. Đại Bồ-tát này nên nghĩ: Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sanh ra trí nhất thiết. Đại Bồ-tát này nghĩ như vậy xong, lại nên suy nghĩ: Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc pháp, ta cũng sẽ chứng đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, suy nghĩ như vậy trải qua khoảnh khắc khảy móng tay thì công đức sanh ra hơn công đức đạt được của các chúng Bồ-tát trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu hạnh bố thí, huống là có thể trải qua một ngày, hay nửa ngày tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhớ nghĩ, tư duy về công đức của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào trải qua một ngày, hoặc cho đến chỉ trải qua trong khoảng khảy móng tay, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhớ nghĩ tư duy công đức của chư Phật thì Đại Bồ-tát này không lâu sẽ trụ địa vị Bất thối chuyển. Đại Bồ-tát này thường được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thường được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hộ niệm thì nhất định chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng còn rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... Đại Bồ-tát này quyết định chẳng còn đọa vào các nẻo ác, quyết định không sanh trong các địa ngục vô gián, thường sanh nẻo lành, không xa lìa chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhớ nghĩ, tư duy về công đức của chư Phật trải qua khoảng khảy móng tay thì còn được vô biên công đức lợi ích thù thắng, huống là trải qua một ngày, hoặc hơn một ngày tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhớ nghĩ, tư duy về công đức của chư Phật, như Đại Bồ-tát Hương Tượng thường luôn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhớ nghĩ, tư duy công đức của chư Phật thường không xa lìa, thì Đại Bồ-tát này nay tu hành phạm hạnh, ở chỗ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Bất Động.

Quyển thứ 554
HẾT

 
XXIX. PHẨM TÙY THUẬN

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên quán các pháp không hòa hợp để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không phân biệt để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không phá hoại để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không biến đổi để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không biểu hiện để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp theo hiểu biết để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chỉ có trình bày giả danh để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chỉthiết lập giả thuyết để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chỉ giả tạo, không nơi chốn, không thời gian, cũng không thật sự có thể tuyên thuyết để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chỉ có tánh-tướng-dụng hư giả để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc uẩn không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thọ, tưởng, hành, thức uẩn không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không tướng trạng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tướng thông đạt các pháp để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sự thanh tịnh của bổn tánh các pháp để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không nói năng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không sanh v.v... để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không diệt v.v... để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp Niết-bàn v.v... để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chơn như v.v... để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không đến đi để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không mình và người để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp mình và người để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp bản tánh tịnh của phàm phu và Thánh để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vứt bỏ gánh nặng, không phát triển lợi ích các pháp nữa để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không phương tiện để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì bản tánh sắc uẩn không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhãn xứ không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh sắc xứ không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhãn giới không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh sắc giới không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhãn thức giới không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhãn xúc không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh địa giới không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhân duyên không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh vô minh không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não không phương hướng, không nơi chốn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nên quán các pháp tịch diệt, an lạc để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không ái, không lìa ái để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không nhiễm, không lìa nhiễm để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì tánh chơn thật của sắc uẩn không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của thọ, tưởng, hành, thức uẩn không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhãn xứ không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của sắc xứ không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhãn giới không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của sắc giới không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhãn thức giới không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhãn xúc không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của địa giới không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhân duyên không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của vô minh không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não không nhiễm, không lìa nhiễm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nên quán các pháp hoàn toàn thanh tịnh để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không dính mắc, lìa dính mắc để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp giác ngộ Bồ-đề và Phật trí để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không, vô tướng, vô nguyện để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp lương dược từ biđứng đầu để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp từ trú, phạm trú không chấp thủ, không vượt qua để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp đối với các hữu tình không giận, không hờn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán biển cả không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán hư không không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc uẩn lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc uẩn không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thọ, tưởng, hành, thức uẩn không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán ánh sáng mặt trời chiếu soi không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả âm thanh không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả hữu tình không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán pháp lành chứa nhóm không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp đắc định không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả Phật pháp không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả pháp không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tánh Không không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả tâm và tâm sở không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tâm hành không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán pháp lành không chuyển biến để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán pháp bất thiện vô lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả pháp như Sư tử rống để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì sắc uẩn như biển lớn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như biển lớn.

Nhãn xứ như biển lớn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như biển lớn.

Sắc xứ như biển lớn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như biển lớn.

Nhãn giới như biển lớn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như biển lớn.

Sắc giới như biển lớn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như biển lớn.

Nhãn thức giới như biển lớn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như biển lớn.

Nhãn xúc như biển lớn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như biển lớn.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như biển lớn. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như biển lớn.

Địa giới như biển lớn. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như biển lớn.

Nhân duyên như biển lớn. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như biển lớn.

Vô minh như biển lớn. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như biển lớn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như hư không. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như hư không.

Nhãn xứ như hư không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hư không.

Sắc xứ như hư không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như hư không.

Nhãn giới như hư không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như hư không.

Sắc giới như hư không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như hư không.

Nhãn thức giới như hư không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như hư không.

Nhãn xúc như hư không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hư không.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hư không. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hư không.

Địa giới như hư không. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hư không.

Nhân duyên như hư không. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hư không.

Vô minh như hư không. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như hư không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Thọ, tưởng hành, thức như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhãn xứ như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Sắc xứ như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhãn giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Sắc giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhãn thức giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhãn xúc như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Địa giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhân duyên như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Vô minh như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như mặt trời sanh ánh sáng. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhãn xứ như mặt trời sanh ánh sáng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như mặt trời sanh ánh sáng.

Sắc xứ như mặt trời sanh ánh sáng. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhãn giới như mặt trời sanh ánh sáng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như mặt trời sanh ánh sáng.

Sắc giới như mặt trời sanh ánh sáng. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhãn thức giới như mặt trời sanh ánh sáng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhãn xúc như mặt trời sanh ánh sáng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như mặt trời sanh ánh sáng.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như mặt trời sanh ánh sáng. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như mặt trời sanh ánh sáng.

Địa giới như mặt trời sanh ánh sáng. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhân duyên như mặt trời sanh ánh sáng. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như mặt trời sanh ánh sáng.

Vô minh như mặt trời sanh ánh sáng. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như mặt trời sanh ánh sáng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như âm thanh không giới hạn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như âm thanh không giới hạn.

Nhãn xứ như âm thanh không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như âm thanh không giới hạn.

Sắc xứ như âm thanh không giới hạn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như âm thanh không giới hạn.

Nhãn giới như âm thanh không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như âm thanh không giới hạn.

Sắc giới như âm thanh không giới hạn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như âm thanh không giới hạn.

Nhãn thức giới như âm thanh không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như âm thanh không giới hạn.

Nhãn xúc như âm thanh không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như âm thanh không giới hạn.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như âm thanh không giới hạn. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như âm thanh không giới hạn.

Địa giới như âm thanh không giới hạn. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như âm thanh không giới hạn.

Nhân duyên như âm thanh không giới hạn. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như âm thanh không giới hạn.

Vô minh như âm thanh không giới hạn. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như âm thanh không giới hạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như hữu tình giới không giới hạn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như hữu tình giới không giới hạn.

Nhãn xứ như hữu tình giới không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hữu tình giới không giới hạn.

Sắc xứ như hữu tình giới không giới hạn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như hữu tình giới không giới hạn.

Nhãn giới như hữu tình giới không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như hữu tình giới không giới hạn.

Sắc giới như hữu tình giới không giới hạn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như hữu tình giới không giới hạn.

Nhãn thức giới như hữu tình giới không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như hữu tình giới không giới hạn.

Nhãn xúc như hữu tình giới không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hữu tình giới không giới hạn.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hữu tình giới không giới hạn. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hữu tình giới không giới hạn.

Địa giới như hữu tình giới không giới hạn. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hữu tình giới không giới hạn.

Nhân duyên như hữu tình giới không giới hạn. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hữu tình giới không giới hạn.

Vô minh như hữu tình giới không giới hạn. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như hữu tình giới không giới hạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như đất không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như đất không biên giới.

Nhãn xứ như đất không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như đất không biên giới.

Sắc xứ như đất không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như đất không biên giới.

Nhãn giới như đất không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như đất không biên giới.

Sắc giới như đất không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như đất không biên giới.

Nhãn thức giới như đất không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như đất không biên giới.

Nhãn xúc như đất không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như đất không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như đất không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như đất không biên giới.

Địa giới như đất không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như đất không biên giới.

Nhân duyên như đất không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như đất không biên giới.

Vô minh như đất không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như đất không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như nước không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như nước không biên giới.

Nhãn xứ như nước không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như nước không biên giới.

Sắc xứ như nước không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như nước không biên giới.

Nhãn giới như nước không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như nước không biên giới.

Sắc giới như nước không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như nước không biên giới.

Nhãn thức giới như nước không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như nước không biên giới.

Nhãn xúc như nước không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như nước không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như nước không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như nước không biên giới.

Địa giới như nước không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như nước không biên giới.

Nhân duyên như nước không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như nước không biên giới.

Vô minh như nước không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như nước không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như lửa không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như lửa không biên giới.

Nhãn xứ như lửa không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như lửa không biên giới.

Sắc xứ như lửa không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như lửa không biên giới.

Nhãn giới như lửa không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như lửa không biên giới.

Sắc giới như lửa không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như lửa không biên giới.

Nhãn thức giới như lửa không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như lửa không biên giới.

Nhãn xúc như lửa không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như lửa không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như lửa không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như lửa không biên giới.

Địa giới như lửa không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như lửa không biên giới.

Nhân duyên như lửa không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như lửa không biên giới.

Vô minh như lửa không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như lửa không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như gió không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như gió không biên giới.

Nhãn xứ như gió không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như gió không biên giới.

Sắc xứ như gió không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như gió không biên giới.

Nhãn giới như gió không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như gió không biên giới.

Sắc giới như gió không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như gió không biên giới.

Nhãn thức giới như gió không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như gió không biên giới.

Nhãn xúc như gió không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như gió không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như gió không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như gió không biên giới.

Địa giới như gió không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như gió không biên giới.

Nhân duyên như gió không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như gió không biên giới.

Vô minh như gió không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như gió không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như hư không không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như hư không không biên giới.

Nhãn xứ như hư không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hư không không biên giới.

Sắc xứ như hư không không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như hư không không biên giới.

Nhãn giới như hư không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như hư không không biên giới.

Sắc giới như hư không không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như hư không không biên giới.

Nhãn thức giới như hư không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như hư không không biên giới.

Nhãn xúc như hư không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hư không không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hư không không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hư không không biên giới.

Địa giới như hư không không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hư không không biên giới.

Nhân duyên như hư không không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hư không không biên giới.

Vô minh như hư không không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu bi, khổ, ưu não như hư không không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn lìa tướng, tập họp thiện. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa tướng tập họp thiện.

Nhãn xứ lìa tướng tập họp thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa tướng tập họp thiện.

Sắc xứ lìa tướng tập họp thiện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa tướng tập họp thiện.

Nhãn giới lìa tướng tập họp thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa tướng tập họp thiện.

Sắc giới lìa tướng tập họp thiện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa tướng tập họp thiện.

Nhãn thức giới lìa tướng tập họp thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa tướng tập họp thiện.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra lìa tướng tập họp thiện. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra lìa tướng tập họp thiện.

Địa giới lìa tướng tập họp thiện. thủy, hỏa, phong, không, thức giới lìa tướng tập họp thiện.

Nhân duyên lìa tướng tập họp thiện. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên lìa tướng tập họp thiện.

Vô minh lìa tướng tập họp thiện. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não lìa tướng tập họp thiện.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn lìa tướng tập họp pháp. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa tướng tập họp pháp.

Nhãn xứ lìa tướng tập họp pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa tướng tập họp pháp.

Sắc xứ lìa tướng tập họp pháp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa tướng tập họp pháp.

Nhãn giới lìa tướng tập họp pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa tướng tập họp pháp.

Sắc giới lìa tướng tập họp pháp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa tướng tập họp pháp.

Nhãn thức giới lìa tướng tập họp pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa tướng tập họp pháp.

Nhãn xúc lìa tướng tập họp pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc lìa tướng tập họp pháp.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra lìa tướng tập họp pháp. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra lìa tướng tập họp pháp.

Địa giới lìa tướng tập họp pháp. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới lìa tướng tập họp pháp.

Nhân duyên lìa tướng tập họp pháp. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên lìa tướng tập họp pháp.

Vô minh lìa tướng tập họp pháp. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não lìa tướng tập họp pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như định không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như định không biên giới.

Nhãn xứ như định không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như định không biên giới.

Sắc xứ như định không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như định không biên giới.

Nhãn giới như định không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như định không biên giới.

Sắc giới như định không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như định không biên giới.

Nhãn thức giới như định không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như định không biên giới.

Nhãn xúc như định không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như định không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như định không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như định không biên giới.

Địa giới, như định không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như định không biên giới.

Nhân duyên như định không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như định không biên giới.

Vô minh như định không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như định không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn, lìa tự tánh sắc uẩn, chơn như sắc uẩnPhật pháp. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa tự tánh thọ uẩn v.v... chơn như thọ uẩn v.v... là Phật pháp.

Nhãn xứ, lìa tự tánh nhãn xứ, chơn như nhãn xứ là Phật pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa tự tánh nhĩ xứ v.v... chơn như nhĩ xứ v.v... là Phật pháp.

Sắc xứ, lìa tự tánh sắc xứ, chơn như sắc xứPhật pháp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa tự tánh thanh xứ v.v... chơn như thanh xứ v.v... là Phật pháp.

Nhãn giới lìa tự tánh nhãn giới, chơn như nhãn giớiPhật pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa tự tánh nhĩ giới v.v... chơn như nhĩ giới v.v... là Phật pháp.

Sắc giới lìa tự tánh sắc giới, chơn như sắc giớiPhật pháp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa tự tánh thanh giới v.v... chơn như thanh giới v.v... là Phật pháp.

Nhãn thức giới lìa tự tánh nhãn thức giới, chơn như nhãn thức giớiPhật pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa tự tánh nhĩ thức giới v.v... chơn như nhĩ thức giới v.v... là Phật pháp.

Nhãn xúc lìa tự tánh nhãn xúc, chơn như nhãn xúc là Phật pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, lìa tự tánh nhĩ xúc v.v... chơn như nhĩ xúc v.v... là Phật pháp.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, lìa tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chơn như các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Phật pháp. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, lìa tự tánh nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ v.v... chơn như nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ v.v... là Phật pháp.

Địa giới lìa tự tánh địa giới, chơn như địa giới v.v... là Phật pháp. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới, lìa tự tánh thủy giới v.v... chơn như thủy giới v.v... là Phật pháp.

Nhân duyên lìa tự tánh nhơn duyên, chơn như nhân duyên, là Phật pháp. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên lìa tự tánh đẳng vô gián duyên v.v... chơn như đẳng vô gián duyên v.v... là Phật pháp.

Vô minh lìa tự tánh vô minh, chơn như vô minhPhật pháp. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não, lìa tự tánh hành v.v... chơn như hành v.v... là Phật pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn, pháp tánh không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn, pháp tánh không biên giới.

Nhãn xứ, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, pháp tánh không biên giới.

Sắc xứ, pháp tánh không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, pháp tánh không biên giới.

Nhãn giới, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, pháp tánh không biên giới.

Sắc giới, pháp tánh không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, pháp tánh không biên giới.

Nhãn thức giới, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, pháp tánh không biên giới.

Nhãn xúc, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, pháp tánh không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, pháp tánh không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, pháp tánh không biên giới.

Địa giới, pháp tánh không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới, pháp tánh không biên giới.

Nhân duyên, pháp tánh không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, pháp tánh không biên giới.

Vô minh, pháp tánh không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não, pháp tánh không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn Không, pháp tánh không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không, pháp tánh không biên giới.

Nhãn xứ Không, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Không, pháp tánh không biên giới.

Sắc xứ Không, pháp tánh không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Không, pháp tánh không biên giới.

Nhãn giới Không, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Không, pháp tánh không biên giới.

Sắc giới Không, pháp tánh không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Không, pháp tánh không biên giới.

Nhãn thức giới Không, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Không, pháp tánh không biên giới.

Nhãn xúc Không, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Không, pháp tánh không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Không, pháp tánh không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra Không, pháp tánh không biên giới.

Địa giới Không, pháp tánh không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới Không, pháp tánh không biên giới.

Nhân duyên Không, pháp tánh không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên Không, pháp tánh không biên giới.

Vô minh Không, pháp tánh không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não Không, pháp tánh không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh sắc uẩn vậy. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh thọ uẩn v.v...

Nhãn xứ, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhãn xứ vậy. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ xứ v.v...

Sắc xứ, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh sắc xứ vậy. Thanh, hương, vị xúc, pháp xứ, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh thanh xứ v.v...

Nhãn giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhãn giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ giới v.v...

Sắc giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh thanh giới v.v...

Nhãn thức giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ thức giới v.v...

Nhãn xúc, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhãn xúc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ xúc v.v...

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ v.v...

Địa giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh thủy giới v.v...

Nhân duyên, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhân duyên. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh đẳng vô gián duyên v.v...

Vô minh, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh hành v.v...

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhãn xứ thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Sắc xứ thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhãn giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Sắc giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhãn thức giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhãn xúc thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Địa giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhân duyên thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Vô minh thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn không động. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không động.

Nhãn xứ không động. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không động.

Sắc xứ không động. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không động.

Nhãn giới không động. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không động.

Sắc giới không động. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không động.

Nhãn thức giới không động. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không động.

Nhãn xúc không động. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không động.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không động. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không động.

Địa giới không động. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới không động.

Nhân duyên không động. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không động.

Vô minh không động. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não không động.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như sư tử rống. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như sư tử rống.

Nhãn xứ như sư tử rống. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như sư tử rống.

Sắc xứ như sư tử rống. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như sư tử rống.

Nhãn giới như sư tử rống. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như sư tử rống.

Sắc giới như sư tử rống. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như sư tử rống.

Nhãn thức giới như sư tử rống. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như sư tử rống.

Nhãn xúc như sư tử rống. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như sư tử rống.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như sư tử rống. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như sư tử rống.

Địa giới như sư tử rống. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như sư tử rống.

Nhân duyên như sư tử rống. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như sư tử rống.

Vô minh như sư tử rống. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như sư tử rống.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nếu có thể tư duy, quán sát, giác ngộ các uẩn như vậy thì tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền có thể xa lìa ý nghĩ dua nịnh. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ kiêu ngạo. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ khen mình. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ chê người. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ ngã tưởng. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ danh lợi. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ năm triền cái. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ tham lam ganh ghét. Nhờ vậy, cũng có thể được viên mãn tất cả công đức chơn tịnh hiếm có, khó đạt được; cũng có thể được viên mãn việc làm xinh đẹpthanh tịnh cõi Phật. Cũng có thể viên mãn Phật pháp vô thượng, đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi đức Thế Tôn thuyết kinh này xong, vô lượng chúng Đại Bồ-tát với Bồ-tát Từ Thị làm thượng thủ, cụ thọ Thiện Hiện và Xá-lợi Tử, A-nan-đà v.v... các Đại Thanh văn cùng các trời, rồng, A-tố-lạc, v.v.. Tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Quyển thứ 555
HẾT

 
HỘI THỨ 5
I. PHẨM THIỆN HIỆN

Tôi nghe như vầy:

Một thời Thế Tôn ngự ở đỉnh núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng Đại Bí-sô một vạn hai ngàn người đều là bậc A-la-hán. Cụ thọ Thiện Hiện, Xá-lợi Tử v.v... làm Thượng thủ, ngoại trừ Hiền giả A-nan-đà còn ở bậc hữu học. Lại có vô lượng vô số Đại Bồ-tát đắc vô ngại biện, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Diệu Cát Tường v.v... làm Thượng thủ.

Khi ấy, đức Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Thầy hãy dùng biện tài tuyên thuyết, chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho chúng Đại Bồ-tát để cho các chúng Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được thành tựu.

Khi ấy, Xá-lợi Tử nghĩ: Cụ thọ Thiện Hiện do tự lực của mình tuyên thuyết chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát, hay là nhờ năng lực oai thần của Như Lai để thuyết?

Ngài Thiện Hiện biết được ý nghĩ của ngài Xá-lợi Tử nên thưa:

- Những lời chỉ dạy của đệ tử Phật đều là nhờ vào năng lực oai thần của Như Lai. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì chư Phật giảng thuyết pháp yếu cho các đệ tử, các đệ tử y theo lời Phật dạy tinh tấn tu học cho đến lúc chứng được tánh thật của các pháp; chứng xong chỉ dạy lại cho người khác. Nếu không trái với tánh thật của các pháp thì đó là nhờ oai thần của Như Lai, cũng là sự chứng nhập dòng pháp tánh bình đẳng. Thế nên việc tôi sẽ chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát đều là nhờ năng lực oai thần của Như Lai.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn dạy con chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được thành tựu.

Kính bạch Thế Tôn! Nói các Bồ-tát là khái niệm về pháp nào để gọi là Bồ-tát?

Kính bạch Thế Tôn! Vì con chẳng thấy có pháp nào được gọi là Đại Bồ-tát, cũng chẳng thấy có pháp nào được gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kính bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy, chẳng đắc Bồ-tát và pháp Bồ-tát. Cũng chẳng thấy, chẳng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa thì làm sao bảo con chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát?

Kính bạch Thế Tôn! Con dạy những Đại Bồ-tát nào, tu hành những Bát-nhã ba-la-mật-đa gì để cho mau được thành tựu?

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết những lời này, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ, y như lời dạy mà an trụ, mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát đó đáng được chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa để cho mau thành tựu. Vì nếu không có sự chấp trước thì chính đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên học như vầy: học rằng không nên chấp đắm tâm Bồ-tát này. Vì sao? Vì tâm này chẳng phải tâm, vì bản tánh thanh tịnh vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tâm này chẳng phải tâm tánh phải không?

Thiện Hiện hỏi lại Xá-lợi Tử:

- Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không là có thể đắc, phải không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thưa không, Thiện Hiện.

Thiện Hiện lại bảo:

- Này Xá-lợi Tử! Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không và đã không thể đắc. Như vậy thì làm sao có thể hỏi tâm này chẳng phải là tâm tánh phải không?

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Những gì gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu không hư hoại, cũng không sai khác thì chính đó gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh.

Xá-lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời thầy nói, Phật dạy: Thầy là người trụ định Vô tránh cùng tột hàng đầu. Thật đúng như lời Thánh dạy. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết lời này, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, chẳng kinh, chẳng sợ, y như lời dạy mà an trụ, mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát này đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát nào quán sát tâm chẳng phải tâm tánh như thế thì Đại Bồ-tát này chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình nào muốn siêng tu học hoặc địa vị Thanh văn, hoặc địa vị Độc giác, hoặc địa vị Bồ-tát thì thường nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa cho thông suốt hoàn toàn và đúng như lời dạy mà tu hành. Vì sao? Vì trong giáo nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này giảng thuyết rộng rãi về tất cả pháp cần nên học. Các Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì ở nơi nào cũng đều được thiện xảo.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Tâm Bồ-tát con không biết, cũng không đắc. Chúng Đại Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật-đa con cũng đều không thấy có thật sự nào có thể đắc thì làm sao bảo con tuyên thuyết, chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát?

Kính bạch Thế Tôn! Con quán sát tất cả hoặc sanh hoặc diệt, hoặc nhiễm hoặc tịnh hoàn toàn bất khả đắc, nhưng trong đó nói có danh tự Bồ-tát và Bát-nhã v.v... nên có sự nghi ngờ.

Kính bạch Thế Tôn! Tên Bồ-tát v.v... hoàn toàn không xác định, cũng không có chỗ ở. Vì sao? Vì tên Bồ-tát v.v... hoàn toàn không sở hữupháp không sở hữu thì không định, không trụ. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết việc này, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ thì nên biết Đại Bồ-tát này chắc chắn an trụ địa vị Bất thối chuyển, dùng vô sở trụ để làm phương tiện trụ không chỗ trụ.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nên trụ sắc, cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì nếu trụ sắc thì hành theo sắc, chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu trụ thọ, tưởng, hành, thức thì hành theo thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì chẳng phải người thực hành có thể giữ gìn được Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu không thể giữ gìn được Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng thể tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu chẳng thể tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng thể viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu chẳng thể viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng thể thành tựu trí nhất thiết trí. Nếu chẳng thể thành tựu trí nhất thiết trí thì chẳng thể làm lợi ích cho các hữu tình. Vì sao? Vì sắc không thể hộ trì; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể hộ trì; Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể hộ trì; sắc không thể hộ trì nên chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể hộ trì nên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể hộ trì nên chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Đại Bồ-tát nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Nếu người nào học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì gọi đó là Bồ-tát không có sự hộ trì trong vòng Tam-ma-địa. Tài sản nhiều vô lượng vô số, chẳng bị tất cả Thanh văn, Độc giác chiếm đoạt, cũng chẳng hộ trì trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí này chẳng phải thủ tướng tu. Người đắc các tướng thủ đều là phiền não. Nếu người nào thủ tướng tu đắc trí nhất thiết trí thì Phạm chí Thắng Quân chẳng nên tin hiểu trí nhất thiết trí. Phạm chí Thắng Quân này tuy nhờ năng lực tin hiểu mà quy hướng Phật pháp, gọi là Tùy-tín-hành, nhưng có thể dùng phần ít trí quán sát tánh tất cả pháp là Không để ngộ nhập trí nhất thiết trí. Ngộ nhập xong, không thủ tướng sắc, cũng không thủ tướng thọ, tưởng, hành, thức; không bằng sự ưa thích quán thấy trí này, không bằng sự được nghe, quán thấy trí này; không bằng sắc trong quán thấy trí này, không bằng sắc ngoài quán thấy trí này, không bằng sắc trong ngoài quán thấy trí này; cũng không lìa sắc quán thấy trí này, không bằng thọ, tưởng, hành, thức bên trong quán thấy trí này; không bằng thọ, tưởng, hành, thức bên ngoài quán thấy trí này, không bằng thọ, tưởng, hành, thức trong ngoài quán thấy trí này; cũng không lìa thọ, tưởng, hành, thức quán thấy trí này.

Phạm chí Thắng Quân bằng các môn ly tướng v.v... như vậy nên càng tin hiểu trí nhất thiết trí, gọi đó là Tùy-tín-hành; hoàn toàn không thủ trước tất cả pháp. Phạm chí bằng môn ly tướng như vậy tin hiểu trí nhất thiết trí xong, hoàn toàn không thủ tướng tất cả pháp, cũng không tư duy các pháp vô tướng. Phạm chí này do năng lực nắm vững tất cả pháp nên không thủ, không xả, không đắc, không chứng. Khi ấy Phạm chí Thắng Quân đối với việc tin hiểu của mình cho đến Niết-bàn cũng không chấp thủ, đắm trước. Bằng tánh pháp chơn thật để định lượng vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này bằng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không giữ gìn sắc, cũng không giữ gìn thọ, tưởng, hành, thức. Tuy không có sự hộ trì các pháp nhưng vẫn chưa viên mãn mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng v.v... thì hoàn toàn không giữa đường nhập Bát Niết-bàn. Nên biết, các Đại Bồ-tát này bằng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mặc dù không chấp thủ, đắm trước nhưng có thể thành tựu trí nhất thiết trí, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán như vầy: Sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Cái gì là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Hay là pháp không sở hữu bất khả đắcBát-nhã ba-la-mật-đa ư? Trong không sở hữu, không kia, không đây thì lệ thuộc vào chỗ nào?

Kính bạch Thế Tôn! Nếu khi Đại Bồ-tát quán sát kỹ việc như thế, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ, thì nên biết Đại Bồ-tát này không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vì nhân duyên gì sắc lìa tánh sắc? Thọ, tưởng, hành, thức lìa tánh thọ, tưởng, hành, thức? Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng lại nói Đại Bồ-tát không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Sắc lìa tánh sắc; Thọ, tưởng, hành, thức lìa tánh thọ, tưởng, hành, thức; Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tướng các pháp như vậy cũng lìa tánh, tánh cũng lìa tướng, tướng cũng lìa tướng, tánh cũng lìa tánh; vì tướng và đối tượng tướng hoàn toàn bất khả đắc. Nếu Đại Bồ-tát hiểu biết đúng đắn về nghĩa như thế thì chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát học pháp học này thì mau có thể thành tựu trí nhất thiết trí phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy. Nếu Đại Bồ-tát nào học pháp học này thì mau thành tựu trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Đại Bồ-tát này biết tất cả pháp không sanh diệt vậy. Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát có thể thực hành như vậy thì chính là gần kề trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát nếu hành sắc là hành tướng, nếu hành sanh của sắc là hành tướng, nếu hành hoại của sắc là hành tướng, nếu hành diệt của sắc là hành tướng, nếu hành Không của sắc là hành tướng.

Nếu bảo ta hành là hành có sở đắc, nếu hành thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành sanh của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành hoại của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành diệt của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành Không của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng.

Nếu bảo ta có thể hành là hành có sở đắc, nếu Đại Bồ-tát nghĩ thế này: Ta là Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì đó là hành tướng.

Nếu Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: Người có thể hành như vậy là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng là hành tướng, thì nên biết Đại Bồ-tát tát này không có phương tiện thiện xảo.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vậy các Đại Bồ-tát nên hành như thế nào mới gọi là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Thiện Hiện thưa:

- Các Đại Bồ-tát nếu không hành sắc, không hành tướng của sắc, không hành sanh của sắc, không hành hoại của sắc, không hành diệt của sắc, không hành Không của sắc thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Các Đại Bồ-tát nếu không hành thọ, tưởng, hành, thức; không hành tướng của thọ, tưởng, hành, thức; không hành sanh của thọ, tưởng, hành, thức; không hành hoại của thọ, tưởng, hành, thức; không hành diệt của thọ, tưởng, hành, thức; không hành Không của thọ, tưởng, hành, thức thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát không chấp thủ hành, không chấp thủ không hành, không chấp thủ vừa hành vừa không hành, không chấp thủ không phải hành, không phải không hành, đối với không chấp thủ cũng không chấp thủ thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? -Xá-lợi Tử! Vì tất cả pháp đều không thể chấp thủ, không thể tùy hành, không thể chấp thọ, vì lìa tánh tướng vậy.

Như vậy gọi là các Đại Bồ-tát ngay trong vô sanh định luân của tất cả các pháp phát sanh tài sản vô lượng vô số. Không chung cùng với tất cả Thanh văn, Độc giác. Nếu Đại Bồ-tát nào an trụ định này thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, Thiện Hiện nương thần lực của Phật bảo Đại đức Xá-lợi Tử:

- Nếu Đại Bồ-tát nào tuy an trụ định này nhưng không thấy định này, cũng không đắm trước định này, cũng không nghĩ rằng ta đã nhập định này, đang nhập định này, sẽ nhập định này, người kia tư duy phân biệt như vậy và nhờ năng lực định này nên không khởi lên tất cả, thì biết người này đã được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ thọ ký Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nhờ định này mà được chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tiền thọ ký thì Đại Bồ-tát này là người có thể chỉ dạy định như vậy, phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Chẳng phải vậy. Này Xá-lợi Tử! Vì sao? Vì thiện nam tử này không hiểu biết, không nghĩ tưởng định như thế.

Xá-lợi Tử thưa:

- Cụ thọ bảo các thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng định này sao?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi quả quyết nói các thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng định này. Vì sao? Vì các định này không sở hữu nên thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng các định như vậy. Các định như vậy tất cả pháp cũng không hiểu biết, không nghĩ tưởng. Vì sao? Vì tất cả pháp không sở hữu vậy.

Đức Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Như lời thầy nói nên Ta bảo thầy là người đứng hàng đầu trụ định vô tránh. Các Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên học như vậy. Ai học như vậy thì gọi là học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào học như vậy thì gọi là chơn thật học Bát-nhã ba-la-mật-đa, phải không?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu Đại Bồ-tát nào có thể học như vậy thì gọi là chơn thật học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi học như vậy là học pháp nào?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi học như vậy là chẳng phải học pháp. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Như nguyên sự chấp trước của các phàm phu ngu si như thế chứ chẳng phải tất cả pháp có như vậy.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì các pháp làm sao mà có ra?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Như không sở hữu mà có ra như vậy. Nếu không thể hiểu rõ pháp vô sở hữu như vậy thì gọi là vô minh. Phàm phu ngu si đối với tánh vô sở hữu của tất cả pháp phát triển thế lực vô minh, tham ái nên phân biệt chấp trước hai bên: đoạn kiến, thường kiến. Do đây không biết, không thấy tánh các pháp vô sở hữu, nên phân biệt các pháp. Do phân biệt nên sanh chấp trước. Do chấp trước nên phân biệt tánh các pháp vô sở hữu. Do đó nên đối với pháp không thấy, không biết. Vì đối với các pháp chẳng thấy, chẳng biết nên phân biệt quá khứ, vị lai, hiện tại. Do phân biệt nên tham đắm danh sắc. Do đắm danh sắc nên phân biệt chấp trước pháp vô sở hữu. Đối pháp vô sở hữu phân biệt chấp trước nên đối với đạo như thật chẳng biết, chẳng thấy, nên chẳng thể ra khỏi sanh tử trong ba cõi, chẳng tin pháp Tứ đế, chẳng hiểu rõ Niết-bàn; thế nên bị rơi vào trong số phàm phu ngu si. Do đó, chúng Đại Bồ-tát này đối với tánh tướng của các pháp hoàn toàn không chấp trước.

Khi ấy Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng lẽ không cầu học trí nhất thiết trí?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi học như vậy cũng không cầu học trí nhất thiết trí, nhưng các Đại Bồ-tát khi học như vậy, mặc dầu không sự học nhưng gọi đó là chơn thật học trí nhất thiết trí, mau có thể thành tựu trí nhất thiết trí vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Giả sử có người đến hỏi thế này: Người biến hóa nếu học trí nhất thiết trí thì người đó cũng có thể thành tựu trí nhất thiết trí phải không? Được hỏi như vậy thì con trả lời bằng cách nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta hỏi lại thầy, tùy ý thầy trả lời. Ý thầy thế nào? Huyễn khác với sắc, thọ, tưởng, hành, thức phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Huyễn chẳng khác sắc, sắc chẳng khác huyễn, huyễn chính là sắc, sắc chính là huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý thầy thế nào? Trong năm thủ uẩn phát sanh các tướng đồng như tưởng và đưa ra những lời nói giả danh về Đại Bồ-tát phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Đúng như vậy, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa cầu thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả đều như người biến hóa tu học. Vì sao? Vì người biến hóa chính là năm thủ uẩn vậy. Vì sao? Vì Ta nói năm uẩn: nhãn v.v... sáu căn đều như huyễn hóa, hoàn toàn không có thật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu Đại Bồ-tát nào mới học Đại thừa, nghe nói như vậy thì tâm vị đó sẽ không kinh sợ, thối lui phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nào mới học Đại thừa, gần gũi bạn ác, nghe thuyết như vậy, tâm liền kinh sợ thì sanh thối lui. Còn nếu gần bạn lành thì tuy nghe thuyết như vậy nhưng chẳng kinh sợ, cũng chẳng thối lui.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hạng người như thế nào là bạn ác của Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bạn ác của Bồ-tát nghĩa là dạy Bồ-tát nhàm chán, xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, xả bỏ tâm Bồ-đề, chấp lấy tướng các pháp, dạy cho học sách vở thủ tướng của thế tục, dạy cho học kinh pháp tương ưng với Thanh văn. Lại dạy gần gũi việc làm của ác ma. Như vậy gọi là bạn ác của Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Còn những hạng nào gọi là bạn lành của Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bạn lành của các Bồ-tát nghĩa là dạy Bồ-tát siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến nói về việc làm của ma, tội lỗi của ma để cho người kia biết rõ mà phương tiện xả bỏ. Những hạng người này gọi là bạn lành chơn tịnh, đại thệ trang nghiêm của Bồ-tát mới học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nói Bồ-tát, ý nghĩa danh tự đó là gì?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Học tất cả pháp không dính mắc, không chướng ngại. Hiểu rõ tất cả pháp không dính mắc, không chướng ngại để cầu chứng Bồ-đề, nên gọi đó là Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hạng này lại do nhân duyên nào gọi là Đại Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì các Bồ-tát sẽ làm thượng thủ trong chúng đại hữu tình nên gọi là Đại Bồ-tát.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nay con muốn được nói về nghĩa của Đại Bồ-tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Tùy ý ông nói.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát bằng phương tiện thiện xảo tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình, làm cho dứt hẳn ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, nhơn kiến, hữu kiến, vô kiến, đoạn kiến, thường kiến v.v... y theo nghĩa như thế nên gọi là Đại Bồ-tát.

