Tập 23 (Quyển 551-562)

09/05/201012:00 SA(Xem: 26961)
Tập 23 (Quyển 551-562)

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

TẬP 23 (Quyển 551-562)

 02

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nên thưa hỏi kỹ các Bồ-tát khác: “Bồ-tát làm thế nào để tu tập tất cả pháp Bồ-đề phần? Phát khởi tâm nào để làm cho Bồ-tát tu tập không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô khởi, vô tận, vô tánh, thật tế mà chẳng chứng đắc, nhưng vẫn tu Bát-nhã ba-la-mật-đa?”

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ-tát khác, khi được hỏi như vậy, mà trả lời: Các Đại Bồ-tát chỉ nên tư duy về Không, hoặc vô tướng, cho đến Niết-bàn, chứ chẳng chỉ dạy cần phải ghi nhớ, không từ bỏ tất cả hữu tình, cứu độ bằng phương tiện quyền xảo thù thắng, thì nên biết Bồ-tát đó chưa từng được chư Phật thọ ký về Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì các Bồ-tát đó chưa thể chỉ dạy, phân biệt rõ ràng về địa vị Bất thối chuyểnpháp tướng bất cộng của các chúng Bồ-tát. Vì chẳng biết rõ ràng người ta thưa hỏi về các hành, trạng, tướng của địa vị Bất thối chuyển, và cũng chẳng thể trả lời được.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Vả lại có nhân duyên biết được đó là các Bồ-tát Bất thối chuyển không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Cũng có nhân duyên để biết các Bồ-tát đó là Bất thối chuyển. Nghĩa là có Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc nghe hay chẳng nghe, cũng có thể trả lời đúng những điều người ta thưa hỏi trước đây, và có thể thực hành đúng các hạnh của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển. Do nhân duyên này biết Bồ-tát đó là Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì có nhiều Bồ-tát cầu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà lại ít có vị có thể trả lời đúng được?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tuy có nhiều Bồ-tát cầu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhưng ít có Bồ-tát được thọ ký đắc trí tuệ vi diệuđịa vị Bất thối chuyển. Nếu có vị nào được thọ ký như đây thì vị ấy có thể trả lời đúng.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này căn lành trong sáng, trí tuệ rộng sâu, thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… không thể phá hoại được, nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát cho đến trong giấc mộng cũng chẳng ưa thích các pháp trong ba cõi, cũng chẳng khen ngợi tất cả pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác. Tuy quán các pháp như những gì thấy trong giấc mộng nhưng đối với Niết-bàn không thủ, không chứng, thì nên biết đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ngồi tòa Sư tửthuyết pháp cho vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức chúng Bí-sô đang cung kính vây quanh, hoặc thấy tự thân có việc như vậy thì nên biết đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, có hào quang chiếu sáng rực rỡ bao chung quanh xa một tầm, cùng vô lượng chúng phóng lên giữa hư không, thị hiện các đại thần thông để giảng thuyết chánh pháp và hóa ra các vị hóa sĩ, bảo đi đến vô biên cõi Phật ở phương khác để thi hành các Phật sự, hoặc thấy tự thân có việc như vậy thì nên biết đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc các Bồ-tát trong giấc mộng thấy kẻ giặc dữ phá hoại thành ấp, hoặc thấy lửa cháy bùng lên thiêu đốt xóm làng, hoặc thấy sư tử, cọp, sói, thú dữ, rắn độc, bò cạp… muốn đến hại thân, hoặc thấy oan gia muốn chém đầu mình, hoặc thấy cha mẹ, vợ con, thân tộc sắp chết, hoặc thấy chính mình có các việc khổ sắp ép ngặt. Tuy thấy nhiều việc khủng bố đáng sợ như vậy, nhưng không kinh hãi, cũng không lo buồn. Từ giấc mộng thức dậy liền tư duy ba cõi chẳng chơn thật, tất cả đều như chiêm bao. Khi ta đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sẽ thuyết pháp cho các hữu tình biết: ba cõi đều hư vọng, như chiêm bao, thì nên biết đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc các Bồ-tát cho đến trong giấc mộng thấy có các loại hữu tìnhcảnh giới địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, liền nghĩ: Ta phải siêng năng tu tập các hạnh của Đại Bồ-tát để mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ở trong quốc độ của ta không có tên của những cảnh giới như địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Từ giấc mộng thức dậy cũng nghĩ như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này ngay khi thành Phật, quốc độ của các Ngài thanh tịnh, quyết định không có nẻo ác và tên của nẻo ác. Nên biết, đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát trong giấc mộng thấy lửa thiêu đốt các loài hữu tình trong địa ngục v.v… hoặc lại thấy thiêu đốt xóm làng, thành ấp, liền phát thệ nguyện: Nếu ta đã được thọ ký Bất thối chuyển, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nguyện lửa dữ này lập tức tắt ngay và biến thành mát mẻ. Nếu Bồ-tát này phát nguyện như vậy xong, trong giấc mộng thấy lửa ấy liền tắt, thì nên biết đây là Bồ-tát đã được thọ ký thành Bất thối chuyển. Nếu Bồ-tát này phát nguyện như vậy xong, mà trong giấc mộng thấy lửa không tắt ngay thì nên biết đây là Bồ-tát chưa được thọ ký thành Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi thức dậy, ngay khi đó thấy lửa dữ cháy bùng lên thiêu đốt các thành ấp, hoặc thiêu đốt xóm làng, liền nghĩ: Ta trong giấc mộng và ngay khi thức dậy, từng thấy tự thân có tướng các hành trạng của địa vị Bất thối chuyển nhưng chưa rõ thật hư, nếu điều ta thấy là thật có, thì nguyện lửa dữ này lập tức tắt ngay và biến thành mát mẻ.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Bồ-tát này phát thệ nguyện nói lời chân thật như vậy, bấy giờ lửa dữ lập tức tắt ngay, thì nên biết đây là Bồ-tát đã được thọ ký Bất thối chuyển. Còn nếu Bồ-tát này phát thệ nguyện nói lời chân thật như vậy mà lửa chẳng tắt ngay thì nên biết đó là Bồ-tát chưa được thọ ký thành Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát khi thức dậy thấy lửa đốt cháy các thành ấp, hoặc đốt cháy xóm làng, liền nghĩ: Ta trong giấc mộng, hoặc ngay khi thức giấc từng thấy mình có tướng các hành trạng của địa vị Bất thối chuyển. Nếu những điều ta thấy đó chắc chắn là thật có, thì nhất định ta sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện lửa lớn này lập tức tắt ngay và biến thành mát mẻ.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này phát thệ nguyện chân thật như vậy xong, bấy giờ lửa dữ không tắt ngay, còn đốt cháy từ nhà này lan qua nhà khác, từ làng này lan qua làng khác, lần lượt như vậy, lửa đó mới tắt, thì nên biết các Bồ-tát này chắc chắn đã được thọ ký Bất thối chuyển, nhưng bị đốt cháy là do các hữu tình đó tạo nghiệp phá hoại chánh pháp tăng trưởng. Hữu tình đó do nghiệp này, trước hết bị đọa nẻo ác, trong vô lượng kiếp chịu quả khổ nặng, nay được sanh trong loài người tiếp tục chịu dư báo tai ương kia, hoặc do nghiệp này sẽ đọa nẻo ác, trải qua vô lượng kiếp chịu quả khổ nặng, nay ở loài người chịu chút tai họa còn thừa ở đời trước. Nên biết, đây là tướng các Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Lại có tướng các hành trạng khác biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, Ta sẽ chỉ dạy, phân biệt rõ cho ông, ông nên lắng nghe và suy nghĩ kỹ.

Thiện Hiện thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy, chúng con rất muốn thích được nghe.

Phật bảo Thiện Hiện!

- Nếu các Bồ-tát thấy có nam tử, nữ nhơn, hoặc có đồng nam đồng nữ đang bị phi nhơn làm mê hoặc, chịu các khổ não chẳng thể xa lìa, liền nghĩ: Nếu các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ta đã được ý muốn thanh tịnh, thì thọ ký cho ta không thối lui nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu ta từ lâu phát ý muốn thanh tịnh cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì xa lìa ý nghĩ thành Thanh văn, Độc giác, chẳng đem ý nghĩ Thanh văn, Độc giác cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu ta đời sau chắc chắn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì luôn làm lợi ích an vui cho tất cả loài hữu tình cùng tận đời vị lai. Nếu các cõi trong mười phương hiện tại thật có vô lượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác thuyết giáo pháp chơn chánh lợi ích hữu tình, các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác kia thấy biết tất cả, hiểu rõchứng đắc tất cả, với tri kiến hiện có, các Ngài biết ý muốn sai biệt của tất cả hữu tình thì nguyện xin các Ngài dủ lòng từ bi chiếu soi những điều con đã nghĩ và chân thật chí thành thưa: “Nếu con chính thật có thể tu hạnh Bồ-tát, chắc chắn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp dứt trừ hẳn khổ sanh tử cho hữu tình thì nguyện nam tử, nữ nhơn này, hoặc đồng nam, đồng nữ này, không bị phi nhơn làm rối loạn, và phi nhơn vâng theo lời con nói, lập tức bỏ đi.” Các Bồ-tát này khi nói lời như vậy, nếu phi nhơn kia không đi thì nên biết đó là Bồ-tát chưa được thọ ký thành Bất thối chuyển. Nếu phi nhơn ngay khi đó bỏ đi thì nên biết đó là Bồ-tát đã được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát chưa tu hành đầy đủ tất cả Phật pháp, chưa nhập vào chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, chưa khỏi bị ác ma làm rối loạn, đối với các việc của ma chưa có thể biết rõ, chưa được thọ ký không thối lui Bồ-đề, chẳng thể tự xét biết căn lành nhiều ít, dày mỏng, đối với sự mới tu hành được chút ít đã phát sanh tăng thượng mạn, học theo các Bồ-tát phát lời thệ nguyện chơn thật chí thành, liền bị ác ma lừa gạt. Nghĩa là Bồ-tát kia thấy có nam tử, nữ nhơn, hoặc có đồng nam, đồng nữ đang bị phi nhơn làm mê hoặc, chịu các khổ não chẳng thể xa lìa được, liền khinh xuất phát lời thệ nguyện chơn thật chí thành: “Nếu ta đã được chư Phật quá khứ thọ ký đắc Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, khiến cho nam tử, nữ nhơn v.v… này không bị phi nhơn làm rối loạn. Phi nhơn kia vâng theo lời của ta, sẽ nhanh chóng bỏ đi.” Các Bồ-tát này nói như vậy xong, khi ấy ác ma vì dối gạt vị này liền xua đuổi, hối thúc, làm cho phi nhơn bỏ đi. Vì sao? Vì oai lực của ác ma mạnh hơn phi nhơn kia, nên phi nhơn vâng lời ma chỉ dạy, lập tức bỏ đi.

Khi Bồ-tát kia thấy những việc như vậy vui mừng hớn hở, nghĩ: Làm cho phi nhơn bỏ đi là nhờ oai lực của ta. Vì sao? Vì phi nhơn kia vâng theo lời thệ nguyện của ta, lập tức buông thả những nam tử, nữ nhơn này, chứ không do nguyên nhân nào khác.

Các Bồ-tát này chẳng thể biết rõ được đó là việc làm của ma nên bảo đây là do năng lực của mình, sanh vui mừng một cách sai lầm, dựa vào đây khinh chê các Bồ-tát khác, nói: “Ta đã được chư Phật quá khứ thọ ký đắc Bất thối chuyển Vô thượng Bồ-đề, lời thệ nguyện đã phát đều đầy đủ. Các ngươi chưa được chư Phật thọ ký, chẳng nên bắt chước mà phát lời thệ nguyện. Dầu cho có đặt kỳ hạn cũng hoàn toàn không có kết quả.”

Các Bồ-tát này chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác, ỷ vào một chút khả năng sai lầm, đối với các công đức sanh thêm nhiều thứ tăng thượng mạn nên xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không thể chứng đắc trí nhất thiết trí. Các Bồ-tát này do không có năng lực phương tiện thiện xảo nên sanh trưởng nhiều loại tăng thượng mạn, chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác, nên tuy siêng năng tinh tấn mà vẫn rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác.

Các Bồ-tát này phước đức mỏng nên đối với thiện nghiệp đã làm và phát lời thệ nguyện đều là hành động theo việc của ma.

Các Bồ-tát này chẳng thể gần gũi cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen các bậc thiện tri thức chơn chánh, chẳng thể thưa hỏi về hành tướng của Bồ-tát đắc Bất thối chuyển, và cũng không thể thưa hỏi và tiếp thu về sự nghiệp mà quân ác ma đã làm. Do đây bị ma trói buộc càng thêm bền chắc. Vì sao? Vì các Bồ-tát này chẳng tu hành lâu xa sáu pháp đến bờ kia, xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên bị ác ma lừa gạt. Vì vậy, Bồ-tát nên biết rõ hoàn toàn về việc khuyên tu thiện nghiệp của các ác ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát chưa tu hành lâu xa sáu pháp đến bờ kia, xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên bị ma lừa gạt. Nghĩa là có ác ma vì muốn lừa gạt nên phương tiện hóa làm các thứ hình tượng, đi đến chỗ Bồ-tát, nói thế này:

“Thiện nam tử ơi! Bạn có biết không? Chư Phật quá khứ đã từng thọ ký cho bạn thành đại Bồ-đề, bạn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quyết định sẽ đắc, chẳng còn thối lui. Tên tuổi sai khác trong bảy đời của bạn, cho đến cha mẹ, anh em, chị em, bạn bè, dòng họ, ta đều biết hết. Bạn sanh ở phương đó, nước đó, thành đó, ấp đó, trong xóm làng đó. Bạn sanh năm đó, tháng đó, ngày đó, giờ đó, sanh vào ngôi sao của Thiên Vương đó.”

Như vậy, nếu ác ma thấy Bồ-tát bẩm tánh yếu đuối, các căn ám độn, liền dối trá thọ ký:

“Bạn nơi đời trước bẩm thọ căn tánh đã từng như vậy.”

Nếu thấy Bồ-tát bẩm tánh kiên cường, các căn sáng suốt, lanh lợi, liền dối trá thọ ký:

“Bạn nơi đời trước bẩm thọ căn tánh cũng từng như vậy.”

Nếu thấy Bồ-tát ở A-lan-nhã hoặc thường khất thực, hoặc thọ ăn một bữa, hoặc khi ăn chỉ ngồi một lần, hoặc chỉ ăn một bát, hoặc ở nơi gò mã, hoặc ở chỗ đất trống, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc mặc y phấn tảo, hoặc chỉ ba y, hoặc thường ngồi không nằm, hoặc dùng phu cụ cũ, hoặc ít muốn, hoặc vui đủ, hoặc ưa viễn ly, hoặc ưa thiền định vắng lặng, hoặc đầy đủ chánh niệm, hoặc đầy đủ diệu tuệ, hoặc không trọng lợi dưỡng, hoặc chẳng quý danh tiếng, hoặc ưa cần kiệm, khiêm tốn, chân không xoa dầu, hoặc ít ngủ nghỉ, hoặc lìa trạo cử, thích nói ít, ưa nói lời nhẹ nhàng … Ác ma thấy Bồ-tát này với những hạnh như vậy rồi, liền dối trá thọ ký:

“Bạn nơi đời trước cũng đã từng như vậy. Vì sao? Vì bạn đang thành tựu như vậy. Như vậy, với công đức thù thắngthế gian đều thấy, thì biết rằng đời trước bạn chắc chắn cũng đã có những công đức thù thắng như vậy. Bạn nên tự vui mừng, chớ nên tự khinh.”

Bấy giờ, các Bồ-tát kia nghe ác ma nói về công đức quá khứ, vị lai và nói về công đức dòng họ, bạn bè, bản thân, tên tuổi v.v… hiện tại, cùng khen ngợi vô số thiện căn thù thắng của mình, vui mừng hớn hở, sanh tăng thượng mạn, chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác.

Bấy giờ ác ma biết vị đó ngu độn, tối tăm sanh tăng thượng mạn khinh miệt các Bồ-tát khác, lại bảo với vị đó:

“Bạn nhất định thành tựu công đức thù thắng. Các đức Như Lai quá khứ đã thọ ký cho bạn, bạn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quyết định sẽ chứng đắc, không còn thối lui vì đã có tướng điềm lành trong hiện tại hiện ra như vậy.

Bấy giờ ác ma vì làm rối loạn nên dối gạt hóa hiện những hình tướng: hình tướng người xuất gia, hoặc hình tướng người tại gia, hoặc cha mẹ, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc, bạn bè thân hữu, Phạm chí, Sư chủ, Thiên long, Dược-xoa, nhơn phi nhơn v.v… đi đến chỗ Bồ-tát nói như vầy:

“Các đức Như Lai quá khứ từ lâu đã thọ ký cho bạn thành đại Bồ-đề. Bạn đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quyết định sẽ chứng đắc không còn thối lui. Vì sao? Vì các hành tướng của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển, bạn đều có đủ nên tự tôn trọng, chớ sanh nghi ngờ.”

Khi Bồ-tát này nghe những lời của ác ma xong, lòng tăng thượng mạn lại càng vững chắc thêm.

Thiện Hiện nên biết! Như Ta đã nói, tướng các hành trạng của bậc Bất thối chuyển, các Bồ-tát này thật tình chưa có.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này bị ma nắm giữ, bị ma làm rối loạn, chẳng được tự tại. Vì sao? Vì các Bồ-tát này đối với tướng các hành trạng của bậc Bất thối chuyển thật tình đều chưa có, chỉ nghe ác ma dối trá nói về công đứctên tuổi v.v… sanh tăng thượng mạn, chê bai khinh miệt các Bồ-tát khác.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu các Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên biết rõ về các việc làm của ác ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát bị ma khống chế, bị ma mê hoặc, chỉ nghe danh tự, sanh chấp trước sai lầm. Vì sao? Vì các Bồ-tát này chưa tu hành đầy đủ sáu pháp đến bơ kia và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, do nhân duyên này nên làm cho ma được dễ dàng. Các Bồ-tát này không thể biết rõ năm thủ uẩn v.v… và vô lượng pháp môn khác. Cũng chẳng biết rõ thật tướng các pháp danh tự hữu tình, do nguyên nhân này làm cho ma được dễ dàng phương tiện hóa làm vô số hình tượng bảo Bồ-tát:

“Hạnh nguyện tu hành của bạn đã viên mãn, sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, khi bạn thành Phật sẽ đạt công đức danh hiệu như vậy.”

Nghĩa là ác ma kia biết Bồ-tát này luôn luôn suy nghĩ, ước nguyện: Khi ta thành Phật sẽ được công đức danh hiệu như vậy. Theo sự ước nguyệnthọ ký cho Bồ-tát đó.

Khi Bồ-tát này xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, phương tiện thiện xảo, nghe ma thọ ký nên suy nghĩ: Lạ thay! Người này thọ ký cho ta sẽ thành Phật với công đức danh hiệu cùng tương ứng với ước nguyện từ lâu của ta. Do đây nên biết, chư Phật quá khứ chắc chắn đã thọ ký cho ta thành đại Bồ-đề. Ta đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề quyết định sẽ đạt được, không còn thối lui. Khi ta thành Phật nhất định sẽ được công đứcdanh hiệu tôn quý như vậy.

Các Bồ-tát này như vậy, ác ma hoặc quyến thuộc của ma, hoặc các Sa-môn v.v… bị ma khống chế, thọ ký đời sau sẽ thành Phật với danh hiệu như vậy, như vậy … thì kiêu mạn càng tăng, nghĩ: Ta đời vị lai chắc chắn sẽ thành Phật, đạt được công đức danh hiệu như vậy. Các Bồ-tát khác không thể bằng ta.

Thiện Hiện nên biết! Như Ta đã nói, các tướng hành trạngđịa vị Bất thối chuyển, các Bồ-tát này đều chưa thành tựu, chỉ nghe ma nói thành Phật với danh hiệu hư dối liền sanh kiêu mạn, khinh miệt, chê bai các Bồ-tát khác. Do đó mà các Bồ-tát này xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, các Bồ-tát này xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, lìa bỏ bạn lành, bị bạn ác khống chế nên phải rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác .

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này nếu có thân này, lại được chánh niệm, chí thành sám hối lỗi lầm, lìa bỏ tâm kiêu mạn, gần gũi cúng dường thiện hữu chơn tịnh thì người đó dù luân hồi trong sanh tử nhiều đời, nhưng cuối cùng lại nương theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, lần lượt tu học sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này nếu có thân này mà chẳng đắc chánh niệm, chẳng thể sám hối lỗi lầm, chẳng lìa bỏ tâm kiêu mạn, chẳng ưa nương gần bạn lành chơn tịnh thì những Bồ-tát đó nhất định luân hồi trong sanh tử nhiều đời, sau dù có tinh tấn tu tập các thiện nghiệp nhưng vẫn rơi vào điạ vị Thanh văn hoặc Độc giác. Ví như Bí-sô cầu quả Thanh văn, đối với bốn tội trọng, nếu phạm một tội nào thì liền chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải là đệ tử của đức Thích-ca. Người đó ngay hiện tại nhất định chẳng thể đắc quả Dự lưu v.v… vọng chấp hư danh Bồ-tát cũng như vậy, chỉ nghe ma nói thành Phật với danh suông liền sanh tâm kiêu mạn, khinh miệt, chê bai các chúng Bồ-tát khác. Nên biết, tội này nặng hơn tội Bí-sô hủy phạm bốn tội trọng gấp vô số lần.

Để việc Bí-sô phạm bốn tội trọng qua một bên, tội của Bồ-tát này hơn tội ngũ vô gián cũng gấp vô lượng lần. Vì sao? Vì các Bồ-tát này thật sự chẳng có các công đức thù thắng, nghe ác ma nói về việc thành Phậtdanh tự hư thối, liền kiêu mạn, khinh chê các Bồ-tát khác. Do đó nên tội này hơn tội ngũ vô gián gấp vô lượng lần. Do đây nên biết, nếu các Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên biết rõ về sự thọ ký với danh hiệu hư dối, là việc làm vi tế của ma.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ-tát tu hạnh viễn ly, nghĩa là ẩn nơi núi rừng đầm trống, đồng hoang vu, ở A-lan-nhã, ngồi yên tịnh tư duy. Bấy giờ ác ma đi đến chỗ Bồ-tát đó cung kính khen ngợi công đức viễn ly, nói thế này:

“Lành thay Đại sĩ! Thường tu hạnh chơn thật viễn ly như vậy. Hạnh viễn ly này tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều khen ngợi trời Đế Thích v.v… và các chư Thiên, thần tiên cùng nhau bảo vệ cúng dường, tôn trọng nên thường ở nơi đây, chớ đi nơi khác.”

Thiện Hiện nên biết! Ta không khen ngợi các chúng Bồ-tát thường ưa thích tịch tịnh, ở A-lan-nhã, hoặc ở núi rừng đầm trống, đồng hoang vu, ngồi yên tịnh tư duy, tu hạnh viễn ly.

Khi ấy Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các chúng Bồ-tát nên tu tập những hạnh chân thật viễn ly như thế nào mà Phật Thế Tôn nay dạy: Ta chẳng khen ngợi các chúng Bồ-tát thường ưa thích tịch tịnh ở A-lan-nhã, núi rừng đồng trống, ngồi yên tịnh tư duy tu hạnh viễn ly.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát hoặc ở chỗ núi rừng đầm trống, đồng hoang vu, chỗ vắng vẻ, hoặc ở thành ấp, xóm làng, phố thị, chỗ huyên náo tạp loạn nhưng luôn xa lìa phiền não ác nghiệp và các ý nghĩ của Thanh văn, Độc giác, thực hành sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa, phương tiện quyền xảo và tu các công đức thù thắng khác thì đây gọi là Bồ-tát hành hạnh chơn thật viễn ly. Hạnh viễn ly này, tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng khen ngợi, chư Phật Thế Tôn đều cho phép, các chúng Bồ-tát thường nên tu học. Dù ngày hay đêm phải chánh tư duy, tinh tấn tu hành pháp viễn ly này. Đây gọi là Bồ-tát tu hạnh viễn ly, hạnh viễn ly này không xen lẫn ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, không xen lẫn tất cả phiền não ác nghiệp, xa lìa các sự huyên náo tạp loạn, hoàn toàn thanh tịnh, làm cho các Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể cứu độ các hữu tình cùng tận đời vị lai.

Thiện Hiện nên biết! Người ở ẩn chốn núi rừng đầm trống, đồng hoang vu, bỏ đồ nằm tốt, ngồi yên tịnh tư duy mà được ma khen ngợi thì chẳng phải hạnh chơn thật viễn ly của các Bồ-tát. Vì sao? Vì hạnh viễn ly đó còn có huyên náo tạp loạn, nghĩa là Bồ-tát hoặc xen lẫn phiền não ác nghiệp, hoặc xen lẫn ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phương tiện thiện xảo không thể tinh tấn lãnh thọ tu học, nên không thể viên mãn trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Có các Bồ-tát mặc dầu ưa tu hành pháp hạnh viễn ly, được ma khen ngợi, nhưng sanh kiêu mạn, tâm chẳng thanh tịnh, chê bai khinh miệt các chúng Đại Bồ-tát khác, nghĩa là có chúng Đại Bồ-tát tuy ở thành ấp, xóm làng, phố thị nhưng tâm thanh tịnh, không xen lẫn các thứ phiền não ác nghiệp và các ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, tinh tấn tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đavô lượng pháp Bồ-đề phần khác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tuy ở chỗ ồn ào náo nhiệt mà tâm vẫn vắng lặng, thường ưa thích tu tập hạnh chơn thật viễn ly. Bồ-tát đó đối với chúng Đại Bồ-tát chơn tịnh như đây, tâm sanh kiêu mạn, khinh miệt, chê bai, hủy báng, lăng nhục.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này vì xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên mặc dầuđồng không mông quạnh, cách trăm do-tuần, trong đó tuyệt nhiên không có các loài cầm thú, rắn rít, bọ cạp độc hại và giặc cướp hung ác, chỉ có quỉ thần, La-sát-bà v.v… qua lại trong đó. Người kia ở chỗ vắng vẻ như vậy, dầu trải qua một năm, năm năm, mười năm cho đến trăm ngàn vạn ức hoặc hơn số này để tu hạnh viễn ly nhưng chẳng biết rõ hạnh viễn ly chơn thật. Nghĩa là các Bồ-tát tuy ở chỗ ồn ào náo động mà tâm vắng lặng, xa lìa các thứ phiền não ác nghiệp và các ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, phát tâm hướng thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này tuy ở chốn đồng không mông quạnh trải qua thời gian lâu dài nhưng bị xen lẫn ý nghĩ Thanh văn, Độc giác, nên đối với hai địa vị kia sanh đắm trước, nương vào pháp hai địa vị kia tu hạnh viễn ly, lại đắm nhiễm vào hạnh này. Bồ-tát đó tuy tu hạnh viễn ly như vậy nhưng chẳng được gọi là thuận với tâm của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Hạnh viễn ly chơn thật của các chúng Bồ-tát mà được ta khen ngợi, các Bồ-tát này đều chẳng thành tựu, thì họ đối với hạnh viễn ly chơn thật cũng không thấy có hành tướng giống nhau. Vì sao? Vì Bồ-tát này đối với hạnh viễn ly chơn thật này chẳng thích, chỉ ưa siêng tu hạnh viễn ly suông của Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này khi tu hạnh không viễn ly chơn thật, ma đến giữa không trung vui mừng khen ngợi, bảo:

“Lành thay! Lành thay Đại sĩ! Ngài siêng tu hạnh viễn ly chơn thật. Hạnh viễn ly này được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khen ngợi, ngài đối với hạnh này nên siêng năng tu học sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.”