Khi ấy, Thiện Hiện cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói về nghĩa của Đại Bồ-tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tùy ý ông nói.

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Vì các Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, tâm Vô đẳng đẳng; còn Thanh văn, Độc giác thì không thể phát tâm, cũng không chấp trước tâm như vậy. Vì sao? Vì tâm trí nhất thiết là chơn thật vô lậu, không rơi vào ba cõi, không nên sanh chấp trước nơi đó. Dựa vào nghĩa như thế nên gọi là Đại Bồ-tát.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nhân duyên thế nào mà đối với tâm như vậy cũng không chấp trước?

Thiện Hiện thưa:

- Các tâm như thế là không tâm tánh nên không chấp trước.

Khi ấy Mãn Từ Tử cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói về nghĩa của Đại Bồ-tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Tùy ý ông nói.

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do các Bồ-tát làm lợi ích an vui khắp tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại nguyện, huớng thẳng đến Đại thừa, cỡi xe lớn, nên gọi là Đại Bồ-tát.

Khi ấy Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Thế Tôn dạy: các Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại nguyện. Vậy ngang với trình độ nào gọi là các Đại Bồ-tát mặc giáp đại nguyện?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: Ta nên độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn. Tuy làm việc như vậy nhưng không có pháp và các hữu tình đắc Niết-bàn. Vì sao? Vì thật tánh các pháp của nó là như vậy. Ví như nhà ảo thuật hoặc học trò của ông ta, ở giữa ngã tư đường hóa làm đại chúng, giết hại lẫn nhau. Ý ông thế nào? Trong ấy có việc giết hại lẫn nhau thật không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, tuy thị hiện độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn nhưng không có pháp và các hữu tình đắc Niết-bàn. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe việc như vậy không kinh, không sợ, cũng không thối lui thì nên biết Đại Bồ-tát này là người mặc áo giáp đại nguyện.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật đã dạy, các Đại Bồ-tát không mặc áo giáp đại nguyện thì nên biết đó là mặc áo giáp đại nguyện.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì trí nhất thiết trí không tạo, không tác. Tất cả hữu tình cũng không tạo, không tác. Các Đại Bồ-tát vì muốn lợi ích hữu tình kia nên mặc áo giáp đại nguyện. Vì sao? Vì sắc chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo; chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo; chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức bất khả đắc vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy: sắc cho đến thức không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì sắc không buộc không mở. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở.

Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả nói sắc không buộc không mở; nói thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở, phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy ! Đúng như vậy.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tôn giả nói những sắc nào không buộc không mở? Nói những thọ, tưởng, hành, thức nào cũng không buộc không mở?

Thiện Hiện thưa:

- Tôi nói sắc như người biến hóa, không buộc không mở. Nói thọ, tưởng, hành, thức như người biến hóa, cũng không buộc không mở. Vì sao? Vì sắc cho đến thức không sở hữu nên không buộc không mở, xa lìa nên không buộc không mở, tịch tịnh nên không buộc không mở, không sanh diệt nên không buộc không mở. Đây gọi là Bồ-tát mặc áo giáp đại nguyện hướng thẳng đến Đại thừa.

Khi ấy, Mãn Từ Tử nghe thuyết như vậy, hoan hỷ tín nhận, ngồi lặng thinh. Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hướng đến xe Đại thừa. Thế nào là xe Đại thừa? Thế nào gọi là Bồ-tát hướng đến xe Đại thừa? Xe Đại thừa như thế phát xuất từ chỗ nào và đến nơi nào? Ai cỡi xe Đại thừa này để ra?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nói xe Đại thừa tức là khái niệm về vô lượng, vô số, vô biên công đức được thành tựu vậy. Thế nào là Bồ-tát hướng đến xe Đại thừa ấy? Nghĩa là các Bồ-tát siêng năng tu tập sáu pháp Ba-la-mật-đa, có thể từ địa này đến địa khác; đó gọi là Bồ-tát hướng đến xe Đại thừa. Xe Đại thừa như thế, từ chỗ nào phát xuất đến chỗ nào? Nghĩa là xe Đại thừa này từ trong ba cõi mà phát xuất đến trong trí nhất thiết trí nhưng lấy không hai làm phương tiện nên không phát xuất và không đến nơi thì ai là người cỡi xe Đại thừa này để ra? Hoàn toàn không người cỡi tức là cỡi xe Đại thừa này ra. Vì sao? Vì người cỡi, sự cỡi, cả hai pháp này hoàn toàn không sở hữu. Trong không sở hữu thì ai là người cỡi và pháp nào có thể gọi là bị cỡi?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Xe Đại thừa như vậy hơn khắp tất cả thế gian trời người, A-tố-lạc v.v… Xe Đại thừa như vậy ngang đồng với hư không. Ví như hư không có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Xe Đại thừa cũng như vậy, có thể dung chứa khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Lại như hư không, không đến, không đi, không ở, không có thể thấy; xe Đại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không ở, không có thể thấy. Lại như hư không, biên giới trước, sau, giữa hoàn toàn không thể đắc; xe Đại thừa cũng vậy, hoàn toàn không thể đắc biên giới trước, sau, giữa, ba đời bình đẳng nên gọi là xe Đại thừa.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Khi ấy, Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Trước đây Thế Tôn dạy Đại đức Thiện Hiện tuyên dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát, mà nay vì lẽ gì lại nói Đại thừa?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con thuyết Đại thừa sẽ không trái vượt với việc thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ông thuyết Đại thừa hoàn toàn thuận với Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có sự trái vượt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không nắm bắt được biên giới trước, sau, giữa của Bồ-tát, vì sắc vô biên nên Bồ-tát cũng vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên Bồ-tát cũng vô biên. Ngay nơi sắc lìa sắc, Bồ-tát không sở hữu, bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, lìa thọ, tưởng, hành, thức, Bồ-tát cũng không sở hữu, bất khả đắc.

Như vậy, kính bạch Thế Tôn! Con đối với tất cả pháp này đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để tìm các Bồ-tát, cũng hoàn toàn không thấy đâu cả, hoàn toàn bất khả đắc, thì làm sao bảo con chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát?

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Nói Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Như nói: chúng ta v.v... hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Trong đây những gì là sắc hoàn toàn không sanh? Nếu hoàn toàn không sanh thì không thể gọi là sắc. Những gì là thọ, tưởng, hành, thức hoàn toàn không sanh? Nếu hoàn toàn không sanh thì không thể gọi là thọ, tưởng, hành, thức.

Kính bạch Thế Tôn! Sắc là Bồ-tát bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức là Bồ-tát cũng bất khả đắc. Bất khả đắc này cũng bất khả đắc. Con đối với tất cả pháp như vậy, đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian tìm các Bồ-tát hoàn toàn bất khả đắc thì sẽ dạy những pháp nào, tu những pháp nào, ở những nơi chốn nào, thời gian nào và chứng những pháp nào?

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Như nói: ngã v.v... hoàn toàn chẳng sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Những gì là sắc đã không thể giữ, cũng không thể sanh? Những gì là thọ, tưởng, hành, thức đã không thể giữ, cũng không thể sanh? Tự tánh các pháp đã không thể giữ, cũng không thể sanh? Nếu pháp không tánh thì cũng không thể sanh. Pháp không sanh này cũng không thể sanh, thì con làm sao có thể đem Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn không sanh để dạy cho các Đại Bồ-tát hoàn toàn chẳng sanh?

Kính bạch Thế Tôn! Lìa pháp không sanh, không có pháp để có thể đắc. Cũng không có Bồ-tát có thể thực hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nghe nói lời này không kinh, không sợ thì nên biết Đại Bồ-tát này có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì nếu khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán sát các pháp thì ngay khi ấy, Đại Bồ-tát liền không thủ sắc. Vì sao? Vì sắc không sanh tức là chẳng phải sắc, sắc không diệt cũng chẳng phải sắc. Đã không sanh, không diệt tức là không hai, không riêng. Nếu nói sắc tức là nhập vào số pháp không hai. Nếu khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát các pháp thì khi ấy Đại Bồ-tát không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức không sanh tức là không phải thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức không diệt, cũng không phải là thọ, tưởng, hành, thức. Đã không sanh không diệt tức là không hai, không riêng. Nếu nói thọ, tưởng, hành, thức tức là nhập vào số pháp không hai.

Khi ấy Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Như tôi hiểu nghĩa ngài nói, các Đại Bồ-tát v.v... hoàn toàn không sanh, nếu vậy thì do duyên nào có các Bồ-tát vì độ vô lượng, vô số hữu tình mà tu trăm ngàn hạnh khổ khó thực hành, chịu đủ vô lượng khổ lớn sanh tử?

Thiện Hiện thưa:

- Chẳng phải tôi đối với pháp vô sanh kia cho rằng có Bồ-tát vì độ vô lượng, vô số hữu tình mà tu trăm ngàn hạnh khổ khó thực hành, chịu đủ vô lượng khổ lớn sanh tử. Nhưng các Bồ-tát tuy làm việc này mà ngay trong đó không nghĩ tưởng hạnh khổ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì nếu đối với hạnh khổ, phát sanh tưởng hạnh khổ thì không thể lợi ích cho vô lượng, vô biên hữu tình. Thế nên Bồ-tát đối với các hạnh khổ phát sanh tưởng hạnh vui; đối với hạnh khó thực hành, phát sanh tưởng dễ thực hành; đối với các hữu tình phát sanh ý tưởng như cha mẹ và chính bản thân mình. Vì độ cho người kia nên phát tâm Bồ-đề, nhờ đó mới có thể làm được những việc lợi ích lớn.

Khi ấy, Bồ-tát tư duy: Như tự tánh đối với tất cả pháp, đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, thời gian tìm không thể được. Các pháp trong ngoài cũng như vậy, hoàn toàn không sở hữu, hoàn toàn bất khả đắc. Nếu trụ tưởng này thì chẳng thấy có hạnh khổ khó thực hành. Nhờ vậy có thể vì vô biên hữu tình tu trăm ngàn hạnh khổ khó làm, làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này thật không sanh, phải không?

Thiện hiện thưa:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Tất cả Bồ-tát đều thật không sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Chỉ có Bồ-tát thật không sanh, hay là trí nhất thiết cũng thật không sanh?

Thiện hiện thưa:

- Trí nhất thiết cũng thật không sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Là chỉ trí nhất thiết thật không sanh, hay là các phàm phu cũng thật không sanh?

Thiện hiện thưa:

- Các phàm phu cũng thật không sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu các Bồ-tát thật không sanh thì pháp của các Bồ-tát cũng phải không sanh. Nếu trí nhất thiết thật là vô sanh thì pháp trí nhất thiết cũng phải không sanh. Nếu phàm phu thật là không sanh thì pháp phàm phu cũng phải không sanh. Nếu vậy, Bồ-tát được trí nhất thiết, có phải đối với pháp vô sanh mà chứng vô sanh, phải không?

Thiện hiện đáp:

- Ý tôi không cho rằng: Trong pháp vô sanh có đắc, có chứng. Vì sao? Vì trong pháp vô sanh không có chứng đắc vậy.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng: pháp sanh chứng pháp sanh, hay là cho rằng: pháp vô sanh chứng pháp vô sanh?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng: pháp sanh chứng pháp sanh. Cũng không cho rằng: pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng: pháp sanh chứng pháp vô sanh, hay là cho rằng: pháp vô sanh chứng pháp sanh?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng: pháp sanh chứng pháp vô sanh. Cũng không cho rằng pháp vô sanh chứng pháp sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu như vậy thì lẽ ra không đắc, không chứng?!

Thiện hiện thưa:

- Tuy có đắc có chứng, nhưng chẳng phải thật có.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng: pháp chưa sanh, sanh ra; hay là cho rằng: pháp đã sanh, sanh ra?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng: pháp chưa sanh, sanh ra. Cũng không cho rằng: pháp đã sanh, sanh ra.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Vì cho rằng: sanh sanh ra, hay là cho rằng: Không sanh sanh ra?

Thiện hiện đáp:

- Ý tôi không cho rằng: sanh, sanh ra. Cũng không cho rằng: Không sanh, sanh ra.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Ngài thuyết pháp không sanh là muốn biện thuyết tướng không sanh, phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Tôi đối với sự thuyết về pháp vô sanh cũng không muốn diễn thuyết tướng vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Đối với pháp vô sanh, phát sanh lời nói vô sanh. Lời nói vô sanh này cũng vô sanh, phải không?

Thiện hiện thưa:

- Từ nơi pháp vô sanh phát sanh lời nói vô sanh. Pháp và lời này đều là nghĩa vô sanh, nhưng vì tùy thuận thế tục nên nói tướng vô sanh.

Xá-lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Trong những vị thuyết pháp, ngài là người đứng đầu. Trừ Phật Thế Tôn ra, không ai có thể bằng ngài. Vì sao? Vì tùy theo sự gạn hỏi về vô số pháp môn, ngài đều có thể trả lời được cả.

Thiện Hiện nói:

- Đệ tử của chư Phật không lệ thuộc, dính mắc vào tất cả pháp. Vì lẽ đó nên đều có thể tùy theo sự gạn hỏi mà mỗi mỗi tự tại đáp lại, không sợ. Vì sao? Vì tất cả pháp không có sự lệ thuộc vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Nếu các Bồ-tát có thể tùy theo câu hỏi mà trả lời như vậy là nhờ những oai lực của Ba-la-mật-đa nào mà được thành tựu?

Thiện Hiện thưa:

- Đây là nhờ oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Vì sao? Vì nói tất cả pháp không sự tuỳ thuộc là chính nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đathông suốt được tất cả pháp không sự lệ thuộc.

Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nghe lời như vậy, tâm không hoang mang, cũng không nghi ngờ, thì nên biết Bồ-tát này có thể trụ được hạnh trụ như thế, không xả ly, cũng có thể không xa lìa ý nghĩ đại bi.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Đại Bồ-tát trụ được hạnh trụ như thế, có thể không xả bỏ, cũng có thể không xa lìa ý nghĩ như vậy, thì tất cả hữu tình đều chính là Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng trụ hạnh này và ý nghĩ này, thường không xả bỏ tánh bình đẳng của Bát-nhã đại bi, vậy thì các Bồ-tát cùng các hữu tình lẽ ra phải không sai khác?

Thiện Hiện thưa:

- Lành thay! Lành thay! Tuy rằng giống như hỏi tôi nhưng mà giúp cho tôi được hiểu nghĩa. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tất cả hữu tình không có tự tánh nên biết trụ và tác ý như thế cũng không có tự tánh. Tất cả tánh hữu tình xa lìa, nên biết tánh của trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Tất cả hữu tình không biết rõ nên phải biết trụ và tác ý như vậy cũng không biết rõ. Do nhân duyên như vậy, các Bồ-tát này trụ vào tác ý như thế không xa lìa, cùng với các hữu tình cũng không sai khác. Nếu các Bồ-tát biết rõ như thế không bị trở ngại thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ý của tôi là muốn làm cho tất cả Bồ-tát đem ý nghĩ này thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

 
II. PHẨM THIÊN ĐẾ

Khi ấy, trời Đế Thích cùng bốn vạn Thiên tử đồng đến hội họp. Bốn Thiên Vương hộ thế cùng hai vạn Thiên tử đồng đến hội họp. Đại Phạm Thiên Vương chủ cõi Sách-ha cùng một vạn Phạm chúng đồng đến hội họp. Lại có năm ngàn chúng trời Tịnh cư đồng đến hội họp. Nghiệp quả và ánh sáng nơi thân của các chúng trời này ở trước oai quang của Phật đều không thể hiện ra được.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Nay có vô lượng các Thiên tử muốn nghe Đại đức tuyên thuyết chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cúi xin Đại đức thương xót chỉ dạy cho họ biết thế nào là Bồ-tát nên trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Tôi nương thần lực của Phật tuyên thuyết chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng trời như việc nên an trụ của các Bồ-tát. Thiên tử các ông, người nào chưa phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nay nên phát. Những vị đã nhập vào Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác thì không thể phát tâm đại Bồ-đề. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì người đó đối với sanh tử có sự ngăn ngại vậy. Trong đó nếu có vị nào phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì có các bậc thắng nhân nên cầu thắng pháp. Tôi hoàn toàn không làm trở ngại cấp bậc pháp thiện thắng của họ.

Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông khéo khuyên bảo các Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Con đã biết ơn, sao lại không trả ơn. Nghĩa là Phật và các đệ tử quá khứ đã dạy cho các Bồ-tát nhiều loại pháp yếu, muốn làm phương tiện để đi vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bấy giờ Như Lai cũng học trong pháp đó, nay chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm lợi ích cho chúng con, cho nên nay con y theo lời Phật dạy: bảo vệ, hộ niệm các Bồ-tát này, làm cho mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm lợi ích an vui cho tất cả. Chính đó là đáp đền ơn đức kia.

Khi ấy, Thiện Hiện bảo với Đế Thích:

- Chư Thiên các ông nên lắng nghe. Ta sẽ nói về tướng đáng trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của các chúng Bồ-tát cho các ông.

Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát bằng đại thệ trang nghiêm, hướng thẳng đến Đại thừa thì nên dùng tướng Không để an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa; không nên trụ sắc, cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức.

Không nên trụ quả Dự lưu, cũng không nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề.

Cũng không nên trụ đây là sắc. Cũng không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức.

Không nên trụ đây là quả Dự lưu, cũng không nên trụ đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề.

Không nên trụ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không.

Không nên trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề đều là sự hiển bày vô vi, là phước điền chơn thật đáng thọ nhận cúng dường.

Không nên trụ quả Dự lưu còn trở lại bảy lần cuối cùng, chắc chắn sẽ nhập Niết-bàn.

Không nên trụ quả Nhất lai chưa đạt đến Niết-bàn, còn trở lại cõi này một lần nữa, chắc chắn dứt sạch các khổ.

Không nên trụ quả Bất hoàn qua diệt độ ở cõi kia, không còn trở lại nữa.

Không nên trụ quả A-la-hán ngay đời này chắc chắn nhập vô dư Niết-bàn.

Không nên trụ quả Độc giác, vượt địa vị Thanh văn, không đến địa vị Phật mà Bát Niết-bàn.

Không nên trụ địa vị Phật, hiển bày vô viruộng phước điền chơn thật đáng thọ nhận sự cúng dường, vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số hữu tình làm cho nhập vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Giả sử tất cả cảnh giới hữu tình không còn nữa, đều vào cảnh giới Vô dư Bát Niết-bàn.

Khi ấy, Xá-lợi Tử nghĩ: Nếu như vậy thì Bồ-tát sẽ trụ ở đâu?

Thiện Hiện biết ý nghĩ trong tâm Xá-lợi Tử, liền bảo:

- Ý tôn giả thế nào? Tâm Như Lai trụ ở chỗ nào?

Xá-lợi Tử thưa Thiện Hiện:

- Tâm Như Laihoàn toàn không chỗ trụ. Vì không trụ nên gọi là Như Lai. Nghĩa là không trụ cảnh giới hữu vi, cũng không trụ cảnh giới vô vi, cũng không phải không trụ.

Thiện Hiện thưa:

- Bồ-tát cũng vậy. Như các đức Như Lai đối với tất cả pháp, tâm không trụ, cũng không phải không trụ. Nghĩa là các Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng vô sở đắc để làm phương tiện. Nên trụ như vậy, nên học như vậy.

Khi ấy, trong chúng có các Thiên tử thầm nghĩ: Tất cả câu chú của các Dược-xoa với vô số sai khác, mặc dù là bí mật nhưng mà chúng ta còn biết rõ, còn Đại đức Thiện Hiện đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy dùng vô số lời lẽ để chỉ rõ nhưng chúng ta hoàn toàn chẳng hiểu được gì cả.

Biết được ý nghĩ của chư Thiên, cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:

- Trong đây tôi không giảng thuyết, chỉ dạy. Các ông cũng chẳng nghe. Vậy lấy gì để hiểu?

Khi ấy các Thiên tử lại nghĩ: Trong nghĩa này, tôn giả Thiện Hiện muốn làm cho dễ hiểu nhưng lại càng sâu sắc, vi tế, khó có thể đo lường. Biết được ý nghĩ của Thiên tử kia, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên tử:

- Có những người muốn chứng, muốn trụ quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, bậc Độc giác Bồ-đề và quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật thì cần phải nương vào nhẫn này mới có thể chứng, mới có thể trụ được.


Các Thiên tử lại nghĩ: Đại đức Thiện Hiện hôm nay muốn vì những hữu tình nào và tuyên thuyết những pháp gì?

Biết được ý nghĩ của các Thiên tử, cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:

- Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn thuyết pháp như huyễn. Người kia đối với sự giảng thuyết không nghe, không hiểu, không chứng vậy.

Các Thiên tử lại nghĩ: Là người nghe pháppháp như huyễn, hay là hữu tình và quả Dự lưu v.v... khác cũng đều như huyễn cả?

Biết được ý nghĩ của Thiên tử nên Thiện Hiện bảo với họ:

- Các loài hữu tình khác hoặc quả Dự lưu, quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, A-la-hán, Bồ-đề của bậc Độc giác, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng đều như huyễn cả.

Khi ấy, chư Thiên hỏi Thiện Hiện:

- Chẳng lẽ sự chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các đức Như Lai cũng đều như huyễn sao?

Thiện hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Cho đến Niết-bàn cũng như huyễn.

Các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Lẽ nào Niết-bàn cũng như huyễn?

Thiện hiện bảo:

- Giả sử có pháp cao hơn Niết-bàn chăng nữa thì pháp ấy cũng lại như huyễn, huống là Niết-bàn. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì huyễn cùng hữu tình và tất cả pháp cho đến Niết-bàn không hai, không riêng, đều bất khả đắc, bất khả thuyết vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử cùng Chấp Đại Tạng Mãn Từ Tử, Đại Ẩm Quang v.v... hỏi Khánh Hỷ:

- Sự thuyết về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, ai là người có thể tin nhận?

Khánh Hỷ thưa:

- Có các chúng Bồ-tát Bất thối chuyển, đối với sự thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này có thể tin nhận. Lại có vô lượng hữu tình đầy đủ chánh kiến và các A-la-hán nguyện viên mãn đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa… thuyết này cũng có thể tin nhận.

Khi ấy, Thiện Hiện thưa:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được thuyết như vậy, không ai có thể tin nhận được là vì sao? Vì trong đây không có pháp để có thể hiển bày, không có pháp để có thể chỉ dạy, nên người tin nhận cũng bất khả đắc.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện rưới trận mưa pháp lớn. Ta nên hóa làm hương hoa vi diệu để dâng lên cúng dường.

Nghĩ như vậy, ngay khi ấy liền hóa làm hương hoa vi diệu dâng lên Thiện Hiện. Khi ấy, Thiện Hiện nghĩ: Nay hoa dâng này là chỗ chư Thiên chưa từng thấy. Hoa nhiệm mầu này nhất định chẳng phải do đất, nước, cỏ cây sanh ra được, mà chính là từ nơi tâm của chư Thiên hóa ra.

Biết tâm niệm của Thiện Hiện, trời Đế Thích thưa với Thiện Hiện:

- Hoa dâng này thật chẳng phải do đất, nước, cỏ cây sanh ra; cũng chẳng phải từ tâm chư Thiên hóa ra; vì hoa dâng này không có tánh sanh vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Hoa này không sanh thì không có tánh hoa.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện trí tuệ rộng sâu, chẳng phá giả danh mà nói nghĩa thật.

Nghĩ như vậy xong, bạch Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời tôn giả dạy, các chúng Bồ-tát đối với các pháp nên theo sự thuyết giảng của tôn giả mà học.

Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, các chúng Bồ-tát đối với các pháp đều nên theo sự thuyết giảng của tôi mà học.

Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát theo lời tôi thuyết, khi học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy không học theo quả Dự lưu, không học theo quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Không học theo Bồ-đề của bậc Độc giác. Nếu không học theo các bậc này thì chính là học trí nhất thiết trí của chư Phật. Nếu học trí nhất thiết trí của chư Phật thì chính là học vô lượng, vô biên Phật pháp. Nếu học vô lượng, vô biên Phật pháp thì chính là không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có tăng giảm. Nếu không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có tăng giảm thì không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thủ có xả. Nếu không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thủ có xả thì không học tất cả pháp có thể giữ gìn và có thể hoại diệt. Nếu không học tất cả pháp có thể giữ gìn, có thể hoại diệt thì chẳng học trí nhất thiết trí có thể giữ gìn và có thể hoại diệt. Các chúng Bồ-tát khi học như vậy, gọi đó là chơn thật học trí nhất thiết trí, mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát không học trí nhất thiết trí thì có thể giữ gìn và có thể hoại diệt. Các Bồ-tát này khi học như vậy gọi là chơn thật học trí nhất thiết trí, mau có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, phải không?

Thiện hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện vậy.

Trời Đế Thích hỏi Xá-lợi Tử :

- Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên cầu ở đâu?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên cầu trong lời dạy của ngài Thiện Hiện.

Trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Nhờ thần lực của ai hộ trì mà Xá-lợi Tử nói được như thế?

Thiện hiện thưa:

- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì nên khiến Xá-lợi Tử nói được như vậy.

Trời Đế Thích hỏi:

- Lại thần lực của ai hộ trìtôn giả có thể thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Thiện Hiện đáp:

- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì nên khiến tôi có thể thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Kiều-thi-ca! Ông hỏi Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên cầu ở đâu?

Kiều-thi-ca! Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nên ngay nơi sắc cầu; không nên lìa sắc cầu; không nên ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức cầu; không nên lìa thọ, tưởng, hành, thức cầu. Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải lìa sắc riêng có Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa; cũng chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là đại Ba-la-mật-đa, là vô lượng Ba-la-mật-đa, là vô biên Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy!Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì sắc vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Sở duyên vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Kiều-thi-ca! Thế nào là sở duyên vô biên, nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên? Nghĩa là biên giới trước, giữa, sau của tất cả pháp đều bất khả đắc, nên nó là vô biên. Pháp vô biên nên sở duyên vô biên. Do vậy nên Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng nói là vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Tất cả pháp vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Kiều-thi-ca! Thế nào là tất cả pháp vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên? Nghĩa là biên giới của tất cả pháp không thể đạt. Vì sao? Vì biên giới trước, giữa, sau của sắc cho đến thức đều không thể đạt. Do đó, biên giới trước, giữa, sau của Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng không thể đạt, nên nói vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Hữu tình vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Kiều-thi-ca! Thế nào là hữu tình vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Kiều-thi-ca! Chẳng phải số lượng loài hữu tình quá nhiều, không thể tính đếm được mà nói là vô biên.

Trời Đế Thích thưa:

- Vậy thì vì nghĩa gì nên nói như vậy?

Thiện Hiện bảo:

- Nay tôi hỏi ông, tùy ý ông trả lời. Ý ông thế nào? Nói hữu tình là khái niệm về pháp nào?

Trời Đế Thích thưa:

- Nói hữu tình là chẳng khái niệm về pháp nào cả, chỉ thuộc tên bên ngoài giả đặt, không thuộc về tên đúng sự thật, không thuộc về cái tên do quan hệ.

Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Ý ông thế nào? Trong đây có hữu tình chơn thật để có thể chỉ rõ chăng?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa không, bạch Đại Đức!

Thiện Hiện bảo:

- Vì hữu tình không thật để có thể chỉ rõ được nên nói là vô biên.

Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, dùng vô biên âm thanh để nói vô lượng danh tự của loài hữu tình. Trong đây có còn hữu tình chân thật có sanh có diệt không?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa không, bạch Đại đức! Vì sao? Vì các hữu tình bản tánh thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện bảo:

- Do đó nên nói hữu tình vô biên. Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên, vì vô tánhsâu xa, đều vô biên vậy.

Quyển thứ 556
HẾT

 
III. PHẨM BẢO THÁP

Bầy giờ, trời Đế Thích v.v... trong chúng chư Thiên cõi Dục; Đại Phạm Vương v.v... trong chúng chư Thiên cõi Sắc và các thần tiên khác vui mừng hớn hở, đồng một lúc cao giọng xướng lên:

- Lạ thay! Lạ thay! Tánh của các pháp sâu xa vi diệu! Như Lai xuất hiện ở đời dùng năng lực thần thông gia bị Thiện Hiện v.v... tuyên thuyết chỉ dạy: nếu các Bồ-tát không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chúng ta sẽ cung kính, cúng dường vị đó như Phật Thế Tôn!

Khi ấy, Phật bảo chư Thiên v.v...:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nếu các Bồ-tát không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chư Thiên các ông nên cúng dường như Phật Thế Tôn. Chư Thiên nên biết: Thuở xưa, Ta đối với Phật Nhiên Đăng, ở đầu ngã tư đường, nơi vương đô Liên Hoa, thấy Phật Nhiên Đăng, Ta dâng năm cành hoa và trải tóc che bùn, nghe pháp yếu chơn chánh, chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ấy, Như Lai kia thọ ký cho Ta: Ngươi ở đời sau, trải qua vô số kiếp sẽ thành Như Lai hiệu là Năng Tịch, tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Chư Thiên v.v... đồng bạch Phật:

- Thật lạ thay, kính bạch Thế Tôn! Hiếm có thay, kính bạch Thiện Thệ! Bát-nhã ba-la-mật-đa này đầy đủ oai thần lớn, làm cho các Bồ-tát mau có thể phát sanh và hộ trì trí nhất thiết trí.

Khi ấy, Thế Tôn biết bốn chúng chư Thiên v.v... vân tập, đồng chứng minh cho họ nên bảo với trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người, thì ma và quyến thuộc cùng nhơn phi nhơn v.v... rình tìm lỗi của người đó hoàn toàn không thể được, và tai họa, tật dịch… cũng không thể làm hại được. Các Thiên tử nào đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà chưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng kỹ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nên đi đến chỗ thiện nam tử, thiện nữ v.v… này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng cho thật làu thông và giảng thuyết lại cho người khác.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người khác, thì ở nhà trống, hoặc đồng hoang vu, đường hiểm nạn và chỗ nguy nan đều có chư Thiên, thiện thần thường đến ủng hộ, làm cho không sợ hãi.

Khi ấy, Tứ Thiên vươngtrời Đế Thích, Phạm thiên vương v.v... chấp tay cung kính, đồng bạch Phật:

- Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người thì quyến thuộc chúng con thường theo hộ vệ, không để cho tất cả tai họa làm hại.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Thật kỳ lạ thay, kính bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, kính bạch Thiện Thệ! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này phụng thờ Bát-nhã ba-la-mật-đagiữ gìn công đức pháp hiện tại như thế.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu các Thiện nam tử, thiện nữ v.v... giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là giữ gìn đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người thì đạt được công đức, ông nên lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ nói cho ông.

Trời Đế Thích thưa:

- Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy. Chúng con ưa thích được nghe.

Phật bảo Kiều-thi-ca:

- Nếu có các Phạm chí ngoại đạo xấu ác, hoặc các ác ma hay quyến thuộc của ma, hoặc những kẻ tăng thượng mạn hung ác khác muốn làm những việc không lợi ích; kẻ đó vừa móng tâm, liền gặp tai họa, nên sự mong muốn dần dần bị tiêu diệt, chẳng được kết quả. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này luôn chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người. Vì lẽ đó nên thường làm cho kẻ phát khởi tâm xấu ác, tự gặp tai họa, nên sự mong muốn không đạt kết quả.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này phụng thờ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đạt được những công đức lợi ích thù thắng như vậy. Như có thuốc thần diệu tên là Mạt-kỳ, công lực của thuốc này có thể làm tiêu trừ các độc. Diệu dược này để bất kỳ chỗ nào, các loài trùng độc chẳng thể đến gần được. Có con rắn độc lớn đói, bò đi kiếm ăn, gặp được sinh vật muốn đớp ăn, sinh vật kia sợ chết, vội chạy tới chỗ thuốc thần diệu, rắn nghe mùi thuốc liền chạy trở lui. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì thuốc hay này có đầy đủ oai thế lớn, tiêu trừ các độc và làm lợi ích cho thân mạng. Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa đầy đủ oai thế lớn cũng như vậy. Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người thì những hạng người xấu ác muốn làm điều chẳng lợi ích cho người khác, chắc chắn phải bị tiêu diệt, không làm gì được, vì oai thần của Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể dẹp hết tất cả.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được bốn Đại Thiên VươngThiên chúng cùng các thần tiên khác thường đến ủng hộ, không để cho tất cả tai họa làm hại. Chư Phật và Bồ-tát cũng thường hộ niệm, sự cầu như pháp đầy đủ hoàn toàn, lời nói oai nghiêm, mọi người nghe đều cung kính lãnh thọ. Họ nói lời đắn đo cân nhắc, chẳng nói lời huyên thuyên tạp nhạp, vững thờ bạn lành, rất biết báo ân; chẳng bị tham lam, ganh ghét, giận hờn, phiền não, nịnh bợ, kiêu căng, gạt gẫm v.v... che lấp tâm. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì thiện nam tử, thiện nữ v.v… này được oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa điều phục thân tâm, làm cho người đó xa lìa tâm tham, sân, si v.v... tùy miên ràng buộc. Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhớ nghĩ đầy đủ chánh niệm chánh tri về từ bi hỷ xả, thường nghĩ: Ta không nên theo thế lực của tham lam, phá giới, giận dữ, lười nhác, tán loạn, ngu si xoay chuyển. Nếu xoay chuyển theo nó thì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, diệu tuệ của ta chẳng thành tựu; muốn làm xinh đẹpthanh tịnh sắc thân còn chẳng thể được, huống là đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì thế, ta không nên xoay chuyển theo thế lực đó.

Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ tư duy như vậy, thường được niệm chánh, các phiền não xấu ác không che lấp tâm họ.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng dạy cho người khác thì được những công đức lợi ích thù thắng như vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là hiếm có, vì có thể điều phục Bồ-tát, làm cho xa lìa tâm cao ngạo, hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là hiếm có, có thể điều phục Bồ-tát làm cho xa lìa tâm cao ngạo, hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí?

Trời Đế Thích thưa:

- Nếu các Bồ-tát không y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không có phương tiện thiện xảo, nên tuy tu các pháp lành nhưng vẫn sanh tâm cao ngạo, không thể hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát thường y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có phương tiện thiện xảo, nên sự tu tập các pháp lành có thể điều phục tâm cao ngạo, hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng bị tất cả tai họa làm hại. Hoặc ở quân ngũ, khi chiến trận giao tranh, chí tâm tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, từ bi hộ niệm các hữu tình thì chẳng bị dao gậy giết hại; đối với oán địch đều khởi tâm từ; giả sử khởi tâm ác, tự nhiên lui bại. Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... này ở quân trận bị dao gậy, cung tên làm trúng thương, mất mạng thì hoàn toàn không có lẽ đó. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này là chú đại thần, là chú vô thượng. Nếu ai có thể siêng năng tu học chú này thì không làm hại mình, không làm hại người, không hại cả hai, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây đạt được trí nhất thiết trí, quán sát hữu tình tâm hạnh sai khác, tùy nghi chuyển vận bánh xe pháp Vô thượng, làm cho y như lời dạy mà tu hành, đạt được lợi ích lớn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này để ở chỗ sạch sẽ, cung kính, cúng dường, lại siêng năng thọ trì, đọc tụng thì nhơn phi nhơn v.v... muốn tìm lỗi của người đó hoàn toàn không thể được. Chỉ trừ nghiệp ác đời trước nên phải chịu.