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này chấp trước vào sự tu hành pháp viễn ly của Nhị thừa như vậy cho là hơn hết, nên khinh chê, miệt thị vị trụ Bồ-tát thừa tuy ở chỗ ồn náo mà tâm vắng lặng, thành tựu thiện pháp.

Các Bí-sô thưa:

- Bồ-tát kia chẳng thể tu hạnh viễn ly, thân ở chỗ ồn náo, tâm không tịch tịnh, không tùy thuận theo thiện pháp.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối với các Đại Bồ-tát hành hạnh viễn ly chơn thật mà được Phật đã khen ngợi thì lại khinh chê miệt thị, bảo là ở chỗ ồn náo, tâm chẳng vắng lặng, không thể siêng năng tu hạnh viễn ly chơn thật. Còn đối với các Đại Bồ-tát thực hành theo hạnh ồn tạp chơn thật, các đức Như Lai không khen ngợi thì lại tôn trọng, khen ngợi, bảo: Tâm người đó vắng lặng, không ồn náo, có thể tu hành đúng đắn hạnh viễn ly chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối với bậc nên gần gũi cung kính, cúng dường như đấng Thế Tôn, nhưng chẳng gần gũi cung kính, cúng dường, trái lại càng khinh chê miệt thị; còn đối với hạng phải nên xa lìa, chẳng nên gần gũi cung kính, cúng dường, như bạn ác, thì lại gần gũi cung kính, cúng dường như phụng thờ đấng Thế Tôn.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát sanh vô số phân biệt chấp trước sai lầm. Vì sao? Vì Bồ-tát kia nghĩ: Sự tu học của ta là viễn ly chơn thật nên được phi nhơn khen ngợi, ủng hộ. Còn kẻ ở thành ấp thân tâm rối loạn, ai mà hộ niệm, khen ngợi, kính trọng. Các Bồ-tát này do nhân duyên này, tâm nhiều kiêu mạn, khinh chê miệt thị các Bồ-tát khác, phiền não ác nghiệp ngày càng tăng thêm mãi.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ-tát này đối các Bồ-tát khác là bọn Chiên-đồ-la làm ô uế chúng Đại Bồ-tát. Mặc dầu hình tướng giống như Đại Bồ-tát nhưng là kẻ giặc lớn trên trời, trong loài người; dối gạt trời, người, A-tố-lạc v.v… Thân tuy mặc pháp y của Sa-môn nhưng tâm thường ôm ấp ý ưa như kẻ giặc. Những bậc phát tâm tới Bồ-tát thừa thì chẳng nên gần gũi, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi kẻ ác như thế. Vì sao? Vì bọn người này ôm lòng tăng thượng mạn, bề ngoài thì giống Bồ-tát nhưng bên trong lại nhiều phiền não.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chơn thật không bỏ trí nhất thiết trí, không bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hết lòng thích cầu trí nhất thiết trí, muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho khắp tất cả các loài hữu tình thì chẳng nên gần gũi, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi người ác như thế.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát này thường nên tinh tấn tu tập sự nghiệp để cho mình nhàm chán sanh tử, chẳng đắm ba cõi, đối với hạng người Chiên-đồ-la và ác tặc kia thường nên phát tâm từ bi hỷ xả. Nên nghĩ: Ta chẳng nên phát khởi tội lỗi như kẻ ác kia, giả sử lúc phải thất niệm, tạm khởi lên như họ, liền nên tỉnh giác làm cho mau trừ diệt.

Vậy nên Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát này muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải tỉnh giác hoàn toàn về việc của các ác ma, nên siêng năng tinh tấn xa lìa, trừ diệt tội lỗi như Bồ-tát đã tạo, siêng năng cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Người học như vậy, chính đó là Bồ-tát với phương tiện thiện xảo, như thật tỉnh giác về các việc của ác ma.

 
XXII. PHẨM THIỆN HỮU

01

Bấy giờ đức Thế Tôn lại bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát hết lòng muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường nên gần gũi, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi bạn lành chơn tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Những bậc nào gọi là bạn lành chơn tịnh của các Đại Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là bạn lành chơn tịnh của các chúng Đại Bồ-tát. Tất cả Đại Bồ-tát Bất thối chuyển cũng là bạn lành chơn tịnh của các chúng Đại Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát khác cùng các Thanh văn và thiện sĩ khác thường vì Bồ-tát giảng thuyết, chỉ dạy pháp môn tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, khuyên răn, dạy bảo các chúng Bồ-tát, làm cho gieo trồng căn lành, tu hạnh Bồ-tát mau được viên mãn, thì cũng là bạn lành chơn tịnh của chúng Đại Bồ-tát. Kinh điển tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng là bạn lành chơn tịnh của chúng Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên biết đó cũng là bạn lành chơn tịnh của các chúng Đại Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Như vậy, sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là thầy của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là bậc dẫn đường của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là ánh sáng của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là sự chiếu soi của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là nhà cửa của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là sự hộ trì của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là sự quy y của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là sự hướng đến của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là hòn đảo của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là cha lành của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa cũng là mẹ hiền của Đại Bồ-tát. Sáu pháp Ba-la-mật-đa thường làm cho chúng Đại Bồ-tát đắc được trí vi diệu, sanh giác ngộ chơn thật, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả chúng Đại Bồ-tát đều nhờ sáu pháp Ba-la-mật-đa mà tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa viên mãn hoàn toàn.

Thiện Hiện nên biết! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácquá khứ đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã Bát Niết-bàn. Phật Thế Tôn kia đều nương vào sáu pháp Ba-la-mật-đa mà sanh trí nhất thiết. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvị lai sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sẽ Bát Niết-bàn. Phật Thế Tôn kia cũng nương vào sáu pháp Ba-la-mật-đa mà sanh trí nhất thiết. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại trong mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới hiện đang chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hiện đang vì các hữu tình giảng thuyết chánh pháp. Phật Thế Tôn kia cũng nương sáu pháp Ba-la-mật-đa mà sanh trí nhất thiết. Nay Ta, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hiện đang tuyên thuyết chánh pháp cho các hữu tình cũng nương sáu pháp Ba-la-mật-đa mà sanh trí nhất thiết. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa này có thể bao gồm khắp tất cả ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, hoặc bốn phạm trụ, hoặc bốn nhiếp sự, hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp khác, hoặc trí chư Phật, hoặc trí tự nhiên, trí bất tư nghì, trí không đối địch, trí nhất thiết trí, tất cả đều bao gồm ở trong sáu pháp Ba-la-mật-đa này. Thế nên, Ta nói sáu pháp Ba-la-mật-đa này là bạn lành chơn tịnh của các chúng Đại Bồ-tát, là thầy chỉ dạy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là chiếu soi, là nhà cửa, là hộ trì, là nơi quy y, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cha lành, là mẹ hiền cho các chúng Đại Bồ-tát, luôn làm cho chúng Đại Bồ-tát đắc trí tuệ vi diệu, sanh giác ngộ như thật, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm bạn bè chẳng mong đền trả của các hữu tình.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên học sáu pháp Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn học sáu pháp Ba-la-mật-đa nên đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, quán sát nghĩa lý, cầu xin xác quyết sự nghi ngờ. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này thường cùng sáu pháp Ba-la-mật-đa là tôn trưởng, là đạo sư, là chỉ dạy, là hoán chuyển, là mẹ sanh đẻ nuôi dạy. Vì sao? Vì nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không có năm Ba-la-mật-đa trước. Tuy có bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, nhưng không được gọi là đến bờ kia.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn được hạnh chẳng theo người khác chỉ dạy, muốn trụ bậc chẳng theo người khác chỉ dạy, muốn dứt nghi cho tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện cho tất cả hữu tình, muốn nghiêm tịnh cõi Phật, muốn thành thục hữu tình thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này rộng nói về pháp cần nên học của chúng Đại Bồ-tát, tất cả chúng Đại Bồ-tát đối với kinh ấy đều nên siêng năng tu học. Nếu siêng năng tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, luôn làm lợi ích an vui cho chúng sanh cùng tận đời vị lai.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy gì làm tướng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa lấy không dính mắc làm tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu như có nhân duyên về tướng không dính mắc Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì các pháp có thể nói khác cũng có tướng không dính mắc sao?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Có nhân duyên nên Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xatướng không dính mắc. Tất cả các pháp khác mà có thể nói thì cũng có tướng không dính mắc này. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, là Không viễn ly.

Thế nên, này Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa do tướng không dính mắc, là Không viễn ly. Tất cả các pháp khác do tướng không dính mắc cũng Không viễn ly.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều Không viễn ly thì làm sao hữu tình có thể tạo ra có nhiễm có tịnh?

Kính bạch Thế Tôn! Chẳng phải pháp Không viễn ly, có thể nói có nhiễm có tịnh.

Kính bạch Thế Tôn! Chẳng phải Không viễn ly, có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chẳng phải xa lìa Không viễn ly mà có pháp khác có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Làm thế nào cho con hiểu về nghĩa thú thậm thâm của Phật đã dạy?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Hữu tình từ lâu có tâm ngã, ngã sởchấp ngã, ngã sở không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện thệ! Đúng vậy! Hữu tình từ lâu có tâm ngã, ngã sởchấp trước ngã, ngã sở.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Sự chấp trước về ngã và ngã sở của hữu tình Không viễn ly, phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện thệ! Đúng vậy! Hữu tình chấp ngãngã sở đều Không viễn ly.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Có phải chăng hữu tình do chấp ngã, ngã sở nên luân hồi sanh tử phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện thệ! Đúng vậy! Các loài hữu tình do vì chấp ngã, ngã sở nên luân hồi sanh tử.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hữu tình luân hồi sanh tử như vậy, nên tạo ra có tạp nhiễmthanh tịnh. Do các hữu tình chấp trước sai lầm về ngã và ngã sở nói có tạp nhiễm, nhưng ở trong đó không có sự tạp nhiễm. Do các hữu tình không bị chấp trước về ngã và ngã sở một cách sai lầm nên nói có thanh tịnh, nhưng trong đó không có sự thanh tịnh.

Thế nên, này Thiện Hiện! Tuy tất cả pháp đều Không viễn ly, nhưng các hữu tình cũng có thể tạo ra có nhiễm có tịnh.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát luôn thực hành như thế thì gọi là thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Thật kỳ lạ thay, kính bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, kính bạch Thiện Thệ! Tuy tất cả pháp đều Không viễn ly, mà các hữu tình có nhiễm có tịnh.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu các Đại Bồ-tát luôn thực hành như thế thì chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ, tưởng, hành, thức.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu các Đại Bồ-tát luôn thực hành như vậy thì thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… đều chẳng thể hàng phục được.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát luôn thực hành như vậy thì liền hơn sự tu hành của Thanh văn, Độc-giác, đạt đến chỗ không ai hơn. Vì sao? Vì tánh chư Phật và tánh Như Lai, tánh tự nhiên giác, tánh trí nhất thiết đều chẳng thể hơn được.

Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát do phát sanh ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa này nên ngày đêm an trụ phương tiện thiện xảo, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử tất cả hữu tình trong châu Thiệm-bộ này chẳng trước chẳng sau đều được thân người, được thân người rồi đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đã phát tâm rồi, tu các hạnh Đại Bồ-tát, đều chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… trọn đời đem các nhạc cụ thượng diệu trên thế gian cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi các đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này, lại đem thiện căn đã tu tập như thế bình đẳng ban cho các hữu tình cùng hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nhờ nhân duyên này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Những thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nào ở giữa đại chúng giảng thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trình bày, kiến lập, phân biệt, chỉ dạy, làm cho họ dễ hiểu và trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… nhờ nhân duyên này đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử tất cả hữu tình ở trong châu Thiệm-bộ này chẳng trước chẳng sau đều được thân người. Được thân người rồi, đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đã phát tâm rồi, trọn đời đem tất cả nhạc cụ ở thế gian cung kính bố thí cho tất cả hữu tình, lại đem thiện căn bố thí như vậy bình đẳng ban cho các hữu tìnhhồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các chúng Đại Bồ-tát này do nhân duyên này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện thệ!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Đại Bồ-tát cho đến chỉ một ngày an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thì công đức đạt được nhiều hơn trước vô lượng vô số. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát này ngày đêm an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế. Đúng như vậy! Đúng như vậy! Có thể làm ruộng phước cho tất cả hữu tình. Vì sao? Vì lòng từ của các Đại Bồ-tát này phát sanh thì các loại hữu tình không ai kịp được, chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có ai ngang bằng. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không có ai để thí dụ được. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thành tựu pháp không thể nghĩ bàn.

Thế nên, này Thiện Hiện! Vì lẽ gì mà Đại Bồ-tát này có thể phát khởi được công đức thù thắng chừng ấy?

Thiện Hiện nên biết! Vì Đại Bồ-tát này thành tựu Bát-nhã ba-la-mật-đa thù thắng như thế. Nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa này thấy các hữu tình chịu các khổ não như là: bị hình phạt chém giết nên sanh lòng đại bi. Lại dùng thiên nhãn xem các thế gian thấy có vô biên các loài hữu tình chiêu cảm nghiệp vô gián, đọa địa ngục vô gián, chịu các khổ dữ dội, hoặc bị lưới tà kiến che khuất chẳng thấy được chánh đạo. Hoặc lại thấy có các loài hữu tình đọa địa ngục vô gián, xa lìa các chỗ an vui. Thấy các hữu tình v.v… như vậy rồi sanh lòng rất chán nản, sợ sệt; đối với tất cả hữu tìnhthế gian phát sinh ý nghĩ tương ưng với đại từ bi: Ta phải làm chỗ nương tựa cứu giúp lớn cho tất cả hữu tình. Ta phải giải thoát tất cả khổ nãohữu tình đang chịu. Mặc dù nghĩ như vậy nhưng chẳng trụ ý tưởng này, cũng chẳng trụ tưởng khác.

Thiện Hiện nên biết! Đấy gọi là ánh sáng trí tuệ lớn của chúng Đại Bồ-tát có thể chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này do trụ ở chỗ này thường làm được ruộng phước cho tất cả thế gian. Tuy chưa chứng được trí nhất thiết trí nhưng đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được chẳng thối lui, có thể nhận lãnh y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc men và những vật dụng khác của thí chủ.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này khéo trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa nên có thể đền trả hoàn tất ơn thí chủ, cũng đạt đến trí nhất thiết trí.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn thọ hưởng vật dụng tín thí của các hữu tìnhquốc vương, đại thần một cách không uổng phí, muốn chỉ dẫn cho hữu tình con đường chơn tịnh, muốn làm ánh sáng lớn chiếu soi cho hữu tình, muốn giải thoát cho hữu tình khỏi lao ngục sanh tử, muốn cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh thì nên thường an trụ ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thường trụ ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa, Đại Bồ-tát này đối với ý nghĩ này thường luôn ghi nhớ chẳng để cho các ý nghĩ khác tạm thời phát sanh, thì có nói ra điều gì cũng tương ưng với lý thú Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này ngày đêm siêng năng tinh tấn, thường trụ nơi ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa không lúc nào tạm bỏ. Ví như có người trước kia chưa từng có ngọc báu ma-ni, sau đó có được, vui mừng, sung sướng; gặp duyên bị mất lại sanh tâm rất buồn khổ, thường than thở, tiếc nuối không nguôi, suy nghĩ phải làm phương kế nào để được ngọc ấy lại. Do đó nên ý nghĩ người kia luôn hướng đến ngọc quý. Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thường an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu chẳng an trụ ý nghĩ tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì bị quên mất ý nghĩ tương ưng với trí nhất thiết trí.

Vậy nên này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát đối với ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên thường an trụ không được tạm lìa.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp và các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, không có sở hữu thì Đại Bồ-tát làm thế nào chẳng lìa ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa và trí nhất thiết trí?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát biết tất cả pháp và các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, không có sở hữu thì Đại Bồ-tát này chẳng lìa ý nghĩ tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa và trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cùng trí nhất thiết trí và các ý nghĩ đều lìa tự tánh Không, không có sở hữu, trong đó hoàn toàn không có tăng giảm. Ai thông đạt đúng như vậy gọi là không xa lìa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tự tánh thường Không, không tăng, không giảm, thì chúng Đại Bồ-tát làm sao tu chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa để đắc được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát tu chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp chẳng tăng chẳng giảm, đối với Đại Bồ-tát cũng chẳng tăng chẳng giảm. Như Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tự tánh Không, nên không tăng, không giảm. Chư Phật Bồ-tát cũng lại như vậy. Nếu Đại Bồ-tát thường biết được như vậy thì gọi đó là tu chứng Bát-nhã ba-la-mật-đa. Do nhân duyên này thường mau chứng được sự mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không tăng giảm, như vậy mà không kinh, không sợ, không mê muội, không thối lui và cũng không do dự, thì Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đã đạt đến cứu cánh, an trụ địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể độ các hữu tình cùng đời vị lai.

Quyển thứ 551
HẾT

 

02

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi sắc mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa sắc có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa thọ, tưởng, hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của sắc mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của sắc, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của thọ, tuởng, hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi sắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa sắc, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi thọ, tưởng, hành, thức có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa thọ, tưởng, hành, thức có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của sắc mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của sắc, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của thọ, tưởng, hành, thức mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của thọ, tưởng, hành, thức, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Ngay nơi tất cả pháp mà có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của tất cả pháp có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi tất cả pháp mà có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Chính nơi Không của tất cả pháp có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Xa lìa Không của tất cả pháp, có pháp khả đắc có thể thực hành Không, phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, các Đại Bồ-tát dùng những pháp nào để thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đathực hành Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đathực hành Không, phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có Bát-nhã ba-la-mật-đa và thấy có Không là chỗ sở hành của Đại Bồ-tát phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Pháp mà ông không thấy, pháp này có thể đắc được không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Pháp chẳng thể đắc đó có sanh diệt phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thật tướng của pháp mà ông chẳng thấy, chẳng đắc, đó là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ-tát. Đại Bồ-tát thành tựu Vô sanh pháp nhẫn như vậy thì được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng cùng vô lượng, vô biên công đức thù thắng, gọi là người luôn tinh tấn, như thật tu hành. Nếu thường tinh tấn tu hành như vậy mà chẳng đắc trí quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trí nhất thiết tướng, trí đại trí diệu, trí nhất thiết trí, trí đại thương chủ, thì quả thật không có lẽ đó.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ vào pháp tánh vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ vào pháp tánh hữu sanh của tất cả pháp mà được Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ vào pháp tánh hữu sanh vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát nhờ vào pháp tánh phi hữu sanh, phi vô sanh của tất cả pháp mà được Phật thọquả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

- Chẳng phải vậy, Thiện Hiện!

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì làm sao các Đại Bồ-tát có thể được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp để thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con không thấy pháp nào có thể được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật, cũng không thấy pháp đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của Phật có thể chứng, thời gian chứng, nơi chứng và do đây chứng, hoặc pháp sở chứng đều không thấy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở đắc; ngay trong tất cả pháp không sở đắc thì người chứng, pháp chứng, thời gian chứng, nơi chứng và do đây chứng đều bất khả đắc.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy, đúng như vậy! Như lời ông nói.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi không đắc tất cả pháp thì không nghĩ thế này: Ta sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta nhờ pháp này, ở thời gian như vậy, nơi chốn như vậy chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

 
XXIII. PHẨM THIÊN CHỦ

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy rất là sâu xa, khó thấy, khó biết?

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy, đúng như vậy! Như lời ông nói, Kiều-thi-ca! Bát-nhã ba-la-mật-đa này rất là sâu xa, Bát-nhã ba-la-mật-đa này khó thấy, khó biết. Này Kiều-thi-ca! Vì hư không mênh mông nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy, rất là mênh mông. Vì hư không khó thấy, khó biết nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng như vậy, khó thấy, khó biết. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này tự tánh xa lìa, hoàn toàn không sở hữu, giống như hư không.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình chẳng phải với chút ít thiện căn mà có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, phân biệt giảng thuyết rộng rãi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó biết này cho hữu tình.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Các loài hữu tình chẳng phải với chút ít thiện căn mà có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp và phân biệt giảng thuyết rộng rãi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó biết này cho các hữu tình, hoặc biên chép làm cho lưu bố rộng rãi, các hữu tình này được công đức vô lượng.

Kiều-thi-ca! Giả sử tất cả hữu tình ở trong châu Thiệm-bộ này đều thành tựu mười thiện nghiệp đạo, ý ông thế nào? Các hữu tình này được công đức có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật bảo:

- Kiều-thi-ca! Có các Thiện nam tử, thiện nữ v.v…. chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, phân biệt, giảng nói rộng rãi kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này cho tất cả hữu tình, hoặc là biên chép làm cho được lưu bố cùng khắp, các thiện nam tử, thiện nữ v.v…. này đạt được công đức hơn công đức trước gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp cùng cực số lần.

Bấy giờ, trong đại hội có một Bí-sô bảo trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, chuyên tinh tu học, tư duy đúng pháp, phân biệt giảng dạy rộng rãi kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này cho tất cả hữu tình, hoặc lại biên chép làm cho được lưu bố cùng khắp thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này đạt được công đức hơn ngài?

Trời Đế Thích thưa:

- Các Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này chỉ cần một lần phát tâm đầu tiên còn hơn tôi, huống là chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, chuyên tinh tu học, tư duy đúng pháp, phân biệt giảng dạy kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho tất cả hữu tình, hoặc lại biên chép làm cho được lưu bố cùng khắp.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn tất cả công đức của thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… đạt được.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được chẳng những hơn công đức của khắp tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… đạt được mà còn hơn tất cả các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác đạt được.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được chẳng những hơn công đức của khắp tất cả các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, mà còn hơn tất cả các Đại Bồ-tát làm nhà đại thí chủ tu hạnh bố thíxa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học: giới thanh tịnh, giới không khuyết, giới không hủy, giới không tạp, giới không uế và làm viên mãn giới uẩn.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn sự tu học của tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học viên mãn an nhẫn, viên mãn tịch tĩnh, không sân, không hận… cho đến đối với cây cháy cũng không có tâm làm hại, an nhẫn hoàn toàn.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn sự tu học của tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học tinh tiến dõng mãnh, không từ bỏ sự hộ trì tốt đẹp nào, không lười biếng, không hèn kém, tinh tấn viên mãn nghiệp thân, ngữ, ý.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn sự tu học của tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học tịnh lự đáng kính, tịnh lự đáng ưa thích, tịnh lự dõng mãnh, tịnh lự an trụ, tịnh lự tự tại, tịnh lự viên mãn.

Bí-sô nên biết! Công đức của Đại Bồ-tát này đạt được cũng hơn sự tu học của tất cả các Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà thường tu học các thiện căn khác.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này đúng như lời dạy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vì có phương tiện thiện xảo nên hơn tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v…, cũng hơn tất cả Thanh văn, Độc giác, cũng hơn tất cả các chúng Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đúng theo lời dạy tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này tùy thuận hoàn toàn. Đại Bồ-tát này có thể kế tục chủng tánh trí nhất thiết trí, làm cho không đoạn tuyệt, thường gần gũi bạn lành chơn tịnh là chư Phật và Bồ-tát. Đại Bồ-tát này tu hành tịnh hạnh thù thắng như vậy, thường không xa lìa tòa Bồ-đề vi diệu, hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo. Đại Bồ-tát này khi tu học như vậy, phương tiện thiện xảo thường hay cứu vớt các loài hữu tình chìm đắm trong bùn phiền não. Đại Bồ-tát này khi học như vậy, phương tiện thiện xảo thường học pháp cần nên học của chúng Đại Bồ-tát, chẳng học pháp nên học của các Thanh văn, Độc giác thừa v.v…

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khi học như vậy các chúng Thiên thần đều rất hoan hỷ, bốn vua hộ thế đều thống lĩnh Thiên chúng đi đến chỗ Đại Bồ-tát đó cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, đồng nói thế này:

“Lành thay, Đại sĩ! Nên siêng năng tinh tấn học pháp cần nên học của các chúng Đại Bồ-tát, chớ học pháp nên học của các Thanh văn, Độc giác thừa. Nếu học được như vậy thì mau an trụ nơi tòa diệu Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trước kia nhận bốn bình bát của bốn Thiên vương dâng cúng, nay Ngài cũng sẽ nhận như xưa. Bốn đức Thiên vương hộ thế dâng lên bốn bát, chúng tôi cũng sẽ dâng như vậy.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này khi học như vậy, Thiên đế chúng tôi còn thống lãnh Thiên chúng đi đến chỗ Đại Bồ-tát này cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen, huống là các Thiên thần khác mà không đi đến nơi đó hay sao?

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này khi học như vậy, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát cùng các trời, rồng, A-tố-lạc v.v… thường theo hộ niệm. Do nhân duyên này mà tất cả hiểm nạn, nguy khốn, thân tâm buồn khổ… ở thế gian đều chẳng làm tổn hại Đại Bồ-tát này. Các thứ bệnh tật do bốn đại trái nhauthế gian vĩnh viễn không có trong thân, chỉ trừ nghiệp nặng nhưng chuyển đổi nên hiện tại chịu nhẹ.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát này đúng như lời dạy tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, được những công đức ngay đời hiện tại như vậy và công đức đời sau thì vô lượng, vô biên.

Khi ấy, A-nan-đà thầm nghĩ: Thiên chủ Đế Thích tự mình có biện tài khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacông đức thù thắng của các Bồ-tát như thế hay là nhờ năng lực oai thần của Như Lai?

Khi ấy, trời Đế Thích nhờ oai thần của Phật, biết ý nghĩ trong tâm A-nan-đà nên thưa rằng:

- Bạch Đại Đức! Sự khen ngợi của tôi về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacông đức thù thắng của các Bồ-tát đều là nhờ thần lực của Như Lai.

Khi ấy, Phật bảo A-nan-đà :

- Đúng như vậy, đúng như vậy! Nay trời Đế Thích khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacông đức thù thắng của Bồ-tát như vậy, nên biết, đó đều là nhờ thần lực của Như Lai chứ chẳng phải biện tài của Đế Thích. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xacông đức thù thắng của các chúng Đại Bồ-tát nhất định chẳng phải tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… có thể khen ngợi được.

 
XXIV. PHẨM VÔ TẠP VÔ DỊ

Bấy giờ, Phật bảo A-nan-đà:

- Khi nào Đại Bồ-tát tư duy Bát-nhã ba-la-mật-đa, tập học Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy tất cả ác ma trong tam thiên đại thiên thế giới đều sanh do dự, đồng nghĩ: Đại Bồ-tát này đang ở giai đoạn chứng Niết-bàn hoặc là thối lui vào địa vị Thanh văn hay Độc giác, hay hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể làm lợi ích cho hữu tình cùng tận đời vị lai.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu khi Đại Bồ-tát an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy ác ma rất buồn khổ, thân tâm run sợ như trúng tên độc.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy ác ma đi đến chỗ Bồ-tát đó hóa ra vô số việc đáng sợ hãi, như: hóa làm dao kiếm, ác thú, rắn độc, lửa dữ đồng một lúc cháy bùng lên khắp bốn phía, muốn làm cho thân tâm Bồ-tát khủng khiếp, kinh sợ, bỏ mất cả tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; đối với sự tu hành tâm bị khuất phục, cho nên phát khởi một niệm loạn ý là chướng ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, là chỗ mong cầu trong thâm tâm của ác ma kia.

Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đều bị ác ma làm rối loạn hết cả, hay là có người bị rối loạn, người không bị rối loạn?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Chẳng phải các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa đều bị ác ma làm rối loạn hết, mà có người bị rối loạn, người không bị rối loạn.

Cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa bị các ma ác làm rối loạn, và những Đại Bồ-tát nào khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Các Đại Bồ-tát đời trước nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tâm không tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn. Đại Bồ-tát nào đời trước nghe giảng dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, có lòng tin hiểu, chẳng hủy báng chê bai thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào nghe giảng dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, nghi ngờ, do dự, là có hay là không có, là thật hay chẳng thật, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma quấy rối. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe giảng dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tâm vị đó hoàn toàn không nghi ngờ, do dự, tin chắc chắn là có thật, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ma ác làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào xa lìa bạn lành, bị các bạn ác khống chế, chẳng nghe nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa; do không nghe nên không hiểu rõ; vì không hiểu rõ nên không thể tu tập; vì không tu tập nên không thể thưa hỏi: làm thế nào để tu đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm thế nào để học đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Đại Bồ-tát nào gần gũi bạn lành, không bị bạn ác khống chế, được nghe nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa; do được nghe nên hiểu rõ; do hiểu rõ, lập tức tu tập; do tu tập nên hay thưa hỏi: làm thế nào để tu đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm thế nào để học đúng theo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, nắm giữ, khen ngợi pháp chẳng chơn diệu thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Đại Bồ-tát nào gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa, không nắm giữ, không khen ngợi pháp chẳng chơn diệu, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, hủy báng, chê bai pháp chơn diệu thì bấy giờ ác ma liền nghĩ: Nay Bồ-tát này là bạn của ta. Do Bồ-tát này hủy báng pháp chơn diệu nên có vô lượng các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa đối với pháp chơn diệu cũng hủy báng. Do nhân duyên này, nguyện của ta viên mãn. Mặc dầuvô lượng các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa làm bạn với ta nhưng chẳng thể làm cho nguyện của ta đầy đủ. Nay Bồ-tát này làm bạn với ta, làm cho sở nguyện của ta được đầy đủ hoàn toàn, nên Bồ-tát này đúng là bạn của ta, ta nên kết nạp để tăng thêm thế lực. Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Đại Bồ-tát nào gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa, khen ngợi, tin nhận pháp chơn diệu; cũng làm cho vô lượng các chúng Bồ-tát mới học Đại thừa khen ngợi, tin nhận pháp chơn diệu, do đây ác ma buồn rầu, sợ hãi thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào khi nghe giảng dạy kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nói như vầy: “Bát-nhã ba-la-mật-đa này lý thú sâu xa, khó thấy, khó hiểu như vậy thì giảng dạy, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, siêng năng tu học, biên chép, truyền bá cùng khắp mà làm gì. Kinh điển này chính ta còn không thể đạt được cội nguồn, huống là những người phước mỏng, trí cạn kia.” Khi ấy, có vô lượng các Bồ-tát mới học Đại thừa nghe lời nói của Bồ-tát ấy, trong tâm kinh sợ, liền thối lui tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nói thế này: Bát-nhã ba-la-mật-đa này lý thú sâu xa, khó thấy, khó biết, nếu không giảng dạy, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, biên chép, truyền bá khắp nơi mà có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì chắc chắn không thể có lẽ ấy. Khi ấy, có vô lượng các Bồ-tát mới học Đại thừa, nghe Bồ-tát đó nói như vậy vui mừng hớn hở, đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thường ưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, làm cho thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng pháp, tinh tấn tu hành, giảng thuyết, biên chép, truyền bá cùng khắp cho mọi người cầu thẳng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào ỷ vào công đức thiện căn của mình, khinh chúng Đại Bồ-tát khác nên nói thế này: “Ta luôn an trụ hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông đều không có. Ta luôn tu tập hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông chẳng có thể.” Khi ấy, ác ma vui mừng hớn hở nói: “Bồ-tát này chính là bạn bè của ta, luân hồi sanh tử chưa có lúc nào ra.”

Vì lẽ gì? Vì các Bồ-tát này ỷ vào công đức căn lành của mình có, khinh chúng Đại Bồ-tát khác, liền xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng thể siêng năng làm trống không cảnh giới của Ta thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn. Nếu Đại Bồ-tát nào không ỷ mình có công đức căn lành, khinh chê chúng Đại Bồ-tát khác, tuy thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng chẳng chấp trước các tướng pháp lành thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào tự ỷ tên tuổi, dòng họcông đức, sự tu tập Đầu-đà, khinh miệt các chúng Bồ-tát tu các pháp thắng thiện khác, thường khen mình và hủy báng, chê bai các vị khác. Họ thật không có các hành trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển mà cho mình có, nên sanh các phiền não và nói: “Các ông không có danh hiệu Bồ-tát, chỉ riêng ta có”. Do tăng thượng mạn khinh chê Bồ-tát khác, bấy giờ ác ma rất vui mừng, nghĩ như vầy: Nay Bồ-tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.

Bấy giờ ác ma giúp thần lực cho người kia, làm cho càng tăng thêm uy thế biện tài. Do đây được nhiều người tin nhận lời nói của người đó. Nhân đó khuyên phát đồng ác kiến như người kia. Ác kiến đồng rồi, học theo pháp tà của người kia. Học theo pháp tà rồi, phiền não hừng hực, vì tâm điên đảo nên phát sanh các nghiệp thân, ngữ, ý đều luôn nhận lấy quả khổ suy tổn không thể ưa thích. Do nhân duyên này tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, làm cho cung điện, cỏi nước ma đông đảo. Do đây, ác ma vui mừng hớn hở, muốn làm những điều gì đều tùy ý tự tại. Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Nếu Đại Bồ-tát nào không ỷ vào danh hiệu hư vọng cùng việc công đức tu tập Đầu-đà của mình mà khinh miệt các chúng Bồ-tát tu các pháp thắng thiện khác, đối với các công đức xa lìa tăng thượng mạn, thường không khen mình, cũng không chê người, luôn hiểu biết đúng những việc của ác ma, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Khi nào Đại Bồ-tát này cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa gây gỗ, hủy miệt, phỉ báng nhau thì bấy giờ ác ma thấy sự việc như vậy nên nghĩ: Nay Bồ-tát này tuy xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng không xa lắm. Tuy gần cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ nhưng không gần lắm. Nghĩ như vậy xong, tuy vui mừng nhưng không hớn hở.

Khi nào Đại Bồ-tát cùng các chúng Đại Bồ-tát khác khinh miệt, chê bai nhau thì khi ấy thấy sự việc như vậy, ác ma liền nghĩ: Hai Bồ-tát này rất xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, rất gần cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Nghĩ như vậy rồi rất vui mừng hớn hở và tăng thêm sức lực của chúng, làm cho hai bên bạn bè đấu tranh luôn không dứt, làm cho vô lượng, vô biên hữu tình khác đều hết lòng nhàm chán Đại thừa, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa liền bị ác ma làm rối loạn.

Đại Bồ-tát nào cùng người cầu Thanh văn, Độc giác thừa chẳng đấu tranh, khinh miệt, chê bai nhau, phương tiện giáo hóa, làm cho hướng đến Đại thừa, hoặc khiến họ tu vượt lên trên thừa của mình và cùng các thiện nam tử v.v… cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không khinh chê, hủy báng, đấu tranh nhau, cùng dạy bảo nhau tu pháp thắng thiện, mau thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, độ các hữu tình, thì Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa không bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào chưa được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các Đại Bồ-tát đã được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh tâm tổn hại, khinh miệt, đấu tranh, chê bai, mắng nhiếc. Đại Bồ-tát này tùy theo phát khởi bao nhiêu tâm niệm không lợi ích, thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa lìa bạn lành, chịu lại bấy nhiêu đời sanh tử trói buộc. Nếu không bỏ tâm đại Bồ-đề thì trở lại bấy nhiêu kiếp mặc áo giáp Hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, sau đó mới được bù đắp lại công đức đã bị lui sụt.

Bấy giờ, Khánh Hỷ lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đã phát khởi tâm ác, sanh tử tội khổ thì phải luân hồi trải qua bấy nhiêu đời, hay ở nửa chừng cũng được ra khỏi. Đại Bồ-tát này bị lui thắng hạnh thì phải siêng năng trải bấy nhiêu kiếp mặc giáp Hoằng thệ, tu các thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, sau đó mới được bù đắp lại công đức đã bị lui sụt, hay là ở nửa chừng có thể phục hồi lại như từ trước.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Ta vì Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn thuyết cách xuất tội và phục hồi thiện lại. Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát nào chưa được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các Đại Bồ-tát đã được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sanh tâm tổn hại, đấu tranh khinh miệt, hủy nhục, chê bai, về sau không hổ thẹn, giữ ác không bỏ, không chịu như pháp tỏ bày sám hối. Ta nói loại người ấy ở nơi nửa chừng không có nghĩa thoát tội và phục hồi thiện pháp, phải theo số kiếp như cũ luân hồi trong sanh tử, xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc. Nếu không xả bỏ tâm đại Bồ-đề thì phải bấy nhiêu kiếp mặc giáp Hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không có lúc nào gián đoạn, sau đó mới phục hồi công đức đã bị lui sụt.

Đại Bồ-tát nào chưa được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì đối với các Đại Bồ-tát đã được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, mắng nhiếc, hủy báng nhau, sau đó sanh hổ thẹn, tâm bỏ điều ác, liền theo đúng pháp phát lồ sám lỗi, nghĩ thế này: Ta nay đã được thân người vốn khó được, sao lại để cho khởi lên tội lỗi làm cho mất lợi lành lớn! Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình, sao lại làm hại chúng? Ta nên cung kính tất cả hữu tình như tôi tớ thờ chủ, sao lại kiêu mạn, khinh miệt, hủy nhục đối với hữu tình? Ta nên nhận chịu tất cả sự đánh đập, trách mắng của hữu tình, sao lại đối với hữu tình đem sự tàn bạo của lời nói và hành động đáp lại họ? Ta nên hòa giải tất cả, làm cho hữu tình kính mến nhau, sao lại đưa ra lời lẽ hung ác để chống chọi chúng? Ta nên chịu đựng để tất cả hữu tình dẫm đạp mãi mãi như đường sá hay như chiếc cầu, sao trở lại lăng nhục chúng? Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vì cứu vớt khổ lớn sanh tử cho hữu tình, làm cho được Niết-bàn an vui hoàn toàn, sao lại muốn đem khổ đến cho chúng? Từ nay cho đến tận đời vị lai, ta nên như si, như câm, như mù, như điếc, đối với các hữu tình không phân biệt, giả sử có bị chém đứt đầu, chân, cánh tay hoặc móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa xẻ tất cả chi thể thân phần, đối với hữu tình kia ta quyết không phát khởi ác. Nếu ta có ác tâm thì liền bị thối lui tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chướng ngại sự cầu trí nhất thiết trí, không thể làm lợi ích an vui cho hữu tình.

Khánh Hỷ nên biết! Đối với Đại Bồ-tát này, ta nói nửa chừng có thể thoát tội và phục hồi lại thiện pháp, chẳng còn trải qua nhiều kiếp số luân hồi sanh tử, không bị ác ma làm rối loạn và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Các Đại Bồ-tát cùng với những vị cầu Thanh văn, Độc giác thừa như vậy chẳng nên giao thiệp. Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên ở chung. Giả sử cùng ở chung thì chẳng nên cùng với họ bàn luận, xác quyết nghĩa lý. Vì sao? Vì nếu cùng với họ luận bàn để xác định nghĩa lý thì sẽ có thể phát sinh tâm giận dữ v.v… hoặc phát sinh lời lẽ thô ác. Nhưng các Bồ-tát đối với các loài hữu tình thì không nên giận dữ v.v… Cũng không nên nói lời thô ác. Giả sử bị chém đứt đầu, chân tay, thân phần… cũng không nên nói lời giận dữ. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát nên nghĩ: Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề vì cứu giúp hữu tình dứt hẳn khổ sanh tử, làm cho được lợi ích, an vui hoàn toàn, đâu cho phép gây việc ác cho họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào đối với loài hữu tìnhgiận dữ, nói ra lời thô ác thì liền bị trở ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và hư hoại vô biên pháp hạnh của Bồ-tát. Thế nên, chúng Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các hữu tình không nên giận dữ, cũng không nên nói lời thô ác.

Bấy giờ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát làm cách nào để cùng ở chung?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Các Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát ở chung nên xem nhau như đại sư. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát hỗ trợ nhau nên nghĩ thế này: Đại Bồ-tát kia là bạn lành chơn thật của chúng ta, cùng chúng ta làm bạn, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng tới một chỗ, đồng làm một việc. Chúng ta cùng với họ cùng học một thời gian, cùng một nơi chốn và cùng được học một giáo pháp. Nếu học như vậy thì không khác nhau. Lại nghĩ: Các Bồ-tát kia vì chúng ta thuyết đạo đại Bồ-đề, tức là bạn lành của ta, cũng là đạo sư của ta. Nếu Đại Bồ-tát kia trụ ý nghĩ xen tạp, xa lìa ý nghĩ tương ưng với trí nhất thiết trí thì ta sẽ không học chung với các vị ấy. Nếu Đại Bồ-tát kia lìa ý nghĩ xen tạp, không lìa ý nghĩ tương ưng trí nhất thiết trí thì ta nên thường cùng học tập với họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát luôn học như vậy thì tư lương Bồ-đề mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ở giai đoạn nửa chừng không bị chướng ngại.

 
XXV. PHẨM TẤN TỐC

01

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì Tận nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Bất sanh nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Diệt nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Bất khởi nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Phi hữu nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì viễn ly nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì lìa nhiễm nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì hư không nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì pháp giới nên học, là học trí nhất thiết trí phải không? Nếu Đại Bồ-tát này vì Niết-bàn nên học, là học trí nhất thiết trí phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chẳng phải học trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên nào Đại Bồ-tát khi học như vậy chẳng phải là học trí nhất thiết trí?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Phật chứng chơn như rất viên mãn, nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như vậy, chơn như có thể nói là Tận, cho đến có thể nói là Niết-bàn chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không! Kính bạch Thế Tôn. Vì sao? Vì chơn như lìa tướng, chẳng thể nói là Tận, cho đến chẳng thể nói là Niết-bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thế nên Đại Bồ-tát khi học như vậy là chẳng phải học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết, nếu Đại Bồ-tát chẳng vì Tận nên học là học trí nhất thiết trí. Cho đến chẳng vì Niết-bàn nên học, là học trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Phật chứng chơn như rất viên mãn nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khi ấy, chứng được chơn như chẳng tận cho đến Niết-bàn của trí nhất thiết trí, nên Đại Bồ-tát khi học như vậy là học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, là học Phật địa, là học mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộngvô lượng, vô biên Phật pháp khác, tức là đã học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy là đạt đến cứu cánh bờ kia của tất cả sự học.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì không bị tất cả Thiên mangoại đạo hàng phục được.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì mau đắc được pháp tánh Bất thối của Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì mau trụ địa vị Bất thối chuyển của Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì mau an tọa tòa diệu Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là tự mình đi theo con đường của Như Lai Tổ phụ.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học pháp làm chỗ hộ trì cho các hữu tình, là học tánh đại từ, đại bi vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học ba lần vận chuyển xe pháp với mười hai hành tướng Vô thượng.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học làm cho trăm ngàn vạn ức cảnh giới hữu tình được ở nơi Niết-bàn cứu cánh an lạc.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học không đoạn tuyệt chủng tánh Như Lai.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học mở cửa cam lồ chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học đặt yên vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trụ pháp Tam thừa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học thị hiện cảnh giới vô vi chơn thật, hoàn toàn vắng lặng cho tất cả hữu tình.

Như vậy là học trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Việc học như vậy, hữu tình hèn kém chẳng thể học được. Vì sao? Vì sự học như vậy muốn cứu vớt hết thảy khổ lớn sanh tử cho tất cả hữu tình, muốn đặt yên tất cả hữu tình trong việc tốt đẹp rộng lớn, muốn cùng hữu tình đồng hưởng thọ lợi ích an vui hoàn toàn, muốn cùng hữu tình đồng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn cùng hữu tình đồng học diệu hạnh tự lợi, lợi tha như hư không rộng lớn không gián đoạn, không tận cùng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì quyết định không đọa trong tất cả cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, A-tố-lạc v.v...; quyết định không sanh chốn biên địa hạ tiện, tà kiến; quyết định không sanh trong nhà Chiên-đồ-la, nhà gánh thây chết và các dõng dõi bần cùng, hạ tiện, bất luật nghi; quyết định chẳng sanh trong nhà công xảo kỹ nhạc, buôn bán tạp uế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì sanh ra ở chỗ nào, hoàn toàn không bị mù, điếc, câm, ngọng, chân tay cong queo, căn chi tàn khuyết, gù lưng, lác hủi, ung thư, điên cuồng, trĩ, lậu, ghẻ dữ, thân không quá cao, quá lùn, cũng không đen đủi và không có các bệnh ghẻ nhơ nhớp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì đời đời thường được quyến thuộc viên mãn, các căn viên mãn, thân thể viên mãn, âm thanh trong trẻo, dáng mạo đoan nghiêm, lời nói oai nghiêm, được nhiều người kính mến.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì sanh ở chỗ nào đều lìa việc sát sanh, lìa việc trộm cắp, lìa tà hạnh, lìa nói dối gạt, lìa nói thô ác, lìa nói chia rẽ, lìa nói lời bẩn thỉu, cũng lìa tham dục, sân giận, tà kiến, quyết chẳng chấp nhận tà pháp hư dối, không dùng pháp tà để sanh sống. Cũng không chấp nhận hữu tình phá giới, ác kiến, hủy báng pháp để làm bạn thân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì hoàn toàn chẳng sanh trong cõi trời Trường thọ, đắm vui, ít trí tuệ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thành tựu thế lực phương tiện thiện xảo. Do thế lực phương tiện thiện xảo này, mặc dù thường nhập được tịnh lự vô lượngđịnh vô sắc nhưng chẳng theo thế lực đó thọ sanh, vì được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa bảo hộ. Thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, ở trong các định tuy thường được xuất nhập tự tại nhưng chẳng theo thế lực của các định đó thọ sanh ở cõi trời Trường thọ, bỏ tu hạnh đại Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh thì tại sao các Đại Bồ-tát khi học như vậy lại chứng đắc được các lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, các pháp xưa nay tự tánh thanh tịnh. Đại Bồ-tát này đối với tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, tinh tấn tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thông suốt như thật, tâm không chìm đắm, cũng không vướng mắc, xa lìa tất cả phiền não nhiễm đắm, nên nói: Khi Bồ-tát học như vậy, đối với tất cả pháp được thanh tịnh. Do nhân duyên này được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Mặc dầu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh mà các phàm phu chẳng có tri kiến thấy biết. Đại Bồ-tát này vì muốn làm cho vị kia thấy biết, hiểu rõ nên khuyên tinh tấn tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, nghĩ: Ta đối với bản tánh thanh tịnh của các pháp thấy biết hiểu rõ, rồi như thật khai ngộ tất cả hữu tình, làm cho chúng đối với bản tánh thanh tịnh của các pháp cũng thấy biết, hiểu rõ. Đại Bồ-tát này khi học như vậy được lực thanh tịnh, vô úy thanh tịnh, Phật pháp thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì đối với tâm hạnh sai khác của các hữu tình đều thông suốt, dùng phương tiện thiện xảo đến tận bờ kia, làm cho các hữu tình biết được bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp, chứng đắc Niết-bàn thanh tịnh hoàn toàn.

Quyển thứ 552
HẾT

 

02

Thiện Hiện nên biết! Ví như mặt đất, ít chỗ sanh ra vàng bạc, châu báu; nhiều chỗ sanh ra đất mặn, nuôi các vật. Các loài hữu tình cũng như vậy, ít người học Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhiều người học pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Ví như loài người, phần ít có thể làm vua Chuyển luân, phần nhiều làm các vua nhỏ. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít có thể tu đạo trí nhất thiết trí, phần nhiều tu đạo Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Ví như trong trời Địa cư cõi Dục, phần ít có thể tạo nghiệp trời Đế Thích, phần nhiều tạo nghiệp của các trời khác. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phần nhiều cầu quả Thanh văn, Độc giác thừa.

Thiện Hiện nên biết! Ví như trong tịnh lự thứ nhất, cõi Sắc phần ít có thể tu nghiệp đại Phạm Vương, phần nhiều tu nghiệp các chúng Phạm Thiên. Các loài hữu tình cũng vậy, phần ít đạt được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phần nhiều vẫn còn thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các loài hữu tình phần ít có thể phát tâm đại Bồ-đề, trong số đó càng ít người có thể tu hạnh Đại Bồ-tát, trong đó càng ít người có thể tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong đó càng ít người đạt được phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong đó rất ít người có thể đạt được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đi vào số hữu tình rất ít ấy thì nên siêng năng tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho đạt được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì không phát sanh tâm tương ưng với nhu nhược, không phát sanh tâm tương ưng với nghi ngờ, không phát sanh tâm tương ưng với tham lam, không phát sanh tâm tương ưng với phạm giới, không phát sanh tâm tương ưng với giận dữ, không phát sanh tâm tương ưng với lười nhác, không phát sanh tâm tương ưng với tán loạn, không phát sanh tâm tương ưng với hiểu biết sai lầm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì có thể bao gồm tất cả Ba-la-mật-đa, có thể tập họp tất cả Ba-la-mật-đa, có thể dẫn đường tất cả Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dung chứa tất cả Ba-la-mật-đa vậy.

Thiện Hiện nên biết! Như tà ngụy thân kiến bao gồm khắp tất cả sáu mươi hai kiến, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng vậy, dung chứa tất cả Ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì phát sanh tất cả Ba-la-mật-đa và làm cho dần dần tăng trưởng.

Thiện Hiện nên biết! Ví như mạng căn gìn giữ các căn, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, luôn gìn giữ tất cả pháp lành thù thắng. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể gìn giữ khắp tất cả pháp lành.

Thiện Hiện nên biết! Như mạng căn diệt, thì các căn diệt theo, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy. Nếu Đại Bồ-tát nào thối lui Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thì chính là thối lui tất cả pháp lành. Nếu Đại Bồ-tát nào tu học đúng đắn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể diệt trừ khắp tất cả pháp bất thiện.

Thế nên, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đạt đến rốt ráo bờ kia của tất cả Ba-la-mật-đa thì nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào thường siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì thành tối thượng, tối thắng đối với các hữu tình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thường siêng năng tu học pháp Vô Thượng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý thầy thế nào? Các loài hữu tình ở trong thế giới tam thiên đại thiên này có nhiều không?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình trong châu Thiệm-bộ còn nhiều vô số, huống là các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên, số đó rất nhiều.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Thiện Hiện nên biết! Giả sử các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên, đồng một lúc đều được làm thân người. Được thân người rồi, đồng một lúc đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh của các Đại Bồ-tát. Tu hành viên mãn rồi, đồng một lúc đều đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lại có Đại Bồ-tát trọn đời thường đem y phục, thức ăn uống, phòng xá, giường nằm, thuốc men thượng diệu và các thứ vật dụng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này. Ý ông thế nào? Đại Bồ-tát này do nhân duyên này được phước có nhiều không?

Thiện Hiện thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện thệ!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nào thường tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì trải qua khoảng thời gian khảy móng tay, đạt được công đức nhiều hơn trước vô lượng vô số. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa đầy đủ lợi ích lớn, có thể làm cho chúng Đại Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn làm thượng thủ của tất cả hữu tình, muốn lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, muốn làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có nơi quay về nương tựa, làm nơi hướng đến cho kẻ không có nơi hướng đến, làm mắt cho người không có mắt, làm ánh sáng cho người không có ánh sáng; kẻ lạc mất đường chánh, chỉ cho họ con đường chánh; người chưa Niết-bàn, làm cho đắc Niết-bàn… thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đi nơi cảnh giới của chư Phật đã đi, muốn ngự nơi địa vị tôn quí của chư Phật Đại tiên đã ngự, muốn an trụ chỗ Phật đã an trụ, muốn rống tiếng đại Sư tử của chư Phật, muốn trỗi trống pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn gióng chuông pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn thăng tòa pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn thổi ốc pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn giảng nghĩa pháp Vô Thượng của chư Phật, muốn xé rách lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn lãnh thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật, muốn chứng công đức viên tịnh của chư Phật, muốn dùng một âm thanh giảng thuyết chánh pháp cho tất cả hữu tình cõi tam thiên, làm cho tất cả đều được lợi ích lớn… thì phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì không có tất cả công đức lợi ích thù thắngthế gian hay xuất thế gian nào mà không đạt được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là chỗ nương tựa cho tất cả hạt giống căn lành công đức.

Thiện Hiện nên biết! Ta chưa từng thấy có Đại Bồ-tát nào siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà không đạt được công đức lợi ích thù thắng của thế gianxuất thế gian.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy chẳng lẽ cũng đắc công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác sao?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác, các chúng Đại Bồ-tát này cũng đều chứng đắc nhưng không trụ, không đắm trước nơi đó. Bằng chánh kiến thắng trí, quán sát xong, vượt qua địa vị Thanh vănĐộc giác, vào thẳng Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát, nên các Đại Bồ-tát này được tất cả công đức căn lành.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên tu học tất cả hạt giống công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác. Mặc dầu không cầu chứng đắc nơi đó nhưng muốn thông suốt đúng đắn tất cả để giảng thuyết, chỉ dạy cho các hữu tình kia.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là gần gũi trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thường làm lợi ích an vui cho tất cả cùng tận đời vị lai.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào khi tu học như vậy thì chính là ruộng phước chơn tịnh cho tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v…, vượt lên trên các ruộng phước của Thanh văn, Độc giác, Sa-môn, Phạm chíthế gian, mau chứng được trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu học như vậy thì sanh ra ở chỗ nào cũng không xả bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì nên biết Bồ-tát đó đã được không thối lui trí nhất thiết trí, hiểu biết đúng đắn tất cả pháp, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v… và gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nghĩ thế này: Đây là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là thời gian tu, đây là nơi chốn tu, ta là người tu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này. Ta nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà vứt bỏ được pháp nên vứt bỏ, nên được phát sanh trí nhất thiết trí thì Đại Bồ-tát này chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng thể hiểu rõ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây là thời gian tu, đây là nơi chốn tu, đây là người tu, đây là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa xa lìa, đây là pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa chiếu soi, đây là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà Bát-nhã ba-la-mật-đa chứng đắc. Ai hiểu biết như vậy là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghĩ thế này: Đây chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, đây chẳng phải là thời gian tu, đây chẳng phải là nơi chốn tu, đây chẳng phải là người tu, chẳng phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đaxa lìa tất cả pháp nên xa lìa, chẳng phải nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ chơn như không sai khác vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát hoàn toàn không phân biệt, không hiểu rõ tất cả pháp thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

 
XXVI. PHẨM HUYỄN DỤ

Bấy giờ trời Đế Thích nghĩ: Nếu Đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì còn hơn tất cả loài hữu tình, huống là đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu các hữu tình nào nghe thuyết về danh tự của trí nhất thiết trí càng tin hiểu thì còn được lợi lành trong loài người và được đời sống tối thắngthế gian, huống là phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc thường lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu các hữu tình nào thường phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lắng nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì các hữu tình khác nên nguyện ưa thích công đức đạt được. Thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… hoàn toàn không thể sánh kịp.

Khi ấy, Thế Tôn biết tâm niệm của trời Đế Thích nên bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như điều ông nghĩ.

Bấy giờ trời Đế Thích vui mừng hớn hở, hóa làm hương hoa mầu nhiệm trên cõi trời, dâng lên đức Như Lai và các Bồ-tát. Dâng hoa xong, phát nguyện:

“Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v... nào cầu đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì xin đem công đức căn lành đã phát của tôi làm cho tâm nguyện đạt công đức thù thắng của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu các pháp tương ưng với trí nhất thiết trí của người kia mau được viên mãn, làm cho sự cầu tự nhiên nhơn và pháp mau được viên mãn, làm cho sự cầu Thánh pháp vô lậu của người kia mau được viên mãn, làm cho tất cả sự muốn nghe pháp của người kia đều được như ý. Nếu người nào cầu Thanh văn, Độc giác thừa thì cũng làm cho sở nguyện của họ mau được đầy đủ.”

Phát nguyện như vậy xong, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… nào đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì con hoàn toàn không sanh một niệm ý khác làm cho người kia thối lui tâm đại Bồ-đề. Con hoàn toàn không sanh một niệm ý khác làm cho các chúng Đại Bồ-tát nhàm chán, xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lui rớt nơi địa vị Thanh văn, Độc giác v.v… Con hoàn toàn không sanh một niệm tâm khác làm cho các chúng Đại Bồ-tát lui mất ý nghĩ tương ưng với Đại Bi. Nếu Đại Bồ-tát nào đã hết lòng ưa muốn quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì con nguyện tâm của người ấy càng thêm tinh tấn để mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nguyện các Đại Bồ-tát kia thấy các thứ khổ trong sanh tử, rồi vì muốn lợi ích an vui cho thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v… cho nên phát khởi vô số nguyện lớn bền chắc: Con đã qua được biển lớn sanh tử, cũng phải siêng năng độ người chưa qua. Con đã tự mở trói sanh tử rồi, cũng phải siêng năng mở cho người chưa được mở. Con đã được an ổn đối với các thứ sợ hãi về sanh tử, cũng phải siêng năng đem an ổn cho người chưa được an ổn. Con đã chứng đắc Niết-bàn hoàn toàn rồi, cũng phải siêng năng làm cho người chưa chứng đồng chứng đắc.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu loài hữu tình nào hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát sơ phát tâm thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát đã từ lâu phát tâm tu các thắng hạnh thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển thì được bao nhiêu phước? Hết lòng tùy hỷ đối với công đức của Bồ-tát chỉ còn ràng buộc một đời thì được bao nhiêu phước?

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của núi chúa Diệu Cao, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của cõi bốn đại châu, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết số cân lượng của thế giới Tiểu thiên, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết được số cân lượng của thế giới Trung thiên, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Kiều-thi-ca! Có thể biết số cân lượng của thế giới trong Tam thiên đại thiên này, nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì chẳng thể biết được.

Kiều-thi-ca! Giả sử thế giới tam thiên đại thiên chung lại làm thành một cái biển, có người lấy một sợi lông chẻ làm một trăm phần, rồi cầm đầu của một sợi chấm vào trong nước biển đó cho đến khi cạn hết, có thể biết được số giọt nhưng số lượng phước đức của loài hữu tình này do tâm tùy hỷ sanh ra thì không thể biết được.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Nếu các hữu tình không tùy hỷ đối với vô lượng, vô biên công đức thù thắng của các Đại Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc do tâm tùy hỷ đối với phước đức đã phát sanh của Bồ-tát kia, hoặc không nghe, không biết, không nhớ nghĩ, không tùy hỷ, thì nên biết những người như vậy đều bị ma khống chế, bị ma nắm giữ, là bè đảng của ma, chết ở cõi Thiên ma và sanh đến nơi này. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát cầu thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh của các đại Bồ-tát, hoặc có người phát tâm hết lòng tùy hỷ đối với công đức của người kia, hoặc có người đối với công đức tùy hỷ của người kia, lòng càng nhớ nghĩ tùy hỷ thì đều có thể phá hoại hết tất cả quyến thuộc và cung điện của quân ma, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình cùng tận đời vị lai.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu hữu tình nào hết lòng kính mến Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, sanh ra ở chỗ nào cũng thường muốn được thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng thì đối với công đức căn lành của các chúng Đại Bồ-tát nên hết lòng tùy hỷ. Tùy hỷ xong rồi hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng không nên sanh ý tưởng có hai, không hai. Nếu người nào thường làm được như vậy thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phá dẹp các quân ma, lợi ích hữu tình.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Kiều-thi-ca! Nếu các hữu tình nào đối với công đức căn lành của các chúng đại Bồ-tát, hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì các hữu tình này mau được viên mãn các hạnh Bồ-tát, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Nếu các hữu tình nào đối với công đức căn lành của các chúng Đại Bồ-tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì các hữu tình này có đầy đủ oai lực, thường luôn phụng thờ tất cả các đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácthiện tri thức, hằng nghe kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và biết rõ nghĩa thú.

Các hữu tình này thành tựu công đức căn lành, tùy hỷ hồi hướng như vậy thì sanh ra ở chỗ nào cũng thường được tất cả thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Chẳng thấy sắc xấu, chẳng nghe tiếng xấu, chẳng ngửi mùi dở, chẳng nếm vị dở, chẳng xúc chạm xấu, chẳng nghĩ pháp ác, chẳng đọa nẻo ác, sanh trong trời người thường nhận lãnh vô số việc vui tốt đẹp, nhưng không đắm nhiễm, thường không xa lìa chư Phật Thế Tôn; từ nước Phật này đến nước Phật khác được gần gũi chư Phật, trồng các căn lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì các hữu tình này đối với vô lượng công đức căn lành của các chúng Bồ-tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhờ nhân duyên này, căn lành tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề xong, thường như thật lợi ích cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình cùng tận đời vị lai, làm cho trụ cảnh giới Vô dư Niết-bàn.

Vì thế nên, này Kiều-thi-ca! Các thiện nam tử trụ Bồ-tát thừa v.v… đối với công đức căn lành của các Bồ-tát đều nên tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ngay khi tùy hỷhồi hướng không nên chấp trước. Ngay nơi tâm, lìa tâm, tùy hỷ hồi hướng, không nên chấp trước. Ngay nơi tâm tu hành, lìa tâm tu hành. Nếu người nào không chấp trước như vậy và tùy hỷ hồi hướng, tu hạnh của các Đại Bồ-tát thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, độ các hàng trời, người, A-tố-lạc v.v... thoát khỏi sanh tử, đắc Bát Niết-bàn. Nhờ nhân duyên này, các loài hữu tình đối với công đức căn lành của các Bồ-tát đều nên phát tâm tùy hỷ hồi hướng, có thể khiến cho vô lượng, vô biên hữu tình trồng các căn lành, đạt được lợi ích an vui lớn.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Tâm hoàn toàn như huyễn thì Đại Bồ-tát làm sao có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có tâm như huyễn phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Ông thấy có huyễn phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con không thấy huyễn, cũng không thấy có tâm như huyễn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Nếu ông không thấy huyễn, không thấy tâm như huyễn, hoặc có chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, thì ông thấy có tâm như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đềphải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn chẳng thấy có chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, lại có tâm như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ông thế nào? Hoặc chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn thì ông thấy có pháp như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không thấy có chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, lại có pháp như vậy có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không thấy ngay nơi pháp lìa tâm có thể nói những pháp là có, là không, bởi tất cả pháp hoàn toàn lìa vậy. Nếu tất cả pháp hoàn toàn lìa thì không thể trình bày là có hay là không. Nếu pháp nào không thể trình bày là có, là không, thì không thể nói có thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì chẳng phải pháp không sở hữu có thể đắc Bồ-đề được vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở hữu, tánh của nó bất khả đắc, không nhiễm, không tịnh, hoàn toàn lìa pháp, không sở hữu, nên không thể đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng hoàn toàn lìa. Nếu pháp hoàn toàn lìa thì pháp đó không nên tu tập, cũng không nên lìa bỏ, lại cũng không nên nêu lên.

Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã hoàn toàn lìa thì vì sao có thể nói các Đại Bồ-tát nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Kính bạch Thế Tôn! quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng hoàn toàn lìa, thì vì sao pháp hoàn toàn lìa lại có thể đắc pháp hoàn toàn lìa? Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa đúng ra là không thể nói chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đã hoàn toàn lìa; quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng hoàn toàn lìa.

Thiện Hiện nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn lìa, nên được lìa hoàn toàn quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng phải hoàn toàn lìa thì đúng ra chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn lìa nên mới được gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thế nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát chẳng phải không nương tựa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xachứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Tuy chẳng phải lìa pháp hay là được lìa pháp mà đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chẳng phải không y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xađắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thế nên, các Đại Bồ-tát đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì phải nên siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sự thực hành nghĩa thú của các Đại Bồ-tát rất là sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy. Sự thực hành nghĩa thú của các Đại Bồ-tát rất là sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát thường làm việc khó làm. Tuy thực hành nghĩa thú sâu xa như vậy nhưng đối với pháp của địa vị Thanh văn, Độc giácthể không chứng đắc.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy, việc làm của các Đại Bồ-tát không khó, đúng ra không nên nói những vị đó thường làm được việc khó làm. Vì sao? Vì sự chứng nghĩa thú của các Đại Bồ-tát hoàn toàn bất khả đắc, sự chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc. Pháp chứng, người chứng, nơi chốn chứng, thời gian chứng cũng bất khả đắc.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe lời như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không lo buồn, ăn năn, không kinh, không sợ thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kính bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát này thực hành như thế, chẳng thấy các tướng, chẳng thấy ta hành, chẳng thấy chẳng hành, chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa là sự tu hành của ta, chẳng thấy quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là sự chứng đắc của ta, cũng chẳng thấy nơi chốn chứng, thời gian chứng v.v…

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng không thấy thì tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng chẳng thấy thì tức là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này đối với việc như vậy cũng không phân biệt. Tuy thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng không nghĩ: Ta hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, gần gũi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v...

Kính bạch Thế Tôn! Ví như hư không không nghĩ: Ta cách việc kia hoặc xa hoặc gần. Vì sao? Vì hư không không di động, cũng không phân biệt. Vì không phân biệt nên các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như người được biến hóa chẳng nghĩ: chất biến hóa, thầy biến hóa cách ta gần; những người bàng quan v.v… cách ta xa. Vì sao? Vì người được biến hóa ra không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả pháp vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như bóng hình không nghĩ: Ta với bóng hình kia đang cách ta gần; các pháp gương, nước v.v... cách xa ta. Vì sao? Vì bóng hình hiện ra không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nghĩ thế này: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác; ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp không ưa, không ghét. Vì sao? Vì Như Lai đã đoạn trừ tất cả sự ưa ghét, phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên đối với tất cả pháp không ưa, không ghét. Vì sao? Vì giống như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa, đoạn trừ hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt nên đối với các pháp không ưa, không ghét. Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa ngăn chặn hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt nên đối với các pháp không ưa, không ghét.

Kính bạch Thế Tôn! Như những người do các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa hiện ra, không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì những người được hóa hiện ra đó không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, không nghĩ: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác muốn tạo ra hóa nhânsai bảo những người được hóa hiện ra đó làm những việc kia. Nhưng những người được biến hóa không nghĩ: Ta thường làm ra sự nghiệp như vậy. Vì sao? Vì những người được biến hóa đó không phân biệt đối với sự nghiệp đã tạo vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, vì có sự việc cần phải làm nên siêng năng tu học. Tu học xong, tuy thành tựu sự nghiệp đã tạo nhưng không có sự phân biệt đối với việc đã làm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không phân biệt đối với tất cả pháp vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như có người thợ khéo, hoặc học trò của ông ta, vì có việc cần làm nên tạo ra người hoặc nam, hoặc nữ, hoặc voi, ngựa v.v... bằng máy. Các máy móc này tuy có hành động nhưng đối với việc làm đó hoàn toàn không phân biệt. Vì sao? Vì pháp của máy móc là như vậy, không phân biệt vậy.

Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng như vậy, có việc cần làm nên phải làm. Làm xong, tuy thành tựu các sự nghiệp khác nhau nhưng đối với sự việc ấy hoàn toàn không phân biệt. Vì sao? Vì pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là như vậy, không phân biệt đối với các pháp vậy.

 
XXVII. PHẨM KIÊN CỐ

01

Lúc ấy, ngài Xá-lợi Tử hỏi ngài Thiện Hiện:

- Khi các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xahành pháp bền chắc hay hành pháp không bền chắc?

Thiện Hiện thưa:

- Khi các Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xahành pháp không bền chắc, không hành pháp bền chắc. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và tất cả pháp hoàn toàn không có tánh bền chắc. Vì sao? Vì khi các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì ngay nơi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa và tất cả pháp còn chẳng thấy có pháp không bền chắc có thể đắc, huống là thấy có pháp bền chắc có thể đắc.

Bấy giờ có vô lượng Thiên tử cõi Dục, Thiên tử cõi Sắc đồng nghĩ: Nếu các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… có thể phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì tuy thực hành nghĩa lý sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng thường không chứng đắc Niết-bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác. Do nhân duyên này nên loài hữu tình này rất là hiếm có, thường làm được những việc khó làm, phải nên kính lễ. Vì sao? Vì các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này tuy hành tánh pháp nhưng ngay nơi đó không chứng đắc.

Khi ấy, Thiện Hiện biết tâm niệm các Thiên tử nên bảo với họ:

- Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này không chứng Niết-bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cũng chưa phải là rất hiếm có, cũng chưa phải là khó. Nếu Đại Bồ-tát nào biết tất cả pháp và các hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, mà vẫn phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mặc áo giáp tinh tấn, thề độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, giúp vào cảnh giới Vô dư bát Niết-bàn, thì các Đại Bồ-tát này mới thật là hiếm có, thường làm được việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào tuy biết hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc mà vẫn phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, mặc giáp tinh tấn vì muốn điều phục các loài hữu tình thì giống như có người muốn điều phục hư không. Vì sao? Này Thiên tử! Vì hư không ly, nên biết tất cả hữu tình cũng ly. Hư không Không, nên biết tất cả hữu tình cũng Không. Hư không không chắc thật, nên biết tất cả hữu tình cũng không chắc thật. Hư không không sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng không sở hữu. Do nhân duyên này, Đại Bồ-tát đó mới thật là hiếm có, thường làm được những việc khó làm.

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát này mặc giáp thệ nguyện vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, thì giống như có kẻ mặc áo giáp chiến đấu cùng hư không

Thiên tử nên biết! Đại Bồ-tát này mặc giáp thệ nguyện vì muốn lợi ích tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình và áo giáp đại nguyện hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng ly. Vì hữu tình Không, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng Không. Hữu tình không bền chắc, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng không bền chắc. Hữu tình không sở hữu, nên áo giáp đại nguyện này phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Việc Đại Bồ-tát này điều phục lợi ích hữu tình cũng bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng ly. Hữu tình Không, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng Không. Hữu tình không bền chắc, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng không bền chắc. Hữu tình không sở hữu, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng không sở hữu. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng ly. Hữu tình Không, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng Không. Hữu tình không chắc thật, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng không chắc thật. Hữu tình không sở hữu, nên các Đại Bồ-tát phải biết cũng không sở hữu.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe như vậy không chìm đắm, cũng không lo buồn, hối hận, chẳng kinh, chẳng sợ, thì nên biết Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Vì sao? Này Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên phải biết sắc uẩn cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết sắc xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết sắc giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn thức giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhãn xúc cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết địa giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết nhân duyên cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết vô minh cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết Dự lưu quả cho đến Độc giác Bồ-đề cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết trí nhất thiết trí cũng ly.

Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp cũng ly.

Thiên tử nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng khiếp, chẳng chìm, chẳng đắm… thì nên biết Đại Bồ-tát đó là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Vì nhân duyên gì các Đại Bồ-tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, thì tâm vị đó không kinh, không sợ, không khiếp, không chìm, không đắm?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Do tất cả pháp đều xa lìa nên các Đại Bồ-tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó không kinh, không sợ, không khiếp, không chìm, không đắm. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp hoặc sự sợ, đối tượng để sợ, hoặc nơi chốn sợ, thời gian sợ, người sợ v.v... những sợ này hoàn toàn không sở đắc, vì tất cả pháp không thể đắc vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nào nghe thuyết việc như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không kinh sợ, không lo buồn, không ăn năn, thì nên biết Đại Bồ-tát này là người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này thấy tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng thể trình bày là đối tượng đắm chìm, sự chìm, nơi chốn đắm chìm, thời gian đắm chìm, người đắm chìm v.v... Do các sự đắm chìm v.v... này mà các Đại Bồ-tát nghe như vậy tâm không chìm đắm, cũng không sợ hãi, không lo buồn, không hối hận.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì chư Thiên, Đế Thích, Đại Phạm Thiên vương, Chủ thế giới v.v... cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nào thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì chẳng những thường được chư Thiên, Đế Thích, Đại Phạm thiên vương, Chủ thế giới v.v... cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, mà Đại Bồ-tát này cũng được trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Tịnh cư và trời, rồng, A-tố-lạc v.v... khác cũng đều kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Đại Bồ-tát này thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ-tát ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương thường hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy tức là làm cho tất cả công đức căn lành mau được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thường thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì thường được chư Phật và chư Bồ-tát cùng các trời, rồng, A-tố-lạc v.v... nhớ nghĩ, bảo vệ. Nên biết Đại Bồ-tát đó là người đi đúng chỗ chư Phật đã đi, cũng tu hành đúng hạnh Phật đã tu hành, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này đã được không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả quân ma và các ngoại đạo, bạn bè xấu ác v.v... chẳng thể làm chướng ngại được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này tâm của họ vững chắc hơn Kim cang. Giả sử các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên đều biến thành ma, mỗi một ma này lại hóa ra chừng ấy ác ma. Các ác ma đó đều có vô lượng, vô số thần lực, các ác ma đó dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại được Đại Bồ-tát này thực hành được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Để việc các loài hữu tình trong thế giới tam thiên đại thiên đều biến thành ma qua một bên. Giả sử tất cả hữu tìnhthế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều biến thành ma. Các chúng ma này lại hóa thành chừng ấy ác ma, các ác ma này đều có vô lượng, vô số thần lực. Các ác ma này dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại Đại Bồ-tát này thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, biết tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu được hai pháp thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến không thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Hai pháp đó là:

Một, chẳng bỏ tất cả hữu tình.

Hai, quán sát các pháp đều Không.

Lại nữa Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào thành tựu hai pháp, thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến không thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hay thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Hai pháp đó là:

Một, làm đúng tất cả như những gì đã nói.

Hai, thường được chư Phật hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì các thiên thần v.v... thường đến lễ kính, gần gũi, cúng dường, thưa hỏi khuyến khích. Thưa thế này: “Lành thay Đại sĩ! Ngài thường thực hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể làm nơi nương tựa cho tất cả hữu tình không có nơi nương tựa, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có chỗ quay về nương tựa, làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ hướng đến cho kẻ không nơi hướng đến, làm nhà cửa cho kẻ không nhà cửa, làm hòn đảo cho kẻ không hòn đảo, làm ánh sáng cho kẻ mù tối, làm tai mắt cho kẻ điếc đui. Vì sao? Thiện nam tử! Vì nếu thường an trụ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì sẽ mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại được.

Quyển thứ 553
HẾT

 

02

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương với các chúng Bí-sô vây quanh trước sau đang tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa và ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của Đại Bồ-tát này. Đó là công đức chơn tịnh của sự an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thiện Hiện nên biết! Như Ta ngày nay ngự giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho mọi người, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán các Đại Bồ-tát, như Đại Bồ-tát Bảo Tràng v.v... và các Đại Bồ-tát với danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức đang trụ vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tịnh tu phạm hạnh, ở cõi Phật Bất Động. Đó là công đức chơn tịnh của sự an trú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giácvô lượng, vô số, vô biên thế giới hiện tại trong mười phương tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, ở đó cũng có các Đại Bồ-tát tịnh tu phạm hạnh, không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của Đại Bồ-tát kia. Đó gọi là công đức chơn tịnh không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Khi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của tất cả chúng Đại Bồ-tát sao?

Phật dạy:

- Chẳng phải vậy, chẳng phải khi các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của tất cả chúng Đại Bồ-tát.

Thiện Hiện nên biết! Có Đại Bồ-tát đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thực hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát này được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị đó.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có chúng Đại Bồ-tát nào chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúngtự nhiên ở giữa chúng hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của đại chúng không?

Phật dạy:

- Cũng có. Nghĩa là có chúng Đại Bồ-tát tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng tu học phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát này cũng được đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người được nói đến đó là Đại Bồ-tát nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có các chúng Đại Bồ-tát khi theo Phật Bất Động làm Bồ-tát để học theo sự tu và sự thực hành, tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát này tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa chúng. Lại có chúng Đại Bồ-tát theo Đại Bồ-tát Bảo Tràng v.v... để học theo sự tu, sự thực hành, tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa; các Đại Bồ-tát này tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, ngay nơi tánh vô sanh của tất cả pháp tuy rất tin hiểu nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Tuy rất tin hiểu tánh của tất cả pháp hoàn toàn vắng lặng nhưng chưa được nhập vào địa vị Bất thối chuyển. Nhưng Đại Bồ-tát này đã trụ phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa nên cũng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng, thì Đại Bồ-tát này vượt qua địa vị của các Thanh văn, Độc giác, gần được thọ ký không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, chắc chắn sẽ an trụ địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết về nghĩa thú của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, hết lòng tin hiểu, không nghi ngờ, không hoang mang, chỉ nghĩ: Nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa như Phật đã dạy, tất nhiên quyết định không điên đảo. Đại Bồ-tát này nên nghĩ: Ta đối với nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa hết lòng tin hiểu chắc chắn rồi, ngay nơi đây hoặc ở chỗ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Bất Động và chỗ các Đại Bồ-tát nghe tất cả Bát-nhã ba-la-mật-đa, đối với nghĩa thú sâu xa hết lòng tin hiểu. Tin hiểu rồi siêng năng tu phạm hạnh, sẽ được địa vị Bất thối chuyển. Trụ địa vị này rồi mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào chỉ nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy còn được vô biên công đức lợi ích thù thắng, huống là hết lòng tin hiểu và tu hành đúng như lời dạy, buộc niệm tư duy về nghĩa thú sâu xa thì Đại Bồ-tát này an trụ chơn như, gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sẽ tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp nào lìa chơn như thì không đắc được. Vậy thì nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai là người có thể gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Người nào sẽ vì người nào và thuyết pháp yếu nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ông hỏi: Pháp nào lìa chơn như không đắc được, thì nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai là người gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Người nào sẽ vì người nào và thuyết pháp nào?

Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Pháp lìa chơn như hoàn toàn không thể đắc, như thế thì làm sao có thể nói pháp trụ chơn như.

Thiện Hiện! Chơn như còn không thể đắc, huống là có pháp trụ chơn như và làm sao lại có người có thể gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Và làm sao lại có người có thể vì người khác thuyết pháp.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như không thể tự trụ chơn như, vì trong đây hoàn toàn không có người trụ, sự trụ, nên chơn như không thể gần trí nhất thiết; vì trong đây hoàn toàn không có người gần và sự gần, nên chơn như không thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì trong đây hoàn toàn không có tánh sai biệt giữa người chứng đắc và sự chứng đắc. Chơn như không thể vì người thuyết pháp, vì trong đây hoàn toàn không có người thuyết, sự thuyết vậy. Vì thuận theo thế tục nên nói có Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, an trụ chơn như, gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa thú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, rất khó tin hiểu như vậy. Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tuy biết các pháp đều bất khả đắc nhưng vẫn cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tìnhviệc làm rất khó. Vì sao? Vì nhất định không có pháp có thể trụ chơn như, cũng không có pháp có thể gần trí nhất thiết, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Cũng không có người có thể tuyên thuyết pháp yếu nhưng các Bồ-tát nghe việc như vậy mà tâm không chìm đắm, không nghi, không ngờ, không kinh, không sợ, cũng không hoang mang… thì những việc như vậy thật là hiếm có.

Khi ấy, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Như lời ông nói, các chúng Bồ-tát nghe pháp sâu xa, tâm không chìm đắm, không nghi ngờ, không kinh, không sợ, cũng không hoang mang để cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tìnhviệc làm rất khó, thật hiếm có.

Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán các pháp đều Không, hoàn toàn không sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai nghi, ai ngờ, ai kinh, ai sợ, ai hoang mang? Thế nên việc này chưa phải là hiếm có, nhưng vì hữu tình ngu si điên đảo, chẳng thể thông đạt được các pháp đều Không, nên cầu Bồ-đề, muốn tuyên thuyết phương tiện thiện xảo thì chẳng phải quá khó.

Trời Đế Thích thưa:

- Tôn giả Thiện Hiện! Những điều tôn giả nói ra đều y vào Không, thế nên những lời nói ra thường không ngăn ngại. Như có người lấy mũi tên, ngữa mặt bắn lên hư không, hoặc xa hoặc gần đều không ngăn ngại. Những lời tôn giả nói ra cũng như vậy, hoặc sâu, hoặc cạn, tất cả đều y vào Không. Trong sự việc ấy, ai có thể dám gây trở ngại?

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì con cùng tôn giả Thiện Hiện đã luận bàn là thuận thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai. Ngay nơi pháp tùy phápnói đúng, phải không?

Thế Tôn bảo trời Đế Thích:

- Những sự luận bàn của ông và Thiện Hiện đều thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai. Ngay nơi pháp tùy pháplời nói không điên đảo. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì cụ thọ Thiện Hiệnbiện tài y vào Không mà trình bày được. Vì sao? Vì cụ thọ Thiện Hiện quán sát thấy tất cả pháp đều hoàn toàn Không:

Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa còn chẳng đắc, huống là có người thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Trí nhất thiết còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc trí nhất thiết.

Chơn như còn chẳng đắc, huống là có người đắc chơn như, thành Như Lai.

Tánh vô sanh còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc tánh vô sanh.

Bồ-đề còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc Bồ-đề của Phật.

Mười lực còn chẳng đắc, huống là có người thành tựu mười lực.

Bốn điều không sợ còn chẳng đắc, huống là có người thành tựu bốn điều không sợ.

Các pháp còn chẳng đắc, huống là có người thuyết pháp.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì cụ thọ Thiện Hiện đối với tất cả pháp trụ, trụ viễn ly; đối với tất cả pháp trụ, trụ vô sở đắc; quán tất cả pháp hoàn toàn Không. Sự hành, người hành v.v… đều bất khả đắc vậy.

Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với tất cả pháp trụ, trụ viễn ly, trụ vô sở đắc, so với hành trụ vi diệu của các chúng Đại Bồ-tát đã trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, cho đến vô số cực phần cũng không bằng một.

Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì sự an trú vào hạnh vi diệu Bát-nhã ba-la-mật-đa của các chúng Đại Bồ-tát này đã trụ, trừ sự an trụ của Như Lai; đối với các trụ của các Bồ-tát, Độc giácThanh Văn khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì vậy nên, Kiều-thi-ca! Những Đại Bồ-tát nào muốn đối với tất cả hữu tình là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng trong chúng thì phải trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa, không được tạm rời bỏ.

 
XXVIII. PHẨM TÁN HOA

Bấy giờ trong đại hộivô lượng, vô số trời Ba mươi ba vui mừng hớn hở, đồng đem hương hoa vi diệu trên trời dâng lên Như Lai và các Bồ-tát. Khi ấy, trong chúng có sáu ngàn Bí-sô đều từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, lệch che y vai trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay, cúi đầu, hướng về Thế Tôn. Nhờ thần lực của Phật nên trong lòng bàn tay của mỗi người tự nhiên đầy dẫy hương hoa vi diệu. Chúng Bí-sô này vui mừng hớn hở, được điều chưa từng có. Mỗi người đem hoa này dâng lên Phật và các Bồ-tát. Dâng hoa xong, đồng phát nguyện:

- Nhờ năng lực căn lành thù thắng này, chúng con nguyện thường được an trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau thẳng tới quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, Thế Tôn mỉm cười. Thường pháp của chư Phật, từ miệng phóng ra vô số hào quang xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích lục, màu vàng bạc, pha lê… chiếu khắp vô lượng, vô biên quốc độ của chư Phật, trên đến trời Phạm Thế, dưới thấu Phong luânlần hồi trở lại xoay quanh bên hữu của Phật ba vòng rồi nhập vào nơi đỉnh đầu.

Khi ấy, A-nan-đà đứng dậy, chấp tay đảnh lễ Phật, bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào Thế Tôn hiện tướng mỉm cười như vậy? Chư Phật hiện mỉm cười chẳng phải là không có nhân duyên. Cúi xin Như Lai thương xót chỉ dạy.

Phật bảo A-nan-đà:

- Các Bí-sô này trong kiếp Tinh Dụ ở đời đương lai đều được thành Phật đồng danh hiệuTán Hoa, đầy đủ mười hiệu, số Thanh văn Tăng tất cả bằng nhau, số tuổi thọ cũng đồng hai mươi ngàn kiếp. Ngôn giáo của mỗi một đức Phật kia diễn ra, lý thú sâu rộng, lưu bố khắp trời người. Chánh pháp trụ thế hai vạn kiếp. Cõi nước của chư Phật kia rộng rãi, trang nghiêm thanh tịnh, người vật phồn thịnh, giàu vui. Các đức Như Lai kia ở cõi nước của mình đem các đệ tử du hành quanh khắp thôn, thành, làng xóm, quốc ấp, vương đô để chuyển vận bánh xe diệu pháp, độ chúng trời người, làm cho được lợi ích an vui thù thắng. Trụ xứ nơi các đức Thế Tôn kia qua lại, ngày đêm thường mưa hoa đẹp năm sắc. Do nhân duyên này nên Ta mỉm cười.

Thế nên, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn được an trụ tối thắng trụ thì phải trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu Đại Bồ-tát nào muốn được an trụ Như Lai trụ thì phải trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, làm cho được rốt ráo thì Đại Bồ-tát này đời trước, hoặc là từ loài người chết, sanh trở lại nơi đây; hoặc từ trên trời Đổ-sử-đa chết sanh lại nhơn gian. Vì sao? Vì Bồ-tát đó ở đời trước, hoặc ngay trong loài người, hoặc ở trên trời, do từng được nghe tất cả Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên đời này thường siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Khánh Hỷ nên biết! Như Lai hiện thấy: nếu Đại Bồ-tát siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, không đoái hoài đến thân mạng, của cải thì nhất định được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Loài hữu tình nào ưa thích lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe xong thọ trì, đọc tụng, biên chép, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, tuyên thuyết, mở bày, khuyên răn, chỉ dạy cho thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v... thì nên biết vị đó là Đại Bồ-tát, quá khứ từng gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế. Nghe xong, thọ trì, đọc tụng, biên chép, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, cũng từng vì người tuyên thuyết, mở bày, khuyên răn, chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nên đời này có thể làm xong việc như vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Loài hữu tình này từng ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ trồng các căn lành nên đời này thường làm được những việc như vậy. Loài hữu tình này nên nghĩ thế này: Ta đời trước chẳng phải từ nơi Thanh văn v.v... nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, mà nhất định đã từ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy. Ta đời trước chẳng phải chỉ gần gũi, cúng dường, trồng các căn lành nơi Thanh văn v.v... mà nhật định đã gần gũi, cúng dường, trồng các căn lành nơi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Do nhân duyên này nên nay được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, ưa thích thọ trì, đọc tụng, biên chép, siêng năng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp, tuyên thuyết cho tất cả hữu tình không hề mỏi mệt.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu hữu tình chẳng kinh, chẳng sợ, ưa thích lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, nghe rồi thọ trì, đọc tụng, biên chép, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp. Hoặc pháp, hoặc nghĩa, hoặc văn, hoặc ý đều thông suốt hoàn toàntùy thuận tu học thì các hữu tình này chính là đang gần Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác của chúng ta.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu loài hữu tình nào nghe thuyết nghĩa thú Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy mà hết lòng tin hiểu, không hủy báng, không ngăn cản, phá hoại, thì các hữu tình đó đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, đã trồng nhiều căn lành nơi chư Phật, cũng được vô lượng bạn lành hộ trì.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các hữu tình nào thường trồng các căn lành nơi ruộng phước tối thắng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thì không những nhất định sẽ đắc: hoặc quả Thanh văn, hoặc quả Độc giác, hoặc quả Như Lai, mà còn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì cần phải thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không ngăn ngại, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ-tát, làm cho thật viên mãn.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát có thể thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không chướng ngại, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ-tát thật viên mãn, mà Đại Bồ-tát này không chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ trụ địa vị Thanh văn, Độc giác thì chắc chắn không có lẽ đó. Thế nên, nếu các Đại Bồ-tát nào muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên thông suốt hoàn toàn nghĩa thú sâu xa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không còn chướng ngại, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ-tát thật là viên mãn.

Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa phó chúc cho ông. Ông nên thọ trì, đọc tụng thông suốt, đừng để quên mất.

Khánh Hỷ nên biết! Trừ kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ra, thọ trì các pháp khác mà Ta đã giảng thuyết, giả sử có quên mất thì tội đó còn nhẹ, nhưng nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này thọ trì không đúng, cho đến chỉ quên mất một câu thì tội đó rất nặng.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho đến có thể thọ trì đúng một câu chẳng quên mất thì được phước vô lượng. Còn nếu đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thọ trì đúng, cho đến quên mất chỉ một câu thì mắc tội rất nặng, và lượng phước đồng như trước.

Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ân cần phó chúc cho ông. Ông phải tự mình thọ trì, đọc tụng cho thông suốt, tư duy đúng pháp, giảng thuyết, phân biệt, chỉ dạy cho tất cả mọi người, giúp cho người thọ trì hiểu rõ hoàn toàn văn nghĩa, ý thú.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tư duy đúng pháp và giảng thuyết rộng rãi cho tất cả mọi người, phân biệt, chỉ dạy, làm cho mọi người hiểu rõ thì Đại Bồ-tát này chính là người thọ trì, bảo vệ và làm cho phát triển sự chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu loài hữu tình nào phát tâm ân cần thanh tịnh, đang ở chỗ Ta, muốn đem các tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Ta không mỏi mệt, thì nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn Bát-nhã ba-la-mật-đa, tư duy đúng pháp, giảng thuyết, phân biệt, chỉ dạy rộng rãi cho mọi người, làm cho họ hiểu rõ hoặc biên chép và dùng các thứ báu, trang sức xinh đẹp, thường đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, không nên lười bỏ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì chính là hiện tiền cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi Ta và chư Phật trong mười phương ba đời.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, phát tâm ân cần thanh tịnh, cung kính, ưa thích thì chính là phát tâm ân cần thanh tịnh, cung kính, ưa thích chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, hiện tại, vị lai.

Khánh Hỷ! Nếu ông ưa mến Ta, không xa rời Ta thì cũng phải ưa mến, không xa rời kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, cho đến một câu cũng đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Ta nói nhân duyên phó chúc kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế, dù trải qua vô lượng trăm ngàn đại kiếp cũng không thể nói hết. Tóm tắt mà nói, như Ta đã là Đại sư của các ông thì nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cũng là Đại sư của các ông. Các ông, trời, người, A-tố-lạc v.v... kính trọng Ta thì cũng phải kính trọng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Thế nên, Khánh Hỷ! Ta dùng vô lượng phương tiện thiện xảo phó chúc kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa cho ông, ông nên thọ trì, không thể quên mất. Ta nay đem Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này ở trước vô lượng đại chúng chư thiên, nhơn, A-tố-lạc v.v... phó chúc cho ông, ông nên thọ trì, đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Ta nay thành thật bảo ông: Những người với lòng tin thanh tịnh, muốn không bỏ Phật, muốn không bỏ Pháp, muốn không bỏ Tăng, lại muốn không bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật ba đời đã chứng, thì nhất định không nên xả bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Như vậy gọi là pháp của chư Phật chúng ta khuyên răn, chỉ dạy các đệ tử.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào ưa thích lắng nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thọ trì đọc tụng, thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng pháp, dùng vô lượng pháp môn giảng thuyết rộng rãi cho mọi người, phân biệt chỉ dạy, trình bày, xây dựng, làm cho người kia hiểu rõ, tinh tấn tu hành thì các thiện nam tử, thiện nữ v.v… này mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể mau viên mãn trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà được phát sanh vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều nương Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này mà sanh ra quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là mẹ của các Đại Bồ-tát, sanh ra các Đại Bồ-tát vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào siêng học sáu pháp Ba-la-mật-đa thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thế nên Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba-la-mật-đa này giao phó cho ông, ông nên chính mình thọ trì, đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba-la-mật-đa như vậy chính là kho tàng pháp vô tận của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Tất cả pháp của Phật đều từ đây mà sinh ra.

Khánh Hỷ nên biết! Pháp yếu mà chư Phật Thế Tôn ba đời thuyết ra đều là từ kho tàng pháp vô tận của sáu pháp Ba-la-mật-đa lưu xuất ra.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương kho tàng pháp vô tận của sáu pháp Ba-la-mật-đa tinh tấn tu họcchứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết! Đệ tử Thanh văn của chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều nương kho tàng pháp vô tận của sáu pháp Ba-la-mật-đa tinh tấn tu học xong, chính mình sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử ông vì hạng người Thanh văn thừa thuyết pháp Thanh văn, do pháp này nên hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả đều đắc quả A-la-hán, cũng chưa vì Ta làm đệ tử Phật, làm việc nên làm. Nếu ông vì hạng người Bồ-tát thừa tuyên thuyết một câu pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì liền gọi là vì Ta làm đệ tử Phật, làm việc đáng làm. Ta rất tùy hỷ với việc làm như vậy, hơn người giáo hóa tất cả hữu tình ba ngàn đại thiên thế giới, làm cho đắc quả A-la-hán.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu tình ba ngàn đại thiên thế giới đều nhờ năng lực giáo hóa của người khác, đồng một lúc đều được thân người, đồng một lúc chứng quả A-la-hán. Các A-la-hán này đều đạt các việc phước nghiệp về thí tánh, giới tánh, tu tánh. Ý ông thế nào? Các việc phước nghiệp kia có nhiều không?

Khánh Hỷ bạch:

- Rất nhiều! Kính bạch Thế Tôn. Rất nhiều! Kính bạch Thiện thệ. Các việc phước nghiệp kia vô lượng, vô biên.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Nếu Thanh văn nào có thể thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho Bồ-tát trải qua một ngày đêm thì phước đạt được nhiều hơn người kia.

Khánh Hỷ nên biết! Để việc một ngày đêm qua một bên, chỉ chừng một ngày. Lại để một ngày qua một bên, chỉ chừng nửa ngày. Lại để nửa ngày qua một bên, chỉ chừng một giờ. Lại để một giờ qua một bên, chỉ chừng khoảng một bữa ăn. Lại để khoảng một bữa ăn qua một bên, chỉ chừng giây lát. Lại để khoảng giây lát qua một bên, chỉ chừng chốc lát. Lại để chốc lát qua một bên, chỉ chừng khoảng khảy móng tay, hạng người Thanh văn này thường tuyên thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho Bồ-tát thì phước đạt được càng nhiều hơn trước. Vì sao? Vì phước đạt được của hạng người Thanh văn này vượt qua tất cả các căn lành của Thanh vănĐộc giác vậy.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào tuyên thuyết các pháp cho Thanh văn, giả sử tất cả hữu tìnhthế giới tam thiên đại thiên nhờ pháp này nên đều chứng quả A-la-hán, đều đầy đủ các thứ phước thù thắng thì ý ông thế nào? Đại Bồ-tát này do nhân duyên như vậy, đạt được phước có nhiều không?

Khánh Hỷ thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện thệ!. Phước đức của Đại Bồ-tát này đạt được nhiều vô lượng, vô biên.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Nếu Đại Bồ-tát nào tuyên thuyết pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các thiện nam tử Thanh văn thừa v.v…, hoặc thiện nam tử Độc giác thừa v.v…, hoặc thiện nam tử Vô thượng thừa v.v..., trải qua một ngày đêm thì phước đạt được càng nhiều hơn trước.

Khánh Hỷ nên biết! Để việc một ngày đêm qua một bên, chỉ chừng một ngày. Lại để một ngày qua một bên, chỉ chừng nửa ngày. Lại để nửa ngày qua một bên, chỉ chừng một giờ. Lại để một giờ qua một bên, chỉ chừng khoảng một bữa ăn. Lại để khoảng một bữa ăn qua một bên, chỉ chừng giây lát. Lại để khoảng giây lát qua một bên, chỉ chừng chốc lát. Lại để chốc lát qua một bên, chỉ chừng khoảng khảy móng tay, Đại Bồ-tát này thường tuyên thuyết pháp tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các thiên nam tử Tam thừa v.v… thì phước đức đạt được càng nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, vượt qua tất cả pháp thí tương ưng Thanh văn, Độc giác và các căn lành của Nhị thừa kia vậy. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát này tự cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng dùng pháp tương ưng Đại thừa chỉ dạy, khuyến khích, dắt dẫn, khen ngợi, khích lệ vui mừng các hữu tình khác, làm cho được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát này tự tu bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng dạy người khác tu bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tự trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, cũng dạy người khác trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Tự trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng dạy người khác trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Tự trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng dạy người khác trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tự tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, cũng dạy người khác tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tự tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng dạy người khác tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tự tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng dạy người khác tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tự tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng dạy người khác tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tự tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, cũng dạy người khác tu Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tự tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, cũng dạy người khác tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tự tu năm loại mắt, sáu phép thần thông, cũng dạy người khác tu năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tự tu mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng dạy người khác tu mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tự tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, cũng dạy người khác tu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tự tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, cũng dạy người khác tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tự tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cũng dạy người khác tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tự tu hạnh Đại Bồ-tát, cũng dạy người khác tu hạnh Đại Bồ-tát. Tự tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng dạy người khác tu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tự tu trí nhất thiết trí, cũng dạy người khác tu trí nhất thiết trí. Nhờ nhân duyên này, căn lành tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát này thành tựu căn lành thù thắng như thế, nhớ nghĩ đến căn lành thù thắng như thế mà thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chắc chắn không có lẽ đó.

Bấy giờ, bốn chúng vây quanh đức Thế Tôn, Ngài khen ngợi Bát-nhã ba-la-mật-đa, giao phó, dạy bảo A-nan-đà để thọ trì xong, lại ở trong đại hội trước đại chúng tất cả trời, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v... bằng năng lực thần thông, làm cho đại chúng đều thấy Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác với đại chúng Thanh văn, Bồ-tát vây quanh tuyên thuyết diệu pháp cho hội Hải dụ và thấy tướng nghiêm tịnh của cõi kia.

Thanh văn Tăng cõi đó đều là A-la-hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn thật tự tại, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, như ngựa khôn được điêu luyện, cũng như rồng lớn, việc đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ các gánh nặng, đạt được lợi ích, dứt các trói buột, tự biết đã được giải thoát, tâm chí tự tại rốt ráo hàng đầu.

Bồ-tát Tăng ở cõi đó, tất cả đều là mọi người đều biết, đã đắc Đà-la-ni và vô ngại biện tài, thành tựu vô lượng công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, không thể đo lường.

Phật thu hồi thần lực làm cho hội chúng trời, rồng, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược v.v... này không còn thấy Như Lai Bất Động Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Bồ-tát kia và đại chúng khác cùng tướng trang nghiêm, thanh tịnh của cõi Phật kia. Chúng hội và cõi trang nghiêm thanh tịnh của Phật kia hoàn toàn chẳng phải đối tượng của nhãn căn ở cõi này thấy tới được. Vì sao? Vì Phật thu hồi thần lực nên không thể thấy được cảnh ở xa kia vậy.

Khi ấy, Phật hỏi A-nan-đà:

- Ông có còn thấy cõi nước và chúng hội của Như Lai Bất Động nữa không?

A-nan-đà thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không còn thấy những việc đó, vì chẳng phải khả năng của mắt này đạt tới được.

Phật bảo cụ thọ A-nan-đà:

- Như chúng hội và cõi nước của Như Lai kia chẳng phải là cảnh giới của mắt ở cõi này có thể thấy được. Nên biết, các pháp cũng như vậy, chẳng phải cảnh giớinhãn căn v.v... có thể đạt tới được.

Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không tác dụng. Người thủ, sự thủ đều như hư không, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều như người do biến hóa, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v... chẳng chắc thật vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy, luôn chứng như vậy thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không chấp trước tướng các pháp này.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát khi học như vậy thì chính là học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát muốn được mau chứng viên mãn tất cả Ba-la-mật-đa cho đến rốt ráo tất cả pháp đến bờ kia thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì người học như vậy đối với các pháp học là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, làm lợi ích an lạc cho tất cả thế gian, là nơi nương tựa, giúp đỡ cho người không nơi nương tựa, giúp đỡ. Chư Phật Thế Tôn cho phép, khen ngợi người tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật Bồ-tát học pháp học này xong, trụ trong pháp học đó, thường dùng ngón tay phải hoặc ngón chân phải lấy thế giới tam thiên đại thiên ném qua phương khác, hoặc trả lại chỗ cũ mà hữu tình trong đó chẳng hay biết, chẳng tổn hại, chẳng sợ hãi. Vì sao? Vì công đức oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chẳng thể nghĩ bàn. Chư Phật và các Bồ-tát quá khứ, vị lai, hiện tại học Bát-nhã ba-la-mật-đa này đối với quá khứ, vị lai, hiện tạipháp vô vi đều được tri kiến vô ngại.

Thế nên, Khánh Hỷ! Ta bảo: Thường học Bát-nhã ba-la-mật-đa là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng trong các pháp học.

Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn nắm lấy lượng và biên giới của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì cũng giống như kẻ ngu si muốn nắm lấy lượng và biên giới của hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vô lượng, không biên giới vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Ta hoàn toàn không nói công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như danh thân v.v... có biên giới, có hạn lượng. Vì sao? Vì danh cú, văn thân là pháp có hạn lượng, còn công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xapháp không có hạn lượng, chẳng phải danh thân v.v... có thể lường được công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa lường được kia.

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên nào nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là không lường?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa tánh vô tận nên nói là không lường, tánh viễn ly nên nói là không lường, tánh vắng lặng nên nói là không lường, như Niết-bàn nên nói là không lường, như hư không nên nói là không lường, nhiều công đức nên nói là không lường, không biên cương nên nói là không lường, không thể lường nên nói là không lường.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều học Bát-nhã ba-la-mật-đa, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề viên mãn hoàn toàn, tuyên thuyết chỉ dạy cho các hữu tình nhưng Bát-nhã ba-la-mật-đa này luôn không dứt hết. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rộng lớn như hư không không thể cùng tận vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn cùng tận Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tức là muốn cùng tận biên giới hư không. Thế nên, Khánh Hỷ! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nói là không cùng tận. Do không cùng tận nên nói là không lường.

Khi ấy, Thiện Hiện nghĩ: Chỗ này sâu xa, ta nên thưa hỏi Phật. Nghĩ xong, bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này vì lẽ gì Như Lai dạy là không cùng tận?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như hư không rộng lớn, không thể cùng tận nên nói là không cùng tận.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát làm thế nào để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát nên quán sắc vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thọ, tưởng, hành, thức vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên quán sắc như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thọ, tưởng, hành, thức, như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp, xứ như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa; nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên làm như thế để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát quán sát mười hai duyên khởi xa lìa hai bên như thế. Các Đại Bồ-tát quán sát mười hai duyên khởi không chính giữa, không chung quanh. Đây là Diệu quán bất cộng của chúng Đại Bồ-tát. Nghĩa là cần phải an tọa tòa Bồ-đề vi diệu mới có thể quán sát đúng đắn lý thú sâu xa của mười hai duyên khởi như thế, như hư không rộng lớn không thể cùng tận nên mới có thể chứng đắc trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào đem hành tướng như hư không vô tận thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát đúng đắn mười hai duyên khởi, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Đại Bồ-tát nào thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì đều là do không y vào ý nghĩ phương tiện thiện xảo như thế. Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà không hiểu biết đúng thì nên dùng hành tướng vô tận nào để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa? Nên dùng hành tướng vô tận nào để quán sát đúng mười hai duyên khởi?

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nếu thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì đều là do xa lìa phát khởi phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nếu không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì tất cả đều do y vào và phát khởi phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đại Bồ-tát này nhờ y vào phương tiện thiện xảo như vậy để thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng hành tướng như hư không vô tận để quán sát đúng mười hai duyên khởi. Do nhân duyên này nên mau có thể viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, mau có thể chứng được trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát khi quán sát pháp duyên khởi như vậy không thấy có một pháp nào là không do nhân mà sanh ra, không thấy có một pháp nào tánh tướng thường trụ, không thấy có một pháp nào có người tạo tác và lãnh thọ.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa dùng hành tướng như hư không vô tận, quán sát đúng mười hai duyên khởi để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu các hạnh của Đại Bồ-tát để mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Nếu khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng hành tướng như hư không vô tận để phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, quán sát đúng mười hai duyên khởi thì bấy giờ Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc uẩn, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, uẩn.

Chẳng thấy nhãn xứ; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Chẳng thấy sắc xứ; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Chẳng thấy nhãn giới; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng thấy sắc giới; chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Chẳng thấy nhãn thức giới; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng thấy nhãn xúc; chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Chẳng thấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng thấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Chẳng thấy địa giới; chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Chẳng thấy nhân duyên; chẳng thấy đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Chẳng thấy vô minh; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não.

Chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Chẳng thấy pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không.

Chẳng thấy chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Chẳng thấy Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Chẳng thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo.

Chẳng thấy bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Chẳng thấy pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

Chẳng thấy tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Chẳng thấy Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Chẳng thấy Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa.

Chẳng thấy tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa.

Chẳng thấy năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Chẳng thấy mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Chẳng thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.

Chẳng thấy pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Chẳng thấy trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Chẳng thấy quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề.

Chẳng thấy tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Chẳng thấy quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Chẳng thấy trí nhất thiết trí.

Chẳng thấy thế giới của đức Phật này, chẳng thấy thế giới của đức Phật kia.

Chẳng thấy có pháp có thể thấy được thế giới của Phật này, Phật kia.

Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nào thường thực hành như vậy thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì bấy giờ ác ma rất buồn khổ như trúng tên độc. Ví như có người chết mất cha mẹ, thân tâm buồn khổ, ác ma cũng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Chỉ có một ác ma thấy các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa rất buồn khổ như trúng tên độc, hay là có nhiều ác ma? Hay tất cả ác ma khắp thế giới tam thiên đại thiên cũng đều như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả ác ma khắp thế giới tam thiên đại thiên thấy các Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa đều rất buồn khổ như trúng tên độc. Mỗi người chẳng thể an ổn nơi chỗ ngồi của mình. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát nào trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì thế gian, trời, người, A-tố-lạc v.v... xét tìm lỗi của người đó hoàn toàn chẳng thể được, cũng chẳng thể làm rối loạn, chướng ngại được.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì phải siêng năng an trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào thường siêng năng an trụ hạnh trụ vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì thường tu viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào có thể chính mình tu hành phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì có thể tu đầy đủ viên mãn tất cả Ba-la-mật-đa, có thể biết rõ ràng việc khó khăn xảy ra để xa lìa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào muốn chính mình thủ hộ phương tiện thiện xảo thì nên thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Nếu khi Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa thì khi ấy chư Phật Thế Tônvô lượng vô số thế giới hiện đang thuyết pháp, tất cả đều hộ niệm. Đại Bồ-tát này nên nghĩ: Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sanh ra trí nhất thiết. Đại Bồ-tát này nghĩ như vậy xong, lại nên suy nghĩ: Như các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc pháp, ta cũng sẽ chứng đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, suy nghĩ như vậy trải qua khoảnh khắc khảy móng tay thì công đức sanh ra hơn công đức đạt được của các chúng Bồ-tát trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu hạnh bố thí, huống là có thể trải qua một ngày, hay nửa ngày tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhớ nghĩ, tư duy về công đức của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào trải qua một ngày, hoặc cho đến chỉ trải qua trong khoảng khảy móng tay, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa, nhớ nghĩ tư duy công đức của chư Phật thì Đại Bồ-tát này không lâu sẽ trụ địa vị Bất thối chuyển. Đại Bồ-tát này thường được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng hộ niệm.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thường được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hộ niệm thì nhất định chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chẳng còn rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... Đại Bồ-tát này quyết định chẳng còn đọa vào các nẻo ác, quyết định không sanh trong các địa ngục vô gián, thường sanh nẻo lành, không xa lìa chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nào tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhớ nghĩ, tư duy về công đức của chư Phật trải qua khoảng khảy móng tay thì còn được vô biên công đức lợi ích thù thắng, huống là trải qua một ngày, hoặc hơn một ngày tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhớ nghĩ, tư duy về công đức của chư Phật, như Đại Bồ-tát Hương Tượng thường luôn tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, phát khởi Bát-nhã ba-la-mật-đa và nhớ nghĩ, tư duy công đức của chư Phật thường không xa lìa, thì Đại Bồ-tát này nay tu hành phạm hạnh, ở chỗ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Bất Động.