Kiều-thi-ca! Ví như có người hoặc bàng sanh đi vào viện Bồ-đề thọ, hoặc đến bên viện kia, thì nhơn phi nhơn v.v... chẳng thể làm hại được. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì chư Phật ba đời đều ngồi ở chỗ này mà đắc đại Bồ-đềcông bố cho các hữu tình về sự không khiếp, không sợ, không oán, không hại, thân tâm an lạc. Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa ở chỗ nào cũng như vậy, tất cả trời, rồng, A-tố-lạc v.v... thường đến giữ gìn, hộ vệ. Nên biết chỗ ấy chính là bảo tháp, tất cả hữu tình nên kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, không nên tạm bỏ. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì đó là chỗ quay về nương tựa của các hữu tình vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức bằng các thứ xinh đẹp, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn để cúng dường. Lại có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... sau khi Phật Niết-bàn, xây tháp trang sức bằng bảy báu xinh đẹp, rương báu đựng đầy xá-lợi của Phật, đặt ở trong đó cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu, cho đến ánh sáng của đèn để cúng dường. Hai sự việc đó, sự việc nào đạt được phước nhiều hơn?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời. Ý ông thế nào? Sự đắc được trí nhất thiết trí, sự chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và sự nương cái thân của Như Lai là nương vào những đạo lý nào tu học mà được?

Trời Đế Thích thưa:

- Đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa tu học mà được.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Chẳng phải chỉ đạt được thân tướng hảo nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà chính là do chứng đắc trí nhất thiết trí mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Kiều-thi-ca! Như Lai đắc trí nhất thiết trí là chính nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa làm nhân nên phát sanh. Thân tướng hảo của Phật chỉ là chỗ nương. Nếu không nương tựa thân tướng hảo của Phật thì không do đâu mà phát sanh. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa chính là cái nhân sanh ra trí nhất thiết trí. Muốn làm cho trí này hiện tiền tiếp nối luôn nên tu tập thân tướng hảo của Phật. Do nhân duyên này nên sau khi Ta Niết-bàn, chư Thiên, rồng, thần, nhơn phi nhơn v.v... cung kính xá-lợi của Ta.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các thứ xinh đẹp, thọ trì, đọc tụng, lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, thì chính là cúng dường trí nhất thiết trí và nương tựa thân tướng hảo của Phật cùng xá-lợi của Phật sau khi Niết-bàn. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì trí nhất thiết tríthân tướng hảo của Phật cùng xá-lợi đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm căn bản.

Do vậy, này Kiều-thi-ca! Người biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức bằng các thứ xinh đẹp, cung kính, cúng dường, đạt được phước hơn phước dùng bảy báu xây tháp cúng dường xá-lợi của Như Lai. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chính là cúng dường trí nhất thiết trí, thân tướng hảo và xá-lợi của Phật vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người châu Thiệm-bộ không thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Người kia lẽ nào không biết sự nói về công đức lợi ích thù thắng như thế?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời. Ý ông thế nào? Trong châu Thiệm-bộ có bao nhiêu người thành tựu sự chứng tịnh đối với Phật, thành tựu chứng tịnh đối với Pháp, thành tựu chứng tịnh đối với Tăng? Có bao nhiêu người đắc quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến Bồ-đề của bậc Độc giác? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến Vô thượng Bồ-đề?

Trời Đế Thích thưa:

- Trong châu Thiệm-bộ có một số ít vị thành tựu ba chứng tịnh, càng ít vị đắc quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán. Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến Bồ-đề của bậc Độc giác. Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến Vô thượng Bồ-đề.

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Trong châu Thiệm-bộ có rất ít người phát tâm quyết định hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Trong ấy có một số ít vị đã phát tâm xong siêng năng tu học, hướng đến hạnh Bồ-đề. Trong ấy có một số ít vị khi siêng năng tu học hạnh Bồ-đề, hết lòng tin nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Trong ấy có một số ít vị hết lòng tin nhận xong, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong ấy có một số ít vị đã tu hành xong, lần lượt an trụ địa vị Bất thối chuyển. Trong ấy có một số ít vị trụ địa vị này xong, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kiều-thi-ca! Nếu các Bồ-tát nào đã được an trụ địa vị Bất thối chuyển, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mới có thể hết lòng tin nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường, biên chép, giảng thuyết.

Kiều-thi-ca! Vô lượng, vô biên các loài hữu tình phát tâm Bồ-đề, trong số đó chỉ có một, hai, hoặc ba được trụ địa vị Bất thối chuyển, còn phần nhiều lui trụ địa vị Thanh văn, Độc giác. Vì thế, nên biết! Thiện nam tử v.v... phát tâm Bồ-đề tu hạnh Bồ-tát, muốn trụ địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không bị trở ngại thì nên biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa, cung kính, cúng dường, diễn thuyết cho người. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Các Bồ-tát này nên nghĩ: Như Lai xưa kia khi còn ở địa vị Bồ-tát, thường siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy. Chúng ta cũng nên siêng năng tu học như vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa này là Đại sư của chúng ta. Ta theo đó học, sự ước nguyện sẽ viên mãn.

Kiều-thi-ca! Tất cả Bồ-tát khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Bát Niết-bàn, thường nên y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa siêng năng tu học.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... sau khi các đức Như Lai Bát Niết-bàn, vì cúng dường xá-lợi của Phật nên xây tháp bằng bảy báu tốt đẹp và trang sức xen lẫn bằng các thứ ngọc báu quí hiếm, xinh đẹp. Lại đem các thứ tràng hoa trời đẹp cho đến ánh sáng của đèn trọn đời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này, do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật bảo Kiều-thi-ca:

- Có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các thứ báu xinh đẹpthọ trì, đọc tụng. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước càng nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Kiều-thi-ca! Để việc này qua một bên. Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... sau khi các đức Như Lai Bát Niết-bàn, vì cúng dường xá-lợi của Phật nên xây tháp bằng bảy báu tốt đẹp, trang sức xen lẫn bằng các thứ ngọc quý đầy dẫy một châu Thiệm-bộ như vậy, hoặc bốn châu lớn, hoặc cõi Tiểu thiên, hoặc cõi Trung thiên, hoặc thế giới Tam thiên đại thiên, đều đem các thứ tràng hoa trời tốt đẹp cho đến ánh sáng của đèn, trọn đời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật dạy Kiều-thi-ca:

- Có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các thứ báu xinh đẹp, thọ trì, đọc tụng. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Kiều-thi-ca! Để việc này qua một bên. Giả sử các loài hữu tìnhthế giới Tam thiên đại thiên, đồng một lúc đều được thân người, mỗi mỗi người này vì cúng dường xá-lợi của Phật nên sau khi các đức Như Lai Bát Niết-bàn, xây tháp bằng bảy báu tốt đẹp, trang sức xen lẫn bằng các thứ ngọc quý hiếm xinh đẹp. Như vậy, mỗi mỗi đều đầy đủ cả thế giới Tam thiên đại thiên. Lại đem các thứ tràng hoa trời đẹp cho đến ánh sáng của đèn trọn đời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Ý ông thế nào? Các hữu tình này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Có thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các thứ báu xinh đẹp, thọ trì, đọc tụng. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt đuợc công đức càng nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết, đó chính là cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi trí nhất thiết trí của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Kính bạch Thế Tôn! Để việc này qua một bên. Giả sử tất cả hữu tìnhthế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương, đồng một lúc đều được thân người, mỗi một người này vì cúng dường xá-lợi của Phật nên mỗi vị sau khi Như Lai Bát Niết-bàn đều xây tháp bằng bảy báu quý tốt và trang sức xen lẫn bằng các thứ ngọc quý hiếm, mỗi mỗi thứ như thế đều đầy cả thế giới chư Phật như cát sông Hằng trong mười phương. Lại đem các thứ tràng hoa trời đẹp cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, trải qua một kiếp hoặc hơn một kiếp, các hữu tình này do nhân duyên như vậy đạt được phước đức tuy là vô lượng. Nhưng lại có thiện nam tử v.v... khác biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các báu xinh đẹp, thọ trì, đọc tụng. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi thì đạt đuợc phước càng nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này công đức căn lành cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa vô lượng, vô biên, không thể tính kể, không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh trí nhất thiết trí của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Trí nhất thiết trí của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể sanh ra xá-lợi của chư Phật.

Thế nên, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức bằng các thứ báu xinh đẹp, thọ trì, đọc tụng. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, đạt được phước hơn phước của việc xây các tháp và cúng dường ở trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến cùng cực vô số lần.

 
IV. PHẨM THẦN CHÚ

Bấy giờ, trong chúng có bốn vạn Thiên tử đồng thanh thưa trời Đế Thích:

- Đại tiên thường nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này. Vì sao? Vì nếu ai có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì làm cho tất cả pháp ác giảm bớt, pháp lành tăng thêm.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Ông nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này. Vì sao? Vì nếu A-tố-lạc và bè lũ xấu ác phát sanh ý nghĩ: Chúng ta phải quyết gây chiến với trời Ba mươi ba, thì khi ấy các ông mỗi người nên chí thành tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Khi ấy, sự phát sanh tâm ác của A-tố-lạc và bè lũ kia tự nhiên tiêu tan.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Nếu như vậy thì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là chú đại thần, là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú vô đẳng đẳng.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì chư Phật ba đời đều y vào vua đại thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mới chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thuyết pháp mầu nhiệm cho các hữu tình.

Kiều-thi-ca! Y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thế gian mới có mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông, hoặc vô lượng, vô biên các Phật pháp khác đều được xuất hiện.

Kiều-thi-ca! Y vào vua đại thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thế gian mới có Bồ-tát xuất hiện. Y vào Bồ-tát nên thế gian liền có mười thiện nghiệp đạo hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông, hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp khác đều được xuất hiện.

Kiều-thi-ca! Nếu khi các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không xuất thế thì chỉ có Bồ-tát nhờ năng lực tăng thượng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã được nghe trước kia mà phương tiện trình bày mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự v.v... làm cho các hữu tình siêng năng tu học.

Kiều-thi-ca! Ví như ban đêm nhờ vào mặt trăng tròn đầy, ánh sáng chiếu tận các vì tinh tú, làm cho các cây cỏ v.v... theo năng lượng đó đều được phát triển. Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đời trước đã diệt độ, chánh pháp không còn và khi chưa xuất hiện, các thiện hạnh, chánh hạnh trong thế gian… tất cả đều y vào Bồ-tát mà được xuất hiện. Phương tiện thiện xảo của Bồ-tát đều y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Thế nên, Bát-nhã ba-la-mật-đa là cội gốc của các pháp lành thù thắng vậy.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì sẽ được các thứ lợi ích ngay đời hiện tại, nghĩa là các thuốc độc, lửa, nước, đao binh, tai hoạ, tật dịch… hoàn toàn không thể làm hại. Nếu gặp phải việc quan, oán tặc ép ngặt, mà chí tâm tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì dù phải đến những chỗ đó cũng hoàn toàn không bị người kia trách phạt, làm hại. Người kia muốn tìm lỗi, hoàn toàn không thể được. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì thế lực oai thần của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khiến được như vậy.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nếu muốn đến chỗ quốc vương, vương tử, đại thần v.v... chí tâm tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nhất định được quốc vương v.v... hoan hỷ hỏi han, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thường đưa đến các thứ việc từ bi cho các hữu tình. Do nhân duyên này nên những kẻ tìm lỗi bằng vô số phương tiện cũng đều không thể tìm được.

Lúc đó có nhiều Phạm chí ngoại đạo muốn tìm lỗi của Phật, đi đến chỗ Phật. Khi ấy, Trời Đế Thích thấy vậy nghĩ: Nhiều chúng Phạm chí ngoại đạo đi đến pháp hội dò xét, tìm lỗi của Phật. Lẽ nào không gây sự khó khăn, trở ngại cho Bát-nhã?! Ta phải tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã thọ nhận từ nơi Phật, khiến cho bọn tà kia rút lui.

Nghĩ xong, liền tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Ngay khi ấy, nhiều chúng Phạm chí ngoại đạo từ xa tỏ bày lễ kính, nhiễu quanh bên phải Thế Tôn và quay lui.

Xá-lợi Tử thấy việc như vậy, nghĩ: Chúng ngoại đạo kia do duyên gì vừa đến liền quay lui?

Phật biết ý nghĩ của Xá-lợi Tử nên bảo Xá-lợi Tử:

- Các ngoại đạo kia đến tìm lỗi của Ta, nhưng do trời Đế Thích tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa nên khiến họ quay lui. Xá-lợi Tử! Ta hoàn toàn không thấy các ngoại đạo kia có chút bạch pháp nào, họ chỉ mang tâm xấu ác muốn tìm lỗi nên đi đến chỗ Ta. Xá-lợi Tử! Ta hoàn toàn không thấy khi thuyết Bát-nhã mà tất cả thế gian có các thiên ma và loài hữu tình ngoại đạo v.v... ôm ấp tâm xấu ác đến tìm lỗi được tiện lợi, vì oai lực của Bát-nhã nên không thể phá hoại được vậy.

Khi ấy, ác ma thầm nghĩ: Nay Phật đang có bốn chúng cung kính vây quanh và chư thiên cõi Dục, cõi Sắc đều đến hội họp, tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong ấy, chắc chắn có các Đại Bồ-tát đích thân ở trước Phật được thọ ký Bồ-đề, sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm cho trống không cảnh giới của ta, ta phải đi đến phá hoại bạn bè họ. Nghĩ như vậy, ác ma hóa làm bốn quân tinh nhuệ dõng mãnh, đi đến chỗ Phật.

Trời Đế Thích thấy vậy nghĩ: Phải chăng ác ma hóa ra việc như thế là chỉ vì muốn đến hại Phật và gây khó khăn trở ngại cho Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bốn quân này trang bị uy nghiêm, dõng mãnh, các quân lính của vua đều không sánh kịp được. Nhất định là do ác ma hóa làm ra. Ác ma luôn luôn rình tìm lỗi của Phật, phá hoại sự tu nghiệp lành của các hữu tình. Ta phải tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được nhận lãnh từ nơi Phật, làm cho ác ma kia rút lui.

Trời Đế Thích nghĩ xong, liền tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Ngay lúc đó, ác ma từ từ rút lui, vì bị oai lực vua đại thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bức bách vậy.

Khi ấy, có vô lượng trời Ba mươi ba cùng một lúc hóa làm hương hoa trời đẹp, phóng lên không trung để dâng lên Phật, chấp tay cung kính đồng bạch Phật:

- Nguyện Bát-nhã ba-la-mật-đa này trụ lâu trong cõi của người châu Thiệm-bộ, cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa lưu bố khắp nhơn gian châu Thiệm-bộ. Nên biết chỗ đó, Phật, Pháp và Tăng bảo thường không diệt mất, làm cho thế gian đạt được lợi ích an vui thù thắng.

Bấy giờ, chư thiên kia đều hóa làm hương hoa trời tốt đẹp để dâng lên Phật và bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì tất cả ác maquyến thuộc của chúng rình tìm lỗi của vị đó không thể được tiện lợi.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Nếu các hữu tình chỉ nghe danh tự công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên biết các loài hữu tình như thế đã từng cúng dường vô lượng chư Phật và ở chỗ chư Phật phát thệ nguyện rộng lớn, tu tập nhiều căn lành mới có thể thành tựu được việc như thế, chứ chẳng phải từ chút ít căn lành mà đạt đến; huống là có thể lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp; lại biên chép, giảng thuyết cho hữu tìnhcung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Vì sao? Vì muốn cầu trí nhất thiết trí của chư Phật thì nên tìm cầu trong lý thú của Bát-nhã ba-la-mật-đa, như loài hữu tình muốn tìm châu báu quí thì nên phương tiện siêng tìm nơi biển cả.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Chư Phật đạt được trí nhất thiết trí là đều y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu.

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Vì nhân duyênNhư Lai không khen ngợi bố thí cho đến tịnh lự Ba-la-mật-đa, mà chỉ khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Do Bát-nhã ba-la-mật-đa này có thể làm tôn chỉ, làm đạo sư cho năm Ba-la-mật-đa trước, nên Ta chú trọng khen.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Ý ông thế nào? Nếu không hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí cho đến Bát-nhã thì như vậy có thể gọi là chơn thật tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không?

Khánh Hỷ bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Ý ông thế nào? Nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa là có thể chơn thật hồi hướng trí nhất thiết trí phải không?

Khánh Hỷ thưa:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Do nhân duyên như vậy, Ta nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể làm tôn chỉ, làm đạo sư cho năm Ba-la-mật-đa trước, nên ta đặc biệt khen.

Khánh Hỷ nên biết! Ví như mặt đất, đem hạt giống rải vào trong đó, gặp các duyên hòa hợp bèn sanh trưởng. Nên biết, đất giúp cho hạt giống sanh trưởng, làm sự nương tựa vì có thể tạo nên. Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa và sự hồi hướng trí nhất thiết trí cùng với bố thí Ba-la-mật-đa v.v... làm sự nương tựa, làm cho sanh trưởng, vì có thể lập nên; nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể làm tôn chỉ, làm đạo sư cho năm Ba-la-mật-đa trước, nên Ta đặc biệt khen.

Khánh Hỷ nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng có thể hộ trì trí nhất thiết trí nên Ta đặc biệt khen.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Hôm nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói cũng chưa hết về công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì con theo Thế Tôn lãnh thọ công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa rất sâu rộng, lượng không biên giới.

Thiện nam tử v.v... chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lại biên chép, giảng thuyết cho người, hoặc đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn để cúng dường, đạt được công đức cũng không biên giới.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta không nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này chỉ có công đức lợi ích thù thắng như nói ở trước. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này đầy đủ vô biên công đức lợi ích thù thắng, phân biệt diễn nói không thể hết. Ta cũng không nói thiện nam tử v.v... chí tâm lắng nghe cho đến cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chỉ có công đức như đã nói ở trước, vì người kia đạt được phước không biên giới vậy.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chư thiên chúng con thường theo giữ gìn, hộ vệ thiện nam tử, thiện nữ v.v... này, không để cho tất cả nhơn phi nhơn v.v... và các thứ duyên xấu làm tổn hại.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xatuyên thuyết chỉ dạy rộng rãi cho người, thì khi ấy có vô lượng trăm ngàn Thiên tử, vì nghe pháp nên đều đến hội họp, vui mừng hớn hở kính nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Các Thiên tử này dùng oai lực của chư Thiên làm cho vị thầy thuyết pháp tăng thêm biện tài tuyên dương không cùng tận, người không ưa thuyết làm cho ưa thuyết, người thân tâm mỏi mệt làm cho được khỏe mạnh.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xatuyên thuyết chỉ dạy rộng rãi cho người được những pháp lợi ích thù thắng hiện tiền như thế cả.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... ở giữa bốn chúng tuyên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì tâm không khiếp sợ, không bị tất cả những luận thuyết của ngoại đạo bẻ dẹp. Vì sao? Vì người kia nhờ vua đại thần chú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì vậy. Người kia trụ pháp Không, nên hoàn toàn không thấy có người vấn nạn, kẻ bị vấn nạn và sự vấn nạn. Cũng không thấy có người có thể tìm lỗi của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Cũng không thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xalỗi lầm.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho chúng nên được những pháp lợi ích thù thắng hiện tại như thế.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, biên chép, giảng thuyết rộng rãi cho người thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này tâm không chìm đắm, cũng không lo buồn, hối hận, không kinh, không sợ. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ v.v… này không thấy có pháp có thể làm cho chìm đắm, lo buồn, sợ hãi; vì trong các pháp không có sự chấp trước vậy.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do chí tâm lắng nghe cho đến giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa cho người nên đạt được những pháp lợi ích thù thắng hiện tại như thế.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng biên chép, giảng thuyết cho người. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn để cúng dường thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này thường được cha mẹ, sư trưởng, bạn bè, quốc vương, đại thần và các Sa-môn, Bà-la-môn v.v... kính mến. Cũng được chư Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác trong mười phương hộ niệm. Lại được chư thiên, ma, Phạm, nhơn phi nhơnthế gian giữ gìn, hộ vệ; tất cả tai họa đều tự tiêu diệt; luận thuyết ngoại đạo không thể bẻ dẹp.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ chí tâm lắng nghe cho đến cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa nên được những pháp lợi ích thù thắng hiện tiền như thế.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế và trang sức bằng các thứ báu xinh đẹp, đặt ở chỗ sạch sẽ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, khi ấy cõi nước tam thiên đại thiên này và vô biên thế giớimười phương khác có chúng trời Tứ Đại Thiên Vương cho đến trời Quảng Quả … đã phát tâm Vô Thượng Bồ-đề đến chỗ này quán sát, đảnh lễ, đọc tụng, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, đi nhiễu vòng bên phải, lễ bái, chấp tay mà lui. Chư thiên Tịnh Cư cũng thường đến đây quan sát, lễ bái, đọc tụng, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, đi nhiễu quanh bên phải, lễ bái, chấp tay mà lui. Có các rồng, Dược-xoa oai đức lớn, nói rộng ra cho đến nhơn phi nhơn v.v... cũng thường đến đây quan sát, lễ bái, đọc tụng, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, nhiễu quanh bên phải, lễ bái, chấp tay rồi lui.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nên nghĩ: Cõi nước tam thiên đại thiên này và tất cả trời, rồng ở vô biên thế giới trong mười phương khác, nói rộng ra cho đến nhơn phi nhơn v.v... thường đi đến đây quan sát, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của ta đã biên chép, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, nhiễu quanh bên phải, lễ bái, chấp tay mà lui. Như vậy thì chính là ta đã thiết lập pháp thí. Nghĩ như vậy xong, vui mừng hớn hở, làm cho sự đạt được phước càng tăng lên gấp bội.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ trời, rồng, Dược-xoa, A-tố-lạc v.v... ở vô biên thế giới thường theo hộ vệ. Chỗ ở của người đó, nhơn và phi nhơn v.v... Không thể làm hại được. Chỉ trừ nghiệp nhơn xấu đã tạo ở đời trước, đời này đã chín muồi; hoặc chuyển đổi nghiệp ác rất nặng ở đời trước, đời này chịu quả báo nhẹ.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ năng lực đại oai thần của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên đạt được những pháp lợi ích thù thắng hiện tiền như vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do đâu nghiệm biết được có trời, rồng, Dược-xoa, A-tố-lạc v.v... ở quốc độ tam thiên đại thiên này và vô biên thế giới trong mười phương khác đi đến chỗ người đó quán sát, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của người đó đã biên chép, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, chấp tay đi nhiễu vòng bên phải, hoan hỷ hộ niệm?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này, hoặc thấy chỗ để Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này có ánh sáng mầu nhiệm, hoặc nghe chỗ đó có mùi hương thơm ngào ngạt khác thường, hoặc nghe có tiếng âm nhạc vi diệu thì nên biết, lúc ấy có các trời, rồng v.v... có thần lực lớn và oai đức lẫy lừng đi đến chỗ đó quán sát, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của người đó biên chép, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, chấp tay nhiễu quanh bên phải, hoan hỷ hộ niệm.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này tu tập tịnh hạnh trong sáng, trang sức đẹp đẽ nơi đó và chí tâm cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa; nên biết, bấy giờ có các trời, rồng v.v... có thần lực lớn, oai đức lẫy lừng, đi đến chỗ đó quán sát, lễ bái, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do người kia biên chép, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, chấp tay nhiễu quanh bên phải, hoan hỷ hộ niệm.

Kiều-thi-ca! Theo sau các trời, rồng v.v... có đầy đủ thần lực lớn, oai đức lẫy lừng như vậy để đi đến chỗ đó, trong đó có những tà thần, ác quỷ đều kinh sợ, rút lui không dám ở. Do nhân duyên này, thiện nam tử, thiện nữ v.v... này tâm liền rộng rãi, phát sanh hiểu biết thanh tịnh thù thắng, sự tu nghiệp lành càng thêm sáng suốt. Có ra làm việc gì đều không bị chướng ngại. Vì vậy, này Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bất kỳ ở chỗ nào cần phải dọn dẹp cấu uế chung quanh nơi đó, quét tước lau chùi, sửa sang và rưới nước thơm, bày tòa báu để an trí, đốt hương, rải hoa để cúng dường.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nếu thường cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì nhất định sẽ được thân tâm không mệt mỏi, thân tâm an vui, thân tâm mềm mại, thân tâm nhẹ nhàng, buộc tâm nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa; ban đêm khi ngủ nghỉ không có các mộng xấu, chỉ thấy mộng tốt.

Nghĩa là: Thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thân sắc vàng ròng, tướng hảo trang nghiêm, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả, có Thanh văn và Bồ-tát cung kính vây quanh, đích thân mình ở giữa chúng, nghe Phật thuyết pháp bố thí v.v... lục độ Ba-la-mật-đa và các pháp nghĩa lý tương ưng với các căn lành khác.

Hoặc trong giấc mộng thấy cây Bồ-đề, tầm vóc nó cao rộng, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, có Đại Bồ-tát đi đến dưới gốc cây trải tòa, bắt tréo chân ngồi xếp bằng, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vận chuyển bánh xe diệu pháp, độ chúng hữu tình.

Hoặc trong giấc mộng thấy có vô lượng, vô số Bồ-tát luận bàn, quyết đoán, lựa chọn nghĩa của vô số các pháp. Hoặc trong giấc mộng thấy có vô lượng, vô số Bồ-tát tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, hồi hướng bảo vệ trí nhất thiết trí.

Hoặc trong giấc mộng thấy thế giới trong mười phương, mỗi thế giớivô lượng muôn ức đức Phật cũng nghe tiếng các Ngài dạy:

“Thế giới tên đó, có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiệu đó, có vô số trăm ngàn Thanh văn và Bồ-tát gần gũi, cung kính thuyết pháp như thế. Hoặc trong giấc mộng thấy thế giới trong mười phương đều có vô lượng muôn ức đức Phật nhập Bát Niết-bàn, mỗi mỗi đức Phật đó sau khi nhập Bát Niết-bàn đều có thí chủcúng dường xá-lợi của Phật nên xây vô lượng tháp lớn bằng bảy báu xinh đẹp. Lại ở mỗi mỗi tháp đều đem vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, trải qua vô lượng kiếp.”

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này thấy tướng các thứ mộng lành như thế, hoặc ngủ, hoặc thức, thân tâm an vui. Các thiên thần v.v... giúp thêm năng lực cho người kia, làm cho người kia tự biết, thân thể nhẹ nhàng. Do nhân duyên này, không có nhiều tham đắm về ăn uống, thuốc men, y phục, đồ nằm. Đối với bốn thứ cúng dường, tâm người đó nhẹ nhàng như sư Du-già nhập định thắng diệu. Nhờ năng lực định kia thấm nhuần thân tâm, từ định xuất, tuy gặp thức ăn ngon nhưng tâm nhẹ nhàng, người này cũng như vậy. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ chư Phật, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, trời, rồng, Dược-xoa, A-tố-lạc v.v... ở cõi nước khắp tam thiên đại thiên này và vô biên thế giới khác ở mười phương từ bi hộ niệm, dùng năng lực tốt, thầm rót vào thân tâm khiến cho chí khí của người kia dũng mãnh, thể lực khỏe mạnh vậy.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào muốn đắc pháp lợi ích thù thắng hiện tiền như thế thì nên thường lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp, tuyên thuyết chỉ dạy rộng rãi cho tất cả hữu tình.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào mặc dù không thể lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, giảng thuyết chỉ dạy rộng rãi cho các hữu tình, nhưng vì muốn chánh pháp trụ lâu ở thế gian, làm lợi ích an vui cho hữu tình, không bị diệt mất, nên biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu. Lại đem vô lượng tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi thì cũng được lợi ích thù thắng như đã nói ở trước.

Quyển thứ 557
HẾT

 
V. PHẨM XÁ LỢI

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Giả sử xá-lợi của Phật đầy dẫy cả châu Thiệm-bộ này làm một phần, có người biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu làm một phần, thì trong hai phần ấy ông nhận phần nào?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Ý của con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu. Vì sao? Vì chẳng phải con không tin nhận, cung kính, cúng dường xá-lợi của chư Phật, nhưng thân của chư Phật và xá-lợi là đều nhân nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu mà sanh ra; đều do công đức uy lực đã huân tu pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu nên mới được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cung kính, cúng dường.

Kính bạch Thế Tôn! Như con ngồi trên tòa Thiên đế, trong điện Thiện pháp, ở cõi trời Ba mươi ba, khi tuyên thuyết chánh pháp cho các trời, có vô lượng các Thiên tử v.v... đi đến chỗ con nghe thuyết pháp, cung kính, cúng dường, nhiễu quanh bên phải rồi đi. Khi con không có ở trên pháp tòa kia, nhưng các Thiên tử v.v... đi đến chỗ đó, mặc dù không thấy con nhưng họ vẫn cung kính, cúng dường như khi con đang ở tại đó. Họ nói: “Chỗ này là tòa của trời Đế Thích ngồi thuyết pháp cho chư Thiên v.v... Chúng ta nên cúng dường cung kính, xem như Thiên chủ hiện đang ở đó”, rồi nhiễu quanh bên phải lui ra.

Xá-lợi của Phật cũng như vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu làm cho sự nương tựa phát sanh trí nhất thiết trí, nên được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... cung kính, cúng dường. Thế nên con nói: Trong hai phần, ý của con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu.

Kính bạch Thế Tôn! Giả sử xá-lợi của Phật đầy dẫy cả thế giới tam thiên đại thiên làm một phần, có người biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu làm một phần, thì trong hai phần ấy, ý của con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu. Vì sao? Vì chẳng phải con không tín thọ, cung kính, cúng dường xá-lợi của Phật, nhưng thân và xá-lợi của chư Phật là đều nhân nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu mà sanh ra vậy. Đều do công đức uy lực đã huân tu của pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu nên mới được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... cung kính, cúng dường.

Kính bạch Thế Tôn! Như người mắc nợ, sợ hãi chủ nợ, liền gần gũi hầu hạ quốc vương, nương dựa thế lực của vua, khỏi sợ hãi. Trái lại còn được chủ nợ sợ hãi, cúng dường. Vì sao? Vì người kia nương cậy vào thế lực của vua, được vua che chở nên có nhiều uy thế vậy.

Vua, dụ cho Bát-nhã ba-la-mật-đa. Xá-lợi của Phật, dụ cho kẻ nương vua. Do nương Bát-nhã ba-la-mật-đa nên được thế gian cung kính, cúng dường. Chư Phật được đắc trí nhất thiết trí là cũng nương Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu, nên con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như thần châu đại bảo vô giá, đủ vô lượng uy đức thù thắng vi diệu; bất kỳ chỗ nào có thần châu này thì nhơn phi nhơn v.v... không thể làm hại:

Giả sử có nam tử hoặc nữ nhơn bị quỷ thần gây hại, thân tâm buồn khổ, có người đem thần châu này bảo cho người đó biết, do uy lực của thần châu nên quỷ liền bỏ đi.

Có các bệnh nhiệt, bệnh phong, bệnh đàm, hoặc hai, hoặc ba thứ hòa hợp làm bệnh, nếu có người nào buộc thần châu này nơi thân thì các bệnh như thế đều được trừ diệt hẳn.

Thần châu này để ở chỗ tối tăm, có thể làm cho chỗ đó được soi sáng. Khi nóng bức có thể làm cho mát mẻ. Khi lạnh có thể làm cho ấm áp.

Bất kỳ địa phương nào có thần châu này thì ở đó thời tiết điều hòa, không lạnh, không nóng.

Nếu địa phương nào có thần châu này thì các thứ độc như: rắn, rết, bọ cạp v.v... đều không dám nương ở.

Giả sử có nam tử hoặc nữ nhơn nào bị trúng độc, đau đớn khó chịu, nếu có người đem thần châu này cho những người kia thấy, thì nhờ thần lực của thần châu nên các độc liền tiêu diệt.

Nếu các hữu tình nào bị bệnh hủi, ghẻ dữ, ghẻ nhọt, bủng thủng, mắt mù lòa v.v... và bệnh mắt, bệnh tai, bệnh mũi, bệnh lưỡi, bệnh yết hầu, bệnh nơi thân, bệnh nơi các lóng đốt… mà đeo thần châu này thì đều được khỏi hẳn các bệnh.

Nếu trong các ao suối, giếng v.v... nước trong đó đục dơ, hoặc sắp khô cạn, đem thần châu này để vào trong đó, nước liền đầy tràn và trong trẻo, sạch sẽ, thơm tho, đủ tám công đức.

Nếu đem áo thêu thùa đủ thứ màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích lục… gói thần châu này bỏ vào trong nước, nước tùy theo sắc của áo làm thành đủ thứ màu sắc khác nhau.

Thần châu đại bảo vô giá này oai đức vô biên, nói không thể hết. Nếu đựng trong rương, trong tráp cũng làm cho đồ đựng đó thành tựu đầy đủ vô biên uy đức. Giả sử rương tráp ấy trống không, nhưng do từng đựng thần châu nên rương tráp đó cũng được mọi người quý trọng.

Khánh Hỷ hỏi trời Đế Thích:

- Thần châu như thế là chỉ riêng ở trên trời có, hay là trong nhơn gian cũng có?

Trời Đế Thích thưa:

- Trong nhơn gian, trên trời đều có thần châu này. Nhưng ở trong nhơn gian thì hình dáng nhỏ mà nặng; còn ở trên trời thì hình dáng lớn mà nhẹ. Lại tướng của thần châu ở nhơn gian chẳng đầy đủ, còn tướng thần châu trên trời thì tròn đầy. Uy đức thần châu trên trời thù thắng gấp vô lượng vô số thần châu ở nhơn gian.

Bấy giờ, Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu cũng như vậy, làm cội gốc cho các đức, có thể diệt trừ vô lượng pháp ác bất thiện; bất kỳ để ở chỗ nào cũng diệt trừ đau khổ nơi thân tâm các hữu tình; nhơn phi nhơn v.v... chẳng thể làm hại. Như Lai đã đắc trí nhất thiết trívô lượng, vô biên công đức khác là đều nhân nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa; còn xá-lợi của Phật là do các công đức đã huân tu, làm vật nương tựa cho các công đức này vậy. Sau khi Phật Niết-bàn, nhận lãnh tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... cung kính, cúng dường. Thế nên con nói: Trong hai phần, ý con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu.

Kính bạch Thế Tôn! Giả sử thế giới như cát sông Hằng trong mười phương đầy dẫy xá-lợi của Phật làm một phần; có người biên chép pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu làm một phần, thì trong hai phần đó, ý con thà nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu. Vì sao? Vì chẳng phải con không tin nhận, cung kính, cúng dường xá-lợi của Phật, nhưng thân và xá-lợi của chư Phật đều nhân nơi pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu mà sanh ra vậy. Đều nhờ công đức uy lực đã huân tu pháp môn Bát-nhã ba-la-mật-đa nên mới được tất cả thế gian, thiên, nhơn, A-tố-lạc v.v... cung kính, cúng dường.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm diệu có thể sanh trí nhất thiết trí của Như Lai. Như Lai đắc được trí nhất thiết trí, có thể sanh thân và xá-lợi của Phật. Thế nên, cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy thì chính là cúng dường trí nhất thiết trí và xá-lợi chư Phật ba đời.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... muốn được thường thấy chư Phật trong mười phương thì phải tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đachứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Như Lai cung kính, cúng dường.