Quyển thứ 554
HẾT

 
XXIX. PHẨM TÙY THUẬN

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên quán các pháp không hòa hợp để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không phân biệt để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không phá hoại để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không biến đổi để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không biểu hiện để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp theo hiểu biết để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chỉ có trình bày giả danh để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chỉthiết lập giả thuyết để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chỉ giả tạo, không nơi chốn, không thời gian, cũng không thật sự có thể tuyên thuyết để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chỉ có tánh-tướng-dụng hư giả để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc uẩn không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thọ, tưởng, hành, thức uẩn không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não không hạn lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không tướng trạng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tướng thông đạt các pháp để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sự thanh tịnh của bổn tánh các pháp để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không nói năng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không sanh v.v... để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không diệt v.v... để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp Niết-bàn v.v... để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp chơn như v.v... để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không đến đi để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không mình và người để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp mình và người để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp bản tánh tịnh của phàm phu và Thánh để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vứt bỏ gánh nặng, không phát triển lợi ích các pháp nữa để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không phương tiện để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì bản tánh sắc uẩn không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhãn xứ không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh sắc xứ không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhãn giới không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh sắc giới không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhãn thức giới không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhãn xúc không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh địa giới không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh nhân duyên không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không phương hướng, không nơi chốn.

Bản tánh vô minh không phương hướng, không nơi chốn. Bản tánh hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não không phương hướng, không nơi chốn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nên quán các pháp tịch diệt, an lạc để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không ái, không lìa ái để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không nhiễm, không lìa nhiễm để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì tánh chơn thật của sắc uẩn không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của thọ, tưởng, hành, thức uẩn không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhãn xứ không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của sắc xứ không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhãn giới không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của sắc giới không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhãn thức giới không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhãn xúc không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của địa giới không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của nhân duyên không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không nhiễm, không lìa nhiễm.

Tánh chơn thật của vô minh không nhiễm, không lìa nhiễm. Tánh chơn thật của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não không nhiễm, không lìa nhiễm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nên quán các pháp hoàn toàn thanh tịnh để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không dính mắc, lìa dính mắc để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp giác ngộ Bồ-đề và Phật trí để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp không, vô tướng, vô nguyện để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp lương dược từ biđứng đầu để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp từ trú, phạm trú không chấp thủ, không vượt qua để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp đối với các hữu tình không giận, không hờn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán biển cả không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán hư không không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc uẩn lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não lìa các tướng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc uẩn không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thọ, tưởng, hành, thức uẩn không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xứ không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc xứ không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán sắc giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn thức giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhãn xúc không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán địa giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán nhân duyên không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán vô minh không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán ánh sáng mặt trời chiếu soi không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả âm thanh không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả hữu tình không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán pháp lành chứa nhóm không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán các pháp đắc định không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả Phật pháp không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả pháp không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tánh Không không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả tâm và tâm sở không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tâm hành không giới hạn để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán pháp lành không chuyển biến để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán pháp bất thiện vô lượng để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nên quán tất cả pháp như Sư tử rống để tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Vì sao? Vì sắc uẩn như biển lớn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như biển lớn.

Nhãn xứ như biển lớn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như biển lớn.

Sắc xứ như biển lớn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như biển lớn.

Nhãn giới như biển lớn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như biển lớn.

Sắc giới như biển lớn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như biển lớn.

Nhãn thức giới như biển lớn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như biển lớn.

Nhãn xúc như biển lớn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như biển lớn.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như biển lớn. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như biển lớn.

Địa giới như biển lớn. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như biển lớn.

Nhân duyên như biển lớn. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như biển lớn.

Vô minh như biển lớn. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như biển lớn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như hư không. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như hư không.

Nhãn xứ như hư không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hư không.

Sắc xứ như hư không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như hư không.

Nhãn giới như hư không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như hư không.

Sắc giới như hư không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như hư không.

Nhãn thức giới như hư không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như hư không.

Nhãn xúc như hư không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hư không.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hư không. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hư không.

Địa giới như hư không. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hư không.

Nhân duyên như hư không. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hư không.

Vô minh như hư không. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như hư không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Thọ, tưởng hành, thức như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhãn xứ như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Sắc xứ như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhãn giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Sắc giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhãn thức giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhãn xúc như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Địa giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Nhân duyên như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Vô minh như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử, sầu thán, khổ, ưu não như núi Diệu Cao, trang sức bằng các thứ xinh đẹp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như mặt trời sanh ánh sáng. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhãn xứ như mặt trời sanh ánh sáng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như mặt trời sanh ánh sáng.

Sắc xứ như mặt trời sanh ánh sáng. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhãn giới như mặt trời sanh ánh sáng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như mặt trời sanh ánh sáng.

Sắc giới như mặt trời sanh ánh sáng. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhãn thức giới như mặt trời sanh ánh sáng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhãn xúc như mặt trời sanh ánh sáng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như mặt trời sanh ánh sáng.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như mặt trời sanh ánh sáng. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như mặt trời sanh ánh sáng.

Địa giới như mặt trời sanh ánh sáng. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như mặt trời sanh ánh sáng.

Nhân duyên như mặt trời sanh ánh sáng. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như mặt trời sanh ánh sáng.

Vô minh như mặt trời sanh ánh sáng. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như mặt trời sanh ánh sáng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như âm thanh không giới hạn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như âm thanh không giới hạn.

Nhãn xứ như âm thanh không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như âm thanh không giới hạn.

Sắc xứ như âm thanh không giới hạn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như âm thanh không giới hạn.

Nhãn giới như âm thanh không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như âm thanh không giới hạn.

Sắc giới như âm thanh không giới hạn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như âm thanh không giới hạn.

Nhãn thức giới như âm thanh không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như âm thanh không giới hạn.

Nhãn xúc như âm thanh không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như âm thanh không giới hạn.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như âm thanh không giới hạn. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như âm thanh không giới hạn.

Địa giới như âm thanh không giới hạn. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như âm thanh không giới hạn.

Nhân duyên như âm thanh không giới hạn. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như âm thanh không giới hạn.

Vô minh như âm thanh không giới hạn. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như âm thanh không giới hạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như hữu tình giới không giới hạn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như hữu tình giới không giới hạn.

Nhãn xứ như hữu tình giới không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hữu tình giới không giới hạn.

Sắc xứ như hữu tình giới không giới hạn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như hữu tình giới không giới hạn.

Nhãn giới như hữu tình giới không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như hữu tình giới không giới hạn.

Sắc giới như hữu tình giới không giới hạn. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như hữu tình giới không giới hạn.

Nhãn thức giới như hữu tình giới không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như hữu tình giới không giới hạn.

Nhãn xúc như hữu tình giới không giới hạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hữu tình giới không giới hạn.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hữu tình giới không giới hạn. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hữu tình giới không giới hạn.

Địa giới như hữu tình giới không giới hạn. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hữu tình giới không giới hạn.

Nhân duyên như hữu tình giới không giới hạn. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hữu tình giới không giới hạn.

Vô minh như hữu tình giới không giới hạn. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như hữu tình giới không giới hạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như đất không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như đất không biên giới.

Nhãn xứ như đất không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như đất không biên giới.

Sắc xứ như đất không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như đất không biên giới.

Nhãn giới như đất không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như đất không biên giới.

Sắc giới như đất không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như đất không biên giới.

Nhãn thức giới như đất không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như đất không biên giới.

Nhãn xúc như đất không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như đất không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như đất không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như đất không biên giới.

Địa giới như đất không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như đất không biên giới.

Nhân duyên như đất không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như đất không biên giới.

Vô minh như đất không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như đất không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như nước không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như nước không biên giới.

Nhãn xứ như nước không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như nước không biên giới.

Sắc xứ như nước không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như nước không biên giới.

Nhãn giới như nước không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như nước không biên giới.

Sắc giới như nước không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như nước không biên giới.

Nhãn thức giới như nước không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như nước không biên giới.

Nhãn xúc như nước không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như nước không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như nước không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như nước không biên giới.

Địa giới như nước không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như nước không biên giới.

Nhân duyên như nước không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như nước không biên giới.

Vô minh như nước không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như nước không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như lửa không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như lửa không biên giới.

Nhãn xứ như lửa không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như lửa không biên giới.

Sắc xứ như lửa không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như lửa không biên giới.

Nhãn giới như lửa không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như lửa không biên giới.

Sắc giới như lửa không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như lửa không biên giới.

Nhãn thức giới như lửa không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như lửa không biên giới.

Nhãn xúc như lửa không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như lửa không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như lửa không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như lửa không biên giới.

Địa giới như lửa không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như lửa không biên giới.

Nhân duyên như lửa không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như lửa không biên giới.

Vô minh như lửa không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như lửa không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như gió không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như gió không biên giới.

Nhãn xứ như gió không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như gió không biên giới.

Sắc xứ như gió không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như gió không biên giới.

Nhãn giới như gió không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như gió không biên giới.

Sắc giới như gió không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như gió không biên giới.

Nhãn thức giới như gió không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như gió không biên giới.

Nhãn xúc như gió không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như gió không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như gió không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như gió không biên giới.

Địa giới như gió không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như gió không biên giới.

Nhân duyên như gió không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như gió không biên giới.

Vô minh như gió không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như gió không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như hư không không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như hư không không biên giới.

Nhãn xứ như hư không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như hư không không biên giới.

Sắc xứ như hư không không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như hư không không biên giới.

Nhãn giới như hư không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như hư không không biên giới.

Sắc giới như hư không không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như hư không không biên giới.

Nhãn thức giới như hư không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như hư không không biên giới.

Nhãn xúc như hư không không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như hư không không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như hư không không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như hư không không biên giới.

Địa giới như hư không không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như hư không không biên giới.

Nhân duyên như hư không không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như hư không không biên giới.

Vô minh như hư không không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu bi, khổ, ưu não như hư không không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn lìa tướng, tập họp thiện. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa tướng tập họp thiện.

Nhãn xứ lìa tướng tập họp thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa tướng tập họp thiện.

Sắc xứ lìa tướng tập họp thiện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa tướng tập họp thiện.

Nhãn giới lìa tướng tập họp thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa tướng tập họp thiện.

Sắc giới lìa tướng tập họp thiện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa tướng tập họp thiện.

Nhãn thức giới lìa tướng tập họp thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa tướng tập họp thiện.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra lìa tướng tập họp thiện. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra lìa tướng tập họp thiện.

Địa giới lìa tướng tập họp thiện. thủy, hỏa, phong, không, thức giới lìa tướng tập họp thiện.

Nhân duyên lìa tướng tập họp thiện. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên lìa tướng tập họp thiện.

Vô minh lìa tướng tập họp thiện. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não lìa tướng tập họp thiện.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn lìa tướng tập họp pháp. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa tướng tập họp pháp.

Nhãn xứ lìa tướng tập họp pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa tướng tập họp pháp.

Sắc xứ lìa tướng tập họp pháp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa tướng tập họp pháp.

Nhãn giới lìa tướng tập họp pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa tướng tập họp pháp.

Sắc giới lìa tướng tập họp pháp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa tướng tập họp pháp.

Nhãn thức giới lìa tướng tập họp pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa tướng tập họp pháp.

Nhãn xúc lìa tướng tập họp pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc lìa tướng tập họp pháp.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra lìa tướng tập họp pháp. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra lìa tướng tập họp pháp.

Địa giới lìa tướng tập họp pháp. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới lìa tướng tập họp pháp.

Nhân duyên lìa tướng tập họp pháp. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên lìa tướng tập họp pháp.

Vô minh lìa tướng tập họp pháp. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não lìa tướng tập họp pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như định không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như định không biên giới.

Nhãn xứ như định không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như định không biên giới.

Sắc xứ như định không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như định không biên giới.

Nhãn giới như định không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như định không biên giới.

Sắc giới như định không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như định không biên giới.

Nhãn thức giới như định không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như định không biên giới.

Nhãn xúc như định không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như định không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như định không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như định không biên giới.

Địa giới, như định không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như định không biên giới.

Nhân duyên như định không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như định không biên giới.

Vô minh như định không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như định không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn, lìa tự tánh sắc uẩn, chơn như sắc uẩnPhật pháp. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa tự tánh thọ uẩn v.v... chơn như thọ uẩn v.v... là Phật pháp.

Nhãn xứ, lìa tự tánh nhãn xứ, chơn như nhãn xứ là Phật pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa tự tánh nhĩ xứ v.v... chơn như nhĩ xứ v.v... là Phật pháp.

Sắc xứ, lìa tự tánh sắc xứ, chơn như sắc xứPhật pháp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa tự tánh thanh xứ v.v... chơn như thanh xứ v.v... là Phật pháp.

Nhãn giới lìa tự tánh nhãn giới, chơn như nhãn giớiPhật pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới lìa tự tánh nhĩ giới v.v... chơn như nhĩ giới v.v... là Phật pháp.

Sắc giới lìa tự tánh sắc giới, chơn như sắc giớiPhật pháp. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới lìa tự tánh thanh giới v.v... chơn như thanh giới v.v... là Phật pháp.

Nhãn thức giới lìa tự tánh nhãn thức giới, chơn như nhãn thức giớiPhật pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới lìa tự tánh nhĩ thức giới v.v... chơn như nhĩ thức giới v.v... là Phật pháp.

Nhãn xúc lìa tự tánh nhãn xúc, chơn như nhãn xúc là Phật pháp. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, lìa tự tánh nhĩ xúc v.v... chơn như nhĩ xúc v.v... là Phật pháp.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, lìa tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chơn như các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là Phật pháp. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, lìa tự tánh nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ v.v... chơn như nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ v.v... là Phật pháp.

Địa giới lìa tự tánh địa giới, chơn như địa giới v.v... là Phật pháp. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới, lìa tự tánh thủy giới v.v... chơn như thủy giới v.v... là Phật pháp.

Nhân duyên lìa tự tánh nhơn duyên, chơn như nhân duyên, là Phật pháp. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên lìa tự tánh đẳng vô gián duyên v.v... chơn như đẳng vô gián duyên v.v... là Phật pháp.

Vô minh lìa tự tánh vô minh, chơn như vô minhPhật pháp. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não, lìa tự tánh hành v.v... chơn như hành v.v... là Phật pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn, pháp tánh không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn, pháp tánh không biên giới.

Nhãn xứ, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, pháp tánh không biên giới.

Sắc xứ, pháp tánh không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, pháp tánh không biên giới.

Nhãn giới, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, pháp tánh không biên giới.

Sắc giới, pháp tánh không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, pháp tánh không biên giới.

Nhãn thức giới, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, pháp tánh không biên giới.

Nhãn xúc, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, pháp tánh không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, pháp tánh không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, pháp tánh không biên giới.

Địa giới, pháp tánh không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới, pháp tánh không biên giới.

Nhân duyên, pháp tánh không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, pháp tánh không biên giới.

Vô minh, pháp tánh không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não, pháp tánh không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn Không, pháp tánh không biên giới. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không, pháp tánh không biên giới.

Nhãn xứ Không, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Không, pháp tánh không biên giới.

Sắc xứ Không, pháp tánh không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Không, pháp tánh không biên giới.

Nhãn giới Không, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Không, pháp tánh không biên giới.

Sắc giới Không, pháp tánh không biên giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Không, pháp tánh không biên giới.

Nhãn thức giới Không, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Không, pháp tánh không biên giới.

Nhãn xúc Không, pháp tánh không biên giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Không, pháp tánh không biên giới.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra Không, pháp tánh không biên giới. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra Không, pháp tánh không biên giới.

Địa giới Không, pháp tánh không biên giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới Không, pháp tánh không biên giới.

Nhân duyên Không, pháp tánh không biên giới. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên Không, pháp tánh không biên giới.

Vô minh Không, pháp tánh không biên giới. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não Không, pháp tánh không biên giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh sắc uẩn vậy. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh thọ uẩn v.v...

Nhãn xứ, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhãn xứ vậy. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ xứ v.v...

Sắc xứ, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh sắc xứ vậy. Thanh, hương, vị xúc, pháp xứ, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh thanh xứ v.v...

Nhãn giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhãn giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ giới v.v...

Sắc giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh thanh giới v.v...

Nhãn thức giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ thức giới v.v...

Nhãn xúc, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhãn xúc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ xúc v.v...

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ v.v...

Địa giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh thủy giới v.v...

Nhân duyên, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh nhân duyên. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh đẳng vô gián duyên v.v...

Vô minh, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não, tâm không biên giới, vì tâm hành sanh hành v.v...

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhãn xứ thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Sắc xứ thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhãn giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Sắc giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhãn thức giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhãn xúc thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Địa giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Nhân duyên thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Vô minh thiện bất thiện cho đến bất khả đắc. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não thiện bất thiện cho đến bất khả đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn không động. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không động.

Nhãn xứ không động. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không động.

Sắc xứ không động. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không động.

Nhãn giới không động. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không động.

Sắc giới không động. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không động.

Nhãn thức giới không động. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không động.

Nhãn xúc không động. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không động.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không động. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không động.

Địa giới không động. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới không động.

Nhân duyên không động. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không động.

Vô minh không động. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não không động.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc uẩn như sư tử rống. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn như sư tử rống.

Nhãn xứ như sư tử rống. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như sư tử rống.

Sắc xứ như sư tử rống. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như sư tử rống.

Nhãn giới như sư tử rống. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới như sư tử rống.

Sắc giới như sư tử rống. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới như sư tử rống.

Nhãn thức giới như sư tử rống. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới như sư tử rống.

Nhãn xúc như sư tử rống. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc như sư tử rống.

Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra như sư tử rống. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra như sư tử rống.

Địa giới như sư tử rống. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới như sư tử rống.

Nhân duyên như sư tử rống. Đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên như sư tử rống.

Vô minh như sư tử rống. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu thán, khổ, ưu não như sư tử rống.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nếu có thể tư duy, quán sát, giác ngộ các uẩn như vậy thì tùy thuận Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền có thể xa lìa ý nghĩ dua nịnh. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ kiêu ngạo. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ khen mình. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ chê người. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ ngã tưởng. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ danh lợi. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ năm triền cái. Cũng có thể xa lìa ý nghĩ tham lam ganh ghét. Nhờ vậy, cũng có thể được viên mãn tất cả công đức chơn tịnh hiếm có, khó đạt được; cũng có thể được viên mãn việc làm xinh đẹpthanh tịnh cõi Phật. Cũng có thể viên mãn Phật pháp vô thượng, đó là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi đức Thế Tôn thuyết kinh này xong, vô lượng chúng Đại Bồ-tát với Bồ-tát Từ Thị làm thượng thủ, cụ thọ Thiện Hiện và Xá-lợi Tử, A-nan-đà v.v... các Đại Thanh văn cùng các trời, rồng, A-tố-lạc, v.v.. Tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Quyển thứ 555
HẾT

 
HỘI THỨ 5
I. PHẨM THIỆN HIỆN

Tôi nghe như vầy:

Một thời Thế Tôn ngự ở đỉnh núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng Đại Bí-sô một vạn hai ngàn người đều là bậc A-la-hán. Cụ thọ Thiện Hiện, Xá-lợi Tử v.v... làm Thượng thủ, ngoại trừ Hiền giả A-nan-đà còn ở bậc hữu học. Lại có vô lượng vô số Đại Bồ-tát đắc vô ngại biện, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Diệu Cát Tường v.v... làm Thượng thủ.

Khi ấy, đức Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Thầy hãy dùng biện tài tuyên thuyết, chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho chúng Đại Bồ-tát để cho các chúng Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được thành tựu.

Khi ấy, Xá-lợi Tử nghĩ: Cụ thọ Thiện Hiện do tự lực của mình tuyên thuyết chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát, hay là nhờ năng lực oai thần của Như Lai để thuyết?

Ngài Thiện Hiện biết được ý nghĩ của ngài Xá-lợi Tử nên thưa:

- Những lời chỉ dạy của đệ tử Phật đều là nhờ vào năng lực oai thần của Như Lai. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì chư Phật giảng thuyết pháp yếu cho các đệ tử, các đệ tử y theo lời Phật dạy tinh tấn tu học cho đến lúc chứng được tánh thật của các pháp; chứng xong chỉ dạy lại cho người khác. Nếu không trái với tánh thật của các pháp thì đó là nhờ oai thần của Như Lai, cũng là sự chứng nhập dòng pháp tánh bình đẳng. Thế nên việc tôi sẽ chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát đều là nhờ năng lực oai thần của Như Lai.

Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn dạy con chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa mau được thành tựu.

Kính bạch Thế Tôn! Nói các Bồ-tát là khái niệm về pháp nào để gọi là Bồ-tát?

Kính bạch Thế Tôn! Vì con chẳng thấy có pháp nào được gọi là Đại Bồ-tát, cũng chẳng thấy có pháp nào được gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Kính bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy, chẳng đắc Bồ-tát và pháp Bồ-tát. Cũng chẳng thấy, chẳng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa thì làm sao bảo con chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát?

Kính bạch Thế Tôn! Con dạy những Đại Bồ-tát nào, tu hành những Bát-nhã ba-la-mật-đa gì để cho mau được thành tựu?

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết những lời này, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ, y như lời dạy mà an trụ, mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát đó đáng được chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa để cho mau thành tựu. Vì nếu không có sự chấp trước thì chính đó là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên học như vầy: học rằng không nên chấp đắm tâm Bồ-tát này. Vì sao? Vì tâm này chẳng phải tâm, vì bản tánh thanh tịnh vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tâm này chẳng phải tâm tánh phải không?

Thiện Hiện hỏi lại Xá-lợi Tử:

- Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không là có thể đắc, phải không?

Xá-lợi Tử thưa:

- Thưa không, Thiện Hiện.

Thiện Hiện lại bảo:

- Này Xá-lợi Tử! Tâm chẳng phải tâm tánh, hoặc có hoặc không và đã không thể đắc. Như vậy thì làm sao có thể hỏi tâm này chẳng phải là tâm tánh phải không?

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Những gì gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu không hư hoại, cũng không sai khác thì chính đó gọi là tâm, chẳng phải tâm tánh.

Xá-lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời thầy nói, Phật dạy: Thầy là người trụ định Vô tránh cùng tột hàng đầu. Thật đúng như lời Thánh dạy. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết lời này, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, chẳng kinh, chẳng sợ, y như lời dạy mà an trụ, mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát này đã được Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu Đại Bồ-tát nào quán sát tâm chẳng phải tâm tánh như thế thì Đại Bồ-tát này chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu các hữu tình nào muốn siêng tu học hoặc địa vị Thanh văn, hoặc địa vị Độc giác, hoặc địa vị Bồ-tát thì thường nên lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa cho thông suốt hoàn toàn và đúng như lời dạy mà tu hành. Vì sao? Vì trong giáo nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này giảng thuyết rộng rãi về tất cả pháp cần nên học. Các Đại Bồ-tát siêng năng tinh tấn tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa này thì ở nơi nào cũng đều được thiện xảo.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Tâm Bồ-tát con không biết, cũng không đắc. Chúng Đại Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật-đa con cũng đều không thấy có thật sự nào có thể đắc thì làm sao bảo con tuyên thuyết, chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát?

Kính bạch Thế Tôn! Con quán sát tất cả hoặc sanh hoặc diệt, hoặc nhiễm hoặc tịnh hoàn toàn bất khả đắc, nhưng trong đó nói có danh tự Bồ-tát và Bát-nhã v.v... nên có sự nghi ngờ.

Kính bạch Thế Tôn! Tên Bồ-tát v.v... hoàn toàn không xác định, cũng không có chỗ ở. Vì sao? Vì tên Bồ-tát v.v... hoàn toàn không sở hữupháp không sở hữu thì không định, không trụ. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe thuyết việc này, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ thì nên biết Đại Bồ-tát này chắc chắn an trụ địa vị Bất thối chuyển, dùng vô sở trụ để làm phương tiện trụ không chỗ trụ.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nên trụ sắc, cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì nếu trụ sắc thì hành theo sắc, chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Nếu trụ thọ, tưởng, hành, thức thì hành theo thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì chẳng phải người thực hành có thể giữ gìn được Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu không thể giữ gìn được Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng thể tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu chẳng thể tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng thể viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu chẳng thể viên mãn Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng thể thành tựu trí nhất thiết trí. Nếu chẳng thể thành tựu trí nhất thiết trí thì chẳng thể làm lợi ích cho các hữu tình. Vì sao? Vì sắc không thể hộ trì; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể hộ trì; Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể hộ trì; sắc không thể hộ trì nên chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể hộ trì nên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không thể hộ trì nên chẳng phải là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Các Đại Bồ-tát nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy.

Nếu người nào học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy thì gọi đó là Bồ-tát không có sự hộ trì trong vòng Tam-ma-địa. Tài sản nhiều vô lượng vô số, chẳng bị tất cả Thanh văn, Độc giác chiếm đoạt, cũng chẳng hộ trì trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí này chẳng phải thủ tướng tu. Người đắc các tướng thủ đều là phiền não. Nếu người nào thủ tướng tu đắc trí nhất thiết trí thì Phạm chí Thắng Quân chẳng nên tin hiểu trí nhất thiết trí. Phạm chí Thắng Quân này tuy nhờ năng lực tin hiểu mà quy hướng Phật pháp, gọi là Tùy-tín-hành, nhưng có thể dùng phần ít trí quán sát tánh tất cả pháp là Không để ngộ nhập trí nhất thiết trí. Ngộ nhập xong, không thủ tướng sắc, cũng không thủ tướng thọ, tưởng, hành, thức; không bằng sự ưa thích quán thấy trí này, không bằng sự được nghe, quán thấy trí này; không bằng sắc trong quán thấy trí này, không bằng sắc ngoài quán thấy trí này, không bằng sắc trong ngoài quán thấy trí này; cũng không lìa sắc quán thấy trí này, không bằng thọ, tưởng, hành, thức bên trong quán thấy trí này; không bằng thọ, tưởng, hành, thức bên ngoài quán thấy trí này, không bằng thọ, tưởng, hành, thức trong ngoài quán thấy trí này; cũng không lìa thọ, tưởng, hành, thức quán thấy trí này.

Phạm chí Thắng Quân bằng các môn ly tướng v.v... như vậy nên càng tin hiểu trí nhất thiết trí, gọi đó là Tùy-tín-hành; hoàn toàn không thủ trước tất cả pháp. Phạm chí bằng môn ly tướng như vậy tin hiểu trí nhất thiết trí xong, hoàn toàn không thủ tướng tất cả pháp, cũng không tư duy các pháp vô tướng. Phạm chí này do năng lực nắm vững tất cả pháp nên không thủ, không xả, không đắc, không chứng. Khi ấy Phạm chí Thắng Quân đối với việc tin hiểu của mình cho đến Niết-bàn cũng không chấp thủ, đắm trước. Bằng tánh pháp chơn thật để định lượng vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này bằng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không giữ gìn sắc, cũng không giữ gìn thọ, tưởng, hành, thức. Tuy không có sự hộ trì các pháp nhưng vẫn chưa viên mãn mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng v.v... thì hoàn toàn không giữa đường nhập Bát Niết-bàn. Nên biết, các Đại Bồ-tát này bằng Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mặc dù không chấp thủ, đắm trước nhưng có thể thành tựu trí nhất thiết trí, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên quán như vầy: Sao gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Cái gì là Bát-nhã ba-la-mật-đa? Hay là pháp không sở hữu bất khả đắcBát-nhã ba-la-mật-đa ư? Trong không sở hữu, không kia, không đây thì lệ thuộc vào chỗ nào?