Trời Đế Thích thưa:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế là đại Vô thượng Ba-la-mật-đa. Tất cả Như Lai đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa mà biết được tâm hành sai khác của các hữu tình.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Thế nên chúng Đại Bồ-tát luôn luôn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì biết đúng như thật tâm hành sai khác của các loài hữu tình.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Các chúng Bồ-tát chỉ nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, hay là cũng nên hành năm Ba-la-mật-đa khác?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Các chúng Bồ-tát nên hành đủ sáu Ba-la-mật-đa rồi sau hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự; khi quán các pháp đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm trên hết.

Kiều-thi-ca! Như ở châu Thiệm-bộ có các thứ cây, nhánh, cành, cọng, thân, hoa, lá, quả, hạt… tuy có các thứ hình dáng không giống nhau nhưng bóng râm của nó thì hoàn toàn không khác. Sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy, tuy mỗi pháp có khác nhau nhưng nhờ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì, hồi hướng trí nhất thiết trí nên các tướng sai khác kia hoàn toàn không thể đắc.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thành tựu viên mãn rộng lớn vô lượng, vô biên công đức. Nếu có người nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế và trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu; lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, giữ gìn không xả bỏ. Lại có người biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, lại đem bố thí cho người khác thọ trì, đọc tụng, thì trong hai phước, phước nào nhiều hơn?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời: Các hữu tình nào từ nơi người khác thỉnh được xá-lợi của Phật, dùng đồ báu đựng đầy, tôn trí ở chỗ sạch sẽ, lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, giữ gìn không xả bỏ. Hoặc lại có người từ nơi người khác thỉnh được xá-lợi của Phật đem phân phát cho người khác, bảo người đó cúng dường. Ý ông thế nào? Trong hai phước này, phước nào nhiều hơn?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Thế Tôn dạy thì trong hai phước này, phước sau nhiều hơn.

Phật khen trời Đế Thích:

- Lành thay! Lành thay! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Người biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc tự mình cúng dường, hoặc chuyển cho người khác thọ trì, đọc tụng thì trong hai phước này, phước sau nhiều hơn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể đem nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa phân biệt giảng thuyết đúng đắn cho người thì đạt được phước lại càng nhiều hơn phước đem bố thí cho người khác gấp trăm ngàn lần. Nên kính vị pháp sư này như kính Phật.

 
VI. PHẨM KINH ĐIỂN

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, làm cho an trụ mười thiện nghiệp đạo, lần lượt cho đến giáo hóa khắp các loài hữu tìnhthế giới của chư Phật như cát sông Hằng v.v... trong mười phương, làm cho an trụ mười thiện nghiệp đạo, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật bảo:

- Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác đọc tụng, thì đạt được phước lại càng nhiều hơn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ, làm cho an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông, lần lượt cho đến khắp các loài hữu tìnhthế giới chư Phật như cát sông Hằng v.v… trong mười phương, làm cho đều an trụ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy đạt được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật bảo:

- Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các báu, đem bố thí cho người khác đọc tụng thì đạt được phước càng nhiều hơn trước.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, tự mình thường đọc tụng thì không bằng như có người biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu và đem bố thí cho người khác đọc tụng.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu và đem bố thí cho người khác đọc tụng thì không bằng có người hiểu biết đúng nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đagiảng thuyết cho người.

Trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nên giảng thuyết nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các loài hữu tình nào?

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào không biết nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên giảng thuyết cho họ. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì ở đời đương laithiện nam tử, thiện nữ v.v... cầu hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nghe người giảng thuyết tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa bèn mê lầm nên giữa đường lui mất.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo:

- Kiều-thi-ca! Đời đương lai có các Bí-sô ngu si điên đảo, mặc dầu muốn tuyên thuyết chân thật Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng nói đảo ngược bằng pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thế nào là Bí-sô nói ngược bằng pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa? Nghĩa là: Bí-sô kia nói cho người phát tâm Vô thượng Bồ-đề: Sắc hoại nên gọi là vô thường chứ chẳng phải thường không, nên gọi là vô thường. Nói thọ, tưởng, hành, thức hoại, nên gọi là vô thường chứ chẳng phải thường không, nên gọi là vô thường. Lại nói: Nếu người cầu như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kiều-thi-ca! Như vậy gọi là nói ngược bằng pháp tương tợ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Này Kiều-thi-ca! Không nên căn cứ vào sắc hoại để quán sắc là vô thường. Không nên căn cứ vào thọ, tưởng, hành, thức hoại, để quán thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, mà căn cứ vào thường không để quán sắc cho đến thức là vô thường. Do vậy, này Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... biết rõ nghĩa thú của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xagiảng thuyết cho người thì phước của người đó rất nhiều.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào giáo hóa tất cả hữu tình ở châu Thiệm-bộ, làm cho đều trụ quả Dự lưu, hoặc Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc Bồ-đề của bậc Độc giác; lần lượt cho đến giáo hóa khắp tất cả hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng v.v... trong mười phương, làm cho đều trụ quả Dự lưu cho đến Bồ-đề của bậc Độc giác, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác đọc tụng, răn bảo, chỉ dạy hữu tình kia: “Ngươi nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa tương ưng với Phật pháp, nhất định sẽ chứng đắc trí nhất thiết trí.” Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước càng nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì tất cả quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và Bồ-đề của bậc Độc giác đều từ nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa này lưu xuất vậy. Nghĩa là người kia chứng đắc trí nhất thiết trí, giáo hóa vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho thành tựu Dự lưu cho đến Độc giác không giới hạn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các loại hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lần lượt cho đến tất cả hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng. Ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho một người đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, bảo siêng năng tu học, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước càng nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy mau được viên mãn, làm cho Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được lưu bố rộng rãi khắp nơi.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lần lượt cho đến tất cả hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng. Lại dùng văn nghĩa hay đẹp để giải thích, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại đem bố thí cho một người đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, bảo đọc tụng. Lại dùng văn nghĩa hay đẹp để giải thích, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước càng nhiều hơn trước.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các loài hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lần lượt cho đến tất cả hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Trong các Bồ-tát đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có một Bồ-tát nói thế này: “Con ưa thích mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để cứu vớt các khổ sanh tử cho hữu tình.” Có thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào vì muốn thành tựu việc kia nên biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước càng nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu các hữu tình ở châu Thiệm-bộ đều được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lần lượt cho đến tất cả hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lại có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo tụng đọc tụng, lại dùng văn hay nghĩa đẹp để giải thích, thì ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện Thệ.

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Trong các Bồ-tát đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề có một Bồ-tát nói thế này: “Con ưa thích mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để cứu vớt các khổ sanh tử cho hữu tình.” Có thiện nam tử, thiện nữ v.v... vì muốn thành tựu việc kia nên biên chép, thọ trì Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức xinh đẹp bằng các thứ báu, đem bố thí cho người khác, bảo đọc tụng, lại dùng văn nghĩa hay đẹp để giải thích, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước càng nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Đúng như vậy! Kính bạch Thế Tôn. Đúng như vậy! Kính bạch Thiện Thệ. Đại Bồ-tát như thế càng gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nên đem Bát-nhã ba-la-mật-đa ân cần răn bảo, chỉ dạy. Nên đem các thức ăn uống, y phục, đồ nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ đồ dùng khác cung kính, cúng dường, làm cho không bị thiếu thốn. Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể dùng pháp thí, tài thí như thế để giúp đỡ cúng dường Đại Bồ-tát kia, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy đạt được phước vô lượng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát kia chính nhờ pháp thí, tài thí cúng dường bảo vệ như thế mà mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Khi ấy, Thiện Hiện khen trời Đế Thích:

- Lành thay! Lành thay! Ông có thể bảo vệ, khuyến khích, hỗ trợ tốt các Đại Bồ-tát, làm cho mau chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kiều-thi-ca! Ông đã làm việc đáng nên làm của Thánh đệ tử đức Phật. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì tất cả các Thánh đệ tử của Như Lai muốn làm lợi ích cho các hữu tình, theo pháp thì cần phải giúp đỡ, khuyến khích, hỗ trợ các Đại Bồ-tát, làm cho mau chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Vì sao? Vì tất cả thắng sự của Như LaiThanh văn, Độc giácthế gian đều do chúng Đại Bồ-tát mà được hiện bày

Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì nếu không có Đại Bồ-tát phát tâm Bồ-đề thì không có Đại Bồ-tát có thể tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa. Nếu không có Đại Bồ-tát tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì không có Đại Bồ-tát có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu không có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì không có sự thắng của Như LaiThanh văn, Độc giácthế gian.

Thế nên, các Thánh đệ tử của Như Lai vì muốn làm lợi ích an vui cho các hữu tình, theo pháp thì phải giúp đỡ khuyến khích, hỗ trợ các chúng Bồ-tát, làm cho tu học sáu pháp Ba-la-mật-đa để có thể mau chứng đắc trí nhất thiết trí, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình cùng tận đời vị lai.
VII. PHẨM HỒI HƯỚNG

Khi ấy, Bồ-tát Từ Thị bảo Thiện Hiện:

- Bồ-tát tùy hỷ hồi hướng tương ưng với các việc phước nghiệp thì đối với các việc phước nghiệp về bố thí, trì giới, tu tập v.v... của các hữu tình khác là tối, là thắng, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Thiện Hiện hỏi Bồ-tát Từ Thị:

- Nếu các Bồ-tát phát tâm tùy hỷ hồi hướng, duyên khắp vô lượng vô số thế giới, mỗi một thế giới có vô lượng vô số chư Phật Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, từ khi các ngài mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, lần lượt cho đến nhập Bát Niết-bàn, và như vậy cho đến lúc chánh pháp sắp diệt tận, trong thời gian đó có các căn lành tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa, hoặc những việc phước nghiệp bố thí, trì giới, tu tập v.v... và những căn lành vô lậu, hữu họcvô học của các đệ tử; hoặc giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của Phật; hoặc đại từ, đại bivô lượng, vô biên Phật pháp khác làm lợi ích an vui cho các hữu tình; hoặc là các căn lành về giảng thuyết pháp yếutu học theo pháp yếu; hoặc các căn lành mà các hữu tình đã trồng sau khi Phật Niết-bàn nhóm họp một cách đầy đủ, hiện tiền phát khởi tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Lại đem tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp như thế bình đẳng ban cho các hữu tình để cùng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện căn lành này cùng loài hữu tình phát sanh quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì ý ông thế nào? Các Bồ-tát kia với sự việc như thế, phát sanh hành tướng như thế, tâm tùy hỷ hồi hướng như thế là có sở đắc với sự việc như thế. Vậy Bồ-tát ấy có sự chấp tướng không?

Bồ-tát Từ Thị trả lời Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát kia với sự việc như thế, phát sanh hành tướng tâm tùy hỷ hồi hướng như thế, thật khôngsở duyên đắc được vậy, như là tướng của Bồ-tát kia chấp thủ.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Bồ-tát Từ Thị:

- Nếu không có các sự việc với sở duyên như thế, như là sự chấp thủ tướng của Bồ-tát kia thì tùy hỷ hồi hướng của các Bồ-tát chẳng lẽ đều thành tâm tưởng nhận thức điên đảo hay sao? Vì như có người chấp trước vào việc không có, như: vô thường cho là thường, thật khổ bảo là vui, không có ngã nói có ngã, bất tịnh nói là tịnh…; do đó phát sanh tâm tưởng nhận thức điên đảo, như sự việc này thật không có. Bồ-đề và tâm cũng y như thế. Nếu vậy thì tất cả đúng ra không sai khác. Như thế thì trong đây những gì là sự việc sở duyên? Những gì là tâm tùy hỷ? Những gì là Bồ-đề? Những gì là hồi hướng? Thế nào là Bồ-tát? Với sự việc như thế phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Bồ-tát Từ Thị trả lời Thiện Hiện:

- Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng như thế không nên nói ở trước Bồ-tát mới học Đại thừa. Vì sao? Vì những người đó có tâm tin ưa, cung kính nghe, tùy hỷ hồi hướng như thế sẽ bị diệt mất. Pháp tùy hỷ hồi hướng như thế nên phân biệt chỉ dạy cho các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, hoặc người đã từng cúng dường vô lượng chư Phật đã từ lâu phát nguyện lớn, trồng nhiều căn lành và được nhiều bạn lành giúp đỡ. Vì sao? Vì người đó nghe, tùy hỷ hồi hướng như thế, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng lui, chẳng chìm. Các chúng Bồ-tát nên đem tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp như thế hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí. Ngay lúc ấy nên nghĩ: Sự đáng dụng tâm tùy hỷ hồi hướng, sự dụng tâm này tận diệt, xa lìa, biến đổi sự việc, sự duyên và các căn lành này cũng đều như tâm tận diệt, xa lìa, biến đổi, thì trong đây những gì là sự dụng tâm? Những gì là sự việc được duyên? Cùng các căn lành mà nói tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Tâm này đối với tâm đúng lý ra không nên có tùy hỷ hồi hướng. Do không có hai tâm đồng một lúc khởi lên vậy. Tâm cũng không thể tùy hỷ hồi hướng tự thể của tâm. Thế nên tâm tùy hỷ hồi hướng và sự việc được duyên đều không thể đắc.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa nghe việc như vậy, tâm họ lẽ nào chẳng kinh sợ, thối lui? Làm sao Bồ-tát đối với sự việc được duyên phát sanh tâm tùy hỷ? Thế nào là tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Cụ thọ Thiện Hiện nương Bồ-tát Từ Thị thưa:

- Các chúng Bồ-tát duyên khắp tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương, cắt đứt con đường của các cõi, đoạn tuyệt nẻo hý luận, phá tan đám mây mù, dẹp sạch các chông gai, vứt bỏ các gánh nặng, đạt được lợi ích, chấm dứt kiết sử các cõi, chánh trí giải thoát, đạt đến tâm hoàn toàn tự tại hàng đầu, nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn. Từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, lần lượt cho đến nhập Bát Niết-bàn, như vậy cho đến chánh pháp sắp diệt mất, trong thời gian đó, có công đức và căn lành của các đệ tử đã trồng, tập họp đầy đủ hiện tiền, phát sanh tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Lại đem tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp như thế hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì các Bồ-tát này làm sao không rơi vào tâm tưởng thấy điên đảo?

Bồ-tát Từ Thị thưa Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát tự mình đã phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng, ngang đồng với các pháp không tâm, ngang đồng với tưởng thì không rơi vào tâm tưởng thấy điên đảo. Nếu các Bồ-tát tự mình đã phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng ngang đồng với các pháp có tâm, ngang đồng với tưởng thì liền rơi vào tâm tưởng thấy điên đảo.

Lại các Bồ-tát dùng tâm như vậy, tưởng niệm công đức căn lành của đệ tử Phật mà sanh tùy hỷ, biết đúng tâm này tận diệt, xa lìa, biến đổi, chẳng phải có thể tùy hỷ, biết đúng pháp kia tánh của nó cũng như vậy, chẳng phải sự tùy hỷ.

Lại hiểu biết rõ ràng về tâm hồi hướng, tánh của pháp cũng như vậy, chẳng phải có thể hồi hướng, và biết rõ đúng đắn pháp được hồi hướng, tánh của nó cũng như thế, chẳng phải sự hồi hướng.

Người nào có thể y vào sự giảng thuyết như thế mà tùy hỷ hồi hướng thì đó là chánh, chẳng phải là tà. Các chúng Bồ-tát đều nên phát khởi tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề như thế.

Lại các Bồ-tát duyên khắp công đức đạt được của chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại; hoặc căn lành có được của các đệ tử; hoặc căn lành có được của các phàm phu; hoặc căn lành có được của loài chúng sanh lắng nghe chánh pháp; hoặc là trời, rồng khác, nói rộng ra cho đến nhơn phi nhơn v.v... lắng nghe chánh pháp, phát tâm Bồ-đề. Tất cả như vậy đều tập họp đầy đủ, hiện tiền phát sanh tâm tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Tùy hỷ xong, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ngay khi ấy, nếu hiểu đúng các pháp có thể tùy hỷ hồi hướng tận diệt, xa lìa biến đổi. Các pháp của sự tùy hỷ hồi hướng, tánh của nó cũng như thế, mặc dù biết như thế nhưng luôn tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại ngay khi ấy, nếu hiểu đúng hoàn toàn không có pháp có thể tùy hỷ hồi hướng, đối với pháp mặc dù biết như thế nhưng vẫn luôn tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì chẳng rơi vào tâm tưởng nhận thức điên đảo. Vì sao? Vì các Bồ-tát đối với tâm tùy hỷ hồi hướng và pháp được tùy hỷ hồi hướng không sanh chấp trước thì gọi là tùy hỷ hồi hướng vô thượng.

Các Bồ-tát nào đối với pháp tùy hỷ hồi hướng, phát sanh tưởng về pháp tùy hỷ hồi hướng; đối với pháp được tùy hỷ hồi hướng, phát sanh tưởng về pháp được tùy hỷ hồi hướng để phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì rơi vào tâm tưởng nhận thức điên đảo. Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng như vậy, hoàn toàn sai. Bồ-tát nên biết phương tiện để xa lìa.

Các Bồ-tát nào đối với sự tu tạo các việc phước nghiệp, biết rõ như thật tịch tĩnh, viễn ly; đối với tâm tùy hỷ hồi hướng cũng biết như thật tịch tĩnh viễn ly. Đã biết như thật rồi thì thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, ngay trong các pháp hoàn toàn không chấp trước, nhưng phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì không rơi vào tâm tưởng nhận thức điên đảo.

Các Bồ-tát nào đối với sự tu tạo các việc phước nghiệp không biết rõ như thật tịch tĩnh, viễn ly; đối với tâm tùy hỷ hồi hướng cũng không biết tịch tĩnh, viễn ly; đối với tất cả pháp chấp trước các tướng để phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì rơi vào tâm tưởng nhận thức điên đảo.

Các Bồ-tát nào đối với công đức căn lành của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử đã diệt độ, muốn phát khởi tùy hỷ hồi hướng đúng thì nên nghĩ: Giống như Phật Thế Tôn và các đệ tử đều đã diệt độ, tự tánh chẳng có thì công đức căn lành cũng như thế; sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng của ta và sự hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tánh tướng cũng vậy, hoàn toàn bất khả đắc. Đã biết như thật rồi thì đối với các căn lành phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, liền có thể không sanh tâm tưởng nhận thức điên đảo, vì không chấp thủ tướng nên được Phật chấp nhận, gọi là tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề đúng.

Các Bồ-tát nào dùng chấp thủ tướng làm phương tiện thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với công đức căn lành của Phật và đệ tử đã diệt độ, chấp thủ tướng tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề thì chẳng phải là tùy hỷ hồi hướng đúng.

Nếu các Bồ-tát không chấp thủ tướng làm phương tiện để thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với công đức căn lành của Phật và đệ tử đã diệt độ, lìa tướng tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề thì gọi là tùy hỷ hồi hướng đúng.

Bồ-tát Từ Thị hỏi Thiện Hiện:

- Thế nào là Bồ-tát đối với công đức căn lành của Phật và đệ tử v.v... đều không chấp thủ tướng mà vẫn luôn tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề?

Thiện hiện thưa:

- Nên biết, sự học phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa của Bồ-tát tuy không chấp thủ tướng nhưng được tạo thành; chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng có thể phát sanh tùy hỷ hồi hướng đúng. Thế nên, Bồ-tát muốn thành tựu việc làm thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bồ-tát Từ Thị bảo Thiện Hiện:

- Chớ nói như thế. Vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, công đức căn lành của Phật và đệ tử hoàn toàn bất khả đắc, sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề cũng bất khả đắc. Trong ấy Bồ-tát nên quán như vầy: Tánh công đức căn lành của Như Lai và các đệ tử quá khứ đã diệt; sự phát tâm tùy hỷ hồi hướng và tánh đại Bồ-đề đều vắng lặng. Nếu đối với sự việc kia ta phân biệt chấp thủ tướng để phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng thì sự việc ấy chư Phật Thế Tôn hoàn toàn không chấp nhận. Vì sao? Vì Phật và đệ tử của Phật v.v... đã diệt độ, chấp thủ tướng phân biệt tùy hỷ hồi hướng thì gọi đó là có sở đắc lớn, vì quá khứ đã diệt không còn. Phật và đệ tử v.v... vị lai, hiện tại chưa đến, không trụ, cũng bất khả đắc. Nếu bất khả đắc thì chẳng phải cảnh chấp thủ tướng. Nếu chấp thủ tướng đó để phát sanh tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề thì rơi vào điên đảo.

Thế nên Bồ-tát muốn phát sanh tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề đúng với công đức căn lành của Như Lai và các đệ tử thì không nên trong đó phát sanh tùy hỷ hồi hướng có sở đắc chấp thủ tướng phân biệt. Nếu trong đó phát sanh tùy hỷ hồi hướng có sở đắc chấp thủ tướng phân biệt thì Phật chẳng bảo người đó có lợi ích lớn. Vì sao? Vì tâm tùy hỷ hồi hướng như thế là vọng tưởng phân biệt, gọi là lẫn các chất độc vậy. Như thức ăn uống tuy có đầy đủ hương vị, màu sắc ngon đẹp thượng diệu, nhưng có lẫn thuốc độc, người ngu vì hiểu biết cạn cợt nên tham đắm, lấy ăn uống. Ban đầu tuy thích ý, nhưng sau lại rất khổ.

Một loại hữu tình như thế không thọ trì đúng, không quán sát đúng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không thông suốt đúng nghĩa thú sâu xa, mà bảo hàng chủng tánh Đại thừa: Thiện nam tử, đến đây! Bạn đối với giới v.v... năm uẩnvô lượng, vô biên công đức khác của chư Phật Thế Tôn ba đời, hoặc căn lành của đệ tử Phật đã trồng, hoặc Phật Thế Tôn thọ ký chánh giác cho các Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác; hoặc căn lành của loài hữu tình kia đã trồng; hoặc căn lành của các trời, người, A-tố-lạc v.v... đã trồng… Tất cả như thế đều tập hợp đầy đủ hiện tiền tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề.

Sự nói về tùy hỷ hồi hướng như thế là dùng có sở đắc làm phương tiện. Vì như thức ăn uống có lẫn thuốc độc của thế gian, hữu tình thuộc chủng tánh Bồ-tát không nên học theo những việc như đã nói kia. Thế nên Đại đức nên nói làm sao để thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa tùy hỷ hồi hướng công đức căn lành của chư Phật và các đệ tử v.v... ở mười phương ba đời có thể gọi là không độc?

Thiện hiện thưa:

- Các Bồ-tát nào muốn không hủy báng Phậtphát tâm tùy hỷ hồi hướng thì nên nghĩ thế này: Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thông suốt đúng đắn công đức căn lành có tánh như thế, có tướng như thế, có pháp như thế, mà có thể tùy hỷ thì ta cũng nên tùy hỷ như thế. Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thông suốt đúng đắn nên đem các việc phước nghiệp như thế hồi hướng Bồ-đề, ta cũng nên hồi hướng như thế. Nếu làm việc tùy hỷ hồi hướng như thế thì không hủy báng Phật, không lẫn các độc, lìa các lỗi lầm, hoàn toàn thuận theo lời Phật dạy.

Lại nữa, Bồ-tát nên làm việc tùy hỷ hồi hướng như vầy: Như giới uẩn v.v... chẳng đọa ba cõi, chẳng thuộc ba đời, tùy hỷ hồi hướng cũng nên như thế. Vì sao? Vì như các pháp kia tự tánh Không, nên chẳng đọa ba cõi, chẳng thuộc ba đời; tùy hỷ hồi hướng cũng lại như thế. Nếu ai có thể tùy hỷ hồi hướng như thế thì không lẫn các độc, không có sự hư hoại. Nếu ai không tùy hỷ hồi hướng như thế thì nên biết đó là tùy hỷ hồi hướng tà. Nếu các Bồ-tát nghĩ như thế thì giống các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thông suốt đúng đắn các công đức v.v... Có pháp như thế, có thể nương pháp này phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo. Ta cũng nên nương pháp như thế phát sanh tâm tùy hỷ hồi hướng. Đấy là phát tùy hỷ hồi hướng chánh.

Khi ấy, đức Thế Tôn khen ngợi Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông có thể làm Phật sự lớn cho các Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Giả sử các loài hữu tìnhthế giới tam thiên đại thiên, tất cả đều được bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, năm thần thông v.v... công đức có tướng thế gian, xuất thế gian, sự phát sanh tùy thuận hồi hướng không điên đảo của một số Bồ-tát như thế thì đối với công đức kia là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử tất cả hữu tìnhthế giới tam thiên đại thiên đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mỗi mỗi trụ kiếp số như cát sông Hằng, đem có sở đắc làm phương tiện, đem y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các nhạc cụ khác cung kính, cúng dường hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng luôn không gián đoạn. Ý ông thế nào? Các Bồ-tát này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Phước như thế nếu có hình sắc thì cả thế giới như cát sông Hằng trong mười phương cũng không thể dung chứa hết.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Một vị Bồ-tát nào nhờ sự hộ trì của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên phát tâm tùy hỷ hồi hướng không điên đảo thì hơn sự đạt được phước có tướng của Bồ-tát ở trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến cùng cực số lần.

Bấy giờ, bốn vị Đại Thiên Vương, mỗi vị cùng với hai vạn Thiên tử quyến thuộc đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung kính bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo của các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên uy lực rộng lớn hơn sự bố thí có sở đắc đã nói ở trước gấp trăm ngàn lần.

Khi ấy, trời Đế Thích cho đến Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, mỗi vị cùng với mười vạn Thiên tử quyến thuộc đều đem các thứ tràng hoa trời đẹp, các thứ hương bột, hương xoa, y phục, chuỗi ngọc, tràng phan, cờ, lọng báu, cùng các thứ ngọc báu quí lạ và tấu âm nhạc trời để cúng dường Phật, đảnh lễ chân Phật, chấp tay bạch:

- Bạch Thế Tôn! Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo của các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên uy lực rộng lớn hơn sự bố thí có sở đắc đã nói ở trước gấp trăm ngàn lần.

Lúc ấy, Đại Phạm Vương nói rộng ra cho đến trời Sắc cứu cánh, mỗi vị cùng với vô lượng trăm ngàn Thiên chúng đến trước chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật, chấp tay cung kính, đồng thanh thưa:

- Hiếm có thay! Kính bạch Thế Tôn! Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo của các Bồ-tát này được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên uy lực rộng lớn hơn sự bố thí có sở đắc đã nói ở trước gấp trăm ngàn lần.

Khi ấy, Phật bảo các chúng trời Tịnh cư thiên v.v...

- Hãy để tất cả hữu tình đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ở thế giới tam thiên đại thiên qua một bên. Giả sử tất cả hữu tình như cát sông Hằngthế giới chư Phật trong mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mỗi mỗi trụ kiếp số như cát sông Hằng, đem có sở đắc để làm phương tiện, đều đem y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ nhạc cụ khác cung kính, cúng dường hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng, thường không gián đoạn. Nếu có Bồ-tát duyên khắp giới uẩn, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến uẩn và vô lượng, vô biên Phật pháp khác của chư Phật Thế Tôn ba đời đã có, hoặc căn lành của các đệ tử có được, hoặc pháp lành khác hữu tình đã tu... Tất cả như thế đều tập hợp đầy đủ hiện tiền phát sanh tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu. Lại đem tùy hỷ tương ưng với các việc phước nghiệp như thế hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Sự phát sanh tùy hỷ hồi hướng như vậy đạt được phước hơn phước có tướng đã nói ở trước vô lượng, vô biên, không thể tính kể.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Thế Tôn dạy: Hiện tiền phát sanh tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu tương ưng với các việc phước nghiệp. Thế nào là tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu tương ưng với các phước nghiệp sự?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát nào chẳng thủ, chẳng xả, chẳng niệm, chẳng đắc pháp ba đời, biết không có pháp đã sanh, đang sanh, sẽ sanh; biết không có pháp đã diệt, đang diệt, sẽ diệt, như tánh thật của pháp phát sanh tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như thế, gọi là tùy hỷ tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, tương ưng với các việc phước nghiệp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát nào muốn tương ưng với căn lành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ và chánh giải thoát, giải thoát tri kiến của chư Phật Thế Tôn ba đời để phát sanh tùy hỷ hồi hướng không điên đảo thì nên nghĩ:

Như bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ của chơn thật giải thoát, tương ưng với căn lành cũng lại như thế.

Như giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chơn thật giải thoát, tương ưng với căn lành cũng lại như thế.

Như thắng giải của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như tùy hỷ hồi hướng của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như tất cả các pháp quá khứ đã diệt của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như tất cả các pháp vị lai chưa sanh của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như tất cả các pháp hiện tại dời đổi của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như vô lượng vô số thế giới chư Phật Thế Tôn và các đệ tử v.v... quá khứ của chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như vô lượng vô số thế giới chư Phật Thế Tônđệ tử v.v... vị lai chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Như vô lượng vô số thế giới chư Phật Thế Tôn và các đệ tử v.v... hiện tại chơn thật giải thoát cũng lại như thế.

Tánh pháp chơn như của các pháp như thế không hướng đến, không quay lưng, không buộc, không mở, không nhiễm, không tịnh. Ta đối với công đức căn lành như thế hiện tiền tùy hỷ, đem không dời đổi và không hư hoại, không tướng, không đắc để làm phương tiện hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Như thế gọi là tùy hỷ hồi hướng tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu.

Thiện Hiện nên biết! Tùy hỷ hồi hướng không điên đảo như thế đạt được công đức tất cả hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng trong mười phương đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mỗi mỗi trụ kiếp số như cát sông Hằng, đem có sở đắc để làm phương tiện, đều đem y phục, thức ăn nước uống, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ nhạc cụ khác cung kính, cúng dường.

Tất cả hữu tìnhthế giới như cát sông Hằng trong mười phương luôn không gián đoạn, sự được phước thí và tất cả hữu tìnhthế giới chư Phật như cát sông Hằng trong mười phương v.v... mỗi mỗi trụ kiếp số như cát sông Hằng, đem có sở đắc để làm phương tiện tương ưng với căn lành của sự tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ thì hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp cùng cực số lần.

Quyển thứ 558
HẾT

 
VIII. PHẨM ĐỊA NGỤC

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tùy hỷ hồi hướng không điên đảo như thế là đều do nhờ uy lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế thường chiếu sáng nên kính lễ, các pháp thế gian chẳng thể làm dơ bẩn được, có thể trừ tối tăm, có thể phát ánh sáng, có thể cho lợi ích an vui, có thể làm dẫn đầu, làm mắt sáng cho những người mù, làm đèn đuốc sáng cho những người đi trong tối tăm, dẫn dắt kẻ lạc đường đi vào con đường chính, chỉ rõ tánh các pháp chính là trí nhất thiết. Chỉ rõ tất cả pháp không sanh, không diệt, là mẹ của các Đại Bồ-tát, có thể làm cho chư Phật vận chuyển bánh xe pháp Vô thượng đủ ba phen mười hai hành tướng. Làm chỗ nương tựa cho người không nơi nương tựa, dứt trừ tất cả khổ não sanh tử, mở bày, chỉ dạy các pháp vô tánh là tánh.

Bạch Thế tôn! Các Đại Bồ-tát làm cách nào để trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát nên trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như Phật trụ, nên kính thờ Bát-nhã ba-la-mật-đa như kính thờ chư Phật Thế tôn.

Bấy giờ, trời Đế Thích nghĩ: Nay Xá-lợi Tử do nhân duyên nào thưa hỏi Phật việc ấy. Nghĩ xong hỏi Xá-lợi Tử:

- Do nhân duyên nào mà tôn giả hỏi như thế?

Xá-lợi Tử đáp:

- Trước đây, Phật Thế tôn nói với các Bồ-tát, vì sự hộ trì của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên sự phát khởi tùy hỷ hồi hướng tương ưng phước nghiệp sự mau có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, hơn là thiện căn tương ưng có được do sự tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã của Bồ-tát, nên tôi thưa hỏi như thế.

Kiều-thi-ca! Như hoặc trăm, hoặc ngàn những kẻ mù bẩm sinh, kẻ không có mắt sáng để làm phương tiện dẫn dắt thì gần còn không thể đi vào con đường chính, huống là có thể đến được thành lớn giàu sang ở xa. Như vậy, năm Ba-la-mật-đa trước là các chúng mù lòa bẩm sinh, nếu không có mắt sáng của Bát-nhã ba-la-mật-đa dẫn dắt thì con đường chánh của Bồ-tát còn chẳng thể tới được, huống là có thể vào được thành trí nhất thiết.

Kiều-thi-ca! Bố thí v.v... năm Ba-la-mật-đa cần phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì mới được gọi là có mắt. Lại do được Bát-nhã ba-la-mật-đa hộ trì nên mới gọi là đến bờ kia.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát làm sao phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát không phát sanh sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì là phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa thì thành tựu được pháp nào?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát phát sanh Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đối với tất cả pháp hoàn toàn không thành tựu, vì không thành tựu nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào chẳng thể thành tựu trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Này Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế cũng chẳng thể thành tựu trí nhất thiết trí. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì như có sở đắc, có danh tướng, có tạo lập thì chẳng thể thành vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì làm sao nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thành tựu trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

- Này Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đối với sự phát sanh trí nhất thiết trí không có sự thành tựu nên gọi là thành tựu.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế tôn! Thật lạ thay! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế không làm cho tất cả pháp sanh diệt, không làm cho tất cả pháp thành tựu, hư hoại nên hiện rathế gian để làm việc lợi ích cho thế gian.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Đại Bồ-tát phát sanh tưởng như thế thì bỏ xa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Lại có nhân duyên bỏ xa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là sanh tưởng thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa Không, không sở hữu, tức là bỏ xa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa của Bồ-tát chẳng phải có, chẳng phải không, không có sự phân biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa là để hiển bày pháp nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa không vì hiển bày sắc; cũng không vì hiển bày thọ, tưởng, hành, thức. Không vì hiển bày quả Dự lưu; cũng không vì hiển bày quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chính là Ba-la-mật-đa rộng lớn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Do nhân duyên nào ông nói Bát-nhã ba-la-mật-đa chính là Ba-la-mật-đa rộng lớn?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với sắc không làm lớn, không làm nhỏ, không làm tụ, không làm tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức không làm lớn, không làm nhỏ, không làm tụ, không làm tán. Đối với mười lực của Phật không làm mạnh, không làm yếu. Đối với trí nhất thiết không làm rộng, không làm hẹp, các Bồ-tát nào phát sanh tưởng như thế thì chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì các tưởng như thế chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nếu phát sanh tưởng như thế thì con sẽ độ thoát vô số hữu tình nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn; như thế gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải có sở đắc là có thể có sự thành tựu. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình không sanh nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không sanh. Vì hữu tình không tự tánh, xa lìa, không thể nghĩ bàn, không hoại diệt, không giác tri, nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tự tánh, nói đủ cho đến cũng không giác tri.

Bạch Thế tôn! Vì năng lực hữu tình chứa nhóm nên biết năng lực Như Lai cũng chứa nhóm.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát có thể tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không nghi, không ngờ, cũng chẳng mê lầm thì các Bồ-tát này từ chỗ nào sanh đến đây? Chứa nhóm hạnh bao lâu để đối với pháp nghĩa sâu xa có thể hiểu rõ?