Kính bạch Thế Tôn! Nếu khi Đại Bồ-tát quán sát kỹ việc như thế, tâm không chìm đắm, cũng không thối lui, không kinh, không sợ, thì nên biết Đại Bồ-tát này không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vì nhân duyên gì sắc lìa tánh sắc? Thọ, tưởng, hành, thức lìa tánh thọ, tưởng, hành, thức? Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa nhưng lại nói Đại Bồ-tát không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Sắc lìa tánh sắc; Thọ, tưởng, hành, thức lìa tánh thọ, tưởng, hành, thức; Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tánh Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tướng các pháp như vậy cũng lìa tánh, tánh cũng lìa tướng, tướng cũng lìa tướng, tánh cũng lìa tánh; vì tướng và đối tượng tướng hoàn toàn bất khả đắc. Nếu Đại Bồ-tát hiểu biết đúng đắn về nghĩa như thế thì chẳng lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát học pháp học này thì mau có thể thành tựu trí nhất thiết trí phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy. Nếu Đại Bồ-tát nào học pháp học này thì mau thành tựu trí nhất thiết trí. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì Đại Bồ-tát này biết tất cả pháp không sanh diệt vậy. Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát có thể thực hành như vậy thì chính là gần kề trí nhất thiết trí.

Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát nếu hành sắc là hành tướng, nếu hành sanh của sắc là hành tướng, nếu hành hoại của sắc là hành tướng, nếu hành diệt của sắc là hành tướng, nếu hành Không của sắc là hành tướng.

Nếu bảo ta hành là hành có sở đắc, nếu hành thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành sanh của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành hoại của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành diệt của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng, nếu hành Không của thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng.

Nếu bảo ta có thể hành là hành có sở đắc, nếu Đại Bồ-tát nghĩ thế này: Ta là Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì đó là hành tướng.

Nếu Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: Người có thể hành như vậy là tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng là hành tướng, thì nên biết Đại Bồ-tát tát này không có phương tiện thiện xảo.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vậy các Đại Bồ-tát nên hành như thế nào mới gọi là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa?

Thiện Hiện thưa:

- Các Đại Bồ-tát nếu không hành sắc, không hành tướng của sắc, không hành sanh của sắc, không hành hoại của sắc, không hành diệt của sắc, không hành Không của sắc thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Các Đại Bồ-tát nếu không hành thọ, tưởng, hành, thức; không hành tướng của thọ, tưởng, hành, thức; không hành sanh của thọ, tưởng, hành, thức; không hành hoại của thọ, tưởng, hành, thức; không hành diệt của thọ, tưởng, hành, thức; không hành Không của thọ, tưởng, hành, thức thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Nếu Đại Bồ-tát không chấp thủ hành, không chấp thủ không hành, không chấp thủ vừa hành vừa không hành, không chấp thủ không phải hành, không phải không hành, đối với không chấp thủ cũng không chấp thủ thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? -Xá-lợi Tử! Vì tất cả pháp đều không thể chấp thủ, không thể tùy hành, không thể chấp thọ, vì lìa tánh tướng vậy.

Như vậy gọi là các Đại Bồ-tát ngay trong vô sanh định luân của tất cả các pháp phát sanh tài sản vô lượng vô số. Không chung cùng với tất cả Thanh văn, Độc giác. Nếu Đại Bồ-tát nào an trụ định này thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, Thiện Hiện nương thần lực của Phật bảo Đại đức Xá-lợi Tử:

- Nếu Đại Bồ-tát nào tuy an trụ định này nhưng không thấy định này, cũng không đắm trước định này, cũng không nghĩ rằng ta đã nhập định này, đang nhập định này, sẽ nhập định này, người kia tư duy phân biệt như vậy và nhờ năng lực định này nên không khởi lên tất cả, thì biết người này đã được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ thọ ký Bất thối chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nhờ định này mà được chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tiền thọ ký thì Đại Bồ-tát này là người có thể chỉ dạy định như vậy, phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Chẳng phải vậy. Này Xá-lợi Tử! Vì sao? Vì thiện nam tử này không hiểu biết, không nghĩ tưởng định như thế.

Xá-lợi Tử thưa:

- Cụ thọ bảo các thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng định này sao?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi quả quyết nói các thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng định này. Vì sao? Vì các định này không sở hữu nên thiện nam tử kia không hiểu biết, không nghĩ tưởng các định như vậy. Các định như vậy tất cả pháp cũng không hiểu biết, không nghĩ tưởng. Vì sao? Vì tất cả pháp không sở hữu vậy.

Đức Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Như lời thầy nói nên Ta bảo thầy là người đứng hàng đầu trụ định vô tránh. Các Đại Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật-đa thì nên học như vậy. Ai học như vậy thì gọi là học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nào học như vậy thì gọi là chơn thật học Bát-nhã ba-la-mật-đa, phải không?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Nếu Đại Bồ-tát nào có thể học như vậy thì gọi là chơn thật học Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi học như vậy là học pháp nào?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi học như vậy là chẳng phải học pháp. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Như nguyên sự chấp trước của các phàm phu ngu si như thế chứ chẳng phải tất cả pháp có như vậy.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì các pháp làm sao mà có ra?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Như không sở hữu mà có ra như vậy. Nếu không thể hiểu rõ pháp vô sở hữu như vậy thì gọi là vô minh. Phàm phu ngu si đối với tánh vô sở hữu của tất cả pháp phát triển thế lực vô minh, tham ái nên phân biệt chấp trước hai bên: đoạn kiến, thường kiến. Do đây không biết, không thấy tánh các pháp vô sở hữu, nên phân biệt các pháp. Do phân biệt nên sanh chấp trước. Do chấp trước nên phân biệt tánh các pháp vô sở hữu. Do đó nên đối với pháp không thấy, không biết. Vì đối với các pháp chẳng thấy, chẳng biết nên phân biệt quá khứ, vị lai, hiện tại. Do phân biệt nên tham đắm danh sắc. Do đắm danh sắc nên phân biệt chấp trước pháp vô sở hữu. Đối pháp vô sở hữu phân biệt chấp trước nên đối với đạo như thật chẳng biết, chẳng thấy, nên chẳng thể ra khỏi sanh tử trong ba cõi, chẳng tin pháp Tứ đế, chẳng hiểu rõ Niết-bàn; thế nên bị rơi vào trong số phàm phu ngu si. Do đó, chúng Đại Bồ-tát này đối với tánh tướng của các pháp hoàn toàn không chấp trước.

Khi ấy Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát khi học như vậy, chẳng lẽ không cầu học trí nhất thiết trí?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Các Đại Bồ-tát khi học như vậy cũng không cầu học trí nhất thiết trí, nhưng các Đại Bồ-tát khi học như vậy, mặc dầu không sự học nhưng gọi đó là chơn thật học trí nhất thiết trí, mau có thể thành tựu trí nhất thiết trí vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Giả sử có người đến hỏi thế này: Người biến hóa nếu học trí nhất thiết trí thì người đó cũng có thể thành tựu trí nhất thiết trí phải không? Được hỏi như vậy thì con trả lời bằng cách nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta hỏi lại thầy, tùy ý thầy trả lời. Ý thầy thế nào? Huyễn khác với sắc, thọ, tưởng, hành, thức phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Huyễn chẳng khác sắc, sắc chẳng khác huyễn, huyễn chính là sắc, sắc chính là huyễn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý thầy thế nào? Trong năm thủ uẩn phát sanh các tướng đồng như tưởng và đưa ra những lời nói giả danh về Đại Bồ-tát phải không?

Thiện Hiện bạch:

- Đúng như vậy, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa cầu thẳng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tất cả đều như người biến hóa tu học. Vì sao? Vì người biến hóa chính là năm thủ uẩn vậy. Vì sao? Vì Ta nói năm uẩn: nhãn v.v... sáu căn đều như huyễn hóa, hoàn toàn không có thật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Nếu Đại Bồ-tát nào mới học Đại thừa, nghe nói như vậy thì tâm vị đó sẽ không kinh sợ, thối lui phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu Đại Bồ-tát nào mới học Đại thừa, gần gũi bạn ác, nghe thuyết như vậy, tâm liền kinh sợ thì sanh thối lui. Còn nếu gần bạn lành thì tuy nghe thuyết như vậy nhưng chẳng kinh sợ, cũng chẳng thối lui.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hạng người như thế nào là bạn ác của Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bạn ác của Bồ-tát nghĩa là dạy Bồ-tát nhàm chán, xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, xả bỏ tâm Bồ-đề, chấp lấy tướng các pháp, dạy cho học sách vở thủ tướng của thế tục, dạy cho học kinh pháp tương ưng với Thanh văn. Lại dạy gần gũi việc làm của ác ma. Như vậy gọi là bạn ác của Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Còn những hạng nào gọi là bạn lành của Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bạn lành của các Bồ-tát nghĩa là dạy Bồ-tát siêng năng tu tập Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến nói về việc làm của ma, tội lỗi của ma để cho người kia biết rõ mà phương tiện xả bỏ. Những hạng người này gọi là bạn lành chơn tịnh, đại thệ trang nghiêm của Bồ-tát mới học.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nói Bồ-tát, ý nghĩa danh tự đó là gì?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Học tất cả pháp không dính mắc, không chướng ngại. Hiểu rõ tất cả pháp không dính mắc, không chướng ngại để cầu chứng Bồ-đề, nên gọi đó là Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hạng này lại do nhân duyên nào gọi là Đại Bồ-tát?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì các Bồ-tát sẽ làm thượng thủ trong chúng đại hữu tình nên gọi là Đại Bồ-tát.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nay con muốn được nói về nghĩa của Đại Bồ-tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

- Tùy ý ông nói.

Xá-lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ-tát bằng phương tiện thiện xảo tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình, làm cho dứt hẳn ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, nhơn kiến, hữu kiến, vô kiến, đoạn kiến, thường kiến v.v... y theo nghĩa như thế nên gọi là Đại Bồ-tát.

Khi ấy, Thiện Hiện cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói về nghĩa của Đại Bồ-tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tùy ý ông nói.

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Vì các Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, tâm Vô đẳng đẳng; còn Thanh văn, Độc giác thì không thể phát tâm, cũng không chấp trước tâm như vậy. Vì sao? Vì tâm trí nhất thiết là chơn thật vô lậu, không rơi vào ba cõi, không nên sanh chấp trước nơi đó. Dựa vào nghĩa như thế nên gọi là Đại Bồ-tát.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nhân duyên thế nào mà đối với tâm như vậy cũng không chấp trước?

Thiện Hiện thưa:

- Các tâm như thế là không tâm tánh nên không chấp trước.

Khi ấy Mãn Từ Tử cũng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói về nghĩa của Đại Bồ-tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Tùy ý ông nói.

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do các Bồ-tát làm lợi ích an vui khắp tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại nguyện, huớng thẳng đến Đại thừa, cỡi xe lớn, nên gọi là Đại Bồ-tát.

Khi ấy Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Thế Tôn dạy: các Đại Bồ-tát mặc áo giáp đại nguyện. Vậy ngang với trình độ nào gọi là các Đại Bồ-tát mặc giáp đại nguyện?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: Ta nên độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn. Tuy làm việc như vậy nhưng không có pháp và các hữu tình đắc Niết-bàn. Vì sao? Vì thật tánh các pháp của nó là như vậy. Ví như nhà ảo thuật hoặc học trò của ông ta, ở giữa ngã tư đường hóa làm đại chúng, giết hại lẫn nhau. Ý ông thế nào? Trong ấy có việc giết hại lẫn nhau thật không?

Thiện Hiện bạch:

- Thưa không, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, tuy thị hiện độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư y bát Niết-bàn nhưng không có pháp và các hữu tình đắc Niết-bàn. Nếu Đại Bồ-tát nào nghe việc như vậy không kinh, không sợ, cũng không thối lui thì nên biết Đại Bồ-tát này là người mặc áo giáp đại nguyện.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật đã dạy, các Đại Bồ-tát không mặc áo giáp đại nguyện thì nên biết đó là mặc áo giáp đại nguyện.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì trí nhất thiết trí không tạo, không tác. Tất cả hữu tình cũng không tạo, không tác. Các Đại Bồ-tát vì muốn lợi ích hữu tình kia nên mặc áo giáp đại nguyện. Vì sao? Vì sắc chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo; chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo; chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức bất khả đắc vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy: sắc cho đến thức không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì sắc không buộc không mở. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở.

Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả nói sắc không buộc không mở; nói thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở, phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy ! Đúng như vậy.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tôn giả nói những sắc nào không buộc không mở? Nói những thọ, tưởng, hành, thức nào cũng không buộc không mở?

Thiện Hiện thưa:

- Tôi nói sắc như người biến hóa, không buộc không mở. Nói thọ, tưởng, hành, thức như người biến hóa, cũng không buộc không mở. Vì sao? Vì sắc cho đến thức không sở hữu nên không buộc không mở, xa lìa nên không buộc không mở, tịch tịnh nên không buộc không mở, không sanh diệt nên không buộc không mở. Đây gọi là Bồ-tát mặc áo giáp đại nguyện hướng thẳng đến Đại thừa.

Khi ấy, Mãn Từ Tử nghe thuyết như vậy, hoan hỷ tín nhận, ngồi lặng thinh. Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hướng đến xe Đại thừa. Thế nào là xe Đại thừa? Thế nào gọi là Bồ-tát hướng đến xe Đại thừa? Xe Đại thừa như thế phát xuất từ chỗ nào và đến nơi nào? Ai cỡi xe Đại thừa này để ra?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nói xe Đại thừa tức là khái niệm về vô lượng, vô số, vô biên công đức được thành tựu vậy. Thế nào là Bồ-tát hướng đến xe Đại thừa ấy? Nghĩa là các Bồ-tát siêng năng tu tập sáu pháp Ba-la-mật-đa, có thể từ địa này đến địa khác; đó gọi là Bồ-tát hướng đến xe Đại thừa. Xe Đại thừa như thế, từ chỗ nào phát xuất đến chỗ nào? Nghĩa là xe Đại thừa này từ trong ba cõi mà phát xuất đến trong trí nhất thiết trí nhưng lấy không hai làm phương tiện nên không phát xuất và không đến nơi thì ai là người cỡi xe Đại thừa này để ra? Hoàn toàn không người cỡi tức là cỡi xe Đại thừa này ra. Vì sao? Vì người cỡi, sự cỡi, cả hai pháp này hoàn toàn không sở hữu. Trong không sở hữu thì ai là người cỡi và pháp nào có thể gọi là bị cỡi?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Xe Đại thừa như vậy hơn khắp tất cả thế gian trời người, A-tố-lạc v.v… Xe Đại thừa như vậy ngang đồng với hư không. Ví như hư không có thể dung nạp khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Xe Đại thừa cũng như vậy, có thể dung chứa khắp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Lại như hư không, không đến, không đi, không ở, không có thể thấy; xe Đại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không ở, không có thể thấy. Lại như hư không, biên giới trước, sau, giữa hoàn toàn không thể đắc; xe Đại thừa cũng vậy, hoàn toàn không thể đắc biên giới trước, sau, giữa, ba đời bình đẳng nên gọi là xe Đại thừa.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Khi ấy, Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Trước đây Thế Tôn dạy Đại đức Thiện Hiện tuyên dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng Đại Bồ-tát, mà nay vì lẽ gì lại nói Đại thừa?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con thuyết Đại thừa sẽ không trái vượt với việc thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ông thuyết Đại thừa hoàn toàn thuận với Bát-nhã ba-la-mật-đa, không có sự trái vượt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con hoàn toàn không nắm bắt được biên giới trước, sau, giữa của Bồ-tát, vì sắc vô biên nên Bồ-tát cũng vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên Bồ-tát cũng vô biên. Ngay nơi sắc lìa sắc, Bồ-tát không sở hữu, bất khả đắc. Ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức, lìa thọ, tưởng, hành, thức, Bồ-tát cũng không sở hữu, bất khả đắc.

Như vậy, kính bạch Thế Tôn! Con đối với tất cả pháp này đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để tìm các Bồ-tát, cũng hoàn toàn không thấy đâu cả, hoàn toàn bất khả đắc, thì làm sao bảo con chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các Bồ-tát?

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Nói Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Như nói: chúng ta v.v... hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Trong đây những gì là sắc hoàn toàn không sanh? Nếu hoàn toàn không sanh thì không thể gọi là sắc. Những gì là thọ, tưởng, hành, thức hoàn toàn không sanh? Nếu hoàn toàn không sanh thì không thể gọi là thọ, tưởng, hành, thức.

Kính bạch Thế Tôn! Sắc là Bồ-tát bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức là Bồ-tát cũng bất khả đắc. Bất khả đắc này cũng bất khả đắc. Con đối với tất cả pháp như vậy, đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian tìm các Bồ-tát hoàn toàn bất khả đắc thì sẽ dạy những pháp nào, tu những pháp nào, ở những nơi chốn nào, thời gian nào và chứng những pháp nào?

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ-tát và Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Như nói: ngã v.v... hoàn toàn chẳng sanh, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh. Những gì là sắc đã không thể giữ, cũng không thể sanh? Những gì là thọ, tưởng, hành, thức đã không thể giữ, cũng không thể sanh? Tự tánh các pháp đã không thể giữ, cũng không thể sanh? Nếu pháp không tánh thì cũng không thể sanh. Pháp không sanh này cũng không thể sanh, thì con làm sao có thể đem Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn không sanh để dạy cho các Đại Bồ-tát hoàn toàn chẳng sanh?

Kính bạch Thế Tôn! Lìa pháp không sanh, không có pháp để có thể đắc. Cũng không có Bồ-tát có thể thực hành quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nghe nói lời này không kinh, không sợ thì nên biết Đại Bồ-tát này có thể thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì nếu khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa quán sát các pháp thì ngay khi ấy, Đại Bồ-tát liền không thủ sắc. Vì sao? Vì sắc không sanh tức là chẳng phải sắc, sắc không diệt cũng chẳng phải sắc. Đã không sanh, không diệt tức là không hai, không riêng. Nếu nói sắc tức là nhập vào số pháp không hai. Nếu khi Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, quán sát các pháp thì khi ấy Đại Bồ-tát không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức không sanh tức là không phải thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức không diệt, cũng không phải là thọ, tưởng, hành, thức. Đã không sanh không diệt tức là không hai, không riêng. Nếu nói thọ, tưởng, hành, thức tức là nhập vào số pháp không hai.

Khi ấy Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Như tôi hiểu nghĩa ngài nói, các Đại Bồ-tát v.v... hoàn toàn không sanh, nếu vậy thì do duyên nào có các Bồ-tát vì độ vô lượng, vô số hữu tình mà tu trăm ngàn hạnh khổ khó thực hành, chịu đủ vô lượng khổ lớn sanh tử?

Thiện Hiện thưa:

- Chẳng phải tôi đối với pháp vô sanh kia cho rằng có Bồ-tát vì độ vô lượng, vô số hữu tình mà tu trăm ngàn hạnh khổ khó thực hành, chịu đủ vô lượng khổ lớn sanh tử. Nhưng các Bồ-tát tuy làm việc này mà ngay trong đó không nghĩ tưởng hạnh khổ. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì nếu đối với hạnh khổ, phát sanh tưởng hạnh khổ thì không thể lợi ích cho vô lượng, vô biên hữu tình. Thế nên Bồ-tát đối với các hạnh khổ phát sanh tưởng hạnh vui; đối với hạnh khó thực hành, phát sanh tưởng dễ thực hành; đối với các hữu tình phát sanh ý tưởng như cha mẹ và chính bản thân mình. Vì độ cho người kia nên phát tâm Bồ-đề, nhờ đó mới có thể làm được những việc lợi ích lớn.

Khi ấy, Bồ-tát tư duy: Như tự tánh đối với tất cả pháp, đem tất cả chủng loại, tất cả nơi chốn, thời gian tìm không thể được. Các pháp trong ngoài cũng như vậy, hoàn toàn không sở hữu, hoàn toàn bất khả đắc. Nếu trụ tưởng này thì chẳng thấy có hạnh khổ khó thực hành. Nhờ vậy có thể vì vô biên hữu tình tu trăm ngàn hạnh khổ khó làm, làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Bồ-tát này thật không sanh, phải không?

Thiện hiện thưa:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Tất cả Bồ-tát đều thật không sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Chỉ có Bồ-tát thật không sanh, hay là trí nhất thiết cũng thật không sanh?

Thiện hiện thưa:

- Trí nhất thiết cũng thật không sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Là chỉ trí nhất thiết thật không sanh, hay là các phàm phu cũng thật không sanh?

Thiện hiện thưa:

- Các phàm phu cũng thật không sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu các Bồ-tát thật không sanh thì pháp của các Bồ-tát cũng phải không sanh. Nếu trí nhất thiết thật là vô sanh thì pháp trí nhất thiết cũng phải không sanh. Nếu phàm phu thật là không sanh thì pháp phàm phu cũng phải không sanh. Nếu vậy, Bồ-tát được trí nhất thiết, có phải đối với pháp vô sanh mà chứng vô sanh, phải không?

Thiện hiện đáp:

- Ý tôi không cho rằng: Trong pháp vô sanh có đắc, có chứng. Vì sao? Vì trong pháp vô sanh không có chứng đắc vậy.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng: pháp sanh chứng pháp sanh, hay là cho rằng: pháp vô sanh chứng pháp vô sanh?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng: pháp sanh chứng pháp sanh. Cũng không cho rằng: pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng: pháp sanh chứng pháp vô sanh, hay là cho rằng: pháp vô sanh chứng pháp sanh?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng: pháp sanh chứng pháp vô sanh. Cũng không cho rằng pháp vô sanh chứng pháp sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Nếu như vậy thì lẽ ra không đắc, không chứng?!

Thiện hiện thưa:

- Tuy có đắc có chứng, nhưng chẳng phải thật có.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Là cho rằng: pháp chưa sanh, sanh ra; hay là cho rằng: pháp đã sanh, sanh ra?

Thiện hiện thưa:

- Ý tôi không cho rằng: pháp chưa sanh, sanh ra. Cũng không cho rằng: pháp đã sanh, sanh ra.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Vì cho rằng: sanh sanh ra, hay là cho rằng: Không sanh sanh ra?

Thiện hiện đáp:

- Ý tôi không cho rằng: sanh, sanh ra. Cũng không cho rằng: Không sanh, sanh ra.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Ngài thuyết pháp không sanh là muốn biện thuyết tướng không sanh, phải không?

Thiện Hiện thưa:

- Tôi đối với sự thuyết về pháp vô sanh cũng không muốn diễn thuyết tướng vô sanh.

Xá-lợi Tử hỏi:

- Đối với pháp vô sanh, phát sanh lời nói vô sanh. Lời nói vô sanh này cũng vô sanh, phải không?

Thiện hiện thưa:

- Từ nơi pháp vô sanh phát sanh lời nói vô sanh. Pháp và lời này đều là nghĩa vô sanh, nhưng vì tùy thuận thế tục nên nói tướng vô sanh.

Xá-lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Trong những vị thuyết pháp, ngài là người đứng đầu. Trừ Phật Thế Tôn ra, không ai có thể bằng ngài. Vì sao? Vì tùy theo sự gạn hỏi về vô số pháp môn, ngài đều có thể trả lời được cả.

Thiện Hiện nói:

- Đệ tử của chư Phật không lệ thuộc, dính mắc vào tất cả pháp. Vì lẽ đó nên đều có thể tùy theo sự gạn hỏi mà mỗi mỗi tự tại đáp lại, không sợ. Vì sao? Vì tất cả pháp không có sự lệ thuộc vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Nếu các Bồ-tát có thể tùy theo câu hỏi mà trả lời như vậy là nhờ những oai lực của Ba-la-mật-đa nào mà được thành tựu?

Thiện Hiện thưa:

- Đây là nhờ oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa mà được thành tựu. Vì sao? Vì nói tất cả pháp không sự tuỳ thuộc là chính nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đathông suốt được tất cả pháp không sự lệ thuộc.

Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nghe lời như vậy, tâm không hoang mang, cũng không nghi ngờ, thì nên biết Bồ-tát này có thể trụ được hạnh trụ như thế, không xả ly, cũng có thể không xa lìa ý nghĩ đại bi.

Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Đại Bồ-tát trụ được hạnh trụ như thế, có thể không xả bỏ, cũng có thể không xa lìa ý nghĩ như vậy, thì tất cả hữu tình đều chính là Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng trụ hạnh này và ý nghĩ này, thường không xả bỏ tánh bình đẳng của Bát-nhã đại bi, vậy thì các Bồ-tát cùng các hữu tình lẽ ra phải không sai khác?

Thiện Hiện thưa:

- Lành thay! Lành thay! Tuy rằng giống như hỏi tôi nhưng mà giúp cho tôi được hiểu nghĩa. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tất cả hữu tình không có tự tánh nên biết trụ và tác ý như thế cũng không có tự tánh. Tất cả tánh hữu tình xa lìa, nên biết tánh của trụ và tác ý như thế cũng xa lìa. Tất cả hữu tình không biết rõ nên phải biết trụ và tác ý như vậy cũng không biết rõ. Do nhân duyên như vậy, các Bồ-tát này trụ vào tác ý như thế không xa lìa, cùng với các hữu tình cũng không sai khác. Nếu các Bồ-tát biết rõ như thế không bị trở ngại thì chính là hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ý của tôi là muốn làm cho tất cả Bồ-tát đem ý nghĩ này thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

 
II. PHẨM THIÊN ĐẾ

Khi ấy, trời Đế Thích cùng bốn vạn Thiên tử đồng đến hội họp. Bốn Thiên Vương hộ thế cùng hai vạn Thiên tử đồng đến hội họp. Đại Phạm Thiên Vương chủ cõi Sách-ha cùng một vạn Phạm chúng đồng đến hội họp. Lại có năm ngàn chúng trời Tịnh cư đồng đến hội họp. Nghiệp quả và ánh sáng nơi thân của các chúng trời này ở trước oai quang của Phật đều không thể hiện ra được.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Nay có vô lượng các Thiên tử muốn nghe Đại đức tuyên thuyết chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cúi xin Đại đức thương xót chỉ dạy cho họ biết thế nào là Bồ-tát nên trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Tôi nương thần lực của Phật tuyên thuyết chỉ dạy Bát-nhã ba-la-mật-đa cho các chúng trời như việc nên an trụ của các Bồ-tát. Thiên tử các ông, người nào chưa phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nay nên phát. Những vị đã nhập vào Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác thì không thể phát tâm đại Bồ-đề. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì người đó đối với sanh tử có sự ngăn ngại vậy. Trong đó nếu có vị nào phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì có các bậc thắng nhân nên cầu thắng pháp. Tôi hoàn toàn không làm trở ngại cấp bậc pháp thiện thắng của họ.

Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông khéo khuyên bảo các Bồ-tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Con đã biết ơn, sao lại không trả ơn. Nghĩa là Phật và các đệ tử quá khứ đã dạy cho các Bồ-tát nhiều loại pháp yếu, muốn làm phương tiện để đi vào Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bấy giờ Như Lai cũng học trong pháp đó, nay chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm lợi ích cho chúng con, cho nên nay con y theo lời Phật dạy: bảo vệ, hộ niệm các Bồ-tát này, làm cho mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm lợi ích an vui cho tất cả. Chính đó là đáp đền ơn đức kia.

Khi ấy, Thiện Hiện bảo với Đế Thích:

- Chư Thiên các ông nên lắng nghe. Ta sẽ nói về tướng đáng trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa của các chúng Bồ-tát cho các ông.

Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát bằng đại thệ trang nghiêm, hướng thẳng đến Đại thừa thì nên dùng tướng Không để an trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa; không nên trụ sắc, cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức.

Không nên trụ quả Dự lưu, cũng không nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề.

Cũng không nên trụ đây là sắc. Cũng không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức.

Không nên trụ đây là quả Dự lưu, cũng không nên trụ đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề.