Phật dạy Xá-lợi Tử:

- Các Bồ-tát này từ phương khác đã phụng thờ pháp của chư Phật, từ trong pháp hội đó sinh đến nơi này.

Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này đã gần gũi nhiều chư Phật Thế tôn, trong đó từng nghe nghĩa pháp sâu xa, rồi trải qua vô lượng, vô số đại kiếp tu tập trăm ngàn hạnh khổ khó làm, nương đại nguyện lực sanh đến cõi này, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoặc thấy, hoặc nghe hết sức vui mừng và nghĩ: Ta được thấy Phật, được nghe Phật giảng dạy, do nhân duyên này cung kính tin nhận.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể thấy nghe được ư?

Phật dạy:

- Chẳng phải vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát nào thường siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì các Bồ-tát ấy chứa nhóm hành bao lâu?

Phật dạy Thiện Hiện:

- Điều này cần nên phân biệt: Có các Bồ-tát từ khi mới phát tâm gặp được bạn lành chơn thật, phương tiện giúp đỡ thì có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể tin hiểu pháp môn sâu xa. Còn các Bồ-tát mặc dù từng gặp nhiều trăm ngàn Phật, ở chỗ chư Phật siêng tu phạm hạnh, nhưng có sở đắc làm phương tiện nên chẳng thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng sinh tin hiểu, liền bỏ đi.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này ở chỗ Phật quá khứ, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa không có tâm kính tin, bỏ chúng mà đi, nên nay nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đatâm kính tin lại bỏ đi nữa. Người đó đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc thân, hoặc tâm đều không hòa hợp. Vì không hòa hợp nên tăng trưởng tạo tác chiêu cảm nghiệp xấu. Do nghiệp này nên nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hủy báng, nhàm chán, xả bỏ.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát nào hủy báng, nhàm chán, xa bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên biết đó chính là hủy báng, nhàm chán, xả bỏ trí nhất thiết trí. Nếu người nào hủy báng, nhàm chán, xả bỏ trí nhất thiết trí, thì chính là hủy báng, nhàm chán, xả bỏ chư Phật ba đời. Do nhân duyên này tăng trưởng tạo tác tội hại chánh pháp. Do tội này nên phải trải qua nhiều đời chịu các khổ rất nặng. Nghĩa là người đó tạo tội rất nặng nên nhiều trăm ngàn năm đọa địa ngục lớn cõi này phương khác, luân hồi qua lại chịu các khổ rất nặng, không được thoát khỏi. Khi kiếp lửa, nước, gió cõi này nổi lên thì chuyển dời vào trong địa ngục lớn ở phương khác. Khi kiếp lửa, nước, gió ở phương khác nổi lên thì chuyển dời vào trong địa ngục lớn cõi này. Xoay chuyển như vậy trải qua vô số kiếp, chịu khổ rất khó chịu trong địa ngục lớn. Tội hại pháp của người kia, thế lực của nghiệp yếu dần, từ địa ngục ra đọa trong loài súc sanh. Lần lượt cõi này phương khác như trước, luân hồi nhiều kiếp chịu các khổ kịch liệt. Tội của người kia hại pháp thế lực mỏng dần, thoát khỏi nẻo súc sanh, đọa trong nẻo ngạ quỉ, lần lượt luân hồi cõi này phương khác chịu các khổ rất nặng, trải vô lượng kiếp.

Nghiệp hại pháp của người kia, thế lực còn lại sắp hết, thoát khỏi nẻo ngạ quỉ, sanh đến loài người, chịu đủ tất cả các khổ nhân gian như là bần cùng, hèn hạ, ngu si, tật bệnh, xấu xí v.v.... tên Phật, Pháp, Tăng còn chẳng thể được nghe huống là có thể tinh tấn siêng năng tu các nghiệp lành. Do các nghiệp ác phá hại chánh pháp nên phải chịu đầy đủ loại quả khổ như thế.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghiệp hại chánh pháp cùng với ngũ vô gián, hai nghiệp ác này là giống nhau không?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Chớ cho nghiệp này giống ngũ vô gián. Vì sao? Vì nghiệp ngũ vô gián mặc dù chiêu cảm khổ rất nặng nhưng chẳng thể so sánh với nghiệp hủy báng chánh pháp. Nghĩa là người kia nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hủy báng chống đối Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế chẳng phải là chơn thật lời Phật dạy, không nên tu học, chẳng phải pháp, chẳng phải luật, chẳng phải lời dạy của bậc đại sư. Do nhân duyên này tội của người đó rất nặng, chẳng thể đem so sánh với nghiệp ngũ vô gián.

Xá-lợi Tử! Người hại pháp này, tự mình hủy báng chánh pháp, cũng dạy người hủy báng. Tự phá hoại thân mình, cũng làm hư hoại thân người khác. Tự mình uống thuốc độc, cũng bảo người khác uống thuốc độc. Tự mình mất quả vui sanh cõi trời giải thoát, cũng làm cho người khác mất quả vui sanh trời giải thoát. Tự dẫn mình bước tới địa ngục lửa, cũng làm cho người bước tới. Tự mình chìm trong biển khổ, cũng làm cho người khác chìm. Tự mình không tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng dạy người khác làm cho không tin hiểu, mê lầm điên đảo.

Xá-lợi Tử! Ta chẳng muốn để cho kẻ hại chánh pháp nghe được tên Bát-nhã ba-la-mật-đa huống là giảng thuyết cho họ.

Xá-lợi Tử! Kẻ hại chánh pháp, Ta còn chẳng cho các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa nhìn thấy, huống là sẽ cùng ở chung.

Xá-lợi Tử! Kẻ hại chánh pháp, Ta còn chẳng cho mặc áo Cà-sa, huống là thọ nhận sự cúng dường. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì kẻ hại chánh pháp đọa trong loài đen tối như phân thối nát, như con ốc sên nhơ nhớp, như người bệnh hủi quá nhờm gớm. Những người tin dùng lời của kẻ hại pháp, cũng bị khổ lớn như trước đã nói.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên nào Thế Tôn chẳng nói người hại chánh pháp đời sau chịu thân ở nẻo ác bao nhiêu nữa?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Thôi, chẳng cần nói số lượng thân nẻo kia, e người hại chánh pháp nghe xong kinh hoàng, tâm buồn rầu như trúng tên độc, thân khô héo dần như mạ bị cắt đứt gốc. Người kia nếu nghe việc kia sẽ ói máu nóng chết mất, hoặc đau khổ gần chết. Nên Ta chẳng nói số lượng thân ở nẻo kia.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn nói để làm lời răn dạy rõ ràng cho đời sau.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Ta trước đã nói kẻ kia nhiều kiếp chịu khổ, đủ làm lời răn dạy rất rõ ràng cho người đời sau. Đời sau chính hạng thiện nam tử, thiện nữ v.v... nghe Ta trước đã nói quả báo về hại chánh pháp, thà xả bỏ thân mạng, nhất định chẳng hủy báng pháp, chớ để cho đời sau chịu khổ lâu dài.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có các thiện nam tử v.v... thông minh nên giữ gìn tốt nghiệp thân, khẩu, ý. Người kia lẽ nào chẳng do lời nói ác nghiệp nên chịu khổ lâu dài trong nẻo người xấu ác?

Phật dạy Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Trong chánh pháp Tỳ-nại-da của Ta sẽ có các kẻ ngu si xuất gia. Kẻ đó mặc dù tôn xưng là đại sư của họ, nhưng hủy báng chống cự Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của Ta giảng thuyết.

Thiện Hiện nên biết! Nếu người hủy báng Bát-nhã sâu xa, thì chính là hủy báng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu người hủy báng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chính là hủy báng chư Phật ba đời. Nếu người hủy báng chư Phật ba đời, thì chính là hủy báng trí nhất thiết trí. Nếu người hủy báng trí nhất thiết trí, thì chính là hủy báng Pháp. Nếu hủy báng Pháp, thì chính là hủy báng Tăng. Nếu hủy báng Tăng, thì tạo tác vô lượng tội nghiệp. Nếu người tạo vô lượng tội nghiệp, thì chịu vô biên khổ báo.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người ngu si kia có bao nhiêu nhân duyên nên mới hủy báng chống đối Bát-nhã sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Do hai nhân duyên: Một là bị tà ma làm mê hoặc. Hai là chẳng thể tin hiểu pháp sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Do bốn nhân duyên nên hủy báng chống đối Bát-nhã sâu xa: Một là bị bạn ác dối gạt. Hai là chẳng thể siêng năng tu thiện pháp. Ba là ôm ấp tâm xấu, ưa tìm lỗi của người khác. Bốn là ganh ghét, khen mình chê người. Do đủ các nhân duyên này nên người ngu si kia hủy báng chống đối Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phát khởi vô biên nghiệp ác rất nặng.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người ngu si kia chẳng siêng năng tinh tấn nên thật khó tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa Phật đã thuyết?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế vì lẽ gì rất sâu xa, rất khó tin hiểu?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì sắc lấy không tánh làm tự tánh. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức đều lấy không tánh làm tự tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giới hạn trước, giữa, sau của sắc chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì giới hạn trước, giữa, sau của sắc đều lấy không tánh làm tự tánh. Giới hạn trước, giữa, sau của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải buộc, chẳng phải mở. Vì sao? Vì giới hạn trước, giữa, sau của thọ, tưởng, hành, thức đều lấy không tánh làm tự tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nếu chẳng tinh tấn thì rất khó tin hiểu?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì sắc thanh tịnh tức là quả thanh tịnh; sắc thanh tịnh nên quả cũng thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là quả thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên quả cũng thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh tức là trí nhất thiết thanh tịnh; trí nhất thiết thanh tịnh nên sắc cũng thanh tịnh. Sự thanh tịnh của sắc này cùng với sự thanh tịnh của trí nhất thiết từ xưa đến nay không hai, không khác, không đoạn diệt, không hư hoại. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh tức là trí nhất thiết thanh tịnh; trí nhất thiết thanh tịnh nên thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh. Sự thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức cùng sự thanh tịnh của trí nhất thiết từ xưa đến nay không hai, không khác, không đoạn diệt, không hư hoại.

 
IX. PHẨM THANH TỊNH

Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế rất là sâu xa.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế là ánh sáng lớn.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế là không đắc, không hiện quán.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế không có sự phát sanh.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế chẳng sanh ba cõi.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế không hiểu, không biết.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh như thế không biết sắc; cũng không biết thọ, tưởng, hành, thức.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì rất thanh tịnh, không tổn, không ích trí nhất thiết.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì rất thanh tịnh, không thủ, không xả tất cả pháp.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì rất thanh tịnh.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng thanh tịnh.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên quả cũng thanh tịnh.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên trí nhất thiết cũng thanh tịnh.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Ngã thanh tịnh nên không đắc, không hiện quán.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Ngã không biên giới nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không biên giới.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát luôn hiểu biết như thế thì đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế chẳng phải bờ này, chẳng phải bờ kia, chẳng phải trung gian.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát phát sanh tưởng như thế thì bỏ xa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Phật dạy:

- Hay thay! Hay thay! Thiện Hiện! Các Bồ-tát này chấp trước danh, chấp trước tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hi hữu thay! Bạch Thế Tôn! Ngài vì Bồ-tát chỉ dạy, phân biệt rốt ráo tướng chấp trước Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Thế nào là Bồ-tát phát sanh tướng chấp trước Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Thiện hiện thưa:

- Nếu các Bồ-tát bảo sắc là Không thì gọi là chấp trước; bảo thọ, tưởng, hành, thức là Không thì gọi là chấp trước. Bảo pháp ba đời là pháp ba đời thì gọi là chấp trước. Nghĩa là các Bồ-tát từ khi mới phát tâm vô lượng phước phát sanh thì gọi là chấp trước.

Lúc ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Do nhân duyên nào như thế cũng gọi là chấp trước?

Thiện hiện thưa:

- Vì có chấp tâm nên cho là tâm chấp này có thể hồi hướng Vô thượng Bồ-đề nên gọi là chấp trước.

Kiều-thi-ca! Bản tánh của tâm là Không, không thể hồi hướng. Nếu các Bồ-tát muốn dạy người khác hướng tới đại Bồ-đề thì nên theo thật tướng để chỉ bày khuyến khích, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, không tổn hại mình cũng không tổn hại người khác, chư Phật Thế Tôn đồng chấp nhận, vì xa lìa tất cả phân biệt chấp trước.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông có thể giảng thuyết phân biệt cho các Bồ-tát về tướng chấp trước, làm cho các Bồ-tát hiểu biết rõ để xa lìa. Lại có các chấp trước nhỏ nhiệm khác sẽ nói cho ông, ông nên lắng nghe.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu thiện nam tử trụ Bồ-tát thừa v.v… ở chỗ chư Phật chấp thủ tướng nhớ nghĩ thì tùy theo tướng đã chấp thủ đều gọi là chấp trước. Nếu ở trong pháp vô lậu của chư Phật Thế Tôn ba đời càng sanh tùy hỷ, tùy hỷ rồi hồi hướng Bồ-đề cho các hữu tình, thì cũng gọi là chấp trước. Vì thật tánh các pháp chẳng phải bao gồm ba đời, chẳng thể chấp thủ tướng, chẳng thể phan duyên, cũng không có việc thấy, nghe, hiểu biết, chẳng thể hồi hướng Vô thượng Chánh giác.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật tánh các pháp rất là sâu xa?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì bản tánh ly.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế đều nên kính lễ?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì pháp tánh không tạo tác, không giác tri.

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Bản tánh của các pháp khôngsự tạo tác, không có sự giác tri ư?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Bản tánh các pháp chỉ có một, không hai, không tạo, không tác, chẳng thể giác tri, chẳng thể phân biệt. Nếu các Bồ-tát biết như thế thì có thể xa lìa tất cả chấp trước.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế khó có thể hiểu rõ được?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì không có người hiểu biết.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế chẳng thể nghĩ bàn?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì chẳng phải tâm, tâm sở có thể biết.

Thiện Hiện lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế không có sự tạo tác?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì các sự tạo tác không thể đắc vậy.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nào?

Phật dạy:

- Nếu Bồ-tát không hành sắc, cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu không hành Không của sắc, cũng không hành Không của thọ, tưởng, hành, thức thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu không hành tướng chẳng viên mãn của sắc, cũng không hành tướng chẳng viên mãn của thọ, tưởng, hành, thức thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì sắc chẳng viên mãn tức là chẳng phải sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng viên mãn tức là chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nếu không hành như thế thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật lạ thay! Bạch Thiện Thệ! Thật hi hữu thay! Ngài có thể chấp trước mà nói tướng không chấp trước.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu không hành tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không chấp trước thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các Bồ-tát luôn hành như thế thì đối với các sắc, thọ, tưởng, hành, thức không sanh chấp trước, đối với quả Dự lưu cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không sanh chấp trước. Vì sao? Vì vượt tất cả chấp trước, sự không ngăn ngại gọi là trí nhất thiết.

Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu Bồ-tát muốn vượt qua các chấp trước thì nên hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hi hữu! Pháp tánh sâu xa nếu nói hay chẳng nói đều không tăng giảm.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Ví như hư không, giả sử trọn đời chư Phật hoặc khen, hoặc chê nhưng hư không vẫn không tăng, không giảm. Pháp tánh sâu xa cũng như thế, nói hay chẳng nói đều không tăng, không giảm. Ví như người được biến hóa ngay khi được khen hay chê không vui, không buồn, chẳng tăng, chẳng giảm. Pháp tánh sâu xa cũng như thế, nói hay chẳng nói vẫn như xưa không khác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các chúng Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xaviệc làm rất là khó. Nghĩa là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoặc tu hay chẳng tu vẫn không tăng, không giảm, không tấn, không thối. Các chúng Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như tu hư không, hoàn toàn không sở hữu. Các chúng Bồ-tát, hữu tình chúng ta đều nên kính lễ, tôn trọng, khen ngợi. Vì sao? Vì các chúng Bồ-tát độ hữu tình nên mặc áo giáp công đức. Như có người mặc áo giáp bền chắc, muốn chiến đấu với hư không. Các chúng Bồ-tát vì độ hữu tình nên mặc áo giáp công đức. Như có người khỏe mạnh muốn nắm lấy hư không để ở chỗ cao đẹp. Các chúng Bồ-tát vì các loài hữu tình như hư không, cầu thẳng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gọi là đại dõng mãnh, đại tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Khi đó có Bí-sô nghĩ: Nên kính lễ Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì trong đó hoàn toàn không có các pháp sanh diệt.

Lúc ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì phải học như thế nào?

Thiện hiện thưa:

- Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên như hư không siêng năng tinh tấn tu học.

Trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì làm sao bảo vệ?

Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Ông thấy pháp ấy có thể bảo hộ được không?

Thiên Đế Thích bạch:

- Bạch Đại đức! Không.

Thiện Hiện bảo:

- Nếu các Bồ-tát đúng như đại Bát-nhã ba-la-mật-đa giảng thuyết mà hành thì chính là bảo hộ. Nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nhơn phi nhơn v.v... đều được tiện lợi.

Kiều-thi-ca! Người nào muốn bảo vệ các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng khác gì có người phát tâm tinh tấn bảo vệ hư không, chỉ luống uổng mệt nhọc, hoàn toàn không ích lợi.

Kiều-thi-ca! Ai có thể giữ gìn tiếng vang v.v... chăng?

Thiên Đế Thích bạch:

- Bạch Đại đức! Không.

Thiện Hiện bảo:

- Nếu người nào muốn bảo vệ các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì cũng như vậy, luống uổng mệt nhọc, hoàn toàn không ích lợi.

Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mặc dù biết các pháp đều như tiếng vang v.v... nhưng không quán thấy, cũng chẳng chỉ rõ được ai có thể an trụ như thế thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bấy giờ, với năng lực, oai thần của Thế Tôn, nên khiến cho Bốn Đại Thiên vương, Đại Phạm vương và trời Đế Thích v.v... cùng tất cả Thiên chúngthế giới tam thiên đại thiên đi đến chỗ Phật, đảnh lễ chân Phật, rồi lui đứng một bên. Nhờ thần lực của Phật nên đều được thấy ngàn đức Phậtthế giới trong mười phương tuyên thuyết danh tự, tướng trạng Bát-nhã ba-la-mật-đa đồng như nơi đây. Đứng đầu chúng Bí-sô thỉnh thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa đều tên là Thiện Hiện. Đứng đầu chúng chư Thiên gạn hỏi Bát-nhã ba-la-mật-đa đều tên là Đế Thích.

Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Bồ-tát Từ Thị khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề liền dùng danh tự này, cũng ở chỗ này tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi Bồ-tát Từ Thị sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề dùng những danh tự nào để ở ngay chỗ này tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ-tát Từ Thị khi chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng nói pháp sắc là Không; chẳng nói pháp thọ, tưởng, hành, thức là Không. Chẳng nói pháp sắc buộc mở; chẳng nói pháp thọ, tưởng, hành, thức buộc mở.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất là thanh tịnh?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất là thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất là thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất là thanh tịnh. Vì sắc không nhiễm nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất là thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất là thanh tịnh. Vì hư không không nhiễm nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất là thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì chắc chắn không bị chết bất ngờ, cũng không bị bệnh bất ngờ và tai họa bất ngờ, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh đi theo bảo vệ. Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... trong mỗi ngày mồng tám, mười bốn, mười lăm của một tháng bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì sẽ được vô biên công đức thù thắng lợi ích.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Thiện Hiện nên biết! Khi thuyết, khi nghe v.v… Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều trở ngại. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là ngọc báu lớn, nên có nhiều giặc oán, đối với tất cả pháp không đắm trước, không chấp thủ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở hữu, bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không sở đắc nên chẳng phải có thể nhiễm, chẳng phải bị nhiễm. Vì sao? Vì pháp không chẳng thể nhiễm pháp không vậy. Do không nhiễm nên gọi là vô nhiễm Ba-la-mật-đa. Do Bát-nhã ba-la-mật-đa này không nhiễm dơ nên tất cả các pháp khác cũng không nhiễm dơ. Nếu đối với việc như thế cũng chẳng phân biệt là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì không phân biệt nên đối với tất cả pháp không thấy, chẳng thấy, không thủ, không xả.

Khi ấy có vô lượng trăm ngàn Thiên tử trụ trong hư không vui mừng hớn hở, cùng đồng thanh xướng lời chúc mừng:

- Chúng con ngày nay ở châu Thiệm-bộ, được thấy Phật chuyển vận bánh xe diệu pháp lần thứ hai.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Bánh xe pháp như thế chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không xoay chuyển vậy.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chính là Ba-la-mật-đa rộng lớn, đối với tất cả pháp không trói buộc, không dính mắc. Mặc dù chứng Bồ-đề nhưng không có sự chứng, mặc dù chuyển vận bánh xe pháp nhưng không có sự chuyển vận. Không có pháp có thể chỉ rõ, không có pháp có thể hiển bày, không có pháp có thể đắc, không có pháp có thể chuyển, không có pháp có thể vận. Vì tất cả pháp hoàn toàn không sanh, cũng không diệt. Vì không sanh diệt nên không chuyển xoay.

Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì trong pháp vô tánh lấy không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, hoặc chuyển, hoặc xoay đều không thể đắc. Nếu người nào có thể tuyên thuyết, chỉ dạy được như thế thì gọi là người tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thiện tịnh. Trong đây hoàn toàn không có người giảng thuyết, người lãnh thọ, cũng không có người chứng đắc Niết-bàn, cũng không có người nói pháp ruộng phước. Vì ruộng phước không nên tánh phước cũng không. Danh ngôn biểu thị đều chẳng thể đắc, nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa rộng lớn.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xavô biên Ba-la-mật-đa, như hư không rộng lớn không biên giới vậy. Đây là chánh đẳng Ba-la-mật-đa, vì tánh tất cả pháp bình đẳng vậy. Đây là viễn ly Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp hoàn toàn Không vậy. Đây là khó hàng phục Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là không dấu vết Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp không danh tự, hình thể vậy. Đây là vô hành Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp không qua lại vậy. Đây là vô đoạt Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt vậy. Đây là vô tận Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp không thể tận vậy. Đây là vô sanh Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp chẳng thể sanh vậy. Đây là vô tác Ba-la-mật-đa, vì các tác giả chẳng thể đắc vậy. Đây là vô tri Ba-la-mật-đa, vì các sự hiểu biết chẳng thể đắc vậy. Đây là vô chuyển Ba-la-mật-đa, vì các việc sanh tử chẳng thể đắc vậy. Đây là vô cấu Ba-la-mật-đa, vì phiền não sạch vậy. Đây là vô nhiễm Ba-la-mật-đa, vì chỗ nương tựa chẳng thể đắc vậy. Đây là vô hoại Ba-la-mật-đa, vì lìa biên giới trước vậy. Đây là như huyễn Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp đều không sanh vậy. Đây là như mộng Ba-la-mật-đa, vì tánh các ý thức bình đẳng vậy. Đây là vô hý luận Ba-la-mật-đa, vì biết tánh các hý luận bình đẳng vậy. Đây là vô tư lự Ba-la-mật-đa, vì các pháp tư lự hoàn toàn không có vậy. Đây là vô động chuyển Ba-la-mật-đa, vì an trụ pháp giới vậy. Đây là lìa nhiễm Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp chẳng hư vọng vậy. Đây là vô tác dụng Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp không phân biệt vậy. Đây là vắng lặng Ba-la-mật-đa, vì tướng tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là vô phiền não Ba-la-mật-đa, vì lìa lỗi lầm vậy. Đây là vô hữu tình Ba-la-mật-đa, vì Niết-bàn của hữu tình chẳng thể đắc vậy. Đây là vô đoạn Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp không phát khởi vậy. Đây là không hai bên Ba-la-mật-đa, vì đối với tất cả pháp không chấp trước vậy. Đây là không chấp trước Ba-la-mật-đa, vì bậc Nhị thừa không phân biệt vậy. Đây là vô phân biệt Ba-la-mật-đa, vì biết tánh các sự phân biệt bình đẳng vậy. Đây là vô lượng Ba-la-mật-đa, vì pháp không lường vậy. Đây là vô khởi Ba-la-mật-đa, vì lìa ngã pháp vậy. Đây là hư không Ba-la-mật-đa, vì đối với tất cả pháp đều không ngăn ngại vậy. Đây là bất sanh Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp đều chẳng sanh khởi vậy. Đây là vô thường Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp thường không tánh vậy. Đây là khổ Ba-la-mật-đa, vì pháp bức não tánh bình đẳng vậy. Đây là vô ngã Ba-la-mật-đa, vì không chấp trước tất cả pháp vậy. Đây là Không Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là vô tướng Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp lìa các tướng vậy. Đây là vô nguyện Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp không có sự thành tựu vậy. Đây là lực Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp chẳng thể khuất phục vậy. Đây là vô lượng Phật pháp Ba-la-mật-đa, vì quá số lượng vậy. Đây là vô sở úy Ba-la-mật-đa, vì tâm không khiếp sợ vậy. Đây là chơn như Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp chẳng hư vọng vậy. Đây là bản thể Ba-la-mật-đa, vì tất cả pháp không tự tánh.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

 
X. PHẨM BẤT TƯ NGHÌ

01

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Nếu có người chỉ nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nên biết người đó đã từng cúng dường chư Phật, và phát thệ nguyền rộng lớn, huống là người có thể thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng thuyết cho người khác, như lời dạy tu hành, thì nên biết người này đã ở chỗ vô lượng Phật quá khứ, gần gũi cúng dường, trồng nhiều căn lành, từng được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghe xong thọ trì, đọc tụng, biên chép giảng thuyết cho người khác, như lời dạy tu hành. Hoặc đối với kinh này thường hỏi, thường đáp, nhờ năng lực phước của đời trước nên nay thành tựu được việc này. Nếu các hữu tình đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, công đức đã thuần tịnh, thì nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm người đó không kinh, không sợ, chẳng khiếp.

Xá-lợi Tử biết tâm niệm của trời Đế Thích, liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh tin hiểu thì nên biết người này giống như các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế lý thú sâu xa rất khó tin khó hiểu. Nếu người ở đời trước tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dài lâu, ở trước Phật thưa hỏi, lắng nghe, lãnh thọ, chẳng ở chỗ Phật trồng nhiều căn lành thì đâu có thể mới vừa được nghe liền có thể tin hiểu.

Hoặc có người nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hủy báng chống đối thì nên biết người này đời trước đã hủy báng, chống đối Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì người ngu như thế ít có căn lành, nên đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không sanh lòng tin thanh tịnh, chưa từng thưa hỏi Phật và các đệ tử nghĩa sâu xa, nên nghe thuyết nghĩa thú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hủy báng, chống đối.

Trời Đế Thích thưa hỏi Xá-lợi Tử:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế lý thú sâu xa, rất khó tin hiểu. Có các người tin ưa, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chưa lâu, nghe nói về nghĩa thú sâu xa trong đó không tin hiểu, chưa phải là hiếm có. Nếu người lễ kính Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là là lễ kính trí nhất thiết trí.

Xá-lợi Tử bảo:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì sự đắc trí nhất thiết trí của Như Lai đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sanh ra. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lại nhờ trí nhất thiết trí của Như Lai mà có.

Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát nên hành như thế. Nên trụ như thế. Nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các chúng Bồ-tát làm cách nào để gọi là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để gọi là trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, để gọi là học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Bấy giờ, Phật khen trời Đế Thích:

- Lành thay! Lành thay! Ông nương năng lực của Phật nên mới có thể hỏi Như Lai nghĩa sâu xa như thế.

Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu không trụ sắc thì cũng không trụ đây là sắc, như vậy là học sắc. Nếu không trụ thọ, tưởng, hành, thức thì cũng không trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức, như vậy là học thọ, tưởng, hành, thức.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nếu không học sắc thì cũng không học đây là sắc, như vậy là không trụ sắc. Nếu không học thọ, tưởng, hành, thức thì cũng không học đây là thọ, tưởng, hành, thức, như vậy là không trụ thọ, tưởng, hành, thức.

Kiều-thi-ca! Như vậy gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng gọi là trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cũng gọi là học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, khó thể đo lường, khó có thể nắm bắt, không có giới hạn.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Xá-lợi Tử! Các chúng Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu không trụ tánh sâu xa của sắc thì cũng không trụ đây là tánh sâu xa của sắc, như vậy là học tánh sâu xa của sắc. Nếu không trụ tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức thì cũng không trụ đây là tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức, như vậy là học tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các chúng Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu không học tánh sâu xa của sắc thì cũng không học đây là tánh sâu xa của sắc; như vậy là không trụ tánh sâu xa của sắc. Nếu không học tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức thì cũng không học đây là tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức; như vậy là không trụ tánh sâu xa của thọ, tưởng, hành, thức.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, khó có thể đo lường, khó có thể nắm bắt, không có giới hạn, thì khó tin hiểu. Chỉ nên thuyết cho các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển kia. Bồ-tát kia đối với pháp không nghi, không ngờ, không mê mờ, không hoang mang.

Khi đó, trời Đế Thích hỏi Xá-lợi Tử:

- Nếu thuyết cho các Bồ-tát chưa được thọ ký sẽ có lỗi gì?

Xá-lợi Tử nói:

- Người kia nghe kinh sợ, hoặc sanh hủy báng. Do nhân duyên này chịu khổ lớn lâu dài, khó đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Trời Đế Thích bạch:

- Có Bồ-tát nào chưa được thọ ký, nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm không kinh sợ, không hủy báng, rất tin hiểu?

Xá-lợi Tử nói:

- Có. Bồ-tát như thế từ lâu phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, từ lâu tu hạnh Đại Bồ-tát, mặc dù chưa được thọ ký đại Bồ-đề, không qua chỗ một đức Phật, hoặc hai Phật, nhưng nhất định sẽ được thọ ký đại Bồ-đề.

Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Xá-lợi Tử! Nếu các Bồ-tát chưa được thọ ký, nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm rất tin hiểu, không kinh sợ, thì nên biết Bồ-tát đó từ lâu đã phát tâm đại Bồ-đề, trồng nhiều căn lành, vâng theo nhiều bạn lành.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn nói chút ít thí dụ, cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Tùy ý ông nói.

Xá-lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Như thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa, trong giấc mộng thấy mình ngồi tòa Bồ-đề vi diệu, nên biết người này gần chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu có người được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm không kinh sợ, hết lòng tin hiểu thì cũng như vậy, nên biết người này từ lâu xa đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, căn lành đã thành thục, hoặc đã được thọ ký đại Bồ-đề, hoặc sẽ gần được thọ ký đại Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người dạo chơi trong đồng hoang vu, ngang qua đường hiểm một trăm do-tuần, hoặc hai, hoặc ba cho đến năm trăm, thấy cảnh các thành ấp, vương đô ở phía trước nghĩa là thấy người thả trâu, vườn rừng, đồng ruộng v.v.... Thấy cảnh như thế, liền nghĩ: Thành ấp, vương đô cách đây không xa. Sau khi nghĩ như thế thân tâm thư thái, không sợ thú dữ, giặc dữ, đói khát. Cũng như thế, Bồ-tát được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa hết lòng tin kính, nên biết không lâu sẽ được thọ ký Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không còn sợ rơi ở địa vị Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì đã được thấy nghe, cung kính, lãnh thọ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tướng trước của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người muốn xem biển lớn, lần lượt đi đến biển, trải qua nhiều thời gian, khi không còn thấy núi rừng, liền nghĩ: Nay thấy cảnh tượng này thì biển lớn không còn xa. Vì sao? Vì gần biển lớn, đất chắc chắn thấp dần, không có các núi rừng. Người kia lúc ấy mặc dù chưa thấy biển nhưng thấy cảnh gần biển, nên vui mừng hớn hở. Cũng như thế, Bồ-tát được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa hết lòng tin kính, nên biết không lâu sẽ được thọ ký Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì đã được thấy nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là tướng trước của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như mùa xuân hoa quả cây cối lá già đã rụng, cành nhánh tươi nhuận, mọi người được thấy đều nghĩ: Hoa quả lá non không lâu sẽ sanh ra. Vì sao? Vì các cây này hoa quả lá non hiện tướng trước vậy. Cũng như thế, Bồ-tát được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa hết lòng tin kính, nên biết không lâu sẽ được thọ ký Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, trong chúng hội có các Thiên tử thấy xong hoan hỷ nghĩ: Đời trước các Bồ-tát đã đắc tướng này rồi, không lâu sẽ được thọ ký đại Bồ-đề. Nay các Bồ-tát này cũng được tướng này thì không lâu cũng sẽ được thọ ký đại Bồ-đề.

Bạch Thế Tôn! Ví như người con gái mang thai đã lâu, thân thể càng nặng nề, làm việc hay nghỉ ngơi không được yên ổn, ít ăn uống ngủ nghỉ, chẳng thích nói nhiều, chán những công việc làm hằng ngày, vì bị đau đớn, mệt mỏi nên dẹp hết các công việc. Bà mẹ kế thấy tướng như vậy biết không lâu nàng sẽ sanh. Cũng như thế, Bồ-tát được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa hết lòng tin kính, nên biết không lâu sẽ được thọ ký Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

Bấy giờ, Phật khen Xá-lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Ông nói ví dụ về Bồ-tát rất đúng, đều là nhờ năng lực, oai thần của Như Lai.

Quyển thứ 559
HẾT

XI. PHẨM MA SỰ

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Thế Tôn dạy các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa là khi tu thiện pháp có các việc ma xảy ra. Thế nào là việc ma của Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát muốn diễn nói pháp yếu, nhưng biện luận lâu mới phát sanh thì Bồ-tát nên biết, đó là việc ma. Hoặc vừa diễn nói pháp yếu, biện luận sanh liền, Bồ-tát nên biết đó là việc ma. Hoặc nói pháp yếu biện luận sanh quá mức, Bồ-tát nên biết đó là việc ma. Hoặc điều muốn nói chưa hết bèn ngưng, Bồ-tát nên biết đó là việc ma. Hoặc nói pháp yếu ngôn từ lẫn lộn, Bồ-tát nên biết đó là việc ma. Hoặc nói pháp yếu ngôn từ gián đoạn, Bồ-tát nên biết đó là việc ma. Hoặc khi nói pháp, các việc ngang trái khởi lên, làm cho điều muốn nói chẳng được vừa lòng, Bồ-tát nên biết đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi biên chép v.v... kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì hoặc uốn mình, ợ ngáp, hoặc cười giỡn với nhau, hoặc khinh chê lẫn nhau, hoặc thân tâm dao động, hoặc thất niệm tán loạn, hoặc văn cú đảo ngược, hoặc lầm lẫn nghĩa lý, hoặc tâm chẳng được thấm nhuần vị ngon chất bổ nên sanh nhàm chán, xả bỏ, hoặc việc ngang trái chợt phát sanh, hoặc trái chống lẫn nhau... Do những việc như thế, việc làm chẳng thành tựu, Bồ-tát nên biết đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi nghe thuyết kinh tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa hoặc nghĩ: Ta ở trong đó chẳng được nhận thọ ký thì nghe làm gì? Hoặc nghĩ: Trong đó chẳng nói đến tên của chúng ta thì nghe làm gì? Hoặc nghĩ: Trong đó chẳng nói thành ấp, xóm làng, nơi sanh quán của chúng ta thì nghe làm gì? Do những duyên này, tâm không thanh tịnh, liền rời chỗ ngồi đứng dậy, nhàm chán bỏ đi, không có lòng quyến luyến, đoái tưởng. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát khi nghe thuyết kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không thanh tịnh, nhàm chán bỏ đi thì theo chỗ người kia đã khởi tâm không thanh tịnh nhàm chán bỏ kinh này, cất bước chân đi nhiều hay ít, bèn giảm chừng ấy kiếp số công đức, bị chừng ấy kiếp số tội chướng ngại Bồ-đề. Chịu tội kia xong, phải trở lại chừng ấy thời gian phát tâm siêng năng tinh tiến tu hạnh Bồ-tát mới có thể phục hồi lại như xưa, thế nên gọi đó là việc ma của Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát xả bỏ kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có thể đưa đến trí nhất thiết trí, trở lại học các kinh điển khác, tùy thuận Nhị thừa, chẳng thể đưa đến trí nhất thiết trí, xả bỏ cội gốc, vin theo nhánh lá, thì Bồ-tát nên biết đó là việc ma. Vì sao? Vì kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể phát sanh công đức thù thắng thế gian, xuất thế gian của Bồ-tát. Do đó có thể đưa đến trí nhất thiết trí. Nếu học kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chính là học công đức thù thắng thế gian, xuất thế gian của Bồ-tát, mau có thể đưa đến trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Như con chó đói ngu ngốc bỏ chủ nuôi, lại đi theo kẻ tôi tớ mà cầu kiếm ăn. Cũng thế, tương lai có các Bồ-tát bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cầu học kinh điển tương ưng với Nhị thừa. Hạng ngu si này bỏ gốc tìm ngọn, chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như có người muốn xem vóc dáng lớn nhỏ, loại hình tốt xấu của Hương tượng, gặp được Hương tượng chẳng xem, lại tìm dấu chân của nó; nên biết, loại người như thế rất là ngu si.

Cũng vậy, tương lai có các Bồ-tát bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tìm học kinh điển tương ưng với Nhị thừa; hạng ngu si này bỏ gốc tìm ngọn, chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như có người vì tìm ngọc báu nên ra tới biển lớn. Đến được bờ biển, không vào biển lớn, lại xem xét dấu chân trâu, nghĩ: Lượng sâu rộng của nước trong biển cả đâu bằng đây! Trong đây lẽ đáng cũng có các ngọc báu. Nên biết, hạng người như thế rất là ngu si. Cũng vậy, tương lai có các Bồ-tát bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tìm học kinh điển tương ưng với Nhị thừa, hạng ngu si này bỏ gốc tìm ngọn, chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có thợ khéo, hoặc học trò của ông ta muốn tạo cung điện lớn như cung điện thù thắng của trời Đế Thích. Thấy cung điện kia xong, nhưng lại làm theo mô hình cung điện Nhật nguyệt. Nên biết, hạng người như thế rất là ngu si.

Cũng vậy, tương lai có các Bồ-tát bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tìm học kinh điển tương ưng với Nhị thừa, hạng ngu si này bỏ lớn tìm nhỏ, chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người muốn thấy Chuyển luân Thánh vương, thấy rồi chẳng nhận biết, bỏ đi nơi khác. Thấy vua nước nhỏ, xem xét hình tướng của vua đó và nghĩ: Hình tướng, uy đức của Chuyển luân Thánh vương đâu hơn người này. Nên biết, người đó rất là ngu si.

Cũng vậy, tương lai có các Bồ-tát bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tìm học kinh điển tương ưng với Nhị thừa. Hạng ngu si này bỏ hơn tìm kém, chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người đói, được bữa ăn ngon có trăm vị, lại bỏ đi tìm cầu cơm của loại lúa sáu mươi ngày. Nên biết, người kia rất là ngu si.

Cũng vậy, tương lai có các Bồ-tát bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tìm học kinh điển tương ưng với Nhị thừa. Hạng ngu si này bỏ hơn cầu kém, chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người nghèo được ngọc báu vô giá, bỏ không lấy, mà trở lại lấy thủy tinh. Nên biết, người đó rất là ngu si.

Cũng vậy, tương lai có các Bồ-tát bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tìm học kinh điển tương ưng với Nhị thừa. Người ngu si đó bỏ hơn lấy kém, chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát hoặc ngay khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nhiều biện luận bỗng phát sanh, ưa nói vô số pháp môn sai khác, làm cho biên chép v.v... không được hoàn tất, thì Bồ-tát nên biết đó là việc ma.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể biên chép được chăng?

Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Chẳng được. Nếu thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa, khi biên chép v.v... kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghĩ: Ta dùng văn tự biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, văn tự như chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc nương văn tự chấp có Bát-nhã ba-la-mật-đa, Bồ-tát nên biết đó là việc ma. Bấy giờ nên dạy Bồ-tát kia: Ông không nên chấp có văn tự, có thể biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu chấp như thế đó là việc ma. Nếu bỏ chấp này thì liền bỏ việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi các Bồ-tát biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc nghĩ đến cõi nước, thành ấp, vương đô, phương hướng, nơi chốn, thầy bạn; hoặc nghĩ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, bè bạn, vua tôi; hoặc nghĩ trộm cướp, các cầm thú hung dữ, người ác, quỉ ác; hoặc nghĩ nhiều người hội họp, múa hát, dạo chơi, đền ân trả oán; hoặc nghĩ cơm ăn áo mặc, giường nằm và những của cải khác; hoặc nghĩ làm ra tụng văn thơ luận; hoặc nghĩ thời tiết nóng lạnh, mùa màng đắc thất; hoặc nghĩ voi ngựa, các việc nước lửa v.v... hoặc nghĩ các sự nghiệp khác đã tạo v.v... thì Bồ-tát nên biết đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết kinh tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, được danh lợicung kính, cúng dường nhiều, người đó do nhân duyên này bỏ sự nghiệp đã tạo. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ác ma phương tiện đem các thứ sách luận nghị thế tục, hoặc là kinh điển tương ưng với Nhị thừa trao cho Bồ-tát đó và nói thế này: “Kinh điển biên chép này nghĩa lý thâm áo, nên siêng năng tu học, bỏ các thứ kinh đã học kia đi.” Nếu Bồ-tát này phương tiện thiện xảo thì không nên nhận, vì kinh sách kia chẳng thể đưa đến trí nhất thiết trí. Nếu Bồ-tát này nhận kinh sách ác ma đã trao, bỏ kinh đang học thì Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp, muốn nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa; người nói pháp, ưa thích lười biếng, không muốn nói; hoặc người dưới trái nhau với người trên, hai bên không hòa hiệp, chẳng đạt được giảng thuyếtlãnh thọ. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe phápđủ khả năng nhớ hiểu, ưa nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa. Người thuyết pháp muốn đi đến phương khác, không nói cho người đó, hoặc người dưới trái nhau với người trên, hai bên không hòa hiệp, không đạt được việc giảng thuyếtlãnh thọ. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp ưa chuộng danh lợi, người nghe pháp không muốn ban cho, hoặc người dưới trái nhau với người trên, hai bên không hòa hiệp, không đạt được việc giảng thuyếtlãnh thọ. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp có tâm tin ưa, muốn nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa; người thuyết pháp học tụng không thông suốt, không thể thuyết; hoặc người thuyết pháp đọc tụng thông suốt, ưa thuyết cho người. Người nghe pháp nghi không thông suốt, không muốn lắng nghe, lãnh thọ. Hai bên không hòa hiệp, không đạt được việc thuyết và nghe. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp ưa thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho người. Người nghe pháp không muốn nghe và lãnh thọ, hoặc trái nhau với người trên, hai bên không hòa hợp, không đạt được thuyết và nghe. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người nghe pháp ưa nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, người nói pháp thân thể quá mệt mỏi, bị buồn ngủ che lấp, không thể thuyết, hoặc trái nhau với người trên, hai bên không hòa hợp, không đạt được việc thuyết và nghe. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc có người đến nói các thứ việc khổ nơi ba nẻo ác, khuyên bỏ Bồ-đề; hoặc có người đến nói các thứ việc vui ở nẻo trời người, đều là vô thường, khổ, không, vô ngã, khuyên vào Niết-bàn... Người kia do lời này nên việc biên chép v.v... không được rốt ráo, trong lòng buồn khổ. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp ưa thống lãnh đồ chúng, thích lo toan việc của người, không lo việc mình. Người nghe pháp một đời không hệ lụy, chuyên sửa việc mình, chẳng lo việc của người; hoặc trái nhau với người trên, hai bên không hòa hợp, không đạt được việc thuyết và nghe. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp ưa thích chỗ huyên náo tạp nhiễm; người nghe pháp không ưa thích chỗ huyên náo tạp nhiễm, hoặc trái nhau với người trên, hai bên không hòa hợp, không đạt được việc thuyết và nghe. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn đi đến phương khác, chỗ nguy hại thân mạng; người nghe pháp sợ mất thân mạng, không muốn cùng đi, hoặc trái nhau với người trên, hai bên không hòa hợp, không đạt được việc thuyết và nghe. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn đi đến phương khác, nơi quốc độ có nhiều giặc cướp, bệnh tật, đói khát. Người nghe pháp lo sợ khó khăn gian khổ kia, không chịu cùng đi, hoặc trái nhau với người trên, hai bên không hòa hợp, không đạt được việc nói và nghe. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp muốn đi đến phương khác, đi qua đường sá, đồng hoang hiểm trở, nhiều giặc cướp và những kẻ hàng thịt, ác thú, thợ săn, rắn độc v.v... đáng sợ. Người nghe pháp muốn đi theo người đó. Người nói pháp phương tiện thử: “Ngươi nay vì lẽ gì vô cớ theo ta muốn đi đến các chỗ hiểm nạn như thế? Nên suy nghĩ kỹ, chớ để sau lo buồn, hối hận.” Người nghe pháp nghe xong; nghĩ: Thầy này đúng là không muốn cho ta đi theo. Giả sử ta cố đi theo, chắc gì được nghe pháp! Do nhân duyên này, không đi theo vị thầy ấy, hai bên không hòa hợp, không đạt được việc thuyết và nghe. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người thuyết pháp có nhiều thí chủ, thường theo tiễn đưa, đón rước nhau. Người nghe pháp đến xin thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc xin biên chép, thọ trì, đọc tụng v.v... đúng như lời dạy tu hành. Người kia vì nhiều duyên sự làm trở ngại nên không rảnh để chỉ dạy, người nghe pháp sanh lòng giận hờn. Sau tuy dạy cho nhưng không nghe nhận, hai bên không hòa hợp, không đạt được việc dạy trao, nghe nhận, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma biến làm các thứ hình tướng đến chỗ Bồ-tát, phương tiện phá hoại, làm cho kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không được biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duygiảng thuyết cho người.

Thế nên, này Thiện Hiện! Thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, khi biên chép, thọ trì v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có sự trở ngại, Bồ-tát nên biết, đó đều là việc ma.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên gì ác ma biến làm các hình tướng đến chỗ Bồ-tát phương tiện phá hoại, làm cho kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa không được biên chép cho đến giảng thuyết v.v...?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh trí nhất thiết trí của Như Lai, trí nhất thiết trí sanh ra Phật giáo, Phật giáo có thể sanh ra Diệu tuệ của hữu tình, Diệu tuệ của hữu tình có thể chứng vô biên các sự dứt trừ phiền não, phiền não dứt thì tất cả ác ma không làm gì được. Các ác ma kia không làm gì được nên sanh buồn khổ như bị tên găm vào tim. Chúng nghĩ: Ta chớ để cho Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này làm trống khuyết cảnh giới của ta, cho nên ác ma biến làm các hình tướng, đến chỗ Bồ-tát phương tiện phá hoại, làm cho kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa không được biên chép cho đến giảng thuyết.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ác ma biến làm các hình tướng đến chỗ Bồ-tát phương tiện phá hoại như thế nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có các ác ma biến làm các hình tướng đến chỗ Bồ-tát phương tiện phá hoại, làm cho người đó nhàm chán, hủy bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nghĩa là nói thế này: “Ông đã tụng tập kinh điển vô tướng, chẳng phải chơn thật Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ta đã tụng học kinh điển hữu tướng là chơn thật Bát-nhã ba-la-mật-đa.” Khi ma nói lời ấy, có các Bồ-tát chưa được thọ ký, liền sanh tâm nghi ngờ kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Do nghi ngờ nên sanh nhàm chán, hủy báng kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do nhàm chán, hủy báng nên không biên chép cho đến diễn thuyết v.v... Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma biến làm các hình tướng, đến chỗ Bồ-tát, thưa Bồ-tát: “Các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chỉ chứng Niết-bàn, được quả Thanh văn, hoặc chứng đắc Độc giác Bồ-đề, nhưng chắc chắn không thể chứng đắc Phật quả, thì vì lý do gì luống bày những việc nhọc nhằn này. Bồ-tát nên biết, đó là việc ma.

 

02

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Ngài khéo phó chúc, khéo hộ niệm cho các Bồ-tát.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì các chúng Bồ-tát muốn luôn luôn làm lợi ích an vui cho nhiều đời, thương xót các chúng sanhthế gian, muốn làm cho trời, người đạt được sự lợi ích an vui lớn, nên cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm sao tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa để cho mau viên mãn?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thấy sắc tăng, chẳng thấy sắc giảm mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức tăng; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức giảm mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa; chẳng thấy pháp đúng, chẳng thấy pháp sai mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì các Bồ-tát này tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Điều Như Lai dạy chẳng thể nghĩ bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Sắc chẳng thể nghĩ bàn; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nghĩ bàn. Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì đối với sắc chẳng phát sanh tưởng, chẳng nghĩ bàn mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phát sanh tưởng, chẳng nghĩ bàn mà hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì các Bồ-tát này tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được viên mãn.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế nghĩa thú sâu xa, ai có thể tin hiểu?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát tu thắng hạnh lâu xa thì đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể tin hiểu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là các chúng Bồ-tát tu thắng hạnh lâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì không phân biệt mười lực của Như Lai, không phân biệt bốn điều không sợ, không phân biệt mười tám pháp Phật bất cộng, không phân biệt trí nhất thiết. Vì sao? Vì mười lực của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, cho đến trí nhất thiết cũng chẳng thể nghĩ bàn. Sắc cũng chẳng thể nghĩ bàn; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nghĩ bàn; tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn. Nếu các Bồ-tát hành như thế thì hoàn toàn không chỗ hành, là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát như thế mới được gọi là tu thắng hạnh lâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là hòn ngọc báu, là khối thanh tịnh, như hư không thanh tịnh lìa các mây khói v.v... Lạ thay! Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa thú sâu xa, nhiều các chướng nạn mà nay giảng nói rộng, các chướng nạn lại chẳng sanh!

Phật dạy Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nhờ thần lực của Phật nên trở ngại không sanh. Thế nên, thiện nam tử Đại thừa v.v... đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nếu muốn biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết v.v... thì cho đến một năm phải xong hết. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là ngọc thần báu lớn, nhiều các chướng ngại.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lạ thay! Ác ma thường muốn làm trở ngại ngọc thần báu lớn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả ác ma mặc dù đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thường muốn làm trở ngại, làm cho sự tu tập của các Bồ-tát chẳng thành tựu, nhưng chúng chẳng toại nguyện.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thần lực của ai làm cho ác ma kia không thể làm trở ngại Bát-nhã sâu xa?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đó là thần lực của Phật, cũng là thần lực của chư Phật ở tất cả thế giới trong mười phương.

Xá-lợi Tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều cùng hộ niệm các chúng Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho các ác ma không thể làm trở ngại. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì nếu các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì tự nhiên đều được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng, vô biên thế giới trong mười phương cùng chung hộ niệm. Nếu người được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hộ niệm thì tự nhiên ác ma không thể làm trở ngại.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu có thiện nam tử v.v... với lòng tin thanh tịnh, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết Bát-nhã sâu xa không trở ngại, thì nên nghĩ: Ta biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa đều là nhờ thần lực của chư Phật Thế Tôn ở tất cả thế giới trong mười phương hộ niệm, làm cho được thành tựu.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì đều nhờ thần lực của chư Phậtmười phương từ bi hộ niệm, làm cho sự tu tập nghiệp lành người đó thù thắng, tất cả ác ma không thể làm trở ngại.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì được chư Phật Thế Tônthế giới trong mười phương cùng biết rõ, hoan hỷ hộ niệm. Chư Phật Thế Tônthế giới trong mười phương thường dùng Phật nhãn cùng xem thấy, từ bi hộ niệm, làm cho sự tu tập của người kia thành tựu hoàn toàn.

Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Nếu các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì thường được Phật nhãn của chư Phật Thế Tôn ở tất cả thế giới trong mười phương xem thấy, biết rõ, hộ niệm, làm cho các ác ma không thể làm rối loạn được, sự tu nghiệp lành mau được thành tựu.

Nếu thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa thường biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì nên biết người đó đã gần Vô thượng Bồ-đề, quyến thuộc của ác ma không thể làm trở ngại.

Nếu thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa thường biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang nghiêm bằng các thứ báu, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường thì thuờng được chư Phật hộ niệm. Do nhơn duyên này đạt được nhiều lợi ích lớn.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, sau khi Phật Niết-bàn lưu hành đến phương Nam sẽ hưng thạnh dần. Sau đó từ phương Nam lưu hành đến phương Bắc sẽ hưng thạnh dần. Chẳng phải Tỳ-nại-da chánh pháp Vô thượng là pháp Phật chứng đắc, có tướng diệt mất; Tỳ-nại-da chánh pháp Vô thượng Như Lai chứng đắc chính là kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Kinh điển như thế, các thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết, cung kính, cúng dường thì được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường dùng Phật nhãn xem thấy, hộ niệm, khen ngợi, tán thán, làm cho không buồn khổ.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, phần sau của đời sau truyền bá rộng rãi ở phương Đông bắc?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Xá-lợi Tử! Phần sau của đời sau thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa ở phương Đông bắc kia nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, nếu có thể tin ưa, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết, cung kính, cúng dường, thì nên biết người đó từ lâu phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, từ lâu tu hạnh Đại Bồ-tát.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phần sau của đời sau, ở phương Đông bắc kia sẽ có bao nhiêu thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa được nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa gìn giữ tin ưa, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết, cung kính, cúng dường?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Phần sau của đời sau, ở phương Đông bắc kia tuy có vô lượng thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa nhưng ít có người được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hết lòng tin ưa, biên chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường; mặc dầuvô lượng thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa, nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hết lòng tin ưa, biên chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, nhưng có phần ít tu tập tư duy. Nếu người nào có thể tuyên thuyết, chỉ dạy nghĩa thú sâu xa cho người thì rất là khó có.

Xá-lợi Tử! Nếu thiện nam tử v.v... trụ Bồ-tát thừa nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không chìm đắm, không kinh, không sợ, hết lòng tin ưa, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói, thì nên biết người này đã từng được gần gũi cung kính, cúng dường vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các Bồ-tát, thưa hỏi nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này nhất định sẽ viên mãn các hạnh Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Ta thường thuyết pháp tương ưng với trí nhất thiết cho các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa kia. Người này chuyển thân thường luôn tu tập các hạnh Bồ-tát mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tuyên thuyết pháp vi diệu cho các hữu tình, làm cho thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa này thân tâm yên tịnh, các ma vươngquyến thuộc của chúng còn chẳng thể phá hoại tâm cầu hướng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, huống là các kẻ ưa làm những việc ác khác.

Xá-lợi Tử! Những thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm rất thanh tịnh, vui mừng, cũng có thể an lập vô lượng hữu tình ở trong pháp lành tương ưng với Vô thượng Bồ-đề.

Xá-lợi Tử! Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này, nay ở chỗ Ta phát thệ nguyện rộng lớn, quyết định sẽ an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình, làm cho phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, chỉ rõ, khuyến khích, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, khiến cho được thọ ký quả vị quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển. Đối với họ, Ta càng sanh tùy hỷ. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Ta thấy họ đã phát nguyện rộng lớn, ý nghĩlời nói tương xứng nhau. Người kia ở đời sau nhất định có thể an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình, làm cho phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, chỉ rõ, dẫn dắt, khuyến khích, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, khiến cho được thọ ký quả vị quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển.

Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này cũng ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ phát nguyện như thế. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ đối với nguyện của người kia cũng rất tùy hỷ; quán xét ý nghĩlời nói của người kia nhất định tương xứng vậy.

Các thiện nam tử trụ Bồ-tát thừa v.v… này tin hiểu rộng lớn, tu hạnh rộng lớn, nguyện sanh về cõi nước của chư Phật ở phương khác, nơi đang có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Người kia nghe pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa xong, lại có thể an lập vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình trong cõi Phật kia, làm cho phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, chỉ dạy, khuyến khích, dẫn dắt, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng, khiến cho được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Kỳ diệu thay! Kính bạch Thế Tôn! Phật đối với các pháp quá khứ, vị lai, hiện tạitâm hành sai khác của các hữu tình, Phật, Bồ-tát v.v... đều chứng biết, đều hiểu rõ.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, biên chép, giảng thuyết, làm cho được lưu bố rộng rãi thì các Bồ-tát này ở đời đương lai siêng năng tìm cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không dừng nghỉ, và người đó đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa có lúc đạt được, có lúc chẳng đạt được chăng?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Các Bồ-tát này thường tìm cầu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không dừng nghỉ, thì tất cả mọi lúc đều đạt được, không có lúc nào không được. Hoặc có lúc không cầu nhưng cũng tự nhiên đạt được, vì chư Phật, Bồ-tát thường hộ niệm vậy.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Các Bồ-tát này đối với kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa, tất cả mọi lúc đều đạt được, không có lúc nào không đạt được, hay là đối với kinh điển tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng có thể thường đạt được?

Bấy giờ, Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu các Bồ-tát thường đối với kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa dõng mãnh tin cầu, chẳng nghĩ đến thân mạng mà có lúc chẳng đạt được các kinh điển khác, thì không có điều ấy. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các Bồ-tát này vì hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà chỉ dạy, khuyến khích, dắt dìu, khen ngợi, khích lệ, chúc mừng các loài hữu tình, làm cho thọ trì, đọc tụng kinh điển tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đakinh điển khác. Cũng chính mình ở trong đó siêng năng tu học, nhờ năng lực của phước đó nên tùy theo sanh ra ở chỗ nào, tự nhiên thường gặp kinh điển tương ưng với Ba-la-mật-đa sâu xa và các kinh điển khác tương ưng với sáu pháp Ba-la-mật, thuờng không xả bỏ.

 
XII. PHẨM CHƠN NHƯ

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều việc ma làm trở ngại, Bồ-tát nên biết rõ. Biết rõ rồi, siêng năng tinh tấn, nghĩ đúng, biết đúng, phương tiện xa lìa.

Khi ấy Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện thệ! Đúng vậy! Khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có nhiều sự trở ngại. Ví như ngọc thần báu lớn vô giá khó được đầy đủ, lại nhiều giặc cướp. Cũng vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa lý thú sâu xa, đầy đủ công đức thù thắng nên các chúng Bồ-tát khi biên chép v.v... có nhiều ác ma làm trở ngại. Mặc dù chúng có ý muốn xấu ác nhưng không thể thành tựu. Vì sao? Vì có người ngu si mới bị ma làm mê hoặc. Thiện nam tử v.v... mới học Đại thừa, khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng bị trở ngại.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Có người ngu si, phước tuệ mỏng kém, không tin ưa pháp rộng lớn. Thiện nam tử v.v... mới học Đại thừa, khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bị trở ngại. Ở tương lai, có người ngu si, phước tuệ mỏng kém, tự mình không thể tin ưa Bát-nhã ba-la-mật-đa, thấy người khác khi biên chép v.v... kinh kia, nương oai lực của ma làm cho trở ngại. Nên biết, hạng người như thế mắc tội vô biên, luân hồi nhiều kiếp, chịu các khổ kịch liệt.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi biên chép v.v... Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không bị các việc ma, nên biết đều là nhờ năng lực oai thần của Phật. Vì sao? Vì quyến thuộc của ác ma mặc dù siêng năng, phương tiện muốn làm trở ngại Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng siêng năng phương tiện hộ niệm, bảo vệ, làm cho những người biên chép v.v... không bị các trở ngại.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như người phụ nữ có nhiều con cái, hoặc năm, hoặc mười, cho đến trăm ngàn; người mẹ bị bệnh, các con mỗi người đều siêng năng tìm kiếm thuốc chữa, họ nghĩ: Làm cách nào để bệnh của mẹ ta được lành, thân thể khoẻ mạnh, tên tuổi không bị diệt mất, sống lâu, an vui, chẳng thọ khổ. Các thứ vui đẹp đều quy về mẹ ta. Vì sao? Vì mẹ sinh đẻ, nuôi nấng chúng ta, chỉ dạy công việc thế gian rất là khó nhọc.

Nghĩ như thế xong, họ tranh nhau bày phương tiện, tìm việc yên ổn, che chở thân mẹ, chẳng để cho muỗi mòng, rắn rít, bọ cạp, mưa gió, nhơn phi nhơn v.v... không đáng ưa xúc chạm, siêng năng gia sức chữa trị, làm cho khỏi hẳn bệnh, sáu căn thanh tịnh, không có các buồn khổ. Lại dùng các thứ nhạc cụ thượng diệu cung kính, cúng dường và nói thế này: “Mẹ ta sinh đẻ, nuôi dưỡng, thương xót chúng ta, dạy bảo chỉ vẻ tất cả sự nghiệp thế gian. Chúng ta lẽ nào không đền ơn mẹ.”

Cũng vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường dùng vô số phương tiện thiện xảo hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa. Người nào thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn thuyết, hoặc biên chép v.v... thì Như Lai dùng vô số phương tiện ân cần hộ niệm, làm cho không tổn hại. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong các thế giới khác hiện tạimười phương thương xót, làm lợi ích an vui các hữu tình, cũng dùng vô số phương tiện thiện xảo hộ niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa, làm cho các ác ma không thể hủy diệt, trụ lâu làm lợi ích an vui cho tất cả thế gian. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hay có thể hiển bày rõ ràng đúng đắn trí nhất thiết trí, có thể chỉ dạy thật tướng của các pháp thế gian. Trí nhất thiết trí cũng từ đó mà sanh ra.

Thiện Hiện nên biết! Chư Phật ba đời đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, siêng năng tinh tấn tu học, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có thể hiển bày rõ ràng đúng đắn trí nhất thiết trí, có thể chỉ dạy thật tướng của các pháp thế gian.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chỉ dạy thật tướng của các pháp thế gian? Phật giảng thuyết pháp nào gọi là thế gian?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Phật thuyết năm uẩn gọi là thế gian. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể chỉ dạy thế gian sắc v.v... năm uẩn không có tướng biến đổi, hư hoại, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chỉ thật tướng các pháp thế gian. Vì sao? Vì sắc v.v... năm uẩn không có tự tánh, nên gọi là không, vô tướng, vô nguyện, tức chơn pháp giới. Chẳng phải các pháp không v.v... có thể biến đổi, hư hoại, nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chỉ dạy thật tướng các pháp thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chứng biết khắp vô lượng vô số, vô biên hữu tình, trình bày vô số tâm hạnh sai khác, nên nói: Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chỉ bày thật tướng các pháp thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa, như thật chứng biết tán tâm của vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, vì do pháp tánh nên không có tánh tán tâm cũng như lược tâm, vì tận diệt, vì lìa xa nên không có tánh lược tâm. Các tâm có tham, theo tánh như thật thì chẳng phải có tâm tham. Các tâm có sân, theo tánh như thật thì chẳng phải có tâm sân. Các tâm có si, theo tánh như thật thì chẳng phải có tâm si. Trong các sự lìa tâm tham, chẳng phải có các sự lìa. Trong các sự lìa tâm sân, chẳng phải có các sự lìa. Trong các sự lìa tâm si, chẳng phải có các sự lìa. Có tâm rộng lớn không tăng không giảm cũng chẳng phải xa lìa, vì đã xa lìa nên không có tánh tâm rộng lớn, không đến, không đi, cũng không trụ vào đâu, vì không có tánh tâm lớn. Các tâm là vô lượng, không sanh, không diệt, không trụ, không khác, không chỗ nương tựa, giống như hư không rộng lớn. Chẳng phải tâm vô lượng, các tâm vô kiến vì không có tướng có thể đắc, vì xa lìa các thứ cảnh. Chẳng phải tâm vô kiến, vì chẳng thể thấy tâm. Chẳng phải cảnh của ba loại mắt, vì không có tánh của tâm nên không có tâm tánh. Chẳng phải là chẳng thể thấy tâm.

Do những nghĩa như thế nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chỉ bày thật tướng các pháp thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa, chứng biết như thật vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, hoặc xuất hiện, hoặc ẩn mất; nghĩa là biết như thật tâm, tâm sở pháp của loài hữu tình kia, hoặc xuất hiện, hoặc ẩn mất, đều nương sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà sanh ra; nghĩa là tâm, tâm sở pháp của các hữu tình.

Hoặc có người nương sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chấp Như Lai sau khi Niết-bàn, hoặc có, hoặc chẳng có, hoặc cũng có, cũng chẳng có, hoặc chẳng phải có, chẳng phải không có. Chính đây là chắc thật, ngoài ra đều hư dối.

Hoặc có người nương sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chấp ngãthế gian hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc cũng thường, cũng vô thường, hoặc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Chính đây là chắc thật, ngoài ra đều hư dối.

Hoặc có nương sắc, thọ, tưởng, hành, thức chấp ngãthế gian, hoặc có biên giới, hoặc không biên giới, hoặc cũng có biên giới, cũng không biên giới, hoặc chẳng phải có biên giới, chẳng phải không biên giới. Chính đây là chắc thật, ngoài ra đều hư dối.

Hoặc có nương sắc, thọ, tưởng, hành, thức chấp mạng giả chính là thân, hoặc là khác thân. Chính đây là chắc thật, ngoài ra đều hư dối.

Như vậy, này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng biết như thật vô lượng, vô số, vô biên hữu tình hoặc xuất hiện, hoặc ẩn mất.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng biết như thật vô lượng, vô số, vô biên hữu tình hoặc xuất hiện, hoặc ẩn mất; nghĩa là biết như thật các sắc, thọ, tưởng, hành, thức có ra đều như chơn như, không hai không khác.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như của Như Lai tức là chơn như năm uẩn. Chơn như năm uẩn tức là chơn như thế gian. Chơn như thế gian tức là chơn như tất cả pháp. Chơn như tất cả pháp tức là chơn như quả Dự lưu. Chơn như quả Dự lưu tức là chơn như quả Nhất lai. Chơn như quả Nhất lai tức là chơn như quả Bất hoàn. Chơn như quả Bất hoàn tức là chơn như quả A-la-hán. Chơn như quả A-la-hán tức là chơn như Độc giác Bồ-đề. Chơn như Độc giác Bồ-đề tức là chơn như tất cả hạnh Đại Bồ-tát. Chơn như tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức là chơn như của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Chơn như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật tức là chơn như của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Chơn như tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tức là chơn như của tất cả hữu tình.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như như thế đều không lìa nhau, chẳng phải một, chẳng phải khác, không cùng tận, không hai, cũng không hai phần, không thể phân biệt.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa, chứng rốt ráo chơn như tất cả pháp mới đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do vậy nên nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, là mẹ của Như Lai, thường chỉ dạy thật tướng các pháp thế gian cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hiểu biết như thật chơn như các pháp, tánh không hư dối, tánh không biến đổi. Do hiểu biết như thật tướng chơn như nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chứng chơn như, tánh không hư dối, tánh không biến đổi, rất là sâu xa, khó thấy, khó biết. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều dùng các pháp chơn như, tánh không hư dối, tánh không biến đổi như thế để tuyên thuyết, chỉ dạy, phân biệt rõ ràng tất cả hạnh của Đại Bồ-tát, của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Chơn như tánh không hư dối, tánh không biến đổi như thế, ai có thể tin hiểu? Chỉ có Đại Bồ-tát Bất thối chuyển và Đại A-la-hán viên mãn các nguyện cùng các thiện nam tử v.v... đầy đủ chánh kiến, nghe Phật thuyết chơn như sâu xa tánh không hư dối, tánh không biến đổi, có thể sanh tin hiểu. Như Lai nương vào tánh chơn như, tự mình chứng đắc, phân biệt chỉ rõ cho người kia.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì chơn như vô tận nên sâu xa. Chỉ có Như Lai hiện Đẳng Chánh giác mới có thể tuyên thuyết chỉ dạy cho chúng Đại Bồ-tát, làm cho họ phát sanh tin hiểu về tướng chơn như sâu xa vô tận.

Thiện Hiện nên biết! Sắc vô tận nên chơn như vô tận. Sắc sâu xa nên chơn như sâu xa. Sắc cùng với chơn như không sai khác. Thọ, tưởng, hành, thức vô tận nên chơn như vô tận. Thọ, tưởng, hành, thức sâu xa nên chơn như sâu xa. Thọ, tưởng, hành, thức cùng chơn như không sai khác.

Thiện Hiện nên biết! Nhãn xứ vô tận nên chơn như vô tận. Nhãn xứ sâu xa nên chơn như sâu xa. Nhãn xứ cùng chơn như không sai khác. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tận nên chơn như vô tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sâu xa nên chơn như sâu xa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng chơn như không sai khác.

Thiện Hiện nên biết! Sắc xứ vô tận nên chơn như vô tận. Sắc xứ sâu xa nên chơn như sâu xa. Sắc xứ cùng chơn như không sai khác. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tận nên chơn như vô tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sâu xa nên chơn như sâu xa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng chơn như không sai khác.

Thiện Hiện nên biết! Nhãn giới vô tận nên chơn như vô tận. Nhãn giới sâu xa nên chơn như sâu xa. Nhãn giới cùng chơn như không sai khác. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô tận nên chơn như vô tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sâu xa nên chơn như sâu xa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cùng chơn như không sai khác.

Thiện Hiện nên biết! Sắc giới vô tận nên chơn như vô tận. Sắc giới sâu xa nên chơn như sâu xa. Sắc giới cùng chơn như không sai khác. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô tận nên chơn như vô tận. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sâu xa nên chơn như sâu xa. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cùng chơn như không sai khác.

Thiện Hiện nên biết! Nhãn thức giới vô tận nên chơn như vô tận. Nhãn thức giới sâu xa nên chơn như sâu xa. Nhãn thức giới cùng chơn như không sai khác. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô tận nên chơn như vô tận. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sâu xa nên chơn như sâu xa. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cùng chơn như không sai khác.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả pháp vô tận nên chơn như vô tận. Tất cả pháp sâu xa nên chơn như sâu xa. Tất cả pháp cùng chơn như không sai khác vậy. Thế nên chơn như rất khó tin hiểu.

Quyển thứ 560
HẾT

 
XIII. PHẨM THẬM THÂM TƯỚNG

Bấy giờ, mười ngàn thiên tử cõi Dục, Thiên chủ Đế Thích làm thượng thủ. Lại có hai vạn thiên tử Phạm Thế, Thiên Vương Đại Phạm làm thượng thủ, đồng đi đến chỗ Phật đảnh lễ chân Phật rồi lui đứng một bên, đồng bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các pháp sâu xa đã nói, lấy gì làm tướng?

Phật bảo các Thiên chúng:

- Các pháp sâu xa mà Ta đã nói, lấy không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô sở y chỉ, vô tánh làm tướng.

Các Thiên chúng bạch Phật:

- Pháp Phật thuyết không có sự nương tựa, ví như hư không, không thể biểu thị. Như Lai thuyết tướng pháp sâu xa, trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian chẳng thể an lập, cũng chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian đều là tướng vậy. Những kẻ có tướng, đối với tướng, vô tướng chẳng thể an lập, cũng chẳng thể phá hoại. Pháp tướng sâu xaNhư Lai thuyết, chẳng rơi vào sắc, cũng chẳng rơi vào thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng rơi vào nhơn phi nhơn. Nhơn phi nhơn v.v... chẳng thể thành lập hay phá hoại.

Phật bảo các Thiên chúng:

- Giả sử có người đến hỏi thế này: “Ai là người tạo ra hư không? Ai là người phá hoại hư không?” Ông cho rằng người kia hỏi đúng chăng?