Không nên trụ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không.

Không nên trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề đều là sự hiển bày vô vi, là phước điền chơn thật đáng thọ nhận cúng dường.

Không nên trụ quả Dự lưu còn trở lại bảy lần cuối cùng, chắc chắn sẽ nhập Niết-bàn.

Không nên trụ quả Nhất lai chưa đạt đến Niết-bàn, còn trở lại cõi này một lần nữa, chắc chắn dứt sạch các khổ.

Không nên trụ quả Bất hoàn qua diệt độ ở cõi kia, không còn trở lại nữa.

Không nên trụ quả A-la-hán ngay đời này chắc chắn nhập vô dư Niết-bàn.

Không nên trụ quả Độc giác, vượt địa vị Thanh văn, không đến địa vị Phật mà Bát Niết-bàn.

Không nên trụ địa vị Phật, hiển bày vô viruộng phước điền chơn thật đáng thọ nhận sự cúng dường, vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số hữu tình làm cho nhập vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn. Giả sử tất cả cảnh giới hữu tình không còn nữa, đều vào cảnh giới Vô dư Bát Niết-bàn.

Khi ấy, Xá-lợi Tử nghĩ: Nếu như vậy thì Bồ-tát sẽ trụ ở đâu?

Thiện Hiện biết ý nghĩ trong tâm Xá-lợi Tử, liền bảo:

- Ý tôn giả thế nào? Tâm Như Lai trụ ở chỗ nào?

Xá-lợi Tử thưa Thiện Hiện:

- Tâm Như Laihoàn toàn không chỗ trụ. Vì không trụ nên gọi là Như Lai. Nghĩa là không trụ cảnh giới hữu vi, cũng không trụ cảnh giới vô vi, cũng không phải không trụ.

Thiện Hiện thưa:

- Bồ-tát cũng vậy. Như các đức Như Lai đối với tất cả pháp, tâm không trụ, cũng không phải không trụ. Nghĩa là các Bồ-tát đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, dùng vô sở đắc để làm phương tiện. Nên trụ như vậy, nên học như vậy.

Khi ấy, trong chúng có các Thiên tử thầm nghĩ: Tất cả câu chú của các Dược-xoa với vô số sai khác, mặc dù là bí mật nhưng mà chúng ta còn biết rõ, còn Đại đức Thiện Hiện đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, tuy dùng vô số lời lẽ để chỉ rõ nhưng chúng ta hoàn toàn chẳng hiểu được gì cả.

Biết được ý nghĩ của chư Thiên, cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:

- Trong đây tôi không giảng thuyết, chỉ dạy. Các ông cũng chẳng nghe. Vậy lấy gì để hiểu?

Khi ấy các Thiên tử lại nghĩ: Trong nghĩa này, tôn giả Thiện Hiện muốn làm cho dễ hiểu nhưng lại càng sâu sắc, vi tế, khó có thể đo lường. Biết được ý nghĩ của Thiên tử kia, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên tử:

- Có những người muốn chứng, muốn trụ quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, bậc Độc giác Bồ-đề và quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật thì cần phải nương vào nhẫn này mới có thể chứng, mới có thể trụ được.


Các Thiên tử lại nghĩ: Đại đức Thiện Hiện hôm nay muốn vì những hữu tình nào và tuyên thuyết những pháp gì?

Biết được ý nghĩ của các Thiên tử, cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:

- Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn thuyết pháp như huyễn. Người kia đối với sự giảng thuyết không nghe, không hiểu, không chứng vậy.

Các Thiên tử lại nghĩ: Là người nghe pháppháp như huyễn, hay là hữu tình và quả Dự lưu v.v... khác cũng đều như huyễn cả?

Biết được ý nghĩ của Thiên tử nên Thiện Hiện bảo với họ:

- Các loài hữu tình khác hoặc quả Dự lưu, quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, A-la-hán, Bồ-đề của bậc Độc giác, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng đều như huyễn cả.

Khi ấy, chư Thiên hỏi Thiện Hiện:

- Chẳng lẽ sự chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của các đức Như Lai cũng đều như huyễn sao?

Thiện hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Cho đến Niết-bàn cũng như huyễn.

Các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Lẽ nào Niết-bàn cũng như huyễn?

Thiện hiện bảo:

- Giả sử có pháp cao hơn Niết-bàn chăng nữa thì pháp ấy cũng lại như huyễn, huống là Niết-bàn. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì huyễn cùng hữu tình và tất cả pháp cho đến Niết-bàn không hai, không riêng, đều bất khả đắc, bất khả thuyết vậy.

Khi ấy, Xá-lợi Tử cùng Chấp Đại Tạng Mãn Từ Tử, Đại Ẩm Quang v.v... hỏi Khánh Hỷ:

- Sự thuyết về Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy, ai là người có thể tin nhận?

Khánh Hỷ thưa:

- Có các chúng Bồ-tát Bất thối chuyển, đối với sự thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này có thể tin nhận. Lại có vô lượng hữu tình đầy đủ chánh kiến và các A-la-hán nguyện viên mãn đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa… thuyết này cũng có thể tin nhận.

Khi ấy, Thiện Hiện thưa:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa được thuyết như vậy, không ai có thể tin nhận được là vì sao? Vì trong đây không có pháp để có thể hiển bày, không có pháp để có thể chỉ dạy, nên người tin nhận cũng bất khả đắc.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện rưới trận mưa pháp lớn. Ta nên hóa làm hương hoa vi diệu để dâng lên cúng dường.

Nghĩ như vậy, ngay khi ấy liền hóa làm hương hoa vi diệu dâng lên Thiện Hiện. Khi ấy, Thiện Hiện nghĩ: Nay hoa dâng này là chỗ chư Thiên chưa từng thấy. Hoa nhiệm mầu này nhất định chẳng phải do đất, nước, cỏ cây sanh ra được, mà chính là từ nơi tâm của chư Thiên hóa ra.

Biết tâm niệm của Thiện Hiện, trời Đế Thích thưa với Thiện Hiện:

- Hoa dâng này thật chẳng phải do đất, nước, cỏ cây sanh ra; cũng chẳng phải từ tâm chư Thiên hóa ra; vì hoa dâng này không có tánh sanh vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Hoa này không sanh thì không có tánh hoa.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện trí tuệ rộng sâu, chẳng phá giả danh mà nói nghĩa thật.

Nghĩ như vậy xong, bạch Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời tôn giả dạy, các chúng Bồ-tát đối với các pháp nên theo sự thuyết giảng của tôn giả mà học.

Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, các chúng Bồ-tát đối với các pháp đều nên theo sự thuyết giảng của tôi mà học.

Kiều-thi-ca! Các chúng Bồ-tát theo lời tôi thuyết, khi học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy không học theo quả Dự lưu, không học theo quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Không học theo Bồ-đề của bậc Độc giác. Nếu không học theo các bậc này thì chính là học trí nhất thiết trí của chư Phật. Nếu học trí nhất thiết trí của chư Phật thì chính là học vô lượng, vô biên Phật pháp. Nếu học vô lượng, vô biên Phật pháp thì chính là không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có tăng giảm. Nếu không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có tăng giảm thì không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thủ có xả. Nếu không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thủ có xả thì không học tất cả pháp có thể giữ gìn và có thể hoại diệt. Nếu không học tất cả pháp có thể giữ gìn, có thể hoại diệt thì chẳng học trí nhất thiết trí có thể giữ gìn và có thể hoại diệt. Các chúng Bồ-tát khi học như vậy, gọi đó là chơn thật học trí nhất thiết trí, mau chứng đắc trí nhất thiết trí.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ-tát không học trí nhất thiết trí thì có thể giữ gìn và có thể hoại diệt. Các Bồ-tát này khi học như vậy gọi là chơn thật học trí nhất thiết trí, mau có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, phải không?

Thiện hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện vậy.

Trời Đế Thích hỏi Xá-lợi Tử :

- Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên cầu ở đâu?

Xá-lợi Tử thưa:

- Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên cầu trong lời dạy của ngài Thiện Hiện.

Trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Nhờ thần lực của ai hộ trì mà Xá-lợi Tử nói được như thế?

Thiện hiện thưa:

- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì nên khiến Xá-lợi Tử nói được như vậy.

Trời Đế Thích hỏi:

- Lại thần lực của ai hộ trìtôn giả có thể thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?

Thiện Hiện đáp:

- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì nên khiến tôi có thể thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.

Kiều-thi-ca! Ông hỏi Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên cầu ở đâu?

Kiều-thi-ca! Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không nên ngay nơi sắc cầu; không nên lìa sắc cầu; không nên ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức cầu; không nên lìa thọ, tưởng, hành, thức cầu. Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải lìa sắc riêng có Bát-nhã ba-la-mật-đa. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật-đa; cũng chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa là đại Ba-la-mật-đa, là vô lượng Ba-la-mật-đa, là vô biên Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy!Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì sắc vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên. Vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Sở duyên vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Kiều-thi-ca! Thế nào là sở duyên vô biên, nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên? Nghĩa là biên giới trước, giữa, sau của tất cả pháp đều bất khả đắc, nên nó là vô biên. Pháp vô biên nên sở duyên vô biên. Do vậy nên Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng nói là vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Tất cả pháp vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Kiều-thi-ca! Thế nào là tất cả pháp vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên? Nghĩa là biên giới của tất cả pháp không thể đạt. Vì sao? Vì biên giới trước, giữa, sau của sắc cho đến thức đều không thể đạt. Do đó, biên giới trước, giữa, sau của Bát-nhã ba-la-mật-đa này cũng không thể đạt, nên nói vô biên.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Hữu tình vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Kiều-thi-ca! Thế nào là hữu tình vô biên nên phải biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên.

Kiều-thi-ca! Chẳng phải số lượng loài hữu tình quá nhiều, không thể tính đếm được mà nói là vô biên.

Trời Đế Thích thưa:

- Vậy thì vì nghĩa gì nên nói như vậy?

Thiện Hiện bảo:

- Nay tôi hỏi ông, tùy ý ông trả lời. Ý ông thế nào? Nói hữu tình là khái niệm về pháp nào?

Trời Đế Thích thưa:

- Nói hữu tình là chẳng khái niệm về pháp nào cả, chỉ thuộc tên bên ngoài giả đặt, không thuộc về tên đúng sự thật, không thuộc về cái tên do quan hệ.

Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Ý ông thế nào? Trong đây có hữu tình chơn thật để có thể chỉ rõ chăng?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa không, bạch Đại Đức!

Thiện Hiện bảo:

- Vì hữu tình không thật để có thể chỉ rõ được nên nói là vô biên.

Kiều-thi-ca! Ý ông thế nào? Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, dùng vô biên âm thanh để nói vô lượng danh tự của loài hữu tình. Trong đây có còn hữu tình chân thật có sanh có diệt không?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa không, bạch Đại đức! Vì sao? Vì các hữu tình bản tánh thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện bảo:

- Do đó nên nói hữu tình vô biên. Nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vô biên, vì vô tánhsâu xa, đều vô biên vậy.

Quyển thứ 556
HẾT

 
III. PHẨM BẢO THÁP

Bầy giờ, trời Đế Thích v.v... trong chúng chư Thiên cõi Dục; Đại Phạm Vương v.v... trong chúng chư Thiên cõi Sắc và các thần tiên khác vui mừng hớn hở, đồng một lúc cao giọng xướng lên:

- Lạ thay! Lạ thay! Tánh của các pháp sâu xa vi diệu! Như Lai xuất hiện ở đời dùng năng lực thần thông gia bị Thiện Hiện v.v... tuyên thuyết chỉ dạy: nếu các Bồ-tát không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chúng ta sẽ cung kính, cúng dường vị đó như Phật Thế Tôn!

Khi ấy, Phật bảo chư Thiên v.v...:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nếu các Bồ-tát không xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chư Thiên các ông nên cúng dường như Phật Thế Tôn. Chư Thiên nên biết: Thuở xưa, Ta đối với Phật Nhiên Đăng, ở đầu ngã tư đường, nơi vương đô Liên Hoa, thấy Phật Nhiên Đăng, Ta dâng năm cành hoa và trải tóc che bùn, nghe pháp yếu chơn chánh, chẳng xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ấy, Như Lai kia thọ ký cho Ta: Ngươi ở đời sau, trải qua vô số kiếp sẽ thành Như Lai hiệu là Năng Tịch, tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Chư Thiên v.v... đồng bạch Phật:

- Thật lạ thay, kính bạch Thế Tôn! Hiếm có thay, kính bạch Thiện Thệ! Bát-nhã ba-la-mật-đa này đầy đủ oai thần lớn, làm cho các Bồ-tát mau có thể phát sanh và hộ trì trí nhất thiết trí.

Khi ấy, Thế Tôn biết bốn chúng chư Thiên v.v... vân tập, đồng chứng minh cho họ nên bảo với trời Đế Thích:

- Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người, thì ma và quyến thuộc cùng nhơn phi nhơn v.v... rình tìm lỗi của người đó hoàn toàn không thể được, và tai họa, tật dịch… cũng không thể làm hại được. Các Thiên tử nào đã phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà chưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng kỹ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa thì nên đi đến chỗ thiện nam tử, thiện nữ v.v… này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng cho thật làu thông và giảng thuyết lại cho người khác.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người khác, thì ở nhà trống, hoặc đồng hoang vu, đường hiểm nạn và chỗ nguy nan đều có chư Thiên, thiện thần thường đến ủng hộ, làm cho không sợ hãi.

Khi ấy, Tứ Thiên vươngtrời Đế Thích, Phạm thiên vương v.v... chấp tay cung kính, đồng bạch Phật:

- Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người thì quyến thuộc chúng con thường theo hộ vệ, không để cho tất cả tai họa làm hại.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Thật kỳ lạ thay, kính bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, kính bạch Thiện Thệ! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này phụng thờ Bát-nhã ba-la-mật-đagiữ gìn công đức pháp hiện tại như thế.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu các Thiện nam tử, thiện nữ v.v... giữ gìn Bát-nhã ba-la-mật-đa tức là giữ gìn đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người thì đạt được công đức, ông nên lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ nói cho ông.

Trời Đế Thích thưa:

- Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy. Chúng con ưa thích được nghe.

Phật bảo Kiều-thi-ca:

- Nếu có các Phạm chí ngoại đạo xấu ác, hoặc các ác ma hay quyến thuộc của ma, hoặc những kẻ tăng thượng mạn hung ác khác muốn làm những việc không lợi ích; kẻ đó vừa móng tâm, liền gặp tai họa, nên sự mong muốn dần dần bị tiêu diệt, chẳng được kết quả. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này luôn chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh tấn tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người. Vì lẽ đó nên thường làm cho kẻ phát khởi tâm xấu ác, tự gặp tai họa, nên sự mong muốn không đạt kết quả.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này phụng thờ Bát-nhã ba-la-mật-đa thì đạt được những công đức lợi ích thù thắng như vậy. Như có thuốc thần diệu tên là Mạt-kỳ, công lực của thuốc này có thể làm tiêu trừ các độc. Diệu dược này để bất kỳ chỗ nào, các loài trùng độc chẳng thể đến gần được. Có con rắn độc lớn đói, bò đi kiếm ăn, gặp được sinh vật muốn đớp ăn, sinh vật kia sợ chết, vội chạy tới chỗ thuốc thần diệu, rắn nghe mùi thuốc liền chạy trở lui. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì thuốc hay này có đầy đủ oai thế lớn, tiêu trừ các độc và làm lợi ích cho thân mạng. Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa đầy đủ oai thế lớn cũng như vậy. Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng thuyết cho người thì những hạng người xấu ác muốn làm điều chẳng lợi ích cho người khác, chắc chắn phải bị tiêu diệt, không làm gì được, vì oai thần của Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể dẹp hết tất cả.

Kiều-thi-ca! Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này được bốn Đại Thiên VươngThiên chúng cùng các thần tiên khác thường đến ủng hộ, không để cho tất cả tai họa làm hại. Chư Phật và Bồ-tát cũng thường hộ niệm, sự cầu như pháp đầy đủ hoàn toàn, lời nói oai nghiêm, mọi người nghe đều cung kính lãnh thọ. Họ nói lời đắn đo cân nhắc, chẳng nói lời huyên thuyên tạp nhạp, vững thờ bạn lành, rất biết báo ân; chẳng bị tham lam, ganh ghét, giận hờn, phiền não, nịnh bợ, kiêu căng, gạt gẫm v.v... che lấp tâm. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì thiện nam tử, thiện nữ v.v… này được oai lực của Bát-nhã ba-la-mật-đa điều phục thân tâm, làm cho người đó xa lìa tâm tham, sân, si v.v... tùy miên ràng buộc. Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhớ nghĩ đầy đủ chánh niệm chánh tri về từ bi hỷ xả, thường nghĩ: Ta không nên theo thế lực của tham lam, phá giới, giận dữ, lười nhác, tán loạn, ngu si xoay chuyển. Nếu xoay chuyển theo nó thì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, diệu tuệ của ta chẳng thành tựu; muốn làm xinh đẹpthanh tịnh sắc thân còn chẳng thể được, huống là đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì thế, ta không nên xoay chuyển theo thế lực đó.

Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này nhờ tư duy như vậy, thường được niệm chánh, các phiền não xấu ác không che lấp tâm họ.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, tư duy đúng pháp Bát-nhã ba-la-mật-đa, lại biên chép, giảng dạy cho người khác thì được những công đức lợi ích thù thắng như vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế rất là hiếm có, vì có thể điều phục Bồ-tát, làm cho xa lìa tâm cao ngạo, hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí.

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là hiếm có, có thể điều phục Bồ-tát làm cho xa lìa tâm cao ngạo, hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí?

Trời Đế Thích thưa:

- Nếu các Bồ-tát không y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không có phương tiện thiện xảo, nên tuy tu các pháp lành nhưng vẫn sanh tâm cao ngạo, không thể hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí. Nếu các Bồ-tát thường y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thì có phương tiện thiện xảo, nên sự tu tập các pháp lành có thể điều phục tâm cao ngạo, hồi hướng sự cầu trí nhất thiết trí.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... có thể chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chẳng bị tất cả tai họa làm hại. Hoặc ở quân ngũ, khi chiến trận giao tranh, chí tâm tụng niệm Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, từ bi hộ niệm các hữu tình thì chẳng bị dao gậy giết hại; đối với oán địch đều khởi tâm từ; giả sử khởi tâm ác, tự nhiên lui bại. Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... này ở quân trận bị dao gậy, cung tên làm trúng thương, mất mạng thì hoàn toàn không có lẽ đó. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa này là chú đại thần, là chú vô thượng. Nếu ai có thể siêng năng tu học chú này thì không làm hại mình, không làm hại người, không hại cả hai, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do đây đạt được trí nhất thiết trí, quán sát hữu tình tâm hạnh sai khác, tùy nghi chuyển vận bánh xe pháp Vô thượng, làm cho y như lời dạy mà tu hành, đạt được lợi ích lớn.

Lại nữa, Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này để ở chỗ sạch sẽ, cung kính, cúng dường, lại siêng năng thọ trì, đọc tụng thì nhơn phi nhơn v.v... muốn tìm lỗi của người đó hoàn toàn không thể được. Chỉ trừ nghiệp ác đời trước nên phải chịu.

Kiều-thi-ca! Ví như có người hoặc bàng sanh đi vào viện Bồ-đề thọ, hoặc đến bên viện kia, thì nhơn phi nhơn v.v... chẳng thể làm hại được. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì chư Phật ba đời đều ngồi ở chỗ này mà đắc đại Bồ-đềcông bố cho các hữu tình về sự không khiếp, không sợ, không oán, không hại, thân tâm an lạc. Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa ở chỗ nào cũng như vậy, tất cả trời, rồng, A-tố-lạc v.v... thường đến giữ gìn, hộ vệ. Nên biết chỗ ấy chính là bảo tháp, tất cả hữu tình nên kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, không nên tạm bỏ. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì đó là chỗ quay về nương tựa của các hữu tình vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Thiện nam tử, thiện nữ v.v... nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức bằng các thứ xinh đẹp, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn để cúng dường. Lại có các thiện nam tử, thiện nữ v.v... sau khi Phật Niết-bàn, xây tháp trang sức bằng bảy báu xinh đẹp, rương báu đựng đầy xá-lợi của Phật, đặt ở trong đó cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Lại dùng các thứ tràng hoa thượng diệu, cho đến ánh sáng của đèn để cúng dường. Hai sự việc đó, sự việc nào đạt được phước nhiều hơn?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời. Ý ông thế nào? Sự đắc được trí nhất thiết trí, sự chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và sự nương cái thân của Như Lai là nương vào những đạo lý nào tu học mà được?

Trời Đế Thích thưa:

- Đều nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa tu học mà được.

Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Chẳng phải chỉ đạt được thân tướng hảo nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà chính là do chứng đắc trí nhất thiết trí mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Kiều-thi-ca! Như Lai đắc trí nhất thiết trí là chính nhờ Bát-nhã ba-la-mật-đa làm nhân nên phát sanh. Thân tướng hảo của Phật chỉ là chỗ nương. Nếu không nương tựa thân tướng hảo của Phật thì không do đâu mà phát sanh. Thế nên Bát-nhã ba-la-mật-đa chính là cái nhân sanh ra trí nhất thiết trí. Muốn làm cho trí này hiện tiền tiếp nối luôn nên tu tập thân tướng hảo của Phật. Do nhân duyên này nên sau khi Ta Niết-bàn, chư Thiên, rồng, thần, nhơn phi nhơn v.v... cung kính xá-lợi của Ta.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các thứ xinh đẹp, thọ trì, đọc tụng, lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, thì chính là cúng dường trí nhất thiết trí và nương tựa thân tướng hảo của Phật cùng xá-lợi của Phật sau khi Niết-bàn. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì trí nhất thiết tríthân tướng hảo của Phật cùng xá-lợi đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm căn bản.

Do vậy, này Kiều-thi-ca! Người biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa, trang sức bằng các thứ xinh đẹp, cung kính, cúng dường, đạt được phước hơn phước dùng bảy báu xây tháp cúng dường xá-lợi của Như Lai. Vì sao? Kiều-thi-ca! Vì cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa thì chính là cúng dường trí nhất thiết trí, thân tướng hảo và xá-lợi của Phật vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Người châu Thiệm-bộ không thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Người kia lẽ nào không biết sự nói về công đức lợi ích thù thắng như thế?

Phật bảo trời Đế Thích:

- Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời. Ý ông thế nào? Trong châu Thiệm-bộ có bao nhiêu người thành tựu sự chứng tịnh đối với Phật, thành tựu chứng tịnh đối với Pháp, thành tựu chứng tịnh đối với Tăng? Có bao nhiêu người đắc quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến Bồ-đề của bậc Độc giác? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến Vô thượng Bồ-đề?

Trời Đế Thích thưa:

- Trong châu Thiệm-bộ có một số ít vị thành tựu ba chứng tịnh, càng ít vị đắc quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán. Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến Bồ-đề của bậc Độc giác. Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến Vô thượng Bồ-đề.

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói. Kiều-thi-ca! Trong châu Thiệm-bộ có rất ít người phát tâm quyết định hướng đến Vô thượng Bồ-đề. Trong ấy có một số ít vị đã phát tâm xong siêng năng tu học, hướng đến hạnh Bồ-đề. Trong ấy có một số ít vị khi siêng năng tu học hạnh Bồ-đề, hết lòng tin nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa này. Trong ấy có một số ít vị hết lòng tin nhận xong, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trong ấy có một số ít vị đã tu hành xong, lần lượt an trụ địa vị Bất thối chuyển. Trong ấy có một số ít vị trụ địa vị này xong, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Kiều-thi-ca! Nếu các Bồ-tát nào đã được an trụ địa vị Bất thối chuyển, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mới có thể hết lòng tin nhận Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường, biên chép, giảng thuyết.

Kiều-thi-ca! Vô lượng, vô biên các loài hữu tình phát tâm Bồ-đề, trong số đó chỉ có một, hai, hoặc ba được trụ địa vị Bất thối chuyển, còn phần nhiều lui trụ địa vị Thanh văn, Độc giác. Vì thế, nên biết! Thiện nam tử v.v... phát tâm Bồ-đề tu hạnh Bồ-tát, muốn trụ địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không bị trở ngại thì nên biên chép, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát-nhã ba-la-mật-đa, cung kính, cúng dường, diễn thuyết cho người. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Các Bồ-tát này nên nghĩ: Như Lai xưa kia khi còn ở địa vị Bồ-tát, thường siêng năng tu học Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy. Chúng ta cũng nên siêng năng tu học như vậy. Bát-nhã ba-la-mật-đa này là Đại sư của chúng ta. Ta theo đó học, sự ước nguyện sẽ viên mãn.

Kiều-thi-ca! Tất cả Bồ-tát khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Bát Niết-bàn, thường nên y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa siêng năng tu học.

Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... sau khi các đức Như Lai Bát Niết-bàn, vì cúng dường xá-lợi của Phật nên xây tháp bằng bảy báu tốt đẹp và trang sức xen lẫn bằng các thứ ngọc báu quí hiếm, xinh đẹp. Lại đem các thứ tràng hoa trời đẹp cho đến ánh sáng của đèn trọn đời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v… này, do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật bảo Kiều-thi-ca:

- Có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các thứ báu xinh đẹpthọ trì, đọc tụng. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước càng nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Kiều-thi-ca! Để việc này qua một bên. Nếu thiện nam tử, thiện nữ v.v... sau khi các đức Như Lai Bát Niết-bàn, vì cúng dường xá-lợi của Phật nên xây tháp bằng bảy báu tốt đẹp, trang sức xen lẫn bằng các thứ ngọc quý đầy dẫy một châu Thiệm-bộ như vậy, hoặc bốn châu lớn, hoặc cõi Tiểu thiên, hoặc cõi Trung thiên, hoặc thế giới Tam thiên đại thiên, đều đem các thứ tràng hoa trời tốt đẹp cho đến ánh sáng của đèn, trọn đời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật dạy Kiều-thi-ca:

- Có thiện nam tử, thiện nữ v.v... biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các thứ báu xinh đẹp, thọ trì, đọc tụng. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Thiện nam tử, thiện nữ v.v... này đạt được phước nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Kiều-thi-ca! Để việc này qua một bên. Giả sử các loài hữu tìnhthế giới Tam thiên đại thiên, đồng một lúc đều được thân người, mỗi mỗi người này vì cúng dường xá-lợi của Phật nên sau khi các đức Như Lai Bát Niết-bàn, xây tháp bằng bảy báu tốt đẹp, trang sức xen lẫn bằng các thứ ngọc quý hiếm xinh đẹp. Như vậy, mỗi mỗi đều đầy đủ cả thế giới Tam thiên đại thiên. Lại đem các thứ tràng hoa trời đẹp cho đến ánh sáng của đèn trọn đời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Ý ông thế nào? Các hữu tình này do nhân duyên như vậy được phước có nhiều không?

Trời Đế Thích thưa:

- Rất nhiều, kính bạch Thế Tôn! Rất nhiều, kính bạch Thiện Thệ!

Phật dạy:

- Kiều-thi-ca! Có thiện nam tử, thiện nữ v.v… nào biên chép Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trang sức bằng các thứ báu xinh đẹp, thọ trì, đọc tụng. Lại đem các thứ tràng hoa thượng diệu cho đến ánh sáng của đèn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, thì thiện nam tử,