Các Thiên chúng bạch:

- Bạch Thế Tôn, không! Vì sao? Vì hư không vô thể, vô vi, vô tướng, đâu có thể hỏi là có thành, có hoại.

Phật bảo các Thiên chúng:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Thiên chúng nên biết, pháp tướng sâu xa mà Ta giảng thuyết cũng như thế, chẳng thể an lập, chẳng thể phá hoại. Có Phật, không Phật, pháp thường trụ như thế. Phật hiểu biết như thật tướng này nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Các Thiên chúng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các tướng Như Lai giác ngộ như thế rất là sâu xa, khó thấy khó biết. Như Lai hiện biết tướng như thế nên đối với tất cả pháp, trí không trở ngại. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trụ tướng như thế, phân biệt, chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tập hợp các pháp tướng, phương tiện chỉ dạy cho các hữu tình, làm cho đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa được trí vô ngại. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là chỗ thường hành của các đức Như Lai. Phật hành chỗ này chứng được trí nhất thiết, phân biệt chỉ dạy cho các hữu tình.

Phật bảo các Thiên chúng:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Thiên chúng nên biết, tướng của tất cả pháp, Như Lai biết như thậtvô tướng. Do nhân duyên này, Ta nói chư Phật đắc trí vô ngại, không ai có thể bằng.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là mẹ của chư Phật, thường chỉ rõ thật tướng của các pháp thế gian, thế nên chư Phật nương pháp mà trụ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, bảo vệ giữ gìn pháp đã nương tựa. Pháp này chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, bảo vệ giữ gìn. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thường sinh ra chư Phật, có thể làm chỗ y chỉ cho chư Phật, có thể chỉ dạy thật tướng của các pháp thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là người biết ân, là người thường đền ân. Nếu có người hỏi: “Ai là người biết ân và thường đền ân?” thì nên trả lời ngay: “Phật là người biết ân, là người thường đền ân.” Vì sao? Vì tất cả những người biết ân, đền ân ở thế gian không ai hơn Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ân và đền ân?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cỡi cỗ xe như thế, đi trên con đường như thế để đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đắc Bồ-đề xong, trong tất cả thời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, bảo vệ, giữ gìn cỗ xe này, con đường này, không lúc nào rời bỏ cỗ xe này, con đường này. Nên biết, đó chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như thế gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ân, đền ân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên biết rõ tất cả pháp không thật tác dụng. Do người tạo tác không có sở hữu vậy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên biết rõ tất cả pháp không có sự thành tựu, bởi các hình chất không thể đắc.

Thiện Hiện nên biết! Do các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, nên biết rõ tất cả pháp đều không tác dụng, không có sự thành tựu, nên đối với tất cả thời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, tán thán, bảo vệ, giữ gìn, chưa từng gián đoạn, nên gọi là chơn thật biết ân, đền ân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với tất cả pháp không tạo tác, không thành tựu, không phát sanh trí chuyển thành, lại có thể biết nhân duyên không chuyển này. Do đó nên biết: Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng có thể như thật chỉ dạy tướng thế gian.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Lai thường dạy: Tánh của tất cả pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy, thì làm sao có thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng có thể như thật chỉ dạy tướng thế gian?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Tánh của tất cả pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy? Thế nào là tánh của các pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy? Vì tất cả pháp Không, không sở hữu, không sự y chỉ, không sự hệ thuộc. Do nhân duyên này nên không sanh, không khởi, không thấy, không biết.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mặc dù có thể sanh Phật và chỉ tướng thế gian, nhưng không có sự sanh, cũng không có sự chỉ dạy.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên gọi là chỉ tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên gọi là chỉ tướng sắc thọ, tưởng, hành, thức?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Do Bát-nhã ba-la-mật-đa này không duyên sắc, thọ, tưởng, hành, thức để phát sanh thức, nên gọi là không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do không thấy nên gọi là chỉ tướng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do nghĩa như thế, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể chỉ thật tướng các pháp thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể chỉ cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể chỉ cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thế gian là Không, lìa tịch tịnh, nên gọi là có thể chỉ thật tướng thế gian. Vì tất cả thế gian đều lấy Không, lìa tịch tịnh làm thật tướng vậy.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn nên xuất hiệnthế gian, vì việc chẳng thể nghĩ bàn, việc chẳng thể đo lường, việc không số lượng, việc không gì bằng, nên xuất hiện ở thế gian?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Thiện Hiện! Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc lớn nên xuất hiện ở thế gian? Nghĩa là các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì cứu giúp tất cả hữu tình không lúc nào ngưng nghỉ mà làm việc lớn. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc này nên xuất hiệnthế gian.

Thiện Hiện! Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc chẳng thể nghĩ bàn, việc chẳng thể đo lường, việc không số lượng, việc không gì bằng nên xuất hiện ở thế gian? Nghĩa là các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh giác tự nhiên, tánh trí nhất thiết đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vì việc này nên xuất hiệnthế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh giác tự nhiên, tánh trí nhất thiết chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng; hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Chẳng phải chỉ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có tánh Phật, tánh Như Lai, tánh giác tự nhiên, tánh trí nhất thiết chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng, mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng? Vì sao? Vì trong tánh chơn thật của tất cả pháp, tâm và tâm sở đều không thể đắc.

Thiện Hiện nên biết! Các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp có ra đều chẳng thể trình bày, nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Vì sao? Vì các pháp như thế không có tự tánh, chẳng thể đắc, vì tự tánh là Không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu đều chẳng thể đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Vì sao? Vì các pháp như thế không hạn lượng, không sở hữu, tự tánh Không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu đều không hạn lượng, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu đều không hạn lượng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Hư không có phải là tâm, tâm sở pháp hạn lượng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Không.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu cũng như thế. Vì tự tánh Không, nên tâm, tâm sở pháp không thể hạn lượng. Do nhân duyên này, sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu không hạn lượng, đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng.

Thiện Hiện nên biết! Do tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng, nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp trí nhất thiết cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp như thế đều chẳng thể nghĩ bàn, vì nghĩ bàn diệt vậy; chẳng thể đo lường, vì đo lường diệt vậy; không số lượng, vì số lượng diệt vậy; không có gì bằng, vì so sánh diệt vậy.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp như thế đều chẳng thể nghĩ bàn, vì vượt qua sự nghĩ bàn, chẳng thể đo lường vì vượt qua sự đo lường, không số lượng vì vượt qua số lượng, không gì bằng vì vượt qua sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng, chỉ có khái niệm, hoàn toàn không chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng đều như hư không, hoàn toàn không sở hữu. Do nhân duyên này, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp trí nhất thiết đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Thanh văn, Độc giác, trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian, tất cả đều chẳng thể nghĩ bàn, có thể đo lường, không số lượng, không gì bằng với các pháp này.

Khi Như Lai thuyết pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng này, thì ngay lúc ấy trong chúng hội có năm trăm Bí-sô, hai mươi Bí-sô-ni các lậu đã sạch, tâm được giải thoát. Lại có sáu vạn Ưu-bà-tắc, ba vạn Ưu-bà-di ở trong các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Lại có hai mươi Đại Bồ-tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Thế Tôn thọ ký cho những vị đó trong Hiền kiếp sẽ thành Phật, độ các hữu tình.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chính vì việc lớn mà xuất hiệnthế gian chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chính vì việc lớn mà xuất hiệnthế gian. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đầy đủ khả năng thành tựu địa vị trí nhất thiết, hoặc địa vị Thanh văn, hoặc địa vị Độc giác, đều thâu nhiếp nơi đây.

Thiện Hiện nên biết! Như Đại vương quán đảnh, dòng Sát-đế-lợi, oai đức tự tại, hàng phục tất cả, đem tất cả việc nước giao phó cho đại thần, chấp tay ngồi ngay thẳng, an ổn vô vi, thọ nhận sự an lạc; Như Lai cũng như thế, làm Đại Pháp Vương uy đức tự tại, hàng phục tất cả, đem các pháp Phật hoặc pháp Độc giác, pháp Thanh văn phó chúc cho Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khiến thành tựu rộng khắp.

Thế nên Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chính vì việc lớn mà xuất hiệnthế gian.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng vì sự giữ gìn chấp trước sắc cho đến thức nên xuất hiệnthế gian; chẳng vì sự giữ gìn chấp trước quả Dự lưu cho đến trí nhất thiết tríxuất hiệnthế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng chẳng vì sự giữ gìn chấp trước trí nhất thiết tríxuất hiện ở thế gian?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông có thấy quả vị A-la-hán có thể giữ gìn chấp trước chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn, không! Con chẳng thấy trong quả vị A-la-hán có gì để giữ gìn chấp trước.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ta cũng chẳng thấy trong pháp Như Lai có gì để giữ gìn chấp trước. Thế nên, này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng chẳng vì giữ gìn, chấp trước trí nhất thiết tríxuất hiệnthế gian.

Khi ấy Thiên tử Phạm Thế cõi Dục bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết, rất khó tin hiểu. Nếu các hữu tình từng ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ phát thệ nguyện rộng lớn, trồng nhiều căn lành thì mới có thể tin hiểu được. Giả sử các loài hữu tìnhthế giới tam thiên đại thiên, tất cả đều thành tựu Tùy-tín-hành v.v... loài hữu tình kia hoặc trải qua một kiếp hay hơn một kiếp tu hạnh Tự địa, không bằng có người một ngày ưa thích tư duy, đo lường, quán sát Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, đạt được công đức hơn người kia vô lượng.

Bấy giờ, Phật bảo các Thiên tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Thiên tử nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì mau đắc Niết-bàn thù thắng hơn Tùy-tín-hành v.v... đã nói ở trước, trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp tu hạnh Tự địa, huống gì chỉ tu nhẫn lạc v.v...

Khi ấy, các Thiên tử nghe Phật dạy, vui mừng hớn hở, đảnh lễ Như Lai, nhiễu bên phải ba vòng và từ giã trở về cung. Cách chúng hội không xa, bỗng nhiên biến mất và đều trụ nơi cung điện ở cảnh giới của mình, khuyến khích, sách tấn chư Thiên tu hạnh thù thắng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát thường hết lòng tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì từ nơi nào sanh đến nơi đây?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa có thể tin hiểu, chẳng nghi ngờ, chẳng buồn bực, ưa thấy, ưa nghe, nhớ nghĩ tư duy nghĩa lý sâu xa, thường ưa đi theo người thuyết pháp, như trâu nghé theo mẹ chưa từng rời xa, cho đến khi chưa đắc nghĩa lý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thông suốt hoàn toàn, có thể thuyết cho mọi người, hoàn toàn chẳng rời xa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và thầy thuyết pháp, dầu trải qua chốc lát, thì các Bồ-tát này từ trong loài người sanh đến nơi này, nương nhân tốt đời trước nên có thể thành tựu được việc như thế.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lại có Bồ-tát nào thành tựu công đức thù thắng như thế, phụng thờ, cúng dường Phật ở phương khác xong, từ nơi đó sanh đến nơi này chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có các Bồ-tát thành tựu công đức thù thắng như thế, phụng thờ, cúng dường Phật ở phương khác xong, từ chỗ đó sanh đến nơi này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát thành tựu công đức thù thắng như thế, đời trước đã ở trên trời Hỷ Túc, phụng thờ cúng dường Bồ-tát Từ Thị, nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thưa hỏi nghĩa lý sâu xa trong đó; từ nơi đó sanh đến nơi này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát đời trước tuy nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nhưng chẳng thể thưa hỏi nghĩa lý sâu xa trong đó, nên đời này trong loài người, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa nghi ngờ, mê mờ, hoang mang, khó có thể tỏ ngộ. Vì sao? Vì người chẳng rõ nghĩa, tâm nhiều nghi ngờ, mê mờ, hoang mang, khó có thể thí dụ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát đời trước mặc dù nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng từng thưa hỏi nghĩa lý trong đó, hoặc trải qua một ngày cho đến năm ngày nhưng chẳng tinh tấn đúng như lời dạy tu hành, nay sanh trong loài người, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, mặc dù trải qua thời gian ngắn nhưng tâm người đó bền vững, không có thể phá hoại được. Nếu xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và thầy thuyết pháp mà thưa hỏi nghĩa lý sâu xa vẫn thối mất. Vì sao? Vì các Bồ-tát này mặc dù đời trước được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng thường thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nhưng không tinh tấn đúng như lời dạy tu hành, nên đời này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc có lúc ưa nghe, có lúc không ưa, hoặc có lúc bền vững, có lúc thối lui; tâm người đó mạnh yếu, tấn thối bất thường như bông đổ-la-miên cuốn theo chiều gió. Bồ-tát mới học Đại thừa cũng thế, mặc dù có tín tâm nhưng chẳng vững vàng thanh tịnh. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa chẳng thể tin ưa lâu dài, tùy theo, thì sẽ rơi vào một trong hai thừa.
XIV. PHẨM THUYỀN ĐẲNG DỤ

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như khách buôn đi trên biển lớn, thuyền bè của họ bỗng bị hư, những người trong thuyền nếu vơ được gỗ, đồ vật, phao nổi, tấm ván hay tử thi làm chỗ để bám vào, thì nên biết những người này hoàn toàn không bị chết chìm, được đến bờ bên kia của biển lớn an ổn, không tổn, không hại, nhận được các sự vui thú. Các chúng Bồ-tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa, có thích, có tinh tấn, có hiểu rõ, có sự không buông lung, có ý ưa thích tốt đẹp, có xả, có kính, có tâm thanh tịnh, có sự hộ trì tốt đẹp, không rời bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lại thường giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa làm sự nương tựa, thì nên biết hạng người này nhất định chẳng thối lui giữa đường, nhập vào địa vị Thanh văn, Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có nam tử hoặc các nữ nhơn đem bình đất nung chín đến sông, hoặc ao, hoặc giếng, suối, kênh, ngòi v.v... lấy nước, nên biết, bình này chắc chắn chẳng hư rã. Vì sao? Vì bình này được nung kỹ, bền chắc có thể chứa đựng đầy nước.

Các chúng Bồ-tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa, có thích, có tinh tấn, có thắng giải, có sự không buông lung, có ý ưa thích tốt đẹp, có xả, có kính, có tâm thanh tịnh, có sự hộ trì tốt đẹp, chẳng rời bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lại có thể giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên biết hạng này nhất định chẳng thối lui giữa đường, nhập vào địa vị Thanh văn, hoặc Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người buôn có đủ trí khôn khéo, trước tiên tại bờ biển sửa chữa ghe thuyền cho bền chắc, xong rồi mới khiêng bỏ xuống nước, biết không có lỗ thủng, sau đó mới đem hàng hoá, đồ dùng chất lên mà đi. Nên biết, ghe thuyền kia chắc chắn chẳng bị hư chìm, người và vật đi đến nơi được an ổn.

Các chúng Bồ-tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa thích, có tinh tấn, có thắng giải, có sự không buông lung, có ý ưa thích tốt đẹp, có xả, có kính, có tâm thanh tịnh, có sự hộ trì tốt đẹp, chẳng rời bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lại có thể giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên biết hạng này nhất định chẳng thối lui giữa đường, nhập vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như có người một trăm hai mươi tuổi, già nua, suy yếu, lại thêm có các thứ bệnh, đó là: bệnh phong, nhiệt, đàm, hoặc cả ba thứ bệnh. Người già bệnh này muốn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến nơi khác, nhưng tự mình chẳng thể đi được. Có hai người khỏe mạnh, xốc hai bên hông, từ từ đỡ lên và nói: “Chẳng có gì khó khăn, muốn đi lại tùy ý. Nay hai người chúng tôi luôn luôn ở bên cạnh, chắc chắn đi đến đâu đều an ổn, không tổn hại.”

Các chúng Bồ-tát cũng như thế, nếu đối với Đại thừa có tín, có nhẫn, có ưa, có thích, có tinh tấn, có thắng giải, có sự không buông lung, có ý ưa thích tốt đẹp, có xả, có kính, có tâm thanh tịnh, có sự hộ trì tốt đẹp, chẳng rời bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lại có thể hộ trì phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên biết hạng này nhất định chẳng thối lui giữa đường, nhập vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trái với trên đây thì gọi là hắc phẩm.

 
XV. PHẨM NHƯ LAI

01

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ-tát mới học nên làm thế nào để học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ-tát mới học muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trước nên gần gũi, phụng sự bạn lành. Nếu ai có thể tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dạy bảo trao truyền cho các Bồ-tát, thì gọi là bạn lành. Người ấy nói thế này: “Thiện nam tử, đến đây! Ông nên siêng năng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ông siêng năng tu tập, nên dùng vô sở đắc làm phương tiện, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi ông hồi hướng, chớ dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà chấp thủ Bồ-đề. Vì sao? Vì tánh của trí nhất thiết trí chẳng phải là sở thủ. Thiện nam tử! Ông chớ sanh tham đắm các địa vị Thanh văn, Độc giác v.v...” Nếu ai có thể dạy bảo, trao truyền như thế cho Bồ-tát mới học, làm cho họ dần dần nhập vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên biết đó là bạn lành của Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này phát tâm Bồ-đề, muốn thẳng tới Bồ-đề là việc làm rất khó!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Việc làm của các chúng Bồ-tát rất khó, nghĩa là vì lợi ích an vui cho các thế gian nên phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, với lời thề: Ta vì cứu giúp các thế gian nên làm nhà cửa cho các thế gian, làm chỗ quay về nương tựa cho các thế gian, làm hòn đảo cho các thế gian, chỉ dạy con đường rốt ráo cho các thế gian, làm vị thầy dẫn đường cho các thế gian, làm chỗ hướng đến cho các thế gian... nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn, hướng đến đại Bồ-đề.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ-tát thề cứu giúp tất cả thế gian nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn, hướng đến đại Bồ-đề? Nghĩa là các Bồ-tát thấy các thế gian chìm trong khổ sanh tử chẳng thể ra khỏi, nên siêng năng tinh tấn, hướng đến đại Bồ-đề, vì dứt khổ cho người kia nên giảng thuyết điều cốt yếu của chánh pháp.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ-tát làm nhà cửa cho tất cả thế gian nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ-đề? Nghĩa là các Bồ-tát muốn vì thế gian thuyết tất cả pháp đều chẳng hòa hợp, nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ-đề.

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát muốn vì thế gian thuyết tất cả pháp đều chẳng hòa hợp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các chúng Bồ-tát muốn vì thế gian tuyên thuyết năm uẩn và tất cả pháp đều chẳng hòa hợp, không buộc, không mở, không sanh, không diệt. Do vậy, có thể che chở, giúp đỡ tất cả, giống như nhà cửa.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ-tát làm chỗ quay về nương tựa cho các thế gian nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ-đề? Nghĩa là các Bồ-tát muốn làm cho thế gian thoát khỏi tất cả sanh, già, bệnh, chết, sầu than, buồn khổ nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ-đề, phương tiện thiện xảo giảng thuyết điều cốt yếu của chánh pháp.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ-tát làm hòn đảo cho các thế gian nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ-đề? Nghĩa là các Bồ-tát hướng đến đại Bồ-đề vì muốn thuyết cho thế gian ranh giới trước sau của năm thủ uẩn đều dứt. Do cái này dứt nên tất cả pháp đều dứt. Tất cả pháp này dứt tức là Niết-bàn tịch diệt vi diệu; cũng là tánh như thật không điên đảo. Ví như trong biển, sông, ao lớn nhỏ, chỗ đất cao ở được gọi là hòn đảo; Niết-bàn cũng thế, là chỗ an ổn.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ-tát chỉ dạy cho thế gian con đường rốt ráo nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ-đề? Nghĩa là các Bồ-tát hướng đến đại Bồ-đề vì muốn thuyết cho thế gian sắc rốt ráo chẳng gọi là sắc; thọ, tưởng, hành, thức và các pháp khác cũng thế. Pháp tánh rốt ráo chẳng phải sắc v.v... vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu pháp tánh rốt ráo các sắc v.v... chẳng gọi sắc v.v... thì lẽ đáng các Bồ-tát đã đắc không phân biệt trong tánh rốt ráo của Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Trong tánh rốt ráo hoàn toàn không phân biệt, nhưng đối với các Bồ-tát là việc rất khó làm. Tuy có thể quán tất cả pháp như thế nhưng chẳng chứng đắc, cũng chẳng chìm đắm. Nghĩ thế này: Ta đối với pháp này hiện Đẳng giác rồi, nên tuyên thuyết chỉ dạy cho thế gian, làm cho họ biết được đạo tướng rốt ráo như thế.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ-tát làm thầy dẫn đường cho thế gian phát khởi sự siêng năng tinh tấn, hướng đến đại Bồ-đề? Nghĩa là các Bồ-tát hướng đến đại Bồ-đề muốn thuyết cho thế gian bản tánh sắc không sanh không diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Muốn thuyết cho thế gian quả Dự lưu cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề bản tánh các pháp không sanh, không diệt.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ-tát làm sự hướng đến cho các thế gian nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ-đề? Nghĩa là các Bồ-tát hướng đến đại Bồ-đề, muốn tuyên thuyết chỉ dạy cho thế gian: Sắc lấy hư không làm sự hướng đến. Thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng lấy hư không làm sự hướng đến. Muốn tuyên thuyết, chỉ dạy cho thế gian: Sắc không chỗ hướng đến, ngang đồng với hư không. Thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng không chỗ hướng đến, ngang đồng với hư không. Như hư không rộng lớn, không đến, không đi, không tạo, không tác, không trụ, không sanh, không diệt. Các pháp cũng vậy, đều như hư không, không có sự phân biệt. Vì sao? Vì các sắc Không, nên không đến, không đi… Thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng đều là Không, nên không đến, không đi. Vì sao? Vì tất cả pháp đều dùng: Không, vô tướng, vô nguyện, không tạo, không tác, không sanh, không tánh, như mộng, như huyễn, không ngã, không biên giới, Niết-bàn tịch tĩnh, không thủ, không xả, không đến, không đi, tịch diệt cùng cực… để làm sự hướng đến. Người kia chẳng thể vượt qua sự hướng đến này.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ai có thể tin hiểu pháp sâu xa như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát từ lâu tu đại hạnh, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở chỗ chư Phật phát thệ nguyện rộng lớn, đã trồng căn lành, đều được thành thục, được vô lượng bạn lành giúp đỡ hộ niệm, thì có thể tin hiểu pháp sâu xa này.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này lấy gì làm tánh?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này lấy điều phục, viễn ly làm pháp tánh. Nhờ tánh này nên có thể biết, có thể rõ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này có thể biết, có thể rõ Bát-nhã ba-la-mật-đa sẽ hướng đến nẻo nào?

Phật dạy Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này sẽ hướng đến trí nhất thiết.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát chứng nơi hướng đến rồi thì có thể làm chỗ quay về và hướng tới cho vô lượng, vô biên hữu tình.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nếu các Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì có thể làm chỗ quay về, hướng tới cho vô lượng, vô biên hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này thường làm việc khó làm, nghĩa là mặc giáp, đội mũ bền chắc như thế vì muốn độ vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho vào Niết-bàn, nhưng loài hữu tình hoàn toàn chẳng thể đắc.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này mặc giáp đội mũ chẳng thuộc các sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng thuộc Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và tất cả trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở thuộc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì chẳng trụ địa vị Thanh văn, Độc giác v.v...

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ông quán nghĩa nào mà nói như thế?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không chấp trước. Nếu người nào tu Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sự tu, cũng không có người tu, thời gian tu, nơi chốn tu và do đây tu chẳng thể đắc.

Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xapháp không quyết định. Nếu tu hư không, tu tất cả pháp, tu không biên giới, tu không giữ gìn thì chính là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nên nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, quán sát Đại Bồ-tát Bất thối chuyển; nghĩa là các Bồ-tát nếu chẳng tham đắm Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng chấp lời của người khác và sự chỉ dạy truyền trao của người khác để làm điều chơn yếu, thì chẳng phải chỉ tin người khác mà còn có sự tạo tác, nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, tâm vị đó chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, chẳng chìm, chẳng đắm, không nghi, không ngờ, cũng chẳng mê mờ, hoang mang, hoan hỷ ưa nghe, hết lòng tin nhận; các Bồ-tát này nhất định chẳng thối lui. Các Bồ-tát như thế đời trước đã được nghe nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên nay được nghe, tâm không kinh sợ v.v...

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm không kinh v.v... thì các Bồ-tát này làm sao quán sát Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ-tát này nên dùng tâm tùy thuận trí nhất thiết quán sát Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tâm tùy thuận trí nhất thiết quán sát Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Như các Bồ-tát tùy thuận hư không quán sát Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đó là tâm tùy thuận trí nhất thiết quán sát Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trí nhất thiết vô lượng, vô biên. Nếu vô lượng, vô biên tức là chẳng phải sắc, cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; không đắc, không hiện quán, không trí, không thức, không sanh, không diệt, không tu, không tác, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không phương hướng, không nơi chốn, cũng không sở trụ, chỉ có thể nói là vô lượng, vô biên.

Thiện Hiện nên biết! Hư không vô lượng, vô biên nên trí nhất thiết cũng vô lượng, vô biên. Trí nhất thiết vô lượng, vô biên nên không ai có thể chứng. Chẳng phải sắc có thể chứng, cho đến chẳng phải thức có thể chứng. Chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa có thể chứng, cho đến chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chứng. Vì sao? Vì sắc cho đến thức chính là trí nhất thiết không hai, không khác. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chính là trí nhất thiết không hai, không khác.

Bấy giờ Thiên tử Phạm Thế cõi Dục cùng đi đến chỗ Phật, đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết.

Phật bảo các Thiên tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Khi mới thành Phật, Ta quán nghĩa này, ngồi yên tịnh tư duy, chẳng muốn nói pháp, Ta nghĩ: Pháp của Ta sâu xa, chẳng phải các thế gian có thể tin nhận nhanh chóng. Pháp Ta chứng chính là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Pháp này sâu xa, chẳng phải năng chứng, chẳng phải sở chứng, không nơi chốn chứng, không thời gian chứng và do đây chứng, cũng chẳng thể đắc. Thiên tử nên biết! Hư không sâu xa nên pháp này sâu xa. Ngã sâu xa nên pháp này sâu xa. Tánh tất cả pháp không đến, không đi nên pháp này sâu xa.

Khi ấy, các Thiên tử bạch Phật:

- Thật lạ thay! Kính bạch Thế Tôn! Pháp Phật thuyết, tất cả thế gian rất khó tin hiểu. Pháp Phật thuyết không thủ, không xả. Hữu tình thế gian lại hành thủ xả.

Phật bảo các Thiên tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Pháp Phật thuyết sâu xa vi diệu, đối với tất cả pháp đều có thể tùy thuận, không có sự chướng ngại, đồng như hư không. Pháp Phật thuyết hoàn toàn không sanh, vì tất cả pháp sanh không thể đắc vậy. Pháp mà Phật biết, hoàn toàn không nơi chốn vì tất cả nơi chốn đều chẳng thể đắc vậy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng như vậy! Đúng như vậy.

Các Thiên tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiệnchơn Phật tử, từ Như Lai sanh, vì những gì Ngài nói đều tương ưng với Không vậy.

Thiện Hiện bảo các Thiên tử:

- Các ông nói: Ta từ Như Lai sanh. Thế nào là Thiện Hiện từ Như Lai sanh? Nghĩa là từ chơn như của Như Lai sanh vậy. Vì tất cả pháp sanh chẳng thể đắc vậy. Nên chơn như của Như Lai không đến, không đi, bản tánh chẳng sanh.

Chơn như của Thiện Hiện cũng không đến không đi, bản tánh chẳng sanh, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như của Như Lai chính là chơn như của tất cả pháp. Chơn như của tất cả pháp chínhchơn như của Như Lai.

Chơn như của Như Lai không có tánh chơn như, cũng chẳng không có tánh chơn như. Chơn như Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như Như Lai không biến đổi, không phân biệt, khắp tất cả chỗ. Chơn như Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như Như Lai lấy thường trụ làm tướng nên không có sở trụ. Chơn như Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như Như Lai không có sự chướng ngại, chơn như tất cả pháp cũng không có sự chướng ngại. Chơn như Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như Như Lai cùng chơn như tất cả pháp đồng một chơn như, không hai, không khác, không tạo, không tác. Chơn như của Như Lai luôn luôn là tướng chơn như, không lúc nào là chẳng phải tướng chơn như. Thế nên chơn như không hai, không khác. Chơn như Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như Như Lai đối với tất cả chỗ không nhớ nghĩ, không phân biệt. Chơn như tất cả pháp đối với tất cả chỗ cũng không nhớ nghĩ, không phân biệt. Chơn như của Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như Như Lai không khác, chẳng thể đắc. Chơn như tất cả pháp cũng không sai khác, chẳng thể đắc. Chơn như Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như Như Lai chẳng lìa chơn như các pháp. Chơn như các pháp chẳng lìa chơn như Như Lai. Chơn như Như Lai luôn luôn là tướng chơn như, không lúc nào là chẳng phải tướng chơn như. Chơn như của Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Tuy nói là tùy sanh nhưng không có chỗ tùy sanh, vì chơn như Thiện Hiện chẳng khác Phật. Chơn như Như Lai chẳng phải đến, đi. Chơn như của tất cả pháp cũng chẳng phải đến, đi. Chơn như Thiện Hiện cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Như Lai chính là chơn như Như Lai. Chơn như của Như Lai từ chơn như quá khứ, chơn như quá khứ từ chơn như Như Lai.

Chơn như Như Lai từ chơn như vị lai, chơn như vị lai từ chơn như Như Lai.

Chơn như Như Lai từ chơn như hiện tại, chơn như hiện tại từ chơn như Như Lai.

Chơn như Như Lai từ chơn như ba đời, chơn như ba đời từ chơn như Như Lai. Chơn như Như Lai cùng chơn như ba đời không hai, không khác.

Chơn như tất cả pháp, chơn như Thiện Hiện cũng không hai, không khác, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Chơn như của Bồ-tát tức là chơn như của Phật. Các chúng Bồ-tát do chơn như nên khi đắc Bồ-đề gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khi Như Lai chứng đắc chơn như này, ba ngàn thế giới biến động sáu cách. Ta đối với chơn như các pháp như thế càng tin hiểu, nên nói: Thiện Hiện từ Như Lai sanh.

Thiên tử nên biết! Nhưng Thiện Hiện ta chẳng do sắc cho đến thức, nên từ Như Lai sanh. Cũng chẳng do quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề nên từ Như Lai sanh. Cũng chẳng do trí nhất thiết nên từ Như Lai sanh. Chỉ do chơn như nên từ Như Lai sanh.

Thiên tử nên biết! Nhưng Thiện Hiện ta không từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức sanh. Không từ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề sanh, nên Thiện Hiện ta từ Như Lai sanh.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Như Lai như thế rất sâu xa vi diệu.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Như Lai sâu xa vi diệu như thế, nên ngay khi thuyết tướng Như Lai như thế, ba ngàn Bí-sô sạch hẳn các lậu, tâm được giải thoát, thành A-la-hán, năm trăm Bí-sô-ni xa trần lìa cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, năm ngàn chư Thiên đắc Vô sanh pháp nhẫn, sáu ngàn Bồ-tát sạch hẳn các lậu, tâm được giải thoát.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Sáu ngàn Bồ-tát trong chúng này từng ở chỗ năm trăm đức Phật quá khứ gần gũi cúng dường. Tuy tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự nhưng không giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phát sanh nghĩ tưởng sai khác, tu hạnh sai khác, nên đời này chỉ nghe pháp lớn mà tâm sạch các lậu, được giải thoát.

Xá-lợi Tử! Các chúng Bồ-tát tuy có đạo Bồ-tát: Không, vô tướng, vô nguyện nhưng không giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, liền chứng Niết-bàn, rơi ở địa vị Thanh văn, Độc giác.

Xá-lợi Tử! Ví như có con chim, thân nó to lớn từ một trăm cho đến năm trăm do-tuần, lông cánh của nó chưa đủ, hoặc đã suy yếu. Con chim này từ trên cõi trời Ba mươi ba nhào thẳng xuống châu Thiệm-bộ. Giữa đường nó nghĩ: Ta nay muốn quay về trên cõi trời Ba mươi ba. Ý ông thế nào? Con chim này có thể về lại cõi trời Ba mươi ba được không?

Xá-lợi Tử bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Không.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Con chim này giữa đường hoặc ước muốn: Đến châu Thiệm-bộ sẽ khiến cho thân ta không bị tổn hại, không bị đau đớn, ý ông thế nào? Ước muốn của con chim này có được thỏa mãn không?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn, không! Con chim này khi tới châu Thiệm-bộ, thân nó nhất định bị tổn hại, đau đớn, hoặc chết, hoặc gần chết. Vì sao? Vì thân của nó lớn, lông cánh chưa đủ, hoặc đã suy yếu, lại từ trên cao rơi xuống vậy.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Có thiện nam tử v.v... Bồ-tát thừa cũng như thế, tuy phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đã trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu giải thoát môn: không, vô tướng, vô nguyện nhưng không giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, liền chứng Niết-bàn, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác.

Xá-lợi Tử! Các Bồ-tát này tuy nghĩ nhớ giới uẩn cho đến giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật ba đời nhưng tâm thủ tướng, không biết như thật về công đức chơn thật của năm uẩn như thế, chỉ nghe danh tự suông, thủ tướng, chấp trước, hồi hướng Bồ-đề, bèn rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các Bồ-tát này xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên như thế.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy: Nếu các Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì tuy đầy đủ vô lượng tư lương phước đức, nhưng đối với Bồ-đề hoặc đắc, hoặc chẳng đắc. Thế nên Bồ-tát muốn đắc Bồ-đề thì nhất định chẳng nên xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

 

Quyển thứ 561
HẾT

 

02

Khi ấy, Thiên tử Phạm Thế cõi Dục cung kính chấp tay đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là sâu xa, rất khó tin hiểu. Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng rất sâu xa, rất khó tin hiểu!

Phật bảo các Thiên tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy thì Vô Thượng Bồ-đề chẳng phải khó tin, khó đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn Không, nên trong Không không có pháp tín chứng pháp khác. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp đều Không. Nếu vì dứt hẳn pháp như thế nên nói pháp như thế, thì pháp này cũng Không. Do nhân duyên này, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật, năng chứng, sở chứng, năng tri, sở tri, tất cả đều Không, vắng lặng. Thế nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng phải khó tin hiểu, chẳng phải khó chứng đắc, do tất cả pháp hoàn toàn Không. Tin hiểu như thế thì liền chứng đắc.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Người có thể tin chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng thể đắc, vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chẳng phải thật có; vì không chứa nhóm nên nói khó tin, khó đắc.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Do tất cả pháp hoàn toàn Không, nên Vô thượng Bồ-đề rất khó tin, khó đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không có tự tánh, đều như hư không. Ví như hư không không nghĩ: Ta sẽ tin, sẽ đắc Vô thượng Bồ-đề, các pháp cũng vậy, thế nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề rất khó tin, khó đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Phật Bồ-đề chẳng phải khó tin, khó đắc thì không nên có các chúng Bồ-tát hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhiều như cát sông Hằng, sau lại thối lui, nên Phật Bồ-đề rất khó tin, khó đắc.

Thiện Hiện thưa:

- Ý Tôn giả thế nào? Sắc đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Thọ, tưởng, hành, thức đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa sắc, có pháp nào đối với Bồ-đề thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa thọ, tưởng, hành, thức, có pháp nào đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Chơn như của sắc, đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Chơn như của thọ, tưởng, hành, thức đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa chơn như của sắc, có pháp nào đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa chơn như của thọ, tưởng, hành, thức có pháp nào đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Chơn như đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa chơn như đối với Bồ-đề có thối lui không?

Xá-lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu tất cả pháp chắc thật, tồn tại, hoàn toàn không sở hữu, đều chẳng thể đắc, thì nói những pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề để có thể thối lui?

Xá-lợi Tử thưa:

- Như lời thầy nói: Thật không có pháp, cũng không có hữu tình có thể nói có sự thối lui Bồ-đề. Nếu vậy thì vì lẽ gì Phật thuyết ba hạng trụ Bồ-tát thừa, chỉ nên nói một? Lại không nên lập có ba thừa khác, chỉ nên có một thừa Chánh đẳng giác?

Khi ấy, Mãn Từ Tử thưa với cụ thọ Xá-lợi Tử:

- Nên hỏi Thiện Hiện: Có phải là chỉ có một Bồ-tát thừa chăng? Rồi sau đó mới có thể nạn vấn: Lẽ ra không nên kiến lập ba thừa sai khác, chỉ nên có một thừa Chánh đẳng giác.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Có phải chỉ có một Bồ-tát thừa chăng?

Thiện Hiện hỏi:

- Lẽ nào chơn như có ba hạng Bồ-tát và ba thừa ư?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện, chẳng phải vậy!

- Lẽ nào chơn như có một Bồ-tát thừa, một Phật thừa chăng?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện, chẳng phải vậy!

- Lẽ nào chơn như có một pháp có thể thấy, gọi là một Bồ-tát và một thừa chăng?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện, chẳng phải vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bảo với Xá-lợi Tử:

- Nếu tất cả pháp chắc thật, tồn tại, hoàn toàn không sở hữu, chẳng thể đắc thì ba thừa Bồ-tát cũng như thế. Như thế, thì vì lẽ gì gạn hỏi có một, có ba? Nếu các Bồ-tát nghe thuyết tướng chơn như không sai khác, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm, thì các Bồ-tát này mau chứng Bồ-đề, nhất định không thối lui.

Khi ấy, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông có thể vì các Bồ-tát thuyết điều cốt yếu của chánh pháp. Sự giảng thuyết của ông nương vào oai thần của Phật, tất cả Như Lai đều tùy hỷ về sự giảng thuyết của ông. Nếu các Bồ-tát đối với tướng không sai biệt của các pháp chơn như, hết lòng tin hiểu, thì nghe thuyết chơn như của các pháp như thế chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm. Các Bồ-tát này mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, nhất định không thối lui.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát thành tựu pháp này thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề chăng?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Các Bồ-tát này nhất định chẳng rơi vào địa vị Thanh văn v.v...

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát muốn chứng Bồ-đề, nên trụ như thế nào? Nên học như thế nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát muốn chứng Bồ-đề thì đối với các hữu tình nên trụ bình đẳng, nghĩa là đối với loài kia nên phát sanh tâm bình đẳng, tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, tâm không sai khác, tâm khiêm tốn, tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm không sân hận, não hại, tâm như cha mẹ... cũng dùng tâm này nói với họ.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát muốn chứng Bồ-đề thì nên trụ như thế, nên học như thế.

 
XVI. PHẨM BẤT THOÁI

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ dùng tướng hành trạng nào để biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát có thể biết như thật địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Như Lai thì mặc dù nói có sai khác nhưng ở trong tánh chơn như của các pháp, không thay đổi, không sai khác, hoàn toàn không hai, không hai phần. Các Bồ-tát này mặc dù chân thật ngộ nhập chơn như các pháp, nhưng đối với chơn như không có sự phân biệt. Mặc dù nghe chơn như cùng tất cả pháp không hai, không sai khác, nhưng không ngăn ngại. Mặc dù nghe các pháp nhiều thứ tướng sai khác, nhưng đối với trong đó không chấp trước. Các Bồ-tát này không bao giờ phát ngôn một cách khinh xuất, nói ra những lời gì đều đưa đến lợi ích; hoàn toàn chẳng xem những điều tốt xấu, hay dở của người khác. Thương yêu bình đẳngthuyết pháp cho họ. Nếu các Bồ-tát thành tựu các tướng hành trạng như thế thì nhất định chẳng còn thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này chẳng xem xét lời nói, hình tướng của các Phạm chí Sa-môn ngoại đạo; nghĩa là người đó thấy đúng, biết đúng pháp, hoặc có thể trình bày pháp môn chánh kiến, thì không có lẽ đó; hoàn toàn chẳng lễ kính thiên thần ngoại đạo, cũng chẳng cúng dường để cầu phước báo thù thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này chẳng đọa nẻo ác, chẳng thọ thân người nữ, cũng chẳng sanh trong dòng họ ti tiện, ngoại trừ vì muốn độ thoát loài hữu tình kia nên thị hiện sanh đồng loại để phương tiện giúp đỡ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này thường ưa thích thực hành mười thiện nghiệp đạo, cũng thường phương tiện khuyến khích người khác thực hành, cho đến trong mộng cũng không trái phạm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này, các sự thọ trì, tư duy, đọc tụng vô số kinh điển làm cho thông suốt hoàn toàn là vì lợi lạc cho tất cả hữu tình, thường nghĩ: Ta đem pháp này giảng thuyết chỉ dạy cho các hữu tình, sẽ nguyện khiến cho tất cả pháp được đầy đủ. Lại đem căn lành pháp thí như thế bình đẳng trao cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng về sở cầu trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này đối với pháp môn sâu xa mà Phật đã thuyết, nhất định chẳng nghi ngờ, do dự, cũng chẳng mê mờ hoang mang, mà hoan hỷ tin nhận. Những lời nói ra đều vì lợi ích, biết chừng mực mà nói, lời nói nhỏ nhẹ êm ái, ít ngủ nghỉ, không hiện phiền não; ra vào qua lại tâm chẳng mê lầm, thường luôn an trụ chánh niệm chánh tri; đi đứng oai nghi cũng đều như thế. Dạo bước đi đến đâu cũng đều quán sát nơi ấy, an tường buộc niệm, nhìn thẳng mà đi. Nói năng, cử động thường không gấp gáp, vụt chạc. Các đồ dùng về ngọa cụ, y phục luôn sạch sẽ, thơm tho, không có các mùi hôi hám, cũng không cáu bẩn, hay có các loài trùng như rận, rệp v.v… Thường ưa thanh nhàn, luôn không tật bệnh, trong thân không có tám vạn loại trùng. Vì sao? Vì căn lành của Bồ-tát này càng tăng, vượt khỏi thế gian. Căn lành như thế dần dần tăng trưởng; như thế như thế thân tâm thanh tịnh.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tâm Bồ-tát này vì sao thanh tịnh?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này căn lành như thế dần dần tăng trưởng, trong tâm vĩnh viễn không còn tất cả những việc nịnh hót, quanh co, kiêu căng, lừa dối; đều như thế, như thế … Do nhân duyên ấy, tất cả phiền nãobất thiện khác vĩnh viễn dứt hết, cũng vượt qua địa vị Thanh vănĐộc giác, mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do vậy nên biết, tâm thường thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này không trọng lợi dưỡng, không màng tiếng khen, tâm xa lìa keo kiệt, ghen ghét; thân không lỗi lầm, nghe pháp sâu xa tâm không hề nhầm lẫn, trí tuệ càng bền vững, cung kính tin nhận. Theo sự lắng nghe đều có thể hội nhập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các việc tạo tác sự nghiệpthế gian cũng nương phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà hội nhập pháp tánh, không thấy có một việc nào ra khỏi pháp tánh. Giả sử có thì không tương ưng với pháp tánh, cũng thường phương tiện hội nhập lý thú sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do vậy không thấy ra khỏi pháp tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này giả sửác ma hiện trước mặt, hóa làm tám địa ngục lớn, trong mỗi địa ngục hóa làm vô lượng trăm ngàn Bồ-tát, đều bị lửa dữ xen nhau đốt cháy, bảo Bồ-tát: “Các Bồ-tát này đều do được thọ ký đắc Bất thối chuyển nên đọa trong địa ngục lớn như thế, thường chịu khổ lớn dữ dội như thế. Các bạn đã được thọ ký Bất thối chuyển, sẽ như hạng này, chịu khổ lớn như thế. Thế nên các bạn hãy mong chóng rời bỏ tâm đại Bồ-đề mới có thể thoát khỏi khổ này, sẽ được sanh lên trời hoặc sanh trong loài người, giàu sang phú quý, tự do thọ lãnh các thú vui.”

Khi ấy, các Bồ-tát thấy nghe việc này, tâm Bồ-tát chẳng lay động, cũng chẳng kinh sợ, chỉ nghĩ: Nếu các Bồ-tát đã được thọ ký Bất thối chuyển Bồ-đề mà lại đọa nẻo ác, chịu các khổ não như phàm phu ngu si thì chắc chắn không có lẽ đó. Việc thấy nghe này nhất định là do ác ma tạo ra, nói ra, đều chẳng phải có thật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này giả sửác ma giả làm Sa-môn, đi đến chỗ người đó nói thế này: “Bạn trước đây đã nghe và thọ trì, đọc tụng kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đều là tà thuyết. Nên mau xả bỏ, chớ cho là chơn thật. Các bạn nếu có thể mau xả bỏ thì ta sẽ dạy các bạn Phật pháp chơn tịnh, làm cho các bạn mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Những gì bạn đã nghe trước đây chẳng phải thật là lời của Phật dạy. Những văn tụng như thế ghi chép luống dối. Những điều ta nói mới đúng là lời Phật dạy.”

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát nghe lời như thế, tâm dao động, kinh sợ, nghi ngờ, thì nên biết chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu các Bồ-tát nghe lời như vậy, tâm chẳng sợ hãi, nghi ngờ, chỉ theo pháp tánh vô tác, vô tướng, vô sanhan trú, thì nên biết đã được thọ ký Bất thối chuyển. Các Bồ-tát này có làm việc gì, chẳng tin lời người khác, chẳng theo sự chỉ dạy của người khác mà bị chuyển theo; như A-la-hán làm việc gì chẳng tin lời người khác, luôn chứng pháp tánh, không nghi, không lầm, tất cả ác ma chẳng thể lay động. Bồ-tát Bất thối cũng thế, tất cả Thanh văn, Độc giác, ngoại đạo, các ác ma v.v... chẳng thể phá hoại làm cho thối lui Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này giả sửác ma đi đến chỗ họ, dối hiện làm bạn thân, dối nói thế này: “Việc các bạn thực hành là pháp sanh tử, chẳng phải là hạnh Bồ-đề. Nay các bạn nên tu đạo tận khổ, mau dứt các khổ, được Bát Niết-bàn, thân khổ hiện tại còn nên nhàm chán, xả bỏ, huống lại ưa thích chịu thân khổ đương lai? Nên suy xét kỹ, bỏ sự tin tưởng trước đây.”

Các Bồ-tát này khi nghe lời ấy, tâm chẳng kinh sợ, nghi ngờ, chỉ nghĩ: Nói như thế, nhất địnhác ma.

Ác ma lại bảo Bồ-tát: “Muốn nghe hạnh vô ích của Bồ-tát chăng? Nghĩa là các Bồ-tát trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, đem vô lượng các thứ đồ thượng diệu cúng dường chư Phật đầy đủ. Lại ở chỗ chư Phật nhiều như cát sông Hằng, tu vô lượng các phạm hạnh khó thực hành, gần gũi phụng thờ chư Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng. Thưa hỏi vô lượng, vô biên Bồ-tát việc nên tu học, nên an trú thế nào, nên hành thế nào, nên học thế nào, các đạo Bồ-tát? Chư Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, như điều thưa hỏi, thứ tự giải đáp. Các Bồ-tát kia như lời dạy mà an trú, như lời dạy mà thực hành, như lời dạy mà học tập, trải qua vô lượng kiếp còn chẳng thể chứng sở cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, huống nay các bạn có thể chứng đắc?”

Bấy giờ Bồ-tát nghe nói như thế, nhưng tâm chẳng dao động, cũng chẳng nghi ngờ. Khi ấy ác ma ở ngay chỗ ấy lại hóa làm vô lượng hình tướng Bí-sô, bảo Bồ-tát: “Các Bí-sô này ở quá khứ trải qua vô số kiếp, tu vô lượng các pháp hạnh khó thực hành, nhưng không thể đắc Vô thượng Bồ-đề, nay đều thối lui, trụ quả A-la-hán, thì làm sao các bạn có thể chứng Bồ-đề?”

Các Bồ-tát này thấy, nghe việc như vậy xong, liền nghĩ: Nhất định đây là ác maquấy rối ta nên làm những việc như thế. Nhất định không có Bồ-tát tu hạnh Bát-nhã ba-la-mật-đa đạt đến địa vị viên mãn mà chẳng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lui trụ địa vị Thanh văn, Độc giác v.v...

Lại nghĩ: Nếu các Bồ-tát như lời Phật đã dạy, tu hạnh Bồ-đề mà chẳng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì chắc chắn không có lẽ đó. Nên biết, những điều thấy, nghe của ngày hôm nay nhất định là của ác ma làm ra, nói ra.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này giả sửác ma làm ra hình tướng Bí-sô đi đến chỗ vị ấy nói thế này: “Trí nhất thiết trí cùng hư không đồng nhau, lấy không tánh làm tánh, tự tướng vốn không. Các pháp cũng như thế, hoàn toàn không sở hữu, trong đây không có pháp nào có thể gọi là năng chứng, cũng không có pháp nào có thể gọi là sở chứng, nơi chốn chứng, thời gian chứng và do đây chứng, đều không thể đắc. Tất cả pháp cùng hư không đã đồng nhau, lấy không tánh làm tánh, tự tướng vốn không, thì các bạn vì lẽ gì cam chịu khổ nhọc cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề một cách luống uổng? Trước đây bạn đã nghe các chúng Bồ-tát, nên cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đều là ma nói, chẳng phải thật là lời của Phật dạy. Các bạn nên bỏ tâm đại Bồ-đề, chớ dối vì người luống chịu khổ nhọc.”

Khi nghe người kia nói, các Đại Bồ-tát này có thể biết như thật đó là việc của ác ma muốn làm thối thất tâm đại Bồ-đề của ta. Ta phải nên bền vững tâm chí, chẳng nên tin lời ác ma nói.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này nếu muốn điều tâm, nhập bốn tịnh lự, tùy ýthể nhập, an trú tự tại; vì độ hữu tình nên sanh trở lại cõi Dục, tuy sanh lại cõi Dục nhưng chẳng nhiễm dục, cũng chẳng thối mất sự tu tịnh lự.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này chẳng quý danh tiếng, chẳng đắm khen ngợi, đối với các loài hữu tình không có tâm sân giận, thường muốn làm cho hữu tình được lợi ích an vui thù thắng, qua lại vào ra tâm không tán loạn, đi đứng tới lui oai nghi thường trụ chánh niệm, vì hữu tình nên tuy ở tại nhà nhưng chẳng tham đắm nơi đó, mặc dù hiện thọ dục lạc nhưng thường chán sợ, như đi qua đường nguy hiểm tâm luôn kinh sợ, dù có sự ăn uống nhưng lo sợ chẳng yên, chỉ nghĩ: Khi nào mới ra khỏi chỗ hiểm nạn này! Tuy hiện thọ dụng các thứ của báu nhưng chẳng tham ái, chẳng dùng tà mạng phi pháp để nuôi sống. Thà tự vẫn mà chết, không tổn hại người. Vì sao? Vì các Bồ-tát này hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, là tôn quý trong loài người, là thiện sĩ trong loài người, là long tượng trong loài người, là hoa sen trong loài người, là Điều ngự trong loài người, là dõng kiện trong loài người; vốn vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình, hiện ở tại nhà phương tiện làm lợi ích, đâu vì việc tự nuôi sống mà làm tổn hại người. Vì sao? Vì các Bồ-tát này được năng lực phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này có chủ thần Dược-xoa cầm chùy Kim cang thường theo hai bên âm thầm bảo vệ, không để tất cả oai lực tà mị của nhơn phi nhơn v.v... làm tổn hại thân tâm. Do nhân duyên này, các Bồ-tát này mới đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thân ý thư thái, thường không cuồng loạn, đủ tướng trượng phu, các căn viên mãn, tâm thực hành đều thiện, thường tu tịnh mạng, chẳng hành huyễn thuật, xem tướng tốt xấu, chú cấm quỷ thần, hòa hiệp thuốc thang, dụ gạt tôi tớ, kết thân với người giàu sang, khinh lờn Thánh hiền, gần gũi nam nữ, chẳng vì danh lợi mà khen mình chê người, chẳng đem tâm nhiễm nhìn ngắm, cười giỡn, giới kiến thanh tịnh, chí tánh thuần chất.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này đối với văn chương, kỹ nghệ của thế gian tuy giỏi giang, khéo léo, nhưng chẳng ưa đắm, vì thấu đạt tất cả pháp chẳng thể đắc vậy; đều xa lìa sự thu nhiếp của lời tạp uế, tà mạng. Đối với các sách luận của thế tục ngoại đạo, tuy cũng biết tất cả nhưng chẳng ưa đắm, vì thông đạt tất cả pháp bản tánh là Không. Lại các sách luận của thế tục ngoại đạo lý sự thuyết ra có nhiều tăng giảm, chẳng phải tùy thuận đạo Bồ-tát vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này có các tướng hành trạng khác, Ta sẽ phân biệt, chỉ dạy cho ông. Đó là: Bồ-tát kia hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đạt các pháp đều Không, nên chẳng ưa quan sát, luận nói các việc, như là việc vua, việc giặc, việc quân, việc chiến tranh, thành ấp, xóm làng, voi ngựa, xe cộ, y phục, ăn uống, giường nệm, hương hoa, nam nữ tốt xấu, vườn rừng, ao, hào, núi, biển... Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc của quỷ thần, Dược-xoa, La-sát-sa v.v... Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc ở ngã tư đường, chợ búa, hàng quán, lầu gác, cửa hàng buôn bán... Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc ca múa, hát xướng, đùa giỡn... Chẳng ưa quan sát, luận nói các việc đảo lớn, đảo nhỏ, thuyền bè, cầu cống, châu báu... Chẳng ưa quán sát, luận nói các việc ngày giờ, sao hạn, gió mưa, lạnh nóng, tốt xấu... Chẳng ưa quán sát, luận nói vô số các việc nghĩa pháp, văn tụng trái nhau... Chẳng ưa quán sát, luận nói các việc tương ưng với phàm phu, Độc giác, Thanh văn. Chỉ ưa quán sát, luận nói các việc tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát này thường chẳng xa lìa tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thường chẳng xa lìa tâm trí nhất thiết, chẳng ưa trái chống, ưa giảng hòa việc tranh tụng, thường mong cầu chánh pháp, chẳng ưa phi pháp, thường hâm mộ bạn tốt, chẳng ưa bạn xấu, ưa nói pháp, xa lìa nói phi pháp, vui được thấy Như Lai, mừng được gặp chúng xuất gia. Cõi nước trong mười phươngPhật Thế Tôn tuyên thuyết pháp yếu, nguyện được sanh đến đó, gần gũi cúng dường, lắng nghe chánh pháp. Các Bồ-tát này phần nhiều từ cõi trời Dục giới, Sắc giới sanh đến cõi người trong nước châu Thiệm-bộ, giỏi về kỹ nghệ, chú thuật, kinh thơ, địa lý, thiên vănnghĩa lý các pháp; hoặc sanh ở biên giới của thành lớn, nước lớn, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này hoàn toàn chẳng tự nghi: Ta thối chuyển hay là Bất thối chuyển. Đối với pháp ở địa vị của mình cũng chẳng sanh nghi ngờ là có hay là không có. Đối với các việc ma, có thể hiểu rõ hoàn toàn. Như Dự lưu, đối với pháp ở địa vị của mình hoàn toàn chẳng nghi ngờ. Giả sửác ma dùng đủ cách mê loạn cũng chẳng thể làm lay động. Như có tạo tác nghiệp vô gián thì tâm vô gián kia thường theo đuổi luôn cho đến chết, chẳng thể rời bỏ. Giả sử khởi lên tâm khác cũng chẳng thể ngăn chận được. Các Bồ-tát này cũng như thế, tâm chẳng thối chuyển, thường theo đuổi, luôn an trụ địa vị của Bồ-tát Bất thối chuyển. Trời, người, A-tố-lạc v.v... trong thế gian chẳng thể lay động, phá hoại pháp của mình đã đắc. Đối với các nghiệp ma, có thể biết rõ hoàn toàn, trong sự chứng pháp thường chẳng nghi ngờ. Tuy sanh đời khác, cũng chẳng phát sanh tâm tương ưng với Thanh văn, Độc giác. Cũng chẳng tự nghi: Ta ở tương lai có thể chứng Vô thượng Phật Bồ-đề. Chẳng an trụ ở địa vị của mình, chẳng theo duyên khác. Đối với pháp ở địa vị của mình chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thành tựu trí không động, không thối chuyển, nên tất cả duyên xấu chẳng thể lay động. Tâm người đó bền vững giống như Kim cang.

Giả sửác ma giả hình tướng Phật, đi đến chỗ người đó bảo: “Bạn nên cầu quả A-la-hán, dứt sạch các lậu, nhập Niết-bàn, bạn chưa thể nhận thọ ký đại Bồ-đề, cũng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn, bạn chưa có các tướng hành trạng của địa vị Bất thối chuyển. Như Lai chẳng nên thọ ký cho bạn Vô thượng đại Bồ-đề.” Khi các Bồ-tát này nghe lời ấy, tâm không biến động, cũng chẳng thối thất, không kinh, không sợ, chỉ nghĩ: Đây nhất định là ma hoặc quyến thuộc của ma hóa làm hình tướng Phật đi đến chỗ ta nói như thế. Nếu thật là lời Phật nói thì lẽ ra không nên sai khác.

Nếu khi các Bồ-tát nghe lời kia, nên quán sát, nhớ nghĩ như vầy: Đây nhất địnhác ma hóa làm hình tướng Phật, làm cho ta xa lìa Bát-nhã sâu xa, làm cho ta rời bỏ Vô thượng Bồ-đề. Vì thế, ta không nên nghe theo lời nói kia. Khi ấy, ác ma kinh sợ, liền ẩn mất, thì các Bồ-tát này nhất định đã an trụ địa vị Bất thối chuyển. Chư Phật quá khứ từ lâu đã thọ ký cho người kia đại Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đầy đủ các tướng hành trạng của địa vị Bất thối chuyển, nên có thể biết rõ việc làm của ác ma, làm cho ma ẩn mất, không còn xuất hiện.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng, huống là của báu, bạn bè, quyến thuộc khác. Vì hộ trì chánh pháp nên tinh tấn, dõng mãnh, thường nghĩ: Chánh pháp này chính là pháp thân thanh tịnh của chư Phật, tất cả Như Lai cung kính, cúng dường. Ta hộ trì chánh pháp này chính là hộ trì pháp thân chư Phật.

Lại nghĩ: Chánh pháp như vậy thuộc về chư Phật Thế Tôn ba đời. Ta cũng dự vào số Phật ở đời vị lai. Phật đã thọ ký cho ta đại Bồ-đề. Chánh pháp của chư Phật chính ta đã có. Chính nay ta hộ trì chánh pháp của mình. Trong tương lai, khi được thành Phật, ta cũng tuyên thuyết pháp này cho hữu tình. Các Bồ-tát này thấy lợi ích như thế, hộ trì chánh pháp Như Lai đã thuyết, không tiếc thân mạng, quyến thuộc, của báu, tài vật cho đến đạt được Bồ-đề thường không mỏi mệt.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ-tát này nghe thuyết pháp Phật không nghi, không ngờ. Nghe xong, luôn luôn thọ trì không quên.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này chỉ nghe lời Phật dạy không nghi, không ngờ, luôn không quên, hay là nghe chánh pháp của Bồ-tát và Thanh văn cũng có thể như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này nghe ngôn ngữ, âm thanh, văn tự, nghĩa lý của khắp tất cả hữu tình đều có thể thông đạt, không nghi, không ngờ, luôn không quên mất. Vì sao? Vì các Bồ-tát này ở trong các pháp đắc Vô sanh nhẫn, đã thông suốt hoàn toàn thật tánh các pháp, nghe đều thuận tai và không nghi ngờ. Lại đắc văn trì Đà-la-ni, thường hay nhớ nghĩ hoàn toàn không quên mất.

Thiện Hiện nên biết! Đây là các tướng hành trạng của Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

 
XVII. PHẨM THAM HÀNH

01

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này thành tựu công đức lớn như thế. Thế Tôn có thể trải kiếp số như cát sông Hằng, thuyết các tướng hành trạng Bất thối chuyển. Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho các Bồ-tát an trụ trong đó, tu hạnh Bồ-đề mau được viên mãn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông nay có thể hỏi việc như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông.

Thiện Hiện nên biết! Nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, chẳng phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết-bàn, là sự biểu hiện của khái niệm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có pháp này được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay là tất cả pháp đều được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả các pháp khác cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu xa.

Thiện Hiện! Thế nào là sắc cho đến thức cũng gọi là sâu xa? Nghĩa là chơn như sâu xa nên sắc cho đến thức cũng gọi là sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc là chỗ không có sắc cũng gọi là sắc sâu xa, cho đến chỗ không có thức cũng gọi là thức sâu xa.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Đó là Phương tiện mầu nhiệm ngăn chặn năm uẩn, hiển bày Niết-bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nếu các Bồ-tát thường quán sát kỹ nghĩa xứ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế thì nghĩ: Ta nên y như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã chỉ dạy mà an trú. Ta nay nên như Bát-nhã ba-la-mật-đa đã giảng thuyết mà học. Các Bồ-tát này do thường nương tựa nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành cho đến trong một ngày số phước đức đạt được vô lượng, vô biên. Như có người tham dục, lại nhiều suy tư, cùng với người con gái đẹp hẹn hò. Người con gái kia bị trở ngại, không đến nơi đúng hẹn. Tâm mong mỏi của người ấy mãnh liệt, tuôn tràn.

Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tâm mong muốn của người kia hướng về nơi nào?

- Kính bạch Thế Tôn! Tâm mong muốn của người này hướng về người con gái kia. Nghĩa là nghĩ: Nàng ấy khi nào mới đến đây gặp nhau để cùng ta đùa giỡn vui chơi.

- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Người đó ngày đêm phát sanh bao nhiêu mong muốn?

- Kính bạch Thế Tôn! Người đó ngày đêm phát sanh rất nhiều mong muốn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, cho đến một ngày thì vượt thoát kiếp số trôi lăn sanh tử bằng với số lượng mong muốn phát sanh trải qua một ngày đêm của người tham dục kia.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này nương theo nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành thì tùy theo đó mà có thể giải thoát bao nhiêu tội lỗi thường làm trở ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, không lười nhác thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành trải qua một ngày đêm thì công đức đạt được, hơn công đức bố thí trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, trải qua một ngày đêm thì công đức đạt được, hơn công đức bố thí của các Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, đem các đồ cúng dường bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã, thì công đức đạt được, hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm đem pháp vi diệu bố thí cho các loài hữu tình thì công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần và các căn lành khác, công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần và các căn lành khác vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm tu các pháp tài thí, pháp thí, ở chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu các pháp tài thí, pháp thí, an trú chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày đêm duyên khắp công đức thiện căn của ba đời chư Phật và các đệ tử, hoà hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì công đức đạt được của các Bồ-tát này hơn công đức đạt được của các Bồ-tát lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trải qua số kiếp như cát sông Hằng duyên khắp thiện căn công đức của ba đời chư Phật và các đệ tử, hoà hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vô lượng, vô biên.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Lai thường thuyết: Chư hành đều là do phân biệt tạo ra, đều chẳng phải có thật, thì vì nhơn duyên gì các Bồ-tát này đạt được công đức vô lượng, vô biên?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng thường quán sát việc thiện đã làm là Không, không có sở hữu, hư vọng chẳng thật cũng như thế, chẳng có thể lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Đúng như thật, chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như vậy thì công đức đạt được ấy vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa vô lượng, vô biên, có gì sai khác?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nói vô lượng là ở trong đó lượng của nó dứt hẳn. Nói vô biên là số đó không thể đếm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có nhơn duyên nào, sắc cho đến thức cũng vô lượng, vô biên chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Cũng có nhơn duyên sắc cho đến thức vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên nào, sắc cho đến thức vô lượng, vô biên?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì sắc cho đến thức đều tánh Không, nên vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức Không, hay tất cả pháp đều Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta nói tất cả các pháp, không pháp nào là chẳng đều Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên là khái niệm về pháp nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vô lượng, vô biên là khái niệm về không, vô tướng, vô nguyện.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên có phải chỉ là không, vô tướng, vô nguyện; hay là còn có nghĩ khác?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ta đâu chẳng nói: Tất cả pháp môn, không pháp môn nào chẳng đều là Không?

Thiện Hiện thưa:

- Như Lai thường nói: Tất cả pháp môn, không pháp môn nào là chẳng đều Không.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Không, tức là vô tận. Không, tức là vô lượng. Không, tức là vô biên. Không, tức là nghĩa khác. Thế nên, Thiện Hiện! Tất cả pháp môn mặc dù có vô số lời nói sai khác nhưng nghĩa không khác.

Thiện Hiện nên biết! Lý không của các pháp hoàn toàn không thể nói. Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, hoặc nói vô biên, hoặc nói là không, hoặc nói là vô tướng, hoặc nói là vô nguyện, hoặc nói là vô tác, hoặc nói là vô sanh, hoặc nói là vô diệt, hoặc nói là chẳng phải có, hoặc nói là tịch tịnh, hoặc nói là lìa nhiễm, hoặc nói là Niết-bàn... Vô lượng các pháp môn như thế, nghĩa chơn thật chẳng khác, đều là Như Lai phương tiện diễn thuyết.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Hy hữu thay, kính bạch Thế Tôn! Thật tánh của các pháp phương tiện thiện xảo đều chẳng thể nói, nhưng vì hữu tình nên phương tiện chỉ ra. Như con hiểu nghĩa Phật dạy: Thật tánh các pháp đều không thể nói.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì tánh tất cả pháp đều rốt ráo Không, không ai có thể tuyên nói về rốt ráo Không ấy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa bất khả thuyết có tăng, có giảm chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì đáng ra bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không tăng, không giảm. Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa này cũng không tăng, không giảm thì Bồ-tát vì lẽ gì dùng Ba-la-mật-đa không tăng, không giảm cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, luôn gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Nếu sáu pháp Ba-la-mật-đa của các Bồ-tát tăng giảm thì chẳng thể gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nghĩa bất khả thuyết của Bát-nhã ba-la-mật-đa hoàn toàn không thêm bớt, nhưng các Bồ-tát hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng nghĩ sáu pháp Ba-la-mật-đa này có tăng, có giảm, mà nghĩ: Chỉ có danh, tướng; nghĩa là bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Bồ-tát này tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đem sáu pháp này tác ý tương ưng và nương vào đó phát khởi tâm và căn lành, bình đẳng ban cho các hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; như quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật nhiệm mầu sâu xaphát khởi hồi hướng. Do hồi hướng này, tăng thêm thế lực phương tiện thiện xảo, có thể chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Chơn như các pháp, gọi đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như các pháp không tăng, không giảm nên quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng không tăng giảm. Nếu các Bồ-tát thường an trụ tác ý tương ưng với chơn như như thế, thì gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như vậy, này Thiện Hiện! Nghĩa bất khả thuyết mặc dầu không thêm không bớt mà không thối thất tác ý chơn như. Bát-nhã ba-la-mật-đa mặc dầu không tăng, không giảm mà không thối thất sở cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các Bồ-tát an trú tác ý chơn như như thế, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, thì liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát này là tâm đầu tiên phát sanh có thể gần Bồ-đề; hay là tâm sau phát sanh có thể gần Bồ-đề? Nếu tâm đầu phát sanh gần Bồ-đề thì khi tâm đầu phát sanh, tâm sau chưa sanh. Như thế, không có nghĩa hòa hiệp. Nếu tâm sau phát sanh, có thể gần Bồ-đề thì khi tâm sau phát sanh, tâm đầu đã diệt mất, không có nghĩa hòa hiệp. Như vậy, pháp của tâm, tâm sở trước sau tới lui gạn tìm không có nghĩa hòa hiệp. Như thế thì làm sao có thể chứa nhóm được căn lành? Nếu các căn lành chẳng thể chứa nhóm được, thì làm sao Bồ-tát có thể gần Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Như khi đốt đèn thì ngọn lửa đầu đốt cháy tim đèn, hay ngọn lửa sau đốt cháy tim đèn?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như ý con hiểu thì chẳng phải ngọn lửa đầu có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa đầu. Chẳng phải ngọn lửa sau có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa sau.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Tim đèn có cháy chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế gian hiện thấy cái tim đèn thật có cháy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ-tát cũng như thế. Chẳng phải tâm đầu phát sanh được gần Bồ-đề, cũng chẳng lìa tâm đầu. Chẳng phải tâm sau phát sanh được gần Bồ-đề, cũng chẳng lìa tâm sau, mà các Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành tăng trưởng viên mãn nên được gần Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Duyên khởi như thế, lý thú sâu xa. Chẳng phải ngay các tâm phát sanh trước sau mà các Bồ-tát có thể gần Bồ-đề. Chẳng phải lìa các tâm phát sanh trước sau mà các Bồ-tát có thể gần Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Nếu tâm diệt rồi thì có sanh không?

Thiện Hiện thưa:

- Kính bạch Thế Tôn, không. Tâm đó đã diệt thì không thể sanh lại.

- Ý ông thế nào? Nếu tâm đã sanh thì pháp có diệt không?

- Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Nếu tâm đã sanh thì nhất địnhpháp diệt.

- Ý ông thế nào? Pháp có diệt, tâm chẳng phải diệt chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải. Pháp có diệt, tâm nhất định sẽ diệt.

- Ý ông thế nào? Pháp không diệt, tâm có thể sanh chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Pháp không diệt, tâm chẳng có nghĩa sanh.

- Ý ông thế nào? Pháp không sanh, tâm có thể diệt chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Pháp không sanh, tâm không có nghĩa diệt.

- Ý ông thế nào? Pháp không sanh diệt, tâm có thể sanh diệt chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, không. Pháp không sanh diệt, tâm không có nghĩa sanh diệt.

- Ý ông thế nào? Nếu pháp đã diệt rồi, diệt nữa được chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Nếu pháp diệt rồi thì chẳng thể diệt nữa.

- Ý ông thế nào? Nếu pháp sanh rồi, sanh nữa được chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng được. Nếu pháp sanh rồi, chẳng thể sanh nữa.

- Ý ông thế nào? Thật tánh các pháp có sanh diệt không?

- Kính bạch Thế Tôn, thật tánh các pháp không sanh, không diệt.

- Ý ông thế nào? Tâm an trú là như tâm chơn như chăng?

- Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Tâm an trú như thế là như tâm chơn như.

- Ý ông thế nào? Nếu tâm an trú chơn như, thì tâm như thế là chơn như, tánh như thật tế, thường trụ chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, tâm này chẳng chơn như, tánh như thật tế, thường trụ.

- Ý ông thế nào? Có phải chơn như các pháp rất sâu xa chăng?

- Kính bạch Thế Tôn! Đúng như thế. Chơn như các pháp rất là sâu xa.

- Ý ông thế nào? Có phải chính chơn như là tâm chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ông thế nào? Có phải lìa chơn như có tâm chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ông thế nào? Có phải tâm tức là chơn như chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ông thế nào? Có phải lìa tâm có chơn như chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ông thế nào? Có phải chơn như có thể thấy chơn như chăng?

- Kính bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ông thế nào? Ông thấy có thật chơn như không?

- Kính bạch Thế Tôn, không.

- Ý ông thế nào? Nếu các Bồ-tát luôn hành như thế, có phải là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không?

- Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Nếu các Bồ-tát thường hành như thế thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Quyển thứ 562
HẾT

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.